Oan Hồn(đêm đọc ko dám đi tè)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 1 : Vết mực

Từ lập đông đến giờ. trời âm u kéo dài đã hai tuần lễ, cứ cách ngày một, ngày hai lại đỗ mưa, mãi đến hôm nay mới thấy hừng nắng.

Ngày mưa - với những ai đa sầu đa cảm, rất có thể sẽ là điều thú vị; không như tôi, một anh chàng độc thân, chỉ thấy vui lên khi trời quang mây tạnh.

Tôi vươn vai đứng dậy bên bàn giấy, đưa mắt nhìn ra ngòai. Nắng chói chang, những dãi nhà cao tầng gài răng lược san sát hai bên đường được nước mưa rửa sạch, ánh lên một vẻ tươi mới. Văn phòng nơi tôi làm việc ở tầng mười hai. Nhìn xuống con đường cái phía dưới, thỉnh thỏang mới thấy xe chạy qua, không gian rất tĩnh lặng vì được bao bọc bởi lớp cửa kính, hầu như không có tiếng động mà chỉ thấy bóng chiếc xe lướt qua rồi mất hút.

Tôi làm biên tập cho tờ "Tạp chí phổ thông" vừa mới ra đời. Vì việc cấp giấy phép cho số tạp chí là chuyện rất khó nên các lọai tạp chí hiện thời, phần nhiều đều phải mượn tên tạp chí cũ để ra mắt. Số tạp chí này cũng vậy, nó có tên là "Truyền kỳ đại quan biến thể"

"Truyền kỳ đại quan biến thể" vốn là tờ tạp chí lá cải chết yểu từ nhiều năm trước; khi ấy nó được chia phần chút ít trong số những tạp chí lá cải bày bán rất chạy trên các quầy báo. Lúc tôi đang còn là học sinh trung học, vẫn thường bắt gặp các bạn cùng lớp lén lút đem những tạp chí kiểu này, trên bìa có in ảnh những gái đẹp ăn vận hở hang vào trong nhà xí, ngồi đọc một cách rất thích thú.

Tôi có được đọc một số tạp chí, gồm tòan những truyện " vụ án xé xác người" hoặc "thần quyền chấn động núi non". Kém theo là những dòng đặc tả mà vào thời điểm bấy giờ được xem là thiếu tính giáo dục. Cho dù nó có góp phần làm phong phú thêm cho đời sống văn hóa của tầng lớp công nhân và học sinh trung học thời ấy, nhưng riêng tôi lại thấy chẳng có cảm tình chút nào. Bởi lẽ có lần tôi trót đọc được một câu chuyện có thể nói là bẩn thỉu trên một cuốn tạp chí. Một kẻ bất nhân, độc ác cộp được gái đẹp đã vờ "văn nhân", "nho nhã" lần lượt cởi bỏ váy áo trên thân thể người đàn bà, miệng không ngớt thốt lên những lời văn hoa vô lối. Nhưng theo đúng công thức thời ấy, khi mà hắn đã cởi đến bộ đồ lót và chuẩn bị chiếm đọat người phụ nữ thì một hiệp sĩ không biết từ đâu bỗng nhiên nhảy ra , tung quyền quật ngả tên khốn kiếp ngay tại chỗ và cứu được người đẹp.

Câu chuyện về vị đại hiệp này khiến tôi ngứa ngáy đến tận chân răng, chưa kể bút pháp của nó cũng kỳ cục với một lọat những câu dài lê thê có đến ba bốn mươi chữ xuất hiện ở nhiều chỗ trong các trang viết. Khỏang thời gia đó, tôi thường có thói quen đọc nhẩm không thành tiếng song những câu dài ấy khiến tôi ngạt thở. Nếu quá thêm nữa, chắc tôi sẽ bị ngất xỉu. Trong trường hợp có người phát hiện thấy, không chừng người ta sẽ đồn thổi rằng, chỉ vì đọc những đọan văn đó mà tôi bị căng đứt mạch máu. Nếu thật như thế thì tôi đành phải chấp nhận thôi.

Hồi ấy tôi đã nghĩ, nếu là mình viết thì chắc sẽ khá hơn. Nào ngờ mấy chục năm sau, khi tờ tạp chí này mượn danh kẻ khác để đến với công chúng thì tôi lại nghiễn nhiên trở thành biên tập viên chính thức của nó.

Tôi nghe thấy từ tầng dưới, tiếng búa đóng đinh dội lên inh ỏi. Ngôi nhà lớn này vốn được xé lẻ cho bảy tám công ty cùng thuê lại; cách đây ít lâu công ty thuê tầng dưới bị phá sản phải dọn đi, hôm nay một công ty khác mới đến đang gấp gút sửa sang lại nhà cửa. Tiếng búa chát chúa làm đầu tôi nhói lên đau buốt, tường chừng đầu mình cũng hóa thành cây cột đang bị đóng đinh dưới kia. Thế nên tôi quềnh quàng xếp gọn đống giấy tờ trên bàn rồi vội vàng bước ra cửa.

Tạp chí dự định phát hành vào ngày thứ bảy tuần này, hôm nay mới là thứ hai. Cuối tuần, các nhân viên trong tòa sọan đề đi về thực tế ở địa phương, chiều mới tập trung tại văn phòng, chỉ còn tôi và một nhân viên nữa nhận chân giữ chùa. Tiếng là đi lấy ý kiến bạn đọc nhưng thật ra đây chỉ là dịp ông chủ đãi khách và mọi người được một ngày dạo chơi ra vùng ngọai ô. Phần tôi chưa hẳn hết việc, vẫn còn tới hơn ba vạn chữ để chừa trên mặt báo đang chờ bài viết. Tác giả hẹn thứ bảy nộp bài cho tôi, thế mà hôm nay đã là chủ nhật rồi vẫn biệt tăm. Cũng may địa chỉ của ông ta ở trong nội thành; nhân lúc không thể ngồi nổi ở văn phòng, tôi đến thăm ông, luôn thể đi bát phố cũng hay.

Làm tạp chí thì phải hiểu rõ tác giả như lòng bàn tay. Hơn nữa, bây giờ theo chế độ biên tập phụ trách; với mỗi bài viết, người phụ trách biên tập được nhận thêm nhuận bút, vì thế tác giả nổi tiếng luôn là đối tượng tranh chấp của các tạp chí. Cộng tác viên của tôi là Ôn Kiến Quốc, bút danh Ôn Khắc.

Người này tuy có biệt danh rất khó phát âm, nghe chẳng ra đàn ông và cũng không hẳn là đàn bà - Ôn Khắc, nhưng được cái, những gì anh ta viết đều được bạn đọc rất tán thưởng; đó là nhờ lối viết khác người, hơi méo mó, cộng với phần miêu tả sắc dục không đến nỗi phá cách. Vì thế, mặc dù viết chậm song hầu hết những bài viết cũa ông ta đều trót lọt, thoát qua khâu kiểm duyệt.

Ôn Kiến Quốc sống độc thân trong căn nhà một tầng ở trung tâm thành phố. Đây là một căn nhà cũ kỹ, có một cửa sổ và một cửa ra vào. Diện tích hẹp nhưng được cái nó ở vào vị trí "phát tài phát lộc", nghe đâu là đất thừa kế của tổ tiên. Nếu đem rao bán cũng đủ tiền cưới đến bảy tám bà vợ một lúc. Chẳng hiểu vì sao ông ta chịu thúc thủ ở mãi trong căn nhà chật chội này? Phải chăng vì thủ tục di dời nhà cửa ngày càng phức tạp, khó giải quyết?

Chớm đến đầu hè, tôi cất bước đi lên qua mấy bậc thềm đen sạm và nứt nẻ vì lâu năm không có ai lo việc sửa sang. Giơ tay gõ cửa không thấy ai thưa. Tôi hiểu rõ Ôn Kiến Quốc rất say mê viết nhưng rồi cũng có lúc ông ta vẫn phải dứt ra mà đi đi đâu đó chẳng hạn. Chần chử giây lát, đúng lúc định quay ra, tôi chợt nghe tiếng kẹt cửa.

Vừa nhìn rõ mặt người mới từ trong bước ra, tôi buộc miệng:

- Xin lỗi, không biết tôi có nhầm nhà không, thưa ông ?

Chả là người đứng trước mặt tôi, dáng vẻ dật dờ, sắc mặt sạm đen, hai mắt trũng sâu với xương bã vai nhô lên nhọn hoắt trông chằng khác một cái xác không hồn là mấy. Tôi không còn tin vào mắt mình nữa; tôi mới gặp ông ta cách đây một tháng, lúc ấy, gương mặt ông ta béo tốt với hai vành tai to. So với bây giờ, chỉ còn mỗi bộ kính mắt là giống trước, còn hiện tại rõ ràng đã trở thành một người lạ hoắc. Tôi chưa kịp mở lời đã nghe ông ta cười thành tiếng:

- Ủa... Ngỡ là ai chứ !

Nghe giọng nói của Ôn Kiến Quốc, tôi giật nảy mình, đưa mắt nhìn, vẻ dò hỏi: "Ông... Ông là Ôn Kiến Quốc? "

- Vâng, xin ông cứ tự nhiên cho.

Chủ nhà kéo lê đôi dép, từ nảy đến giờ ông ta vẫn nằm bẹp trên giường, bây giờ mới hấp tấp chìa tay mời tôi vào nhà. Những ngón tay của ông ta vốn dĩ béo múp, trắng bệch, giờ đây phơi rõ các khớp xương khô lỏng khỏng, trên ngón tay cái có đeo một chiếc nhẫn khác thường. Tôi từng đọc một cuốn sách cổ có nói đến cái thú chơi đồ trang sức, trong đó viết rẳng: nhẫn ở thời buổi ấy có một lọai đeo cho ngón tay cái, tên gọi "ban chỉ", nó được dùng để kéo dây cung và nỏ, mãi sau này mới trở thành một món trang sức. Thứ nhẫn này hình như không thấy có ở nước ngòai, chẳng trách nó được công nhận là "trang sức độc" của riêng Trung Quốc. Không rõ Ôn Kiến Quốc kiếm đâu ra được chiếc nhẫn làm bằng thứ đồng thau rắn cấc này, đeo nó vào trông thật kỳ dị. Với ai thì chưa biết, chứ một nhà văn cỡ như ông ta, nếu có tật khác đời như thế thì cũng chẳng ai lấy đó làm điều. Tay ông ta chìa ra, chưa kịp bỏ xuống thì sắc mặt đã thất thần, gần như người bị rắn cắn, loay hoay dùng tay xoay chiếc nhẫn đeo trên ngón tay cái.

Tôi rảo bước bám sát sau lưng ông ta:

- Ông không được khỏe phải không, ông Ôn Khắc?

Ông ta đứng khựng, ngỏanh đầu lại, đưa mắt nhìn tôi, sẵng giọng:

- Tôi mà bị ốm ư?

Giọng điệu của ông ta không muốn thừa nhận mình có bệnh, cho nên câu nói của tôi khiến ông ta nghĩ rằng tôi đang rủa ông ta. Nghĩ thế, nên tôi đành phải lựa lời:

- Chỉ tại tôi thấy sắc diện ông không được tươi tỉnh đấy thôi!

Căn phòng của ông ta ở rộng 30 mét được ngăn đôi bằng ván bìa mỏng. Gian ngoài dùng làm bếp và phòng khách mờ tối. Không gian hẹp nên phòng khách chỉ đủ chỗ cho bốn hoặc năm người khách ngồi chơi. Ông kéo ra mốt chiếc ghế dựa, vẻ dồn dã:

- Mời ông ngồi.

Tôi làm theo, nhanh tay lấy từ trong túi xách ra một bọc hoa quả mới mua ở dọc đường đặt lên bàn:

- Thưa ông Ôn Khắc, xin ông vui lòng cho biết về tập truyện ấy. Chắc ông đã viết xong rồi?

Chủ nhà cũng vừa ngồi vào chỗ, người co rúm như sợ rét nhưng không nghe tôi nói gì. Tôi hẵng giọng nói to hơn:

- Tác phẩm của ông đó, mong ông hoản tất cho, thứ bảy này phải lên khuôn đấy!

- Tiểu thuyết? À ... Tôi biết rồi, chỉ còn vài trăm chữ nữa là xong. Tôi viết nốt đây, ông ngồi chờ cho chốc lát được chứ?

Ông ta xây lưng đi vào bên trong. Đàn ông chưa vợ, phòng ngũ hẳn là bừa bộn lắm. Thấy ông ta đứng dậy, tôi định bước theo sau lưng nhưng cửa đã đóng sập ngay lại. Đấy là tấm cửa phên dán giấy, có lẽ là tự tay ông ta mới dựng nên, bữa trước tôi đã có dịp đế đây rồi nhưng chưa thấy nó. Liếc mắt nhìn vào bên trong, tôi hông thể thấy gì ngòai cảm giác mọi thứ đều tối om. Dễ thường Ôn Khắc vào đấy chỉ để đi ngũ. Rèm cửa buông xuống tối như bưng và vì nó đưộc may bằng thứ vải chống sáng nên không một tia sáng nào lọt vào nổi. Cả đến cây đèn bàn củng tắc lịm và người ta chỉ còn trông thấy mỗi điểm sáng của máy tính mà thôi.

Lại nói về thói quen của từng người lúc mới sáng tác, tôi vẫn còn nhớ như in về Ôn Kiến Quốc. Cứ mỗi lần ngồi xuống viết, ông ta đều phải có một điếu thuốc, một cốc trà, cửa sổ mở toang, cửa ra vào cũng vậy. Lắm khi ông ta còn bật nhạc MP3 trên máy tính là khác. Còn như những thói quen tôi vừa nhìn thấy, có lẽ là mới bị nhiễm trong thời gian gần đây, kể cả chiếc nhẫn quái dị mà ông ta đeo nữa.

Trở lại với cánh cửa phòng, nó vốn được làm bằng phên tre dán giấy nhưng chắc và kín, không để ánh sáng lọt vào. Bên trong tối đen như phòng dùng cho việc rửa ảnh vậy. Tôi những muốn thử dòm qua khe cửa nhưng nó đã bị bịt kín, chẳng còn trông thấy gì nữa. Áp tai lên bức vách mỏng, chỉ nghe mỗi tiếng đánh máy chữ lách cách đều đều.

Đây rồi, Ôn Kiến Quốc từ trong đi ra. Cửa mở làm tôi giật bắn mình, ông ta đặt chiếc đĩa mềm vào lòng bàn tay tôi rồi nói:

- Đây... ông nhận cho!

Tôi cần đĩa bỏ vào túi nhưng vẫn còn áy náy trong lòng:

- Ông không sao chứ, ông cần tĩnh dưỡng đấy, thưa ông Ôn Khắc?

Có lẽ đây lại là một cảm giác sai lạc nữa của tôi. Vừa rồi ông đi vào đó, chỉ một thóang thôi, nhưng tôi trông ông ta có vẻ tiều tụy hơn nên mới buộc miệng nói vậy. Không dè Ôn Khắc tưởng ra điều gì đó ghê gớm đáng sợ nên mới hỏi vặn:

- Có thật không? Thật như thế hay sao?

Ông ta lao mình ra cửa, ngơ ngác soi mình vào tấm gương treo trên tường. Tôi không ngời ông ta bị bị tự kỷ ám thị đến mức đó. Lúc ấy tôi vội đưa tay đập lên vai ông ta rồi nói:

- Xin ông... Ông hãy nghe tôi.

Né tránh được bàn tay tôi, Ôn Khắc ngỏanh đầu lại hốt hoảng:

- Thật thế chăng...? Sắc mặt tôi xấu lắm rồi phải không ?

Giá như ánh đèn ngòai cửa sáng hơn một chút nữa thì tốt biết mấy, vì bấy giờ tôi vừa kịp phát hiện trên tay ông ta có hộp phấn màu da hồng vốn là đồ trang điểm của các cô gái trẻ. Kỳ cục đến thế là cùng; cho dù Ôn Kiến Quốc muốn hóa thành Hà Lợi Tú đi nữa thì cũng đâu có được. Tôi không ngờ ông ta lại thích như vậy. Mặt ông ta chẳng đã thoa lên một lớp phấn rồi sao. chỉ phải cái cách đánh vụng về lắm. Ban nãy ông ta đứng sấp bóng mới qua được mắt tôi, bây giờ thì tôi thấy nó rõ quá, tựa như một lớp vôi trát dầy lên mặt vậy. Gương mặt Ôn Khắc trông cứng đơ, không chút biểu cảm, có một chỗ lớp phấn khô cứng thành vết rạn chân chim, giống hệt lớp men rạn trên bình hoa.

Tôi rùng mình:

- Ông có sao không, ông Ôn Khắc?

- Cút đi - Hai tay ông ta ôm lấy mặt. - Cút đi! Đừng bao giời đến đây nữa!

Tội sững sốt. Ôn Khắc - coin người xưa nay điềm đạm hòa nhã, sống có tình với mọi người, bây giờ hóa thành cục súc thế sao? Vả chăng thực bụng tôi cũng không còn muốn nấn ná lâu thêm, cứ đi khỏi đây là hơn cả. Tôi nhào ra ngòai cửa y như người trốn chạy, nghe đánh "rầm" một tiếng ở sau lưng và Ôn Kiến Quốc đóng sập cánh cửa lại.

Ra ngoài tôi mới thấy mình hết rét; khác hẳn lúc còn ở trong nhà Ôn Khắc, tôi cứ có cảm giác mình bị ép ngồi trong phòng lạnh, tay chân tê cứng, run lên cầm cập. Nhiệt độ hôm nay không cao nhưng cũng chẳng đến nỗi rét quá, có chăng là nhiệt độ trong nhà Ôn Khắc chênh quá so với bên ngoài. Tôi đã để ý xem xét thêm về ngôi nhà, dễ thường do yếu tố tâm lý, một căn nhà nhỏ cũ kỹ đứng chơ vơ, lọt thỏm giữa những dãy nhà cao tầng, gieo vào lòng người ta cảm giác lạnh lẽo đến rợn người.

Chương 01 phần 02

Về đến văn phòng thì vừa kịp giờ ăn. Với những ai làm biên tập, cơm trưa là cơm hộp, chỉ cốt no bụng chứ không phải ngon miệng. Như bữa ăn hôm nay chằng hạn, khó nuốt lắm. Món củ cải ninh với thịt mỡ nhừ nát, tôi ăn qua quít cho xong rồi lấy đĩa mềm Ôn Kiến Quốc đưa cho ra xem.

Đó là thứ đĩa mác tạp-pí-lù sản xuất ở trong nước, chất lượng không được tốt nhưng có thể dùng tạm, cũng giống như bữa ăn vội vừa rồi. Đĩa mềm tương tự như các thứ đồ khác sản xuất trong nước, vốn không được tín nhiệm, song gia công tương đối kỹ vẫn sử dụng được; chỉ hiềm một nỗi, chiếc đĩa mà Ôn Khắc đưa cho tôi bị dây một chấm mực. Chẳng hiểu Ôn Kiến Quốc làm gì nên thế. Thời buổi bây giờ còn ai dùng bút lông để đến nỗi bị dây mực.

Đang dùng dằn muốn mở hộp đĩa mềm, tôi bỗng thấy mình bị hoa mắt, cảm giác váng vất trong đầuvà lạnh cả trong bụng nữa. Khi nãy, trong chốc lát, cả người tôi mềm nhũng như bị rơi từ trên cao xuống, giống người thiếu máu nhưng chưa việc gì. Nhưng điều khiến tôi phải suy nghĩ là tôi vừa trông thấy một giọt mực động đậy ngay trên chiếc đĩa mềm. Trông nó giống một giọt thủy ngân màu đen. Nhưng nhìn kỹ lại thì giọt mực nho nhỏ ấy vẫn đúng là giọt mực. Tôi lắc đầu cho tỉnh táo rồi gỡ chiếc đĩa mềm ra, cho vào đĩa A và "copy".

Câu chuyện của Ôn Kiến Quốc mang tựa đề "Tổ ong" và có nội dung như sau: trong chuyến du lịch nước ngòai, một cặp tình nhân đặt chân đến một làng nhỏ trong núi. Lúc đó trời đã sẫm tối, họ bèm tìm một gia đình nhà nông xin ngủ nhờ một đêm. Đôi tình nhân nhận thấy, tuy trong làng có khá nhiều nhà nhưng lại có rất ít hộ làm nghề nông, hơn nữa, người ở đây, phần đông là người già và trẻ em. Khi trời tối, họ phát hiện dưới mái hiên gia đình nhà nông nọ có một tổ ong to bằng miệng bát và cảm thấy lo lắng. Đêm đến, ( sau đọan mô tả về lối làm tình nhăng nhuội bằng cách viết không đến nỗi lộ liễu quá đáng), họ bị tiếng động làm thức giấc. Không một mảnh vải che thân, họ cùng nhìn ra ngoài cửa sổ.

Đúng lúc này từ ổ đĩa A chợt phát ra tín hiệu "tạch... tạch... tạch".

Lạ thật, tôi đang trực tiếp đọc văn bản trên đĩa mềm cơ mà. Nghe đâu có lọai virus tấn công bằng cách khiến bạn cứ lần đọc mãi trên mỗi một rãnh từ nhằm phá hỏng chiếc đĩa mà bạn đang sử dụng. Thế nên tôi vội bấm nút ổ A, rút chiếc đĩa ra, kiểm tra kỹ càng một lượt nhưng không thấy dấu vết đáng ngờ. Tôi còn dùng đến cả scandisk để quét ổ cứng. Bởi lẽ đánh hỏng đĩa mềm chỉ là chuyện nhỏ chứ ổ cứng sinh chuyện thì lôi thôi to. Trong đó lưu trữ bản thảo của nhiều tác giả, còn thêm cả bản bông những bài viết đã được hiệu đỉnh cẩn thận. Với dung lượng 20KB, để quét một lượt, phải mất khá nhiều thời gian. Tôi đưa mắt theo dõi những hình vuông màu xanh di chuyển chậm chạp trên màn hình và rút đĩa mềm. Trước đây đã từng có lần phần mềm đồ họa bị format, két quả là toàn bộ minh họa, đồ thị làm xong đều bị mất hết. Và tháng đó, bộ phận biên tập mỹ thuật phải tốn công làm lại từ đầu.

A Di Đà Phật... Đội ơn Đức Chúa, xin đừng bắt chúng con phải tội như thế! - Tôi lầm rầm khấn thầm, trong lúc theo dõi máy vi tính quét virus, quên cả sự thể tôi đã khấn nhập nhằng, lẫn lộn cả hai vị giáo chủ cả hai tôn giáo tiêu biểu cho cả hai phía Đông và Tây. Không biết có chuyện gì xảy ra không?

Rất may, máy tính không có vấn đề gì.

Quét xong virus, tôi cho máy khởi động. Đèn báo và máy trở lại họat động ngon ơ... Tôi thở phào nhẹ nhõm. Từ đây đến ngày tạp chí ra mắt còn không đầy một tuần lễ nữa, nếu chẳng may có gì trục trặc, không chừng chủ nhật này tôi phải thức trắng đêm, làm theo ca, họa may mới kịp.

Cho dù ổ cứng vi tính bị hỏng thì tôi vẫn có cách cho copy lại tiểu thuyết của Ôn Kiến Quốc một lần nữa. Nắm thật chặc trong tay chiếc đĩa mềm Ôn Kiến Quốc đưa cho, tôi có phần yên tâm hơn nhưng cũng chưa giải tỏa hết được lo lắng.

Nhìn bên ngòai chiếc đĩa mềm không có gì khác thường nhưng không hiểu sao, tôi lại cảm thấy nó có gì đó không ổn, cứ biến đổi lúc thế này, lúc thế khác mà không biết thực sự thế nào. Tôi mở hộp ra, lật đi lật lại xem cho kỹ càng, song chỉ thấy đó là một chiếc đĩa bình thường, không có dấu hiệu lạ nào cả. Bất chợt, tôi giật nảy mình.

Vết mực bỗng biến đâu mất ?

Chiếc đĩa bây giờ trông sạch bong, không dây một vết bẩn nào, y như đã được gột rửa bằng nước tấy vậy. Lẽ nào ổ A có cả chức năng làm sạch nữa? Nói vậy chứ dù kiến thức của tôi về máy tính chưa thật đầy đủ, tôi vẫn tin chắc rằng đó là điều không thể có được. Vậy rốt cuộc vết mực ấy biến đi đường nào?

Hoặc giả chưa hề có vết mực ấy, mà chỉ tại lúc đó tôi hoa mắt thôi?

Máy tính đã hiển thị Windows, tôi ngước nhìn màn hình với bầu trời xanh và mây trắng, nín thở vì hồi hộp.

Trên màn hình xuất hiện một vết mực!

Tôi không nhớ thật rõ hình thù vết mực cũ như thế nào nhưng tôi đảm bảo rằng nó không khác gì mấy so với vết mực hiện thị trên màn hình, có chăng chỉ là to hơn chút ít. Vết mực bám vào màn hình trông như một chấm mây đen kẹp giữa vầng mây trắng. Tôi đưa ngón tay trỏ cào khẽ vào đó nhưng đầu ngón tay chỉ đụng vào mặt kính. Vết mực không phải bám trên bề mặt màn hình mà hiển hiện ngay ở bên trong đó.

Có thể như vậy chăng? Tôi biết rằng ổ A đọc bằng đầu từ và những gì đầu từ đọc là thông tin có trong rãnh từ, nó không thể đọc được vết mực có ở ngoài đĩa mềm. Còn nếu như ta cho nó là virus thì đây là một thứ virus không ai có thể tường tượng ra.

Tôi còn trông thấy tận mắt ... bây giờ nó xuất hiện trên mặt bàn. Còn vết mực kia vẫn ở nguyên chỗ cũ.

Phải chăng đó là một sự trùng hợp ngẫu nhiên?

Có thể lỗi ở màn hình, còn như vết mực có trên đĩa mềm là do tôi hoa mắt?

Tuy đã tự cắt nghĩa cho mình như thế nhưng tôi vẫn cứ băn khuăn, đứng ngồi không yên. Bởi lẽ chuyện này, thật không sao hiểu nỗi, không chỉ riêng tôi mà với ai ở trường hợp này cũng thế thôi. Tôi kéo bàn phím ra và click nút khởi động nóng. Nghe một tiếng "tịch", màn hình trở lại tối đen.

Tuy màn hình tối đen nhưng tôi vẫn nhận ra được trong màn đen ấy có một điểm sẫm hơn, đó chính là nơi vết mực đen lúc nãy xuất hiện.

Dứt khóat là do lỗi hiển thị! Chắc đúng rồi!

Máy tính trở lại giao diện khởi động ban đầu... và cũng giống như ban nãy, nó vẫn hiển thị một vết mực đen; nhưng đến đây thì tôi thấy rợn người và ớn lạnh, tưởng mình bị quăng vào một khe sâu đầy tuyết, mình mẩy trần truồng, lo lắng và hoảng sợ.

Lạ một nỗi, vết mực ấy định hình không giống nhau. Không thể giải thích nổi nguyên nhân; khi ở trên màn hình, trông nó to hơn so với ở trên đĩa mềm và trông như nó được vấy lên đó, bắn ra những giọt li ti ở bốn chung quanh. Nếu ta cẩm một cây bút lông chấm đẫm mực để lơ lửng ở phía trên một tờ giấy ít hút mực, rồi cho nhỏ một giọt mực xuống, ta sẽ thấy nó gần giống hệt vết mực ở trên với hình thù "Trùng amip" biến dạng.

Ở vết mực này ẩn chứa một sức mạnh có thể nói là quái dị, khiến tôi gần như bị ngạt thở mỗi khi trông thấy nó. Trong con mắt của tôi, dường như nó ngày càng to ra và cử động ngay trên màn hình, đúng như con trùng biến hình mà người ta trông thấy qua ống kính hiển vi bội số cao.

Tôi vẫn còn nhớ hồi còn là học sinh trung học, có một lần tôi lên lớp nghe giảng bài sinh học, được thầy cho quan sát một giọt nước bẩn lấy từ dưới cống. Nhìn bằng mắt thường chỉ thấy giọt nước vẩn đục, nhưng khi đem nó đậ dưới mắt kính hiển vị , tức thì, một thế giới dị kỳ hiện lêntrước mắt. Ở đó, lúc nhúc và náo lọan vô số những con sinh vật nhỏ bé, hình thù quái đản tranh cướp giành giật lẫn nhau, con nọ nuốt sống con kia. Trong đó có một số mang hình hài y hệt một đống mỡ bầy nhầy, không ngừng thay đổi hình thể, bao bọc chung quanh những chấm nhỏ li ti. Đó chính là "Trùng amip".

Vậy phải chăng vết mực này cũng là một con trùng biến hình khổng lồ? không hiểu có gì run rủi không mà tôi cứ hình dung ra như thế. Ý nghĩ ấy làm tôi hỏang sợ, bủn rủn cả người. Amip là lọai trùng ký sinh nhỏ bé, người ta chỉ có thể nhìn thấy nó qua kính hiển vi có bội số cao, vì thế giả thiết về một con amip lớn cỡ ấy là điều không thể. Nhưng đúng là hình dạng của giọt mực mà tôi trông thấy và trùng amip giống nhau một cách kỳ lạ. Ngay lúc này đây, chính tôi cũng không biết đó chỉ là cảm giác hay là sự thật. Nhưng rõ ràng trước mắt tôi, vết mực đang động đậy, vẻ như sắp biến hình. Bỗng nhiên có một làn gió lạnh lướt ngang qua sau gáy; giật mình, tôi bấm vào phím khởi động.

Chợt có ai đó gõ cửa, tôi như sực tỉnh ra khỏi cơn mê, ngoảnh đầu lại.

Hóa ra cô đồng nghiệp xinh đẹp đến tận nơi tìm gặp tôi. Tên cô là Lý Đĩnh, một bông hoa của đất Yên Triệu (tức là Hà Bắc) với thân hình thon thả, dong dỏng cao, nước da trắng ngần. Có rất nhiều chàng trai bám theo tán tỉnh cô, tôi - một anh biên tập quèn, nghèo kiết xác, quyền lực chẳng có trong tay đâu dám mơ tường đến gần làm thân. Giá như vào một ngày thường, cô dừng chân ghé qua văn phòng thăm tôi thì tôi sẽ sung sướng đến mức nào, nhưng hôm nay, khi tôi còn đang bàng hòangvới những nỗi lo sợ vẩn vơ không rõ nguyên do, thú thật, tôi đã mất hết khả năng phản ứng.

- Giờ này anh có bận gì với máy tính không? Muốn nhờ anh tí chút vì máy tính của tôi vừa bị lỗi.

Lý Đĩnh với dáng đi yểu điệu, tay cầm chiếc đĩa mềm khác bước đến bên cạnh tôi, thoang thoảng một mùi thơm dịu dàng của nước hoa linh lan. Máy tính nơi chúng tôi làm việc đều có mã số của người sử dụng. Chắc mọi người đi đâu vắng nên cô đành phải đến dùng nhờ máy tính của tôi. Tôi vội đứng dậy nhường chỗ của mình:

- Máy này hình như cũng đang bị lỗi ở phần hiển thị, nó xuất hiện một mảng đen đấy.

Chả là vừa rồi tôi click phím khởi động máy, máy bây giờ ở tình trạng scandisk. Cô ngồi xuống đưa mắt nhìn hiển thị, vẻ chăm chú:

- Đâu nào. Mảng đen đâu?

Không có ư? Liệu còn điều gì có thể làm tôi ngạc nhiên hơn nữa không? Tôi như người bị choáng, chân bước lảo đảo tiến đến bên Lý Đĩnh, căng mắt nhìn. Trên nền màn hình bây giờ hiện rõ mồm một bức tranh trời xanh mây trắng sạch sẽ, không một tì vết nào.

Trời, mình hoa mắt chăng? Tôi lại đưa tay lên dụi mắt nhưng vẫn không thấy gì hết.

- Anh làm sao mà trông gà hóa cuốc thế! thú thật đi nào, chỉ được cái giỏi vụng trộm xem ảnh gái đẹp phải không?

Nói rồi cô phá lên cười và thuận tay đưa đĩa mềm của mình vào ổ A.

- Chỉ tại sếp "boongke" quá mà thôi. Máy móc, thiết bị cũ kỹ và rệu rã, mọi thứ long như răng ông lão hết cả, cũng chẵng biết họ mua lại đồ cũ của công ty Net nào nữa?

Bài vở của tạp chí mà tôi phụ trách, hầu hết đều là những chuyện ly kỳ, rùng rợn. Phần việc dành cho Lý Đĩnh là chuyên mục truyền kỳ, vốn không thiếu gì những điều ma quái kỳ quặc khó tin. Xem ra cô cũng từng trải già dặn hơn trước nhiều. Như bài viết đăng trên số tạp chí kỳ vừa rồi có nội dung: Tòa tháp Hòn ngọc Phương Đông ở Thượng Hải thực ra là căn cứ địa của người ngoài hành tinh. Người ta tìm thấy ở đó những cỗ máy kỳ dị và nghe đâu, ông kỹ sư trưởng ở đấy đã được đĩa bay rước đi đâu mất rồi. Thế nên với ai thì chưa biết chứ để Lý Đĩnh nhìn thấy vết mực trên màn hình thì chắc gì cô đã cho đó là chuyện lạ.

Tôi cũng cười và đổi giọng chợt nhả :

- Xem ảnh mà làm gì chứ, cứ nhìn cô đây chẳng hơn sao! Ảnh có đẹp mấy đi nữa cũng chẳng bì kịp với cô.

Chuyện thường tình thôi, đã là con gái, thì ai chả thích người khác khen mình đẹp, vả chăng cô cũng đẹp thật. Lý Đĩnh đang mãi giở tập bản bông, mười đầu ngón tay như bay nhảy trên giấy, cô đặt bút sửa hết chỗ này đến chỗ khác. Tôi đứng một bên cảm thấy ngượng nghịu:

- Cô Đĩnh, hay là tôi đi lấy cho cô cốc nước nhé?

- Anh gọi tên tôi thân mật như thế, không sợ bạn trai tôi ghen à? - Cô bụm miệng cười.

Tôi đang giơ tay rút ra một cái cốc giấy dùng một lần, nghe thế không khỏi bị chạnh lòng nhưng chỉ cười:

- Có thế mà đã ghen thì đem anh ta ngâm vào chum dấm cho xong chuyện? cô uống trà được chứ?

- Cám ơn anh, nước trắng cũng được.

Tôi bước đến bên phích nước đun sôi tự động, mở chốt vòi, mắt nhìn dòng nước tuôn chảy mà tủi lòng.

Mình là cái thá gì chứ? Tuổi hai mười qua lâu rồi, bây giờ tuổi ba mươi đang sầm sập đuổi tới sau lưng. Tiếng là tốt nghiệp đại học ra nhưng làm ăn long đong lận đận; đổi hết việc này đến việc khác, nay đây mai đó vẫn chỉ hòai công. Tiền của túng bấn, tướng mạo cũng thua kém chẳng bằng ai. Những muốn làm một viên đá lót đường song chỉ có thể là viên đá trơn nhẵn không có hoa văn, đến nỗi thân con trai mà chẳng có lấy một người bạn gái nào.

Tôi đưa mắt lên nhìn Lý Đĩnh. Cô ngồi đó, cắm cúi đánh máy chữ. Cô để tóc chấm vai, đuôi tóc được kẹp bằng chiếc cặp màu xanh hình con bướm và chiếc áo len màu đỏ ôm sát mình , tôn lên đường nét uyển chuyển của thân người.

Giá như mình được làm bạn với cô thì may mắn biết mấy, tiếc rằng chuyện đó không bao giờ là thật. Nghe đâu bạn trai của cô là một viên chức cao cấp trong một doanh nghiệp nước ngòai, tiền lương mỗi năm lê tới hai ba chục vạn. Cơm bữa có cá tươi, đi đâu có xe đưa xe đón. Chỉ những chàng trai cỡ ấy mới xứng đội với cô mà thôi. Chứ như tôi... có mà...

- Anh tặc lưỡi kiểu gì lạ thế?

Cô dừng tay đánh máy, đưa hai tay lên đầu sửa sang mái tóc, kẹp lại cái cặp và liếc nhìn tôi.

- Xong hết rồi... Nước vừa mới rót vào cốc- Tôi vừa nói vừa cười.

Có lẽ vì quá bối rối nên tôi rót nước tràn qua cả miệng cốc, nước bỏng giẫy ngấm đẫm cốc làm bằng giấy bìa mềm oặt, khó lòng cầm lên được. Tôi luống cuống tay chân, đang toan đổ bớt nước trong cốc đi thì bỗng nghe một tiếng "ối" từ phía Lý Đĩnh.

Tiếng kêu hốt hoảng của cô khiến tôi thảng thốt bỏ luôn cốc nước ở đấy, vội vàng chạy tới.

- Việc gì thế? lại có chuyện gì phải không?

- Bàn phím của anh có chiếc đinh ghim!

- Đinh ghim làm sao? Tôi giật mình thêm một lần nữa, tim như thót lại. Không biết vì sao hôm nay có nhiều chuyện lạ như thế ?

- Đinh ghim ư? Nó đâu nào?

Đinh ghim rơi tọt vào trong bàn phím, nó có thễ gây nên đoản mạch, đốt cháy bàn phím. tôi đưa tay cầm lấy bàn phím và lật sấp, vỗ mạnh lên thân nó nhưng chỉ dốc ra được chút ít cát bụi bên trong mà không thấy có đinh ghim.

- Lạ chưa? Ngay mới rồi tay tôi vừa chạm vào bàn phím thì ngón giữa nhói lên đau buốt cơ mà?

vừa nói cô vừa chìa ngón giữa tay phải ra xem, tôi thấy buồn cười quá:

- Hãy khoan, để tôi chụp cho cô tấm ảnh này!

Bàn tay phải của cô, chỉ trừ mỗi ngón giữa, cón bốn ngón kia đều cụp vào lòng bàn tay, đưa ra một dấu hiệu không được đẹp mắt và nó là của người Mỹ dùng trong trường hợp chửi đổng. Lý Đĩnh cũng bất chợt nhận ra điều đó và nắm chặt bàn tay lại:

- Thôi, tôi chẳng thèm nói gì với anh nữa. anh làm sao ấy!

- Thôi được rồi. Cùng bỏ qua nhé! - Tôi cố nhịn cười - Xem nào, có vết kim châm hay không?

Cô lại chìa tay ra, lần này thì cô xòe cả bàn tay năm ngón, mắt nhìn chăm chú rồi lắc đầu:

- Quái lạ thật, cả vết kim châm cũng biến đâu mất.

Năm ngón tay của cô trông thon dài, trắng muốt như ruột cây hành đã bóc vỏ, rất đẹp. Tôi sáp lại gần:

- Đúng thế, không nhìn thấy được. Cô chờ đấy để tôi đi lấy kính lúp.

Trong ngăn bàn của tôi luôn có sẵn kính lúp. Có nó, tôi cầm lấy bàn tay cô đưa lên xem:

- Chà...không thấy vết thương, chẵng lẽ đó cũng là cảm giác nhầm lẫn?

Cô rút ngón tay ra khỏi lòng bàn tay tôi, mặt đỏ lên:

- Thôi nhé. bây giồ cũng hết đau rồi. Cứ để mặc tôi làm cho xong công việc.

Nghe giọng nói, tôi biết cô cũng đã lấy lại được khẩu khí lạnh lùng vốn có của mình nên tôi làm bộ tươi cười cất kính lúp vào chỗ của nó rồi nói:

- Đầu ngón tay là nơi tập trung nhiều đầu dây thần kinh, lắm khi chỉ một vết xước nhỏ trên bàn phím cũng có thể làm cho bàn tay đau buốt, phát sốt lên được đấy.

Thật vậy, nói đến đầu dây thần kinh ở đầu ngón tay, bạn có thể tự kiểm nghiệm bằng cách lấy hai đầu mũi kéo đâm nhẹ lên mu bàn tay và chỉ bằng xúc giác không thôi, bạn sẽ không thể nào có cảm nhận rõ ràng xem đó là một hay là hai mũi kéo. Nhưng nếu bạn chọc mũi kéo vào đầu ngón tay thì cảm giác bạn nhận được sẽ không sai vào đâu được. Cũng như với bàn tay của Lý Đĩnh nếu nó được cô chăm chút tỉ mĩ như thế, chắc hẳn nó nhạy cảm hơn hẳn bàn tay tôi rồi. Nhưng tôi vẫn chưa hết phân vân: Phải chăng đấy đúng là vết xước trên bề mặt bàn phím?

Không hiểu sao đầu óc tôi cứ mãi trăn trở không thể dứt ra khỏi ý nghĩ về cái vết xước ấy.

Lý Đĩnh làm thẳng một mạch trên máy tính của tôi tất cả các việc như: sắo đặt lại câu chuyện bát nháo của cô, sửa hết những câu văn nghe chừng còn trúc trắc, "load" hết vào đĩa mềm rồi mới đứng lên:

- May quá, xong cả rồi!

- Lần này cô biên tập những nội dung quái quỉ gì vậy?

- Bí mật đấy? - Cô nhếch mép cười.

Nụ cười của cô mới đẹp đẽ và đáng yêu làm sao, tôi đâm ra mủi lòng xen lẫn sự ganh tỵ:

- Ủa, cô mới nhổ răng đấy ư, cô Lý Đĩnh?

Chả là ban nãy, lúc cô cười, tình cờ tôi thấy hình như cô mất một chiếc răng hàm bên má trái.

- Đâu có. - Cô nói vẻ ngạc nhiên.

Tôi giơ tay chỉ vào một bên má trái:

- Có đấy, tôi nhác thấy ở chỗ này cô bị hụt mất một chiếc răng.

- Đúng thế không? Răng sâu chứ gì? Cô giật mình và thò tay vào trong ví đầm để bên mình, lấy ra chiếc gương soi nhỏ, há to miệng, ghé mặt gần vào để soi. Tuy vậy, muốn nhìn cho rõ chiếc răng hàm ở sâu trong miệng đâu phải chuyện dễ. Lý Đĩnh càng há to miệng, tôi lại thấy cô càng đẹp hơn lúc thường.

- A ha...- Tôi tức cười không sao nhịn được nữa. Tiếng cười của tôi làm cô phát cáu:

- Đồ tồi, định lừa tôi hay sao? Tôi đã tưởng anh là người ngay thật, ai ngờ ...

- Tồi ở chỗ nào?... Tôi nhịn cười - Đàn ông hiền lành thì phụ nữ không yêu. Tôi nói thật tình, cô nghe nhé, cô Đĩnh. Giả sử cô tẩy chay anh bạn trai thì cứ đến với tôi là hơn đó.

- Phì... - Cô làm bộ nhổ toẹt - Đến với anh sao, rõ là đồ mỏ quạ. Mặc xác anh!

Cô xô chiếc ghế tựa sang bên rồi vùng vằn bỏ đi. Tôi gọi với theo:

- Cô Đĩnh... cô còn quên chưa uống nước.

Nhưng lần này thì cô tỉnh bơ. Ta khỏi cửa rồi cô còn kịp kéo sập cánh của lại.

Chờ cô đi khỏi tôi mới ngồi xuống. Hơi ấm của cô vẫn còn vương trên ghế, bên bàn máy tính, xen lẫn mùi thơm của hoa linh lan - thứ nước hoa cô thường dùng. Ngồi trước máy tính, lòng tôi bâng khuâng khó tả, cảm giác ấy đưa tôi trở về với một thời dĩ vãng.

Ngày ấy đã xa rồi... Trong lối ngõ heo hút...mưa rơi mịt mù. Tay giương chiếc dù lợp giấy dầu to quá khổ so với thân hình, tôi mãi miết đi. Lúc ấy đang tầm giữa trưa mà dọc đường vắng tanh, không một bóng người. Ngõ hẻm chạy dài tít tắp ở giữa, vách tường cao chất ngất hai bên đường cứ như muốn khép lại, áp sát người đi trên đường. Vào thời ấy, tường đất đều xây bằng đất, lớp vôi trát ngòai nhiều chỗ tróc lỡ, để lộ thân gạch xám xanh. Nền đất lát đá tảng loang lỗ những vũng đọng nước mưa chảy thành dòng, cuốn theo những tàu lá rụng từ sân vườn hai bên ngõ chảy xuôi.

Thời thơ ấu của tôi đó...

Nhưng tôi không còn nhớ gì hết ngòai cảnh tượng trên đây, nó luôn tái hiện trước mắt tôi. Một lối ngõ chạy dài tít tắp, không biết đâu là cùng. Từ đầu này đến đầu kia không một bóng người. Chân bước dưới cây dù che, tôi bỗng thấy mình cô đơn khôn xiết.

Vâng... cô đơn như bây giờ.

Trong không khí có mùi hôi thối của da thuộc. Tôi giống như một con chuột bị sập bẫy, ngồi thu lu trong chiếc ghế tựa nhỏ, chợ cảm thấy rét thấu xương.

Cô ấy đi rồi, máy tính của tôi lại không bị hỏng hóc nên tôi có thể làm thêm ca, đem bản bông tiểu thuyết của Ôn Kiến Quốc ra để sửa các lỗi chính tả. Khác với những cuốn sách trước, tập tiểu thuyết này của anh ta viết rất quái đản, phần cuối viết rất lộn xộn, không theo một trật tự nào cả. Như người ta nói, sau này, gần như anh ta bị tẩu hỏa nhập ma, may mà thóat nạn không mắc tội tuyên truyền cho phong kiến và mê tín. Dẫu sao đi nữa thì anh ta vẫn là một cây bút từng trải, biết tránh xa những vấn đề được cho là kị húy khi làm tạp chí.

Đối chiếu được một lượt thì trời vừa tối. câu chuyện làm tôi phát rét lên được và nghe khó chịu trong người, chốc chốc lại rộ lên từng cơn một. Rồi tôi tắt vi tính, chuẩn bị nghỉ ca.

Xong xuôi mọi việc, mấy hôm trước ngày phát hành tạp chí sẽ là thời gian thảnh thơi. Tối nay, tôi hí hửng ra ngòai định bụng tự đãi mình một bữa ra trò. Bước khỏi cửa vẫn thấy phòng bên cạnh còn sáng đèn. "Cô ấy còn ở đây sao?" - Tôi bước đến gần đưa tay gõ cửa.

- Cô Đĩnh, cô vẫn chưa về à?

Đây chỉ là cái cớ cho tôi tiếp cận mà thôi và thực như thế, tôi đã nghe giọng nói của cô lạnh nhạt:

- À, tôi còn dở tí việc.

Đàn bà là thế, họ chỉ vồn vã khi cần nhờ vã điều gì đó thôi. Còn tôi, những muốn nhân dịp này được gần gũi hơn, biết đâu có thể tạo tình thân giữa hai bên mà không được. Tôi đành lẳng lặng xuống gác một mình.

Thang máy đang dừng ở tầng trệt. Tôi bấm nút điện, đứng chờ. Vừa bước vào, tôi giật mình hoảng sợ.

(Hết chương một)

Chương 02: Bóng sống

Trong buồng thang máy đèn sáng trưng, mọi thứ đều sạch sẽ nhưng trống trơn, tuồng như nếu bạn đi quá ra ngòai, chỉ một bước chân thôi là rơi ngay xuống một vực sâu thâm thẩm. Trước đây tôi từng trải qua một cơn ác mộng... tôi mơ thấy mình đang đi trên đường, chợt bị hụt chân và cả người rơi tõm xuống tầng sâu hun hút tưởng chừng sẽ không bao giờ chạm tới đáy. Giấc mơ vẫn cứ bám riết lấy tôi, dai dẳng, chẳng khác gì một lớp nhựa bao bọc quanh người mình thành cái tổ kén không sao thoát ra được nữa. Giấc mơ này tôi đã mơ đi mơ lại nhiều lần rồi, không biết có phải vì từ thuở nhỏ tôi đã mắc chứng sợ hãi độ cao mà di chứng của nó còn tới bây giờ?

Tôi đưa tay lên gãi đầu, xua tan cơn buồn ngũ rồi bước vào.

Thang máy chạy xuống từ từ, phát ra những tiếng 'lục cục" khô khỏng của kim loại. Mới đưa vào sử dụng mấy năm mà đã kêu lọc xọc như vậy, chắc nó không phải loại tốt. Cánh cửa tự động khép lại và người đứng ở trong này cứ như bị tách biệt khỏi hiện thực ngoài đời. Trong thế giới bị bao quanh bởi khung thép vẻn vẹn hai mét vuông, còn lại mỗi mình tôi.

Thang máy tiếp tục xuống thấp. Lúc nó mới khởi động đi lên tôi đã có cảm giác mình bị mất trọng lượng, thấy chóng mặt khó chịu. Nếu không vì ngại cầu thang tối mù mù và dài dằng dặc thì tôi thà cứ đi bộ một mạch xuống dưới kia còn hơn là đi thang máy. Thú thật rằng tuy đã lớn tuổi rồi nhưng tôi vẫn rất sợ bóng tối, sợ bỗng nhiên bị bỏ lại ở chỗ tối một mình. Và không hiểu sao, hôm nay, nỗi sợ trong lòng tôi cứ dâng lên dày dẵc như sương mù trong đêm. Vì sống một mình nên tối nào đi ngũ tôi cũng để đèn và trước đó tôi thường đọc sách cho đến khi chìm vào giấc mộng lúc nào không hay.

May mà thang máy vận hành suôn sẽ, ít ra thì trong đọan đường đi ngắn ngủi này cũng không có chuyện gì xảy ra với tôi. Đúng lúc cửa thang máy mở ra, tôi thấy như mình vừa sống lại và phóng vội ra khỏi cửa giống một kẻ đang chạy trốn. Bên ngòai đông đúc và náo nhiệt, khách bộ hành và xe cộ qua lại như mắc cửi nhưng bầu không khí thì giá rét và ngột ngạt mùi xăng dầu. Siêu thị mở ngay ở tầng trệt của tòa lầu. Nhà xuất bản dịp này đang bận sửa sang để đón Noel. Người ta dựng lên ở phía trước cửa hàng hai cậy thông treo đèn kết hoa, trang trí màu sắc rực rỡ, có cả cánh hoa bông làm giả những bông tuyết. Ở Trung Quốc, tuy số người theo đạo Cơ đốc không nhiều, nhưng đã là thương nhân thì ai cũng mong lấy ngày lễ ngày tết làm dịp kinh doanh kiếm lời.

Tôi vài siêu thị mua hai bọc mì ăn liền; vào giờ này đã hết xe tuyến nên gọi taxi về nhà. Ngồi vào xe rồi tôi vẫn còn kịp ngỏanh lại, để ý thấy nhiều phòng của tòa nhà xuất bản vẫn còn sáng đèn. Chả là những đơn vị thuê nhà ở đây gồm nhiều công ty, có cả những công ty tôi không biết tên, song ngoài Lý Đĩnh ra, tôi biết chắc có một vài công ty khác nữa cũng đang mãi làm theo ca.

" Biết đâu chẳng có một chàng trai nào đó đến đón cô ấy về" - Nghĩ vậy, tôi thấy chua miệng. Cá đi với cá, trôm hợp với tôm và ếch sẽ phối với ễnh ương. Nếu đem Lý Đĩnh sánh với tôi thì tôi chẳng qua chỉ là một gã đồng nghiệp quèn, không cần tính đến.

Về đến nhà, tôi đun nước sôi để đun mì. Thường thì tôi hay ra quán fastfood ăn qua quýt cho xong bữa. Họa hoằn lắm mới mua chút đồ ăn về tự nấu lấy. tuy vậy, gặp phải hôm rét mướt như thế này, tôi thà ăn một bát gọi là láo nháo nhưng nóng hôi hổi như thế này còn hơn.

Chờ nước đun sôi, tôi bật vi tính định sẽ kết nối mạng. Chả là với các chàng độc thân kiểu như tôi vốn có rất ít trò giải trí. Tiền lương tháng, ngoài để nuôi miệng, trả tiền thuê nhà và gởi chút ít về quê cho cha mẹ ra, số còn lại chỉ vừa vặn để nuôi thân. Chưa kể nếu tính chuyện mua nhà thì sẽ phải xoay xở làm sao đuổi kịp giá nhà đất không ngừng tăng. Vậy nên tôi thà theo hầu người tiên để tu đạo, sống nơi khe sâu còn hơn.

Sau khi nối mạng, tôi mở chương trình QQ. Chờ đấy, tôi sẽ phải sưu tầm một số tư liệu để viết truyện ngắn, gọi là đủ chi phí cho thuốc lá và nhân đó tập viết luôn, chứ không phải chỉ nhằm mục đích kiếm thêm tiền.

Chương trình QQ vẫn chớp lập lòe, đợi đăng nhập. Bữa nay không biết việc kết nối có trục trặc gì không mà sao khó đăng nhập thế. Nhưng cũng chẳng hề gì, tôi chỉ làm theo thói quen thường ngày. Vả lại dạo này tôi không màng đến chuyện thư đi thư lại với các bạn bè, ngoài một số tác giả là cộng tác viên gần gũi với tôi.

Tôi mở phần truyện ngắn đang viết dở, định ngày hôm nay viết thêm đọan nữa. Đột nhiên QQ nổ một hồi chuông "pip...pip" báo hiệu đăng nhập đã xong và trên màn hình xuất hiện danh sách cửa sổ thư đến, gồm số thư lưu của bạn trên mạng gửi đến cho tôi. Và lần này số thư gởi nhiểu hơn so với tất cả các lần thư gởi trước đây. Chưa kể tòan bộ số thư này đều của cùng một người gởi đến, và tôi chưa biết đó là ai. Lúc này tôi bắt đầu mở cửa sổ thông tin.

Bức thư của Ôn Kiến Quốc gởi đến với tấm ảng Icon, Avatar mà anh ta sử dụng là một chàng trai có gương mặt thông minh sáng sủa, khác hẳn với dung mạo ngoài đời của ông ta. Tôi không biết ông ta có việc gì khẩn cấp đây? Dòng chữ đầu tiên tôi đọc được là:

- Ông có ở nhà đấy chứ?

Tôi điểm tiếp thư sau. Hàng chữ hiển thị rõ ràng: "Cứu tôi với" - không có dấu chấm than. Lạ thay - Ôn Kiến Quốc viết gì cũng rất chau chuốt và cẩn thận cơ mà. Không biết vì sao tự nhiên ông ta lại đổ đốn ra thế. Có lẽ nào vì anh ta viết quá nhiều tiểu thuyết kinh dị nên dẫn đến suy nhược tâm thần như vậy.

Những dòng thông tin tiếp theo, hầu hết là những thư lưuvới nội dung na ná như nhau, cả thảy có tới bảy, tám bức mà chỉ có duy nhất một người đứng tên gởi mang triệu chứng "Hyste'rie" bị kích động dữ dội tới mức hoảng loạn ngông cuồng. Đọc đế đây tôi thấy lo lắng, hay Ôn Kiến Quốc gặp chuyện chẳng lành? nhưng cũng đã quá muộn và chúng tôi chẳng phải diện thân tình, nê7n không thể lần mò tới tận nhà anh ta giữa đêm hôm khuya khắt như thế này được. "Ông đang gặp chuyện gì thế?" - Tôi gởi thư trả lời. Đoán biết ông ta không có trên mạng nên tôi nghĩ mình chưa thể nhận được câu trả lời ngay lúc này. Tôi víet, chẳng qua để tỏ ra mình cũng chí tình và chu đáo, nào ngờ thư vừa gởi đi thì trên chương trình QQ chợt xuất hiện Icon đại diện và tiếng kêu cứu: " Cứu tôi với, mau cứu tôi đi! Chúng nó tìm thấy tôi rồi!"

Tiếng kêu cứu thảm thiết khiến tôi càng thêm hoang mang.

"Kẻ nào săn lùng ông vậy?"

Giữa tôi với Ôn Kiến Quốc tuy không phải chỗ thân tình sâu đậm nhưng cũng là mối quan hệ biên tập với tác giả lâu năm. Tôi hiểu rất rõ, xưa nay, không bao giờ ông ta tỏ ra nhiễu sự cả, hầu như lúc nào cũng ung dung bình thản. Hơn nữa ông ta không có thói chơi bời hoang phí. vậy kẻ thù cũa Ôn Kiến Quốc là ai? Chuyện này thật khó hiểu.

"Chúng nó là ai đây? Rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra?"

Mặc kệ những tin nhắn mà tôi dồn dập gởi đi, Ôn Kiến Quốc vẫn không một lời đáp trả. Và bỗng nhiên, biểu tượng Nickname của ông ta vụt tắt. Hoặc là ông ta không còn Online nữa, hoặc ông ta đang đăng nhập theo cách giấu mặt. Tôi đóan chừng Ôn Kiến Quốc đã bị bệnh gì nặng lắm, chỉ còn đủ khả năng gởi đi một câu cầu khẩn không đầu không đuôi. Nghĩ thế, tôi gởi thêm cho ông ta một Email nữa song chờ đến mõi mắt vẫn không có hồi âm gì.

Đành cứ thây kệ anh ta. Kiểu người như ông ta, không ai hiểu được. Biết đâu vì viết truyện hoang đường nhiều nên ông ta bị tẩu hỏa nhập ma rồi? Có điều tôi tự hỏi là dạo này, không ngày nào tôi không nằm mơ thấy Ôn Kiến Quốc. Phải chăng vì cuốn tiểu thuyết tôi đặt hàng với ông ta vẫn còn dở dang đã khiến tôi phải bận tâm và hay nghĩ đến. Đang mãi suy nghĩ, chiếc ấm điện bỗng kéo còi báo nước sôi. Tôi đổ nước ngâm mì cho chín, hai gói liền. Rồi tôi bưng bát mì đan gbốc hơi nghi ngút trở lại bàn máy tính. Đây vốn là mì hương có hạng, tuy chỉ thuộc loại thực phẩm bình dân nhưng nhìn bát mì nóng hôi hổi, tỏa hương thơm lừng cũng đủ khiến tôi thấy đói cồn cào. Tôi bật Tivi, chương trình phim địa phương đang chiếu một bộ phim thuộc thể loại náo kịch của Hồng Kông.

Xem được một lúc, bát mì trên tay nguội dần. Tôi thong thả ăn từng gắp một... Dù bao bì gói mì ăn liền muôn màu muôn vẻ nhưng bên trong chúng đều có một hương vị giống hệt nhau. Gia vị mặn đến độ có thể đem muối dưa được, tất nhiên là phải gia giảm thêm chút ít rau xanh, củ cải khô và vụn thịt băm nữa. Vậy mà người sản xuất không biết dơ đã làm bao bì đủ màu sặc sỡ và hoa văn bắt mắt để thu hút khách hàng, còn gọi đó là mì ăn liền hải vị tươi sống nữa. Biết vậy đấy, nên dù ăn không thật ngon miệng mà có được bát mì rẻ tiền lót dạ thì cũng ít nhiều tăng thêm được lượng calo trong người, rồi bạn sẽ thấy khoan khoái dễ chịu ngay. Ăn xong bát mì cũng là lúc bộ phim náo kịch bắt đầu nhàm chán, tôi đứng lên, ấn nút tắt video, đổ chút nước nóng còn sót lại ra chậu để rửa chân trước khi đi ngủ.

Ngồi rửa chân, tôi mãi nhìn các vách tườngđã cũ nát vì phai màu năm tháng. Trong tôi nhói lên một nỗi xót xa. Tôi đã thuê ngôi nhà này với giá bốn trăm tệ một tháng, kể cũng phù hợp với số thu nhập ít ỏi của tôi. Bỗng nhiên tôi nhớ lại hồi mình còn nhỏ, lúc nào cũng thích thể hiện, huênh hoang và nói những lời khoe khoang rỗng tếch. Dẫu sao, thời ấy cũng qua rồi.

Tôi đem nước rửa chân đổ xuống hố xí máy. Tiếng nước hút mạnh nghe "ùng ục", tưởng như ở phía dưới có con quái vật gì to lắm.

Tôi đi ngũ. Trong giấc ngũ, tôi gặp toàn những cơn ác mộng. Tôi đứng cho vơ trên bậc thềm đồ sộ và Ôn Kiến Quốc, một lần nữa lại có mặt trong giấc ngũ của tôi. Còn tôi, ngay cả trong chiêm bao cũng ý thức được mình đang mơ. Không mơ về những người đàn bà có thân hình gợi cảm, uyển chuyển, điều này làm tôi mất hứng. Ôn Kiến Quốc đứng ở bậc thềm trên cao đang cố nói cho tôi nghe một điều gì đó, giống như trong một bộ phim câm vậy, mọi cử chỉ và động tác của ông ta thật rõ ràng, sôi nổi nhưng chẳng có một tiếng động hoặc âm thanh nào vọng lại. Tôi trông thấy Ôn Kiến Quốc hoa tay múa chân như điên như dại rồi tòan thân ông ta bị ngập sâu dần trong bình mực đen ngòm và tan biến. Chỉ còn lại mình tôi, không cảm giác.

Tôi tỉnh giấc bởi tiếng chuông đồng hồ báo thức. Mới sáu giờ rưỡi, từ đây đến chỗ làm việc phải mất nửa giờ đường đi nên tôi thường dậy sớm. Mùa đông trời sáng rất muộn, sáu giờ rưỡi trời còn tối và bầu trời như được láng lên một lớp keo pha lẫn mực đen. Ngẫng đầu nhìn lên trời, bất giác tôi lại nghĩ tới giấc mộng về Ôn Kiến Quốc đêm qua.

Khi mơ, dù ly kỳ đến mấy đi nữa thì mọi người cũng chỉ coi như những câu chuyện thóang qua. Nhưng với tôi, mỗi lần nhớ lại giấc mơ về Ôn Kiến Quốc thì lại thấy vô cùng khủng khiếp. Trong mơ, ông ta đâu còn là một con người, tòan thân như được làm bằng sáp, thương tích mở miệng lỗ chỗ như những tổ ong, chứng tỏ ông ta từng bị cắn xé rất nhiều. Thế nên trong mơ, tôi thấy ông ta giống con ác quỷ trong sách cổ, bị trời phạt giam xuống địa ngục để chịu tội. Thân làm đàn ông như tôi mà nằm mơ thấy Ôn Kiến Quốc, chắc chắn có điềm gở, vả lại tôi đâu có khuynh hướng đồng tính. Chẳng hạn đi trên đường, nếu tôi gặp một chàng điển trai và một cô gái đẹp thì hai mắt tôi chắc chắn sẽ bám riết lấy cô gái không thể rời. Vậy mà không hiểu sao tôi cứ mơ hoài đến con người ấy và hắn gần như hóa thành một nỗi ám ảnh trong tôi. Tôi vẫn còn nhớ, trước kia mình đã đọc một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Trong đó kể rằng có một người có khả năng đi vào giấc mơ của người khác để lấy cắp thế giới nội tâm của họ. Nhưng Ôn Kiến Quốc lấy đâu ra bản lĩnh ấy? Thế mà sao tôi vẫn có cảm giác như ông ta đang tìm cách đánh cắp nội tâm của mình vậy? Chẳng khác nào một người đi bộ trong đêm tối bất chợt phát hiện có người rình mò, đứng ngấp nghé ở chỗ rẽ đầu ngõ, lẳng lặng theo dõi mình.

Bóng Hồn

Chương 2 - tiếp theo

----------------

Tôi đi đánh răng. Tự nhiên tôi thấy rát họng, có dấu hiệu bị ốm rồi. Rửa ráy xong tôi xuống gác và ra ngòai mua ít đồ ăn sáng, sau đó đáp chuyến xe búyt đến công ty làm việc. Hôm nay mọi người đi làm việc ở bên ngoài đều đã về cả. Văn phòng hôm qua vắng teo, nay bỗng nhiên nhộn nhịp hẳn lên. Tôi ngồi vào bàn vi tính, bật máy duyệt lại bản "Morat" làm hôm qua xem có cần sửa chữa gì không? Bỗng có ai vỗ vai tôi , nói:

- Khang đấy à, hôm qua chuyện trò tình cảm với cô Đĩnh đến đâu rồi?

Đó là một người bạn đồng nghiệp mang bí danh Văn Đán (nghĩa bóng là Quả Bưởi) - Chúng tôi gọi như vậy vì anh có khuôn mặt tròn, làn da bóng và giọng nói chua loét.

- Chưa đi đến đâu cả. vẫn việc ai người nấy làm thôi - Vừa nói tôi vừa chìa ra tập bản bông cho anh ta xem.

- Đừng hòng lừa tôi nhé. Hoa khôi của chúng ta hôm nay không đến công ty, cậu biết tỏng đi rồi, có chuyện gì xảy ra chứ? - Hắn cười, vẻ ranh ma.

- Không đến làm việc là thế nào? - Tôi dừng tay giữa chừng - Có chuyện quái gì đây?

- Vừa nãy cô ấy gọi cho Giám đốc xin nghỉ ốm một ngày - Anh ta lại phá lên cười khoái chí.

- Hôm qua hai người cùng đi với nhau, lẽ nào cậu không nhận ra cô ấy không được khỏe?

"Lý Đĩnh ốm thật ư? Hôm qua cô ấy còn ...tươi tắn lắm mà..." Chỉ một chút nữa là tôi buột miệng nói ra nhưng đã kịp ngăn mình lại. Cứ tình thật mà nói, có khác gì để cho người ta bắt thóp mình. Tôi thì chẳng sao, chỉ e Lý Đĩnh nghi cho tôi tung tin nhảm nhí, thế nên tôi nói luôn:

- Thế có gì là lạ. Ăn ngũ cốc sinh bách bệnh, ai rồi cũng phải có lúc bị trái gió trở trời chứ!

- Gớm chưa, sao lại khéo chọn thế, không sớm không muộn, đúng sau khi đi chơi với anh suốt một ngày thì kêu ốm.

Văn Đán bóng gió, nhưng vẫn cười nhăn nhở. Dáng chừng gã này đang ghen đây. Dẫu chẳng là gì nhưng hắn cũng đang chết mê chết mệt Lý Đĩnh; trong khi đó cô nàng lại tỏ vẻ thờ ơ.

- Vớ vẫn thật đấy! - Tôi đâm ngán ngẫm - Anh biết rồi còn gì, tôi vốn nghèo lại xí trai, Lý Đĩnh trông mong gì ở tôi nào?

Hắn đưa mắt nhìn tôi gật gù:

- Ừ, cậu nói nghe cũng phải lắm

Hắn tỏ vẻ thông cảm, đồng tình nhưng chỉ khiến tôi cảm thấy khó chịu hơn. Lời nói thật lòng mà nghe có nhát dao cắm phập vào người vậy.

Tôi cho in bản bông tập tiểu thuyết rồi lấy một bản chuyển lên phòng Giám đốc, vốn dĩ đây là một tập san nhỏ nên Giám đốc là người cuối cùng chịu tòan bộ trách nhiệm về bản thảo, lỡ để có sai sót gì thì coi chừng sẽ bị ăn trứng thối cả lũ. Lúc tôi đem bản bông lên, ông đang cắm cúi đọc bạn thảo của Lý Đĩnh. Tôi trao bản bông cho ông, khẽ liếc chỗ ngồi của cô nàng. Đúng là Lý Đĩnh nghỉ làm thật.

Lý Đĩnh ốm làm sao được! Chắc vui bạn vui bè quá đà rồi đâm ra ngại việc, tối qua cô ta phải làm thêm giờ. Tôi cứ băn khoăn trong lòng về chuyện Lý Đĩnh. Mà không lo lắng sao được?

Sửa bông xong, tôi thở phào nhẹ nhõm, ngồi thẳng cẳng trtên ghế tựa, mắt lơ đãng nhìn mọi người chung quanh. Mới hôm qua, trong căn phòng này chỉ có mình tôi, mà nay trông nó giống như chiếc hộp đựng đầy ắp đồ chơi và người ra vào nhộn nhịp. Trong họ hệt như những hình nộm luôn tay luôn chân mà rốt cuộc, không ai hiểu mình đang làm gì.

Chính tại nơi đây, tôi chậm rãi mài mòn những góc cạnh của năm tháng, hoặc nói cho đúng hơn, năm tháng đã bào mòn góc cạnh còn xót lại trong tôi. Rồi bỗng nhiên tôi thấy trong lòng xót xa. Vì đâu không biết và xót xa vì nỗi gì tôi cũng chẳng hay!

Đúng ba giờ chiều, ông Hồ phòng thường trực đến đưa báo trong ngày, tờ báo buổi chiều. Văn Đán cầm ngay lấy, giở ra xem. Tôi cũng đứng dậy bước đến gần để xem thời tiết ngày mai. Chưa đến nơi đã thấy hắn kêu toáng lên:

- Chưa đâu vào đâu đã lại có án giết người đây này!

Ở cái thành phố nhỏ chỉ có mấy chục vạn dân này mà cứ cách dăm bảy ngày lại có một vụ án mạng, đấy không còn là chuyện lạ. Chỉ có điều , thời gian này những vụ án giết người có vẻ nhiều hơn lên. Mới hai hôm trước, tờ Tin Tức Xã Hội đăng tin về một vụ giết người ỡ ngoại ô. Một người làm nghề mãi dâm bị chặt làm tám mảnh quẳng xuống sông. Đã bước sang mấy năm đầu của thiên niên kỷ mới nhưng vẫn còn rơi rớt sự cuồng lọan của cuối thế kỷ trước. Dẫu vậy, nếu so với những tin tức liên miên về chiến tranh và nạn đói đăng trên tờ Tin Tức thì những vụ án cỏn con này chẳng là gì cả.

Tôi cầm tờ báo trở lại chỗ ngồi của mình, đọc tiếp những mẫu tin nóng. Trên mặt báo toàn tin tức ca ngợi về cuộc sống tốt đẹp, đạo đức tăng tiến... Không có gì đáng lưu tâm. Tôi lật thêm mấy trang, chán ngán. Chợt có ai đẩy đến cạnh tôi mộ tờ báo khác:

- Này, anh Khang... đổi cho tôi tờ anh đang đọc được không?

Lại vẫn là anh ta. Tôi đưa tờ báo trên tay cho Văn Đán:

- Đọc nhanh thế!

- Quanh đi quẩn lại vẫn chừng ấy tin - hắn ngáp dài - Na ná kiểu bài của Lý Đĩnh, mới liếc qua đã khó tin rồi.

- Phản động đấy! - Tôi cười gằn, chỉ tay vào một cái tin đăng trên báo - Vậy tin này có giống tin của cô ấy không?

Đó là mảng tin được đóng khung. Nôi dung không có gì nhưng lại là lọai đang được các báo săn lùng, kể về các doanh nhân là kiều dân bị mất tích. Đây là một nhà kinh doanh lớn, sản nghiệp của ông ta rải rác ở nhiều địa phương trong nước, trong đó có một hạng mục vừa mới động thổ xây dựng ở ngay giữa thành phố này. Nó được xem là thành tích của thành phố trong việc thu hút đầu tư từ bên ngoài. Mấy hôm trước ông ta đột ngột ngã bệnh khiến lãnh đạo thành phố rối lên như kiến bị rang trong chảo. Văn Đán chỉ liếc mắt nhìn:

- Đây là chuyện của bọn có của, chẳng liên quan gì tới tôi.

- Đúng đấy, vậy cô Đĩnh ốm vì sao nào?

Trên mặt hắn lộ vẽ rầu rĩ:

- Ai mà biết được, quá lắm cũng chỉ đến nước kinh nguyệt không đều là cùng.

Thình lình nghe "phù..." một tiếng và anh đồng nghiệp ngồi ngay bên cạnh cười phì bọt mép:

- Văn Đán ơi, người đâu mà thối mồm thế. Cô Đĩnh mà có ở đây, coi chừng miệng anh đã bị sưng lên rồi đấy!

Mọi người cười rộ, riêng tôi bỗng rùng mình, một cảm giác rờn rợn chạy lan khắp cơ thể, và trong cơn mê hoảng, tựa hồ tôi trông thấy bàn tay có móng vuốt bằng sắt trôi lơ lửng ngay trên đỉnh đầu. Tàn ác và nguy hiểm. Có thể đó chỉ là những ý nghĩ mông lung hỗn loạn trong đầu tôi mà thôi. Căn phòng lúc này mịt mù khói thuốc lá, trần nhà cũng dính đầy bụi bẩn.

Phải chăng chỉ vì tối qua tôi trót đọc những lời kêu cứu của Ôn Kiến Quốc? Ông đã tung ra những tin tức không đầu không đuôi khiến tôi đến giờ vẫn nơm nớp lo sợ. Nhưng kỳ thực, nếu ông ta có trót dính líu đến mại dâm thì sự việc cũng đâu nghiêm trọng đến thế. Tôi bị ám ảnh bởi suy nghĩ ác kỷ vì nghe đồn rằng trong những quán rượu lớn, vẫn có những trang nam nhi tự nguyện bán mình. Riêng với bản thân mình, tôi cho rằng đó là thứ nghề không thể chấp nhận được.

Gần tan tầm Giám đốc mới cho gọi tôi, báo tôi hiệu đỉnh thêm chút nữa bản bông của Lý Đĩnh rồi hãy đưa ra nhà in. Nói đến biên tập ,tôi là kẻ được xem là có tay nghề yếu nhất nên hầu hết những việc linh tinh đều trút lên đầu tôi. Thấy lão Gíam đốc nói vậy, tôi đành phải làm. Tay cầm tập bản bông của Lý Đĩnh rồi hỏi:

- Thưa Giám Đốc tên File của cô ấy thế nào?

- FTP. Cứ như thế nhé! - Nói rồi ông cầm cây bút Parker gài vào túi áo trên, cùng lúc xếp gọn mấy thứ lặt vặt trên bàn làm việc - Cứ sửa thêm đi, bạn đọc phản ảnh mấy số tạp chí vừa rồi có quá nhiều lỗi chính tả.

Số tạp chí ra lần này chủ yếu hướng vào đối tượng dân công và học sinh, nếu như họ có cố công xem xét, ''đào bới" thì cũng chỉ có thể tìm kiếm những lỗi chính tả mà thôi. Thế nên tôi nói:

- Được rồi, sửa xong tôi sẽ nhập vào File FTP

Xong xuyôi mọi việc. Giám đốc với tay lấy tấm áo vét ở bên, khoác lên người, nhưng thóang thấy cái gì đó, ông liền giơ tay chỉ vào góc tường:

- Phải rồi, lát nữa có người quét dọn đến, anh hãy nhắc người ta nhớ chùi sạch cái vết mực kia đi. Văn phòng để bẩn, trông không đẹp mắt đâu.

Các bức tường trong tòa nhà xuất bản đều được quét lên một lớp sơn nhũ bang, có thể dùng vải lau sạch được. Tôi đưa mắt nhìn theo hướng ngón tay chỉ của Giám đốc thì thấy ở góc tường có một đám mực nhỏ chỉ bằng móng tay thôi. Thực ra, Giám đốc là người tinh mắt chứ nếu người khác, chắc gì đã trông thấy. Tôi gật đầu:

- Tôi biết rồi.

- Thật chả ra sao cả. Ai lại vấy mực lên tường, tòa soạn tạp chí để như thế sao được? Tất cả chúng ta ở đây đều là viên chức cổ cồn cơ mà.

Cổ cồn? Nghe không thôi cũng đủ tức cười rồi. Ở thời đại cởi mở này, cứ tưởng mặc sơ mi màu trắng thì có thể xứng danh mình là cổ cồn với chả cổ áo trắng được chăng? Sao không lấy tiền thu nhập hàng tháng ra mà làm tiêu chí đánh giá?

Lão Giám đốc vừa đi vừa làu bàu; ra đến tận ngoài cổng, ông còn tiếp:

- À, còn nữa, cộng tác viên của anh... tên gì nhỉ... à, Ôn Khắc phải không? Sau này nhớ nói với ông ta đừng viết chi tiết quá. Những chi tiết quá đẫm máu, rùng rợn, tuy hay thật nhưng dễ gây phiền hà. Ban tuyên truyền bây giờ đang rất "ke" với chuyện phong kiến, mê tín dị đoan đấy.

Truyện của Ôn Kiến Quớc có tên là "Tổ Ong", mang phong cách quái dị. Trong tiểu thuyết ấy, hai nhân vật - một nam một nữ - đi du lịch tới một ngôi làng nọ, vào đêm trăng tròn, họ phát hiện thấy đám dân làng tụ họp trên khỏang đất trống, ăn thịt sống. Thì ra, có một loài ong ký sinh, rất nhỏ thôi, sống tầm gởi nơi đất người, và toàn bộ dân làng đều bị chúng sống tầm gởi trong não. Họ còn trông thấy từ trong mắt mũi dân làng bay ra những con côn trùng bé xíu, chúng chính là những con nhộng đã nở ra có cánh. Sau đó chúng tiếp tục đẻ trứng và bám vào óc người khác. Dân lành không hề biết nên vẫn quây quần bên nhau, cùng ăn thịt tươi máu chảy ròng ròng. Những tia máu đỏ bắn tung tóe trên môi họ. Cảnh tượng ấy Ôn Khắc miêu tả chi tiết khiến người đọc hãi hùng. Nếu khỏang mười năm về trước, câu chuyện này, chắc chắn sẽ bị gán tội tuyên truyền mê tín, đến bây giờ, nhiều người cũng khó chấp nhận được nó. Tự tay tôi đã phải cắt bớt đi những đọan miêu tả nhẫn tâm và ác độc, vậy mà khi đọc bản bông, Giám đốc vẫn còn cảm thấy rùng rợn. Câu chuyện của Ôn Kiến Quốc sẽ rất câu khách đây.

Tôi trở lại văn phòng, mọi người đã về gần hết. Còn mình Văn Đán đang hí hóay đánh máy chữ, nhác thấy tôi ngồi vào bàn máy, anh ta lên tiếng:

- Thế nào rồi, anh Khang?

- Giám đốc yêu cầu tôi sửa bản bông của Lý Đĩnh thêm một chút nữa.

Văn Đán phì cười, không rõ hắn cười vì cái gì nên tôi tiếp lời:

- Lại có chuyện gì phải không?

- Mới rồi có ai đấy gọi, nói muốn gởi bài cho Lý Đĩnh.

- Nhăng cuội gì nữa đây?

- Hắn nói rằng hắn thấy trên tường có một cái bóng người biết cử động và có cả tiếng nói nữa.

Tôi nghe và bật cười thành tiếng.

Những chuyện tào lao bậy bạ thì ngày nào chả có. Nó hoang đường đế độ " tẩu hỏa nhập ma", dối trá nhưng vụng về không thể tưởng được. Tôi nói:

- Chiếc bóng biết nói, đúng là chuyện hoang đường. Tất cả những chiếc bóng đều cử động được đấy thôi, có chăng chỉ những chiếc bóng của người chết mới bất động, đúng không nào?

- Không phải thế. Hắn nói chiếc bóng này ở ngay trên tường, không có hình dạng và ăn sâu hẳn vào tường cơ mà.

(còn tiếp)

Chương 02 : phần cuối

------------------------

Tôi đã định bật máy tính nhưng dừng ngay lại. Giả thuyết này nghe tuyệt đấy. Một chiếc bóng không có thực thể. Vậy phải chăng nó là một câu chuyện đáng buồn. Tôi vẫn có nhớ " thiên đồng thoại' thời kỳ đầu của Andersen kể rằng: có một cái bóng biết nói năng, chuyện trò và đi đến thỏa thuận với một người: cái bóng đi làm việc và con người hóa thành cái bóng - như đã từng có lúc tôi ước ao mính sẽ là cái bóng; còn việc kiếm sống hàng ngày cứ để cho cái bóng làm. Tôi nằm khuyển ở đó, mắc cho cái bóng kéo lê tôi đi trên mặt đất. Rồi tôi tưởng tượng mình biến thành cai bóng mỏng tang, không có bề dày dán vào mặt đất. Sự thay đổi ấy khiến cảnh vật quen thuộc xung quanh sẽ trở nên lạ lẫm.

Tôi kéo bàn phím ra vừa đánh máy chữ vừa nói:

- Phải chăng hắn đang đọc truyện của Aymer?

- Cái gì? - Văn Đán chưa hiểu tôi đang nói gì hoặc hắn cũng chưa hề đọc tác phẩm của Aymer. Tôi còn nhớ những ngày học ở Đại học, tôi có đọc một tập tiểu thuyết của Aymer. Chương đầu viết về người đi xuyên tường. Về sau con ngưởi này bị phong bế ơ trong tường và người ta thường vẫn nghe tiếng thở dài của y thóat ra từ bên trong ấy. Câu chuyện hoang đường ấy đã gieo vào lòng tôi một nỗi ghê rợn. Tôi hình dung ra tình cảnh con người bị khép kín trong tường, không có khỏang trốngbốn chung quanh là gạch xây kín mít, cảm giác như bị bao bọc bởi một chất keo, tối mịt mùng. sau này, lúc phải đi một mình trong đêm tối, qua lối ngõ không có đèn đường, tôi thường mang theo nỗi lo âu vô cớ, tưởng chừng bức tường dựng đứng hai bên đường đang đổ sập xuống đầu mình và cái đen tối kia đang hóa thành chất keo dính dầy đặc.

- Chẳng có gì sất, nó chỉ là tiểu thuyết của một người ngoại quốc.

Tôi lẩm nhẩm không thành tiếng và cũng chẳng muốn giải thích cho hắn nghe Aymer là ai. Có nói tới các nhà văn Pháp, tôi nghĩ quá lắm hắn chỉ biết đến Bernard, Le Blame, hoặc thêm nữa là những người từng đọat giải Nobel như Sartre, Camus, Mauriac và những tác gia lớn như Zola, Flaubert, Daudet, Maupassant. Còn như với Baudelaire, Mallarme, anh em Concour, Valerie thậm chí Sagan, tôi nghĩ chắc gì hắn đã biết, huống hồ Aymer lại là tác gia không mấy tên tuổi. Và thực ra tôi cũng vậy, may mà đọc được một tập truyện ngắn của Aymer nên tôi mới biết đến tên này.

Văn Đán thấy không còn chuyệ gì để nói nữa, bèn quay ra đánh nốt phần tài liệu còn bỏ dở trên máy tính. Xong rồi hắn tắt máy, cất lời chào trước khi ra về:

- Hết giờ rồi, tôi về đây. Anh chưa xong việc phải không, chào nhé!

- Vâng, chào anh - Tôi thuận miệng đáp lời rồi đem bản bông của LÝ Đĩnh ra để đối chiếu. Hôm qua không biết cô ấy làm thế nào mà vẫn bỏ sót khá nhiều lỗi chính tả, lần này cho qua nữa, bạn đọc sẽ không để chúng tôi yên. Nửa chừng lại nghe chuông điện thoại réo gọi, tôi hơi bực mình khi cầm ống nghe lên. Tại sao thế nhỉ... ? Tôi luôn đoán rằng người ấy không ai khác mà chính là Ôn Kiến Quốc!

- Alô! Tòa soạn báo Truyền Kỳ Đại Quan đó phải không?

- Giọng của một người lạ, nam giới. Tôi đáp lời:

- Vâng, Truyền Kỳ Đại Quan số đặc biệt về Tin tức Kỳ lạ đây.

- Sao các người chưa chịu đến đây? - Tiếng nói nghe lịm dần.

Tôi sững sờ và còn lơ mơ chưa hiểu hắn đang nói gì, rốt cuộc nhớ ra đây chắc là người ban nãy vừa gọi đến cung cấp tin tức cho tòa soạn. Tôi kẹp ống nghe vào một bên cổ, nói tiếp:

- Ông nói cho rõ ràng đi. Nó là tiếng nói gì, ở đâu nào?

- Từ bên trong bức tường, tiếng kêu ri rỉ giống như côn trùng ấy!

Tôi thấy hoang đường. Theo lời văn Đán thì tiếng nói ấy phát ra từ một cái bóng, bây giờ người này kể là phát ra từ trong tường, tình tiết như trong tiểu thuyết của Aymer. Hơn nữa, "tiền hậu bất nhất", rõ là nói dối rồi. Biết vậy tôi gặng hỏi:

- Ông nói từ trong tường mà ra, đúng thế không? Nhưng tôi lại nghe nói là do cái bóng phát ra cơ mà.

Chuyện thật vớ vẫn, nhưng có lẽ hắn chưa kịp hiểu cái ý nói đầy vẻ giễu cợt của tôi nên cứ bám theo lời tôi rồi trả lời bừa:

- Đúng đấy, cái bóng đó đánh "soạt" một cái, chui toạt luôn vào trong tường. các ông nhanh chân lên nào, đến ngay đi. Tin nóng hổi đấy!

Tôi cố gắng nén cơn giậnđang bốc lên ngùn ngụt, rồi ra vẻ thản nhiên, nói:

- Xin lỗi ông, cái bóng là một vật thể che ánh sáng và để lại sau nó cái bóng râm. Làm thế nào nó có thể giống như loài côn trùng nhỏ bé chui vào lỗ hổng ở trên tường được.

- Nhưng trên tường làm gì có lỗ hổng, thưa ông?

Hắn chả hiểu gì về cái ý châm chọc trong câu nói của tôi nên cứ tiếp tục ba hoa. Tôi phát bực mình, nói giọng sỗ sàng:

- Nếu như cái bóng thực sự biết nói thì ông chỉ việc lấy máy ảnh chụp rồi đem bán cho đài truyền hình, sẽ trở thành tin giật gân ngay. Tôi cuộc là rất được giá đấy!

Có lẽ hắn đã đóan ra ý bực bội, khó chịu trong lời tôi nóinên chững lại, im lặng. Tôi tưởng hắn không có gì để nói thêm nữa, đang định gác máy thì bỗng nhiên hắn lại lên tiếng, giọng oang oang:

- Chuyện có thật trăm phần trăm!

Thấy hắn cứ lằng nhằng mãi, tôi đâm cáu:

- Xin lỗi ông, bây giờ tôi đang bận. Nếu như ông thấy nó đáng giá thì cứ việc viết bài gởi tới cho chúng tôi.

Rồi không để hắn dài dòng thêm nữa, tôi gác máy luôn. Thời gian qua, trang tạp chí do Lý Đĩnh phụ trách thiếu bài viết về những chuyện lạ, mới mẽ và hấp dẫn nên Ban Biên tập phải đăng tin trưng cầu bạn đọc cộng tác. Bài viết được sử dụng sẽ có nhuận bút. Tòa sọan cũng công bố số điện thoại liên lạc để bạn đọc có thể gọi đến thông báo tin nóng. Có lẽ vì thế mà gã đàn ông lúc nãy nghĩ rằng tạp chí của chúng tôi cũng giống như tờ tin tức xã hội, có thể thu nhận tất cả các lọai tin tức nhiều kiểu khác nhau.

Bản bông của Lý Đĩnh đã được sửa xong, nhưng tôi chưa thật yên tâm, chỉ e còn có sai sót chưa phát hiện được nên đành phải đọc lại thêm một lượt nữa cho thật chắc ăn. Xong xuôi tôi mới copy vào đĩa mềm và lưu vào File FTPcủa cô, tắt đèn văn phòng, tôi bước ra khỏi cửa.

Tòa sọan có hai phòng làm việc, chỗ ngồi của giám đốc chỉ chiếm một góc, được ngăn cách bởi cửa kính. tôi đã để ý đóng cửa văn phòng cẩn thận nhưng không biết có phải cảm giác của tôi lần lẫn không mà tôi thấy, dù cả hai văn phòng đều đã tắt đèn nhưng phòng làm việc của tôi vẫn sáng hơn so với phòng bên cạnh. Phải chăng đó là ánh sáng từ bên ngòai lọt vào? Ngày hai lần, sáng sớm và chiều tối, bà già giúp việc vặt đều đến quét dọn, làm vệ sinh. Đang đẩy khăn lau nhà phía cuối hành lang, thấy tôi bước ra, bà liền hỏi:

- Ông làm thêm ca sao...?

- Đúng thế, chào bà...

Một thoáng đứng chờ cầu thang máy nơi đầu hành lang. Thang máy mở, tôi vội vàng bước vào, cùng lúc, một cảm giác khoắc khoải, đầy lo âu cũng ùa theo, tựa hồ một làn nước mực đen đặc quánh, thấm đẫm toàn thân tôi.

Không thể thế được. Ngoài chứng bệnh sợ độ cao, lẽ nào bây giờ tôi còn mắc thêm cả chứng sợ nỗi u huyền?

Thang máy đi xuống êm ái, vững chãi, thế mà tôi lại cảm thấy như nó từ từ rơi xuống vực thẩm, không biết đâu là đáy. Thời còn nhỏ, tôi có đọc tập truyện của Nhà xuất bản Tủ sách khoa học phổ thông, kể chuyện những người thời Trung cổ tưởng tượng ra thế giới là một dãi đất liền bằng phẳng. trôi nổi trên biển cả, bốn bề nước mênh mông và biển đổ về một nơi không ai hay biết. Câu chuyện vu vơ ấy đã làm tôi khiếp đảm, dẫu biết chỉ là chuyện hoang đường nhưng tôi vẫn thấp thỏm, không lúc nào yên. Sau này, mỗi lần giở đến tập sách, tôi luôn cố tình lật qua mấy trang đó. Kinh sợ vốn là kết quả của sự thiếu hiểu biết, và vì chưa rõ về nó nên người ta vẫn thường sợ theo bản năng. Còn với tôi đó là sự kinh hòang ở mức tột cùng.

Xuống đến tầng lầu, thấy bên ngoài trời đã tối. Mùa đông, đêm đến sớm hơn, mới sáu giớ mà trời đã tối mịt. Gió rít từng cơn sốc tới, chà sát vào da thịt, giá buốt như kim châm vậy. Với riêng tôi, nó còn đem tới cảm giác bi thương và sự bất an.

Bản thân cái thành phố này cũng vậy, nó giống như một kẻ xa lạ, tính khí kỳ quặc, tuy sống hàng ngày với nhau mà chẳng một ai nhận ra nó thế nào. Tại những ngõ hẻm rối rắm, bộn bề, tràn ngập những sạp, những quầy hàng rởm, hàng thứ phẩm hoặc những con phố lớn trang hoàng hoa lệ, những người đàn bà phấn son lòe loẹt vụng trộm bán mình trong bóng đêm, với tôi, tất cả chỉ là một thế giới khác lạ, không ăn nhập gì cả. Tôi thấy mình giống cái bóng - một cái bóng dính trên tường.

Chính tôi không hiểu nổi tại sao mình lại có những ý nghĩ kỳ quặc đến thế. Cái bóng của tôi được ngọn đèn phác lên trên đường phố một hình thù quái dị nhưng lại hòa hợp làm một với môi trường chung quanh. theo động tác tôi đi trên đường, cái bóng cũng cử động y hệt như thế. từ khi nghe cuộc điện thoại vu vơ ở cơ quan, tôi luôn để ý đến cái bóng của mình và cảm thấy nó như mộ người sống, cũng biết vui buồn, giận dữ và đau khổ.

Và nó giống như trong chuyện cổ tích của Andersen.

Bước vào hàng ăn, tôi ngồi vào bàn và gọi một bát mì. Sực nhớ mình quên chưa nhắc bà giúp việc lau sạch vết mực mà Giám đốc dặn. Giờ này quay trở lại, chắc bà già đã về. Nghĩ đến trời rét mướt, tôi ngần ngại.

Tôi nghĩ bụng, để sớm mai mình sẽ nhắc.

( Hết chương hai) Chương ba : Người lạ lúc nửa đêm

Băn khuăn về vết mực trên tường ở chỗ ngồi làm việc của Giám đốc, sáng hôm sau, tôi trở dậy rất sớm để kịp đến văn phòng. Đến nơi, tôi chưa thấy một ai ngòai bà giúp việc đang lúi húi lau sàn nhà. Tôi vội nói:

- Bà này... Nhờ bà lau dùm vết mực góc nhà bên nhé!

- Vâng... Ông cứ mở cửa ra và chỉ cho tôi thấy đã . - Nói rồi bà gác cái chổi sang một bên.

Chìa khóa của cả hai phòng tôi đều có trong tay, nên tôi mở cửa văn phòng của Giám đốc trước, luôn thể bật đèn sáng rồi chỉ tay vào góc phòng:

- Ở đấy, đúng chỗ ấy.

Tôi giật mình thảng thốt, góc tường nhà sạch bong, thậm chí không thất cả mạng nhện. Chẳng lẽ đêm qua tôi bị hoa mắt, không ý thức được đều mình làm; vừa lúc bà giúp việc cầm giẻ lau đi tới:

- Lau chỗ nào, thưa ông?

- Chà, không thấy đâu cả, thôi vậy.

Tôi tắt đèn, quay trở lại bàn làm việctrong lòng nghi nghi, hoặc hoặc... mới hôm qua, tận mắt mình còn nhìn thấy một vết mực đen sờ sờ ra đấy, giờ chẳng thấy đâu nữa là thế nào. Ngay cả Giám đốc, đời nào ông ấy cũng hoa mắt như mình?

Hôm nay đến hạn đưa bài cho nhà in. Tiểu thuyết của Ôn Kiến Quốc là "con át chủ bài" của tạp chí kỳ này; nó chiếm một lượng lớn số trang của tạp chí. Sắp hết năm, công việc nhiều, mọi người tối mắt, tôi mãi lo nội dung của số tạp chí số tiếp theo. May mà gặp dịp dân công nô nức lên đường đến công trường. Đường xa, ngồi một vài ngày trên những toa tàu hạng hai, có tờ tạp chí này, họ có thể đọc giải trí hoặc nhân tiện, có giấy lót trên những chiếc ghế gỗ không đệm của xe lửa. Chính vì thế lượng phát hành của hai số tạp chí kỳ này tăng vọt. Tháng cuối năm sẽ có tiền thưởng nên mọi người lao vào công việc không một lời kêu ca oán thán.

Tôi bận soát lại bản bông để sẵn trên bàn, Văn Đán cầm tập bản thảo đi về chỗ, miệng lầm rầm điều gì không rõ. Bây giờ, mọi người đều làm việc trên máy tính, số quen viết tay chỉ còn sót lại rất ít, muốn sử dụng bản thảo của những người này phải mất rất nhiều thời gian để đánh máy lại. Văn Đán đặt xếp giấy lên chiếc giá cạnh máy tính, lấy tư thế ngồi ngắn chuẩn bị gõ máy, bất chợt hắn ngoảnh đầu lại:

- Này anh Khang, Lý Đĩnh đến rồi đấy.

Tôi rời tay khỏi tập bông:

- Anh nhiễu sự lắm, lẽ ra anh phải làm việc ở ủy ban dân số mới phải.

Hắn làm như không nghe thấy câu nói máy móc của tôi, chỉ cười nhăn nhở:

- Bỏ mặt người ta mặt mũi héo hon, trông tiều tụy thế sao đành!

- Con cáo không được ăn nho lại chê nho chua.

Anh bạn đồng nghiệp ngồi một bên nói xen vào:

- To đầu như anh Văn Đán đây cũng nên một vừa hai phải thôi, chua chát lắm điều như thế để làm gì chứ?

Chúng tôi cười ồ, cả Văn đán cũng cười, nhưng chưa hết khích bác:

- Tôi đang nói thật đây mà?

Nhưng chả ai buổn nghe thêm nữa. Cho dù hắn có bóng gió gì thì cũng không ngoài mươi mẫu chuyện pha trò nhảm nhí về Lý Đĩnh đêm qua..., dài dòng với hắn chỉ mệt thêm mà thôi.

Văn phòng bây giờ rộn lên tiếng đánh máy, nghe rào rào như mưa và tiếng sột sọat của giấy lật sang trang. Trong chuỗi âm thanh đều đều của tắc kè đèn ống, những tiếng động vốn nhỏ nhẹ ấy bỗng vang lên, chát chúa như tiếng súng nổ, làm tôi đứng ngồi không yên. Nội dung những trang bản thảo trước mắt như cố tình trêu ngươi, trở nên huyễn hoặc, khiến tôi rùng mình ớn lạnh. Tôi đành phải bỏ đống bản thảo, định ra khỏi phòng để hít thỏ không khí trong lành. giữa lúic ấy, điện thọai đổ chuông.

- Không biết chừng vẫn lại là hắn - kẻ báo tin cái bóng biết cử động - tay tôi nhắc ống nghe lên.

- Alô, Tạp chí Truyền kỳ, số đặc biệt về chuyện lạ đây!

- Xin hỏi ông Ôn Kiến Quốc có ở đấy không? - Nghe giọng nói là một phụ nữ. Tôi không dè lại có người gọi điện đến tận đây để hỏi Ôn Kiến Quốc.

- Ông ấy không đến tòa soạn. - Đầu dây bên kia im lặng hồi lâu nhưng không gác máy. Tôi gọi tiếp "alô", không thấy ai đáp lại, đã toan bỏ máy thì bất chợt, người phụ nữ lên tiếng:

- Làm thế nào đây? Tôi biết làm sao bây giờ?

Biết đâu Ôn Kiến Quốc đánh lừa cô ta rồi cũng nên? Các bạn trẻ yêu văn học vốn thật thà, chắc không thể ngờ Ôn Kiến Quốc lại có ý lợi dụng. Chẳng trách ông ta đã trát phấn lên mặt mình - Tôi nghĩ thầm, rồi hỏi cô gái kia:

- Vậy cô có số điện thoại của cô ấy không?

- Tôi có gọi đến nhà nhưng không ai nhắc máy. Thật tình ông không biết ông ấy đang ở đâu sao?

- Đành phải xin lỗi cô thôi. Tôi không biết thật. - Suýt nữa tôi buột miệng: " Nếu trót lỡ thì đành cho nạo thôi...".

Chợt cô gái bật khóc:

- Chắc là ông ấy chết rồi. Chết rồi, còn đâu nữa!

Tôi giật mình đứng sững:

- Chết như thế nào?

- Ông ấy... - Tôi nghe tiếng bên kia gác máy, mặc cho tôi gọi mà không có ai trả lời.

Ôn Kiến Quốc chết rồi ư? Tôi thấy lạnh cả người, chợt nhớ tới câu nói cụt lủn không đầu không đuôi của ông ta vào đêm hôm trước. Có thể nó là một vụ ám sát?

Càng nghĩ tôi càng thấy lo, vội thu dọn gọn gàng giấy tờ trên bàn, nói với người ngồi cạnh là mình có việc phải đi ra ngoài một lát. Sau đó, vội vàng bước ra cửa.

Thời tiết ngoài trời lúc đó khoảng dưới mười độ. Vừa ra khỏi văn phòng, một luồng gió thốc vào mặt, lạnh buốt. tôi thọc hai tay vào túi áo, ngoảnh đầu nhìn lại tòa nhà một lượt, nó được che phủ dưới một lớp sơn màu vàng nhạt, trông tẻ ngắt, tựa hồ một con bệnh ốm đã lâu chưa khỏi. Không gian gợi cho tôi một cảm giác không vui.

Tôi lên xe buýt đi thẳng đế nhà Ôn Kiến Quốc. Trước cửa nhà, tôi thoáng thấy một người phụ nữ ăn mặc ấm áp đang lấy tay đập cửa, miệng gọi không ngớt:

- Kiến Quốc... Ông Kiến Quốc ơi!

Tôi tiến đến gần và lên tiếng:

- Xin lỗi, cô đang tìm gặp ông Ôn Khắc phải không?

Cô gái nghoảnh lại nhìn tôi. Hôm ấy trời không lạnh lắm mà cô lại mặc một chiếc áo khoác to đùng, quàng khăn che mặt, tay đeo găng như phải đi dưới trời băng tuyết vậy. Hai mắt cô thâm quầng và dù không nhìn rõ mặt, tôi vẫn thấy làn da mặt của cô tái mét như người ốm. Quay mặt nhìn tôi, cô hỏi ngay:

- Vậy ông là...

Tôi thò tay vào túi lấy ra tấm danh thiếp đưa cho cô:

- Tôi là biên tập viên của Tạp chí Truyền kỳ số đặc biệt về chuyện lạ, tôi có cộng tác với Ôn Khắc. Ông ấy đi vắng sao?

Cô gái cầm tấm danh thiếp, đưa mắt đọc và không kìm được nước mắt:

- Tôi đã đập cửa tới năm lần bảy lượt rồi mà không thấy ông ấy đâu cả. Tôi còn biết làm gì nữa đây?

Tôi bước tới, giơ tay đập mạnh vào cửa. Cánh cửa sắt kêu "oang oang..." nhưng không thấy hồi âm gì. Tôi đoán:

- Chắc là ông ấy đi vắng rồi.

- Tôi phải làm gì bây giờ? - Giọng nói của cô pha lẫn nước mắt - Không thể tìm đâu cho thấy được ông ấy nữa rồi... Vậy tôi...

Không rõ chuyện gì nhưng tôi thấy tội nghiệp cho cô quá. Nghĩ vậy, tôi lại nói:

- Không biết chừng ông ấy chỉ đi dạo chơi quanh đâu đó thôi. Ta cứ tìm chỗ nào ngồi uống nước, chờ thêm một lúc nữa xem sao.

Gần ngay đấy có một quán trà rất hay mà giá cả lại hợp lý. Cô gái thẩn thờ lần bước theo, cứ như người mất hồn, thỉnh thỏang lại sụt sịt khóc thầm. Chúng tôi chọn một chỗ ngồi bên cửa sổ, gọi nước trà:

- Cô uống thêm một thứ gì nóng nhé.

- Thôi. Ông miễn cho. Tôi chả muốn uống gì hết.

Tôi bật cười thành tiếng:

- Đã vào đây rồi không uống sao được. nên uống một cốc gì cho ấm bụng chứ!

Cầm cốc chè nónh hôi hổi, tôi mới gợi chuyện:

- Cô đi tìm ông Ôn Khắc để làm gì vậy?

- Tôi à? Tôi là bạn gái của ông ấy.

Đang lúc nhấp giọng, nghe nói vậy, tôi ngước mắt nhìn cô chăm chú:

- Sao không nghe ông ấy đả động gì đến...

- Tôi với ông ấy chuyện trò với nhau trên mạng khá nhiều, cốt để ông cung cấp bài viết cho tôi. Nào đâu có chuyện trao đổi thân tình gì cho cam. - Ôm cốc trà trong lòng bàn tay rồi với giọng nhỏ nhẹ , cô nói tiếp: "Tên tôi là lâm Bồ Lam; cách đây một năm, tôi gặp Ôn Khắc lần đầu tiên trong hội nghị của Hội liên hiệp Văn nghệ."

Đây đúng là một cô gái trẻ yêu thích văn nghệ. Tôi cười thầm, câu chuyện tiếp theo, không cần phải đóan cũng đã rõ rồi. Chắc hẳn y đã lừa được cô gái vào tròng. Đầu tiên thì ngọt ngào, quyến luyến, rồi đột ngột rời bỏ. Chuyện như thế vẫn diễn ra như cơm bữa, mọi người đã quen rồi nên chẳng ai trách gì được Ôn Khắc cả.

Lâm Bồ Lam lại nói tiếp với giọng đều đều, không thay đổi:

- Mới tháng trước , tôi cùng ông ấy đi du lịch ở Hồ Nam. Hôm ấy chúng tôi đi xa quá, lỡ mất chuyến xe quay trở về khách sạn, phải trọ lạ một đêm ở trong làng.

- Đúng vào cái đêm "khỏa thân trần truồng" ấy rồi - Tôi nhếch mép cười. Hóa ra câu chuiyện hoang đường, phi lý của Ôn Khắc cũng có một phần sự thật; hắn đưa bạn gái đi chơi, kỳ thực cũng có mục đích.

- Ngay ngoài cửa nhà mà hai người trọ có một tổ Ong, đúng không?

Cô gái ngước mắt nhìn lên với vẻ mặt sững sờ:

- Không có, cửa nhà ấy tối như bưng nhưng được cái nó sạch sẽ.

- Xem ra không phải tất cả những gì ông ấy viết ra đều lấy căn cứ từ thực tế. - Tôi cười mỉa. Rồi sao nữa?

Cho đến lúc ấy, Cô ta vẫn chưa kịp tháo bỏ chiếc khăn quàng trên cổ nhưng trong ánh mắt của cô đã lộ vẻ thèn thẹn và cô hơi đỏ mặt khi nói:

- Hôm ấy đúng vào ngày rằm, về đêm, trăng sáng vằng vặc. Bỗng nhiên, chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân sát gần ngoài cửa. Tôi giật thót người lại, mặc cho ông Ôn Khắc bước ra ngòai xem có phải dân nhà quê đang ngấp nghé xem trộm chăng?

Tôi tỏ vẻ không hài lòng.

- Cô đang nghĩ xấu về người ta đó. Thế nào là dân nhà quê? Ít học đâu phải là lưu manh, chỉ bọn trí thức mới thiếu đạo đức cbứ nông dân thì cao thượng hơn đấy. Chuyện sao đó thế nào?

- Chúng tôi nghểnh cổ nhìn qua cửa sổ.

- Hai người trông thấy gì?

Ánh mắt cô bỗng lộ vẻ hỏang hốt:

- Tôi trông thấy một người mình trần như nhộng.

- Đàn ông hay đàn bà, độ bao nhiêu tuổi?

- Một ông lã. - Cô đảo mắt, ngước nhìn lên khoảng trống phía trên đầu tôi. - Ông lão trần truồng, mình mẩy chẳng khác gì con ngựa vằn, mảng đen mảng trắng xen lẫn nhau. Lão lê bước chậm chạp trên nẻo đất khô cằn, nứt nẻ... y như một xác người cứng đơ.

Khi nói đến hai chữ " xác người" , vẻ như cô phải cố gắng lắm mới nói nên lời và cảm thấy như có một luồng khí lạnh tràn qua khiến tôi rùng mình.

- Các người không biết đi và nó chỉ nhảy được thôi, đúng thế chứ! - Tôi nói với giọng không dứt khoát. - Xác người chỉ có trong truyền thuyết dân gian mà thôi, bản thân tôi cũng chưa đọc nhưng trong dân gian đều lưu truyền rằng thi hài chỉ nhảy thôi và nó không biết đi.

- Tôi không rõ nhưng chỉ thấy thân hình đó gầy đét y như một tấm ván dùng làm bàn giặt ấy. Chỗ sẫm đen như được quét lên một lớp mực, còn các chỗ khác hiện rõ là màu nâu, không có vẻ gì của một người còn sống cả. Trời rét ghê gớm nhưng nó dường như không biết rét là gì nữa. Nó bước đi, đầu ngẩng cao, miệng há hoác, hú lên một tiếng kéo dài như tiếng của sói rừng, nhưng âm thanh yếu ớt phát ra từ đáy họng.

Tôi sững sờ nghe cô kể, cảnh tượng ấy y hệt câu chuyện Ôn Kiến Quốc viết trong "Tổ Ong" khi ông miêu tả một người trần truồng bước đi trong đêm, nhưng khác ở chỗ, đó là một thiếu nữ có làn da trắng ngần, nét mặt cứng đơ vô cảm, trên thân người có những cái lỗ nhỏ nên toàn thân trông giống như một cái tổ Ong. Tác giả khắc họa rất tỉ mĩ: Trên làn da thiếu nữ, ở mỗi cái lỗ đều có một con nhộng đang cựa quậy. Tình cảnh ấy, cho dù được thể hiện bằng ngôn ngữ sinh động nhưng cũng chưa thật hợp lý, bởi lẽ lúc ấy là đêm tối, nhìn từ xa không thề nào thấy rõ ràng chi tiết như thế được. Nó đủ khiến tôi cảm thấy gai lạnh khắp cả người.

Vậy phải chăng trên thân thể con người kia cũng mang vô số những lỗ nhỏ lỗ chỗ như tổ Ong?

Giả sử có một bàn tay giơ ra, trên mu bàn tay đầy lỗ nhỏ và những con sâu ngọ nguậy ở bên trong, cảnh tượng đó sẽ khiến người ta hãi hùng. Vậy mà Lâm Bồ Lam lại ra vẻ bình tĩnh nói:

- Không, mặc dù thân thể ông lão lồm đốm những vệt đen trắng xen nhau và người gầy gò, da bọc xương nhưng không có vết thương nào cả.

Tôi thở phào. Không sao hết, những gì Ôn kiến Quốc kể chỉ là sự gia giảm, thêm thắt về mặt nghệ thuật chứ không phải sự thật. Rồi nhấp thêm một ngụm trả tôi hỏi:

- Sao nữa thế nào?

- Ông lão lại gần bờ giếng, rồi đột nhiên như người hết hơi, lão ngã sấp, hai tay ôm lấy thành giếng, nằm im không cựa quậy. Chúng tôi hỏang hốt, mặc vội quần áo rồi chạy tới. Ôn Kiến Quốc đỡ lão dậy:

- Ủa bác... làm sao đến nỗi này?

Quả đúng là một cô gái yêu văn học và có tài nữa. Chỉ cần viết lại y nguyên những lời kể trên, cũng đủ làm nên một câu chuyện rùng rợn gởi đến chỗ tôi rồi. Nghĩ vậy, tôi lấy làm hài lòng; chuyến đi lần này của mình, hóa ra lại rất được việc. Chợt cô kể tiếp:

- Bất thình lình, thân hình lão nứt tóat ra...

- Gì thế? - Chả là tôi đang lơ đãng, chưa kịp nghe ra điều cô vừa nói.

- Lão nứt toát người ra! - Giọng Lâm Bồ Lam run rẩy, vẻ khiếp sợ hiện lên trên nét mặt - Trông lão như cái vỏ trứng bị vỡ nát và từ thân lão rỉ ra một chất gì đó màu đen kịt.

- Cái gì? cô nói gì thế? - Tôi không hiểu, chẳng lẽ sau khi thân thể lão nứt ra thì bên trong rỗng không.

- Không có gì hết. Mới rồi lão còn là một con người hẳn hoi, rồi bất ngờ cổ lão tách làm đôi, từ bên trong, nước mực ục ra ngoài và một chất màu đen kịt chảy thành dòng. Toàn thân lão cứ như một tảng băng bị ném vào lò, tan biến ngay trong phút chốc.

Tôi chau mày:

- Liệu có thật như thế không?

Rồi nghe tiếng thở hào hển của Lâm Bồ Lam:

- Tôi như gặp ác mộng, nhưng bữa ấy trăng sáng vằng vặc và ông lão tựa hồ một cây nến cháy ngùn ngụt, phút chốc chỉ còn lại một đoạn ngắn, một chất nước màu đen trào ra. Ngưởi ta nghe tiếng kêu thất thanh của Ôn Kiến Quốc và ông ta đưa tay lên bịt chặt lấy miệng. Tôi cũng chạy quá thêm mươi bước chân nữa, chăm chú nhìn ông lão. Ông nằm bò trên bờ giếng, giờ chỉ còn sót lại nửa thân người. Cảnh tượng quá hãi hùng!

(còn tiếp)Chương ba : Người lạ lúc nửa đêm(tiếp theo)

-------------------------

Cô ta điên mất rồi? Hoặc cô đang móc ngoặc với Ôn Kiến Quốc hòng lừa bịp tôi. Chỉ mỗi điều là tôi với Ôn Kiến Quốc qua lại với nhau lâu thế, ông không thể chơi xỏ tôi được! Tôi hớp ngụm trà nữa mong khỏa lấp sự sợ hãi trong lòng:

- Thế cái chất nước rỉ ra ấy, nó là gì vậy?

- Tôi cho là nước nhưng rõ ràng không phải. Nếu là nước, nó sẽ chảy xuống chỗ trũng, song cái chất màu đen này lại mỏng tang đến độ không có tí bề dày nào và nó chảy ngược lên. À không phải nó chảy ra mà bò từ từ, sau khi bắt lên miệng giếng thì vỡ òa xuống dưới ấy, tựa hồ ở nơi sâu thẳm có một lực hấp dẫn rất mạnh hút nó xuống vậy.

- Khoan đã... Rốt cuộc nó phải là một thực thể gì chứ?

Bồ Lam hít vào rất sâu như muốn tĩnh tâm lại rồi mới nói:

- Là... cái bóng, một cái bóng còn sống.

Tôi cũng thở gấp, không nín được cười:

- Tôi đến phải nhờ cô Lâm thôi, sau này cô viết truyện cho tạp chí nhé. Bút danh của cô nghe được lắm!

Cô chau mày:

- Ông không tin lời tôi nói hay sao?

- Khó có ai tin được. Cái bóng chỉ là một mặt phẳng hai chiều, nó không có bề dày và cho dù nó to hơn nữa thì chỉ là một vật không có thể tích. Cón người ta sao có thể biến thành cái bóng được. Cái khối nặng trên năm mươi ki lô gram ấy, nó biến đi đâu được nào?

- Điều ấy tôi không rõ. - Cô nghĩ rất lâu rồi mới thốt ra được. - Tôi chỉ biết mình rất sợ mà thôi.

- Đúng thế!

Tôi cũng đâm hoảng, rồi búng ngón tay gọi cô hầu bàn:

- Tính tiền nào!

Bồ Lam đứng phắt dậy:

- Vậy ông giúp tôi được chứ?

- Giúp cách nào đây! - Tôi nói cũng vừa lúc thò tay vào túi áo lấy tiền trả cho cô hầu bàn đang bước lại gần.

- Tôi đang tính đi Hồ Nam một chuyến nữa, quay trở lại cái làng đó.

Tôi đưa ta lên gãi đầu, vẽ nghĩ ngợi rồi nói:

- Cô định mời cả tôi nữa phải không?

Ngó bộ cô như muốn khóc khi nói:

- Tôi chẳng còn biết làm gì hơn nữa. Vậy xin ông, ông hãy cùng đi với tôi được không ạ?

Cô gái trẻ yêu văn học tỏ ra khẩn khiết thật đấy. Tôi ngập ngừng giây lát rồi nói:

- Ngộ nhỡ ông Ôn Khắc biết tôi và cô, hai người cùng đi với nhau, ông ra đòn đánh tôi thì sao? Hơn nữa tôi hết ngày nghỉ phép rồi.

Tôi đẩy cánh cửa kính chờ cho cô ra trước. Bước ra ngoài rồi mà giọng cô vẫn chưa hết run rẩy:

- Có thật ông không muốn đi với tôi không?

- Thật sự xin lỗi cô.

- Chẳng lẽ ông không thể tin một lời nào của tôi sao?

- Cô đúng là con bệnh nan y chạy khắp mọi nơi lo tìm thầy tìm thuốc. May gặp tôi không phải hạng người xấu, chứ nếu cô yêu cầu một người khác đi cùng cô đến Hồ Nam ngay từ lần đầu mới gặp thì chắc hẳn cô sẽ mắc lừa thôi.

- Mắc lừa có gì là lạ, nam cũng như nữ đều thế cả thôi. Trong xã hội này, tôi nào dám hé răng, dầu chỉ là nửa lời với những người tôi gặp. Ngay cả chuyện này cũng vậy, tôi phải kín mồm kín miệng đấy chứ.

Đến đây Bồ Lam im bặt. Tôi đi dấn thêm mấy bước rồi dừng lại, khuyên cô:

- Hay là cố gắng đợi thêm lát nữa, chưa biết chừng ông ấy sẽ quay trở lại cũng nên.

Cô dừng chân đứng lại ngay trước cửa ra vào, người run rẩy như bị lạnh. Bất thần cô cất tiếng , giọng lạnh băng:

- Ông ấy không thể nào về đây được nữa. Không bao giờ!

Cảm nhận được ám thị trong câu nói, tôi ngoảnh lại nhìn cô chằm chằm:

- Hẳn cô còn biết gì khác nữa, cô lâm. Rốt cuộc cô đã biết được những gì nào?

Cô lặng lẽ dùng tay phải tháo chiếc găng ở bàn tay trái ra. Cô làm rất chậm, chiếc găng được lột ra từ từ. Cô không biết cô định làm gì nữa, nhưng cứ đứng lại nhìn, vẻ sốt ruột.

Cởi được găng ra rồi, Bồ Lam giơ cánh tay trái lên cao nói:

- Ông xem đây này!

Tôi bước lên mấy bước để nhìn cho rõ, có lẽ nào nó cũng giống như điều Ôn Kiến Quốc đã từng viết. Xem chừng bàn tay cô cũng lỗ chỗ những lỗ hổng, trong đó có những con sâu ngọ ngoậy. Tuy tự nhủ rằng đó chỉ là chuyện hoang đường nhưng tôi vẫn thấy lạnh cả sống lưng.

Bước lại gần hơn, tôi thấy làn da trên tay cô có vẻ như thiếu máu, nhưng nó sẫm hơn và không có gì đáng ngờ. Nước da trắng, trong như ngọc Hán thạch được lau bóng. Tôi vội hỏi:

- Nào, Cô Lâm muốn chỉ cho tôi xem gì đây?

Cô kéo tay áo lên, miệng cười nhạt:

- Ông không thấy lạ sao?

Bồ Lam nín lặng cho đến khi bàn tay tôi chạm vào da thịt trên cổ tay cô và bất chợt, tôi thấy mình thở sâu, gấp gáp, như có một luồng khí lạnh chạy lan khắp cơ thể.

Cổ tay cô... liệu còn có thể gọi đó là cổ tay hay không? Trên đó có những vòng tròn màu đen, không phải ở ngoài da mà hiện lên từ bên dưới, trông hệt như những lưỡi dao cạo râu phủ dưới một lớp màng mỏng trong suốt. Bề mặt tuy không có gì khác lạ nhưng những sợi màu đen đó như muốn phá bung lớp da để vọt ra bên ngoài. Dẫu cho nó không thật ghê gớm, hãi hùng như tổ Ong mà Ôn Khắc đã viết, song cảnh tượng này thật quái dị?

Tôi chết lịm đi:

- Cái gì đây?

- Tôi không biết - Đoạn cô thả tay áo xuống và đeo găng vào như cũ - Giờ đây, khắp mình tôi, chỗ nào cũng rải khắp những lưỡi dao bào đó và bất kỳ lúc nào chúng cũng có thể thái lát thân thể tôi tê tả thành vô số những miếng thịt mỏng manh. Vậy nên tôi cầu xin ông hãy cứu vớt tôi. Tôi cúi xin ông đấy!

Lúc này trong người tôi chẳng còn cảm thấy gì khác ngoài sự lạnh giá:

- Vậy đã có lần nào cô đi khám bác sĩ chưa?

- Bác sĩ bảo đó là trầm tích của sắc tố, khó mà nói cho rõ được.

- Thế Ôn Khắc, trên người ông ấy có gì khác không?

- Hẳn là có rồi. Ông ta bị trực tiếp, còn tôi thì bị lây từ ông ấy

Trách gì ông ta luôn phải trát phấn lên mặt, hóa ra là để che lấp những đường chỉ màu đen ấy. Chúng cứ như dấu vết còn lại của những đường cắt ngang trên da thịt ông, chúng ăn sâu vào từng thớ thịt và sau đó lại từ bên trong cắt phá ra ngòai.

- Nhưng cô có cảm giác đau đớn hoặc gì khác không?

Cô lắc đầu:

- Chả có cảm giác gì cả, chỉ thấy ghê lạnh thôi. Tôi rât sợ. Tôi sợ lắm!

- Đành phải đi khám bác sĩ thôi. Biết đâu cô đang mắc một chứng bệnh gì?

Trời nắng đẹp nhưng trong người tôi lại phát rét từng cơn một. Không phải vì nhiệt độ bên ngoài, nhưng còn lí do gì thì tôi thật sự không biết.

Tôi đi giật lùi mươi bước chân, gượng gạo cười:

- Mau thu xếp đi khám thôi. Sớm được ngày nào hay ngày nấy.

Ánh mắt cô lộ vẻ thất vọng. Cô nhìn tôi mà không nói. Khuôn mặt cô khuất sau tấm khăn quàng cổ nên tôi không biết sắc mặt cô lúc này ra sao, nhưng có thể đóan chắc rằng những đường chỉ đen sẽ lại xuất hiện trên gương mặt ấy, dọc ngang, ngang dọc phân môi trên với môi dưới, chia tách nhân trung và mũi làm mấy tầng cho đến khóe miệng. Tôi không dám nhìn cô thêm nữa, quay lưng rảo bước, mới được mươi bước đã ngoái cổ lại, Lâm Bồ Lam vẫn còn đứng đó. Dưới tia nắng mặt trời mà sao trông cô cứ như đứng giữa bóng đêm vậy.

Sau khi chia tay với cô, tôi trở về văn phòng như một người đang chạy trốn. Vừa kịp giờ ăn trưa, tôi lấy suất cơm hộp rồi bước vào phòng. Chỗ làm việc có hai biên tập viên nhà gần đó nên đã đi về. Văn Đán thì đang mãi gặm chiếc chân giò. Vừa thấy bóng tôi, hắn gọi to:

- Khang đấy phải không? Sao giờ mới tới, mình tưởng cậu không quay về đây nữa.

Mãi đến lúc ấy, tôi vẫn còn bồi hồi chưa yên vì nỗi kinh hoàng Lâm Bồ Lam vừa mới gieo vào lòng mình, vì vậy khi nghe lời hỏi thăm của Văn Đán, tôi thấy trong người ấm áp trở lại giữa cái thế giới quen thuộc thường ngày. tôi cất tiếng cười vang :

- Cả anh nữa, cũng hết việc rồi chứ?

- Xong đâu đấy cả rồi. Bây giờ lo bông của số tới. Cậu có tin gì hay không, làm cho mình một bài nhé!

- Mình vừa chớp được một câu chuyện. Ôi chà... hay quá đi mất, chỉ phải cái chưa viết ra được thôi.

Tôi ngáp vì mệt mõi nhưng sâu trong tâm trí vẫn còn phảng phất nỗi sợ hãi. Một nỗi hỏang sợ, cảm thấy giá buốt và u buồn nhưng dường như chính cái thế giới chưa ai biết đế ấy lại có sức quyến rũ lạ kỳ.

Buổi chiều tôi tiếp tục đọc bản bông. Tiếng là đọc song đầu óc tôi vẫn bị ám ảnh bởi lời nói của Lâm Bồ Lam. " Cô ấy nói thế nhằm ý gì nhỉ, liệu mọi việc có thật như thế không?" Và tôi sẽ phải nói gì đây, cứ xét theo lý lẽ thông thường thì tất cả những chuyện đó là phi lý, không thể nào có được. Nhưng cái lý thông thường đó liệu có thể cắt nghĩa được hết thảy mọi chuyện hay không?".

Giữa lúc ấy tôi chòang tỉnh khi nghe tiếng Văn Đán nhắc :

- Anh Khang, nghĩ gì mà bần thần ra thế, quên cả ăn cơ à?

Tôi gượng cười:

- Phải rồi, anh Văn Đán, theo anh thì liệu chiếc bóng có thể là một loài sinh vật hay không?

- Sao có thể như vậy được- Văn Đán bĩu môi - Mà nếu thật thế thì chiếc bóng ăn gì để sống nào?

- Cũng phải thôi- Tôi vẫn cười, vẻ gượng ép- cuối thế kỷ XIX, ở nước Anh từng có một nhà văn viết cuốn tiểu thuyết trào lộng nhan đề "Nước mặt phẳng". Ông vẽ nên một thế giới hai chiều, nơi có những con người chỉ là người mặt phẳng.

- Tất cả mọi thứ đều xuất xứ từ những ý nghĩ ba lăng nhăng mà nên- Văn Đán chỉ tay vào cỗ máy vi tính đặt bên cạnh tôi. - Giống như những chuyện đăng trên tạp chí của chúng mình ấy, chúng giống nhau hàng loạt.

Cứ cho rằng những suy tưởng loạn tùng bậy đó cũng có một phần giá trị nào đó trong nghệ thuật song dẫu sao cũng chỉ là sản phẩm của bộ não con người. Như bản thân tôi đây chẳng hạn, tôi làm sao biết được, rốt cuộc thì Lâm Bồ Lam là người thế nào, có chăng chỉ biết hiện giờ cô đã mang cái dáng dấp của một kẻ điên loạn. Mà những người viết bài trên mạng thì hoặc ít hoặc nhiều, điều có sẵn cái chất điên cuồng ở trong người rồi.

Ngày ngày chúng ta ngồi ém mình trong những chuyện điên loạn như thế, trách sao khỏi cũng hóa điên ít nhiều.

Văn Đán cười phởn ra mặt:

- Cái thế giới này vốn dĩ là điên cuồng, và trong con mắt của kẻ điên thì không điên mới đúng là điên, phải không nào?

Ai ngờ Văn Đán lại có thể đưa ra một chân lý làm tôi phải ngạc nhiên đến thế:

- Anh bạn làm tôi bị bất ngờ đấy, không ngờ anh hùng biện hay đến vậy, cứ là phải mở to mắt để nhìn anh mới xong.

- Thôi đi nào, cậu đâu phải là Lý Đĩnh, với tôi thì cậu nói hay mấy đi nữa cũng bằng thừa.

Tôi phì cười:

- Người ta là hoa thơm đã có chủ rồi, anh còn chờn vờn làm gì nữa?

Trò chuyện với Văn Đán, chẳng bao giờ phải giữ mẻ cả, hoặc ít hoặc nhiều, nó đều đem lại cho tôi cảm giác vui vẻ và dễ chịu, rằng thế giới này vẫn yên tĩnh. Vì hàng ngày tôi cứ đắm mình trong những chuyện ly kỳ rùng rợn, hay có dở có, nên tôi mới nghĩ rằng, không biết chừng mình cũng hơi bị điên. Và những người mình gặp, xem ra, hầu hết là những kẻ điên loạn.

(còn tiếp)Chương ba : Người lạ lúc nửa đêm (phần cuối)

------------------

Hết giờ làm việc, Văn Đán đến gần bên tôi hỏi:

- Hình như hôm nay cậu không phải làm thêm giờ?

- Ừ, nhưng cậu cần gì?

- Rét thế này, bọn mình đi nhậu lẫu nào, thêm chất cay, 50/50 được không?

Tôi vốn không thích rượu và cũng không mê đàn đúm; khốn nỗi hôm nay Ôn Kiến QUốc bị mất tích. lại thêm câu chuyện quái gỡ vừa nghe kể từ miệng của Lâm Bồ Lam làm tôi phát sốt , phát rét lên được. Tố nhất nên đến chỗ đông người nhộn nhạo, mù mịt khói thuốc và hơi rượu, họa may mới lấy lại được tinh thần. Nghĩ vậy tôi gật đầu:

- Được lắm, cứ đúng công thức 50/50 là xong hết.

Dân nhậu nhẹt quanh đây, phần nhiều là những gã độc thân làm trong nhà xuất bản. Họ ba hoa bốc phét và nốc bia như uống nước lã. Khi tan hội về tôi đã chuếch chóang say. Những ngày này không đế nỗi lạnh như hồi đầu đông, nhưng về đêm cũng giá rét chẳng kém. Vừa bước ra khỏi cửa hàng lẫu, gió từ bên ngoài đã thốc tới như những lưỡi dao khứa vào mặt tôi tê buốt.

Tửu lượng của tôi thuộc loại kém, chưa hết hai chai bia mà đã thấy nóng đầu, ù tai, chân bước loạng choạng. Đang dịp cuối năm, chẳng bói đâu ra một chiếc taxi, ngồi chờ ở đây thêm một lát nữa, chỉ e tiêu tán hết chút ít ngân lượng còn lại nhờ chầu rượu vừa rồi. Thế nên tôi cứ men theo lề đường mà đi, vừa đi vừa để ý nhìn sang bên đường, thấy xe thì gọi luôn.

Năm nay không đủ điện, mới chớm đông đã có chủ trương hạn chế dùng điện. Dãy phố nơi tôi đang đi thuộc khu vực bị hạn chế. Đèn đường chỉ thấp sáng được một bên phố và có nhiều cửa hàng ngay bên mặt đường phải đóng cửa. Cả đọan dài vằng tanh, vắng ngắt. Tôi thủng thẳng bước đi, hai tay đút túi áo, tự nhiên thấy buồn vơ vẫn.

Đi hết một phố vẫn chưa gặp được chiếc taxi nào. Dạo này tình hình trị an không ổn lắm, báo chí có đăng nhiều tin tức xung quanh nhiều vụ cướp taxi, phải chăng cũng vì thế mà các bác tài đâm hoảng? Tôi đưa tay lên bẻ lại cổ áo, che kín cổ cho đỡ rét mà gió lạnh vẫn lùa vào từng cơn buốt thơn thớt.

Đén đường chiếu ánh sáng mờ đục và chiếc bóng của tôi hắt xuống, lòa nhòa khơng rõ. Nó cử động theo tôi, lúc giăng dài ra, lúc thu ngắn lại, tựa hồ đang sống thật. Nó làm tôi nhớ lại câu chuyện có phần điên loạn của Lâm Bồ Lam mà giật mình, đó đã không còn là câu chuyện hoang đường khó tin nữa.

Đi đến đầu lối ngõ rồi mà tịnh không thấy bóng một chiếc taxi nào. Gần đấy có một cửa hàng tạp hóa còn mở cửa. Một ông lão thẩn thờ ngồi trông hàng phía trước một cây đèn hơi đang thắp sáng. Tôi đứng lại ngoài cửa, ghé miệnh hà hơi vào hai lòng bàn tay rồi mới nói:

- Tôi mua bao thuốc.

Ông lão, vẻ như không ngờ lại có một người như tôi xuất hiện ở cửa, nên tòan thân run rẩy khi nghe tôi nói. Lão ngẩng đầu lên, khuôn mặt nhăn nheo ấy đầy những đốm đồi mồi:

- Nhãn gì hở ông?

Tôi chỉ vào một bao, lão cầm lấy trao tay cho tôi:

- Dạo này ông lão có đắt hàng không ạ?

Đó là câu hỏi để gợi chuyện; trong cái đêm mùa đông lạnh lẽo với cảnh sắc kỳ dị và quái đản như nơi này mà được trao đổi một đôi lời với ai đó, đúng là có thể sởi ấm được lòng mình. Ông lão sẵng giọng trả lời:

- Hàng với họ gì, ngay cả ma quỉ cũng chẳng dám mò đến nữa là. Lão đành phải đóng cửa thôi.

Bị lão bóp chát thẳng thừng mà tôi không hề cụt hứng:

- Thời buổi này ai cũng khó cả, thưa lão.

Mua thuốc rồi tôi bước tiếp, vừa đi vừa đưa tay rút một điếu, châm lửa. Vừa rời tay châm lửa thì thình lình, như có một dòng điện chạy dọc theo người, tôi đứng sững tại chỗ.

Từ phía trước mặt, thỏang nghe như có tiếng bước chân vọng lại, khoan nhặt nhẹ nhàng nhưng rất chậm, dường như của một người chân đi giày đang tiến lại gần.

Đêm hôm khuya khắt thế này, ai còn ra phố làm gì nhỉ? hay là xúc cảm của tôi đã sai lạc rồi. Tôi nghi nghi hơặc hoặc nhìn về phí atrưốc, nhưng nỗi lo sợ tựa như một thứ dầu đen thấm vào tờ giấy, nó đã thấm đẫm toàn thân tôi từ lúc nào không biết. Các khớp xương trên người như khô cứng lại, tôi không còn làm chủ được bảnt hân mình nữa, chân cứ dấn bước về phía trước. Dường như bước chân kia bị nhiễm ma lực kì dị của nam châm. Rồi nó ru tôi vào cơn ác mộng- Toàn bộ cơ thể, chỉ trừ mỗi cái đầu, đều không chịu sự sai khiến của tôi nữa.

Tiếng bước chân mỗi lúc một gần hơn. Ai đó cất bước rất chậm và tiếng bước chân vọng lại, nghe thoang thóang, hệt như giọng nói mơ hồ, không rõ rệt của một ai đó, chỉ mỗi tiếng đưa chân chạm đất là như có thể trông thấy được. Đến nỗi tôi gần như đã kịp hòa nhịp, bước đều cùng người đó. Cảm giác này đến với tôi thật lạ lùng! rõ ràng mình biết hết tất cả và mọi vật hiện ra trước mắt y như cũ nhưng sao tôi cứ ngỡ là mình đang mơ. Mỗi khi tôi bước thêm một bước, nhất là lúc bàn chân chạm đất và khí lạnh của đất truyền qua đế giày thì dường như tôi cũng nghe thấy tiếng bước chân của người đó. Phải chăng đã có một sợi dây vô hình cột chặt tôi với hắn.

'' Đành phải dừng lại thôi...Mình đi nữa để làm gì nhỉ?"

Ngờ đâu, nỗi kinh hoàng cũng như một chất keo dính chắc, cho dù tôi đã cố hết sức để đứng lại bằng được nhưng rủi thay, đôi chân lại cứ bước đều đều, nhịp nhàng, từng bước một, chân sau tiếp nối chân trước, dẫu chậm chạp nhưng kiên quyết tiến về phía trước.

" Không chừng mình đang chiêm bao thấy một cơn ác mộng?" - Tôi nghĩ lung lắm, quên cả những ngón tay mình đã tê dại, mất hết cảm giác. Đúng lúc tôi tiến đến khúc rẽ ngoặt thì chỉ thiếu mươi bước nữa là đụng phải một người chạy bổ từ trong ngõ ra. Với vẻ tuyệt vọng, tôi đảo mắttrông về [hía trước , sao nó phảng phất giống như một tảng băng xốp trong suốt bị thân thể tôi lao vào phá vỡ, tạo ra một lỗ hổng lớn, không khí bốn chung quanh bị dồn nén ùa vào hình thành một cơn lốc xóay dữ dội.

Trời ơi... Ngón tay tôi đau buốt dữ dội như bị kim châm, kéo theo là cơn đau đang nhanh chóng lan truyền khắp cơ thể, cả trí não tôi cũng oằn oại, nhức nhối, chân bước lảo đảo, ngã vật vào tường.

Không dè đó chỉ là điếu thuốc cháy đến đầu ngón tay, cái bóng vì thế không lấy gì làm lớn so với nỗi kinh hoàng trong lòng tôi đang lan tỏa, mờ mịt như sương mù. Tôi ngoảnh đầu nhìn lại cửa hàng lúc nãy giờ đã lùi xa tít tắp cùng với ông lão đang khuân những tấm ván cửa lo đóng kín mặt tiền. "P61p...Pốp" Tiếng va đập của ván cửa âm vang, xuyên qua không gian làm người tôi tê dại đi như một khúc gỗ. Và ánh sáng trắng nhờ của cây đèn hơi cũng bị che khuất dần bởi những tấm ván cửa lần lượt được lắp kín đầy khung cửa.

"... Mình quay trở lại, có lẽ tốt hơn?" Nhưng biết ăn nói thế nào với ông lão, không chừng ông nghĩ mình là quân trộm cắp bất lương thìsao? Còn đi nữa thì xin chịu vì không thể biết được ai đang rình rập mình ở sâu trong ngõ kia?

Đang lúc ngập ngừng bỗng nghe đánh "phập" một tiếng và cả một bên đèn đường tắt ngấm. Trời tối đen mịt mùng, tôi tưởng mình bị một tàng đá lớn từ trên trời rơi xuống đè sập. Trong khoảnh khắc ấy, tôi trông thấy đôi bàn tay lơ lửng ló ra nơi đầu ngõ hẻm.

Biết đâu nó chỉ là cảm giác sai lạc? Mắt tôi vẫn chưa quen được với bóng tối vừa bất thần đổ xuống; trông về phía trước, không thấy gì hết ngoài những đốm trắng nhập nhòe lúc xa lúc gần... và tôi lại càng không thể tin là mình đã sai. Hai bàn tay ấy, năm ngón tay cong queo lấp ló chìa ra từ bên trong ngõ. Bởi rồi, giả thử tôi không bị bỏng nơi đầu ngón tay, dễ thường tôi đã kịp đặt chân tới đầu ngõ, và có thể hai bàn tay này đã chạm lên một bên vai tôi rồi.

- Ai đấy?

- Là ông đấy ư?

Tôi sửng sốt trước âm thanh đập vào tai tôi, lạ hoắc, khô khốc, lạnh lùng song giọng nói nghe quen như đã từng gặp ở đâu:

- Vậy ông là... - Tôi nói lúng búng trong miệng.

Tôi bỗng thấy sợ gặp người này. Nỗi sợ tự nhiên len lên từ trong lòng, hệt như trẻ con sợ rắn và rết vậy. Tôi sợ hãi vì không trông thấy hắn. Song nghe trong giọng nói của hắn thì dường như là hắn có biết tôi, thế nhưng tôi không thể nhận ra đó là tiếng nói của ai. Hắn hạ thấp giọng, khẽ cười, vẻ gượng ép như tiếng một hòn sỏi lăn, ráo hỏanh. Rồi cũng đột ngột như như lúc tiếng bước chân từ đâu dội lại, song lần này, âm thanh thóang nhẹ, nhỏ dần và mỗi lúc một xa hơn, có tiếng rung của một quả chuông nhỏ ngân dài và vọng xa, hồi lâu mới lắng xuống. Gắng gượng vượt lên nỗi sợ hãi, tôi len lén men theo vách tường, thò đầu ngó vào trong ngõ. Không có đèn đường, suốt dọc ngõ sâu chìm trong bóng đêm, chẳng khác nào một đường ống dài dặc, đen ngòm. Cảm giác dường như nó cũng có trọng lượng chèn nặng vào phía giữa. Và tôi chỉ kịp nhìn thấy, vút qua nơi đầu mút của khoảng tối, một chiếc bóng đen, không biết nó rẽ vào góc nào!

Là ai không biết? - Tôi thở sâu cho bớt sợ. Giá như mình rượt lên được, chưa biết chừng có thể đuổi kịp hắn...Vô tình tôi bước một bàn chân vào lối ngõ. Gan bàn chân mát lạnh rồi nhoi nhói như bị kim châm khiến tôi rụt chân về, quay trở lại nơi dưới ánh đèn đường ở bên ngoài. Nhờ đấy tôi thấy người ấm trở lại, vẫn biết rằng tự tôi đang đánh lừa chính bản thân mình.

Dưới đất lộ ra một vật gì đen đen, ban nãy tôi vừa giẫm phải nó. Một lần nữa tôi lại liếc mắt nhìn xéo vào trong ngõ, từ chỗ sáng đèn trông vào, ngõ sâu càng trở nên thâm u, đặc quánh. Tôi không dám nhìn thêm nữa và cúi xuống nhặt vật ở dưới chân mình, đưa ra trước mắt, tôi thảng thốt, bàng hoàng cả người. Đó là chiếc nhẫn đeo ở ngón tay cái, bằng đồng, trên mặt có những đốm loang lỗ là vết tích bị bào mòn. Bốn bề vắng tanh không một bóng người, tôi xòe hai bàn tay quờ quạng rờ tìm trong không khì cái mùi hôi tanh khó chịu. Khôngh phải mùi tanh của cá, cũng không phải mùi xú uế, rửa nát mà là mùi tanh tưởi như của gỉ sắt. Và giữa khỏang không trước mắt dường như vẫn còn lưu lại cái bóng thân hình của hắn, nó lạnh ngắt như một cơn ác mộng không bao giờ tỉnh thức được nữa.

Tôi rùng mình trong cơn giá lạnh ghê người. Khí rét đêm khuya như bệnh tật thấm sâu vào vào mọi vật xung quanh. Tôi không còn lấy đâu ra hơi sức để chống đỡ với sự rét buốt, và nỗi kinh hoàng dường như không bao giờ tan biến khỏi chốn này. Cứ thế, tôi lao mình về phía trước. Sau mươi bước chân đến được đầu ngõ, lúc ấy tôi mới đi chậm, ngoài cổ trông lại khúc đường rẽ ngoặt tưởng chừng nó là một cửa hoang của lòai dã thú ngày nằm phục, đêm mò ra tìm mồi. Quanh quất nơi đây chỉ có khí lạnh âm u khiến tôi không còn muốn nấn ná thêm nữa. Đút chiếc nhẫn đeo ngón tay cái vào túi áo, tôi bước tiếp.

Một đường phố chạy ngang ngay phía trước mặt. Khác với dãy phố bị hạn chế dùng điện vừa rồi, đường phố này sàng trưngvà có sự ấm áp của hơi người. Sau khi đặt chân lên đường phố, tôi khom người, hai tay đặt lên đầu gối, thở bằng miệng từng hơi dài một.

Đi trên đường, cái mùi nồng nặc của mồ hôi người mà chỉ những lúc đêm về khuya mới cảm nhận rõ, dường như muốn báo cho tôi biết, xung quanh đây đều là những con người giống như tôi. Ngoảnh mặt về phía sau nhìn lại quãng đường vừa đi qua, tôi thấy ngôi làng ấy vẫn thấp thoáng ánh điện nhưng vì xuyên qua một lớp kính mờ nên trông không rõ. Còn cả dãy phố thì tối om như bị ma ám.

Tôi bước lên một chiếc taxi đã chật cứng người, không ai muốn nhường nhịn ai hết. Vậy mà trong cái không gian nhỏ hẹp này, tôi lại thấy nó yên ổn hơn không biết bao nhiêu lần so với nơi đường phố rộng thênh thang ngoaì kia.

- Ông đi đâu đấy?

Thấy tôi vẫn nín thinh suốt từ lúc lên xe tới giờ, ông tài tỏ vẻ sốt ruột, biết đâu ông còn nghi ngại liệu tôi có phải là một tên cướp đường hay không? Sau khi tôi cho biết địa chỉ, người lái bật sáng đèn ngầm và cho xe chạy tiếp. Về đêm, ít xe cộ qua lại nên ông chạy với tốc độ nhanh. Đoạn đường kia, thoáng cái đã bị bỏ lại phía sau. Tôi ngồi dựa lưng trên ghế, bỗng nhiên thấy ươn ướt hai khóe mắt.

Dĩ nhiên đây không phải nước mắt xúc động mà là nước mắt sợ hãi.

" Con người ấy, rốt cuộc hắn là ai"

Tôi cứ nghĩ hoài. Bất chợt, một ý nghĩ vụt thoáng qua qua đầu, tựa như tia sáng của sao đổi ngôi.

- Là ông ấy rồi? - Tôi hét lên.

" Chát", tiếng xe rít phanh đứng lại. Tôi mất thăng bằng, suýt nữa bị hắt ra ngoài cửa xe, hai tay bám vội vào thành ghế. Ông lái nhìn tôi trừng trừng, ánh mắt lộ vẻ nghi hoặc:

- Ông vừa trông thấy ai thế?

- Khôing sao hết, tôi đãng trí đấy thôi. - Tôi cười vẻ gượng gạo.

- Không việc gì thì đừng làm ồn lên nữa. - Ông tài gắt gỏng nhắc nhở - Đêm hôm khuya khoắt thế này mà ông còn làm người ta hết hồn.

- Tôi xin lỗi. - Đang lúc ngồi trên xe chẳng biết làm gì hơn ngoài câu xin lỗi suông nhưng tôi vẫn cố vớt vát - Sau này tôi không thế nữa.

( Hết chương ba)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro