d4

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

M

I. Dàn ý Phân tích 12 câu trong đoạn 3 bài thơ Việt Bắc ngắn gọn
1. Dàn ý Phân tích 12 câu trong đoạn 3 bài thơ Việt Bắc - mẫu số 1:
1.1. Mở bài
- Giới thiệu về 12 câu thơ trong bài thơ Việt Bắc

1.2. Thân bài
a. Phân tích 4 câu đầu đoạn
- Tiếng "mình" cất lên thật gần gũi, thân thuộc → tình cảm thắm thiết, thân tình
- Những câu hỏi vừa như trách móc lại vừa như lo lắng, bùi ngùi: mưa nguồn suối lũ; mây cùng mù; miếng cơm chấm muối; mối thù chung
- Nhịp thơ 2/4; 2/2/4 đều đặn lại càng thể hiện được sự thiết tha trong lòng người ở lại

b. Phân tích 6 câu tiếp
- Lối xưng hô "mình", "ta" độc đáo, chỉ hai mà một, đó là hình ảnh những người cách mạng đã về xuôi.
- "Rừng núi" là cách nói hoán dụ để chỉ những người dân nơi chiến khu Việt Bắc.
- Người cách mạng ra đi không chỉ để lại nỗi nhớ nhung trong lòng người ở lại mà cảnh vật cũng nhuốm màu buồn bã, quyến luyến: trám bùi rụng; măng mai già.
- Tình cảm của nhân dân Việt Bắc luôn "đậm đà lòng son"
=> Nhân dân Việt Bắc thì vẫn luôn thắm thiết một mối tình son sắt với cách mạng, với cán bộ miền xa.

c. Phân tích 2 câu cuối đoạn
- 3 tiếng " mình" trong hai câu thơ chỉ người ở lại và kẻ ra đi
- Sự hài hoà, thấu hiểu nhau của nhân dân với cách mạng
- Nhắn nhủ về cách sống thủy chung với quá khứ khi gợi nhắc những địa điểm đánh dấu bước ngoặt cách mạng: Tân Trào, Hồng Thái

1.3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của đoạn trích và tài năng của tác giả.

2. Dàn ý Phân tích 12 câu trong đoạn 3 bài thơ Việt Bắc - mẫu số 2:
2.1. Mở bài:

- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Khái quát về nội dung 12 câu trong đoạn 3 bài thơ Việt Bắc.

2.2 Thân bài:
a) Khái quát chung:
- Hoàn cảnh sáng tác:
+ Tháng 10 - 1954, cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ chuyển từ Việt Bắc về thủ đô hoa vàng. Cuộc chia tay đầy xúc động, bồi hồi đó đã khiến Tố Hữu xúc động viết bài thơ.
+ Chủ đề: Bài thơ là vừa ngợi ca cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc vừa ngợi ca nghĩa tình cách mạng son sắc thủy chung.
b) Phân tích 12 câu trong đoạn 3:
- "Mình đi có nhớ những ngày": Câu hỏi tu từ vang lên như lời nhắc người ra đi có nhớ về những kỉ niệm nơi đây không.
- "Mưa nguồn suối lũ", "mây cùng mù": Sự khắc nghiệt, hoang sơ của thời tiết nơi đây.
- "Nhớ chiến khu": Nơi mà người lính cùng chiến đấu.
- "Miếng cơm chấm muối": Cuộc sống khó khăn, gian khổ.
- "Mối thù nặng vai": Mối thù với kẻ thù, với giặc Pháp.
- Biện pháp tu từ nhân hóa "Rừng núi nhớ ai": Thiên nhiên như hòa vào cùng nỗi nhớ.
- "Trám bùi để rụng, măng mai để già": Trám, măng là những món ăn quen thuộc trong kháng chiến.
- Sự đối lập giữa: "Hắt hiu lau xám" và "đậm đà lòng son" làm nổi bật tình người thắm thiết.
- "Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh": Cuộc kháng chiến gian khổ nhưng hào hùng.
- " Mình đi, mình có nhớ mình": Mình đi có nhớ chính mình của ngày trước thủy chung, son sắc.
- Biện pháp tu từ liệt kê "Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa": Các địa điểm mà người lính đã từng đi qua.
2.3. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của đoạn thơ:
+ Giá trị nội dung: Lời nhắn nhủ thiết tha, ân tình của người ở lại.
+ Giá trị nghệ thuật: Biện pháp nghệ thuật điệp cấu trúc, liệt kê, nhân hóa.

II. Bài văn mẫu Phân tích 12 câu trong đoạn 3 bài thơ Việt Bắc hay nhất

1. Phân tích 12 câu trong đoạn 3 bài thơ Việt Bắc ngắn nhất, mẫu số 1 (Chuẩn):
Tố Hữu là một nhà thơ lớn của dân tộc, cuộc đời ông gắn bó với cách mạng, thơ văn ông gắn bó với những sự kiện lịch sử hào hùng của kháng chiến. Bởi thế mà khi nhắc đến Tố Hữu người ta thường nghĩ về một nhà thơ yêu nước, giàu nhiệt huyết và lý tưởng. Điểm độc đáo trong thơ Tố Hữu là thơ ông mang phong cách trữ tình, chính trị.

Bài thơ Việt Bắc là một trong những thành công lớn trong sự nghiệp thơ văn yêu nước của Tố Hữu. Tác phẩm được ra đời vào năm 1954, sau ngày miền Bắc giải phóng, hoà bình lập lại, nhà thơ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ trở về miền xuôi, tạm biệt nơi đại ngàn rừng núi. Với thể thơ dân tộc cùng lối viết nhẹ nhàng mà da diết ân tình, Việt Bắc như một khúc tâm tình đầy thương nhớ của người cách mạng với con người và núi rừng Việt Bắc. Những tình cảm thấy thiết mà nhân dân dành cho cán bộ, của cán bộ dành cho nhân dân như hoà quyện vào từng lời thơ. 12 câu thơ đầu của khổ 3 tác phẩm đã thể hiện sâu sắc nhất yêu thương ấy.

" Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ,những mây cùng mưa
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai"

Lối xưng hô " mình- ta " thường được dùng nhiều trong ca dao, dân ca Việt để thể hiện sự thắm thiết trong tình cảm của con người. Ở đây, tác giả cũng đã vận dụng lối xưng hô ấy vào bài thơ tạo sức gần gũi, ân tình của người đi, kẻ ở. Tiếng "mình" cất lên là chứa chan sự yêu thương trong đó, thật quen thuộc, thật gần gũi biết bao. Những câu hỏi vờ như có chút trách móc lại vô cùng ngọt ngào pha chút phân vân, lo lắng của lứa đôi: Không biết mình đi rồi có còn nhớ những ngày xưa? Mình có nhớ chăng những ngày cùng nhân dân trải qua vất vả, khắc nghiệt của thời tiết, thiên nhiên để chiến đấu? Mình có nhớ nơi chiến khu yêu dấu vẫn còn đó bóng dáng con người nơi đây đợi chờ, quyến luyến hay những bữa cơm chấm muối cùng nhau trong gian khó?

Nhịp thơ 2/4; 2/2/4 nhịp nhàng, đều đặn lại càng thể hiện được sự thiết tha trong lòng người ở lại. Nỗi nhớ thương người cách mạng càng đong đầy thì những kỉ niệm của buổi năm xưa càng trào dâng xúc động, bằng biện pháp liệt kê quen thuộc trong nghệ thuật, tác giả đã gợi lại những câu chuyện hành quân cùng nhân dân Việt Bắc. Đó là nơi tiền tuyến mây mù, suối lũ, đầy rẫy những thách thức, hiểm nguy dân cùng người chiến đấu, chẳng hề sợ hãi, chùn chân. Đó là những bữa cơm nghèo san sẻ cho nhau miếng cơm chấm muối đầy ấm áp. Đó là mối thù chung của nhân dân và cán bộ, là mối thù chung của dân tộc khi lũ giặc xâm lăng tàn nhẫn đến đáng sợ. Gánh nặng chung trên vai là gánh nặng quân thù, cách mạng cùng nhân dân hòa trong tinh thần chung, dũng cảm bước vào cuộc chiến đấu để giết giặc, cứu nước.

Trong từng tiếng thơ, ta không thấy sự than vãn hay mệt mỏi trước khó khăn vất vả mà trái lại ta cảm nhận được cảm xúc tự hào của người ở lại. Họ tự hào vì những tháng ngày anh dũng chiến chiến, về những hành trình vượt khó, mình và ta cùng sát cánh, cùng đồng hành bên nhau đánh tan quân thù, giành lại hoà bình, tự do cho dân tộc.
Sau khi gợi lại những kỉ niệm ngày nào, nhân dân tiếp tục bày tỏ những tình cảm chân thành, nỗi lưu luyến với người đi:

"Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già"

Lối xưng hô "mình", "ai" thật độc đáo, chỉ hai mà một, đó là hình ảnh những người cách mạng đã về xuôi. " Rừng núi" là cách nói hoán dụ để chỉ những người dân nơi chiến khu Việt Bắc. Các cán bộ đã trở về nơi thủ đô của phồn hoa gió mát, còn nhớ chăng chốn núi rừng đại ngàn nắng gió không? Những với người ở lại vẫn sắt son nỗi "nhớ" thiết tha, nỗi nhớ tận sâu trong lòng, thấm trong từng cảnh vật nơi đây: rừng núi, trám bùi, măng mai...Cảm xúc buồn bã vì phải chia xa mà nhân dân dành cho chiến sĩ thật chân thành, thắm thiết, đầy xúc động.

Nỗi nhớ càng trào dâng khi nghĩ về người đi, nhân dân không thể nào nguôi nỗi lo sợ rằng ai đó sẽ lãng quên đi "người ở lại" mà cất tiếng hỏi han:

"Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh."

Tác giả chọn hình ảnh lau xám hắt hiu như một đặc trưng riêng của thiên nhiên Việt Bắc để hỏi về tình cảm mà người cách mạng dành cho họ. Người ra đi có còn nhớ chăng những ngôi nhà thấp thoáng sau rặng lau, thấp thoáng giữa núi rừng hùng vĩ. Người ra đi có nhớ chăng những tình cảm ấm áp, đậm đà của người ở lại ? Còn với riêng nhân dân Việt Bắc thì vẫn luôn thắm thiết một mối tình son sắt với cách mạng, với cán bộ miền xa.

Đoạn thơ kết thúc bằng việc gợi lại những sự kiện lịch sử đáng tự hào của cán bộ và nhân dân:

"Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa."

Hai câu thơ có 14 tiếng thôi nhưng "mình" chiếm đến 3 tiếng đã cho thấy được sự hoà quyện giữa nhân dân với cán bộ. Dường như không còn là sự phân biệt rạch ròi "mình", "ta" nữa mà là sự thấu hiểu, hài hoà vào nhau. Mình- người đi, mình- người ở lại, có còn nhớ chăng những nơi đã cùng nhau chiến đấu, còn nhớ chăng những địa danh nơi diễn ra những bước ngoặt kháng chiến của cách mạng như "Tân Trào"; "Hồng Thái" không ? Đó là câu hỏi nhưng cũng hàm chứa một lời nhắc nhở ân tình rằng đừng bao giờ lãng quên đi quá khứ nghĩa tình, những tình cảm thủy chung đã từng gắn bó. Đừng bao giờ quên nhắc nhở những hy sinh, mất mát đã trải qua để sống có trách nhiệm với hôm nay, không được ngủ quên trên chiến thắng, phải tập trung cảnh giác, vừa bảo vệ đất nước vừa dựng xây đời. Đừng bao giờ phản bội quá khứ hào hùng của lịch sử chúng ta.

Sau rất nhiều câu hỏi của người ở lại, những người ra đi trả lời liền mạch qua bảy mươi dòng thơ như những cảm xúc bị dồn nén, chất chứa ở trong lòng nay tuôn trào và cuộn chảy. Người ra đi đã khẳng định tình cảm thủy chung, bền vững với search Việt Bắc:

"Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu."

Đại từ "mình", "ta" được sắp xếp thành "ta - mình", "mình - ta" tạo cảm giác gắn bó, hòa quyện, khăng khít thể hiện tình cảm trọn vẹn trước sau như một. "Đinh ninh" là sự khẳng định chắc chắn và sẽ mãi thủy chung với mảnh đất và con người search Việt Bắc.

Nếu người ở lại đã từng băn khoăn tự hỏi "mình đi mình có nhớ mình", thì người ra đi đã hồi đáp như lời khẳng định son sắt "Mình đi mình lại nhớ mình". Từ "mình" thứ ba để chỉ cả người ở lại cả người ra đi. Những người ra đi không thể nào quên được search Việt Bắc, quê hương của Cách mạng cũng là nơi từng gắn bó sâu nặng.

bài thơ Việt Bắc kết tinh và hội tụ khá đầy đủ những nét phong cách lớn của thơ Tố Hữu trên hành trình của thơ ca cách mạng. Phong cách nghệ thuật của bài thơ được thể hiện trên cả phương diện nội dung thể hiện và nghệ thuật biểu hiện, in đậm dấu ấn riêng của một điểm nhìn nghẹ tuật trong cảm hứng sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu so với các nhà thơ cùng thời, tạo ra một tiếng nói mới mẻ và làm phong phú thêm thơ ca cách mạng, thơ ca dân tộc.Nói đến phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu trong bài thơ Việt Bắc, cùng còn phải nói đến một tiếng thơ đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và nghệ thuật biểu hiện. đây là sự kế tục xuất sắc truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ ca cổ điển của thơ Tố Hữu.

Tóm lại, "Việt Bắc" đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và kháng chiến. Đoạn thơ nói riêng, bài thơ "Việt Bắc" nói chung, đúng là một bản tình ca ca ngợi đất nước và tình cảm cách mạng cao đẹp của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro