văn

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

    VỘI VÀNG
_XUÂN DIỆU_
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
a. Cuộc đời (1916 – 1985) - sgk
- Tên thật: Ngô Xuân Diệu
- Bút danh: Trảo Nha
- Quê nội ở Hà Tĩnh, lớn lên ở quê mẹ (Bình Định – Quy Nhơn)
- Tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư, làm viên chức ở Mĩ Tho. Sau đó, ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn.
- Là thành viên của tổ chức Tự lực văn đoàn.
- CMT8 thành công, ông gắn bó và hăng hái tham gia các hoạt động cách mạng và nền văn học cách mạng. Ông từng là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khoá I, II, III; Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hoà dân chủ Đức.
- Năm 1996, được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
b. Con người
- Có đức tính cần cù, kiên nhẫn trong học tập, rèn luyện tài năng và lao động nghệ thuật. Ở Xuân Diệu, học tập, rèn luyện và lao động sáng tạo vừa là một quyết tâm khắc khổ, vừa là một lẽ sống, một niềm say mê lớn.
- Có hồn thơ nồng nàn, sôi nổi, luôn khao khát tình thương và sự cảm thông của người đời.
- Ở Xuân Diệu, có sự kết hợp hai yếu tố cổ điển và hiện đại, Đông và Tây trong tư tưởng và tình cảm thẩm mĩ, Tây học có ảnh hưởng sâu đậm hơn.
c. Sự nghiệp văn học
- Phong cách nghệ thuật:
+ Nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) đã đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo.
+ Nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với tâm hồn khát sống, khát yêu đến cuồng nhiệt cùng một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết.
+ Nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian.
+ Từ sau Cách mạng, thơ Xuân Diệu bắt nhịp và hòa nhập ngay với cuộc sống rộng lớn, sôi động đồng thời tìm cách thể hiện mới.
- Tác phẩm tiêu biểu: sgk
+ Thơ: Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945)
+ Văn xuôi: Phấn thông vàng (1939), Trường ca (1945)
+ Tập tiểu luận phê bình: Những bước đường tư tưởng (1958), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (hai tập; 1981 & 1982).
2. Tác phẩm
a. Tập “Thơ thơ”
- Tập thơ đầu tay của Xuân Diệu. Đó là tiếng thơ dào dạt của tâm hồn trẻ:
+ Luôn thèm yêu, khát sống, say đắm cuộc đời, quyến luyến cảnh sắc trần gian.
+ Thể hiện một quan niệm sống mới mẻ, tích cực; tràn đầy những cảm nhận tinh vi về sự lạnh lùng của thời gian và sự cô đơn giữa dòng đời.
+ Tập thơ vừa cách tân vừa kế thừa, vừa khoác lên mình bộ “y phục tối tân” vừa nhuần nhị bản sắc truyền thống Đông phương.
b. Bài thơ “Vội vàng”
- In trong tập Thơ thơ, xuất bản năm 1938.
- Một trong những bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi trong Thơ mới nói chung và thơ Xuân Diệu nói riêng.
- Vội vàng thể hiện thái độ và cách ứng xử với cuộc đời. Bài thơ thể hiện một tình yêu cuộc sống tha thiết, qua đó thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống.
- Bài thơ in dấu khá đậm hồn thơ Xuân Diệu:
+ “một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn non nước lặng lẽ này…say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình” – Hoài Thanh, Hoài Chân
+ Tiêu biểu cho sự cách tân táo bạo, độc đáo trong nghệ thuật thể hiện.
- Thể loại: thơ tự do (kết hợp thơ ngũ ngôn và thơ mới 8 tiếng)
- Bố cục
+ Đoạn 1: 13 câu đầu: Niềm say đắm trước vẻ đẹp của cuộc đời trần thế.
+ Đoạn 2: 14-29: Cảm nhận tinh vi cùng sự băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người trước sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian (Nỗi lo âu về sự chảy trôi của thời gian).
+ Đoạn 3: 30-hết: Lời giục giã cuống quýt, vội vàng để tận hưởng những giây phút tuổi xuân (Thái độ sống sôi nổi, khát vọng cuồng nhiệt của tác giả đối với cuộc sống).
II. Đọc – hiểu văn bản
1. Niềm say đắm trước vẻ đẹp của cuộc đời trần thế (13 câu đầu)
* Ước muốn kì lạ, táo bạo đến mức phi lí (4 câu đầu)
                                                       
- Thể thơ ngũ ngôn, nhịp thơ ngắn (2/3) dồn dập, gấp gáp thể hiện cô nén, hàm xúc nhất ước muốn táo bạo của thi sĩ.
- Điệp ngữ “tôi muốn”, điệp cấu trúc “tôi muốn…cho…” vang lên như một mệnh lệnh, gây ấn tượng mạnh đồng thời tạo sắc thái thiết tha cho ước muốn.
+ Cách xưng hô “tôi” là một điểm nhấn quan trọng, khẳng định cái tôi cá nhân táo bạo thể hiện qua khát vọng kì lạ đến ngông cuồngMột đặc trưng của tinh thần Thơ mới.
Muốn           tắt nắng
                   buộc gió
+ “Nắng”, “gió”: thiên nhiên vĩnh hằng, không thể cầm giữ, níu kéo.
+ “Hương”, “sắc”: tinh hoa của trời đất nhưng lại chóng phai tàn.
+ Động từ mạnh “tắt”, “buộc” mang ý nghĩa tiêu cực nhưng lại tỏ ra đắc dụng trong việc thể hiện ước muốn lạ lùng, táo bạo của của “cái tôi” chủ quan >< quy luật của tự nhiênÝ thức muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên, toan đoạt quyền của tạo hóa để chặn đứng, chế ngự bước đi của thời gian.
- Điệp từ “cho”, “đừng” mang đến sắc thái van nài, khẩn khoản, cho thấy tận cùng ước muốn ngông cuồng, táo bạo là một nguyên cớ rất nhân văn: muốn níu giữ lại vẻ đẹp những “màu”, những “hương” của cuộc đời, muốn nâng niu, trân trọng, gìn giữ những vẻ đẹp đó trong lòng.
- Thi sĩ không chỉ phát hiện cái đẹp mà còn muốn giành giật, giữ gìn, vĩnh cửu hóa cái đẹp đến muôn đờiƯớc muốn tưởng chừng vô lí, bồng bột nhưng lại rất chân thật, xuất phát từ một trái tim yêu cuộc sống đến mê say, rạo rực khát khao giao cảm với đờiĐây là tiếng nói của một cái tôi khỏe khoắn, bạo liệt, kiêu hãnh mới dám ước muốn mãnh liệt, lạ lùng như thế.
 Bốn câu thơ ngũ ngôn ngắn gọn, giàu nhịp điệu đã khẳng định cá tính độc đáo của tác giả và như một khúc nhạc dạo đầu để Xuân Diệu mở ra một bức tranh thiên nhiên nơi trần thế ngập tràn xuân sắc.
* Cội nguồn của ước muốn lưu giữ sắc hương
- Câu thơ được kéo dài thành 8 chữkhung cảnh dường như mở rộng ra, giọng thơ kéo dài, tha thiết hơn.
- Từ “của” mở đầu câu thơ thứ 5 và liên tiếp lặp lại đã tạo sự kết nối giữa 2 đoạn thơ, giúp người đọc hiểu rõ hơn “hương” và “màu” mà nhà thơ khát khao níu giữ chính là vẻ đẹp say lòng của vạn vật trong độ xuân thì.
- Điệp ngữ “này đây” (xuất hiện 5 lần) kết hợp với lối liệt kê:
+ Khiến nhịp thơ trở nên dồn dập, tạo nhịp điệu thúc giục vội vàng, gợi cảm xúc chủ quan của nhân vật trữ tình: cảm giác hân hoan, sung sướng như reo lên của thi nhân.
+ Gợi sự giàu có, phong phú đến mức tràn trề, tuyệt vời, say đắm của hương sắc cuộc đời.
+ Thể hiện cảm quan về cuộc sống của XD: hạnh phúc là có thật, hiện hữu ngay trước mắt ta, ngay tại trần thế chứ không phải ở một nơi xa xăm nào khác.
- Bức tranh thiên nhiên ở đây không chỉ diễn ra trong mùa đẹp nhất của năm (mùa xuân) mà còn vào tháng đẹp nhất của mùa (tháng Giêng).
- Thiên nhiên, vạn vật được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng như một thiên đường trên mặt đất, một bữa tiệc lớn của trần gian ngập tràn xuân sắc, xuân tình với thực đơn vô cùng quyến rũ:
+ Thị giác: ong bướm, hoa đồng nội – xanh rì, lá cành tơ phơ phất,…
+ Thính giác: yến anh – khúc tình si
+ Vị giác: ngon – cặp môi gần
+ Xúc giác: thần Vui – gõ cửa
+ Cảnh vật hiện lên đều có đôi, có cặp: tuần trăng mật của ong bướm; hoa của đồng nội; lá của cành tơ; khúc tình si của yến anh; bình minh của mỗi buổi sáng.
Bức tranh thiên nhiên hiện ra vừa tràn ngập âm thanh, ánh sáng, thắm sắc, đượm hương vừa non tơ, tình tứ, ngọt ngào như mời gọi, thúc giục, như đang chờ đợi sẵn để dâng tặng con ngườiVới các hình ảnh đó, Xuân Diệu đã dẫn người đọc vào một khu vườn mùa xuân không chỉ chan chứa xuân sắc mà còn phơi phới xuân tình
Biểu tượng cho vẻ đẹp cuộc sống trần thế ở thời tươi.
- Xưa nay thiên nhiên là chuẩn mực để các thi sĩ so sánh với vẻ đẹp con người. Xuân Diệu lại lấy con người làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của thiên nhiên.
“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”
+ Miêu tả ánh thái dương buổi sớm mai gắn với hàng mi thiếu nữ. Sau cái chớp mắt duyên dáng ấy, ánh sáng tỏa ra muôn nơi, đem đến sự sống, đem đến niềm yêu say đắm cho khắp thế gian.
“Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa”
+ Mỗi ngày mới là một ngày vui, chữ “Vui” viết hoa diễn tả niềm yêu đã biến thành niềm vui. Đó là niềm vui chào đón ngày mới, cuộc đời mới lại đến.
+ “gõ cửa”: từ độc đáo diễn tả sự hối hả, hồi hộp của con người với cái rực rỡ ngoài kia.
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
+ “Tháng giêng”- hoán dụ chỉ mùa xuân: khái niệm trừu tượng, vô hình thuộc về thời gian + “môi gần”: hữu hình, mang tính nhục cảmVật chất hoá khái niệm thời gian bằng vị giácso sánh độc đáo thể hiện cái nhìn mới mẻ, trẻ trung và táo bạo của thi nhân.
+ “ngon”: ẩn dụ chuyển đổi cảm giáchương sắc mùa xuân mà tác giả cảm nhận được. Mùa xuân quyến rũ như đôi môi giai nhân tươi trẻ, hồng hào, căng mọngThưởng thức vẻ đẹp tuyệt vời của mùa xuân như thưởng thức hương vị của ái tìnhKhái quát cao cảnh sắc xuân tình nồng nàn, chan chứa sức sống như nụ hôn tình yêu cháy bỏng.
Thiên nhiên như người tình xinh đẹp, quyến rũ.
Yêu đời mà như muốn ái ân, tình tự với cuộc đời.
Cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của một thi nhân; cái nhìn luyến ái, say đắm của một tình nhân.
- Niềm vui đang trào dâng bỗng phảng phất nỗi buồn, nuối tiếc.
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nữa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
- Câu thơ bị ngắt làm đôi bởi dấu chấm giữa dòng và từ “nhưng” thể hiện sự đứt gãy tâm trạng đột ngột của thi sĩ, khiến nhịp thơ đang rộn ràng bỗng chùng xuống, bộc lộ một tâm trạng đầy mâu thuẫn nhưng thống nhất: “sung sướng” >< “vội vàng”
Niềm vui không trọn vẹn: “sung sướng” (cuộc đời đẹp) - “sung sướng” (sợ màu nhạt, hương bay).
+ Cấu trúc đối lập: “không…mới” Thái độ sống vội vàng, đón trước thời gian.
Xuân Diệu hoài xuân, tiếc xuân, nhớ xuân ngay khi mùa xuân chỉ vừa mới bắt đầu. Điều này bắt nguồn từ quan niệm nhân sinh mang tính triết lí “tất cả sẽ qua đi, tất cả sẽ lụi tàn”
- Dấu câu: tác giả sử dụng nhiều dấu (;) và dấu (.) . Khi gắn cảm xúc với các dấu câu này ta cảm nhận bức tranh cuộc sống giàu có và phong phú, liệt kê bao nhiêu cũng chưa đủ. Đặc biệt, dấu chấm rơi giữa dòng thơ như đồng hiện hai cảm xúc sung sướng, ngất ngây và giật mình, lo lắng.
Cuộc sống tươi đẹp đang biến chuyển từng giây theo quy luật phai tàn, chính vì thế phải nắm bắt kịp thời gian và tận hưởng trọn vẹn hạnh phúc, tuổi trẻ, tình yêu. Biết thụ hưởng chính đáng và sống hết mình là một quan niệm mới, tích cực và thấm đượm tinh thần nhân văn sâu sắc của Xuân DiệuTư duy biện chứng của một triết nhân.
Cảm nhận tổng thể bức tranh thiên nhiên giàu sự sống, phong phú, đầy mê đắm và cái tôi trữ tình vừa ngất ngây trước thiên đường cuộc sống nơi trần thế vừa thảng thốt, lo lắng.
2. Cảm nhận tinh vi cùng nỗi lo âu về sự ngắn ngủi của kiếp người trước sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian (Từ Xuân đương tới đến …chẳng bao giờ nữa)
*Ý niệm mới mẻ về sự vận động của thời gian:
XUÂN
(thiên nhiên, tuổi trẻ, đời người)
Đương tới                                       Đương qua
NGHĨA LÀ
Còn non                                          Sẽ già
MÀ…NGHĨA LÀ…
Xuân hết                                         Tôi cũng mất
QUAN NIỆM CŨ XUÂN DIỆU
-Thời gian thiên nhiên vũ trụ bất biến, tuần hoàn.
-Xuân đi rồi sẽ quay lại.
Xuất phát từ cái nhìn tĩnh tại, lấy sinh mệnh vũ trụ làm thước đo thời gian. -Thời gian tuyến tính, xuôi chiều, hữu hạn, không thể quay đầu, một đi không trở lại.
-Mỗi khoảnh khoắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn.
Xuất phát từ cái nhìn động, biện chứng, lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian.
- Sử dụng từ “đương” và cặp tính từ tương phản “non” - “già” để cực tả sự trôi chảy mãnh liệt, không ngừng của thời gian ở từng động thái nhỏ nhất.
- Điệp từ “xuân” lặp lại 5 lần và điệp cấu trúc “Xuân ...nghĩa là...”:
+ Tạo nên nhịp chảy, nhịp trôi gấp gáp diễn tả những bước đi vun vút, hối hả của thời gian.
+ Tạo câu khẳng định, cắt nghĩa liên tục, để tìm ra bản chất, qui luật của mùa xuân và tuổi trẻ.
+ Ẩn đằng sau đó còn là sự lo lắng, hốt hoảng trước từng giây phút đang trôi qua, đang mất đi mãi mãi.
- Xuân hết – tôi mấtTuổi trẻ không còn, lo sợ, u hoài, hờn tủi vì tuổi xuân đang ra đi, không trở lại.
- Vũ trụ có vĩnh viễn, thời gian có tuần hoàn, nhưng đất trời, thời gian luôn đối kháng với tuổi trẻ:
Con người >< Thiên nhiên
Lòng tôi rộng
tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Chẳng còn tôi mãi lượng trời cứ chật
Xuân vẫn tuần hoàn
Còn trời đất
+ Lấy quỹ thời gian hữu hạn của đời người, cái quý giá nhất của mỗi cá nhân là tuổi trẻ để làm thước đo thời gian. Mỗi phút giây trôi qua là tuổi trẻ đang mất dầncảm nhận sâu sắc, thấm thía.
+ Giọng thơ vừa tranh luận, phản bác để bảo vệ quan điểm của mình: dẫu vũ trụ có thể vĩnh viễn, thời gian có thể tuần hoàn nhưng “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, vừa pha lẫn sự ai oán, tiếc nuối khôn nguôi bởi cuộc sống thì tươi đẹp nhưng đời người lại ngắn ngủi, hữu hạn “không cho dài thời trẻ của nhân gian”chất triết lí, suy tư, chiêm nghiệm.
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng, tôi tiếc cả đất trời
- Ý thức sâu sắc của cái tôi cá nhân trước sự bao la, vô tận của vũ trụ và sự bất tử của thời gian.
- Nghệ thuật tương phản “còn – chẳng còn”, từ láy “bâng khuâng” cụm từ “tiếc cả đất trời”thể hiện một cách chân thật nỗi niềm ngậm ngùi, cảm xúc lưu luyến tuổi trẻ, mùa xuân, cuộc đời.
* Cách cảm nhận tinh vi về thời gian và không gian:
Mùi tháng năm….rớm vị chia phôi
Khắp sông núi …than thầm tiễn biệt
Con gió xinh…hờn… bay đi
Chim rộn ràng….đứt tiếng…sợ…phai tàn
- Cảm nhận thời gian bằng mọi giác quan:
+ “Tháng năm” hình ảnh hoán dụ cho thời gian
Cảm nhận bằng khứu giác: thời gian có “mùi” li biệt.
Cảm nhận bằng thị giác “rớm” - thời gian kết đọng thành giọt lệ chia livị giác: mang “vị” chia phôi và vị mặn chát của nước mắtgiọt lệ chia phôi – biểu tượng của sự chia li vĩnh viễnMỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia lìa.
+ Cảm nhận bằng thính giác: “sông núi than thầm tiễn biệt”, “con gió thì thào”Không gian đang tiễn biệt thời gian.
Thời gian của Xuân Diệu có mùi, có vị khác với thời gian vật lí không màu không mùi không vị. Xuân Diệu đã “sống toàn tâm, sống toàn hồn và thức nhọn giác quan”
Cảm nhận thời gian đầy tính mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi qua là sự mất mát, chia lìa.
- Giọng thơ tranh biện kết hợp với câu hỏi tu từ “Phải chăng…?” nhấn mạnh cảm xúc tiếc nuối, ngậm ngùi, đau khổSự thức tỉnh sâu sắc của “cái tôi” cá nhân, về giá trị sống đã đưa đến một cảm nhận đầy ám ảnh về thời gian trong tâm thức nhà thơ.
- Tâm trạng chán nản, thất vọng, tiếc nuối nhưng đầy bất lực hóa thành tiếng kêu than có phần tuyệt vọng, bi quan: “Chẳng bao giờ, ôi chẳng bao giờ còn nữa…”
+ Điệp cấu trúc “Chẳng bao giờ” kết hợp với thán từ “ôi” và cấu trúc câu cảm thánnỗi tiếc nuối vô cùng khi thời gian trôi qua, tuổi trẻ trôi qua mà không bao giờ lấy lại được
Câu thơ như một nỗi tuyệt vọng, một niềm tiếc nuối vô hạn nhuốm màu buồn cả thời gian, không gian
Đoạn thơ đã thể hiện tâm trạng thất vọng của con người khi nhận ra giới hạn của kiếp người. Nhận thức sâu sắc ấy đến từ sự thức tỉnh sâu sắc về ý thức “cái tôi” cá nhân, về giá trị sống đã đưa đến một cảm nhận đầy ám ảnh về thời gian trong cảm thức của nhà thơ.
3. Thái độ sống sôi nổi, khát vọng cuồng nhiệt của tác giả đối với cuộc sống
- “Mau đi thôi!” là hai chữ “vội vàng” được cụ thể hoá bằng cấu trúc câu cầu khiến mang đến sắc thái cuống quýt, vội vã: mau “vội vàng” lên đi để tận hưởng tuổi trẻ và thời gian, không sống hoài, sống phí.
- “Mùa chưa ngả chiều hôm”: mùa chưa úa tànmau đi thôi khi bức tranh đời vẫn đang còn tươi đẹp, khi đời vẫn còn nồng nàn đắm say chưa phai tàn hương sắc.
- Đại từ “ta”mang nghĩa tình cảm chung, phổ quátcái tôi giờ đây đã hoà chung vào cái ta của thiên nhiên, đất trời, vạn vật.
- “Ta muốn ôm” được đặt giữa đoạn thơdiễn tả đúng tư thế dang tay ôm lấy vạn vậtLối tách câu cùng đại từ “ta” mang nghĩa tình cảm chung, phổ quátcái tôi giờ đây đã hoà chung vào cái ta của thiên nhiên, đất trời, vạn vật.
- Điệp ngữ “ta muốn” lặp lại nhiều lần kết hợp với các động từ mạnh “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn”tăng tiến cấp độ cảm xúc, tạo nên cơn lũ cảm xúc mà đỉnh điểm là “cắn”, thể hiện khát vọng giao cảm, hòa nhập với thiên nhiên, với cuộc đời đến tận độ của thi nhân.
- Các hình ảnh “mây đưa”, “gió lượn”, “non nước”, “cỏ rạng”, “xuân hồng”,…đa dạng, quyến rũ, táo bạo, đầy cảm giácBức tranh thiên nhiên nhẹ nhàng, trong trẻo, tình tứ, đắm say.
- Một làn sóng ngôn từ trùng điệp đan xen bởi lối thơ vắt dòng cùng liên từ “và” (xuất hiện 3 lần trong cùng một dòng thơ), giới từ “cho” tưởng chừng là dư thừa nhưng khi kết hợp cùng các tính từ “chếch choáng”, “đã đầy”, “no nê” biểu thị sự hưởng thụ ở mức tối đathể hiện dòng chảy cảm xúc ào ạt, dâng trào, trạng thái cuống quýt, vồ vập như chạy đua với thời gian để tận hưởng cuộc sống “xanh non, biếc rờn” của cái “tôi” đầy ham muốn.Bởi “mùi thơm”, “ánh sáng”, “thanh sắc” đều là khao khát của thi nhân.
- Câu thơ cuối bài thơ đẹp rực rỡ “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
+ “Xuân hồng”: phép chuyển đổi cảm giácmùa xuân đang độ đẹp nhất, “ngon” nhất, căng tràn sức sống nhấtQua ánh nhìn của Xuân Diệu, cuộc sống mơn mởn như trái xuân hồng.
+ Không chỉ nhìn mà thi sĩ còn khao khát được “cắn” vào quả đời ấy để tận hưởng hết được mọi hương vị cuộc sống. Động từ mạnh “cắn” mang sắc thái nhục cảmbiến cái vô hình thành hữu hình làm tăng sắc thái biểu cảm: xuân hồng như trái chín căng tràn nhựa sống đã quyến rũ khơi gợi thi nhân phải chiếm hữu, tận hưởngThể hiện rõ hồn thơ của Xuân Diệu: sống cần phải mạnh mẽ, tích cực, đam mê, không hời hợt, không nhạt nhẽo, sống với tất cả sự nồng nhiệt để mỗi giây mỗi phút trôi đi không phải hối tiếc, vì chùng ta đã sống tận độ, tận hưởng hết những gì có thể.
III. Tổng kết:
1. Giá trị nội dung
Đưa ra một quan niệm sống độc đáo, mới mẻ: “Vội vàng” không chỉ là một bài thơ mà nó đã trở thành một triết lí sống của một hồn thơ khao khát sự sống. Ta hãy sống “vội vàng”, sống gấp gáp, sống hết mình để tận hưởng cuộc sống tươi đẹp trên trần thế này.
2. Giá trị nghệ thuật
+ Sử dụng ngôn ngữ táo bạo
+ Xây dựng hình ảnh thơ độc đáo
+ Nhịp thơ biến đổi lúc sôi nổi, hối hả lúc lại tha thiết, trữ tình

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#tailieu