Nhà nước trong hệ thống chính trị

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Chương VII

NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

I. KHÁI NIỆM HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

Nhà nước trong hệ thống chính trị là đối tượng nghiên cứu của khoa học chính trị và khoa học lý luận chung về nhà nước và pháp luật. Việc nghiên cứu vấn đề này vừa có giá trị lý luận sâu sắc, vừa có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Về lý luận, nó vừa giúp chúng ta nhận thức sâu sắc, đầy đủ và toàn diện hơn vị trí, vai trò của nhà nước trong xã hội đương đại nói chung, trong hệ thống chính trị của mỗi quốc gia nói riêng, vừa góp phần bổ sung vào hệ thống các quan điểm lý luận khoa học về nhà nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế hiện nay. Về thực tiễn, việc nghiên cứu vấn đề nhà nước trong hệ thống chính trị sẽ cung cấp những luận cứ khoa học cho việc đề xuất quan điểm và giải pháp khả thi nhằm giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước với đảng cầm quyền (hoặc liên minh các đảng cầm quyền), các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội khác.

Khái niệm "hệ thống chính trị " xuất hiện và đưa vào các văn kiện của Đảng cộng sản Liên Xô và các văn bản của Nhà nước Xô Viết vào khoảng những năm sáu mươi của thế kỷ XX. Trước đó, người ta thường dùng khái niệm "hệ thống chuyên chính của giai cấp thống trị" (chỉ bao gồm các cơ quan nhà nước hợp thành một hệ thống do giai cấp thống trị dựng nên để thống trị xã hội), dần dần được thay bằng "hệ thống chuyên chính vô sản", cuối cùng đổi thành "hệ thống chính trị " và được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1977 - Hiến pháp cuối cùng của Nhà nước Liên Xô (Chương I, Phần I) .

Khái niệm "hệ thống chính trị" được định nghĩa từ ba góc độ nghiên cứu khác nhau.Từ góc độ nghiên cứu nội dung và hình thức biểu hiện của các quan hệ chính trị trong xã hội (là quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội liên quan tới việc giành, giữ và thực hiện quyền lực nhà nước vì quyền lực nhà nước là trung tâm của quyền lực chính trị, hình thức biểu hiện tập trung nhất của quyền lực chính trị), hệ thống chính trị được định nghĩa là phương thức thể hiện và phương tiện thực hiện các quan hệ chính trị do các đảng phái cầm quyền thiết lập. Từ góc độ nghiên cứu nội dung và hình thức của quyền lực chính trị trong xã hội, hệ thống chính trị được xem như là phương thức thể hiện và là phương tiện thực hiện quyền lực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Từ góc độ nghiên cứu cơ cấu - chức năng của hệ thống chính trị thì hệ thống chính trị được quan niệm là tổng thể các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội trực tiếp nắm giữ hoặc tham gia thực thi quyền lực chính trị dưới sự lãnh đạo của một đảng cầm quyền hay liên minh các đảng cầm quyền. Quan niệm về hệ thống chính trị như vậy được ghi nhận trong khá nhiều sách báo khoa học pháp lý trong nước và ngoài nước .

Hệ thống chính trị có ba đặc điểm cơ bản sau đây:

Một là, ra đời, tồn tại, phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại, phát triển của nhà nước. Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến, chỉ có nhà nước là đại diện chính thức cho quyền lực chính trị của giai cấp chủ nô và giai cấp phong kiến, còn các đảng phái chính trị hoạt động hợp pháp khác chưa hình thành, do đó chưa có "hệ thống chính trị" ở hai giai đoạn này. Các đảng phái chính trị và các tổ chức xã hội khác được được hình thành từ trong cách mạng tư sản, nền dân chủ tư sản, gắn liền với chế độ bầu cử tự do, dân chủ để thiết lập các cơ quan nhà nước cấp cao trong bối cảnh quyền lực nhà nước không còn nằm trong tay vua, chúa nữa, không còn được truyền cho con, cháu theo nguyên tắc thế tập nữa, mà nó được chuyển giao cho cả một giai tầng xã hội bằng con đường bầu cử tự do, dân chủ, công khai, minh bạch. Hiến pháp nước Cộng hòa Pháp ngày 4 - 10 - 1958 khẳng định: "Đảng phái và các đoàn thể chính trị đóng vai trò quan trọng trong bầu cử. Chúng được thành lập và hoạt động một cách tự do" (Điều 4).

Như vậy, trước khi các cơ quan cấp cao của nhà nước hình thành (cũng có nghĩa là trước khi bộ máy nhà nước được hình thành) thì đã có các đảng phái chính trị và các tổ chức chính trị rồi và chính họ đã tham gia tranh cử, bầu cử và giám sát bầu cử để hình thành bộ máy quyền lực nhà nước và cùng với nhà nước tạo nên hệ thống chính trị tư sản và hệ thống chính trị đó tồn tại, phát triển cùng với nhà nước tư sản.

Ở các nước đi theo con đường XHCN cũng vậy. Đảng cầm quyền với nhiều tên gọi khác nhau (như đảng cộng sản, đảng lao động, đảng nhân dân cách mạng,...) ra đời trong phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nói chung, đã tập hợp, tổ chức, giáo dục, tuyên truyền, vận động và lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành cuộc cách mạng (có thể là cách mạng XHCN ở nước Nga năm 1917 hoặc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam năm 1945) nhằm xóa bỏ chế độ cũ, nhà nước cũ và thiết lập chế độ mới, nhà nước mới. Kể từ khi nhà nước XHCN ra đời thì hệ thống chính trị XHCN cũng được hình thành, trong đó có nhà nước, đảng cách mạng và các tổ chức chính trị - xã hội khác và hệ thống chính trị XHCN cũng tồn tại và phát triển cùng với nhà nước XHCN.

Việc gắn sự hình thành, tồn tại và phát triển của hệ thống chính trị với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước là lẽ đương nhiên, bởi vì nhà nước luôn luôn là "trụ cột" của hệ thống chính trị, tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền và các lực lượng cầm quyền, là "tấm gương" hội tụ và phản ánh toàn bộ đời sống chính trị của xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội xã hội chủ nghĩa.

Hai là, các tổ chức thành viên hệ thống chính trị đều là những tổ chức hợp pháp, được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 quy định: "Các cơ quan quyền lực nhà nước, các cơ quan tự quản địa phương, (...), các tổ chức của công dân phải tuân thủ Hiến pháp Liên bang Nga và các đạo luật Liên bang" (khoản 2 Điều 15); "Ở Liên bang Nga thừa nhận sự đa nguyên, đa đảng" (khoản 3 Điều 13); "Các tổ chức xã hội bình đẳng trước pháp luật" (khoản 4 Điều 13); "Cấm thành lập và cấm sự hoạt động của các tổ chức xã hội có mục đích hay hành động hướng tới dùng bạo lực để thay đổi nền tảng chế độ hiến pháp và xâm phạm sự toàn vẹn của Liên bang Nga, đe dọa an ninh quốc gia, thành lập các tổ chức vũ trang, gây sự chia rẽ về xã hội, chủng tộc, sắc tộc và tôn giáo" (khoản 5 Điều 13). Hiến pháp Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1982 tuyên bố: "các chính đảng và đoàn thể xã hội...đều phải lấy Hiến pháp làm tiêu chuẩn xử sự căn bản trong hoạt động của mình" (Lời nói đầu); "các đảng phái chính trị và đoàn thể xã hội...đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật...Hành vi của mọi tổ chức hoặc cá nhân đều không vượt quá quy định của Hiến pháp và pháp luật" (Điều 5). Khoản 3 Điều 4 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 cũng quy định: "Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật".

Ba là, có sự phân định rõ ràng về nhiệm vụ cơ bản giữa các tổ chức thành viên vì mục tiêu chung là thực thi quyền lực của giai cấp và các lực lượng thống trị trong xã hội. Trong hệ thống chính trị, đảng cầm quyền hay liên minh các đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước và cả hệ thống chính trị trong việc thực thi quyền lực của giai cấp thống trị mà đảng cầm quyền hay liên minh các đảng cầm quyền đó là người đại diện; nhà nước quản lý xã hội theo chủ trương, đường lối, chính sách của đảng cầm quyền hoặc liên minh các đảng cầm quyền và trên cơ sở pháp luật do mình ban hành; các tổ chức hợp pháp khác tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội theo pháp luật.

II. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

Trong hệ thống chính trị của các quốc gia trên thế giới hiện nay, nhà nước giữ vị trí trung tâm và có vai trò chủ đạo đối với quản lý xã hội. Sở dĩ nhà nước giữ được vị trí trung tâm và có vai trò chủ đạo đó là vì, so với các tổ chức thành viên khác của hệ thống chính trị, nhà nước có hai ưu thế đặc biệt quan trọng:

Một là, nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị thể hiện tập trung nhất, đầy đủ nhất ý chí, lợi ích của giai cấp và các lực lượng thống trị trong xã hội.

Nhà nước có được ưu thế này do những nguyên nhân dưới đây:

- Nhà nước là sản phẩm thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội do giai cấp cầm quyền lãnh đạo và tiến hành cùng với các lực lượng xã hội khác (cách mạng tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo và tiến hành cùng với các tầng lớp xã hội khác, cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo cùng với giai cấp nông dân và các tầng lớp xã hội khác), nhằm xoá bỏ chế độ cũ, thiết lập chế độ mới.

- So với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, nhà nước được xây dựng, bảo vệ, củng cố, phát triển trên nền tảng xã hội rộng lớn nhất (ở các nước tư bản chủ nghĩa - đó là giai cấp tư sản và đa số các lực lượng xã hội khác; trong các nước xã hội chủ nghĩa - đó là toàn thể nhân dân mà nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức).

- Nhà nước có quyền lực công khai, bao trùm toàn xã hội và quyền lực nhà nước có phạm vi tác động rộng lớn nhất so với quyền lực của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Quyền lực nhà nước là quyền lực của giai cấp và các lực lượng thống trị trong xã hội được hợp pháp hoá, công khai hoá và hiện thực hoá thông qua công cụ pháp luật, do đó nó tác động tới mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội và được bảo đảm thực hiện bằng mọi biện pháp của nhà nước, trong đó có biện pháp cưỡng chế.

- Nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động của nhà nước, về cơ bản, phù hợp với ý nguyện và lợi ích của các giai cấp và các lực lượng trong xã hội (trong xã hội xã hội chủ nghĩa là của toàn thể nhân dân) - đó là xây dựng và phát triển xã hội theo hướng tự do, hạnh phúc, bình đẳng, công bằng, dân chủ, văn minh. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, dân chủ hóa xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, xu thế phát triển tất yếu của nhà nước là nhà nước đang chuyển dần từ "nhà nước cai trị" sang "nhà nước phục vụ", "nhà nước xã hội" .

Hai là, nhà nước là công cụ có hiệu lực nhất để thực hiện quyền lực của giai cấp và các lực lượng cầm quyền trong xã hội.

Nhà nước có được ưu thế này bởi những lý do sau đây:

- Nhờ có cơ sở xã hội rộng lớn nhất trong hệ thống chính trị mà nhà nước có khả năng và điều kiện triển khai thực hiện pháp luật của mình một cách nhanh chóng và có hiệu quả nhất. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để toàn xã hội tham gia thực hiện pháp luật; theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật; gương mẫu thực hiện pháp luật do mình ban hành; xử lý mọi vi phạm pháp luật trong bộ máy nhà nước và ở ngoài xã hội một cách kịp thời, nghiêm minh, nhanh chóng, đúng pháp luật; thường xuyên điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện pháp luật cho phù hợp với thực tiễn đang biến đổi nhanh chóng và sâu sắc.

- Nhà nước ban hành pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật bằng tất cả sức mạnh của mình, trong đó có sức mạnh cưỡng chế. Thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, nhà nước thiết lập một hệ thống các quy phạm pháp luật mang tính chất bắt buộc chung đối với cả xã hội hoặc đối với phần lớn. Các tổ chức khác trong hệ thống chính trị tự họ không có quyền ban hành quy phạm pháp luật mà chỉ trong trường hợp được pháp luật quy định, thì các tổ chức đó mới có quyền đưa ra sáng kiến pháp luật trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, phê chuẩn; hoặc mới có quyền cùng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên tịch, trong đó chứa đựng các quy phạm pháp luật nhằm hướng dẫn thi hành văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nhiệm vụ, chức năng, thẩm quyền của hai bên. Nhà nước sử dụng toàn bộ sức mạnh vật chất, tinh thần của mình để thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật bằng sức mạnh bạo lực khi cần thiết.

- Nhà nước có bộ máy chuyên nghiệp vừa quản lý xã hội bằng pháp luật, vừa áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với chủ thể vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ pháp luật. Các tổ chức thành viên khác của hệ thống chính trị hoặc lãnh đạo nhà nước (đảng chính trị cầm quyền hoặc liên minh các đảng chính trị cầm quyền), hoặc hỗ trợ nhà nước và tham gia cùng với nhà nước thực hiện hai nhiệm vụ đó (các tổ chức xã hội khác) chứ không phải là những tổ chức chuyên trách quản lý xã hội bằng pháp luật và áp dụng biện pháp cưỡng chế theo pháp luật.

- Nhà nước là chủ sở hữu tối cao những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, nắm trong tay nguồn lực kinh tế, tài chính, kỹ thuật to lớn. Với ưu thế này, nhà nước không những có khả năng bảo đảm sự hoạt động bình thường của mình mà còn hỗ trợ các tổ chức thành viên khác của hệ thống chính trị hoạt động có hiệu quả. Các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều dựa vào cơ sở vật chất - kỹ thuật của nhà nước để hoạt động và nhà nước luôn luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho họ hoạt động, vì mục tiêu chung là phát triển xã hội.

- Nhà nước là tổ chức duy nhất trong hệ thống chính trị mang chủ quyền quốc gia. Đặc tính này thể hiện ở chỗ: nhà nước có toàn quyền quyết định và thực hiện các chính sách đối nội, đối ngoại của mình, không lệ thuộc vào ý chí từ bên ngoài; có quyền nhân danh cả quốc gia và toàn thể dân tộc trong quan hệ đối ngoại và là chủ thể của công pháp quốc tế.

III. QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VỚI CÁC TỔ CHỨC KHÁC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

1. Quan hệ giữa nhà nước với các đảng chính trị

Theo quan niệm của các tác giả nước ngoài, đảng chính trị là tổ chức chính trị được thành lập theo một trình tự, thủ tục pháp lý đặc biệt; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có cương lĩnh, điều lệ, mục đích hoạt động rõ ràng gắn liền với sự tham gia vào bộ máy chính quyền để thực thi quyền lực nhà nước . Theo cách phân loại hiện nay, các đảng chính trị được phân chia thành 7 loại sau : a) Các đảng "tư sản": các đảng này dựa trên cơ sở các tổ chức nhỏ ở địa phương, các chi bộ, ủy ban thường gắn với những nhà lãnh đạo hành chính, kinh tế địa phương, các thương gia và hoạt động của họ chủ yếu diễn ra trong các cuộc bầu cử để đưa đại diện của mình vào Quốc hội hay cơ quan quyền lực nhà nước ở đại phương; b) Các đảng được thành lập "dành cho người lãnh đạo đã nắm quyền". Người nắm quyền thông qua bầu cử sẽ thành lập "đảng của chính quyền". Cơ cấu của đảng trùng lặp với với cơ cấu bộ máy nhà nước và hoạt động của đảng chủ yếu hỗ trợ những người lãnh đạo nhà nước; c) Các đảng xã hội chủ nghĩa ở châu Âu (đảng của "quần chúng"). Đảng tồn tại được là nhờ sự thu hút quần chúng vào đảng. Cơ cấu tổ chức của đảng theo thứ bậc, từ cấp thấp là chi bộ, tổ cho đến cấp cao là ban chấp hành trung ương và cơ quan chủ yếu của đảng là đại hội toàn đảng. Cán bộ cốt cán của đảng thông thường sẽ nắm giữ các chức vụ cao trong bộ máy nhà nước khi đảng nắm quyền lãnh đạo nhà nước; d) Đảng "thượng lưu" - đảng tập hợp những nhân vật tiêu biểu trong xã hội đang nắm giữ các vị trí quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị nhưng không nằm trong tâng lớp lãnh đạo cao cấp của đất nước; đ) Các đảng "nhỏ". Các đảng này không có khả năng vượt qua các cuộc bầu cử để vào trong Quốc để sau đó thành lập chính phủ của đảng mình. Thông thường, các đảng này được thành lập bằng cách một số đại biểu Quốc hội từ bỏ đảng lớn của mình để thành lập "liên minh Quốc hội", sau đó đăng ký hoạt động như một đảng độc lập, dựa trên uy tín cá nhân các đại biểu. Vì không có cơ hội tham gia vào các cơ quan chính quyền nên các đảng này được thành lập còn bằng con đường thứ hai là sử dụng các diễn đàn vận động bầu cử và các phương tiện thông tin đại chúng của nhà nước để trình bày quan điểm và chương trình hành động của mình để giành lấy sự tín nhiệm của cử tri; e) Các "đảng ảo". Cơ sở để thành lập các đảng này là sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện thông tin và truyền thông hiện đại trên thế giới. Phương tiện liên lạc chủ yếu giữa các đảng viên và tổ chức đảng là vi tính và mạng. Đảng này không có bộ máy hoạt động thường xuyên mà nhiệm vụ của đảng được thực hiện bằng việc truyền các chỉ thị, mệnh lệnh từ một Trung tâm thông qua mạng Internet và hệ thống thư điện tử.

Quan hệ giữa nhà nước với các đảng chính trị nói trên được thể hiện thông qua việc thực hiện vai trò của hai bên đối với nhau.

- Vai trò của nhà nước đối với các đảng chính trị. Trước hết nhà nước tạo ra khuôn khổ pháp lý cho sự hình thành, tồn tại, phát triển của các đảng chính trị, tạo cơ sở pháp lý để cho các đảng chính trị được tham gia một cách hợp pháp và bình đẳng vào bộ máy chính quyền nhà nước thông qua các cuộc bầu cử thật sự tự do, dân chủ, công khai, minh bạch, đồng thời tại mọi điều kiện vật chất - kỹ thuật cho các đảng chính trị hoạt động.

Chẳng hạn, Hiến pháp nước Cộng hòa Pháp năm 1958 quy định:

"Các đảng phái và các nhóm chính trị giành quyền lực qua kết quả bầu cử. Các đảng phái và các tổ chức chính trị được tự do thành lập và hoạt động trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc về chủ quyền quốc gia và dân chủ.

Các đảng phái và các nhóm chính trị góp phần vào việc thực hiện nguyên tắc quy định tại đoạn 2, Điều 1 theo các điều kiện do luật định.

Luật pháp bảo đảm sự đa chiều trong việc phát biểu ý kiến và sự tham dự bình đẳng của các đảng phái và nhóm chính trị vào đời sống dân chủ của quốc gia" (Điều 4).

Hiến pháp Nam Phi năm 1996 cũng quy định:

"1. Mọi công dân đều có quyền tự do lựa chọn về chính trị, trong đó bao gồm:

a. Lập ra một đảng chính trị;

b. Tham gia vào các hoạt động hoặc tuyển dụng các thành viên cho một đảng chính trị;

c. Vận động cho một đảng chính trị hoặc cho một lý tưởng chính trị" (khoản 1 Điều 19).

Ngoài ra, nhà nước bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các đảng chính trị và xử lý những đảng chính trị vi phạm pháp luật. Hiến pháp Hàn Quốc năm 1987 quy định rằng ở Hàn Quốc các đảng chính trị được thành lập tự do và thực hiện chế độ đa dảng (khoản 1 Điều 8); các đảng chính trị được Nhà nước Hàn Quốc bảo hộ và giúp đỡ (khoản 3 Điều 8); nếu đảng chính trị có mục đích và hoạt động trái pháp luật thì Chính phủ sẽ đề xuất ý kiến giải thể với Tòa án hiến pháp và đảng đó bị giải thể theo quyết định của Tòa án hiến pháp (khoản 4 Điều 8).

- Vai trò của các đảng chính trị đối với nhà nước.

Đảng cầm quyền hay liên minh các đảng cầm quyền có trách nhiệm hoạch định chính sách đối nội, đối ngoại để nhà nước thể chế hóa thành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Các đảng chính trị khác, mặc dù không được tham gia vào bộ máy chính quyền nhà nước nhưng vẫn có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện chính sách của đảng cầm quyền hay liên minh các đảng cầm quyền; tôn trọng và thực hiện pháp luật của nhà nước.

2. Quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức xã hội khác

Tổ chức xã hội là tập hợp quần chúng, được thành lập trên nguyên tắc tự nguyện, tự quản, hoạt động vì lợi ích chính đáng của các thành viên và lợi ích chung của xã hội. Trong quan hệ giữa nhà nước với tổ chức xã hội thì nhà nước quản lý tổ chức xã hội bằng pháp luật, còn tổ chức xã hội chịu sự quản lý của nhà nước và thực hiện pháp luật một cách đầy đủ, nghiêm chỉnh, thống nhất. Nội dung quản lý của nhà nước đối với tổ chức xã hội gồm: ban hành pháp luật để tạo ra khuôn khổ pháp luật cho tổ chức và hoạt động của tổ chức xã hội; kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức xã hội; xử lý những cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật. Các tổ chức xã hội có quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; hoạt động xã hội trong khuôn khổ pháp luật để đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng của các thành viên, góp phần bảo vệ lợi ích chung vủa xã hội.

IV. NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THÔNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM HIỆN NAY

Theo Hiến pháp năm 2013 (Điều 9), ở Việt Nam hiện nay, hệ thống chính trị bao gồm các tổ chức chính trị (Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam); các tổ chức chính trị - xã hội (Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam) và các tổ chức xã hội khác.

Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay là có sự phân định rõ nhiệm vụ, chức năng giữa các tổ chức thành viên và được ghi nhận trong hiến pháp. Theo Hiến pháp năm 2013, Đảng cộng sản Việt Nam "lãnh đạo Nhà nước và xã hội" (khoản 1 Điều 4); Nhà nước "quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật" (khoản 1 Điều 8); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam "đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (khoản 1 Điều 9); Công đoàn Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội khác "đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam" (khoản 2 Điều 9). Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đề cao vị trí, vai trò của Công đoàn Việt Nam trong việc "đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" (Điều 10).

Trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, Nhà nước giữ vị trí trung tâm và có vai trò chủ đạo đối với quản lý xã hội nhờ có những ưu thế riêng có của mình như các nhà nước đương đại. Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với Đảng và các tổ chức xã hội khác.

- Quan hệ giữa Nhà nước với Đảng được thể hiện ở vai trò của hai bên đối với nhau.

Vai trò của Nhà nước đối với Đảng thể hiện ở chỗ: Nhà nước là phương tiện quan trọng nhất để đưa đường lối, chính sách của Đảng vào cuộc sống thông qua ba hình thức hoạt động chủ yếu là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật nhằm thực hiện mục tiêu mà Đảng đã đặt ra là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bên cạnh đó, Nhà nước có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ sở pháp lý, vật chất, tinh thần cho Đảng hoạt động và bảo vệ uy tín, danh dự, sinh mệnh của Đảng trước âm mưu và hành động phá hoại của các lực lượng thù địch.

Như Hiến pháp năm 2013 quy định, Đảng "là lực lượng lãnh đạo Nhà nước". Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước gồm: Đảng vạch ra đường lối chiến lược về đối nội, đối ngoại để Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Nhà nước, giới thiệu đảng viên và người ngoài đảng đủ năng lực và phẩm chất để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, bố trí vào những vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước hoặc để cử tri bầu vào các cơ quan dân cử trực tiếp; thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong cho cán bộ, đảng viên và người ngoài Đảng làm việc trong bộ máy nhà nước; kiểm tra hoạt động của bộ máy nhà nước; chỉ đạo công cuộc cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước và cuộc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong bộ máy nhà nước hiện nay. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua các hình thức như nghị quyết, chỉ thị có tính chất định hướng, chỉ đạo sự hoạt động của bộ máy nhà nước. Các phương pháp chủ yếu mà Đảng sử dụng để lãnh đạo Nhà nước là tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục và tự nêu gương của đảng viên làm việc trong bộ máy nhà nước.

Trong điều kiện một đảng cầm quyền và lãnh đạo nhà nước thì việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước và Đảng trên cơ sở phân định rõ chức năng của Nhà nước với chức năng của Đảng có ý nghĩa quan trọng để Nhà nước phát huy hết hiệu lực của mình nhưng vẫn chịu sự lãnh đạo của Đảng, còn Đảng vẫn lãnh đạo được Nhà nước nhưng không làm thay Nhà nước.

- Ở Việt Nam hiện nay, các tổ chức xã hội ngày càng có vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức xã hội thì Nhà nước quản lý các tổ chức xã hội bằng pháp luật, còn các tổ chức xã hội hỗ trợ, giúp đỡ Nhà nước trong việc quản lý xã hội. Để củng cố và tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức xã hội thì Nhà nước cần luôn luôn đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp quản lý các tổ chức xã hội, sao cho Nhà nước vẫn quản lý được các tổ chức đó bằng pháp luật nhưng lại không can thiệp vụn vặt, quá mức cần thiết vào tổ chức và hoạt động của họ; kiên quyết chống mọi biểu hiện "hành chính hoá" tổ chức xã hội; hoàn thiện chính sách, pháp luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội; tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức xã hội; xử lý kịp thời, nghiêm minh, nhanh chóng mọi vi phạm pháp luật của các tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức ấy; thường xuyên tổng kết việc quản lý các tổ chức xã hội bằng pháp luật để thấy được ưu điểm để phát huy và nhận ra nhược điểm để khắc phục.

Các tổ chức xã hội cũng cần đổi mới tổ chức theo hướng gọn, nhẹ, tinh thông và hiệu qủa; đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động để lôi cuốn tất cả thành viên vào mọi hoạt động của tổ chức, trong đó có tham gia quản lý nhà nước và quản lý xã hội; tham gia tích cực hơn nữa vào xây dựng, củng cố, hoàn thiện, bảo vệ Nhà nước, vào công tác xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật; tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, văn hoá, đạo đức cách mạng cho tất cả các thành viên nhằm bồi dưỡng và nâng cao lập trường chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ văn hoá và lối sống của con người mới; thường xuyên tổng kết việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội để rút ra bài học kinh nghiệm cho các hoạt động sau.


Hiến pháp (Luật cơ bản) của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết, được thông qua tại kỳ họp bất thường lần thứ 7, Khóa 9, ngày 7 - 10 - 1977 của Xô Viết tối cao Liên Xô, Nxb. Sách báo chính trị, Moskva, 1977, tr. 1 - 62 (tiếng Nga).

Xem, ví dụ: GS. V. M. Korelski. Chương XI: Hệ thống chính trị của xã hội Xô Viết, trong sách "Những vấn đề về nhà nước và pháp luật", Tập thể tác giả, Chủ biên: GS. S. S. Alekseev, Nxb. "Sách báo pháp lý", Moskva, 1979, tr. 148 (tiếng Nga); PGS. PTS. I. M. Khmelinin. Mục 3, Chương VI, trong 'Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật", Tập thể tác giả, Chủ biên: GS. A. M. Vasilev, Nxb. "Sách báo pháp lý", Moskva, 1977, tr. 151 (tiếng Nga); Giáo trình Luật nhà nước Xô Viết, Tập thể tác giả, Đồng Chủ biên: GS. TS. E. I. Kozlova, TS. V. S. Sevxov, Nxb. "Trường cao cấp", 1978, tr. 67; TS. Nguyễn Văn Động. Những vấn đề cơ bản của môn học Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2002, tr. 99; PGS. TS. Hoàng Thị Kim Quế. Chương X: Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong "Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật", Khoa luật, Đại học Quốc gia, Hà Nội, Tập thể tác giả, Chủ biên: PGS. TS. Hoàng Thị Kim Quế, nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005, tr. 229 – 230; ThS. Đinh Ngọc Thắng. Chương VII: Nhà nước trong Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, trong "Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật", Khoa luật Trường Đại học Vinh, Tập thể tác giả, Chủ biên: PGS. TS. Nguyễn Văn Động, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010, tr. 97; PGS. TS. Nguyễn Văn Động. Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật. Dùng cho đào tạo đại học và sau đại học luật, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2012, tr. 131; PGS. TS. Nguyễn Văn Động. Chương XXI: Nhà nước trong Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong "Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật", Trường Đại học luật Hà Nội, Tập thể tác giả, Đồng Chủ biên: GS. TS. Lê Minh Tâm, PGS. TS. Nguyễn Minh Đoan, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2013, tr. 439 - 440; PGS. TS. Nguyễn Văn Động. Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật. (Dành cho đào tạo đại học luật và trên đại học luật), Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014, tr. 179 - 180;...

Xem: Tuyển tập hiến pháp của một số quốc gia (Tài liệu tham khảo), Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2012, tr. 388 - 439.

Xem: Tuyển tập hiến pháp của một số quốc gia (Tài liệu tham khảo), Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2012, tr. 74 - 116..

Xem: Nguyễn Vân Nam. Toàn cầu hóa và sự tồn vong của nhà nước, Nxb. Trẻ, 2006, tr. 1 - 399.

Xem, ví dụ: V. V. Meytus, V.IU. Meytus. Đảng chính trị. Chiến lược và sự quản lý (Sách tham khảo). Người dịch: Huyền My, Phương Thảo, Tường Vy. Người hiệu đính: TS. Nguyễn Đức Thảo. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 50.

Xem: M. Duverger: Đảng chính trị, Moskva, 2002, tr. 41 - 44 (tiếng Nga); V. V. Meytus, V.IU. Meytus. Đảng chính trị. Chiến lược và sự quản lý (Sách tham khảo). Người dịch: Huyền My, Phương Thảo, Tường Vy. Người hiệu đính: TS. Nguyễn Đức Thảo. Sách đã dẫn, tr. 71 - 83.

Xem: Tuyển tập hiến pháp của một số quốc gia (Tài liệu tham khảo), Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2012, tr. 204 - 246.

Xem: Tuyển tập hiến pháp của một số quốc gia (Tài liệu tham khảo), Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2012, tr. 36 – 73. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro