Ôn thi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trước hết đối với nước đi đầu tư (nước chủ nhà) FDI có vai trò chủ yếu sau:

* Tác động tích cực

Do đầu tư là người nước ngoài là người trực tiếp điều hành và quản lý vốn nên họ có trách nhiệm cao, thường đưa ra những quyết định có lợi cho họ. Vì thế họ có đảm bảo hiệu quả của vốn FDI. Đầu tư nước ngoài mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm nguyên liệu, cả công nghệ và thiết bị trong khu vực mà họ đầu tư cũng như trên thế giới.Do khai thác được nguồn tài nguyền thiên nhiên và lao động rẻ, thị trường tiêu thụ rộng lớn nên có thể mở rộng quy mô, khai thác được lợi thể kinh tế của quy mô từ đó có thể nâng cao năng suất, giảm giá thành sản phẩm.Tránh được các hàng rào bảo hộ mâu dịch và phí mậu dịch của nước tiếp nhận đầu tư với thông qua FDI chủ đầu tư hay doanh nghiệp nước ngoài xây dựng được các doanh nghiệp của mình nằm trong long nước thì hành chính sách bảo hộ.

* Tác động tiêu cực

Khi các doanh nghiệp thực hiện việc đầu tư ra nước ngoài thì trong nước sẽ mất đi khoản vốn đầu tư, khó khăn hơn trong việc tìm nguồn vốn phát triển cũng như giải quyết việc làm.Do đó trong nước có thể dẫn tới nguy cơ suy thoái, vì thế mà nước chủ nhà không đưa ra những chính sách khuyên khích cho việc đầu tư ra nước ngoài. Đầu tư ra nước ngoài thì doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn trong môi trường mới về chính trị, sự xung đột của quốc gia hay đơn thuần chỉ là sự thay đổi trong chính sách và pháp luật của quốc gia hay đơn thuần chỉ là sự thay đổi trong chính sách và pháp luật của quốc gia tiếp nhận… tất cả những điều đó đều khiến cho các doanh nghiệp có thể rơi vào tình trạng mất tài sản cở sở hạ tầng. Do vậy mà họ thường phải đầu tư vào các nước ổn định về chính trị cũng như trong chính sách và môi trường kinh tế.

Gần 25 năm đã qua kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại ViệtNam ra đời vào tháng 12 năm 1987. Thành tựu nhiều, nhưng không phải là không có những hạn chế trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Giờ là lúc cần phải dựa trên hệ tiêu chí khoa học để đánh giá khách quan, toàn diện kết quả, tác động của FDI, phát hiện những vấn đề cần giải quyết làm căn cứ để đề ra định hướng mới, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dòng vốn FDI trong thời gian tới.

Dấu ấn từ những con số

Cuối năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội thông qua, khi nước ta còn trong vòng xoáy cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, lạm phát phi mã, sản xuất và lưu thông chậm phát triển, làm không đủ ăn, buộc phải dùng tem phiếu “phân phối sự thiếu thốn”; khi các nước “phương Tây” cấm vận đối với Việt Nam, quan hệ kinh tế đối ngoại hầu như chỉ bó hẹp trong khung khổ Hội đồng Tương trợ kinh tế với 12 nước xã hội chủ nghĩa (cũ).

Luật Đầu tư nước ngoài 1987 được dư luận quốc tế đánh giá cao. Hoạt động FDI là khâu đột phá trong hội nhập kinh tế quốc tế nhờ thị trường đầy tiềm năng của Việt Nam có sức hấp dẫn hàng trăm nhà đầu tư quốc tế, trong đó có các nước đang thi hành chính sách cấm vận đối với nước ta, điển hình là Mỹ. Mặc dù cuối năm 1994, Tổng thống Bill Clinton mới bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, nhưng một số nhà đầu tư nước này thông qua nước thứ ba đã thực hiện nhiều dự án FDI ở nước ta từ năm 1989.

Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời, ba năm đầu 1988 - 1990, FDI chưa tác động rõ rệt đến tình hình kinh tế - xã hội nước ta. Nhưng từ năm 1991 đến năm 1997 đã diễn ra làn sóng FDI thứ nhất, với 2.230 dự án và vốn đăng ký 16,244 tỷ USD, vốn thực hiện 12,98 tỷ USD. Trong đó, chỉ riêng năm 1997, vốn thực hiện đã đạt 3,115 tỷ USD, gấp 9,5 lần năm 1991.

Tuy nhiên, từ năm 1998 đến năm 2004, do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, nên trong số 3.968 dự án mới, phần lớn có quy mô nhỏ, vốn đăng ký năm 1998 chỉ là 5,099 tỷ USD, năm 2000 là 2,838 tỷ USD, năm 2004 là 4,547 tỷ USD. Trong khi đó, vốn thực hiện trong giai đoạn này là 17,66 tỷ USD, chỉ tăng 36% so với giai đoạn 1991-1997.

Nhưng năm 2005 lại mở đầu làn sóng FDI thứ hai vào Việt Nam, với vốn đăng ký 6,839 tỷ USD và vốn thực hiện 3,3 tỷ USD. Từ năm 2006 tới nay, Việt Nam đã thu hút được một lượng lớn vốn FDI. Con số giải ngân cũng khá tích cực (xem bảng).

Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, tính chung, từ năm 1988 đến năm 2011, tổng vốn đăng ký còn hiệu lực của 13.496 dự án FDI là 195,9 tỷ USD, vốn thực hiện là 88,2 tỷ USD, chiếm 43,2% vốn đăng ký.

Những đóng góp to lớn

Có thể nói, FDI đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội 1991 - 2000 là 30%, 2001 - 2005 là 16%, 2006 - 2011 là 28%. Các doanh nghiệp FDI đóng góp vào GDP thời kỳ 2001 - 2005 là 14,5%, tăng lên 20% năm 2010; nộp ngân sách nhà nước năm 2010 là 3,1 tỷ USD gần bằng cả 5 năm 2001 - 2005 (3,5 tỷ USD). FDI tạo ra khoảng 40% giá trị sản lượng công nghiệp, có tốc độ tăng khá cao, 2001- 2010 tăng 17,4%/năm trong khi toàn ngành công nghiệp tăng 16,3%/năm. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI tăng nhanh, 2001 - 2005 là 57,8 tỷ USD, 2006 - 2010 là 154,9 tỷ USD, bằng 2,67 lần, chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước (kể cả dầu thô).

Bên cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng hình thành nhiều ngành kinh tế, như khai thác, lọc hóa dầu, ô tô, xe máy, điện tử, xi măng, sắt thép, thực phẩm, thức ăn gia súc; cũng như góp phần hình thành một số khu đô thị hiện đại như Phú Mỹ Hưng, Nam Thăng Long, nhiều khách sạn 4- 5 sao, khu nghỉ dưỡng cao cấp, văn phòng cho thuê... Lĩnh vực dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, bán buôn, bán lẻ đã du nhập phương thức kinh doanh hiện đại, công nghệ tiên tiến, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của các tầng lớp dân cư.

Một thành tựu khác, tính đến cuối  năm 2011, khu vực FDI tạo ra hơn 2,3 triệu việc làm trực tiếp và hàng triệu việc làm gián tiếp, trong đó có hàng vạn kỹ sư, nhà quản lý trình độ cao, đội ngũ công nhân lành nghề, với thu nhập ngày càng tăng, du nhập phương thức lao động, kinh doanh và quản lý tiên tiến.

Còn đó những nỗi lo

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, hoạt động FDI cũng đã bộc lộ những nhược điểm và khuyết điểm, như chưa phù hợp với quy hoạch phát triển ngành và vùng kinh tế, một số máy móc thiết bị công nghệ lạc hậu đã được nhập khẩu, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng... Chuyện ô nhiễm ở sông Thị Vải, sông Cầu, sông Nhuệ là ví dụ điển hình.

Cùng với đó, cũng đã xảy ra “cuộc chiến giữa các tỉnh, thành phố chào mời nhà đầu tư quốc tế” bằng những ưu đãi quá mức thuế, tiền thuê đất, ảnh hưởng tiêu cực đến phúc lợi chung của cộng đồng. Đã xảy ra tranh chấp lao động trong một số doanh nghiệp FDI. Gần đây, việc “chuyển giá” của một số doanh nghiệp FDI, gây ra tình trạng “lỗ giả lãi thật” nổi lên như vấn đề thời sự.

Nhiều bài báo đã đề cập các vấn đề đó, bài này chỉ lưu ý thêm hai thông tin:

 Một là, theo báo cáo “Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2010” của Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ (USAID) và Dự án Nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI) trên cơ sở khảo sát 1.155 doanh nghiệp của 47 quốc gia, đại diện cho 21% số doanh nghiệp FDI đang hoạt động thì “doanh nghiệp FDI tại Việt Nam có quy mô tương đối nhỏ và có lợi nhuận thấp, chủ yếu làm thầu phụ cho các công ty đa quốc gia lớn hơn, do đó thường nằm trong khâu thấp nhất của giá trị sản phẩm”; khoảng 5% doanh nghiệp FDI hoạt động trong ngành công nghệ hiện đại, 5% vào dịch vụ khoa học - công nghệ, 3,5% vào dịch vụ tài chính, quản lý đòi hỏi kỹ năng cao.

Hai là, khi trả lời câu hỏi doanh nghiệp có ý định cân nhắc đầu tư ở nước khác hay chỉ tập trung đầu tư ở Việt Nam, thì 55% doanh nghiệp tham gia phỏng vấn cho biết, có cân nhắc đầu tư ở nước khác, trong đó 30% sang Trung Quốc, 10% sang Thái Lan, 8% sang Campuchia, 6% sang Indonesia, 4% sang Philippines và 4% sang Lào.

Mặc dù các tư liệu điều tra chọn mẫu chỉ có tính tham khảo, nhưng cũng báo động rằng, nước ta đã chậm chuyển đổi định hướng chính sách FDI từ đầu thế kỷ XXI. Môi trường đầu tư tuy đã được cải thiện, nhưng so với nhiều nước trong khu vực thì chưa đủ hấp dẫn nhà đầu tư có tiềm năng lớn. Đối với Việt Nam, cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư càng gay gắt hơn khi theo xếp hạng năm 2011, Trung Quốc vẫn dẫn đầu, Indonesia, Malaysia và Singapore lọt vào top 10 quốc gia có môi trường đầu tư tốt nhất thế giới; và khi trong số 5 nước mới nổi BRICS, thì 4 nước đã lọt vào danh sách 10 quốc gia có nền kinh tế hàng đầu thế giới, là Trung Quốc (thứ 2), Brazil (thứ 6), Nga (thứ 9) và Ấn Độ (thứ 10). Với dân số gần 3 tỷ người, 4 nước này là những thị trường hấp dẫn FDI nhất thế giới.

Tầm nhìn 2012 và sự chuyển hướng chính sách

Năm 2012, tình hình kinh tế quốc tế biến động theo chiều hướng không thuận lợi, giá cả thị trường thế giới có xu hướng giảm, nợ công ở nhiều nước vẫn là nguy cơ lớn. Bà Christine Lagarde, Giám đốc quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho rằng: “Kinh tế thế giới đang ở trong trạng thái hiểm nghèo”.

Tuy vậy, cũng có dự báo về khả năng phục hồi kinh tế của các nước lớn, khu vực Đông Á vẫn dẫn đầu tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch thành trung tâm phát triển kinh tế thế giới.

Trong bối cảnh đó, Báo cáo đầu tư quốc tế 2011 của Diễn đàn Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc ( UNCTAD) dự báo FDI quốc tế năm 2012 là 1.700 tỷ USD, cao hơn năm 2011 (1.400-1.600 tỷ USD). Trong khi đó, con số này của năm 2013 là 1.900 tỷ USD, bằng năm cao nhất - 2007. Lần đầu tiên FDI vào các nước đang phát triển và đang chuyển đổi chiếm gần 50% FDI thế giới.

Việt Nam được chuyên gia kinh tế đánh giá là quốc gia dễ bị tổn thương nhất trong các nền kinh tế châu Á trước sự biến động của kinh tế thế giới, vì tình trạng lạm phát cao, doanh nghiệp chưa đủ mạnh, thâm hụt ngân sách lớn và hoạt động của hệ thống ngân hàng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Năm 2012, nền kinh tế nước ta vừa phải khắc phục hậu quả của năm 2011, vừa bắt đầu tái cơ cấu kinh tế theo mô hình tăng trưởng mới. Việt Nam đồng thời đứng trước thời cơ lớn khi quan hệ đối ngoại với các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU, Ấn Độ được nâng cấp; ASEAN đang tiến tới Cộng đồng chung. Việt Nam không chỉ được nhiều nhà đầu tư nhận định là có ưu thế về ổn định chính trị, an ninh xã hội, mà trước tình hình thiên tai, như động đất và sóng thần ở Nhật Bản, lũ lụt kéo dài nhiều tháng ở Thái Lan, cũng đã được nhiều doanh nghiệp nước ngoài lựa chọn là địa điểm đầu tư thích hợp để bảo đảm hoạt động sản xuất và kinh doanh lâu dài.

Cần khẳng định rằng, FDI tiếp tục là nguồn vốn quốc tế quan trọng nhất đối với Việt Nam, khi viện trợ phát triển (ODA) đang có xu hướng giảm, khi đầu tư gián tiếp khá bấp bênh. Chính phủ cần đưa ra thông điệp rõ ràng về định hướng FDI mới chuyển sang chính sách nâng cấp FDI, coi trọng hơn chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội.

Chính sách nâng cấp FDI được hình thành theo các hướng ưu tiên dự án công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường, công nghiệp phụ trợ, dịch vụ hiện đại, xây dựng khu kinh tế đặc biệt, thiết lập mối liên kết giữa các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) hàng đầu thế giới từ các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) với doanh nghiệp trong nước nhằm làm cho các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng lợi nhờ vào hợp tác, phân công về công nghệ và thị trường với TNCs; khuyến khích TNCs hợp tác với các cơ sở đào tạo bậc đại học và dạy nghề trình độ cao, các tổ chức nghiên cứu khoa học để nâng cao  trình độ và năng lực của các đơn vị đó.

Đổi mới đồng bộ để nâng chất dòng vốn FDI

Trên cơ sở định hướng FDI mới, cần đổi mới đồng bộ về thể chế, luật pháp, công tác quy hoạch, quản lý nhà nước như xúc tiến đầu tư, thẩm định, cấp phép, hướng dẫn, triển khai dự án, theo dõi, hỗ trợ, kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất - kinh doanh, cải tiến phân cấp quản lý, thiết lập hệ thống thu thập và xử lý thông tin về FDI.

Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp năm 2005 cần được sửa đổi cơ bản bởi vì đã bộc lộ nhiều nhược điểm đang cản trở hoạt động FDI. Một số chuyên gia kiến nghị,  xây dựng Luật Doanh nghiệp mới với những điều khoản đáp ứng đòi hỏi đầu tư, kinh doanh và hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới, đủ chi tiết để điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp. Nghị định của Chính phủ chỉ để hướng dẫn thi hành luật, không chứa đựng nội dung luật như hiện nay, tốt nhất là không có thông tư của các bộ.

Đối với Luật Đầu tư năm 2005, nhiều ý kiến nhận xét rằng, nội dung của luật này trùng lặp với nhiều luật khác, do vậy nên hình thành Chương Đầu tư trong Luật Doanh nghiệp, bởi vì đầu tư là hoạt động chính của doanh nghiệp. Cũng có ý kiến cho rằng, trong Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2005 không chú ý đặc điểm của FDI và doanh nghiệp FDI, nên đã không điều chỉnh được mọi hành vi liên quan đến FDI, làm giảm hiệu năng quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế này. Do vậy, Luật Doanh nghiệp mới cần khắc phục nhược điểm đó.

Hơn thế, trước thực trạng nhiều doanh nghiệp FDI đang gặp khó khăn do tác động từ khủng hoảng kinh tế thế giới và lạm phát cao trong nước, thì Chính phủ và chính quyền các cấp cần tiếp cận, hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua tình trạng kinh doanh kém hiệu quả. Đó chính là cách xúc tiến đầu tư tốt nhất, vì chính các doanh nghiệp này sẽ quảng bá rộng rãi chính sách và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước ra bên ngoài.

Các cuộc vận động đầu tư cần hướng chủ yếu vào 500 TNCs hàng đầu thế giới đối với dự án công nghệ cao, dịch vụ hiện đại, nghiên cứu và phát triển, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thường xuyên cập nhật thông tin về điều kiện đảm bảo đầu tư theo yêu cầu của từng TNCs thay cho những cuộc hội thảo đông người kém hiệu quả. Sau khủng hoảng kinh tế thế giới, TNCs điều chỉnh thị trường đầu tư, có thể Việt Nam không còn được lựa chọn hoặc được đưa vào diện ưu tiên, do đó cần theo dõi để biết được chiến lược đầu tư mới của  TNCs.

Các bộ lập và công bố quy hoạch ngành kinh tế - kỹ thuật đủ chi tiết, gắn với quy hoạch vùng lãnh thổ, xây dựng tiêu chuẩn, định mức để hướng dẫn chính quyền địa phương thực hiện, bảo đảm việc phân cấp quản lý vừa phát huy được tính năng động, sáng kiến của tỉnh, thành phố, vừa bảo vệ lợi ích quốc gia. Trên cơ sở đó, chuyển trọng tâm quản lý nhà nước đối với FDI sang hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra doanh nghiệp khi đưa dự án đầu tư vào hoạt động theo đúng quy định luật pháp.

Hiện nay, Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đang xây dựng Trung tâm Thông tin được nối mạng với các sở kế hoạch và đầu tư, ban quản lý KCN, KKT, doanh nghiệp FDI, hải quan, cơ quan thuế, ngân hàng để khắc phục nhược điểm thiếu thông tin, không cập nhật, nhằm đánh giá đúng thực trạng và đề ra giải pháp xử lý kịp thời đối với hoạt động FDI trong cả nước. Đây là điều đáng mừng.

Bài học thành công và thất bại trong kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, trong đó có thu hút FDI là tài sản quý giá để người Việt Nam khôn ngoan hơn, để tiếp nhận vốn đầu tư quốc tế có hiệu quả hơn và phát triển bền vững hơn.

Tình hình FDI nói chung tại Việt Nam:

Đã hơn 10 năm đã đi qua kể từ khi Nhà nước ban hành Luật Đầu tư Nước ngoài vào tháng 12/1987 tính cho đến cuối tháng 12 năm 1999, một khoảng thời gian rất ngắn so với lịch sử phát triển của một dân tộc, nhưng trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài Việt Nam đã gặt hái được khá nhiều những kết quả quan trọng. Chúng ta cần xem xét, đánh giá phân tích kỹ càng những việc đã làm được và chưa làm được trong vấn đề đầu tư trực tiếp để có thể phát huy những lợi thế và có thể giải quyết những khó khăn tồn tại còn vướng mắc để có thể thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng nhiều và quản lý sử dụng thật hiệu quả hơn góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển .

Cụ thể ta có thể thấy rõ những tác động chủ yếu sau của đầu tư nước ngoài đến nền kinh tế Việt Nam sau hơn 10 Luật Đầu tư Nước ngoài được ban hành:

Cơ cấu đầu tư:

Cơ cấu đầu tư trực tiếp phân theo ngành

Bảng 5: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam theo ngành

(Từ ngày 01/01/1998 đến 31/05/2000)

Đơn vị: 1.000.000 USD

Ghi chú: - Vốn tính tại thời điểm cấp giấy phép ban đầu.

- Không tính các dự án đầu tư ra nước ngoài

- Các tỉnh và khu công nghiệp cấp lấy theo số liệu đã nhận được.

Qua 10 năm cơ cấu đầu tư theo ngành có sự chuyển dịch lớn, ngày càng phù hợp với mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nếu trong những năm 1998 - 1990, vốn đầu tư tập trung chủ yếu vào ngành dầu khí (32,2%), xây dựng khách sạn (20,6%), thì từ năm 1991 đến nay, đầu tư vào công nghiệp tăng nhiều (xem bảng 5 ở trên), đến giữa năm 2000 chiếm tới 54,28% số dự án và 41,59% tổng vốn đầu tư. Nhưng vào nông nghiệp còn quáthấp (2,94% vốn đầu tư) mặc dù Việt Nam là một nước có nhiều tiềm năng về nông nghiệp.

Cơ cấu đầu tư phân theo vùng lãnh thổ:

Bảng 6: Đầu tư trực tiếp vào Việt Nam theo vùng

(Từ ngày 01/01/1998 đến 31/05/2000)

Đơn vị: 1.000.000 USD

Như vậy cơ cấu đầu tư theo vùng là không đồng đều giữa các vùng trong cả nước: trên 90% số dự án tập trung ở hai miền Nam - Bắc (thực chất là ở hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cùng các vùng phụ cận của hai thành phố này), còn miền Trung thì chỉ có 6%.

Công nghệ và môi trường:

Đối với Việt Nam, FDI hiện nay là một trong những nguồn chuyển giao công nghệ chủ yếu. Nhìn chung trình độ công nghệ đã chuyển giao tiến bộ hơn nhiều so với các công nghệ hiện có tại Việt Nam. Trong một số lĩnh vực như dầu khí, viễn thông, điện điện tử, sản xuất xi măng, một số thiết bị trong dây chuyền dệt, thêu, được chuyển giao vào Việt Nam thuộc loại tiên tiến của thế giới. Dự án hợp doanh giữa Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông với Tập đoàn Telstra (Australia) với vốn đầu tư 287 triệu USD đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của viễn thông Việt Nam. Dự án đèn hình Orion – Hanel, liên doanh giữa tập đoàn Daewoo (Hàn Quốc) với Công ty Điện tử Hà Nội với vốn đầu tư 178 triệu USD, công suất 1,6 triệu bóng đèn hình màu/năm, được đánh giá có trình độ công nghệ tương đương với trình độ của Hàn Quốc và các nước trong khu vực. Trong một số lĩnh vực như cơ khí, luyện kim, hoá chất, công nghiệp nhẹ công nghệ chỉ thuộc loại thông thường, phổ biến ở Việt Nam. Cá biệt có một số công nghệ và thiết bị đưa vào Việt Nam là những công nghệ và thiết bị lạc hậu (công nghệ khai thác vàng Bồng Miêu, công nghiệp sản xuất tinh bột sắn ở Đà Nẵng, công nghiệp chế biến thức ăn gia súc...).

Kỹ năng quản lý:

Hầu hết các xí nghiệp có vốn FDI đều áp dụng phương pháp quản lý tiên tiến của các nước đang phát triển. Hình thức liên doanh đã tạo điều kiện cho các nhà quản lý của phía Việt Nam có thêm cơ hội trực tiếp học hỏi, tiếp nhận kỹ năng quản lý, tổ chức kinh doanh theo mô hình sản xuất tiên tiến.

Hình thức đầu tư:

Cho đến nay, xấp xỉ 2/3 số dự án vốn FDI thuộc về các liên doanh. Theo đánh giá của các chuyên gia thì phần vì tỷ trọng vốn do Việt Nam đóng góp quá nhỏ so với vốn của đối tác nước ngoài, do vậy không nắm được các chức vụ quan trọng và tiếng nói quyết định trong liên doanh. Các đối tác nước ngoài do vậy thường làm chủ chất xám và công nghệ. Hơn nữa phần lớn số vốn góp vào lại là đất đai, nhà xưởng nhiều khi được tăng giá đã kích thích các nhà đầu tư nước ngoài tăng giá hàng hoá và máy móc đưa vào.

Tranh chấp lao động:

Một phần do những qui định sử dụng lao động Việt Nam khá phức tạp, phần vì sự khác biệt trong phong cách quản lý, phần nữa là sự khác biệt về văn hoá song lớn nhất là vì lợi ích kinh tế ở một số doanh nghiệp có vốn FDI đã xảy ra tranh chấp giữa công nhân và chủ đầu tư nước ngoài. Những tranh chấp này không lớn, chưa có biểu hiện đòi hỏi về chính trị hoặc có sự liên kết giữa các doanh nghiệp. Tuy vậy những tranh chấp này ít nhiều cũng gây ảnh hưởng không tốt đến tiến độ và hiệu quả thực hiện của đồng vốn.

Môi trường:

Tuỳ theo lĩnh vực và tính chất của công nghệ, các dự án FDI đều có những qui định, tiêu chuẩn cụ thể về vấn đề môi trường. Tuy nhiên, nhiều dự án chưa quán triệt việc thực hiện việc thực thi Luật Bảo vệ môi trường. Một số dự án có tiến hành xây dựng không qua thẩm định đánh giá tác động môi trường. Có dự án đã xây xong, sau một thời gian hoạt động mới bắt đầu triển khai xây dựng công trình xử lý nước thải. Khu chế xuất Tân Thuận (thành phố Hồ Chí Minh ) có trên 60 nhà máy hoạt động, mới đây tiến hành động thổ xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung. Nhà máy đèn hình Orion – Hanel mỗi ngày thải ra 1,5 tấn chất thải rắn mà chưa có cách giải quyết.

Từ trên đây ta có thể thấy rõ những kết quả đáng ghi nhận của đầu tư trực tiếp tại nước ta:

Thứ nhất, đóng góp vốn cho nền kinh tế: theo số liệu của Bộ Kế hoạch Đầu tư công bố, cho đến cuối tháng 12/1999, tổng số vốn thực hiện là 17.394 triệu USD, bằng khoảng 40% vốn đăng ký ( đây là mức cao trong khu vực) thì vốn từ nước ngoài là 14.955 triệu USD còn lại là của Việt Nam (xem phụ lục). Đối với một nước nghèo như Việt Nam thì đây quả là một điều đáng quí. Nguồn vốn FDI chủ yếu là ngoại tệ mạnh và máy móc thiết bị tương đối hiện đại nên đã góp phần taọ ra cơ sở vật chất mới, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, tăng thêm năng lực sản xuất mới của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhất là công nghiệp.

Thứ hai, về mặt xã hội, đầu tư nước ngoài đã và đang góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm (khoảng 300 nghìn người là lao động trực tiếp cùng khoảng 1 triệu người là lao động gián tiếp - xem phụ lục). Thông qua việc thu hút lao động xã hội, FDI đã góp phần đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động Việt Nam, chuyển đổi cơ cấu lao động xã hội theo hướng giảm lao động nông nghiệp, tăng lao động công nghiệp và dịch vụ cả về số lượng, tỷ trọng và chất lượng, góp phần giảm các tệ nạn xã hội cũng như giảm các tội phạm về kinh tế, làm tăng sự ổn định chính trị của cả nước cũng như từng địa phương.

Thứ ba, tỷlệ đóng góp của FDI trong các mặt GDP, tăng kim ngạch xuất khẩu, và Ngân sách Nhà nước. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 1998 đóng góp 10,1% GDP, năm 1999 tăng lên là 10,3% GDP, và năm 2000 dự kiến sẽ là khoảng 10,5%. Tổng doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 1997 là 3.605 triệu USD, năm 1999 là 4.600 triệu USD, và dự kiến năm 2000 sẽ đạt tới 5.300 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng từ 52 triệu USD từ năm 1991 lên tới 2.577 triệu USD vào năm 1999 và sẽ đạt tới 2.900 triệu USD vào năm 2000. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã đóng góp một lượng đáng kể cho ngân sách nhà nước, năm 1994 mới chỉ đạt 128 triệu USD thì đến năm 1998 đã đạt được 317 triệu USD, riêng năm 1999 có giảm đi còn 271 triệu USD.

Thứ tư, sự góp mặt của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo môi trường cạnh tranh giúp các doanh nghiệp trong nước vươn lên học tập kinh nghiệm quản lý, trang bị kỹ thuật hiện đại hơn, thay đổi cách nhìn về thị trường và quen dần với tập quán làm ăn quốc tế.

Thứ năm, thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi, tăng thu ngân sách. Đầu tư nước ngoài đã và đang tạo ra những ngành và sản phẩm mới có kỹ thuật, công nghệ cao, chất lượng cạnh tranh, nhất là ngành công nghiệp, viễn thông. FDI thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp và các hoạt động dịch vụ trong nền kinh tế Việt Nam. Hai khu vực này có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn nông nghiệp thúc đảy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng tích cực. Năm 1997, FDI chiếm tỷ trọng 28,5% giá trị sản xuất công nghiệp, tăng trưởng với tốc độ 20,6% (trong khi khu công nghiệp trong nước chỉ tăng trưởng 10%), đảm bảo cho toàn ngành vẫn tăng trưởng với nhịp độ 13,2% so với năm 1996. Sáu tháng đầu năm 1998, do nhiều khó khăn khách quan, công nghiệp trong nước chỉ tăng 9% so cùng kỳ 97, nhưng nhờ có công nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn (31%) lại tăng trưởng nhanh (21,8%) nên tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành đạt 12,6%. Một số ngành công nghiệp quan trọng và mới, FDI chiếm tỷ trọng lớn 100% trong ngành khai thác dầu khí, 63% ngành sản xuất xe có động cơ, 40% trong ngành công nghiệp da và điện tử, 18% trong ngành công nghiệp thực phẩm, đồ uống.

Thứ sáu, đầu tư nước ngoài góp phần chủ yếu đẩy nhanh quá trình hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, vùng kinh tế trọng điểm, ngành công nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế Việt Nam. Đến cuối tháng 7/1998, Việt Nam đã có 54 khu công nghiệp, khu chế xuất trong đó 48 khu công nghiệp, khu chế xuất đi vào hoạt động, phân bố rộng khắp đi từ Bắc vào Nam. Được hình thành sớm nhất là Khu chế xuất Tân Thuận (thành phố Hồ Chí Minh, năm 1991) hợp tác với Đài Loan, trên diện tích 300 ha, có tổng số vốn đầu tư 89 triệu USD tại huyện Nhà Bè, đến nay đã thu hút được hơn 110 công ty nước ngoài vào sản xuất kinh doanh. Trong số 54 khu công nghiệp (không kể khu công nghiệp Dung Quất thuộc dạng đặc biệt) có 20 khu công nghiệp mới hiện đại, trong đó có 13 khu công nghiệp hợp tác với nước ngoài để phát triển hạ tầng, 34 khu công nghiệp thành lập trên cơ sở đã có một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động. Đến hết tháng 6/98 trên các khu công nghiệp đã có 609 doanh nghiệp hoạt động, với tổng số vốn đầu tư khoảng 5,8 tỷ USD, vốn thực hiện 3,5 tỷ USD, thu hút 120 nghìn lao động. Sáu tháng đầu năm 98 các khu công nghiệp đã đạt giá trị sản xuất công nghiệp 890 triệu USD, xuất khẩu 552 triệu USD. FDI đã góp phần hình thành 3 vùng kinh tế trọng điểm của 3 miền Bắc - Trung - Nam, mỗi vùng làm một khu vực tăng trưởng nhanh, có tác dụng đầu tàu đối với kinh tế Việt Nam.

Thứ bảy, đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng trong việc biến những tiềm năng về đất đai, rừng biển và lao động Việt Nam trở thành hiện thực. Các dự án thăm dò và khia thác dầu khí được triển khai trên vùng biển và thềm lục địa Việt Nam trong 10 năm qua đã biến tiềm năng dầu khí thành sản phẩm xuất khẩu dầu thô, biến dầu thô tư số không trở thành sản phẩm xuất khẩu có giá trị lớn nhất của Việt Nam hiện nay. Các dự án sản xuất các mặt hàng công nghiệp như điện tử, dệt, da, may mặc, sản xuất vật liệu xây dựng, vô tuyến viễn thông đã biến tiềm năng lao động và tay nghề của người Việt Nam thành sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Tuy nhiên, vẫn luôn tồn tại những mặt hạn chế của FDI tại Việt Nam trong thời gian qua, đó là:

- Bên cạnh lúc ta đang cần vốn thì sau một cơn khủng hoảng thì FDI có xu hướng giảm, đồng thời qui mô bình quân một dự án cũng giảm hơn so với thời gian trước. Lấy ví dụ trong năm 1996 FDI vào Việt Nam là 8.640 triệu USD nhưng đến năm 1997 chỉ còn 4.654 triệu USD, và cho đến ngày 20/12/1999 thì FDI vào năm 1999 chỉ có 1.477 triệu USD. (xem phụ lục 2)

- Tỷ lệ góp vốn vào liên doanh của Việt Nam còn quá thấp, lại thường bằng vốn đất đai, nhà xưởng hay lao động điều này dẫn đến sự thiệt thòi cho bên Việt Nam trong việc ra quyết định cũng như hưởng quyền lợi. Ta có thể thấy điều này trong phụ lục 2, khi mà trong 5 năm 1991 - 1995 tỷ lệ vốn góp của ta trong các dự án FDI là 27%, nhưng các năm sau đó thì thấp dần :16%, 15%, 8%, 5% và dự đoán năm 2000 thì tỷ lệ này là 6%.

- Chưa có nhiều đối tác mạnh. Phần lớn lượng vốn FDI đến từ châu Á đặc biệt là Singapore, HongKong và Đài Loan (42%), 17% đến từ các nước bị khủng hoảng châu Á (Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Indonesia) và 17% khác đến từ các nước OECD (trừ Hàn Quốc). Năm 1996 Nhật Bản đứng thứ hai trong bảng xếp hạng các nước đầu tư trực tiếp vào Việt Nam nhưng cho đến nay đã tụt xuống thứ 4. Các nước như Mỹ, Canada, và liên minh châu Âu vẫn giữ những vị trí rất khiêm tốn. Trong số 13 nước đứng đầu trong đầu tư trực tiếp vào Việt Nam thì EU chỉ có 2 nước là Pháp (xếp thứ 6) và Anh (xếp thứ 10), Mỹ xếp thứ 9 (tính đến ngày 31/05/2000). (xem phụ lục 3)

- Hiệu quả đầu tư chưa cao và không đồng đều, một số dự án đã đi vào hoạt động 3 - 4 năm nhưng vẫn bị thua lỗ, ví dụ: hoá chất lỗ 32 triệu USD, bằng 29% vốn đầu tư; sản xuất bàn ghế giường tủ lỗ 4 triệu USD, bằng 15,4% vốn đầu tư (năm1997). Nguyên nhân lỗ vốn có nhiều, song yếu tố đáng cảnh báo là chi phí vật chất và khấu hao tài sản cố định quá lớn do định giá máy móc, thiết bị nước ngoài đưa vào liên doanh quá cao.

- Nhìn vào bảng 6 ta thấy cơ cấu đầu tư theo ngành chưa thật hợp lý. Tỷ trọng của ngành xây dựng vẫn lớn (44% trong tổng cam kết), ngành chế biến chỉ chiếm độ 1/4 của tổng số cam kết, khác với nơi khác mà ngành chế biến có xu hướng chiếm phần lớn nguồn FDI ( ví dụ, 65% ở Trung Quốc và 59% ở Ấn Độ). Trong ngành công nghiệp, công nghiệp nặng chiếm tỷ trọng lớn. Nhìn chung, khoảng 43% vốn cam kết được đưa vào sản xuất hàng hoá thương mại, kể cả hàng chế biến, trong khi sản xuất hàng hoá phi thương mại thu hút khoảng 265 vốn cam kết. 31% còn lại được đầu tư vào các hoạt động phi thương mại khác hướng về xuất khẩu hay nhằm đóng góp vào việc cải thiện không khí đầu tư chung (như khách sạn và du lịch, xây dựng các Khu chế xuất, Khu công nghiệp và giao thông vận tải).

Hình 6: Tỷ trọng phần trăm của FDI tại Việt Nam vào các ngành.

- Tạo ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp nội địa về lao động kỹ thuật, về thị trường trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh mặt tích cực sự cạnh tranh đó cũng xuất hiện nhiều yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp Việt Nam quá yếu kém về mọi mặt nếu so với các công ty liên doanh, hay 100% vốn nước ngoài về vốn, công nghệ và đặc biệt là cách quản lý, thiếu hẳn sự năng động và nhạy bén để thích nghi được với cơ chế thị trường. Rõ nhất là sản xuất bia, bột giặt, dệt, da, lắp ráp điện tử, chế biến nông sản, xi măng. Ví dụ, công nghiệp điện tử liên doanh với nước ngoài tăng 35% lập tức khu vực trong nước giảm 5%, tương tự như vậy với vải tăng 37,5% thì trong nước giảm 1,3%.

- Mô hình khu công nghiệp, khu chế xuất tuy có nhiều ưu điểm, nhưng sự phát triển trong 10 năm qua, mô hình này ở Việt Nam cũng xuất hiện những yếu tố hạn chế. Trước hết đó là xu hướng phát triển tràn lan không theo qui hoạch, chạy theo số lượng mà chưa tính đến hiệu quả. Ở các khu công nghiệp, khu chế xuất tổng diện tích là 9000 ha, nhưng mới lấp đầy 23% diện tích còn 77% còn lại vẫn còn chờ các chủ đầu tư. Cả nước có 17 khu công nghiệp chưa thực hiện được dự án nào. Nước ta còn nghèo, nhưng Nhà nước đã dành hàng trăm triệu USD để xây dựng kết cấu hạ tầng của các khu công nghiệp để mời gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước, nhưng diện tích cho thuê được quá ít so với dự kiến. Điều này một phần do tính cục bộ của một số địa phương muốn có dự án của nước ngoài vào địa phương mình mà không nghĩ đến cái chung so với tổng thể trong cả nước, xin lấy ví dụ các nhà máy Honda, Toyota ở Vĩnh Yên mà lẽ ra vị trí của nó được đặt tại một khu công nghiệp nào đó ở Hải Phòng.

Tuy còn nhiều những hạn chế và nhược điểm, nhưng đánh giá một cách toàn diện, hơn 10 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, kết quả và thành tựu vẫn là cơ bản. Những hạn chế và nhược điểm trên đây chỉ là thứ yếu và đang được khắc phục bằng nhiều chủ trương và giải pháp của Chính phủ và các cấp ban ngành từ TW đến địa phương.

Đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam:

Các nước thuộc Liên minh châu Âu đã đầu tư vào Việt Nam ngay từ những ngày đầu khi nước ta ban hành Luật Đầu tư Nước ngoài vào Việt Nam (12/1987). Trong 15 nước thành viên EU, có 4 nước đến nay không có dự án FDI tại Việt Nam là: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hy Lạp và Ireland. Phần Lan chỉ có một dự án xây dựng căn hộ cho thuê tại Hà Nội đã bị rút giấy phép vào tháng 7/1997 do không triển khai. Do vậy cho đến nay (tính đến đầu tháng 3 năm 2000), Liên minh châu Âu chỉ còn 10 nước đầu tư vào Việt Nam. Mười nước này đã có 317 dự án đầu tư trực tiếp được cấp giấy phép, với số vốn đầu tư đăng ký là hơn 5.356 triệu USD. Hiện nay các nước EU còn 240 dự án đang hoạt động, với vốn đăng ký là hơn 4.419 triệu USD, chiếm 10,3% về số dự án và 12,4% về tổng vốn đầu tư của 59 nước và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Đầu tư của các nước EU được xếp theo thứ tự trong bảng số liệu sau đây, trong đó Anh và Pháp là hai nước đầu tư nhiều vốn nhất và Áo là nước đầu tư có số vốn và dự án ít nhất, xem bảng 6 dưới đây (nguồn Bộ Kế hoạch và đầu tư ):

Bảng 6: Thống kê các dự án EU đã cấp phép

(Tính tới ngày 28/02/2000)

Đơn vị: 1.000.000 USD

Với việc cải thiện môi trường đầu tư, thể hiện qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 cũng như các chính sách thu hút đầu tư cởi mở đã tạo ra một cơ hội mới đối với các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư EU nói riêng. Có thể nói, đây là cơ hội tốt để các nhà đầu tư EU tham gia đầu tư vào Việt Nam. Bởi vì:

- Việt Nam là một thị trường còn nhiều tiềm năng, với dân số gần 80 triệu người lại đang trong quá trình phát triển, với việc thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhu cầu tiêu dùng về tư liệu sản xuất, cũng như nhu cầu sinh hoạt không ngừng tăng lên.

- Tình hình chính trị trong nước ổn định, trật tự an toàn xã hội đảm bảo. Tuy có những tệ nạn xã hội song Chính phủ có những biện pháp hữu hiệu để xoá bỏ, tạo ra môi trường trong sạch.

- Luật Đầu tư Nước ngoài vừa được sửa đổi có nhiều điểm thông thoáng hơn đã khuyến khích đầu tư vào những lĩnh vực, khu vực cụ thể.

- Có chính sách ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng.

- Người Việt Nam, với trình độ giáo dục khá tốt, sự tinh tế, khả năng ứng xử và bàn tay khéo léo hứa hẹn một nguồn lực mạnh, kèm theo đó là thị trường lao động tương đối rẻ và ổn định. Thêm vào đó, tài nguyên thiên nhiên đa dạng, nhiều nguồn lực chưa được khai thác hoặc mới chỉ được khai thác bước đầu.

- Sau chín năm mở cửa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam đã bắt đầu có được những kinh nghiệm của cơ chế thị trường. Nó ngày càng hoạt động mạnh mẽ, thị trường đã từng bước được xây dựng đồng bộ và dần dần củng cố vững chắc.

- Đặc biệt là quan hệ giữa Việt Nam và từng nước EU đã có từ lâu, và gần đay quan hệ song phương cũng như đa phương giữa Việt Nam và EU được tăng cường mạnh mẽ.

Chính vì những lý do này mà luồng vốn đầu tư FDI của EU vào Việt Nam ngày càng tăng lên với nhiều nước EU đầu tư hơn. Với những năm trước đây, khi bắt đầu mở cửa chỉ có Đan Mạch, Pháp, CHLB Đức, và Thụy Điển thì vào những năm tiếp theo các nước khác lần lượt đầu tư vào.

Trong mối quan hệ với Việt Nam, luồng vốn FDI của EU hiện nay tập trung chủ yếu vào các hoạt động xây dựng và bất động sản (những lĩnh vực đang nhận được nhiều vốn đầu tư vào Việt Nam). Một phần vốn đáng kể vốn FDI của EU tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp chế biến - một ngành có tầm quan trọng chiến lược trong tương lai khi mà thị hiếu tiêu dùng thay đổi theo sự tăng nhanh về thu nhập và nhu cầu chế biến sẽ tạo ra các sản phẩm nông nghiệp có giá trị gia tăng ở Việt Nam. Ngoài ra, EU cũng có một vài dự án (của Bỉ) đầu tư vào ngành khai thác đá quí, chế tác kim cương đó cũng là một nét rất riêng. Các dự án FDI của EU đã góp phần tạo ra những ngành nghề mới cho nước ta, đặc biệt là những ngành về năng lượng (các dự án của Hà Lan), ngành dầu khí (các dự án của Anh), ngành bưu chính viễn thông (các dự án của Thụy Điển) , đây là những ngành đòi hỏi có vốn lớn, công nghệ - kỹ thuật hiện đại cùng một đội ngũ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, nó đã góp phần cho ta có được những ngành nghề mới và có những người lao động thuộc một lĩnh vực mới và hiện đại, đồng thời đây là những ngành mà ta cần phải có và thật vững mạnh thì mới có thể tiến lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước được. Sau đây là bảng số liệu về FDI của EU phân theo ngành tính đến ngày 28/02/2000 (nguồn Bộ KH&ĐT):

Bảng 7: Đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam phân theo ngành

(Từ ngày 01/01/1998 đến 31/12/1999)

Đơn vị: 1.000.000 USD

Ghi chú: - Vốn tính tại thời điểm cấp giấy phép ban đầu.

- Không tính các dự án đầu tư ra nước ngoài

- Các tỉnh và khu công nghiệp cấp lấy theo số liệu đã nhận được.

Về các hình thức đầu tư thì cũng như hầu hết các nước khác đầu tư vào Việt Nam, các dự án FDI của EU với Việt Nam đa phần là liên doanh (122 dự án đang hoạt động chiếm 56,5% số dự án đang hoạt động và 40,2% tổng số vốn đầu tư đăng ký của EU). Điều đáng chú ý ở đây là các công ty đầu tư của EU đã có một vài hình thức đầu tư hợp doanh với Việt Nam với số vốn rất lớn, chỉ có 24 dự án hợp doanh thì có tới 1.865,5 triệu USD vốn đầu tư - chiếm tới 43,9% (bình quân một dự án là 77,73 triệu USD) đây là điều khác biệt so với khu vực hay các nước đầu tư khác, trong khi đó vốn 100% lại chiếm không đáng kể nếu so bình quân một dự án. Sau đây là số dự án FDI đã còn hiệu lực của EU vào Việt Nam tính đến ngày 28/2/2000.

Bảng 8:Thống kê các dự án EU đang còn hiệu lực

(Tính tới ngày 28/02/2000)

Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đơn vị: USD

Về cơ cấu đầu tư phân theo vùng lãnh thổ, EU vẫn tập trung chủ yếu tại các thành phố lớn như Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phụ cận (Đồng Nai, Bình Dương, Vĩnh Phúc, Hải Phòng) nơi có cơ sở hạ tầng tương đối tố, còn các vùng sâu, vùng xa hay miền núi hầu như không có một dự án nào. Đây cũng là một tình trạng chung của đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Xét về tính hiệu quả, các dự án của EU có qui mô vốn đầu tư trung bình cao hơn so với các dự án FDI nói chung, các dự án này được coi là tương đối hiệu quả nhưng mang tính thất thường, có một số nước như Anh, Pháp, Hà Lan, đồng vốn bỏ ra thường đem lại hiệu quả cao trong khi đó Đức, Italia, và Bỉ lại thường không có được sự hiệu quả này, có một điều đáng mừng là các dự án mang lại hiệu quả thường là các dự án FDI lớn nhất của EU vào Việt Nam, hoặc các dự án lớn này thường mang lại hiệu quả một cách nhanh chóng, như dự án dầu khí của Anh. Đầu tư trực tiếp của EU cũng đã góp phần không nhỏ trong việc tạo việc làm cho người lao động, với 12% số vốn trong tổng số nước đầu tư thì nó đã tạo ra cho khoảng 20.000 lao động trực tiếp chiếm 7% trong tổng số lao động trực tiếp được tạo ra nhờ có FDI và khoảng độ vài vạn lao động gián tiếp, tuy chỉ có 7% lao động trực tiếp nhưng hầu hết đây là những lao động có chuyên môn tương đối cao, có sự đào tạo tốt, rất cần thiết cho nước ta trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Tuy nhiên, có thể nhận thấy ngay là tốc độ đầu tư trực tiếp của EU vẫn chưa nhanh, hơn thế nó lại rất thất thường. Trong những năm khi đất nước mới mở cửa thì có năm đầu tư của EU bỗng nhiên tăng, nhưng vào năm sau tự nhiên lại giảm hẳn xuống, như năm 1992 đầu tư của EU vào Việt Nam là 558 triệu USD, còn năm 1993 và 1994 là 272 và 177 triệu USD, trong khi đó đầu tư nước ngoài vẫn cứ tiếp tục tăng trong những năm này. Khi có cuộc khủng hoảng kinh tế vào năm 1997, thì đầu tư của EU cũng giảm xuống nhanh chóng, tỷ trọng FDI của EU năm 1998 so với năm 1997 chỉ còn có 40,2% (xem bảng 8) thấp hơn mức bình quân là 46,23% mặc dù EU là nơi ít bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế. Điều này chứng tỏ Việt Nam vẫn chưa phải là thị trường đầu tư hấp dẫn đối với EU, hay EU chưa ‘mặn mà’ với Việt Nam trong lĩnh vực này. Dưới đây là bảng đầu tư trực tiếp hai năm 1997 và 1998 của EU và Việt Nam:

Bảng 9: Các dự án FDI của EU được cấp phép tại Việt Nam trong hai năm 1997 và 1998

Dưới đây là hình minh hoạ tỷ lệ đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam, xét theo tỷ lệ vốn so với tổng số FDI vào Việt Nam (tính đến ngày 28/02/2000):

Nhìn vào các bảng trên ta thấy FDI của Liên minh châu Âu sang Việt Nam là tương đối thấp, cho tới nay đầu tư của EU chiếm 10,3% tổng số dự án còn hiệu lực tại Việt Nam, chiếm 12,4% về vốn đầu tư nếu so với tiềm năng của EU thì số dự án này vẫn còn khiêm tốn, thêm vào đó bình quân trung bình của một dự án cũng chỉ đạt ở mức trung bình. Nguyên nhân để tình trạng này cũng có nhiều, một phần do khách quan về phía đối tác và một phần do chủ quan của phía ta.

Ở đây những yếu tố chủ quan, ngoài những yếu kém chung đã nêu ở phần trên (thực trạng đầu tư nước ngoài), đối với đầu tư trực tiếp của EU, chúng ta còn nhiều vấn đề cần phải tháo gỡ. Đó là sự yếu kém bộc lộ rõ trong khâu thẩm định dự án, dẫn đến hiện tượng rất nhiều dự án đã xây dựng xong, hoặc đã được cấp giấy phép, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn xin hoãn, hoặc huỷ bỏ, hoặc giải thể trước thời hạn. Xin nêu dẫn chứng cụ thể, Pháp có tới 31 dự án giải thể trước thời hạn - chiếm tới 23,5% số dự án đây là một con số rất cao so với mức trung bình của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam là hơn 17%. CHLB Đức có công ty xây dựng văn phòng Badaco - Wego cũng xin hoãn trong việc xây dựng trung tâm thương mại tại thành phố Hồ Chí Minh, Bỉ xin hoãn trong dự án gia công chế tác kim cương. Tuy đây là các dự án nhỏ, nhưng nếu ta biết rằng dự án nhỏ thường đầu tư đi tiên phong, nếu thuận lợi thì dự án lớn sẽ tràn vào, vì thế vốn đầu tư của EU chiếm tỷ lệ chưa cao trong thời gian qua. Một phần nữa là do văn bản liên quan đến đầu tư nước ngoài thiếu tính ổn định và luôn phải sửa đổi, làm cho sự thích ứng của các dự án không cao, như dự án liên doanh của Italia làm sứ vệ sinh lúc chưa ban hành nhập sứ vệ sinh được Nhà nước cam kết không nhập, họ tiến hành xây dựng xong, chưa đi vào hoạt động thì Nhà nước lại có văn bản nhập sứ vệ sinh làm dự án coi như bị huỷ bỏ. Ngoài ra còn yếu tố về hệ thống ngân hàng Nhà nước ta chưa vững mạnh trong các vấn đề liên quan đến ngoại tệ, vấn đề giải ngân, cho vay cũng làm mất lòng tin đối với nhà FDI.

Về phía đối tác, đó là có một số dự án thiếu hợp tác với cơ quan chức năng của ta, họ đã thiếu những báo cáo cần thiết về dự án , do vậy chúng ta đã cảnh cáo và rút lại các giấy phép đầu tư. Hơn nữa, hầu hết các nhà đầu tư EU chưa chú trọng đến lĩnh vực hàng hoá trung gian mà lĩnh vực đó sẽ tăng nhanh trong quá trình công nghiệp hoá đang được đẩy mạnh tại Việt Nam. Đây là lĩnh vực mà các nước châu Á khác đã đầu tư đáng kể vào Việt Nam.

Nhưng dù sao ta có thể thấy rằng FDI của EU đã góp phần bù đắp nguồn vốn còn thiếu hụt trong sự nghiệp công nghiệp hoá của Việt Nam, và rất nhiều cái lợi nữa cho quá trình phát triển của Việt Nam. Dự kiến đến năm 2000 Việt Nam sẽ thu hút được một lượng vốn từ EU khoảng 5 đến 7 tỷ USD, đó là hy vọng lớn về một tương lai cho đầu tư trực tiếp của EU - một khu vực có nhiều tiềm năng về kinh tế cũng như kỹ thuật - vào Việt Nam ngày càng nhiều, quan hệ của cả hai phía ngày càng được mở rộng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro