ôn tậ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 1 – Chương 3

PHẠM TRÙ VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.
Vấn đề 1: Vấn đề cơ bản của triết học
MĐ: Triết học là hệ thống lí luận chung nhất của con người về tự nhiên, xã hội, tư duy cũng như chỉ ra vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó. Bằng sự hiểu biết của mình em xin trình bày nội dung vấn đề cơ bản của triết học như sau:
TĐ:  Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Sở dĩ mỗi quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của Triết học bởi:
- Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần trở thành tiền đề, là xuất phát điểm của mọi học thuyết triết học.
- Bất cứ nhà triết học nào, dù muốn hay không muốn, dù bằng cách này hay cách khác đều phải giải quyết vấn đề này.
- Ang-ghen là người chứng minh và khẳng định một cách thuyết phục rằng giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học nói chung và của triết học hiện đại nói riêng.
Vấn đề cơ bản của triết học gồm có 2 mặt. Mỗi mặt trả lời cho 1 câu hỏi lớn.
 Mặt thứ nhất: Bàn về nguồn gốc của thế giới: Vật chất có trước hay ý thức có trước, cái nào quyết định cái nào. Có 2 cách trả lời khác nhau đã dẫn đến hình thành 2 khuynh hướng triết học lớn đối lập nhau.
a, Chủ nghĩa duy vật
Những người theo chủ nghĩa duy vật cho rằng và chứng minh rằng: vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vật chất.
Trong chủ nghĩa duy vật gồm 3 dạng phái khác nhau:
- Chủ nghĩa duy vật ngây thơ
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng
b, Chủ nghĩa duy tâm
Là học thuyết khẳng định rằng ý thức là cái có trước, vật chất là cái có sau, ý thức sinh ra vật chất và quyết định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm có 2 dạng phái:
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan
Vật chất và thế giới song song tồn tại, không cái nào có trước, không có cái nào có sau, không có cái nào quyết định cái nào. Đây được gọi là “Nhị thuyết luận”. Theo thuyết này thì vật chật và ý thức cùng sinh ra thế giới.
Những người theo chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm cùng được gọi là “Nhất nguyên luận” tức là chỉ có 1 cái sinh ra thế giới, hoặc là vật chất, hoặc là ý thức.
 Mặt thứ hai: Trả lời cho câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Hay nói cách khác những hình ảnh của con người hay những tri thức mà con người có được về thế giới có phải là sự phản ánh một cách đầy đủ và trung thực về bản chất của thế giới hay không?
Để trả lời cho câu hỏi này, trong lịch sử triết học có 2 quan điểm:
Quan điểm 1: Khả tri luận: Con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được thế giới. Sự nhận thức của mỗi cá nhân là hữu hạn nhưng sự nhận thức của loài người từ thế hệ này qua thế hệ khác lại là vô hạn. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người hoàn toàn có thể nhận thức được thế giới. Tuy nhiên, theo thuyết này thì sự nhận thức được biểu hiện theo những cách khác nhau:
- Những người theo CNDT khách quan cho rằng nhận thức là sự hồi tưởng lại của linh hồn bất tử.
- Những người theo CNDT chủ quan cho rằng nhận thức là cái có sẵn dưới dạng bẩm sinh. Chủ thể của nhận thức phải biết tạo điều kiện cho tri thức của mình được bộc lộ, phát huy.
Quan điểm 2: Bất tri luận: Con người hoàn toàn không có khả năng nhận thức thế giới. Nếu có nhận thức được thế giới thì đó chỉ là bề ngoài, chứ không nhận thức được bản chất bên trong.
KĐ: Chính nhờ việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học mà từ đó hình thành nên các trường phái triết học khác nhau tiêu biểu là cuộc chiến giữa trường phái duy tâm và trường phái duy vật. Việc nghiên cứu thấu đáo các vấn đề cơ bản đề từ đó giải thích được hiện tượng mê tín dị đoan và tìm giải pháp khắc phục.

Vấn đề 2: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. / Định nghĩa vật chất của Lê nin.
MĐ: Từ hàng triệu năm nay mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đã trở thành vấn đề cơ bản của triết học. Phạm trù vật chất và mối liên hệ giữa vật chất và ý thức đã được các nhà triết học trước Mác quan tâm với nhiều quan điểm khác nhau và luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trong suốt lịch sử triết học. Sau đây em xin trình bày những nội dung về mối quan hệ biện chứng này:
TĐ: Để phân tích được mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức thì trước tiên ta phải hiểu và phát biểu được khái niệm về vật chất và ý thức.
 Vật chất:
Theo Lênin: “Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.”
 Ý thức: Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo thế giới khách quan và bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn.
 Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức thể hiện qua 2 ý chính sau:
- Vai trò của vật chất đối với ý thức
+ Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.
+ Vật chất là tiền đề, nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức.
+ Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó
+ Vật chất biến đổi thì ý thức biến đổi theo.
+ Vật chất là điều kiện để biến ý thức thành hiện thực
- Vai trò của ý thức đối với vật chất
+ Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ có ý thức, con người nhận thức được quy luật vận động, phát triển của thế giới khách quan.
+ Ý thức tác động lại vật chất theo hai chiều hướng:
    Tích cực: ý thức có thể trở thành động lực phát triển của vật chất
    Tiêu cưc: Ý thức có thể là lực cản, phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất khi ý thức phản ánh sai, phản ánh xuyên tạc các quy luật vận động khách quan của vật chất.
KĐ: Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: vật chất có trước ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức thì trong hành động nhận thức cũng như hành động thực tiễn của con người phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ý thức có tác động tích cực trở lại vật chất sinh ra nó cho nên đối với hoạt động thực tiễn của bản thân mỗi người cần phát huy năng động, sáng tạo của ý thức trong quá trình học tập và công tác. Chống bệnh chủ quan duy ý chí, có thái độ tích cực trong học tập và công tác tránh bệnh bảo thủ trì trê, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại.
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Vấn đề 1: Mối quan hệ phổ biến. Ý nghĩa phương pháp luận
MĐ: Trong phép biện chứng duy vật tồn tại 2 nguyên lý cơ bản là mối quan hệ phổ biến và nguyên lý phát triển cùng với 3 quy luật: quy luật lượng- chất, quy luật mâu thuẫn và quy luật phủ định của phủ định. Bằng sự hiểu biết của mình em xin phép trình bày nội dung nguyên lý mối quan hệ phổ biến như sau:
TĐ: Trước hết bàn về khái niệm:
- Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật hiện tượng trong thế giới
- Mối liên hệ phổ biến dùng để chí tính phổ biến của các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó các mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng.
Mối liên hệ phổ biến có 3 tính chất đặc trưng:
- Mối liên hệ mang tính khách quan: Các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật hiện tượng, nó không phụ thuộc vào ý thức con người.
- Mối liên hệ mang tính phổ biến: Bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có những mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác.
- Tính đa dạng và phong phú: Các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữa vị trí, vai trò khác nhau đói với sự tồn tại và phát triển của nó.
Có nhiều loại mối liên hệ khác nhau:
- Mối liên hệ bên trong- liên hệ bên ngoài
- Mối liện hệ chủ yếu- thứ yếu
- Mối liên hệ tất nhiên-ngẫu nhiên
- Mối liên hệ trực tiếp-gián tiếp
Sự phân chia các cặp mối quan hệ chỉ mang tính tương đối. Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có tác động phù hợp đạt hiệu quả cao nhất cho hoạt động thực tiễn của mình.
KĐ: Bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới cũng tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ rất phong phú và đa dạng. Như vậy có thể rút ra ỹ nghĩa của phương pháp luận:
- Từ tính khách quan và phổ biến của cá mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó và các sự vật khác. Như vậy quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn
- Từ tính đa dạng và phong phú của các mối liên hệ cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần hải kết hợp với quna điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm lịch sử cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn.  Cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình và khắc phục quan điểm chiết trung, nguỵ biện.

Vấn đề 2: Nguyên lý về sự phát triển. Ý nghĩa phương pháp luận.
MĐ: Trong phép biện chứng duy vật tồn tại 2 nguyên lý cơ bản là mối quan hệ phổ biến và nguyên lý phát triển cùng với 3 quy luật: quy luật lượng- chất, quy luật mâu thuẫn và quy luật phủ định của phủ định. Bằng sự hiểu biết của mình em xin trình bày nội dung nguyên lý về sự phát triển như sau:
TĐ: Trước hết bàn về khái niệm:
- Quan điểm siêu hình cho rằng phát triển của các sự vật, hiện tượng chỉ là sự tăng, giảm đơn thuần về số lượng, không có sự thay đổi gì về chất của sự vật.
- Quan điểm biện chứng phát biểu phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
=>  Phát triển cũng là qua quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực từ sự vật cũ trong hình hài mới của sự vật.
Nguyên lí phát triển có 3 tính chất sau:
- Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó.
- Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật hiện tượng và trogn mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng.
- Tính đa dạng và phong phú: Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng. mỗi lĩnh vực thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau.
KĐ: Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Từ đó, em rút ra được ý nghĩa của phương pháp luận:
- Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn phải có quan điểm phát triển. Quan điểm này chỉ ra khi xem xét bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong sự vận động, phát triển, vạch ra xu hướng biên đổi, chuyển hóa của chúng.
- Có quan điểm lịch sử cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề trong thực tiễn, phù hợp với tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của nó. Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển.








Vấn đề 3 hình thái kinh tế xã hội
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - Xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Xã hội loài người đã biết đến 5 hình thái kinh tế - xã hội tương ứng với 5phương thức sản xuất: Hình thái kinh tế - xã hội cộng đồng nguyên thủy, hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến,hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa .
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản đã đạt được những thành tựu to lớn về tin học, tự động hoá, công nghệ sinh học, vật liệu mới.Cùng với sự phát triển của khoa học quản lý có thể nói những thành tựu ấy đã làm thay đổi lớn năng lực hoạt động sáng tạo của con người, đem lại năng suất lao động và thu nhập quốc dân rất cao ở các nước tư bản phát triển và nước công nghiệp mới.
Hình thái kt xh là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với những quan hệ sản xuất của nó thích ứng với llsx ở một trình độ nhất định và với 1 kiểu kiến trúc thượng tầng được xây dựng lên trên những quan hệ sản xuất đó.
Hình thái kinh tế xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh có cấu trúc phức tạp, bao gồm các mặt cơ bản là llsx, quan hệ sx, và kiến trúc thượng tầng. mỗi mặt này có vị trí riêng nhưng tác động qua lại và thống nhất với nhau
Kết cấu và chức năng
Xã hội không phải là tổng số những hiện tượng sự kiện rời rạc , những cá nhân riêng lẻ mà là một chỉnh thể toàn vẹn có cơ cấu phức tạp. trong đó cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sx, và kiến trúc thượng tầng. mỗi mặt có vai trò nhất định và tác động đến mặt khác tạo nên sự vận động của cơ thể xh.
Llsx là nền tảng vật chất kỹ thuật của mỗi hình thái ktxh . sự hình thành và pt của mỗi hình thái ktxh xét đến cùng là do llsx quyết định.
Quan hệ sx giữa người và người trong quá trình sx là những quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định tất cả mối quan hệ xã hội khác. Mỗi  htktxh lại có 1 kiểu quan hệ sx tương ứng, là tiêu chuẩn khách quan để phân biết xã hội này vs hình thái xã hội khác.
Những qhsx là 1 bộ xương của cơ thể xã hội hợp thành cơ sở hạ tầng. trên cơ sở những quan hệ sx đó hình thành nên những quan điểm chính trị pháp luật.. và những thiết chế tương ứng hợp thành kiến trúc thượng tầng mà chức năng xh của nó là bảo về duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
Ngoài những mặt cơ bản đã đề cập còn có quan hệ giữa dân tộc quan hệ gia đình và các sinh hoạt xã hội khác.
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - Xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Lịch sử phát triển xã hội qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao tương ứng với mỗi giai đoạn ấy là một hình thái kinh tế xã hội.

+ Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử đều do tác động của các quy luật khách quan đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội.
+ Các quy luật khách quan của xã hội là:
- Quy luật và sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của LLSX.
- Quy luật CSHT quyết định KTTT.
Các quy luật xã hội khác. Đấu tranh giai cấp, chính do tác động của quy luật khách quan đó mà các hình thái xã hội vận động phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao trong lịch sử không phụ thuộc vào ý chí nguyện vọng chủ quan của con người.
Quá trình phát triển khách quan của xã hội có nguồn gốc sâu xa của sự phát triển LLSX. Do đó xét đến cùng LLSX quyết định quá trình vận động và phát triển của hình thái kinh tế xã hội như quá trình lịch sử tự nhiên.
Lực lượng sản xuất:
- Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất.
Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình
- Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Quan hệ sản xuất:
- Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của phương thức sản xuất có tính ổn định tương đối so với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất
Mối quan hệ giữa llsx và qhsx:
Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người biểu hiện ở trình độ công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất
Tính chất của lực lượng sản xuất: khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá.
- Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó LLSX quyết định QHSX và QHSX tác động trở lại LLSX.
Lực lượng sản xuất luôn luôn vận động phát triển bắt đầu từ công cụ lao động. từ khoá hoc công nghệ quan hệ sx có tính ổn định tương đối. sự phát triền của lực lượng sx đến 1 trình độ nhất định mâu thuẫn vs qhsx hiện có đòi hỏi phải thay đổi bằng 1 quan hệ phù hợp mới
Mối quan hệ thống nhất giữa llsx và qhsx tuân theo nguyên tắc khách quan qhsx phụ thuộc vào thực trạng phát triển của llsx
- Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất bao hàm khả năng chuyển háo thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có tác động thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất (lạc hậu hoặc vượt trước) sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại
Vận dụng : trước 1986 vn chưa có sự phù hợp giữa qhsx với llsx, qhsx tiên tiến giả tạo đi trước 1 bước so với llsx
Sau 1986 vn tiến hành đổi mới , bước đầu xây dựng qhsx phù hợp với llsx thể hiện ở việc thực hiện nhiều thành phần kt duy trì nhiều kiểu qhsx tương ứng với nhiều trình độ khác nhau của llsx
- CSHT: Là toàn bộ các quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một mô hình thái kinh tế xã hội nhất định. Đặc trưng cho tính chất của CSHT của xã hội là do quan hệ sản xuất thống trị quyết định
- KTTT: Là toàn bộ tư tưởng xã hội những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của KTTT được hình thành trên cơ sở hạ tầng quyết định, KTTT bao gồm: Những tư tưởng xã hội (chính trị, pháp luật, đạo đức tôn giáo, nghệ thuật...) và những tổ chức thiết chế khác nhau (Nhà nước, giáo hội chính Đảng, các đoàn thể...).
b) Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
- CSHT quyết định KTTT.
+ CSHT nào thì KTTT ấy tức là KTTT phản ánh CSHT.
+ CSHT thay đổi thì KTTT cũng thay đổi theo sự thay đổi của KTTT rõ rệt khi CSHT này được thay thế bằng CSHT khác.
- Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT.
+ KTTT có thể tác động trở lại đối với CSHT, vì chức năng của KTTT là bảo vệ duy trì, củng cố và phát triển CSHT đã sinh ra nó.
+ Các bộ phận khác nhau của KTTT đều tác động đến CSHT bằng nhiều hình thức khác nhau trong đó Nhà nước giữ vai trò to lớn và quan trọng đối với CSHT.
+ Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT được thể hiện ở hai điểm sau:
Thứ nhất: Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội KTTT có quá trình biến đổi nhất định qua trình độ càng phù hợp với CSHT thì nó càng thúc đẩy CSHT phát triển.
Thứ hai: Khi KTTT tác động ngược chiều với CSHT thì nó sẽ gây cản trở cho sự phát triển của CS hạ tầng.

Vđ4
Câu1:Hàng hóa và 2 thuộc tính của hàng hóa
Trả lời
Phân tích 2 thuộc tính của hàng hóa. Vì sao hàng hóa có 2 thuộc tính
* Khái niệm Hàng hóa: Hàng hóa là một sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi mua – bán.
* Hàng hóa có hai thuộc tính: Giá trị sử dụng và Giá trị
a. Giá trị sử dụng của hàng hóa
– Khái niệm: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm có thể thỏa mãn một hay một số nhu cầu nào đó của con người.
– Bất cứ một hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định có thể thỏa mãn một hay một số nhu cầu nào đó của con người. Những công dụng đó được gọi là tính có ích của hàng hóa.
– Giá trị sử dụng của hàng hóa là nội dung vật chất của của cải vì nó do thuộc tính tự nhiên (lý, hóa học) của thực thể hàng hoá đó quyết định.
– Giá trị sử dụng của hàng hóa là một phạm trù vĩnh viễn vì không phụ thuộc vào sự sự thay đổi của phương thức sản xuất.
– Theo đà phát triển của khoa học kỹ thuật, con người ngày càng phát hiện thêm những thuộc tính mới của sản phẩm và phương pháp để lợi dụng chúng đó đó số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chất lượng ngày càng tốt.
– Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện khi nó được tiêu dùng hay sử dụng. Nếu hàng hóa chưa được tiêu dùng thì giá trị sử dụng của nó chỉ ở dạng tiềm năng. Để giá trị sử dụng ở dạng tiềm năng trở thành giá trị sử dụng hiện thực thì hàng hóa đó cần được tiêu dùng.
– Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội vì nó không phải là giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho xã hội thông qua hoạt động trao đổi, mua bán.
b. Giá trị hàng hóa
– Muốn hiểu giá trị hàng hóa phải xuất phát từ giá trị trao đổi.
– Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
– Khái niệm: Giá trị trao đổi trước hết là tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác.
Ví dụ: 1m vải trao đổi lấy 5 kg thóc. (Điều này có nghĩa là 1m vải có giá trị trao đổi bằng 5kg thóc)
– Vấn đề đặt ra là: tại sao hai hàng hoá, hai giá trị sử dụng lại trao đổi được cho nhau, hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định?
+ Cái chung đó không thể là giá trị sử dụng vì hai loại hàng hóa này có công dụng hoàn toàn khác nhau (vải để mặc, thóc để ăn). Và sự khác nhau đó chỉ là điều kiện cần thiết để sự trao đổi xảy ra vì không ai đem trao đổi những vật phẩm giống hệt nhau về giá trị sử dụng.
+ Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Vậy, thực chất người ta trao đổi hàng hóa với nhau chẳng qua là trao đổi lao động của mình ẩn dấu trong trong những hàng hóa đó.
► Chính hao phí lao động để tạo ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa ấy là cơ sở chung cho mọi việc trao đổi và nó tạo thành giá trị hàng hóa.
– Khái niệm: Giá trị hàng hóa là lao động của người sản xuất hàng hóa tạo ra, kết tinh trong hàng hóa
Giá trị hàng hóa biểu hiện thông qua giá trị trao đổi. Tức là, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi.
– Giá trị biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa vì trao đổi hàng hóa là so sánh lượng hao phí lao động giữa những người sản xuất hàng hóa. Quan hệ giữa người với người được thay thế bằng quan hệ giữa vật với vật (hàng – hàng).
– Giá trị hàng hóa là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa, có sản xuất hàng hóa thì mới có giá trị hàng hóa.
– Kết luận:
+ Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội (lao động trừu tượng) của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
+ Giá trị là cơ sở là nội dung của giá trị trao đổi. Chất của giá trị là lao động, nên sản phẩm không chứa đựng lao động thì không có giá trị. Sản phẩm chứa đựng nhiều lao động để tạo ra thì có giá trị cao. Lượng giá trị là biểu hiện lượng lao động kết tinh trong hàng hóa. Lượng lao động kết tinh thay đổi dẫn đến giá trị trao đổi thay đổi. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
+ Giá trị là một phạm trù lịch sử.
c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
Giá trị sử dụng và giá trị là hai thuộc tính vùa thống nhất, vùa mâu thuần với nha trong một hàng hoá.
– Mặt thống nhất:
Hai thuộc tính này cùng tồn tại trong một hàng hóa. Một vật muốn trở thành hàng hóa thì không thể thiếu bất kỳ một thuộc tính nào trong hai thuộc tính trên. Ta có thể thấy một vật có ích tức là có giá trị sử dụng nhưng không do lao động tạo ra tức là không có lao động xã hội kết tinh trong đó thì không phải là hàng hóa, ví dụ như: không khí, ánh nắng mặt trời…
– Mặt mâu thuẫn:
+ Thứ nhất, với tư cáchlà một giá trị sử dụng thì các hàng hoá không đồng nhất về chất vì mỗi hàng hóa có một công dụng khác nhau. Ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hoá đồng nhất về chất, chúng đều là kết tinh của lao động, đều là lao động được vật hoá.
+ Thứ hai, tuy giá trị và giá trị sử dụng cùng tồn tại trong một hàng hóa nhưng quá trình thực hiện giá trị sử dụng và giá trị khác nhau về thời gian và không gian. Cụ thể là giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng. Nếu không thực hiện được giá trị hàng hoá (hàng hóa không bán được) thì không thực hiện được giá trị sử dụng có thể dẫn đến khủng hoảng sản xuất “thừa”.
* Vì sao phải nghiên cứu giá trị bắt đầu từ giá trị trao đổi?
Giá trị là lao động trừu tượng kết tinh trong hàng hóa nên ta không xác định trực tiếp được. Ta chỉ có thể xác định, đo lường nó thông qua một hàng hóa khác.
Ví dụ: 1m vải = 5 kg thóc ►5kg thóc đo gía trị cho 1 m vải
Do đó ta luôn phải xác định tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác ►hay nói cách khác, chúng ta đang xác định giá trị trao đổi để xác định giá trị.
* Vì sao Hàng hóa có 2 thuộc tính
Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị, hai thuộc tính đó không phải do có hai loại lao động khác nhau kết tinh trong nó, mà do lao động của người sản xuất hàng hoá có tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.
a. Lao động cụ thể
– Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
– Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng: Mỗi lao động cụ thể có đối tượng lao động, mục đích riêng, công cụ lao đông riêng, phương pháp hoạt động riêng, và kết quả lao động riêng ► tạo ra những sản phẩm có công dụng khác nhau, tức là tạo ra nhiều giá trị sử dụng của hàng hóa.
b. Lao động trừu tượng
– Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa không kể đến hình thức cụ thể của nó, để quy về một cái chung nhất, đó chính là sự tiêu hao sức lao động ( tiêu hao bắp thịt, thần kinh, bộ óc) của người lao động sản xuất hàng hóa nói chung.
– Lao động trừu tượng tích lũy trong hàng hóa và tạo ra giá trị.
+ Chỉ có lao động của người lao động sản xuất hàng hóa mới mang tính trừu tượng và tạo ra giá trị hàng hóa.
+ Lao động trừu tượng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Tất nhiên không phải có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hóa mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt.
– Tính chất hai mặt nói trên liên quan đến tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa.
+ Tính chất tư nhân: Mỗi người sản xuất hàng hoá có tính tự chủ của mình nên sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào là việc riêng của họ. Vì vậy, lao động của họ trở thành việc riêng, mang tính tư nhân và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.
+ Tính chất xã hội: Lao động của mỗi sản xuất hàng hóa cũng là một bộ phận của lao động xã hội trong hệ thống phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội làm cho lao động của người sản xuất trở thành một bộ phận trong lao động xã hội, từ đó tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá. Họ làm việc cho nhau, người này làm việc vì người kia thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa. Việc trao đổi hàng hoá không thể dựa vào lao động cụ thể mà phải quy thành lao động đồng nhất là lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.
Lượng giá trị hàng hóa và Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
Giá trị hàng hóa là do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa đó Như vậy:
– VỀ MẶT CHẤT, giá trị của hàng hóa được xác định bởi hao phí lao động để sản xuất hàng hóa đó quyết định.
Giá trị của hàng hóa = lao động vật hóa + lao động sống
= lao động quá khứ + lao động hiện tại
= Gtrị tư liệu sản xuất + Gtrị mới do công nhân tạo ra
– VỀ MẶT LƯỢNG: giá trị của hàng hóa được tính theo thời gian lao động xã hội cần thiết.
a. Thời gian lao động xã hội cần thiết
– Trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một sản xuất một hàng hóa nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động của họ khác nhau nên thời gian lao động cá biệt khác nhau để tạo ra một hàng hóa không giống nhau nhau (nghĩa là hao phí lao động cá biệt khác nhau).
– Vậy, có phải rằng người sản xuất nào càng lười biếng, càng vụng về, có điều kiện sản xuất càng khó khăn thì lượng giá trị hàng hóa của họ càng lớn?
Điều này không đúng vì sự khác nhau trên chỉ là sự khác nhau về chi phí lao động cá biệt của mỗi cá nhân trong khi giá trị hàng hóa không phải tính bằng thời gian lao động cá biệt mà tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết (giá trị xã hội của hàng hóa).
– Khái niệm: Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động trung bình, cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với trình độ trang thiết bị sản xuất trung bình, trình độ kỹ thuật trung bình và cường độ lao động trung bình.
– Trong thực tế, thời gian lao động xã hội cần thiết là mức hao phí lao động trung bình của xã hội để sản xuất ra một hàng hóa. Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết (thời gian lao động xã hội trung bình) gần sát với thời gian lao động cá biệt (mức hao phí lao động cá biệt) của người sản xuất hàng hóa nào cung cấp tuyệt đại đa số hàng hóa cùng loại trên thị trường.
– Cần chú ý, thời gian lao động cần thiết là đại lượng không cố định mà thay đổi theo thời gian và có thể khác nhau ở các nước. Bởi vì trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình, điều kiện trang bị kỹ thuật trung bình…luôn thay đổi theo sự phát triển lực lượng sản xuất.
b. Những yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa
Tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian lao động xã hội cần thiết đều ảnh hưởng tới lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa.
Có thể xem xét ba yếu tố cơ bản sau:
– Năng suất lao động:
+ Là năng lực sản xuất của lao động. Nó được đo bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian (hoặc lượng thời gian để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm).
+ Giá trị hàng hóa thay đổi tỉ lệ nghịch với năng suất lao động: khi năng suất lao động tăng sẽ kéo theo tổng số sản phẩm tăng lên, tổng giá trị hàng hóa không tăng so với trước ► giá trị một đơn vị sản phẩm giảm xuống và ngược lại.
+ Năng suất lao động trên thực tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ thành thạo trung bình của người lao động; mức phát triển của khoa học – kỹ thuật, công nghệ và mức ứng dụng chúng vào sản xuất; trình độ tổ chức quản lý; quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất; các điều kiện tự nhiên. Do đó, muốn tăng năng suất cần nâng cao hiệu quả của các yếu tố trên.
– Cường độ lao động:
+ Là mức độ hao phí lao động (mức độ nặng nhọc, khẩn trương hay căng thẳng) của người lao động trong một đơn vị thời gian.
+ Cường độ lao động tăng nghĩa là mức hao phí sức lao động (cơ bắp, thần kinh…) trong một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên. Và nếu cường độ lao động tăng lên thì tổng số (hay khối lượng) hàng hoá cũng tăng lên nhưng tổng hao phí sức lao động cũng tăng lên tương ứng cùng tỉ lệ. Do đó, giá trị một đơn vị sản phẩm không thay đổi. Vậy, trong thực tế, tăng cường độ lao động giống như kéo dài thời gian lao động nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi.
+ Cường độ lao động phụ thuộc vào trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất, đặc biệt là thể chất và tinh thần của người lao động.
– Mức độ phức tạp của lao động:
Căn cứ theo độ phức tạp có thể chia ra lao động phức tạp và lao động giản đơn.
+ Lao động giản đơn là lao động mà một người bình thường không cần trải qua đào tạo cũng có thể làm được.
+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải qua huấn luyện, đào tạo, hay lao động lành nghề mới có thể thực hiện đuợc.
Trong cùng một thời gian hao phí như nhau, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị lớn hơn gấp bội lần lao động giản đơn.


Câu 7: Công thức chung của tư bản và mâu thuẫn trong công thức chung. Chìa khóa giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản là gì? Tính đặc biệt của chìa khóa ấy.
TL:
 Công thức chung của tư bản: Mọi tư bản mới đầu đều biểu hiện dưới một số tiền nhất định nhưng tiền tệ chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định. Nếu là tiền thông thường thì hoạt động theo phương thức hàng - tiền - hàng (H-T-H). Công thức này gọi là công thức lưu thông hàng hoá giản đơn, còn nếu tiền là tư bản thì vận động theo công thức tiền - hàng - tiền (T-H-T). Công thức này gọi là công thức lưu thông của tư bản. Mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng. Vì vậy sự vận động sẽ kết thúc khi những người trao đổi có được giá trị sử dụng mà anh ta cần đến. Trái lại, mục đích sự vận động của tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị. Hơn nữa là giá trị tăng thêm vì vậy nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra thì sự vận động trở nên vô nghĩa. Vì vậy số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra. Do đó công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-H-T’ trong đó T’= T + t. Số dôi ra đó (t) Mác gọi là giá trị thặng dư và số tiền ban đầu chuyển hoá thành tư bản. Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn. Vì vậy sự vận động của tư bản cũng không có giới hạn. Mác gọi công thức T-H-T’ là công thức chung của tư bản vì mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng tổng quát đo dù là tư bản thương nghiệp, tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay.
 Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản:
- Công thức chung của tư bản: T-H-T'  (T’ = T + ∆T). Vậy ∆T xuất hiện từ đâu?
+ Trong lưu thông:
Trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo ra  ∆T
* Trường hợp trao dổi ngang giá: Chỉ là sự thay đổi của hình thái giá trị từ T-H và từ H-T nhưng tổng giá trị và phần giá trị của mỗi bên tham gia trao đổi trước và sau đều không thay đổi. Tuy nhiên, về giá trị sử dụng thì đôi bên đều có lợi.
* Trường hợp trao đổi không ngang giá, có thể có ba trường hợp xảy ra:
Thứ 1, Trong trường hợp nhà tư bản bán hàng hóa cao hơn giá trị, nhưng đến lượt anh ta lại là người đi mua (vì không có ai chỉ bán mà không mua) thì phải mua hàng hóa cao hơn giá trị ấy. Hành vi bán hàng hóa cao hơn giá trị không mạng lại bất cứ chút thặng dư (∆T) nào.
Thứ 2, Trường hợp nhà tư bản cố mua hàng hóa thấp hơn giá trị cũng không mang lại chút thặng dư (∆T) nào. Vì đến khi anh ta bán cũng buộc phải bán hàng hóa thấp hơn giá trị.
Thứ 3, nếu xã hội có một số kẻ lường gạt chuyên mua rẻ, bán đắt thì cái ∆T hắn có là do chiếm đoạt của người khác mà có. Cái hắn được là cái người khác mất đi, nhưng trong toàn xã hội thì tổng giá trị của hàng hóa là không thay đổi.
  Như vậy, trong lưu thông dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá đều không tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư bản.
+ Ngoài lưu thông:
Nếu người trao đổi vẫn đứng 1 mình với hàng hóa của anh ta, thì giá trị của hàng hóa ấy không hề tăng lên.
Nếu người sản xuất muốn sáng tạo thêm thặng dư thì phải bằng lao động của chính mình. Chẳng hạn da thuộc phải trở thành giày da, ở đó giày da có giá trị lớn hơn da thuộc vì nó đã thu hút nhiều lao động vào trong giày da. Còn giá trị của da thuộc vẫn không đổi.
Vậy là "Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải  xuất hiện trong lưu thông, đồng thời không phải trong lưu thông"[1].
Đó chính là mâu thuẩn trong công thức chung của tư bản. Để giải quyết mâu thuẩn đó, C.Mác đã chỉ rõ: "Phải lấy những quy luật nội tại của lưu thông hàng hoá làm cơ sở".
 Hàng hoá sức lao động là chìa khoá để giải quyết mâu thuẩn trong công thức chung của tư bản:
a) Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:  “Sức lao động, đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong cơ thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”[2].
- Không phải sức lao động nào cũng trở thành hàng hóa. Trong xã hội nô lệ thì sức lao động của nô lệ không phải là hàng hóa vì bản thân anh ta đã thuộc sở hữu của chủ nô, anh ta không có quyền bán sức lao động. Người thợ thủ công tự do tuy được tùy ý sử dụng sức lao động của mình nhưng sức lao động của anh ta cũng không phải là hàng hóa vì anh ta chỉ sản xuất tự cung tự cấp nuôi sống mình, chứ chưa buộc phải bán sức lao động để kiếm sống.
- Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi đồng thời thỏa mãn hai điều kiện sau: Người lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của mình và có quyền bán sức sức lao động của mình như một hàng hóa.; Người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt trở thành “vô sản”, để tồn tại anh ta buộc phải bán sức lao động của mình để kiếm sống.
- Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản. Nhưng trước CNTB thì hàng hóa sức lao động chưa xuất hiện. Chỉ dưới CNTB thì hàng hóa sức lao động mới xuất hiện và trở thành phố biến.
b) Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động: Giá trị hàng hóa sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định. Muốn sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động người công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt cần thiết về ăn, ở, mặc, học nghề... Ngoài ra họ còn phải thỏa mãn những nhu cầu của gia đình và con cái.
- Giá trị của hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động. Giá trị ấy được hợp thành bởi: Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao dộng, duy trì đời sống của bản thân người công nhân; Phí tổn đào tạo người công nhân; Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái người công nhân. Sự biến đổi giá trị hàng hóa sức lao động một mặt tăng lên do sự tăng lên của nhu cầu trung bình của xã hội về hàng hóa, dịch vụ, học tập, học nghề... mặt khác lại bị giảm xuống do sự tăng năng suất lao động xã hội.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động. Nhưng khác với hàng hóa thông thường, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao động.
- Nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường một loại hàng hoá đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao động, mà giá trị sử dụng của nó có tính chất đặc biệt là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Chính đặc tính này đã làm cho hàng hoá sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển thành tư bản. Do đó việc tìm ra và lý giải phạm trù hàng hoá sức lao động được coi là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản. Nếu "T" của tư bản  không dùng để bóc lột sức lao động của công nhân thì không thể có "T'=T+∆T
Câu 8: Nguyên nhân ra đời và biểu hiện chủ yếu của CNTB độc quyền và CNTB độc quyền nhà nước
TL:
 Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền?
Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX do những nguyên nhân chủ yếu sau:
–     Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật; một mặt, làm xuất hiện những ngành sản xuất mới. Ngay từ dầu đã là những ngành có trình độ tích tụ cao, đòi hỏi những hình thức kinh tế tổ chức mới, đó là những xí nghiệp lớn, sản xuất lớn có ưu thế rõ rệt so với sản xuất nhỏ và đã phát triển rất mạnh. Mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao dộng, tăng sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Việc nâng cao tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư đã mở rộng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy sự phát triển sản xuất lớn, tăng tích tụ tư bản và sản xuất.
_ Vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như lò luyện kim mới Betsơme, Máctanh, Tômát, v.v. đã tạo ra sản lượng lớn gang thép với chất lượng cao; phát hiện ra hoá chất mới như axít sunphuaric (H2S04), thuốc nhuộm, v.v.; máy móc mới ra đời: động cơ điêzen, máy phát điện, máy tiện, máy phay, v.v.; phát triển những phương tiện vận tải mới: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy bay, v.v. và đặc biệt là đường sắt. Những thành tựu khoa học kỹ thuật này, một mật làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích luỹ tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn. Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích luỹ, v.v. ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.
–      Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích luỹ để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với số tư bản tập trung và quy mô xí nghiệp ngày càng to lớn.
–      Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng quá trình tích tụ và tập trung tư bản.
Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc ra đời của các tổ chức độc quyền.
 Nguyên nhân hình thành CNTB độc quyền nhà nước?
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là chủ nghĩa tư bản độc quyền có sự điều  tiết,  can  thiệp  của  nhà  nước  về  kinh  tế,  là  phương  thức  kết  hợp  giữa  sức mạnh của tư bản độc quyền với sức mạnh kinh tế của nhà nước. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một nấc thang phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời do các nguyên nhân sau:
Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến quy mô của nền kinh tế ngày càng lớn, tính chất xã hội hóa của nền kinh tế ngày càng cao đòi hỏi có sự điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, một kế hoạch hoá tập trung từ một trung tâm. Nhà nước phải dùng các công cụ khác nhau để can thiệp, điều tiết nền kinh tế như các công cụ về tài chính – tiền tệ, kế hoạch hóa, phát triển các xí nghiệp quốc doanh…
Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh vì đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản… Nhà nước tư sản trong khi đảm nhiệm kinh doanh những ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác.
Ba là, sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải giải quyết những mâu thuẫn đó bằng các hình thức khác nhau như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã hội…
Bốn là, sự tích tụ và tập trung tư bản cao dẫn đến mâu thuẫn giữa các tổ chức độc quyền với nhau, mâu thuẫn giữa tư bản độc quyền với các tổ chức kinh doanh vừa và nhỏ…trở nên gay gắt cần có sự điều tiết, can thiệp của nhà nước bằng các hình thức khác nhau như nghiêm cấm một số hình thức độc quyền, ra luật chống độc quyền để hạn chế sự chi phối hay quy mô của các độc quyền, hạn chế sự lũng đoạn nền kinh tế của các tổ chức độc quyền.
Năm là, cùng với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế của nhà nước.
Ngoài ra, cuộc đấu tranh với chủ nghĩa xã hội hiện thực và tác động của cách mạng khoa học và công nghệ cũng đòi hỏi sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào đời sống kinh tế.
 Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Sự vận động của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước được biểu hiện dưới những hình thức chủ yếu dưới đây:
a) Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước tư sản
V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng, sự liên minh về nhân sự của các ngân hàng với công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh về nhân sự của ngân hàng và công nghiệp với chính phủ theo kiểu: hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; hôm nay là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng.
Sự  kết  hợp  về  nhân  sự  được  thực  hiện  thông  qua  các  đảng  phái  tư  sản. Chính các đảng phái này đã tạo ra cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực hiện sự thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước.
Thông qua các hội chủ xí nghiệp, một mặt, các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác nhau; mặt khác, các quan chức và nhân viên chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ chức  độc  quyền,  nắm  giữ  những  chức  vụ  trọng  yếu  chính  thức  hoặc  danh  dự, hoặc  trở  thành  những  người  đỡ  đầu  các  tổ  chức  độc  quyền.  Sự  thâm  nhập  vào nhau này (còn gọi là sự kết hợp) đã tạo ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ  giữa  các  tổ  chức  độc  quyền  và  cơ  quan  nhà  nước  từ  trung ương  đến  các  địa phương ở các nước tư bản.
b) Sự hình thành và phát triển của sở hữu nhà nước
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống, nhưng nét nổi bật nhất là sức mạnh của độc quyền và của nhà nước kết hợp với nhau trong lĩnh vực kinh tế. Cơ sở của những biện pháp độc quyền nhà nước trong kinh tế là sự thay đổi các quan hệ sở hữu. Nó biểu hiện không những ở chỗ sở hữu nhà nước tăng lên mà cả  ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước  và  sở  hữu  độc  quyền  tư  nhân,  hai  loại  sở  hữu  này  đan  kết với  nhau  trong quá trình chu chuyển của tổng tư bản xã hội.
Sở hữu nhà nước hình thành dưới những hình thức sau đây: – Xây dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách; – Quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại; – Nhà nước mua cổ phiếu của các doanh nghiệp tư nhân; – Mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích luỹ của các doanh nghiệp , tư nhân
c) Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản
Sự  điều  tiết  kinh  tế  của  nhà  nước  được  thực  hiện  bằng  nhiều công cụ khác nhau  như  pháp  lý  (luật  chống  độc  quyền…),  giá  cả,  thuế  khóa,  tài  chính-tiền  tệ, ngân hàng, phát triển các xí nghiệp nhà nước…Ví dụ, nhà nước phát triển các xí nghiệp quốc doanh mở đường cho một số ngành, lĩnh vực mới phát triển, sau đó chuyển giao lại cho các tổ chức  độc quyền.  Để cứu nguy cho nền kinh tế trong những điều kiện nhất định, nhà nước có thể mua lại một số xí nghiệp làm ăn thua lỗ và nhượng lại cho tư nhân khi nó đã đi vào hoạt động ổn định…
Bản  thân  sự  điều  tiết  của  nhà  nước  cũng  có  mặt  tích  cực  và  mặt  tiêu  cực. Những sai lầm trong sự điều tiết của nhà nước có khi lại đưa đến hậu quả tai hại hơn là tác động tiêu cực của cạnh tranh tự do và độc quyền tư nhân. Vì thế, hệ thống  điều tiết  kinh  tế  của  nhà  nước  đã  dung  hợp  cả  ba  cơ  chế:  thị  trường,  độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế. Xét đến cùng và về bản chất, hệ thống điều tiết đó phục vụ cho chủ nghĩa tư bản độc quyền.


10. VẤN ĐỀ VĂN HÓA
KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA XHCN
a. Tiến trình cách mạng xhcn là một tiến trình lịch sửu lâu dài, khó khăn và gian khổ với mục đích cuối cùng là bảo đảm thành công sự nghiệp xây dựng CNXH và chủ nghĩa cộng sản. Trong tiến trình đó tất yếu xuất hiện các vấn đề ctri xh điển hình như văn hóa cần phải giải quyết một cách khoa học trên lập trường thế giưới quan và phương pháp luận của cn Mác trong các điều kiện lịch sử cụ thể, thời kì nhất định.
b. KHÁI NIỆM: Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình; biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần
+ Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất.
+ Văn hóa tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người.
- Nền văn hóa là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế - chính trị của mỗi thời kỳlịch sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp thống trị chi phối phương hướng phát triển và quyết định hệ thống các chính sách, pháp luật quản lý các hoạt động văn hóa. Kinh tế là cơ sở của nền văn hóa còn chính trị là yếu tố quy định khuynh hướng phát triển của nó, tạo nên ý thức hệ của nền văn hóa. Chính vì vậy, một nền chính trị lạc hậu tất yếu sẽ không tạo ra một nền văn hoá tiến bộ. Do đó, nền văn hoá của bất cứ thời kỳ nào của lịch sử cũng đồng thời có sự kế thừa, sử dụng những di sản của quá khứ và sáng tạo ra những giá trị văn hoá mới
- Chế độ mới xã hội chủ nghĩa được xác lập với hai tiền đề quan trọng là tiền đề chính trị (sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền) và tiền đề kinh tế (chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu được thiết lập). Từ hai tiền đề chính trị và kinh tế đó, tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát triển trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có sự hình thành, phát triển của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
- Nền văn hóa XHCN là một tập hợp các phương thức, cơ chế, các tổ chức và thiết chế xã hội trong hoạt động sáng tạo, hưởng thụ các sản phẩm văn hóa nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tinh thần của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn xã hội, trên cơ sở hệ tư tưởng Mác –Lênin, chế độ dân chủ XHCN và nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trên nền văn hóa XHCN nhân dân lao động là chủ thể của quá trình sáng tạo và hưởng thụ mọi giá trị văn hóa.
NỀN VĂN HÓA XHCN CÓ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN SAU ĐÂY:
- Một là, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là nội dung cốt lõi, giữ vai trò chủ đạo, quyết định phương hưởng phát triển nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong xã hội có giai cấp, ý thức hệ giai cấp là nội dung cốt lõi của mọi nền văn hóa. Trong mọi thời đại, tư tưởng của giai cấp thống trị trở thành tư tưởng thống trị của thời đại đó. Chính vì vậy, sau khi giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền thì ý thức hệ của nó trở thành nhân tố giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.
Đặc trưng nói trên phản ánh bản chất giai cấp công nhân của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Mọi sự coi nhẹ, xa rời nội dung khoa học, cách mạng của ý thức hệ giai cấp công nhân đều nhất định dẫn đến kết cục là không thể xây dựng được nền văn hóa xhcn
- Hai là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Đặc trưng này thể hiện mục đích và động lực nội tại của quá trình xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, quá trình xây dựng xã hội mới. Trong các xã hội cũ, giai cấp thống trị bóc lột độc quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất và trên cơ sở đó cùng độc quyền chi phối đời sống tinh thần, nền văn hóa của xã hội.
Chúng độc quyền mọi phương tiện sáng tạo và sản phẩm của hoạt động tinh thần nhằm, một mặt, tạo ra cái gọi là "văn hóa thượng lưu" phục vụ giai cấp thống trị, áp bức bóc lột; mặt khác, nhằm nô dịch tinh thần, ý thức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, giam hãm họ trong tình trạng ngu tối và nô lệ.
Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa không còn là đặc quyền đặc lợi của thiểu số giai cấp bóc lột. Giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Công cuộc cải biến cách mạng toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội từng buớc tạo ra tiền đề vật chất, tinh thần để đông đảo nhân dân tham gia xây dựng nền văn hóa mới. Chính trong quá trình đó, văn hóa hướng tới nhân dân, dân tộc và mọi thành tựu văn hóa trở thành tài sản của nhân dân.
Văn hóa luôn có sự kế thừa. Trong bất cứ thời kỳ nào của lịch sử, văn hóa đều đồng thời bao gồm việc kế thừa, sử dụng di sản quá khứ và sáng tạo ra những giá trị mới. Sự kế thừa và sáng tạo của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa luôn mang tính giai cấp công nhân với tư tưởng chính trị tiên tiến của thời đại và hướng tới nhân dân, dân tộc. Đông đảo nhân dân và cả dân tộc là chủ thể của văn hóa. Do đó, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa mang tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc, kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Ba là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được hình thành, phát triển một cách tự giác, đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua tổ chức đảng cộng sản, có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa không hình thành và phát triển một cách tự phát. Trái lại, nó phải được hình thành và phát triển một cách tự giác, có sự quản lý của nhà nước và có sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân. Mọi sự coi nhẹ hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và vai trò quản lý của Nhà nước đối với đời sống tinh thần của xã hội, đối với nền văn hoá xã hội chủ nghĩa sẽ dẫn đến làm mất phương hướng chính trị của nền văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội
c. Văn hóa đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển con ng cũng như đất nước, nhờ có văn hóa mà trình độ, tâm lý, ý thức đời sống con người được nâng cao. Qua đây bản thân em cũng biết thêm được rất nhiều điều như các truyền thống, phong tục tập quán của đất nước mình để từ đó yêu văn hóa của dân tộc mình hơn, giữ gìn và phát huy tinh thần học hỏi văn hóa các nước khác. Áp dụng văn hóa đó vào cuộc sống thường ngày như kính trên nhường dưới, tìm hiểu nhiều hơn các phong tục cũng như ý nghĩa mang lại, kiên quyết đấu tranh chống lại các quan điểm lạc hậu, phản động phá hoại hệ tư tưởng, biểu hiện lạc hậu, lệch lạc trong văn hóa.
2. CẦN LÀM GÌ ĐỂ BẢO TỒN GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
a. Đặt vấn đề
Với mỗi quốc gia, trong mọi giai đoạn lịch sử, bản sắc văn hóa, truyền thống dân tộc và ngôn ngữ luôn là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và mục tiêu của sự phát triển, là linh hồn, sức sống của quốc gia, dân tộc đó. Chính vì vậy, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, truyền thống dân tộc và ngôn ngữ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
b. Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình; biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần
+ Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất.
+ Văn hóa tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người.
- Bản sắc văn hóa dân tộc là tài sản vô giá; là linh hồn của dân tộc được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước với bao biến cố thăng trầm của lịch sử; được viết lên bằng máu, nước mắt và mồ hôi của cả dân tộc. Chính vì vậy nó là biểu tượng của sự trường tồn, là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc.
- Dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đặc trưng tiêu biểu, khí phách và tâm hồn dân tộc được thể hiện rõ nhất qua bản sắc văn hóa dân tộc. Dân tộc, quốc gia nào nếu không biết kế thừa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giảm di sản văn hóa dân tộc mình thì chắc chắn sẽ bị tụt hậu, bởi văn hóa không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực của sự phát triển xã hội. Nhưng tiếp thu nền văn hóa tiên tiến, mang tính thời đại phải trên cơ sở kế thừa, bảo tồn và khai thác truyền thống đạo đức, tập quán, lòng tự hào dân tộc. Nền văn hóa dân tộc là nguồn vốn quý báu, thiêng liêng của một dân tộc.
c. Phương hướng:
Giữ gìn bản sắc văn hóa là một yêu cầu vừa lâu dài vừa cấp thiết. Trước hết mỗi cá nhân phải nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn bản sắc văn hóa theo đúng cách nghĩ: mọi cái sẽ đi qua, cái còn lại của mỗi dân tộc là văn hóa.
Một là tăng cường giáo dục truyền thống lịch sử và truyền thống cách mạng của dân tộc cho các thế hệ trẻ.
Một thực tế không thể phủ nhận là sự phát triển rộng khắp của các phương tiện nghe, nhìn hiện đại như hiện nay và ở một mức độ nào đó, là sự không kiểm soát nổi nhiều nội dung mà các phương tiện đó chuyển tải, ít nhiều đã ảnh hưởng đến việc nhận thức các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc và tuyên truyền lối sống phương Tây. Không ít người đã bị những lợi ích vật chất cám dỗ, làm tha hoá, biến chất, chạy theo lối sống hưởng thụ, mà hầu như không quan tâm đến truyền thống văn hóa dân tộc, đến lối sống truyền thống của người Việt Nam. Do vậy, cần phải tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống lịch sử nhằm vun đắp và phát huy niềm tự hào dân tộc cho nhân dân, đặc biệt là cho lớp trẻ – những người chủ tương lai của đất nước, hướng họ đến với các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc - cội nguồn tạo nên bản sắc văn hóa, cốt cách và sức mạnh của con người Việt Nam.
Hai là, chú trọng bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa, bản sắc và truyền thống dân tộc. Coi trọng sưu tầm, khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. Tiếp tục tổ chức ngày hội văn hóa của một số dân tộc thiểu số có bản sắc văn hóa tiêu biểu nhằm nâng cao ý thức giữ gìn và tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Gìn giữ các tác phẩm nghệ thuật, bảo vật, cổ vật và di vật có giá trị đặc sắc. Nâng cao chất lượng các tác phẩm văn học nghệ thuật, công trình văn hóa, có kế hoạch đầu tư cho khâu sáng tác kịch bản, dàn dựng chương trình, vở diễn, đào tạo tài năng nghệ thuật; tổ chức các cuộc thi sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật để có những tác phẩm đỉnh cao, các chương trình nghệ thuật hấp dẫn, có tính giáo dục tư tưởng thẩm mỹ cao phục vụ nhân dân, đẩy lùi các hoạt động tiêu cực trong hoạt động văn hóa.
Ba là giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống phải luôn gắn liền với tăng cường giáo dục pháp luật.
Như chúng ta đều biết, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Cùng với đạo đức, pháp luật xã hội chủ nghĩa hướng con người tới hệ giá trị chân - thiện – mỹ, trừng trị và ngăn chặn cái ác, cái xấu nhằm làm lành mạnh hoá xã hội. Do vậy, cần phải giáo dục ý thức pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thanh niên, học sinh, sinh viên; giúp họ tránh được những hành vi phạm pháp và trở thành những công dân sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Bốn là, tích cực xây dựng đời sống văn hóa đại chúng và môi trường văn hóa lành mạnh. Phát triển xã hội hóa các hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Huy động các nguồn lực và sức sáng tạo trong xã hội để đầu tư xây dựng các công trình và thiết chế văn hóa, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, đoàn thể tham gia hoạt động văn hóa, nghệ thuật, quản lý và bảo vệ di tích, di sản văn hóa. Nâng cao chất lượng và mở rộng diện phổ biến các sản phẩm văn hóa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao và đa dạng của các tầng lớp nhân dân; làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam.
Năm là, mở rộng hợp tác giao lưu văn hóa quốc tế. Tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài. Tích cực giới thiệu rộng rãi những tinh hoa, bản sắc văn hóa Việt Nam, những thành tựu to lớn của hơn hai mươi năm đổi mới đất nước và chính sách hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế và tranh thủ nguồn tài trợ của các nước cho phát triển sự nghiệp văn hóa.
Sáu là, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ cho ngành văn hóa, nhất là đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ văn hóa là người dân tộc thiểu số. Đội ngũ cán bộ văn hóa cơ sở cần phải được tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng mạnh hơn nữa mới đủ khả năng đáp ứng yêu cầu giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ mới, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước
Trên đây là một số giải pháp mang tính định hướng nhằm giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá Việt Nam truyền thống. Việc thực hiện các giải pháp này chỉ mang lại hiệu quả khi có sự phối hợp và triển khai chúng một cách đồng bộ trên phạm vi toàn xã hội.
CÂU 9: GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ XỨ MỆNH GCCN:
a. Trên cơ sở phân tích quy luật kinh tế của sự vận động trong xã hội tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác lê nin đã làm sáng tỏ tính tất yếu diệt vong của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và và sự ra đời tất yếu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà lực lượng duy nhất có sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách mạng thực hiện bước chuyển biến lịch sử này chính là giai cấp công nhân.
KHÁI NIỆM
b. Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, Mác và Ăngghen đã dùng một số thuật ngữ khác nhau để biểu hiện khái niệm đó như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại,giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp,…Mặc dù vậy, về cơ bản, những thuật ngữ này đều biểu thị một khái niệm thống nhất, đó là chỉ giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại, nhưng có hai tiêu chí cơ bản để xác định giai cấp công nhân, phân biệt nó với các lực lượng xã hội khác:
- Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao động trong nền sản xuất công nghiệp. Có thể họ là người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Đã là công nhân hiện đại thì phải gắn với nền đại công nghiệp, bởi vì nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Giai cấp công nhân hiện đại là hạt nhân, bộ phận cơ bản của mọi tầng lớp công nhân.
- Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất của giai cấp công nhân, chúng ta phải xem xét trong hai trường hợp sau:
+ Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân là những người vô sản hiện đại, không có tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản và bị toàn thể giai cấp tư sản bóc lột. Tức là giá trị thặng dư mà giai cấp công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt. Chính căn cứ vào tiêu chí này mà những người công nhân dưới chủ nghĩa tư bản được gọi là giai cấp vô sản.
+ Sau cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền. Nó không còn ở vào địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở thành giai cấp thống trị, lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân cùng với toàn thể nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu đã công hữu hóa. Như vậy họ không còn là những người vô sản như trước và sản phẩm thặng dư do họ tạo ra là nguồn gốc cho sự giàu có và phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa.
SỨ MỆNH LỊCH SỬ G/C CÔNG NHÂN VIỆT NAM
Khi phân tích xã hội tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến vĩ đại, đó là quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, đã chứng minh một cách khoa học rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản là tất yếu và cũng khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử:
- Xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
- Là giai cấp cơ bản bị áp bức dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân chỉ có thể thoát khỏi ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống giai cấp tư sản, bằng con đường thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Bằng cách đó, giai cấp công nhân vĩnh viễn thủ tiêu mọi hình thức người bóc lột người, chẳng những tự giải phóng mình, mà còn giải phóng cả các tầng lớp lao động khác, giải phóng dân tộc và giải phóng toàn thể nhân loại.
Việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân phải trải qua 2 bước:
-Bước 1: giành lấy chính quyền nhà nước và xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
-Bước 2: lãnh đạo nhân dân tiến hành xây dựng xã hội mới XHCN đó là một quá trình lịch sử lâu dài và đầy khó khăn.
NHỮNG ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN QUI ĐỊNH SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Địa vị kinh tế- xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thế giới là do địa vị kinh tế - xã hội qui định.Địa vị đó được thể hiện ở những điểm sau đây:
-Giai cấp công nhân là giai cấp ra đời ,tồn tại và phát triển gắn liền với nền sản xuất đại công nghiệp là sản phẩm của nền đại công nghiệp,nên họ là lực lượng sản xuất tiên tiến,có trình độ xã hội hóa cao,là nhân tố quyết định trong việc thủ tiêu quan hệ sản xuất TBCN và đại diện cho xu hướng phát triển của xã hội loài người.
-Trong xã hội tư bản,giai cấp công nhân không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất phải đi làm thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư,vì vậy mà họ trở thành giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản.Từ sự đối kháng đó đã bùng lên những phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản bóc lột để giải phóng mình và toàn nhân loại,trong cuộc đấu tranh đó họ không mất gì ngoài mất xiềng xích và được cả thế giới về mình.
-Giai cấp công nhân có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của quần chúng nhân dân lao động nên họ có thể tập hợp lãnh đạo đông đảo quần chúng nhân dân đi theo mình để làm cách mạng.Chứng tỏ giai cấp công nhân hiện đại là lực lượng xã hội có tính năng động lịch sử,có khả năng đấu tranh tự giải phóng mình và toàn nhân loại ra khỏi áp bức,bóc lột,bất công.
Chính do địa vị kinh tế - xã hội như vậy mà trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản ”,Mác – Ăngghen đã từng nói rằng “ Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp thật sự cách mạng,các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp,giai cấp công nhân trái lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp .”
Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
-Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.               
-Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất. 
-Giai cấp công nhân là giai cấp có tính tổ chức và kỉ luật cao nhất.
-Giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế
Tóm lại,từ sự phân tích địa vị kinh tế - xã hội và những đặc điểm chính trị xã hội của giai cấp công nhân,chủ nghĩa Mác – Lênin đã phát hiện ra rằng giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử.Đó là một việc làm hết sức khách quan và khoa học.
ĐẶC ĐIỂM CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, lớp công nhân đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897) và thực sự trở thành giai cấp công nhân Việt Nam từ thời kỳ khai thác thuộc địa của thực dân Pháp lần thứ hai (1924 - 1929). Cùng với quá trình phát triển của cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành bộ phận của đội ngũ giai cấp công nhân quốc tế.
Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam còn có đặc điểm riêng:
- Thứ nhất, sinh ra và lớn lên từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, có truyền thống yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, dù còn non trẻ, nhỏ bé, song giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử, dân tộc thừa nhận và giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ sau các phong trào cứu nước theo lập trường Cần Vương, lập trường tư sản và tiểu tư sản thất bại.
- Thứ hai, ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên, đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác và thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, đã sớm giác ngộ mục tiêu lý tưởng, chân lý của thời đại: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam luôn có tinh thần và bản chất cách mạng triệt để.
- Thứ ba, do xuất thân từ nông dân lao động, bị thực dân phong kiến bóc lột, bần cùng hóa nên giai cấp công nhân nước ta có mối quan hệ máu thịt với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác. Qua thử thách của cách mạng, liên minh giai cấp đã trở thành động lực và là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc.
- Thứ tư, từ khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân Việt Nam luôn phát huy bản chất cách mạng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn là lực lượng đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và phát triển nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức hiện đại.
- Thứ năm, quá trình “trí thức hoá” giai cấp công nhân Việt Nam diễn ra mạnh mẽ, từng bước hình thành giai cấp công nhân trí thức Việt Nam.
Việc hình thành giai cấp công nhân trí thức không có nghĩa đơn thuần chỉ là sự bổ sung vào lực lượng giai cấp công nhân những công nhân có trình độ cao mà là giai cấp công nhân được nâng cao về trình độ và có sự thay đổi về tính chất lao động - lao động điều khiển những công nghệ tự động hoá của nền kinh tế tri thức.
ĐẢNG VÀ GCCN
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp này quy định, nhưng để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua nhân tố chủ quan của giai cấp công nhân. Trong những nhân tố chủ quan đó thì việc thành lập đảng cộng sản, một đảng trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc, vững mạnh về chính trị, tư tuởng và tổ chức là nhân tố giữ vai trò quyết định nhất bảo đảm cho giai cấp công nhân hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình.
TÍNH TẤT YẾU CỦA SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CHÍNH ĐẢNG CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Quy luật hình thành, phát triển Đảng Cộng sản.
Đảng Cộng sản là đội tiên phong, là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản bao gồm những người tiên tiến nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; đấu tranh triệt để và trung thành vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
a) Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.
+) có áp bức giai cấp thì có đấu tranh giai cấp. Ngay từ khi mới ra đời giai cấp công nhân đã tiến hành những cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản. Những cuộc đấu tranh ban đầu diễn ra lẻ tẻ và mang tính tự phát vì mục đích kinh tế, do thiếu một lý luận cách mạng và một tổ chức tiên phong lãnh đạo nên đều thất bại. Chính sự phát triển của phong trào công nhân đặt ra đòi hỏi phải có lý luận tiên tiến dẫn đường để tổ chức, giáo dục, giác ngộ giai cấp công nhân về sứ mệnh lịch sử của mình, để vạch cho giai cấp công nhân đường lối và phương pháp cách mạng khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng được đòi hỏi của phong trào công nhân.
+) Chủ nghĩa Mác ra đời đã nhanh chóng thâm nhập vào phong trào công nhân, trở thành hệ tư tưởng, vũ khí lý luận của giai cấp công nhân. Mặt khác, thông qua phong trào công nhân chủ nghĩa Mác được kiểm nghiệm, bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện. c) khi chủ nghĩa Mác ra đời chỉ có một bộ phận ưu tú nhất của giai cấp công nhân tiếp thu được nó. Bộ phận này đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân, giáo dục, giác ngộ và tổ chức công nhân đấu tranh, Đảng Cộng sản ra đời từ quá trình hoạt động cụ thể ấy.
b) Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân; nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử, được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện cụ thể. Ở nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa, Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Đảng cộng sản muốn hoàn thành vai trò lãnh đạo cách mạng thì trước hết phả luôn luôn chăm lo xây dựng về tư tưởng và tổ chức, phải luôn luôn làm cho đảng vững mạnh về chính trị, không ngừng nâng cao về trí tuệ, gắn bó với quần chúng nhân dân, có năng lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn.
B) MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN
- Đảng cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích và trí tuệ của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản".
- Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội của đảng cộng sản, là nguồn bổ sung lực lượng phong phú cho đảng cộng sản. Những đảng viên của đảng là những người công nhân giác ngộ lý tưởng cách mạng, được trang bị lý luận cách mạng, tự giác gia nhập đảng và được các tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân giới thiệu cho đảng. Trong hàng ngũ của đảng có những đảng viên không phải là công nhân, nhưng phải là người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và luôn luôn phải đứng trên lập trường, trên lợi ích của giai cấp công nhân.
- Với một đảng cộng sản chân chính thi sự lãnh đạo của đảng cũng chính là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình thông qua đảng cộng sản. Tuy nhiên, không thể đồng nhất đảng cộng sản với giai cấp công nhân. Đảng là một tổ chức chính trị chỉ tập trung những công nhân tiên tiến, giác ngộ lý tưởng cách mạng, được trang bị lý luận cách mạng, do vậy đảng trở thành đội tiên phong chiến đấu, lãnh tụ chính trị và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân.
- Là đội tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đảng cộng sản có sự tiên phong về lý luận và hành động. Trên cơ sơ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, căn cứ vào thực tiễn của đất nước trong mỗi giai đoạn cách mạng, đảng cộng sản phải đưa ra được cương tĩnh, đường lối cách mạng phù hợp với mỗi giai đoạn cách mạng. Cán bộ, đảng viên phải nắm được quan điểm, đường lối của đảng để phổ biến tuyên truyền tới quần chúng nhân dân, phải thông qua hành động tiên phong gương mẫu mà lôi kéo quần chúng và các phong trào cách mạng.
- Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng viên là những người được trang bị lý luận, nắm được quan điểm, đường lối của đảng, do vậy "họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản" . Cán bộ, đảng viên phải tuyên truyền phổ biến quan điểm, đường lối của đảng tới các tầng lớp nhân dân làm cho quần chúng nhân dân hiểu và phải bằng hành động gương mẫu của mình để tập hợp, lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các phong trào cách mạng.
- Đảng cộng sản có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động, vì thế đảng có thể thực hiện giác ngộ quần chúng nhân dân, đưa họ tham gia các phong trào cách mạng. Có tập hợp được quần chúng nhân dân, huy động được quần chúng tham gia các phong trào cách mạng thì những chủ trương, đường lối của đảng mới được thực hiện và khi đó đảng mới có sức mạnh, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mới thực hiện được.
- Đảng cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và cả dân tộc. Khi nói tới vai trò tham mưu chiến đầu của đảng là muốn nói tới vai trò đưa ra những quyết định của đảng, nhất là trong những thời điểm lịch sử quan trọng. Những quyết định đúng đắn sẽ tạo điều kiện đưa phong trào cách mạng tiên lên, ngược lại có thể gây ra những tổn thất cho cách mạng. Sở dĩ đảng cộng sản trở thành đội tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân vì đảng bao gồm những người tiên tiến trong giai cấp công nhân, được trang bị lý luận khoa học, cách mạng và là những người được tôi luyện từ trong thực tiễn phong trào cách mạng.
Như vậy, chỉ có dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động mới có được sự thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động; mới chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác, đảm bảo cho cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi.


5, Tiền tệ và bản chất của tiền tệ
Trong lịch sử thoạt đầu người ta trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng. Khi sản xuất càng phát triển, hàng hóa sản xuất ra càng nhiều, nhu cầu sử dụng của con người cũng đi kèm theo. Việc trao đổi hàng lấy hàng gặp nhiều khó khăn. Nhu cầu trao đổi càng nhiều hàng hóa thì quá trình trao đổi lòng vòng đó càng phức tạp hơn. Chính vì vậy, để đảm bảo hoạt động sản xuất – lưu thông hàng hóa diễn ra thuận lợi hơn tiền tệ đã ra đời. Theo Mac “tiền tệ là sản phẩm tự phát, tự nhiên của sản xuất và lưu thông hàng hóa”. Khi nghiên cứu về tiền Mác viết: "Tiền là một vật được kết tinh, hình thành một cách tự nhiên trong trao đổi". Như vậy tiền đề cho sự ra đời và phát triển của tiền tệ là sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
a)Sự phát triển các hình thái giá trị trong nền kinh tế hàng hóa được biểu hiện thông qua 4 hình thái cụ thể sau:
- Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên:
+ Xuất hiện khi xã hội bắt đầu phân hóa về lao động, khi một hàng hóa ngẫu nhiên phản ánh giá trị của một hàng hoá khác
+) Trao đổi mang tính ngẫu nhiên, tỷ lệ trao đổi không cố định, bị phụ thuộc vào nhu cầu và mong muốn trao đổi của ng thực hiện trao đổi.
+) Trao đổi trực tiếp bằng hàng hóa này lấy hàng hóa khác.
VD: 1m vải = 10 kg thóc
- Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng
+ Xuất hiện sau phân công lao động xh lần thứ nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt.
+ Khi nhiều hàng hoá đều có khả năng trở thành vật ngang giá để thể hiện giá trị của một hàng hoá nào đó
+ Trao đổi trực tiếp hàng hóa này lấy hàng hóa khác
+ Tỷ lệ trao đổi không cố định
VD: 1m vải = 10kg thóc hoặc = 2 con gà
- Hình thái chung của giá trị
+ Xuất hiện khi nhu cầu trao đổi trở nên phức tạp hơn, khi trao đổi trực tiếp bằng hàng hóa không thể thỏa mãn nhu cầu của con người.
+ Khi một hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá chung để thể hiện giá trị của tất cả các hàng hoá khác.
+ Người ta mang hàng hóa của mình đổi lấy thứ hàng hóa mà được nhiều người ưa chuộng rồi đem nó đổi lấy hàng hóa mình cần.
+ Vật ngang giá chung chưa ổn định, thay đổi khác nhau theo từng môi trường sống.
VD: Vùng A: 1m vải = 10Kg thóc, Vùng B: 1m vải = 2 con gà
- Hình thái tiền tệ
+ Xuất hiện khi tình trạng có quá nhiều vật ngang giá chung làm trao đổi trở nên khó khăn giữa các vùng miền. Từ đó đòi hỏi phải hình thành 1 vật ngang giá chung thống nhất.
+ Tỷ lệ trao đổi cố định
+ Vàng được đóng vai trò tiện tệ. Vì vàng có các ưu điểm: thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ, không hư hỏng, giá trị lớn.
VD: 10kg thóc (hoặc 1m vải hoặc 2 con gà) = 0,1 chỉ vàng
=> Sự tồn tại và phát triển các hình thái tiền tệ gắn liền với sự tồn tại và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Trong quá trình này, khi sự phát triển đạt cực đại nó hình thành và xuất hiện vật ngang giá chung. Vật ngang giá chung được thể hiện bởi Vàng – tiền tệ được coi là một hàng hoá đặc biệt.
b) Theo cnghia MacLenin, tiền tệ có năm chức năng sau: Thước đo giá trị, Phương tiện lưu thông, Phương tiện cất trữ, Phương tiện thanh toán và Tiền tệ thế giới. Năm chức năng này có sự quan hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển của các chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hoá phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
- Thước đo giá trị :
+ Dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá
+ Tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng.
+ Giá trị hàng hoá đưọc biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá. Giá cả hàng hoá chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau đây:
+) Giá trị hàng hoá.
+) Giá trị của tiền.
+) Quan hệ cung - cầu về hàng hoá.
+  Để thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ phải là tiền thực – tiền có đủ giá trị nội tại.
+ Ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Tiêu chuẩn giá cả là đơn vị đo lường tiền tệ của mỗi quốc gia bao gồm hai yếu tố: tên gọi của đơn vị tiền tệ và hàm lượng kim loại ‎ trong một đơn vị tiền tệ.
- Phương tiện lưu thông:
+ Tiền làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hoá.
+ Để làm chức năng lưu thông hàng hoá đòi hỏi phải có tiền mặt.
+ Công thức lưu thông hàng hoá giản đơn: H - T – H
+ Theo C. Mác, nếu xem xét trong cùng một thời gian và trên cùng một không gian thì khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông được xác định qua công thức:
Số lượng tiền tệ cần lưu thông = Tổng số giá cả của hàng hóa / Số vòng lưu thông của các đồng tiền cùng loại
+ Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần.
+ Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị.
- Phương tiện cất trữ:
+  Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ, tạm thời trở vào trạng thái tĩnh, chuẩn bị cho nhu cầu tiêu dùng trong tương lai
+  Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải.
+ Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền, vàng, bạc.
+ Chức năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuât tăng, lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại, nếu sản xuất giảm lượng hàng hoá lại ít thì một phần tiền rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ.
- Phương tiện thanh toán
+ Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng...
+   Làm phương tiện thanh toán có thể bằng tiền mặt, séc, chuyển khoản, thẻ tín dụng...
+ Muốn được chấp nhận làm phương tiện thanh toán, tiền tệ phải có sức mua ổn định, tương đối bền vững theo thời gian, chính sức mua ổn định đã tạo cho người ta niềm tin và sự tín nhiệm tiền tệ.
+  Trong điều kiện tiền thực hiện chức năng phương tiện thanh toán thì công thức số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông sẽ được triển khai như sau:
Số lượng tiền tệ cần cho lưu thông=(Tổng số giá cả của hàng hóa - Tổng số giá cả hàng bán chịu - Tổng số tiền khấu trừ cho nhau + Tổng số tiền thanh toán đến kỳ hạn trả) / Số vòng lưu thông của các đồng tiền cùng loại
- Tiền tệ thế giới
+ Khi quan hệ buôn bán giữa các quốc gia với nhau xuất hiện, thì tiền tệ làm chức năng tiền tệ thế giới, nghĩa là thanh toán quốc tế.
+ Làm chức năng tiền tệ thế giới phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được thừa nhận thanh toán quốc tế.
+ Làm chức năng tiền tệ thế giới, tiền tệ vừa là phương tiện mua hàng, di chuyển của cải và thanh toán quốc tế.
=> Tóm lại 5 cnang của tiền trong nền kte hhoa qhe mật thiết vs nhau. Sự phát triển các cnang của tiền phản ánh sự phát triển của sx và lưu thông hhoa.
c) Quy luật giá trị: Sản xuất hàng hóa chịu sự tác động của nhiều quy luật kinh tế như: quy luật cung-cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ,…nhưng vai trò cơ sở cho sự chi phối nền sản xuất hàng hóa thuộc về quy luật giá trị.
- Nội dung:
+ Ở đâu có sản xuất và trao đổi hang hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị
+ Sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xh cần thiết
+) Trong sản xuất: ng sx phải lm cho tgian lđ cá biệt của mình thấp hơn hoặc bằng tgian lđ xh để đảm bảo hđ sx không bị thua lỗ
+) Trong lưu thông: hàng hóa trao đổi phải tuân theo nguyên tắc ngang giá.
+ Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó cao hơn và ngược lại hàng hóa nào có ít giá trị thì giá cả thấp hơn.
+ Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như: cạnh tranh, cung - cầu, sức mua của đồng tiền.
- Tác động: Trong sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có 3 tác động chủ yếu như sau:
+ Điều tiết sản xuất, lưu thông hàng hóa:
+) Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
+) Tác lộng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung - cầu.
Cung > cầu => giá cả < giá trị => dư thừa trong sx và lưu thông
Cung < cầu => giá cả > giá trị => thiếu hụt trong sx và lưu thông
+) Tuy nhiên nền kinh tế luôn luôn vận động, do đó quan hệ giá cả và cung cầu cũng thường xuyên biến động liên tục.
+) Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt.
+ Kích thích cải tiến công nghệ-kỹ thuật, tăng ns lđ, thúc đẩy lực lượng sx phát triển:
+) Để giành lợi thế trong cạnh tranh, thu được tối đa lợi nhuận và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản thì phải hạ thấp hao phí lđ cá biệt của lđ bằng hao phí lđ xh cần thiết. muốn như vậy phải nâng cao năng suất lđ bằng cách nâng cao cải tiến kỹ thuật, cải cách tổ chức qly,…
+) Sự cạnh tranh quyết liệt càng gay gắt càng thúc đẩy lực lượng sx phát triển mạnh mẽ
+ Phân hóa những người sản xuất thành người giàu người nghèo:
+) Những ng sx hàng hóa nào có điều kiện thuận lợi, có trình độ kiến thức cao, khoa học kỹ thuật tốt,… nên có mức phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ thu nhiều lợi nhuận hơn, nhanh giàu hơn và có thể mở rộng sản xuất kinh doanh nhanh chóng dễ dàng hơn.
+) Ngược lại, ng sx hàng hóa không có những điều kiện doanh thuận lợi, gặp nhiều rủi ro trong sx kinh doanh,…nên mức phí lao động cá biệt cao hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy khi bán hàng hóa theo giá cả thị trường sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ và có thể phá sản.
 Phân hóa xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội
=>>> Quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển. Mặt khác, nó phân hoá xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
6, Giá trị thặng dư
Theo Mac, gtri thặng dư thực  chất là phần giá trị do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra ngoài sức lao động và bị tư bản chiếm không. Các nhà tư bản để đạt được mục đích tối đa của mình họ đã mua sức lao động của người công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm và thu về giá trị thặng dư.  Do vậy, để có được giá trị thặng dư tối đa các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng khối lượng giá trị thặng dư. Những phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là hai phương pháp sản xuất chính là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối được áp dụng rộng rãi nhất.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
+ được áp dụng ở thời kỳ đầu khi nền kinh tế còn chủ yếu sd lđ thủ công hoặc lđ bằng máy móc đơn giản.
+ bản chất của pp là kéo dài thời gian lđ của công nhân vượt hơn tgian lđ tất yếu  trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu là không thay đổi.
VD:  Ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là 100%.
Giả định nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu không thay đổi, vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng lên đạt 150%.
 Như vậy , về mặt kinh tế , tgian lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu. Vì thời gian lao động quá dài dẫn đến bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động .
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối: ra đời để khác phục hạn chế của pp sx gtri thặng dư tuyệt đối, đồng thời để theo kịp vs tiến độ khoa học kỹ thuật mới.
+ bản chất của pp là rút ngắn thời gian lao động cần thiết, tăng ns lđ xh trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi.
VD: Giả sử ngày lao động là 8 giờ, nó được chia ra 4 giờ là thời gian lao động tất yếu, 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó tỷ suất giá trị thặng dư là 100%.
Giả sử khi máy móc được thay đổi, ngày lao động không thay đổi, thời gian lao động tất yếu của người công nhân chỉ còn lại là 3 giờ, thời gian lao động thặng dư đã tăng lên là 5 giờ, vì vậy tỷ suất thặng dư đã tăng lên là 166%.
 Như vậy , về mặt kinh tế , tgian lao động phải ngắn hơn thời gian lao động tất yếu. Để lm được như vậy phải giảm giá trị sức lđ bằng cách tăng ns lđ, áp dụng khoa học kỹ thuật.
 Tóm lại, mục đích của các nhà tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất giá trị thặng dư. Sản xuất giá trị thặng dư là động lực vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hai pp sx gtri thặng dư trên được các nhà tư bản sd kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột lđ trong quá trình phát triển cntb. Nếu gạt bỏ mđich và tính chất tư bản cnghia, thì các pp sx gtri thặng dư có tdung mạnh mẽ, kích thích các cá nhân và tập thể lđ ra sức cải tiến kỹ thuật, cải tiến qly sx, tăng nslđ làm cho lực lượng sx phát triển nhanh chóng.
- Tại sao nói “ sx gtri thặng dư là qluat kte tuyệt đối của tb”:
Mỗi pthuc sx đều có 1 quy luật kte tuyệt đối, quy luật đó sẽ phản ánh mqh kte bản chất nhất của pthuc sx đó. Theo Mac, tạo ra gtri thặng dư đó là quy luật tuyệt đối của pthuc sx tbcn. Để giải thích cho nhận định đó, chúng ta hãy nhìn vào công thức vận động của tư bản:
T-H-T’
+ Khác vs lưu thông hhoa giản đơn, tiền ở đây k đóng vtro là trung gian trao đổi nữa mà nó là điểm khởi đầu và mục đích của sx. Nhưng nếu T=T’ thì nhà tban k đc lợi. Vì vậy, giữa T và T’ phải có sự chênh lệch và lượng chênh lệch đó được gọi là gtri thặng dư.
+ Nếu trong lưu thông hhoa giản đơn, cthuc vận động (H-T-H) kthuc bằng H (hàng), mđich lưu thông hướng tới là gtri sd thì kthuc của cthuc vận động của tban là T(tiền). Điều đó cho thấy cái mà nhà tban theo đuổi k phải là gtri sd mà là gtri thặng dư, là nhân lên giá trị.
+ Theo đuổi gtri thặng dư tối đa là mđich và động cơ đẩy hđ cuả các nhà tư bản. Gtri thặng dư là nguồn gốc làm giàu của các nhà tban.
 Như vậy, sx gtri thặng dư là quy luật kte tuyệt đối của cntb, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của cntb. Nó qđinh các mặt chủ yếu, các qtrinh kte chủ yếu của cntb.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro