ÔN THI TỐT NGHIỆP CẤP III MÔN VĂN

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

2. NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU NGÔI SAO SÁNG

TRONG VĂN NGHỆ CỦA DÂN TỘC

(Phạm Văn Đồng)

I.Tìm hiểu chung

1. Tác giả :

Phạm Văn Đồng (1906-2000), quê quán ở Quảng Ngãi, là nhà cách mạng, nhà chính trị, nhà ngoại giao lỗi lạc của cách mạng VN thế kỉ XX.

- Phạm Văn Đồng còn là nhà giáo dục, nhà lí luận văn hoá văn nghệ lớn.

2. Văn bản 

a) Hoàn cảnh, mục đích sáng tác 

- Sáng tác tháng 07/1963 nhân kỉ niệm 75 năm ngày mất Nguyễn Đình Chiểu. 

- Để tưởng nhớ Nguyễn Đình Chiểu; định hướng, điều chỉnh cách nhìn nhận, đánh giá về Nguyễn Đình Chiểu và thơ văn của ông; khơi dậy tinh thần yêu nước trong thời đại chống Mĩ cứu nước.

b) Thể loại: 

Văn bản nghị luận về một vấn đề văn học....

- Yêu cầu thể loại: Bố cục rõ ràng, mạch lạc; Tính lí trí cao, lập luận chặt chẽ, khoa học, lôgic.; Lí lẽ sắc bén, dẫn chứng xác thực có sức thuyết phục; Có thể sử dụng yếu tố biểu cảm. 

c)Bố cục

* Bố cục

Nêu vấn đề: Từ đầu đến “đặt chân lên đất nước ta”: Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ lớn của dân tộc cần phải được nghiên cứu, tìm hiểu và đề cao hơn nữa.

Giải quyết vấn đề: Tiếp theo đến “còn vì văn hay của Lục Vân Tiên

Luận điểm 1: Nguyễn Đình Chiểu - nhà thơ yêu nước 

Luận điểm 2: Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu - tấm gương phản chiếu phong trào chống Pháp oanh liệt và bền bỉ của nhân dân Nam Bộ.

Luận điểm 3: Lục Vân Tiên, tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Đình Chiểu, có ảnh hưởng sâu rộng trong dân gian, nhất là ở miền Nam

Kết thúc vấn đề: Còn lại: Cuộc đời và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Đình Chiểu - tấm gương sáng của mọi thời đại.

Nhận xét kết cấu của văn bản

- Không kết cấu theo trình tự thời gian

- Lí giải: do mục đích sáng tác.

II. Đọc hiểu văn bản 

1. Nêu vấn đề 

- Đánh giá so sánh Nguyễn Đình Chiểu là:

Ngôi sao có ánh sáng khác thườngánh sáng đẹp nhưng chưa quen nhìn nên khó thấy

Phải chăm chú nhìn mới thấy và càng nhìn càng thấy sángphải dày công nghiên cứu thì mới thấy.

Luận đề: Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ yêu nước mà các tác phẩm của ông là những trang bất hủ ca ngợi cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta, một tác giả cần được nghiên cứu đề cao hơn nữa.

ÆTác giả đã vào đề một cách trực tiếp, thẳng thắn, độc đáo: nêu vấn đề một cách trực tiếp và lí giải nguyên nhân với cách so sánh cụ thể, giàu tính hình tượng. Đó cũng là cách đặt vấn đề khoa học, sâu sắc vừa khẳng định được vị trí của Nguyễn Đình Chiểu vừa định hướng tìm hiểu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu .

2. Giải quyết vấn đề:

a. Luận điểm 1: Cuộc đời, con người và quan niệm sáng tác thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu

- Hoàn cảnh sống: nước mất nhà tan, mang thân phận đặc biệt: mù cả hai mắt.

- Con người: nhà nho yêu nước, vì mù mắt nên hoạt động chủ yếu bằng thơ văn; nêu cao tấm gương anh dũng, khí tiết, sáng chói về tinh thần yêu nước và căm thù giặc sâu sắc.

- Quan niệm sáng tác: dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu, ca ngợi đạo đức, chính nghĩa. 

Æ Quan niệm văn chương của Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn thống nhất với quan niệm về lẽ làm người.

b. Luận điểm 2: Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu.

- Tái hiện một thời đau thương, khổ nhục mà vĩ đại của đất nước, nhân dân.Æ thơ văn NĐC đã bám sát đời sống lịch sử đấu tranh của nhân dân Nam Bộ, có hơi thở nóng bỏng của tình cảm yêu nước thuơng nòi. Đó cũng là cách khẳng định NĐC xứng đáng là một ngôi sao sáng .

- Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi những người anh hùng suốt đời tận trung với nước, than khóc cho những người đã trọn nghĩa với dân. 

Luận chứng: VTNSCG là một đóng góp lớn 

+ Khúc ca của người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang

+ Lần đầu tiên, người nông dân di vào văn học viết, là hình tượng nghệ thuật trung tâm.

- Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ có sức nặng đấu tranh mà còn đẹp ở hình thức, có những đóa hoa, hòn ngọc rất đẹp...

ÆVăn chương NĐC tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh của thời đại, có sức cổ vũ mạnh mẽ cho cuộc chiến đấu chống thực dân. 

c) Luận điểm 3 :Truyện Lục Vân Tiên. 

- Là “một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những người trung nghĩa. 

- Không phủ nhận những hạn chế của tác phẩm: giá trị luận lí mà NĐC ca ngợi, ở thời đại chúng ta, theo quan điểm chúng ta thì có phần đã lỗi thời”, hay văn chương của LVT“có những chỗ lời văn không hay lắm”.

- Khẳng định tư tưởng, thế giới nhân vật, về nghệ thuật trong truyện LVT có những điểm mạnh và giá trị riêng: tư tưởng nhân-nghĩa-trí-dũng; nhân vật gần gũi với nhân dân, từ nhân dân mà ra: dũng cảm, đấu tranh không khoan nhượng cho chính nghĩa; nghệ thuật kể truyện nôm dễ hiểu dễ nhớ, dễ truyền bá dân gian, thậm chí có cả những lời thơ hay.

Æ cách lập luận đòn bẩy, bắt đầu lập luận là một sự hạ xuống, nhưng đó là sự hạ xuống để nâng lên; xem xét LVT trong mối quan hệ mật thiết với đời sống của nhân dân.

3. Kết thúc vấn đề:

Khẳng định vị trí của NĐC trong lịch sử VH, trong đời sống tâm hồn dân tộc và trong cuộc kháng chiến chống Mĩ

- Tỏ niềm tiếc thương thành kính.

Vừa có tác dụng khắc sâu, vừa có thể đi vào lòng người niềm xúc cảm thiết tha.

III. Kết luận:

1. Nghệ thuật :

- Kết hợp hài hòa giữa lí lẽ xác đáng và tình cảm chân thành; lập luận chặt chẽ, khoa học, luận cứ và luận chứng xác đáng. Bố cục mạch lạc, ngôn ngữ trong sáng, rõ ràng. 

2. Nội dung

- Đánh giá đúng đắn và khoa học về tác gia văn học Nguyễn Đình Chiểu trong văn học yêu nước của dân tộc.

- Bày tỏ được thái độ trân trọng và cảm phục của tác giả đối với tâm gương sáng nhà văn –chiến sĩ Nguyễn Đình Chiểu.

- Khơi dậy sức mạnh của văn nghệ và tinh thần yêu nước và đấu tranh chống đế quốc, bảo vệ độc lập dân tộc

3. THÔNG ĐIỆP NHÂN NGÀY THẾ GIỚI

PHÒNG CHỐNG AIDS 1-12-2003

( Cô-phi-An-nan)

I. Giới thiệu

1. Tác giả

- Cô-phi-An-nan (1938) tại Gana ( Châu Phi), bắt đầu làm việc tại tổ chức Liên hợp quốc từ năm 1962, 1996 là phó tổng thư kí Liên hợp quốc, 1/1997-1/2007 ông trở thành người thứ bảy và là người Châu Phi da đen đầu tiên giữ chức vụ tổng thư kí Liên hợp quốc.

- Năm 2001 tổ chức Liên hợp quốc và cá nhân Cô-phi-An-nan được trao giải Nôben Hoà bình. Ông cũng được trao nhiều giải thưởng danh dự khác ở châu Âu, Á, Phi…

2. Hoàn cảnh sáng tác

- Năm 2001 Cô-phi-An-nan ra lời kêu gọi thế giới đấu tranh phòng chống HIV, kêu gọi thành lập quỹ sức khoẻ và AIDS toàn cầu.

- Thông điệp này được Cô-phi-An-nan viết gửi nhân dân thế giới nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, 1/12/2003.

II. Tìm hiểu văn bản

1. Tình hình phòng chống HIV trên thế giới.

a. Những vấn đề đã đạt được.

- Ngân sách phòng chống HIV tăng.

- Quỹ toàn cầu phòng chống lao, sốt rét được thông qua.

- Các nước đã xây dựng kế hoạch phòng chống HIV.

- Các công ty đã áp dụng chính sách phòng chống HIV nơi làm việc, nhiều nhóm từ thiện và cộng đồng phối hợp với chính phủ và tổ chức khác phòng chống HIV.

b.Những vấn đề chưa đạt được.

- HIV vẫn gây tỉ lệ tử vong cao, ít có dấu hiệu suy giảm (1 phút có 10 người bị nhiễm HIV, HIV đang lây lan ở mức báo động đối với phụ nữ, phụ nữ đã chiếm một nửa số người bị nhiễm, bệnh dịch này lan rộng ở những nơi trước đây được coi là an toàn: châu Á, Đông Âu, Uran đến Thái Bình Dương), điều này dẫn đến dân số có nguy cơ giảm, ảnh hưởng đến lực lượng lao động toàn cầu.

- Chúng ta chưa đạt được chỉ tiêu đề ra trong năm 2005: chưa giảm được số thanh niên, trẻ sơ sinh nhiễm HIV, chưa triển khai chương trình chăm sóc toàn diện trên thế giới.

2. Các biện pháp cần thực hiện để đẩy lùi HIV.

- Cần có nguồn lực và hành động cần thiết “ chúng ta cần phải nổ lực nhiều hơn nữa để thực hiện cam kết của mình bằng những nguồn lực và hành động cần thiết”.

- Đưa vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu và sẵn sàng đối mặt với nó “chúng ta phải đưa vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự về chính trị và hành động thực tế của mình. Đó là lí do chúng ta phải công khai lên tiếng về AIDS”.

- Không có thái độ kì thị, phân biệt đối xử với người bị nhiễm HIV “ chúng ta sẽ không hoàn thành các mục tiêu đề ra thậm chí chúng ta còn bị chậm hơn nữa nếu sự kì thị và phân biệt đối xử vẫn tiếp tục diễn ra đối với những người bị HIV/AIDS. Hãy đừng để một ai có ảo tưởng rằng chúng ta có thể bảo vệ được chính mình bằng cách dựng lên các bức rào ngăn cách giữa “ chúng ta” và “họ”.

- Mọi người cùng chung tay để chống lại căn bệnh của thế kỉ “Hãy sát cánh cùng tôi, bởi lẽ cuộc chiến chống lại HIV/AIDS bắt đầu từ chính các bạn”.

III. Tổng kết

1. Nghệ thuật

- Tác giả sử dụng hệ thống lập luận chặt chẽ, thuyết phục:

+ Mở đầu nêu luận điểm xuất phát “ngày hôm nay chúng ta đã cam kết và các nguồn lực đã được tăng lên. Song những hành động của ta vẫn còn quá ít so với yêu cầu thực tế”.

+ Sau đó đi vào từng luậm điểm : luận điểm 1, tác giả nêu lên những gì thế giới đã làm được để phòng chống HIV thời gian qua, tác giả đưa ra những luận cứ, những dẫn chứng xác thực, dẫn chứng được đưa theo phương diện từ rộng đến hẹp ( ngân sách phòng chống HIV trên thế giới, quốc gia, công ty….). Luận điểm 2, tác giả nêu lên những gì thế giới chưa làm được trong phòng chống HIV, đưa ra những số liệu chính xác, thuyết phục ( trong năm qua mỗi phút đồng hồ …. Thái Bình Dương).

+ Sử dụng lập luận phản đề ( lẽ ra…lẽ ra…và lẽ ra…) làm cơ sở để đưa ra kiến nghị của mình. 

+ Để tăng tính thuyết phục bài viết sử dụng câu văn dài ngắn khác nhau, sử dụng nhiều câu khẳng định, mệnh lệnh ( chúng ta đã… chúng ta hãy….chúng ta không thể…hãy cùng tôi….) và cũng để tạo nên giọng điệu hùng hồn cho bài viết.

- Câu văn chứa đựng nhiều yếu tố biểu cảm nhất là đoạn “Đó là lí do chúng ta phải công khai lên tiếng → hết”, nhờ yếu tố biểu cảm đó giúp bài văn không khô khan mà dễ thuyết phục và thúc giục mọi người hành động phòng chống HIV.

- Ngôn ngữ hàm súc,chọn lọc, bài viết ngắn gọn, súc tích, cô đọng.

2. Nội dung

Trước hiểm hoạ của căn bệnh thế kỉ, HIV đang cướp đi sức khoẻ, sinh mạng của nhân loại, với vai trò là tổng thư kí Liên hợp quốc, Cô-phi-An-nan đã ra lời kêu gọi nhân dân thế giới hãy chung tay đẩy lùi đại dịch này. Đó không chỉ là nhiệm vụ của một cá nhân, một tổ chức nào mà là nhiệm vụ chung của tất cả chúng ta.

4. SÓNG – Xuân Quỳnh

A. Vài nét về thơ XQ: 

Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thư­ờng. Thơ chị là tiếng lòng của một tâm hồn tư­ơi trẻ, luôn khát khao tình yêu, “nâng niu chi chút” từng hạnh phúc bình dị đời thư­ờng. Trong số các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Xuân Quỳnh xứng đáng đ­ược gọi là nhà thơ tình yêu. Chị viết nhiều, viết hay về tình yêu trong đó “Sóng” là một bài thơ đặc sắc.

Đặc điểm nổi bật trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là chị vừa khát khao một tình yêu lý t­ưởng và h­ướng tới một hạnh phúc bình dị thiết thực: “Đến Xuân Quỳnh, thơ hiện đại Việt Nam mới có một tiếng nói bày tỏ trực tiếp những khát khao tình yêu vừa hồn nhiên chân thực, vừa mãnh liệt sôi nổi của một trái tim phụ nữ.

“Sóng” là bài thơ đã kết tinh những gì sở trư­ờng của hồn thơ Xuân Quỳnh. Như­ng thành công đáng kể nhất là Xuân Quỳnh đã m­ượn hình t­ượng sóng để diễn tả những cảm xúc vừa phong phú phức tạp, vừa thiết tha sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đ­ương.

B. Nội dung đọc hiểu:

1. Xuất xứ: 

“Sóng” (được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”- 1968) là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ của Xuân Quỳnh. Bài thơ bộc lộ một khát vọng vừa hồn nhiên, chân thật vừa da diết, sôi nổi về tình yêu mãnh liệt rộng lớn và vĩnh hằng của trái tim người phụ nữ.

2. Ý nghĩa hình tượng sóng: 

- “Sóng” là hiện tượng ẩn dụ của tâm trạng người phụ nữ đang yêu. Sóng là một sự hòa nhập và phân tán của nhân vật trữ tình “ em”. Nhà thơ đã sáng tạo hình tượng sóng khá độc đáo nhằm thể hiện những cung bậc tình cảm và tâm trạng của người phụ nữ đang yêu.

- Cả bài thơ được kiến tạo bằng thể thơ 5 chữ với một âm hưởng đều đặn, luân phiên như nhịp vỗ của sóng. 

3. Trạng thái tâm lý đặc biệt của người phụ nữ đang yêu (khổ 1+2):

- Sóng được nhà thơ hình tượng hóa, thể hiện những trạng thái tâm lý đặc biệt của người phụ nữ đang yêu:

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

- Sóng thể hiện khát vọng vươn tới, tìm kiếm trong tình yêu của người phụ nữ:

Sóng không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

- Đối diện với biển, nhà thơ liên tưởng đến sự bất diệt của khát vọng tình yêu. Biển muôn đời cồn cào xáo động, như tình yêu muôn đời vẫn “bồi hồi trong ngực trẻ” (Ôi con sóng ngày xưa. Và ngày sau vẫn thế. Nỗi khát vọng tình yêu. Bồi hồi trong ngực trẻ).

- Người con gái trong bài thơ muốn cắt nghĩa nguồn gốc của sóng để tìm lời giải đáp cho câu hỏi về sự khởi nguồn của tình yêu trong trái tim mình:

Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên?

Nhưng tình yêu muôn đời vẫn là điều bí ẩn, không dễ cắt nghĩa. Xuân Quỳnh thú nhận sự bất lực ấy một cách rất dễ thương: “Em cũng không biết nữa. Khi nào ta yêu nhau”.

4. Nỗi nhớ trong tình yêu (khổ 5):

- Người con gái đang yêu nhờ sóng diễn tả nỗi nhớ trong lòng mình:

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

- Nhân vật em còn trực tiếp diễn tả nỗi nhớ da diết của mình: “Lòng em nhớ đến anh. Cả trong mơ còn thức”.

=> Nỗi nhớ dâng trào, tràn ngập trong không gian và thời gian, nỗi nhớ hiện về trong ý thức và trong tiềm thức. 

5. Sự thủy chung (khổ 6+7):

- Hình tượng sóng còn là sự biểu hiện của một tình yêu thiết tha, bền chặt, thủy chung của người phụ nữ:

Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh - một phương

- Hình tượng sóng là minh chứng cho một tình yêu chân chính, một tình yêu vượt qua mọi cách trở để đến bên nhau vớimột niềm tin mãnh liệt: 

Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở

6. Khát vọng tình yêu vĩnh hằng: (khổ 8+9):

- Người con gái khi yêu cũng bộc lộ một thoáng lo âu:

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa.

- Nhà thơ ý thức được sự hữu hạn của đời người và sự mong manh của hạnh phúc nên có khát vọng hóa thân vào sóng để được trường tồn, bất diệt: 

Làm sao tan được ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ

C. Kết luận:

- Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là tiếng nói trái tim của những con người đang yêu, biết yêu và biết giữ mãi tình yêu cao đẹp của mình.

- Sóng là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh giai đoạn đầu. Một bài thơ vừa xinh xắn duyên dáng vừa ý nhị sâu xa, mãnh liệt mà hồn nhiên, sôi nổi mà đằm thắm. Sau này nếm trải nhiều cay đắng trong tình yêu, giọng thơ Xuân Quỳnh còn phơi phới bốc men say nh­ng khát vọng tình yêu luôn khắc khoải trong trái tim nữ thi sĩ. Trái tim “mãi yêu anh” ngay cả khi ngừng đập, bởi cái chết có thể kết thúc một cuộc đời chứ không thể kết thúc một tình yêu. 

III. CÂU HỎI THAM KHẢO

Đề 1. Hình t­ượng “sóng” trong bài thơ đ­ược miêu tả nh­ư thế nào ?

Sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng ng­ười con gái yêu đư­ơng, là sự hóa thân, phân thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ. Cùng với hình t­ượng sóng, bài thơ này còn có một hình t­ượng nữa là em - cái tôi trữ tình của nhà thơ. Tìm hiểu hình t­ượng “sóng”, không thể không xem xét nó trong mối tư­ơng quan với “em”.

Hình tư­ợng sóng tr­ớc hết đ­ược gợi ra từ âm hư­ởng dào dạt, nhịp nhàng của bài thơ. Đó là nhịp của những con sóng trên biển cả liên tiếp, triền miên, vô hồi vô hạn. Đó là âm điệu của một nỗi lòng đang tràn ngập, khao khát tình yêu vô hạn, đang rung lên đồng điệu, hòa nhịp với sóng biển.

Qua hình t­ượng sóng, Xuân Quỳnh đã diễn tả vừa cụ thể vừa sinh động nhiều trạng thái, tâm trạng, những cung bậc tình cảm khác nhau trong trái tim của ng­ười phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đ­ương. Mỗi trạng thái tâm hồn cụ thể của ngư­ời con gái đang yêu đều có thể tìm thấy sự t­ương đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng.

Đề 2. Qua bài thơ Sóng, vẻ đẹp tâm hồn của ng­ời phụ nữ trong tình yêu đ­ợc thể hiện nh­ thế nào ?

Qua bài thơ Sóng, ta có thể cảm nhận đ­ược vẻ đẹp tâm hồn của ng­ười phụ nữ trong tình yêu. Ng­ười phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khao khát yêu đ­ương mãnh liệt và những rung động rạo rực trong lòng mình. Ng­ười phụ nữ ấy thủy chung, nh­ưng không còn nhẫn nhục, cam chịu nữa. Nếu “sông không hiểu nổi mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó, để “tìm ra tận bể”, đến với cái cao rộng, bao dung. Đó là những nét mới mẻ, “hiện đại” trong tình yêu.

Tâm hồn ng­ười phụ nữ đó giàu khao khát, không yên lặng: “vì tình yêu muôn thuở - Có bao giờ đứng yên” (Thuyền và biển). Nh­ưng đó cũng là một tâm hồn thật trong sáng, thủy chung vô hạn. Quan niệm tình yêu nh­ư vậy rất gần gũi với mọi ngư­ời và có gốc rễ trong tâm thức dân tộc.

Đề 3: Phân tích bài “Sóng” của Xuân Quỳnh

I.Đặt vấn đề

Biển và sóng là những đề tài quen thuộc của thơ ca. Mỗi nhà thơ nhìn biển theo cảm hứng riêng của mình. V.Hugo trong “Đêm đại d­ương” khi đứng tr­ước biển cả mênh mông sâu thẳm, đã nghe đư­ợc”Những tiếng ng­ười tuyệt vọng kêu la”. Puskin thì liên t­ưởng những đợt sóng thét gào với nỗi cay đắng trong tình yêu. Xuân Quỳnh tìm đ­ược những suy nghĩ tinh tế và thú vị về tình yêu qua hình ảnh những con sóng biển.

II.Giải quyết vấn đề

1.Sóng biển và tình yêu

Tác giả đã nhìn thấy sóng qua hai tính cách gần như­ đối lập nhau “dữ dội”, “ồn ào” với “êm dịu”, “lặng lẽ”. Đấy là hình ảnh thực tế về sóng biển. Như­ng nhà thơ còn hình dung ra sóng như­ thể một con ngư­ời, con ngư­ời của suy t­ư, tìm kiếm:

Dữ dội và êm dịu………. Sóng tìm ra tận bể

Từ hình ảnh sóng đi ra khơi xa rồi sóng lại vỗ vào bờ, nhà thơ liên t­ưởng tới tình yêu:

Ôi con sóng ngày x­a…………. Bồi hồi trong ngực trẻ

Đây là một liên t­ưởng thú vị, bởi vì cũng nh­ư sóng biển tự bao giờ cho tới nay, tình yêu vẫn luôn luôn là nỗi khao khát của con ng­ười. Nếu tình yêu là nỗi khát vọng của con ng­ười thì đối với tuổi trẻ, tình yêu càng trở nên thân thiết đến nỗi có thể tuổi trẻ gắn liền với tình yêu. Đấy phải chăng là điều mà Xuân Diệu từng phát biểu:

Làm sao sống đ­ược mà không yêu /Không nhớ không th­ương một kẻ nào.

2.Tình yêu của anh và em 

Cả đoạn thơ trên nói về sóng biển và tình yêu một cách chung, nh­ư một quy luật của cuộc sống. Đến đoạn thơ tiếp theo, tình yêu trở nên cụ thể, đó là tình yêu của anh và của em. ý thơ phát triển rất hợp lý, tứ thơ sâu sắc làm nên dáng nét suy t­ư trong thơ của Xuân Quỳnh:

Tr­ước muôn trùng sóng bể ……….. Từ nơi nào sóng lên

Tại sao “tr­ước muôn trùng sóng bể”, “em nghĩ về anh, em” ?

Thắc mắc về biển cả, chính là thắc mắc về tình yêu. Bởi vì tình yêu chính là thắc mắc về ng­ười mình yêu. Đó là một hiện t­ượng tâm lý thông thư­ờng trong tình yêu - yêu có nghĩa là hiểu rất rõ về ng­ười mình yêu và đồng thời ng­ười yêu vẫn là một ẩn số kỳ thú đối với mình. Cũng như­ vậy, ngư­ời đang yêu rất hiểu về tình yêu nh­ưng đồng thời vẫn luôn luôn tự hỏi không biết thế nào là tình yêu. ở đây, nhà thơ Xuân Quỳnh đã liên hệ tâm lý ấy bằng hình tư­ợng nghệ thuật hồn nhiên, dễ th­ương và gợi cảm:

Sóng bắt đầu từ gió ……… Khi nào ta yêu nhau.

Yêu, rõ ràng là thế mà đôi khi cũng không biết nó là gì. Nó cụ thể mà mơ hồ, nó gần gụi mà xa xôi, nó đơn giản mà phức tạp. Nó là con sóng. Nhà thơ lại trở về nghệ thuật nhân hóa:

Con sóng d­ưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nư­ớc

Ôi con sóng nhớ bờ 

Ngày đêm không ngủ đ­ược

Tư­ởng t­ượng đã giúp nhà thơ lý giải một hiện t­ượng của thiên nhiên: con sóng nhớ biển nhớ bờ cho nên ngày đêm liên tục vỗ vào bờ. Đâu đây có hình ảnh ý thơ của Xuân Diệu:

Bờ đẹp đẽ cát vàng/Thoai thoải hàng thông đứng/Như­ lặng lẽ mơ màng/Suốt ngàn năm bên sóng (Biển)

Cũng nh­ư vậy, yêu có nghĩa là nhớ. Nhớ cả trong mơ cũng như­ khi còn thức. Yêu anh có nghĩa là nghĩ đến nay, luôn luôn nghĩ đến anh:

Lòng em nghĩ đến anh

Cả trong mơ còn thức

Phải chăng đó là điều mà Nguyễn Bính đã thể hiện một cách duyên dáng qua hình thức thơ dân dã của mình:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một ngư­ời chín nhớ mư­ời mong một ngư­ời

Cái nhớ của tình yêu chính là nỗi khát khao vô hạn, là nỗi nhớ không nguôi:

Uống xong lại khát là tình

Gặp rồi lại nhớ là mình của ta

(Xuân Diệu)

Những liên t­ưởng trên đây giúp ta thấy cách diễn tả của Xuân Quỳnh chân thật và hồn nhiên biết chừng nào. ở thơ của Xuân Quỳnh có sự liên kết giữa cái hồn nhiên chân thật ấy với chất suy t­ư một cách tinh tế và chặt chẽ làm cho bài thơ ánh lên vẻ đẹp của một tâm hồn suy nghĩ.

Ngư­ời ta nói yêu nhau tức là cùng nhau nhìn về một h­ướng. Còn nhà thơ Xuân Quỳnh của chúng ta thì lại bảo:

Dẫu xuôi về phư­ơng Bắc

Dẫu ng­ợc về phư­ơng Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

H­ướng về anh - một ph­ương

Hình ảnh “h­ướng về anh một phư­ơng” làm ta nhớ tới mấy câu ca dao:

Quay tơ thì giữ mối tơ

Dẫu trăm nghìn mối vẫn chờ mối anh

Đó phải chăng, từ nỗi nhớ trong tình yêu, nhà thơ muốn làm nổi bật tình cảm thủy chung duy nhất của ng­ười con gái. Dù đi đâu, dù xuôi ng­ược bốn phư­ơng, tám h­ướng, thì em cũng chỉ h­ướng về một phư­ơng của anh, có anh, cho anh. Nhà thơ lại trở về với hình ảnh những con sóng để làm điểm tựa cho ý t­ưởng của mình. Bởi vì, dù có xa vời cách trở bao nhiêu, con sóng vẫn tới đ­ược bờ:

Ở ngoài kia đại dương.....

Dù muôn vời cách trở

3.Tình yêu và cuộc đời

ở trên, tác giả liên t­ưởng sóng với tình yêu. Đoạn thơ cuối cùng so sánh cuộc đời và biển cả:

Cuộc đời tuy dài thế........

Mây vẫn bay về xa

Tình yêu là một biểu hiện của cuộc đời. Tình yêu chính là cuộc sống. Cho nên đoạn thơ cuối cùng mở rộng tứ thơ - tình yêu không phải chỉ là của anh và em mà tình yêu phải hòa trong biển lớn nhà thơ gọi là Biển lớn tình yêu:

Làm sao tan đ­ược ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ

III.Kết luận

Bài thơ trữ tình tình yêu như­ng không quá hời hợt, dễ dãi. Từ âm điệu cho tới tứ thơ. “Sóng” toát lên phong cách của Xuân Quỳnh. Bài thơ giúp ta hiểu sâu sắc ý nghĩa tình yêu trong cuộc đời.

D­ường như­ biển cả bao la luôn luôn thu hút cảm hứng của Xuân Qùnh. Biển là tình yêu, sóng là nỗi nhớ, và cả sóng biển sẽ giúp nhà thơ xua đi bao điều cay cực:

Biển sẽ xóa đi bao nhiêu cay cực

Nư­ớc lại dềnh trên sóng những lời ru.

5. ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA

(Thanh Thảo)

Theo lí thuyết văn học liên văn bản, bất cứ văn bản nào cũng là một liên văn bản, không phụ thuộc vào việc tác giả của văn bản có ý thức được điều đó hay không. Đọc Đàn ghi ta của Lor-ca, có thể thấy, mỗi từ, mỗi chi tiết, hình ảnh và cả hình tượng trung tâm trong đó đều là đầu mối của một quan hệ giao tiếp nghệ thuật rộng lớn, mà nếu thiếu tri thức về các văn bản (hiểu theo nghĩa rộng) có trước đó thì độc giả không thể cảm nhận được, hiểu được ý nghĩa của chúng. Lor-ca là nhà thơ như thế nào? Đàn ghi ta của ông có cái gì đặc biệt? Vầng trăng, yên ngựa, bước chân lang thang, tiếng hát nghêu ngao, bãi bắn, tấm áo choàng bê bết đỏ, giọt nước mắt vầng trăng trong đáy giếng, lá bùa cô gái Di-gan,... là những cái gì đây ? Đó có thể là những câu hỏi thầm vang lên trong tâm trí độc giả bình thường khi tiếp nhận bài thơ.Nếu không chịu bỏ cuộc trên hành trình giải mã văn bản này và quyết tìm tới những văn bản khác đã làm nền cho nó (theo sự chỉ dẫn của các câu thơ trong bài), độc giả sẽ thực sự được đền bù. Trước mắt chúng ta lúc đó sẽ là một thế giới thi ca chói loà của thiên tài Lor-ca, là bức tranh bi tráng về thân phận người nghệ sĩ trong một thời đại biến động như bão táp, là vẻ đẹp lung linh của nghệ thuật vượt lên trên mọi sự đe doạ của các thế lực bạo tàn, hung hiểm. Từ những điều vừa thấy, nhìn ngược lại văn bản thơ đã tạo cơ hội mở rộng chân trời hiểu biết cho mình - bài Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo - ta sẽ nhận ra từ đây một sự cộng hưởng của những khát vọng sáng tạo, một khả năng nhập cảm sâu sắc vào thế giới nghệ thuật thơ Lor-ca, một suy nghiệm thâm trầm về nỗi đau và niềm hạnh phúc của những cuộc đời đã dâng hiến trọn vẹn cho cái đẹp. 

Trong nửa đầu bài thơ, một không gian Tây Ban Nha đặc thù, nhất là không gian miền quê An-đa-lu-xi-a yêu dấu của Lor-ca đã được gợi lên. Giữa không gian đó, nổi bật hình tượng người nghệ sĩ lãng du có tâm hồn phóng khoáng, tha thiết yêu người, yêu đời, nhưng nghịch lí thay, lại không ngừng đi theo một tiếng gọi huyền bí nào đó hướng vềmiền đơn độc :

những tiếng đàn bọt nước

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

li-la li-la li-la

đi lang thang về miền đơn độc

với vầng trăng chếnh choáng

trên yên ngựa mỏi mòn

...

tiếng ghi ta nâu

bầu trời cô gái ấy

tiếng ghi ta lá xanh biết mấy

tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan

Tại sao tác giả lại có thể gợi lên được những điều ấy ? - Trước hết là nhờ "đàn ghi ta của Lor-ca". Tất nhiên, ở đây ta không nói tới một cây đàn cụ thể, dù vẫn biết Lor-ca là nghệ sĩ trình tấu rất xuất sắc ghi ta và dương cầm. Đàn ghi ta ở đây chính là thơ Lor-ca, là bản mệnh của Lor-ca. Đọc thơ Lor-ca, ta thường bắt gặp hình tượng một chàng kị sĩ đi mải miết, vô định dưới vầng trăng khi đỏ, khi đen, khi rạng ngời, khi u tối, khi nồng nàn, khi buốt lạnh,... Ta cũng thường được ngập mình trong phong vị, hương sắc riêng không thể nào quên được của miền quê Gra-na-đa thuộc xứ An-đa-lu-xi-a, nơi ngày xưa từng được xem là "một trong những vương quốc đẹp nhất của châu Phi" do người ả-rập dựng nên. ở đó có những chàng hiệp sĩ đấu bò tót khoác trên mình tấm áo choàng đỏ, có những cô gái Di-gan nước da nâu gợi tình tràn trề sức sống, có những vườn cam, những rặng ô-liu xanh một màu xanh huyền hoặc. Đặc biệt, ở đó luôn vang vọng tiếng đàn ghi ta - âm thanh nức nở, thở than làm vỡ toang cốc rượu bình minh, tựa tiếng hát của một con tim bị tử thương bởi năm đầu kiếm sắc, không gì có thể bắt nó im tiếng (ý thơ trong bài Đàn ghi ta)... Thanh Thảo quả đã nhập thần vào thế giới thơ Lor-ca để lẩy ra và đưa vào bài thơ của mình những biểu tượng ám ảnh bồn chồn vốn của chính thi hào Tây Ban Nha. Nhưng vấn đề không đơn giản chỉ là sự "trích dẫn". Tất cả những biểu tượng kia đã được tổ chức lại xung quanh biểu tượng trung tâm là cây đàn, mà xét theo "nguồn gốc", vốn cũng là một biểu tượng đặc biệt trong thơ Lor-ca - người mê dân ca, "chàng hát rong thời trung cổ", "con sơn ca xứ An-đa-lu-xi-a". Cây đàn từ chỗ mang hàm nghĩa nói về một định hướng sáng tạo gắn thơ với dòng nhạc dân gian, rộng ra, nói về một tình yêu vô bờ và khắc khoải đối với quê hương, đến Thanh Thảo, nó đã nhập một với hình tượng Lor-ca, hay nói cách khác, nó đã trở thành hình tượng "song trùng" với hình tượng Lor-ca. Cây đàn cất lên tiếng lòng của Lor-ca trước cuộc sống, trước thời đại. Nó là tinh thần thơ Lor-ca, là linh hồn, và cao hơn cả là số phận của nhà thơ vĩ đại này. Bởi thế, trên những văn bản thơ trước đây của Lor-ca là một văn bản mới của nhà thơ Việt Nam muốn làm sống dậy hình tượng người con của một đất nước, một dân tộc yêu nghệ thuật, ưa chuộng cuộc sống tự do, phóng khoáng. Hơn thế nữa, tác giả muốn hợp nhất vào đây một "văn bản" khác của đời sống chính trị Tây Ban Nha mùa thu 1936 - cái "văn bản" đã kể với chúng ta về sự bạo ngược của bọn phát xít khi chúng bắt đầu ra tay tàn phá nền văn minh nhân loại và nhẫn tâm cắt đứt cuộc đời đang ở độ thanh xuân của nhà thơ được cả châu Âu yêu quý : Tây Ban Nha

hát nghêu ngao

bỗng kinh hoàng

áo choàng bê bết đỏ

Lor-ca bị điệu về bãi bắn

chàng đi như người mộng du

...

tiếng ghi ta ròng ròng

máu chảy

Ở trên, bài thơ của Thanh Thảo đã được (hay bị) trích theo lối cắt tỉa, phục vụ cho việc làm tường minh các ý thơ có trong đó. Trên thực tế, Đàn ghi ta của Lor-ca có một cấu trúc đầy ngẫu hứng, với sự xô nhau, đan cài nhau, tương tác với nhau của các văn bản (đã nói). Chính nhờ vậy, tiếng hát yêu đời của Lor-ca được Thanh Thảo gợi lại, càng trở nên tha thiết hơn giữa tan nát dập vùi và những ám ảnh tưởng phi lí luôn dày vò nhà thơ Tây Ban Nha bỗng trở thành sự tiên tri sáng suốt. Sáng tạo nghệ thuật của Thanh Thảo được bộc lộ rõ trên các giao điểm này. Những hình ảnh, biểu tượng vốn có trong thơ Lor-ca được làm mới để chuyên chở những cảm nhận về chính thơ Lor-ca và về thân phận các nhà thơ trong thời hoành hành của bạo lực. Câu thơ những tiếng đàn bọt nước ở đầu bài nếu được nối kết với các câu thơ khác là tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan vàtiếng ghi ta ròng ròng - máu chảy, sẽ bộc lộ một tiềm năng ý nghĩa lớn hơn nhiều so với ý nghĩa dễ nhận thấy gắn liền với việc diễn tả âm thanh tuôn trào, sôi động của tiếng đàn. Tiếng đàn giống như tiếng kêu cứu của con người, của cái đẹp trong thời khắc bị đẩy tới chỗ tuyệt diệt. Không có gì khó hiểu khi dưới ngòi bút Thanh Thảo, tiếng đàn cũng có màu (nâu, xanh), có hình thù (tròn), có sinh mệnh (ròng ròng máu chảy), bởi tiếng đàn ở đây chính là sự cảm nhận của nhà thơ nay về tiếng đàn xưa. Theo đó, tiếng đàn không còn là tiếng đàn cụ thể nữa, nó là sự sống muôn màu hiện hình trong thơ Lor-ca và là sinh quyển văn hoá, sinh quyển chính trị - xã hội bao quanh cuộc đời, sự nghiệp Lor-ca. Rồi màu đỏ gắt của tấm áo choàng, không nghi ngờ gì, là sáng tạo của Thanh Thảo. Nó không đơn thuần là màu của một trang phục. Nó có khả năng ám gợi một điều kinh rợn sẽ được nói rõ ra trong khổ thơ sau : áo choàng bê bết đỏ ­- tức là tấm áo choàng đẫm máu của Lor-ca, của bao con người vốn chỉ biết hát nghêu ngao niềm yêu cuộc đời với trái tim hồn nhiên, ngây thơ, trong trắng, khi bị điệu về bãi bắn một cách tàn nhẫn, phũ phàng, phi lí (câu thơ chàng đi như người mộng du có phần thể hiện sự phi lí không thể nào nhận thức nổi này). Cùng một cách nhìn như thế, độc giả sẽ thấy những thi liệu của thơ Lor-ca (mà truy nguyên, một phần không nhỏ vốn là thi liệu của những bài dân ca An-đa-lu-xi-a) như hình ảnh người kị sĩ đi lang thang, yên ngựa, vầng trăng đã thực sự được tái sinh lần nữa trong một hình hài mới và gây được những ấn tượng mới. Các từ miền đơn độc, chếnh choáng, mỏi mòn gắn với chúng đã tạo ra một trường nghĩa chỉ sự mệt mỏi, bất lực, bồn chồn, thắc thỏm không yên của con người khi đối diện thực sự với cái bản chất phong phú vô tận của cuộc sống. Với kiểu tạo điểm nhấn ngôn từ của Thanh Thảo, ta hiểu rằng cảm giác đó không chỉ có ở Lor-ca. Nó là một hiện tượng có tính phổ quát, không của riêng ai, không của riêng thời nào, tất nhiên, chỉ được biểu hiện đậm nét và thực sự trở thành "vấn đề" trong thơ của những nhà thơ luôn thắc mắc về ý nghĩa của tồn tại. Gồm một chuỗi âm thanh mơ hồ khó giải thích, dòng thơ li-la li-la li-la xuất hiện hai lần trong thi phẩm một mặt có tác dụng làm nhoè đường viền ý nghĩa của từng hình ảnh, biểu tượng đã được ném ra chừng như lộn xộn, mặt khác, đảm nhiệm một phần chức năng liên kết chúng lại thành một chỉnh thể, nhằm biểu hiện tốt nhất cái nhìn nghệ thuật của tác giả và giải phóng bài thơ khỏi sự trói buộc của việc thuật, kể những chuyện đã xảy ra trong thực tế. Quả vậy, dù không có sự kiện nào của cuộc đời Lor-ca được kể lại một cách rành mạch, chi tiết, nhưng độc giả hiểu thơ không vì thế mà cho rằng thiếu. Cái người ta thấy đáng quan tâm lúc này nằm ở chỗ khác. Đó là sự tự bộc lộ của chủ thể sáng tạo khi ráo riết suy nghĩ về số phận đầy bất trắc của nghệ thuật và khả năng làm tan hoà những suy nghĩ ấy trong một thứ nhạc thơ tác động vào người tiếp nhận bằng hình thức ám gợi tượng trưng hơn là hình thức giãi bày, kể lể kiểu lãng mạn. Tất nhiên, chúng ta có quyền cắt nghĩa tại sao lại li-la chứ không phải là cái gì khác. Hoa li-la (tử đinh hương) với màu tím mê hoặc, nao lòng, từng là đối tượng thể hiện quen thuộc của nhiều thi phẩm và hoạ phẩm kiệt xuất trong văn học, nghệ thuật phương Tây chăng ? Hay đó là âm thanh lời đệm (phần nhiều mang tính sáng tạo đột xuất) của phần diễn tấu một ca khúc, hoặc nữa là âm thanh mô phỏng tiếng ngân mê đắm của các nốt đàn ghi ta dưới tay người nghệ sĩ ?... Tất cả những liên hệ ấy đều có cái lí của chúng !

Ở nửa sau của bài thơ, tác giả suy tưởng về sức sống kì diệu của thơ Lor-ca nói riêng và về sự trường tồn của nghệ thuật chân chính nói chung, vốn được sáng tạo bằng chính trái tim nặng trĩu tình yêu cuộc sống của các nghệ sĩ :

không ai chôn cất tiếng đàn

tiếng đàn như cỏ mọc hoang

giọt nước mắt vầng trăng

long lanh đáy giếng

đường chỉ tay đã đứt

dòng sông rộng vô cùng 

Lor-ca bơi sang ngang

trên chiếc ghi ta màu bạc

chàng ném lá bùa cô gái Di-gan

vào xoáy nước

chàng ném trái tim mình

vào lặng yên bất chợt

li-la li-la li-la...

Câu thơ không ai chôn cất tiếng đàn có lẽ đã được bật ra trong tâm thức sáng tạo của Thanh Thảo khi ông nghĩ tới lời thỉnh cầu của Lor-ca trong bài Ghi nhớ - lời thỉnh cầu đã được dùng làm đề từ cho bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca. Không, ở đây không có thao tác đối lập sắc lẻm của lí trí mà nhiều thi sĩ ưa dùng trong các bài thơ "chân dung" hay "ai điệu", nhằm làm nổi bật những tứ thơ "mới" mang tính chất "ăn theo". Chỉ có sự đau đớn trước cái chết thảm khốc của một thi tài mãnh liệt, mà xác bị quăng xuống một giếng sâu (hay vực ?) gần Gra-na-đa. Dĩ nhiên, ý nguyện của Lor-ca - một ý nguyện thể hiện chất nghệ sĩ bẩm sinh hoàn hảo của nhà thơ, nói lên sự gắn bó vô cùng sâu nặng của ông đối với nguồn mạch dân ca xứ sở - đã không được thực hiện. Nhưng nghĩ về điều đó, những liên tưởng dồn tới và ta bỗng vỡ ra một chân lí : không ai chôn cất tiếng đànvà dù muốn chôn cũng không được ! Đây là tiếng đàn, một giá trị tinh thần, chứ không phải là một cây đàn vật thể. Tiếng đàn ấy trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó chính là tự nhiên. Nó vẫn không ngừng vươn lên, lan toả, ngay khi người nghệ sĩ sáng tạo ra nó đã chết. Dù thật sự thấm thía chân lí nói trên, tác giả vẫn không ngăn nổi lòng mình khi viết ra những câu thơ đau xót hết mực, thấm đượm một cảm giác xa vắng, bơ vơ, côi cút, như cảm giác của ta khi thấy cỏ mọc hoang đang ngao hát bài ca vắng người giữa mang mang thiên địa. Không phải ngẫu nhiên mà trong ít nhất hai phương án ngôn từ có thể dùng, Thanh Thảo đã lựa chọn cách diễn đạt không ai chôn cấtchứ không phải là không ai chôn được ! Đến lượt độc giả, giọt nước mắt vầng trăng cứ mãi làm ta thao thức, dù nó long lanh trongim lặng, và hình như càng im lặng trong thăm thẳm đáy giếng, nó lại càng long lanh hơn bao giờ hết.

Từ câu đường chỉ tay đã đứt đến cuối bài, nhịp điệu, tiết tấu của thi phẩm không còn gấp gáp và dồn bức nữa. Nó chậm rãi và lắng sâu. Điều này tuân theo đúng lô gích tái hiện và suy ngẫm (tạm quy về phạm trù "nội dung") mà tác giả chọn lựa. Nhưng quan trọng hơn, nó tuân theo lô gích tồn tại của chính cuộc đời : tiếp liền cái chết là sự sinh thành, sau bộc phát, sôi trào là tĩnh lặng, trầm tư, nối theo sự mù loà, khủng hoảng (của xã hội loài người) là sự khôn ngoan, chín chắn,... Trong muôn nghìn điều mà con người phải nghĩ lại khi đã "khôn dần lên", sự hiện diện của nghệ thuật trong đời sống là một trong những điều khiến ta trăn trở nhiều nhất. Việc quy tội, kết tội cho một đối tượng cụ thể nào đó đã đối xử thô bạo với nghệ thuật không còn là chuyện thiết yếu nữa. Hãy lắng lòng để chiêm ngưỡng một sự siêu thoát, một sự hoá thân. Trên dòng sông của cuộc đời, của thời gian vĩnh cửu mà trong khoảnh khắc bừng tỉnh thoát khỏi mê lầm, ta tưởng thấy nó hiện hình cụ thể và dăng chiếu ngang trời, có bóng chàng nghệ sĩ Lor-ca đangbơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc. Chàng đang vẫy chào nhân loại để đi vào cõi bất tử. Chiếc ghi ta, cũng là con thuyền thơ chở chàng, có ánh bạc biêng biếc, hư ảo một màu huyền thoại... 

Trên thực tế, cái chết của Lor-ca là cái chết tức tưởi do bọn phát xít Frăng-cô gây nên. Nhưng nhìn suốt chiều dài lịch sử, ta thấy Lor-ca không phải là trường hợp nghệ sĩ đầu tiên hay cuối cùng chịu kết cục bi thương bởi các thế lực thù địch với cái đẹp. Vậy phải chăng có thể xem những khổ nạn liên tục là một phần tất yếu trong định mệnh của họ ? Hẳn Thanh Thảo đã nghĩ vậy khi viết tiếp những câu thơ thật gọn nghẽ, "nhẹ nhõm" và "mênh mang" (ta hãy chú ý tới điểm rơi cuối dòng thơ của các từ, cụm từ như đã đứt, vô cùng, sang ngang). Dù ai tiếc thương mặc lòng, đối với người nghệ sĩ như Lor-ca, khi đường chỉ tay đã đứt (đường chỉ tay như dấu ấn của số mệnh đóng lên cơ thể con người), chàng đã dứt khoát được giải thoát. Còn nuối làm chi lá bùa hộ mệnh được xem là vật tàng trữ những sức mạnh thần diệu mà cô gái Di-gan trao cho. Chàng, dứt khoát và mạnh mẽ, ném nó "chìm lỉm" (chữ của Hàn Mặc Tử) vào xoáy nước hư vô, như ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt - cái lặng yên của sự "đốn ngộ", cái lặng yên sâu thẳm, anh minh, mà ở đó, lời nói đã tan đi trong chính nó. Chàng đã đoạt lấy thế chủ động trước cái chết của mình. Chàng đã thắng không chỉ lũ ác nhân mà còn thắng cả chính định mệnh và hư vô nữa. Từ điểm này nhìn lại, ta bỗng thấy câu thơ chàng đi như người mộng du ở phần trên có thêm tầng nghĩa mới. Bị lôi đến chỗ hành hình, Lor-ca vẫn sống như người trong cõi khác. Chàng đang bận tâm đuổi theo những ý nghĩ xa vời. Chàng đâu thèm chú ý tới máu lửa quanh mình lúc đó. Chàng đã không chấp nhận sự tồn tại của bạo lực. Chàng chết, nhưng kẻ bất lực lại chính là lũ giết người ! ở đây, có một cái gì gợi ta nhớ tới sự tuẫn nạn của Chúa Giê-su trên núi Sọ. Lại thêm một "văn bản" nữa ẩn hiện tỏ mờ dưới văn bản thơ của Thanh Thảo[1] !...

Trong đoạn thơ cuối bài vừa phân tích, người đọc càng nhìn thấy rõ hơn sự vững vàng của tác giả trong việc phối trí các hình ảnh, biểu tượng lấy từ nhiều "văn bản" khác nhau vào một tổng thể hài hoà. Tưởng không có gì chung giữa đường chỉ tay, lá bùa, xoáy nước và cả lặng yên nữa. Vậy mà, nhờ được "tắm" trong một "dung môi" cảm xúc có cường độ mạnh cùng sự suy tư có chiều sâu triết học, tất cả chúng trở nên ăn ý với nhau lạ lùng để cùng cất tiếng khẳng định ý nghĩa của những cuộc đời dâng hiến hoàn toàn cho nghệ thuật, cũng là cho một nhu cầu tinh thần vĩnh cửu của loài người. Là sản phẩm tinh tuý của những cuộc đời như thế, thơ ca làm sao có thể chết ? Nó tồn tại như là hơi thở xao xuyến của đất trời. Nó gieo niềm tin và hi vọng. Nó khơi dậy khát khao hướng về cái đẹp. Nó thanh lọc tâm hồn để ta có được tâm thế sống an nhiên giữa cuộc đời không thôi xáo động, vĩnh viễn xáo động. Muốn mô tả nó ư ? Chỉ có thể, như Thanh Thảo, sau một thoáng mặc tưởng, bật thốt lên : li-la li-la li-la... 

Để lòng mình ngân theo chuỗi âm thanh ấy, ta hiểu rằng trong cuộc tương tranh không ngừng và hết sức thú vị giữa những cách diễn tả đặc hữu của văn học và cách diễn tả mang tính chất ám gợi huyền hồ của âm nhạc, cuối cùng, ở bài thơ của Thanh Thảo, cách diễn tả của âm nhạc đã chiếm ưu thế. Điều này hiển nhiên là một sự lựa chọn có ý thức. Để nói về nỗi cô đơn, cái chết, sự lặng yên, "lời" vẫn thường gây vướng víu, gây nhiễu. Chỉ có nhạc với khả năng thoát khỏi dấu ấn vật chất của sự vật khi phản ánh nó, trong trường hợp này, là phương tiện thích hợp. Tất nhiên, Thanh Thảo không phải đang làm nhạc mà là làm thơ. Nói nhạc ở đây không có gì khác là nói tới cách thơ vận dụng phương thức của nhạc - cái phương thức ám thị, khước từ mô tả trực quan - để thấu nhập bề sâu, "bề xa" của sự vật. Từ lâu, các nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa đã hướng tới điều này. Dù không nhất thiết phải quy Đàn ghi ta của Lor-ca vào loại hình thơ nào, ta vẫn thấy nó đậm nét tượng trưng. Chẳng có gì lạ khi với bài thơ này, Thanh Thảo muốn thể hiện mối đồng cảm sâu sắc đối với Lor-ca -. cây đàn thơ lạ lùng trong nền thi ca nhân loại ở nửa đầu của thế kỉ XX đầy bi kịch 

D. MỘT TÁC PHẨM, MỘT ĐOẠN TRÍCH THỂ LOẠI KÍ, TUỲ BÚT:

1. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ - Nguyễn Tuân

Kiến thức cơ bản:

I. Tác giả: 

- Nguyễn Tuân (1910-1987) quê ở làng Nhân Mục, thôn Thượng Đình, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân , Hà Nội. Nguyễn Tuân sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn. Ông là người tính tình phóng khoáng và giàu lòng yêu nước.

-Nguyễn Tuân cầm bút từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX. Ông để lại một sự nghiệp văn học vô cùng phong phú, độc dáo và đầy tài hoa. Với những đóng góp lớn cho văn học nghệ thuật, năm 1996, Nguyễn Tuân được nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

- Các tác phẩm tiêu biểu: Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi...

II. Tác phẩm:

1. Hoàn cảch sáng tác: Người lái đò Sông Đà là kết quả của nhiều dịp đến với Tây Bắc của nhà văn, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong số 15 tuỳ bút của Nguyễn Tuân in trong tập Sông Đà xuất bản năm 1960.

Lần xuất bản đầu tiên, bài này có tên là Sông Đà, năm 1982 khi cho in lại trong tập 2 bộ Tuyển tập Nguyễn Tuân, tác giả có sửa đổi tên thành “Người lái đò sông Đà”

2. Nội dung:

2.1. Con sông Đà d­ưới ngòi bút Nguyễn Tuân trở thành một sinh thể vừa hung bạo vừa trữ tình. 

a. Sông Đà - con sông hung bạo, nham hiểm: Nhà văn đã không quản ngại công phu quan sát, tìm hiểu kĩ càng, vận dụng biện pháp nhân hoá để miêu tả sự hung bạo ấy trên nhiều dáng vẻ:lúc thể hiện trong phạm vi một lòng sông hẹp, như chiếc yết hầu bị đá bờ sông chẹt cứng; khi thì lại hiện ra trong khung cảnh mênh mông hàng cây số của một thế giới đầy gió gùn ghè, đá giăng đến chân trời và sóng bọt tung trắng xoá; khi thì mặt thác với dòng nước như hùm beo lồng lộn; khi thì là những hòn đá sông lập lờ cạm bẫy, lúc lại là những cái hút nước xoáy tít lôi tuột mọi vật xuống đáy sâu. Đến âm thanh của sóng thác sông Đà cũng luôn luôn thay đổi: mới oán trách nỉ non đã chuyển sang khiêu khích, chế nhạo rồi đột ngột rống lên, thét gầm lên...Bên cạnh biện pháp nghệ thuật nhân hoá, nhà văn còn mượn ở các ngành, các bộ môn trong và ngoài nghệ thuật để làm nên hàng loạt liên tưởng, so sánh, tưởng tượng rất kì lạ , bất ngờ như đoạn miêu tả cái hút nước quãng Tà Mường Vát “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” lại “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào” hay như sự tưởng tượng xuất thần của nhà văn “thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày...”

Nguyễn Tuân nói nhiều đến sự hung bạo của một con sông Đà đầy đá nổi, đá chìm và thác dữ. Nhưng ông vẫn cho chúng ta nhận thấy, bên cạnh, và cả bên trong sự hung bạo ấy, hình ảnh con sông vẫn nổi bật lên như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước.

b. Sông Đà- một dòng chảy trữ tình 

Dòng Đà giang chỉ thực sự trữ tình khi đã chảy qua Chợ Bờ,và đã để lại những hòn đá thác xa xôi trên thượng nguồn Tây Bắc. 

- Hình dáng: Sông Đà mềm mại, duyên dáng như một thiếu nữ kiều diễm: tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình..

- Màu sắc: biến đổi theo mùa rất sinh động. Mùa Xuân nước sông Đà xanh màu xanh ngọc bích, rồi cứ mỗi độ thu về nó lại “lừ lừ chín đỏ

- Không gian thơ mộng mơ màng 

· lặng tờ / tịnh không một bóng người 

· bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, phảng phất nỗi niềm cổ tích…

- Cảnh vật: ngô non/ cỏ gianh đồi búp đãm sương đêm/ đàn hươu thơ ngộ/ đàn cá vọt lên bụng trắng như thoi

Tóm lại: Con sông mang vẻ đẹp thơ mộng, kì thú, tự nhiên như chẳng vướng trần, khơi nhiều cảm xúc cho con người -> như một cố nhân.

* Kết luận:

- Đặc điểm sông Đà: vừa hung bạo, nham hiểm vừa thơ mộng, trữ tình.

- Kết tinh phong cách Nguyễn Tuân: Khám phá sông Đà bằng kiến thức của nhiều lĩnh vực; tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ. Có thể thấy nhà văn đã sử dụng một loạt biện pháp nghệ thuật để mô tả thiên nhiên: nới rộng cấu trúc câu văn, nghệ thuật so sánh độc đáo, biện pháp nhân hoá tài tình. Đặc biệt cách liên tư­ởng đẹp, bất ngờ, táo bạo cùng với nhiều chi tiết gợi cảm. 

- Con người nhà văn: tình yêu với thiên nhiên, non sông đất nước.

2.2. Hình tư­ợng ông lái đò :

Người lái đò là một người lao động, nhưng là nghệ sĩ trong lao động, hơn nữa là một dũng tướng trong cuộc thuỷ chiến thường xuyên với thác nước sông Đà - - Đó là một con người bình thường, hiền lành với những nét phát hoạ: “cái đầu bạc...cái đầu quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun”, “tay ông lêu nghêu như một cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại...”

-.Đó là một con người dũng cảm, say mê sông nước, say mê những cảm giác mạnh: 

+ Trên dòng thác dữ, ông đò hiện lên hiên ngang, m­ưu trí, ngoan cư­ờng. “Ông đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”, “ông đã thuộc lòng con sông như­ lòng bàn tay mình”. Thật là một nghệ sĩ sông nư­ớc. 

+ Ông đò đối đầu với thác ghềnh hung bạo mà bình tĩnh, ung dung. Xử lí các tình huống nguy hiểm vừa dũng cảm, quyết liệt, vừa thông minh, táo bạo… Vậy mà sau khi v­ượt thác, ngừng chèo, lại ung dung “đốt lửa trong hang đá, nư­ớng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ…”

- L­ưu ý những nét riêng của ông lái đò bị tỉnh l­ược gần hết: không tên, không tiểu sử, rất ít nét ngoại hình… Điều này không phải ngẫu nhiên. Nhà văn muốn dựng lên một chân dung vô danh để chứng tỏ rằng những con ng­ười như­ thế không phải là đặc biệt, có thể tìm thấy ở bất cứ đâu trong cuộc sống hàng ngày. Khi chở đò , ông là nhà nghệ sĩ, là dũng tướng tài ba ( Đ­ưa con thuyền vư­ợt dòng sông dữ là cả một nghệ thuật cao c­ường, đầy tài hoa, trí dũng. Chỉ một chút lỡ tay, loá mắt là phải trả giá bằng mạng sống của mình) .Kết thúc công việc ông lại là người bình thường Vẻ đẹp và chủ nghĩa anh hùng được thể hiện trong con người bình thường, làm công việc bình thường là chở đò trên sông.Điều đáng chú ý là con người bình thường ấy lại được ví với chất vàng mười đẹp đẽ và quý báu.

3. Nghệ thuật:

- Đặc điểm nổi bật của tuỳ bút Nguyễn Tuân là uyên bác và tài hoa.Ông vận dụng kiến thức lịch sử, địa lí, hội hoạ, điện ảnh, quân sự thể thao...Ông luôn có cảm hứng đặc biệt trước những hiện tượng phi thường , gây cảm giác mạnh, say mê khá phá và thưởng thức cái đẹp.

- Nhà văn dùng các biện pháp nhân hoá, so sánh, biến hoá trong cách đặt câu, dùng từ là cho ngôn ngữ trong tác phẩm vừa có giá trị tạo hình vừa gợi cảm phong phú.

3. Kết luận:Ng­ười lái đò sông Đàchính là khúc hùng ca ca ngợi con người, ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng trước sức mạnh tựa thánh thần của dòng sông hung dữ . Đấy chính là những yếu tố làm nên chất vàng mười của nhâ dân Tây Bắc và của những người lao động nói chung.

2. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG 

(trích) Hoàng Phủ Ngọc Tường

A.Kiến thức cơ bản:

I. Tác giả:Hoàng Phủ Ngọc Tường

- Tiểu sử: + Sinh 1937 tại TP. Huế

+ Quê gốc ở Quảng trị, sống, học tập và hoạt động cách mạng ở Huế -> cuộc đời tác giả gắn liền với Huế nên tình cảm, tâm hồn thấm đẫm nền văn hoá của mảnh đất này.

- Sự nghiệp văn học:

+ Phong cách nghệ thuật:

* Là cây bút uyên bác, giàu chất trí tuệ.

* Tài hoa, trí tưởng tượng phong phú lãng mạn đậm chất thơ.

* Lối viết hướng nội, xúc tích, có chiều sâu văn hoá, cảm hứng nhân văn.

+ Tác phẩm chính: Ngôi sao trên đỉnh Phu văn Lâu(1971), Rất nhiều ánh lửa(1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông?(1986)...

II. Tác phẩm 

1- Hoàn cảnh ra đời:Bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? viết năm 1981, in trong tập sách cùng tên .Bài bút kí có ba phần, đoạn trích nằm ở phần thứ nhất của tác phẩm.

2 Nội dung:

1. Sông Hương vùng thượng nguồn 

-Khi qua dãy Trường Sơn hùng vĩ, Sông Hương tựa như “một bản tình ca của rừng già” với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội: khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, lúc “mãnh liệt vượt qua ghềnh thác”, khi “ cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu”, lúc “dịu dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.

- Bằng biện pháp nhân hoá sông Hương hiện ra tựa như “cô gái Di- gan phóng khoáng và man dại” với một “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”, dòng sông như một con người mà phần tâm hồn sâu thẳm của nó đã đóng kín lại ở của rừng.

à: sông Hương vùng thượng lưu toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy cá tính.

2.sông Hương nhìn trong mối quan hệ với kinh thành Huế:

- Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của đất cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.

-Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ nét tài hoa và lịch lãm trong lối hành văn của tác giả. Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “ cô gái đẹp ngủ mơ màng”; nhưng ngay sau khi ra khỏi vùng núi, thì cũng như nàng tiên được đánh thức, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên tục ”, rồi “vòng những khúc quanh đột ngột”, “’ vẽ một hình cung thật tròn”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, rồi “vượt qua”, “đi giữa âm vang ”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”...

Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương có lúc “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên “ những phản quan nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng , chiều tím” lúc qua những dãy đồi núi phía Tây nam thành phố và mang “vẻ đẹp trầm mặc” khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch cho đến lúc bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung khi gặp “ tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà ”...

Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa đã làm nổi bật một sông Hương đẹp bởi phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài hoà.

Nhận xét: Sông Hương qua cái nhìn đầy lãng mạn của HPNT như 1 cô gái dịu dàng mơ mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu theo tiếng gọi vang vọng từ trái tim. Với NT so sánh cân đối, hài hoà đậm chất thơ, với sự phong phú về ngôn ngữ hình tượng, nhà văn đã khắc hoạ được vẻ đẹp dòng sông huyền ảo, lung linh sắc màu, người đọc đặc biệt ấn tượng về vẻ đẹp trầm mặc, cổ kính của Sông Hương gắn với thành quán lăng tẩm của vua chúa thủa trước

3. Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế:

Như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông “ kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây nam- đông bắc”, rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến “dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “ vâng”không nói ra của tình yêu ”.Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quí của mình , sông Hương cũng giống như sông Xen của Pa -ri, sông Đa- nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Lê-nin-grát ...nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận dưới nhiều góc độ: nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương đẹp như điệu slow chậm rãi, sâu lắng trữ tình và , với cái nhìn say đắm của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ.Điều này được diễn tả trong một phát hiện thú vị của tác giả: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa maù xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi như sực nhớ lại điều gì chưa kịp nói, nó đột nhột đổi dòng, rẽ ngoặc sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ ”. Cũng theo tác giả, khúc quan thật bất ngờ đó , tựa như một “ nỗi vương vấn”,và dường như còn có cả “một chút lẳnglơ kín đáo của tình yêu ”...

.- Cuộc gặp gỡ giữa Sông Hương – Huế

Huế

Sông Hương

+ Cầu Tràng Tiền bằng vành trăng non in gần trên nền trời.

à một trong những biểu tượng của Huế như mơ màng chờ đợi, như vẫy gọi dòng sông.

+ Những lâu đài của đất cố đô soi bóng xuống dòng sông xanh biếc.

+ Uốn 1 cánh cung rất nhẹ = 1 tiếng vang vọng nói ra của tgiả.

à Vẻ e thẹn, ngượng ngùng khi gặp người trong mong đợi, sự thuận tình mà không nói ra.

+ Các nhánh sông toả đi khắp thành phố như muốn ôm trọn Huế vào lòng.

+ Sông Hương và Huế hoà vào làm 1, sông Hương làm nên vẻ mộng mơ của Huế, Huế làm nên vẻ đẹp trầm tư sâu lắng của Sông Hương.

+ Sông Hương giảm hắn lưu tốc xuôi đi thực chậm… yên tĩnh, khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với mảnh đất nơi đây.

Nhận xét: Cuộc gặp gỡ của Huế và Sông Hương được tác giả cảm nhận như cuộc hội ngộ của tình yêu. Sông Hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường khám phá, phát hiện từ góc độ tâm trạng: Sông Hương gặp thành phố như đến với điểm hẹn của tình yêu sau một hành trình dài trở nên vui tươi và mềm mại. Sông Hương qua nghệ thuật so sánh đầy mới lạ, bất ngờ trở nên có linh hồn, sự sống như một cô gái si tình đang say đắm trong tình yêu.

- Tạm biệt Huế để ra đi

Sông Hương

Huế

+ Rời khỏi kinh thành, Sông Hương ôm lấy đảo Cồn Huế, lưu luyến ra đi…

+ Đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu 1 lần cuối.

+ Quanh năm mơ màng trong sương khói và biêng biếc màu xanh của tre trúc, vườn cau.

+ Thị trấn bao quanh là nơi Huế dõi theo 10 dặm trường đình.

Nhận xét: Sự lưu luyến, bịn rịn của đôi tình nhân trong chia biệt. Gợi liên tưởng đến mối tình Kim Trọng- Thuý Kiều. Sông Hương giống như nàng Kiều trong đêm tình tự với chàng Kim với nỗi vấn vương, lẳng lơ, kín đáo của tình yêu, như tấm lòng chung tình của người dân nơi Châu Hoá với quê hương xứ sở.

4. Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc

Dòng S.Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng, thuở nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi, là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”, “nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ ” vào thế kỉ XVIII; “ nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến thời đại mới với Cách mạng tháng tám năm 1945 và bao chiến công rung chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau này... 

àSông Hương là dòng sông có bề dày lịch sử như một người con gái anh hùng, khi tổ quốc gọi nó tự biết hiến đời mình làm một chiến công. Sông Hương là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. 

à Sử thi mà trữ tình, bản hùng ca mà cũng là bản tình ca dịu dàng tươi mát. Đó là nét độc đáo của xứ Huế, của Sông Hương được tác giả khám phá và khắc hoạ từ góc độ lịch sử.- 

Dòng sông gắn với những phong tục, với vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế

5 .Sông Hương với thơ ca-vơí đời thường

- Dòng sông âm nhạc: “ là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, là nơi sinh thành ra toàn bộ nền âm nhạc cổ điển của Huế, là cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc đàn của nàng Kiều.

- Dòng sông thi ca: một dòng sông thơ ca không lặp lại mình

+ Là vẻ đẹp mơ màng “Dòng sông trắng lá cây xanh” trong thơ Tản Đà.

+ Vẻ đẹp hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh” của Cao Bá Quát.

+ Là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan.

+ Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu

-> Sông Hương luôn đem đến nguồn cảm hứng mới mẻ, bất tận cho các thi nhân.

+ Màn sương khói trên Sông Hương như màu áo điền lục, một sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong tiết sương giáng.

+ Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như một nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của người xứ Huế: “rất dịu dàng và rất trầm tư…”

- Dòng sông đời thường:sau những biến cố lịch sử, “nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”.

6. Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Bài kí mở đầu và kết luận bằng một câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

- Mang nghĩa hỏi: Chính nội dung bài kí là câu trả lời, một câu trả lời dài như một bài kí ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng sông có cái tên cũng rất đẹp và phù hợp với nó: Sông Hương.

- Mang tính chất biểu cảm.

+ Là cái cớ để nhà văn đi vào miêu tả, ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông Hương gắn với mảnh đất cố đô cổ kính tươi đẹp.

+ Thể hiện tình cảm ngỡ ngàng ngưỡng mộ thái độ trân trọng ngợi ca của tác giả với dòng sông Hương, thành phố Huế thân yêu. Vì quá yêu mà bật thành câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

7. Hình tượng nhân vật tôi trong tác phẩm

- Một trí thức gắn bó và có tình yêu thiết tha đến say đắm đối với cảnh và người nơi xứ Huế.

-Nhân vật đã huy động tổng hợp vốn hiểu biết sâu rộng về văn hoá, địa lí, lịch sử và văn chương để miêu tả và cảm nhận những vẻ đẹp khác nhau của dòng sông

-Nhân vật tôi nhìn dòng sông từ nhiều điểm nhìn khác nhau: thượng nguồn,trong thành phố Huế, ra ngoại vi thành phố; từ góc độ địa lí, văn hoá, lịch sử,...kết hợp, đan xen điểm nhìn không gian và thời gian...

- Giọng điệu của nhân vật là giọng thủ thỉ, tâm tình, say đắm mà tỉnh táo, tự tin nhưng không áp đặt, sắc sảo mà giàu cảm xúc....

III- TỔNG KẾT.

- Cảm nhận và hiểu được vẻ đẹp của Huế, của tâm hốn người Huế qua sự quan sát sắc sảo của HPNT về dòng sông Hương-> HPNT xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điểm sống về Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.

- Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương đất nước.

E. MỘT TÁC PHẨM, MỘT ĐOẠN TRÍCH VĂN XUÔI:

1. VỢ CHỒNG A PHỦ 

Tô Hoài

A.. Kiến thức cơ bản

I. Tác giả :

- Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, người Hà Nội, sinh năm 1920. Là một nhà văn có nguồn sáng tạo to lớn. Có trên 100 tác phẩm. Trước cách mạng, nổi tiếng với truyện “Dế mèn phiêu lưu ký”. Sau năm 1945, có “Truyện Tây Bắc”, “Mười năm”, “Miền Tây”, “Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ”, “Tự truyện”…

- Sáng tác của Tô Hoài thể hiện vốn hiểu biết phong phú về đời sống và phong tục, chất tạo hình và chất thơ qua miêu tả và kể chuyện đầy thú vị. Là một nhà văn viết truyện về miền núi rất thành công.

- Tô Hoài là nhà văn có nhiều đóng góp cho văn xuôi Việt Nam hiện đại. 

II. Tác phẩm:

1. Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ :

-.Năm 1952, Tô Hoài đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Với chuyến đi dài 8 tháng ấy, Tô Hoài đã sống cùng đồng bào các dân tộc : Mèo, Thái, Dao, Mường ở nhiều vùng ở đây. Chuyến đi ấy đã giúp ông hiểu rõ về cuộc sống và con người miền Núi đã để lại cho ông những kỉ niệm khó quên và tình cảm thắm thiết đối với đất nước và con người Tây Bắc.

Truyện “Tây Bắc” là kết quả của chuyến đi đó, là tác phẩm văn xuôi xuất sắc của văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp .

Tác phẩm này được tặng giải I của hội văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.

“Vợ Chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc được rút ra từ tập truyện “Tây Bắc”

- Thông qua số phận của Mị và A Phủ, tác giả thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng con người và ngợi ca ý nghĩa nhân đạo của sự nghiệp giải phóng con người thoát khỏi tối tăm và áp bức.

2.Nội dung cơ bản:

a.Tác phẩm đã miêu tả được những thân phận nô lệ dưới ách thống trị của bọn phong kiến miền núi (giá trị hiện thực): 

*) Thông qua cuộc đời nhân vật Mị :

- Mị là nạn nhân của sự vùi dập về thể xác: (bị bóc lột sức lao động thậm tệ; bị đánh đập, bị trói và bỏ đói bất cứ lúc nào…) 

- Mị là nạn nhân của sự vùi dập về tinh thần : (căn buồng Mị ở tối tăm, chỉ thông ra thế giới bên ngoài qua một cửa sổ “lỗ vuông bằng bàn tay”; Mị sống “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”…)

*) Thông qua cuộc đời A Phủ : 

- Là chàng trai khỏe mạnh, giỏi giang, con gái trong làng nhiều người mê.

- Vì không chịu được sự bất công cũng như thái độ hống hách, cậy quyền thế của A Sử - con trai thống lý Pá Tra, A Phủ đã đánh A Sử. A Phủ bị bắt, phải vay nhà thống lý một trăm đồng bạc hoa xòe để nộp vạ cho làng và trở thành người ở trừ nợ.

- Vì để hổ ăn mất một con bò, A Phủ bị thống lý Pá Tra trói đứng và bỏ đói đến gần chết. 

-> Thân phận con người không bằng con vật.

b. Tác phẩm miêu tả sức sống tiềm tàng của người dân miền núi (giá trị nhân đạo):

*) Qua nhân vật Mị :

- Dù bị áp chế về cả thể xác và tinh thần, tâm hồn Mị vẫn không hoàn toàn giá lạnh. Bên trong cái dáng lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, Tô Hoài vẫn nhận ra một sức sống tiềm tàng trong con người Mị mà khi có đủ điều kiện nó sẽ vùng lên để tìm lại cuộc sống đích thực cho mình. 

- Sức sống của nhân vật Mị được miêu tả trực tiếp trong tác phẩm:

+ Trong lần định ăn nắm lá ngón tự tử : Mị định chết vì ý thức được cuộc sống tủi nhục, vô nghĩa của mình.

+ Trong đêm tình mùa xuân : Điều kiện có tác dụng trực tiếp cho việc biểu hiện sức sống của Mị là không gian của đêm tình mùa xuân, hơi rượu và tiếng sáo. Sức sống của Mị thể hiện trong cảm xúc, trong sự hồi tưởng và hành động. Sức sống tiềm tàng thể hiện ngay cả khi bị trói.

+ Trong đêm cởi trói cho A Phủ : Từ sự đồng cảm với A Phủ (khi nhìn thấy hai dòng nước mắt của A Phủ khi bị trói), Mị nhận ra gia đình thống lý Pá Tra độc ác thật, trói người cho đến chết và Mị đã cắt dây mây cởi trói cho A Phủ. 

- Kết quả của sức sống tiềm tàng: Mị cởi trói cho A Phủ và cùng A Phủ trốn hỏi Hồng Ngài đến với cuộc sống tự do. 

*) Qua nhân vật A Phủ :

- Nếu như trong phần đầu nhà văn chú ý miêu tả Mị thì ở phần sau, khi hai người chạy thoát khỏi Hồng Ngài và nên vợ nên chồng, nhà văn lại quan tâm miêu tả quá trình giác ngộ cách mạng của A Phủ nhiều hơn. 

- Thoát khỏi gông cùm của bọn phong kiến, A Phủ lại đối đầu với bọn thực dân. Dần dần, anh ý thức rõ hơn về mình và tội ác của thực dân Pháp. Từ căm thù thực dân, A Phủ đã đến với A Châu, đến với cách mạng bằng một tấm lòng thành thật, trong sáng...Và nhiều lúc chính anh là người nâng đỡ tinh thần cho Mị. 

- A Phủ dã khẳng định bản thân mình bằng chính hành động đấu tranh cách mạng.

c. So sánh tính cách và số phận của Mỵ và A Phủ.

*) Sự giống nhau:

- Về tính cách: Cả hai đều là những người lao động, có những phẩm chất tốt đẹp, cả hai đều còn trẻ.

- Về số phận:

+ Cả hai đều là những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột và cuối cùng, kẻ thì thành con dâu gạt nợ, kẻ thì thành đứa ở gạt nợ cho nhà thống lý Pa Tra.

+ Sau một thời gian bị vùi dập, cả hai đều an phận, chấp nhận cuộc sống tôi đòi. Nhưng cuối cùng, cả hai đều đi từ đấu tranh tự phát, tự giải phóng cho mình và cuối cùng đi đến đấu tranh tự giác.

*) Sự khác nhau:

- Về tính cách :

+ Mị là cô gái có tâm hồn nhạy cảm (nhắc lại những vấn đề về sự hồi sinh trong tâm hồn cô trong đêm xuân và việc cởi trói cho A Phủ.)

+ Phủ cứng cỏi, gan dạ, ngay thẳng (với A Phủ, tác giả chủ yếu miêu tả hành động hơn là biểu hiện nội tâm)

- Về số phận.

+ Mỵ tiêu biểu cho những người phụ nữ miền núi, thân phận thấp hơn cả con ngựa trong nhà thống lý

+ A Phủ tiêu biểu cho người thanh niên nghèo miền núi, là công cụ lao động cho những kẻ bóc lột.

d. Nghệ thuật :

- Thành công tiêu biểu là đã miêu tả một cách logic quá trình phát triển nội tâm của nhân vật, đặc biệt là tính cách nhân vật Mị. 

- Là một cây bút có biệt tài trong việc tả cảnh vật, thiên nhiên. Thiên nhiên trong tác phẩm sống động, có hồn, khêu gợi, góp phần đắc lực cho việc biểu hiện nội tâm nhân vật.

- Sử dụng thành thạo lời nửa trực tiếp, đó là lời kể của tác giả nhưng người đọc vẫn cảm nhận như chính lời của nhân vật đang tự bộc lộ “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”..., có nhiều chi tiết giàu chất thơ. 

3. Kết luận:

- Truyện có giá trị nhân đạo sâu sắc : Phát hiện và ngợi ca sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người. Giá trị nhân đạo của “Vợ chồng A Phủ” gắn liền với đường lối cách mạng và chính sách dân tộc của Đảng : Giải phóng cho những người lao động bị áp bức bóc lột, đem đến cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn.

- Qua hai nhân vật Mỵ và A Phủ, tác phẩm cho thấy : Xã hội phong kiến miền núi dù có tàn bạo đến đâu cũng không giam hãm được khát vọng sống của con người. 

B. CÂU HỎI THAM KHẢO

Câu1: Tóm tắt truyện ngắn Vợ chồng Aphủ của Tô Hoài?

Câu 2: Hoàn cảnh sáng tác tác phẩm Vợ chồng Aphủ ?

Câu 3: Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài để thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

1. Phân tích nhân vật:

-Mị trước khi làm dâu nhà thống lý: Cô gái người Mèo xinh đẹp, yêu đời, có tài thổi sáo, khao khát yêu và đã được yêu.

- Mị, con dâu gạt nợ nhà thống lý: Người đàn bà sống nhẫn nhục trong tăm tối =>Danh nghĩa là con dâu song kì thực là nô lệ, Mị là nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về tinh thần

- Sức sống mãnh liệt của Mị:

+ Lần 1: Mới bị bắt về làm dâu=> định tìm đến cái chết vì không chấp nhận sống nô lệ

+ Lần 2: Trong đêm tình mùa xuân=> Mị muốn đi chơi

+ Lần 3: Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, Mị đã cắt dây cởi trói và chạy theo A Phủ=> hành động bất ngờ, bột phát thể hiện tinh thần phản kháng và khát vọng hạnh phúc đã chiến thắng.

- Mị đến với cách mạng như là một tất yếu của quy luật có áp bức có đấu tranh, từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác

2. Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện qua nhân vật Mị:

- Nhân đạo là thương người vì con người mà lên tiếng

- Câu chuyện đau buồn của Mị không phải là chuyện riêng của Mị mà tiêu biểu cho người phụ nữ miền núi trong chế độ phong kiến- thực dân

- Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đẹp tiêu biểu cho khát vọng sống khát vọng hạnh phúc của người dân miền núi và hành trình tất yếu tìm đến cách mạng của họ

=> Truyện mang giá trị nhân đạo sâu sắc: xót xa với những số phận bất hạnh, ngợi ca những tâm hồn tuổi trẻ yêu đời trong sáng, bất bình với những tội ác man rợ của bọn quan lại miền núi và đồng tình với khát vọng giải phóng của người dân miền núi với chế độ thực dân phong kiến xưa

Đề 2: Phân tích Nhân vật MỴ :

a/ Là cô gái trẻ , đẹp , tài hoa :

Thổi sáo giỏi, thổi kèn cũng hay như thổi sáo .

Có bao nhiêu người mê, ngày đêm đi theo Mỵ “đứng nhẵn vách buồng nhà Mỵ”

è Mỵ có đủ phẩm chất được sống hạnh phúc . Tâm hồn Mỵ đầy ắp hạnh phúc , ước mơ.

b/ Là cô gái có số phận bất hạnh :

Vì bố mẹ không trả nổi tiền thống lí Pá Tra – Mỵ phải trở thành con dâu gạt nợ chịu tủi nhục , cực khổ .

Bị đối xử chẳng khác nào nô lệ , bị đánh đập , trói đứng cả đêm , suốt ngày quần quật làm việc à Mỵ tưởng mình là con trâu , con ngựa .

Mất hết cảm giác, thậm chí mất hết ý thức sống, sống mà như đã chết“lúc nào mặt cũng buồn rười rượi”.

Không mong đợi điều gì , cũng chẵng còn ý niệm về thời gian , không gian . “suốt ngày lùi lũi như con rùa xó cửa” à thân phận nghèo khổ bị áp bức . Cái buồng Mỵ ở kín mít ,cửa sổ “lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắng ,không biết là sương hay nắng” à căn buồng Mỵ gợi không khí nhà giam .

c/ Sức sống tiềm tàng , khát vọng hạnh phúc của MỴ :

- Lần 1 : lúc mới làm con dâu gạt nợ .

* Mỵ định ăn lá ngón tự tử ( ý thức về đời sống tủi nhục của mình) à không chấp nhân cuộc sống đó .

* Tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát , là khẳng định lòng ham sống ,khát vọng tự do của mình

-Lần 2 : trong đêm tình mùa xuân .

Lòng ham sống ,niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi được đánh thức .

Tiếng sáo gọi bạn làm Mỵ nhớ lại những ngày tháng tươi đẹp trong quá khứ .Mỵ lấy rượu ra uống “ ừng ực từng bát một” –như uống những khao khát , ước mơ ,căm hận vào lòng . Mỵ cảm thấy “phơi phới đến góc nhà lấy ống mỡ , xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”à thắp sáng niềm tin ,giã từ bóng tối . Mỵ lấy váy áo định đi chơi nhưng ngay lập tức bị A Sử ûtrói vào cột nhà, nhưng vẫn thả hồn theo cuộc vui .

-Lần 3 : cởi trói cho A Phủ .

Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị hành hạ có nguy cơ chết , lúc đầu Mỵ không quan tâm “dù A Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng vậy thôi”.

Nhưng thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen xám lại” của A Phủ. Mỵ xúc động , thương mình, thương người . à Mỵ quyết định cởi trói A Phủ.

Đứng lặn trong bóng tối , rồi chạy theo A Phủ cùng trốn khỏi Hồng Ngài à hành động mang tính tự phát . 

è Quá trình phát triển tính cách phong phú , phức tạp . Cởi trói cho A Phủ cũng chính là cởi trói cho cuộc đời mình . Chấp nhận cuộc sống trâu ngựa và khao khát được sống cuộc sống con người , nhẩn nhục và phản kháng là hai mặt mâu thuẫn trong con người Mỵ , Cuối cùng tinh thần phản kháng , khát vọng hạnh phúc đã chiến thắng .

Giá trị tư tưởng , nhân đạo của tác phẩm :

- Phản ánh cuộc sống cơ cực , bị đè nén bởi áp bức nặng nề của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn phong kiến câu kết thực dân Pháp .

- Mở ra lối thoát cho nhân vật vùng lên làm CM, xóa bỏ chế độ PK – gắn cuộc đấu tranh tự giải phóng cá nhân với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp , giải phóng dân tộc.

+ Nghệ thuật :

Đậm đà màu sắc dân tộc .

Khắc họa bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ thơ mộng với phong tục độc đáo, hình ảnh người dân TB hồn nhiên chân thật .

Thành công trong việc xây dựng nhân vật , diễn biến tâm lý phức tạp .

* Qua việc khắc họa nhân vật Mỵ , Tô Hoài tố cáo chế đ6ï PK miền núi ,ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người vùng cao nói chung ,của thanh niên Mèo nói riêng .Họ biết yêu cái đẹp , cái lẽ phải để rồi vượt lên tìm lại chính mình .

* Sức sống của nhân vật Mỵ được Tô Hoài khắc họa hết sức tài tình , độc đáo . Từ một con người dường như bị mất hết quyền làm người , tâm hồn Mỵ dường như không còn tồn tại . Thế nhưng , với một nghị lực phi thường , một lòng ham sống mãnh liệt ,Mỵ đã tìm thấy' hạnh phúc cho bản thân , dám đấu tranh với những thử thách để rồi vượt qua.Nguyễn Khải đã từng triết lý “hạnh phúc bắt nguồn từ những hi sinh gian khổ . Ở đời không co ùcon đường cùng mà chỉ có những ranh giới . Điều quan trọng là phải có sức mạnh để vượt qua thử thách đó”.

2. VỢ NHẶT

Kim Lân

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN

I. TÁC GIẢ:

- Kim Lân (1920-2007), tên khai sinh là Nguyễn văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn , tỉnh Bắc Ninh.

- Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân.

- Tác phẩm chính:Nên vợ nên chồng( tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí( tập truyện ngắn, 1962).

II. TÁC PHẨM:

1.Hoàn cảnh sáng tác 

Đầu năm 1940, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, nhân dân ta lâm vào tình thế một cổ hai tròng. Ở miền Bắc nước ta. Nhật bắt nhổ lúa trồng đay, trong khi đó, Pháp tăng thuế ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân ta.

Đến năm 1945 hơn triệu người Việt Nam chết đói. Điều này đã làm xúc động giới văn nghệ sĩ, Kim Lân đã đóng góp thành công một truyện ngắn, đó là “Vợ Nhặt”.

Lúc đầu,truyện có tên là”Xóm ngụ cư”,hòa bình lập lại 1954, Kim Lân sửa lại in chính thức“Vợ Nhặt”.

II. Nội dung cơ bản :

a/ Hoàn cảnh túng đói , khốn khổ của người dân ngụ cư :

Bức tranh thảm đạm về nạn đói năm 1945. Cái đói đã làm xóm ngụ cư vốn nghèo khổ giờ đây càng xơ xác, thê lương .

Cái đói làm cho bọn trẻ “ngồi ủ rũ dưới những xó tường không buồn nhúc nhích”.Cái đói hành hạ cả xóm khiến nhiều người “xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp các lều chợ”. Cảnh tang tóc bao trùm lên xóm ngụ cư “Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ , đi làm đồngkhông gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”ï.Tràng kéo xe thóc tạm sống qua ngày , nghèo không thể có vợ .Người vợ nhặt lượm từng hạt thóc rơi để có miếng ăn mỗi ngày .

Tâm trạng lo âu, sợ hãi cái đói, cái chết của người dân . Hình ảnh thê lương của người dân Ngụ Cư là bằng chứng tố cáo tội ác tày trời của Pháp – Nhật. Chúng đã dẩy nhân dân ta vào vòng cùng khổ, chết chóc“Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế”.

b/ Người dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết mà vui, hi vọng , khao khát vươn lên trên cái chết , hướng đến sự sống .

Người vợ nhặt : Người phụ nữ đói rách được một bữa no quyết định theo Tràng về làm vợ “cái đói làm con người biến đổi nhanh” . Tội nghiệp hơn chị theo Tràng về làm vợ không một nghi thức nào .

Tràng : một con người có ngoại hình xoàng xĩnh , cách nói năng thô kệch, cộc cằn . Nhưng anh có tấm lòng nhân hậu ,cưu mang người vợ nhặt , giúp người phụ nữ sống, chủ yếu là “trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy”. .

Bà cụ Tứ : vượt lên nỗi xót xa , tủi phận để chấp nhận nàng dâu .

Tràng cảm thấy vui , thấy mới lạ , bối rối khi có vợ, thấy có trách nhiệm, tình cảm gắn bó với gia đình “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu, gắn bó với caí nhà của hắn lạ lùng”.

Người vợ nhặt đảm đang, vén khéo việc nhà, lo cho gia đình .

Bà cụ Tứ vui rạng rỡ, quét dọn nhà cửa, hi vọng làm ăn khá, chuẩn bị bữa ăn sáng chu đáo, phát họa chuyện tương lai “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”.

Hình ảnh cách mạng xa mà gần, trừu tượng mà cụ thể. Hình ảnh đó làm cho họ suy nghĩ, gây cho họ xúc động, tạo cho họ niềm tin . Hiện thực khắc nghiệt vẫn còn đó, tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập, nhưng trong ý nghĩ của Tràng “Vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”.

c/Đăc sắc nghệ thuật:

- Tình huống truyện độc đáo, đặc biệt:Trong khi nạn đói đe doạ tính mạng mọi người, cái đói trùm bóng đen lên cả xóm thì Tràng “nhặt ”được vợ. Điều đó làm cho mọi người ngạc nhiên, bà cụ Tứ ngạc nhiên và cả Tràng cũng thấy bối rối cho chính mình.Rồi cả ba con người cùng khổ đó đã thay đổi như có phép lạ.Bà cụ Tứ vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa buồn; người vợ nhặt trở nên hiền hậu đúng mực; Tràng thì thấy thương yêu, gắn bó hơn với cái nhà của mình.

- Phân tích tâm lí của tác giả rất sâu sắc, đặc biệt là tâm trạng của bà cụ Tứ. Ngôn ngữ nông thôn được thể hiện một cách nhuần nhị.

III Kết Luận:

Vợ Nhặt là tác phẩm ca ngợi tình yêu cuộc sống ngay giữa mùa chết chóc .Khẳng định vai trò của cách mạng tháng Tám đối với cuộc đời của bao kiếp lầm than

B. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP

1/. Tóm tắt truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân?

2/.Từ những tình tiết chính và tên truyện Vợ nhặt, anh (chị ) nhận xét gì về số phận người phụ nữ nông thôn trước cách mạng qua nhan vật vợ Tràng?

3/. Nêu ngắn gọn hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Vợ nhặt”. Vì sao có thể nói rằng “Vợ nhặt” đã được xây dựng trên cơ sở của một tình huống lạ? 

4/ Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ. Qua đó , em hiểu gì về tấm lòng của người mẹ nghèo?

5/.Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong “Vợ nhặt” của Kim Lân

6/ Phân tích tình huống truyện độc đáo mà Kim Lân đã tạo dựng trong truyện Vợ nhặt. Qua đó nêu lên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm ?

THAM KHẢO MỘT SỐ BÀI VIẾT SAU:

1/Phân tích tâm trạng của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt” của Kim Lân. 

Bà cụ Tứ vốn là một nông dân từng trải, trung hậu. Cụ hiểu rõ hoàn cảnh của gia đình mình; Con trai mình trong những ngày tháng bị cái đói hành hạ ghê ghớm. 

Khi trông thấy người đàn bà ở trong nhà với con mình, bà cụ Tứ vô cùng ngạc nhiên “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà nhỉ? (…) Sao lại chào mình bằng u (…) Ai thế nhỉ? (…) Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”. Đến lúc biết được người đàn bà kia chính là vợ của con trai mình, tâm trạng của bà cụ diễn biến khá phức tạp, phong phú. 

Trước hết, nghĩ đến cảnh túng thiếu, đói khát của gia đình mình cụ Tứ thấy tủi thân, tủi phận. Cụ ý thức rất rõ lấy vợ cho con trai lẽ ra phải thế này, thế nọ; nhưng cái khó bó cái khôn nên chỉ còn cách nghĩ ngợi tủi thân, tủi phận. Rồi cụ thương con đẻ, thương đến cả con dâu. Cụ biết duyên cớ vì đâu người ta phải theo con mình (“Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót”, và cụ nói với vợ chồng Tràng “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. 

Việc Tràng “nhặt” được vợ vừa là nỗi buồn rầu lo lắng, vừa là niềm vui mừng của bà lão tội nghiệp này. Mừng vì người con thô lậu, quê kệch đã có vợ. Lo vì đúng lúc đói khát, chết chóc này, liệu lấy gì mà nuôi nhau. Tuy vậy, dẫu sao niềm vui vẫn nhiều hơn. Bà lão “tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăn xắn thu dọn quét tước nhà cửa”. Đến bữa ăn, bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cụ cố giấu cái lo, động viên các con “nhà ta thì còn nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông trời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì con cái chúng mày về sau”. 

Nhưng “nghĩ ngợi mãi”, “bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt chảy xuống ròng ròng”. Bởi bà cụ nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út, nghĩ đến cuộc đời khổ cực của mình, nghĩ đến tương lai của con trai và con dâu… và chẳng thể thoát ra khỏi không khí chết chóc đang bủa vây xung quanh. 

Qua diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ. Chúng ta có thể nhận thấy biệt tài phát hiện và miêu tả tâm lí một cách chân thật và sắc sảo của Kim Lân. Điều này có tác dụng to lớn, khắc hoạ rõ nét chủ đề của tác phẩm: cho dù phải sống trong một tình thế hết sức bi đát, bà cụ Tứ nói riêng và những người lao động nói chung vẫn hướng tới tương lai, vẫn khao khát một mái ấm gia đình

2/Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong “Vợ nhặt” của Kim Lân

Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim lân muốn bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Ấy là khi nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. 

Không phải ngẫu nhiên. Vợ nhặt trước hết là thiên truyện về cái đói. Chỉ mấy chữ “Cái đói đã tràn đến…” đủ gợi lên hoài niệm kinh hoàng cho người xứ Việt về một hiểm hoạ lớn của dân tộc đã quét đi xấp xỉ gần một phần mười dân số trên đất nước này. Đúng như chữ nghĩa Kim Lân, hiểm hoạ ấy “tràn đến”, tức là mạnh như thác dữ. 

Cách tả của nhà văn càng gây một ám ảnh thê lương qua hai loại hình ảnh: con người năm đói và không gian năm đói. Ông đặc tả chân dung người năm đói “khuôn mặt hốc hác u tối”, nhưng đáng sợ nhất là có tới hai lần ông so sánh người với ma: “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Kiểu so sánh ấy thể hiện một cảm quan đặc biệt của Kim Lân về cái thời ghê rợn: đó là cái thời mà ranh giới giữa người và ma, cái sống và cái chết chỉ mong manh như sợi tóc, cõi âm nhoà vào cõi dương, trần gian mấp mé miệng vực của âm phủ. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, cái tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Quả là cái đói đã lộ hết sức mạnh huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo. Chao ôi, toàn những chuyện cười ra nước mắt: bốn bát bánh đúc ngày đói mà làm nên một mối tình, nồi cám ngày đói đủ làm cỗ tân hôn… Ngòi bút khắc khổ của Kim Lân không né tránh mà săn đuổi hiện thực đến đáy, tạo cho thiên truyện một cái “phông” đặc biệt, nhàu nát, ảm đạm, tăm tối và phải nói là có phần nghiệt ngã. 

Nhưng quan tâm chính của nhà văn không phải là dựng lên một bản cáo trạng trong Vợ nhặt , mà dồn về phía khác, quan trọng hơn. Từ trong bóng tối của hoàn cảnh Kim Lân muốn tỏa sáng một chất thơ đặc biệt của hồn người. Mảng tối của bức tranh hiện thực buồn đau là một phép đòn bẩy cho mảng sáng của tình người tỏa ra ánh hào quang đặc biệt của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết, cảm động. 

Trong văn chương người ta thường nhấn mạnh chữ tâm hơn chữ tài. Song nếu cái tài không đạt đến một mức nào đó thì cái tâm kia làm sao bộc lộ ra được. Ở Vợ nhặt cũng thế: tấm lòng thiết tha của Kim Lân sở dĩ lay động người đọc trước hết là nhờ tài dựng truyện và sau đó là tài dẫn truyện. 

Tài dựng truyện ở đây là tài tạo nên một tình huống độc đáo. Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một tình huống như thế. Trong một bài trả lời phỏng vấn, Kim Lân hào hứng giải thích:”nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh đúc ngoài chợ – đúng là “nhặt” được vợ như tôi nói trong truyện”. Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: chủ thể của cái hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà cụ Tứ – mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa: “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Tình huống trên gợi ra một trạng thái tinh tế của lòng người: trạng thái chông chênh khó nói – cái gì cũng chập chờn, như có, như không. Đây là niềm vui hay buồn? Nụ cười hay nước mắt?... Cái thế đặc biệt của tâm trạng này đã khiến ngòi bút truyện ngắn của Kim Lân mang dáng dấp của thơ ca. 

Dựng truyện hay chưa đủ. Tài dựng truyện giống như tài của anh châm ngòi pháo. Có lửa tốt, châm đúng ngòi nhưng dây pháo có nhiều quả điếc thì vẫn cứ xịt như thường. Cho nên tài dựng truyện, phải gắn với tài dẫn truyện nữa mới tạo sự sâu sắc, hấp dẫn. Tài dẫn truyện của Kim Lân thể hiện qua lối sử dụng ngôn ngữ nông dân đặc biệt thành công, qua lời văn áp sát vào tận cái lõi của đời thực khiến mỗi câu chữ như được “bứng” ra từ chính cái chất liệu ngồn ngộn của cuộc sống. Song quan trọng nhất vẫn là ở bút pháp hiện thực tâm lí. Phải nói, tình huống truyện trên kia thật đắc địa cho Kim Lân trong việc khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật. Rất đáng chú ý là hai trường hợp: bà cụ Tứ và Tràng. Đây là hai kiểu phản ứng tâm lí trước một tình thế như nhau, song không ai giống ai.

Anh cu Tràng cục mịch, khù khờ, có ai ngờ lại là một chàng trai thực sự hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc lớn quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất đỗi ngỡ ngàng. Cơn say hạnh phúc thăng hoa trong tâm linh, khiến Tràng mất trọng lượng, lơ lửng trong cõi ảo, cõi mơ. Ngòi bút thực của Kim Lân từng tỉnh thế, bây giờ ngòi bút trữ tình của ông cũng sao mà say thế. Nói đúng hơn, nhà văn phải đứng giữa cái say / tỉnh ấy mới “cảm thụ” tới tận đáy cuộc đời, mới tạo ra được những áng “thần bút” như văn Kim Lân trong “Vợ nhặt”. Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình – một niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh nổi. Chẳng thế mà một người nổi tiếng như Secnưsepxki từng mơ ước: “Tôi sẵn sàng đánh đổi cả sự nghiệp nếu biết rằng trong một căn phòng nhỏ ấm áp nào đó, có một người đàn bà đang ngóng đợi tôi về bữa ăn tối”. Chàng thanh niên nghèo khó của Kim Lân đã thực sự đạt được một niềm vui như thế: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Một niềm vui thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn giấc mơ. Điều này thì anh Tràng của Kim Lân may mắn hơn Chí Phèo của Nam Cao: hạnh phúc đã nằm gọn trong tay Tràng.Còn Thị Nở mới chấp chới tầm tay Chí Phèo thì đã bị cái xã hội đen tối cướp mất. Có một chi tiết rất đắc của Kim Lân: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. So với cái dáng “ngật ngưỡng” mở đầu tác phẩm, hành động “xăm xăm” này của Tràng là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Chẳng thế mà Kim Lân đã thấy đủ điều kiện đặt vào dòng suy nghĩ của Tràng một ý thức bổn phận sâu sắc: “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Tràng thật sự “phục sinh tâm hồn” đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc. 

Bình luận truyện Vợ nhặt, không hiểu sao có một câu rất quan trọng của Kim Lân mà nhiều người hay bỏ qua. Đó là câu kết truyện “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”. Một câu kết như thế, chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không nhìn thấy được. Số phận con người trong văn học hiện thực đồng nghĩa với bế tắc. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn. 

Quá trình tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp hơn nhân vật Tràng. Nếu ở đứa con trai, niềm vui làm chủ, tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng phù hợp với một chàng rễ trẻ tuổi đang tràn trề hạnh phúc thì ở bà mẹ, tâm lí vận động theo kiểu gấp khúc hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng trải và nhân hậu. 

Cũng như con trai, khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng. Anh con trai ngỡ ngàng trước một cái đã biết, còn bà mẹ ngỡ ngàng trước một cái dường như không hiểu được. Cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu là một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?” Rồi lại:”Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”. Trái tim người mẹ có con trai vốn rất nhạy cảm về điều này, vậy tại sao Kim Lân lại để cho nhân vật người mẹ ngơ ngác lâu đến thế? Một chút quá đà, một chút “kịch” trong ngòi bút Kim Lân chăng? Không, nhà văn của đồng nội vốn không quen tạo dáng. Đây là nỗi đau của người viết: chính là sự cùng quẩn của hoàn cảnh đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm đó. 

Nếu ở Tràng, sự ngỡ ngàng đi thẳng tới niềm vui thì bà cụ Tứ, sự vận động tâm lý phức tạp hơn. Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão”cúi đầu nín lặng”. Sự nín lặng đầy nội tâm. Đó là nỗi niềm xót xa, lo, thương lẫn lộn. Tình thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao: “… chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Trong chữ “chúng nó” người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu. Trong chữ cúi đầu, bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh, khác hẳn con trai tiếp nhận hạnh phúc bằng một nhu cầu, bằng một ước mơ tinh thần phơi phới. 

Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt. Tác giả xoáy vào dòng ý nghĩ của bà mẹ: nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ đời của mình, nghĩ đến tương lai của con…, để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu thương trong một câu nói giản dị:”chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…” Trên ngổn ngang những nỗi buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh lên. Cảm động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ… nồi cháo cám. Hãy nghe người mẹ nói: “chè đây – Bà lão múc ra một bát – chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ “ngon”này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt. Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chính mình cho cái chất người: trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt, con người muốn sống cho ra sống, và cái chất người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hi vọng. Nhưng Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với miếng cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”. 

Thành công của nhà văn là thấu hiểu và phân tích được những trạng thái tâm lí khá tinh tế của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt. Biết vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ. Cái thế vượt hoàn cảnh ấy tạo nên nội dung nhân đạo độc đáo và cảm động của tác phẩm. 

Thông điệp của Kim Lân là một thông điệp mang ý nghĩa nhân văn. Trong tiểu thuyết nổi tiếng Thép đã tôi thế đấy, nhà văn Nga Nhicôlai Oxtrôpxki đã để cho nhân vật Paven Coocsaghin ngẫm nghĩ: “Hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa”. Vợ nhặt là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ đã “biết sống” như con người ngay giữa thời túng đói quay quắt. 

Thông điệp này đã được Kim Lân chuyển hóa thành một thiên truyện ngắn xuất sắc với cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn. 

3. RỪNG XÀ NU - Nguyễn Trung Thành

I. Tác giả:

- Nguyễn Trung Thành (Bút danh khác là Nguyên Ngọc) tên khai sinh là Nguyễn văn Báu, sinh năm 1932.

- Quê hương: Thăng Bình - Quảng Nam.

- Năm 1950, ông vào bộ đội, sau đó làm phóng viên Báo Quân đội nhân dân Liên khu V. Sau năm 1954 ông tập kết ra Bắc và năm 1962 ông trở về chiến trường Miền Nam, hoạt động ở Quảng Nam và Tây Nguyên.

- Nguyên Ngọc từng sống, gắn bó với Tây Nguyên và chính sự hiểu biết, lòng yêu mến đối với thiên nhiên, con người Tây Nguyên đã khiến Nguyên Ngọc trở thành người đầu tiên đưa vùng đất Tây Nguyên vào văn xuôi và là người viết thành công về vùng đất ấy.

- Văn chương Nguyên Ngọc đạt tới tầm vóc của những khúc sử thi hào hùng và mang rất nhiều vẻ đẹp trữ tình, lãng mạn.

- Tác phẩm tiêu biểu: “Đất nước đứng lên” (Giải nhất giải thưởng Hội Văn Nghệ Việt Nam 1954-1955); “Rừng xà nu”; “Đất Quảng”; “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”

II/ Tác phẩm “Rừng xà nu”:

1. Hoàn cảnh sáng tác:

Truyện ngắn “Rừng xà nu” được viết năm 1965. Đây là tác phẩm nổi tiếng được Nguyên Ngọc viết trong những năm kháng chiến ác liệt chống đế quốc Mĩ.

2. Tóm tắt tác phẩm:

Làng của người dân Xôman thuộc bộ tộc Strá bị tàn sát đau thương bởi đạn đại bác của giặc.

Tnú - người anh hùng của dân làng Xôman - về thăm làng sau 3 năm đi lực lượng. Trong buổi họp mặt, cụ Mết đã kể cho dân làng nghe về cuộc đời hoạt động của Tnú.

Tnú mồ côi cha mẹ, được dân làng Xôman nuôi lớn. Từ nhỏ, Tnú đã cùng với Mai đi làm liên lạc cho cán bộ cách mạng là anh Quyết ở trong rừng. Có lần, Tnú bị bắt khi đang làm nhiệm vụ, Tnú nhanh trí nút lá thư vào bụng và quyết không khai dù bị tra tấn dã man.

Sau 3 năm bị tù, Tnú trốn về, thay anh Quyết hướng dẫn dân làng khởi nghĩa. Giặc bao vây làng, quyết định bắt cho bằng được Tnú. Không bắt được Tnú, chúng bắt vợ con anh tra tấn dã man. Tnú xông vào giữa bọn lính che chở cho vợ con nhưng anh đã không cứu sống được họ. Anh bị giặt bắt, chúng đốt 10 đầu ngón tay anh bằng nhựa xà nu nhưng anh vẫn giữ được tinh thần.

Sau đó, dưới sự chỉ huy của cụ Mết, đám thanh niên ở trong rừng về giết hết bọn giặc, cứu Tnú. Tuy mỗi ngón tay trên bàn tay Tnú chỉ còn 2 đốt, Tnú vẫn tham gia lực lượng giải phóng quân chiến đấu bảo vệ quê hương.

3. Nội dung:

a/ Ý nghĩa hình tượng rừng xà nu:

Mở đầu và kết thúc tác phẩm là hình ảnh rừng xà nu. Nó vừa có ý nghĩa hiện thực vừa có ý nghĩa tượng trưng.

- Ý nghĩa hiện thực: Thiên nhiên bị tàn phá dữ dội trong chiến tranh nhưng vẫn có sức sống mãnh liệt.

Cây xà nu, rừng xà nu là hiện thân cho vẻ đẹp của núi rừng Tây Nguyên, của thiên nhiên đất nước.

- Ý nghĩa tượng trưng: Tượng trưng cho số phận đau thương nhưng rất bất khuất, kiên cường của dân tộc Tây Nguyên trong việc cầm vũ khí đứng lên chiến đấu bảo vệ quê hương. Sức sống của rừng xà nu cũng là sức sống mãnh liệt, bền bĩ của dân làng Xôman nói riêng, của Tây Nguyên nói chung và hơn là của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam.

b/ Hình tượng nhân vật: 

*. Cụ Mết

- Ngoại hình rắn rỏi, tính cách trầm tĩnh, vững vàng, sáng suốt, là gạch nối của Đảng với đồng bào dân tộc.

- là người đứng đầu buôn làng, có vai trò giáo dục rất lớn đối với dân làng.

→ Biểu tượng cho sức mạnh vật chất và tinh thần có tính truyền thống và cội nguồn của các dân tộc Tây Nguyên.

*. Dít:

- Có đôi mắt bình thản, trong suốt, nghiêm khắc biểu hiện một bản lĩnh vững vàng trước mọi tình huống.

- Gương mẫu, nhiệt tình, rất nguyên tắt.

- Tình cảm sâu sắc nhưng lặng lẽ, kín đáo.

*. Bé Heng: Tiêu biểu cho thế hệ trẻ sẽ còn vươn xa hơn nữa; gắn bó với cách mạng, tự hào về quê hương.

*. Tnú (Nhân vật trung tâm):

- Mồ côi cha mẹ, được dân làng Xôman nuôi lớn.

- Phẩm chất:

+ Gan góc, mưu trí, táo bạo, dũng cảm (lúc còn làm liên lạc, học chữ, nuôi cán bộ trong rừng ...)

+ Giàu tình yêu quê hương, nhận thức sâu sắc về Đảng, trung thành với cách mạng, gắn bó với mọi người trong buôn làng.

+ Căm thù giặc sâu sắc.

+ Có ý thức kỷ luật cao.

+ Có nỗi đau lớn về thể xác và tinh thần nhưng biết vượt lên mọi đau đớn, bi kịch của gia đình, bản thân để đấu tranh kiên cường, bất khuất hướng về lí tưởng cách mạng. Khắc sâu chân lí cụ Mết truyền dạy “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.

→ Là con chim đầu đàn của Tây Nguyên anh hùng.

4. Giá trị nghệ thuật:

- Mang đậm màu sắc sử thi.

+ “Rừng xà nu” là tiếng nói lịch sử của thời đại gắn liền với những vận động, biến cố có ý nghĩa trọng đại đối với toàn dân.

+ “Rừng xà nu” mang một hình thức sử thi hoành tráng từ hình ảnh (rừng núi, con người) đến âm hưởng qua lời văn giàu sức tạo hình, giàu nhạc điệu.

- Thủ pháp nhân hoá, tượng trưng: rừng xà nu → con người Tây Nguyên kiên cường, bất khuất.

- Kết cấu, cốt truyện độc đáo.

Câu hỏi:

1. Tìm những chi tiết trong tác phẩm miêu tả vẻ đẹp và sức sống của rừng xà nu?

2. Ý nghĩa của hình tượng rừng xà nu?

3. “Rừng xà nu là truyện của một đời và được kể trong một đêm.” Người anh hùng mà cụ Mết kể trong cái đêm dài ấy có những phẩm chất đáng quý nào?

4. Câu chuyện của Tnú cũng như của dân làng Xôman nói lên chân lí lớn nào của dân tộc ta trong thời đại bấy giờ?

5. Phân tích những cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp nghệ thuật của tác phẩm?

4. NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH - Nguyễn Thi

I/ Tác giả:

- Nguyễn Thi (1928-1968) bút danh là Nguyễn Ngọc Tấn, tên khai sinh là Nguyễn Hoàng Ca.

- Quê hương: Hải Hậu - Nam Định.

- Cuộc sống tủi cực, vất vả từ nhỏ.

- Năm 1945, ông tham gia cách mạng, vừa chiến đấu vừa hoạt động văn nghệ.

- Năm 1954, ông tập kết ra Bắc và năm 1962 ông tình nguyện trở lại chiến trường miền Nam.

- Năm 1968, ông hy sinh ở mặt trận Sài Gòn.

- Nguyễn Thi gắn bó sâu sắc với nhân dân Nam Bộ và trở thành nhà văn của người nông dân Nam Bộ trong thời ký kháng chiến chống Mĩ.

- Nhân vật tiêu biểu của Nguyễn Thi là những người nông dân Nam Bộ với những nét tính cách tiêu biểu.

- Là cây bút có năng lực phân tích tâm lí sắc sảo.

- Ngôn ngữ Nguyễn Thi góc cạnh, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm chất Nam Bộ.

II/ Tác phẩm “Những đứa con trong gia đình”:

1. Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt (chống Mĩ cứu nước) khi tác giả công tác ở tạp chí “Văn nghệ Quân giải phóng”

2. Tóm tắt tác phẩm:

Việt là một chiến sĩ giải phóng quân, xuất thân từ một gia đình nông dân có mối thù sâu nặng với Mĩ - Ngụy: ông nội và bố Việt đều bị giặc giết hại; mẹ Việt cố nén nỗi đau riêng vất vả nuôi con khôn lớn, và cuối cùng cũng chết vì bom đạn. Gia đình chỉ còn lại Việt, chị Chiến, thằng Út em, chú Năm. Truyền thống cách mạng vẻ vang và những đau thương, mất mát của gia đình được chú Năm ghi chép vào một cuốn sổ gia đình.

Việt và Chiến hăng hái tòng quân đi giết giặc, quyết tâm lập nhiều chiến công để trả thù cho ba má.

Trong một trận chiến đấu ác liệt, Việt bị thương nặng và lạc đồng đội. Việt ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, dòng hồi ức đưa Việt về với những kỷ niệm thân thiết về má, chị Chiến, chú Năm và đồng đội ...

Việt được đưa về điều trị, sức khoẻ hồi phục dần và tiếp tục chiến đấu để xứng đáng hơn nữa với truyền thống của gia đình, quê hương.

3. Nội dung:

a/ Truyền thống gia đình đã gắn bó những con người với nhau:

- Căm thù giặc sâu sắc.

- Gan góc, dũng cảm, khao khát được chiến đấu, giết giặc.

- Giàu tình nghĩa, rất mực thuỷ chung, son sắc với quê hương và cách mạng.

→ Tạo nên một dòng sông truyền thống.

b/ Nét riêng của từng con người trong gia đình:

*. Chú Năm:

- Là tác giả của cuốn gia phả ghi lại những chiến công và bao mất mát, đau thương của gia đình do tội ác của giặc gây ra.

- Là người lao động chất phác và rất giàu tình cảm (tiếng hò của chú chứa đầy tâm tư, cảm xúc).

→ Chú Năm là khúc thượng nguồn của dòng sông truyền thống, là nơi kết tinh truyền thống của gia đình.

*. Má Việt:

- Căm thù giặc sâu sắc, gan góc.

- Đảm đang, tháo vát, thương chồng thương con; biết ghìm nén đau thương để nuôi con, đánh giặc.

→ Biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam.

*. Chị Chiến:

- Tính cách rất đa dạng: vừa có nét “trẻ con” của một cô gái mới lớn, vừa biết nhường nhịn em, lo toan gia đình.

- Giống mẹ: gan góc, đảm đang.

- Khác mẹ: ở vẻ trẻ trung, thích làm duyên, xung phong đi đánh giặc, trả thù nhà, với lời thề sắt đá: “làm thân con gái ra đi, tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất”.

→ Biết kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, dân tộc.

*. Việt:

- Tính cách rất “trẻ con, hồn nhiên, hiếu động.

- Có tình thương yêu và gắn bó sâu sắc với gia đình.

- Dũng cảm, kiên cường, gan góc, luôn sôi nổi tinh thần chiến đấu, quyết tâm lập nhiều chiến công để trả mối thù lớn.

→ Một con sóng vươn xa nhất trong dòng sông truyền thống, là người tiêu biểu nhất cho tinh thần tiến công cách mạng.

4. Nghệ thuật:

- Nghệ thuật kể chuyện độc đáo: “Những đứa con trong gia đình” được trần thuật chủ yếu từ điểm nhìn của nhân vật Việt: đó là dòng hồi tưởng đứt nối của anh khi bị thương nằm ở chiến trường.

→ Câu chuyện tự nhiên, sống động, hấp dẫn; đồng thời nhà văn có điều kiện nhập sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật để dẫn dắt câu chuyện.

- Ngôn ngữ góc cạnh, có giá trị tạo hình và mang đậm tính chất Nam Bộ.

- Xây dựng nhân vật qua những chi tiết cụ thể, đắt giá; tạo được không khí chân thực, sống động.

Câu hỏi:

1. Phân tích nghệ thuật trần thuật đặc sắc của tác phẩm?

2. Nét đặc sắc trong tính cách của các nhân vật: chú Năm, má Việt,chị Chiến và Việt? 

3. Trong tác phẩm, Nguyễn Thi có nêu lên quan niệm: “Chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Rồi trăm con sông của gia đình lại cùng đổ về một biển...”

Anh(chị) có cho rằng, trong thiên truyện của Nguyễn Thi quả đã có một dòng sông truyền thống liên tục chảy từ những lớp người đi trước: tổ tiên, ông cha cho đến lớp người đi sau: chị em Chiến, Việt?

4. Những đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm? Phân tích những biểu hiện của khuynh hướng sử thi trong đoạn trích đã học?

5. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA - Nguyễn Minh Châu

I/ Tác giả: Nguyễn Minh Châu (1930-1989)

- Quê quán: Quỳnh Lưu - Nghệ An.

- Năm 1950: ông tham gia quân đội và là nhà văn quân đội.

- Sau năm 1975, văn chương Nguyễn Minh Châu trở về với đời thường, đi sâu, khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự.

→ Là nhà văn “Mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay”.

* Tác phẩm chính: Cửa sông (1967), Những vùng trời khác nhau (1970), Dấu chân người lính (1972), Những người đi từ trong rừng ra (1982), Bến quê (1985), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Chiếc thuyền ngoài xa (1987), Cỏ lan (1989) ...

II/ Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”:

1. Hoàn cảnh ra đời

Năm 1987, đất nước đang trong thời kì đổi mới, cuộc sống có nhiều thay đổi. 

2/ Tóm tắt tác phẩm:

Theo đề nghị của trưởng phòng để có được một bức ảnh nghệ thuật chụp cảnh thuyền và biển, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đã thực hiện một chuyến đi thực tế tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Sau gần một tuần tìm kiếm, Phùng săn được cảnh thuyền và biển lúc bình minh thật đẹp. Thế nhưng, đằng sau cảnh đẹp đó, người nghệ sĩ đã chứng kiến một sự thật phũ phàng: cảnh lão đàn ông dữ dằn, thô kệch đánh vợ một cách vô lí và thô bạo. Ba hôm sau, Phùng lại chứng kiến sự việc này. Không thể nén chịu được nữa, Phùng đã xông ra can ngăn lão đàn ông, anh bị thương, được đưa về trạm y tế của toà án huyện. Ở đó, anh được nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài với bao sự cảm thông, ngỡ ngàng, ngạc nhiên ...

Bức ảnh chụp cảnh thuyền và biển trong buổi sáng mờ sương của nghệ sĩ Phùng đã khiến trưởng phòng rất hài lòng và nó được treo ở nhiều nơi. Kì lạ thay, mỗi lần nhìn vào đó, bao giờ Phùng cũng thấy hiện lên hình ảnh người đàn bà chậm rãi bước ra rồi hoà lẫn vào trong đám đông…

3. Nội dung: 

a/ Những phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh:

- Phát hiện ra vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương: chiếc thuyền ngoài xa mà ánh sáng và đường nét đều hài hoà, tuyệt đẹp.

+ Như một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ.

+ Khám phá ra chân lí của sự toàn thiện, khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.

→ Người nghệ sĩ như bắt gặp cái tận thiện, tận mĩ và tâm hồn như được gột rửa, trở nên trong trẻo

- Phát hiện thứ hai thật bất ngờ và trớ trêu như trò đùa của cuộc sống: ngay sau cảnh đẹp chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, cái ác (lão đàn ông đánh vợ một cách tàn nhẫn, vô lí và người vợ nhẫn nhục chịu đựng)

→ Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia là thứ “thuốc rửa” làm những bức ảnh hiện lên thật khủng khiếp, ghê sợ.

b/ Câu chuyện của người đàn bà ở toà án huyện: (là câu chuyện về sự thật cuộc đời)

- Bề ngoài, đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập nhưng vẫn nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu đó.

- Nguồn gốc của sự chịu đựng, hi sinh của người đàn bà là tình thương đối với con.

- Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn tìm ra được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi.

→ Câu chuyện trên giúp Phùng và Đẩu vỡ lẽ ra nhiều điều, hiểu hơn về cuộc đời, con người.

=> Con người, nhất là nghệ sĩ không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống.

c/ Cảm nhận về các nhân vật tác phẩm:

*. Người đàn bà:

- Ngoài 40 tuổi, mặt rỗ, “khuôn mặt mệt mỏi”: cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ.

- Vì tình thương những đứa con, người đàn bà lặng lẽ chấp nhận bị hành hạ, chịu đựng mọi đau đớn.

- Cam chịu, nhẫn nhục, không bao giờ để lộ cảm xúc ra bên ngoài.

→ Người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh.

*. Lão đàn ông:

- Cuộc sống đói khổ, cực nhọc, lo toan đã biến “anh con trai hiền lành” thành một người chồng vũ phu, độc ác.

- Đánh đập vợ con như là cách để giải toả ất uất, buồn phiền.

→ Vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính người thân của mình.

*. Chị em Phác

- Chị thằng Phác hiểu biết, can đảm (cản việc làm dại dột của em); biết chăm sóc, lo toan gia đình thay mẹ.

- Thằng Phác: Gây cảm động cho người đọc bởi tình thương mẹ dạt dào.

*. Người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng:

- Biết căm ghét, phẫn nộ trước mọi sự áp bức, bất công.

- Anh cảm thấy hạnh phúc, xúc động ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của cảnh thuyền và biển lúc bình minh.

- Kinh ngạc, túc giận trước sự bạo hành của cái xấu, cái ác.

- Hành động như một phản xạ tự nhiên: “vứt cái máy ảnh xuống đất chạy nhào tới” đề ngăn việc làm xấu xa của người đàn ông.

→ Không vì nghệ thuật mà bỏ quên cuộc đời. Sẵn sàng làm tất cả vi cuộc sống tốt đẹp.

4. Nghệ thuật:

- Xây dựng cốt truyện độc đáo: tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.

- Ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo. 

+ Ngôn ngữ kể chuyện (tác giả hoá thân vào nhân vật Phùng) điểm nhìn trần thuật sắc sảo, lời kể chuyện khách quan, chân thực, giàu sức thuyết phục.

+ Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người.

G. MỘT ĐOẠN TRÍCH KỊCH:

HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT

Lưu Quang Vũ

I/ Tác giả:

- Lưu Quang Vũ (1948-1988) quê gốc ở Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ trong một gia đình tri thức.

- Từ năm 1965-1970: phục vụ quân đội.

- Từ năm 1970-1978: xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để mưu sinh.

- Từ năm 1978-1988: bắt đầu sáng tác.

- Lưu Quang Vũ là một tài năng đa dạng: làm thơ, sáng tác văn xuôi, vẽ tranh và soạn kịch.

- Đóng góp xuất sắc nhất của Lưu Quang Vũ là soạn kịch. Lưu Quang Vũ không chỉ trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 của thế kỉ XX mà còn được coi là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.

*. Tác phẩm tiêu biểu: Lời nói dối cuối cùng, Nàng Xi-ta, Chết cho điều chưa có, Nếu anh không đốt lửa, Lời thề thứ 9, Tôi và chúng ta ...

II/ Tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”

1. Hoàn cảnh sáng tác:

- Tác phẩm được viết năm 1981 và ra mắt công chúng năm 1984, là một vở kịch đặc sắc của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước.

- Từ một cốt truyện dân gian, tác giả đã xây dựng thành một vở kịch hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc.

2. Tóm tắt:

Trương Ba giỏi đánh cờ bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới chết. Mọi rắc rối do hồn Trương ba phải mượn xác hàng thịt bắt đầu xảy ra: lí tưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ ... mà bản thân Trương Ba thì phải đau khổ, bất lực vì phải sống trái tự nhiên, giả tạo.

Một cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt diễn ra, trong đó, xác hàng thịt khẳng định sức mạnh và thế lấn tới của hắn đối với hồn Trương Ba.

Hồn Trương Ba đốt một nén hương gọi Đế Thích xuống giải thoát cho mình. Cùng lúc, cu Tị, con một người hàng xóm ốm nặng, sắp chết. Đế Thích định cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba cương quyết từ chối, xin cho cu Tị được sống đồng thời trả xác cho nhà hàng thịt và chấp nhận cái chết.

3. Nội dung:

a/ Các lớp đối thoại và ý nghĩa của chúng:

*. Màn đối thoại giữa hồ Trương Ba với xác hàng thịt:

- Nghịch cảnh: linh hồn nhân hậu, trong sạch phải trú nhờ trong một thân xác thô phàm.

- Linh hồn Trương Ba lệ thuộc và bị xác thịt thô phàm điều khiển, lấn át.

- Xác hàng thịt tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù, ghê gớm của mình, tìm cách khống chế, ve vãn, kêu gọi hồn Trương Ba thoả hiệp bằng những lí lẽ ti tiện.

- Hồn Trương Ba ý thức sâu sắc về sự tha hoá, dằn vặt, đau khổ, tìm cách thoát khỏi xác thịt để tồn tại độc lập.

- Xác hàng thịt khẳng định sự thắng thế của mình: “chẳng còn cách nào khác nữa đâu”.

- Hồn Trương Ba khinh bỉ, mắng mỏ lí lẽ đê tiện của xác hàng thịt nhưng rồi ngậm ngùi, thấm thía nghịch cảnh của mình và nhập vào xác hàng thịt một cách tuyệt vọng.

Hàm ý của đối thoại:

- Trương Ba được trả lại sự sống nhưng đó là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải chung sống với sự dung tục và bị dung tục đồng hoá.

- Khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục ấy sẽ ngự trị, thắng thế và sẽ tàn phá những gì trong sạch, cao quý của con người.

*. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân.

- Không chỉ bản thân Trương Ba đau khổ mà còn gây đau khổ cho những người thân yêu.

- Vợ Trương Ba đau khổ bỏ đi; con dâu thương cảm, xót thương cho hoàn cảnh của bố chồng; cháu gái phản ứng dữ dội, quyết liệt, không chấp nhận sự tồn tại của ông.

- Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của hồn Trương Ba đã lên đến đỉnh điểm.

- Tình huống bi kịch thúc đẩy hồn Trương Ba phải lựa chọn với sự phản kháng mãnh liệt: “không cần đến cái đời sống do mày mang lại. Không cần”.

=> Con người phải đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách.

*. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích:

- Hồn Trương Ba không chấp nhận kiểu sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, muốn được là chính mình một cách trọn vẹn.

- Đế Thích ngạc nhiên vì những yêu cầu của Trương Ba. 

- Hồn Trương Ba chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết”.

- Đế Thích khuyên Trương Ba nên chấp nhận hoàn cảnh. Sau đó Đế Thích sửa sai bằng cách cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị.

- Hồn Trương Ba kiên quyết từ chối việc nhập vào xác cu Tị vì đó cũng là một cuộc sống “còn khổ hơn cái chết”.

- Đế Thích chấp nhận yêu cầu của Trương Ba với thắc mắc: “con người hạ giới các ông thật kì lạ”

. Quan niệm về sự sống: 

- Đế Thích có cái nhìn hời hợt, phiến diện về con người.

- Trương Ba ý thức sâu sắc về ý nghĩa của cuộc sống: hồn và xác phải hài hoà, không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi.

* Màn kết:

- Trương Ba trả xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để được là chính mình và linh hồn được trong sạch.

- Hoá thân vào cây cỏ, các sự vật thân thưong để tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu.

→ Thông điệp về sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp, của cuộc sống đích thực.

b/ Chủ đề tư tưởng:

Thông qua những màn đối thoại của vở kịch, Lưu Quang Vũ đã đưa ra một quan niệm cao đẹp về cách sống: hãy sống chân thật với chính mình, phải biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân mình, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

4. Nghệ thuật:

- Xung đột giàu kịch tính.

- Ngôn ngữ đắc trưng cho ngôn ngữ kịch.

- Sự kết hợp tính hiện đại với các giá trị truyền thống.

- Chất thơ, chất trữ tình bay bổng.

H. VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI:

1. THUỐC

Lỗ Tấn

I. TÌM HIỂU CHUNG

1. Tác giả 

+ Lỗ Tấn (1881-1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, quê ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, miền Đông Nam Trung Quốc. Ông là nhà văn cách mạng lỗi lạc của Trung Quốc thế kỉ XX. “Trước Lỗ tấn chưa hề có Lỗ Tấn; sau Lỗ Tấn có vô vàn Lỗ Tấn” (Quách Mạt Nhược)

+ Tuổi trẻ của Lỗ Tấn đã nhiều lần đổi nghề để tìm một con đường cống hiến cho dân tộc: từ nghề khia mỏ đến hàng hải rồi nghề y, cuối cùng làm văn nghệ để thức tỉnh quốc dân đồng bào. Con đường gian nan để chọn ngành nghề của Lỗ Tấn vừa mang đậm dấu ấn lịch sử Trung Hoa thời cận hiện đại, vừa nói lên tâm huyết của một người con ưu tú của dân tộc.

+ Quan điểm sáng tác văn nghệ của Lỗ Tấn được thể hiện nhất quán trong toàn bộ sáng tác của ông: phê phán những căn bệnh tinh thần khiến cho quốc dân mê muội, tự thoả mãn “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”.

+ Tác phẩm chính: AQ chính truyện (Kiệt tác của văn học hiện đại Trung Quốc và thế giới), các tập Gào thétBàng hoàng, Truyện cũ viết theo lối mới, hơn chục tập tạp văn có giá trị phê phán, tính chiến đấu cao

2. Hoàn cảnh sáng tác truyện Thuốc 

Thuốc được viết năm 1919, đúng vào lúc cuộc vận động Ngũ tứ bùng nổ. Đây là thời kì đất nước Trung Hoa bị các đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Nhật xâu xé. Xã hội Trung Hoa biến thành nửa phong kiến, nửa thuộc địa, nhưng nhân dân lại an phận chịu nhục. “Người Trung Quốc ngủ mê trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ” (Lỗ Tấn). Đó là căn bệnh đớn hèn, tự thoả mãn, cản trở nghiêm trọng con đường giải phóng dân tộc. Chính nhà cách mạng lỗi lạc thời này là Tôn Trung Sơn cũng nói: “Trung Quốc ấy với một thông điệp: Người Trung Quốc là một con bệnh trầm trọng”. Thuốc đã ra đời trong bối cảnh ấy với một thông điệp: cần suy nghĩ nghiêm khắc về một phương thuốc để cứu dân tộc.

II. TÌM HIỂU VĂN BẢN

1. Bố cục

Phần I: Thuyên mắc bệnh lao. Mẹ Thuyên đưa tiền cho chồng ra chỗ hành hình người cộng sản mua bánh bao tẩm máu về chữa bệnh cho con (Mua thuốc)

Phần II: Thuyên ăn cái bánh bao đẫm máu nhưng vẫn ho. Thuyên nghe tim mình đập mạnh không sao cầm nổi, đưa tay vuốt ngực, lại một cơn ho (Uống thuốc)

Phần III: Cuộc bàn luận trong quán trà về thuốc chữa bệnh lao, về tên “giặc” Hạ Du (Bàn về thuốc)

Phần IV: Nghĩa địa vào dịp tiết Thanh minh. Hai người mẹ trước hai nấm mồ: một của người chết bệnh, một chết vì nghĩa ở hai khu vực, ngăn cách bởi một con đường mòn (Hậu quả của thuốc)

2. Ý nghĩa nhan đề truyện và hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu

Nhan đề "Thuốc"

+ Thuốc, nguyên văn là "Dược" (trong từ ghép Dược phẩm), phản ánh một quá trình suy tư nặng nề của Lỗ Tấn (động cơ và mục đích đổi nghề của Lỗ Tấn). Nhận thức rõ thực trạng nhận thức của người dân Trung Quốc thời bấy giờ “ngu muội và hèn nhát”, nhà văn không có ý định và cũng không đặt ra vấn đề bốc thuốc cho xã hội mà chỉ muốn “lôi hết bệnh tật của quốc dân, làm cho mọi người chú ý và tìm cách chạy chữa”. Tên truyện chỉ có thể dịch là Thuốc (Trương Chính). Vị thuốc (Nguyễn Tuân) chứ không thể dịch là Đơn thuốc (Phan Khải). Nhan đề truyện có nhiều nghĩa.

+ Tầng nghĩa ngoài cùng là phương thuốc truyền thống chữa bệnh lao. Một phương thuốc u mê ngu muội giống hệt phương thuốc mà ông thầy lang bốc cho bố Lỗ Tấn bị bệnh phù thũng với hai vị “không thể thiếu” là rễ cây nứa kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con đực, con cái dẫn đến cái chết oan uổng của ông cụ.

Hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu

Bánh bao tẩm máu người”, nghe như chuyện thời trung cổ nhưng vẫn xảy ra ở nước Trung Hoa trì trệ. Tầng nghĩa thứ nhất - nghĩa đen của tên truyện là: thuốc chữa bệnh lao. Thứ mà ông bà Hoa Thuyên xem là “tiên dược” để cứu mạng thằng con “mười đời độc đinh” đã không cứu được nó mà ngược lại đã giết chết nó - đó là thứ thuốc mê tín.

+ Trong truyện, bố mẹ thằng Thuyên đã áp đặt cho nó một phương thuốc quái gở. Và cả đám người trong quán trà cũng cho rằng đó là thứ thuốc tiên. Như vậy, tên truyện còn hàm nghĩa sâu xa hơn, mang tính khai sáng: đây là thứ thuốc độc, mọi người cần phải giác ngộ ra rằng cái gọi là thuốc chữa bệnh lao được sùng bái là một thứ thuốc độc.

Người Trung Quốc cần phải tỉnh giấc, không được ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt không có sửa sổ.

+ Chiếc bánh bao - liều thuốc độc lại được pha chế bằng máu của người cách mạng - một người xả thân vì nghĩa, đổ máu cho sự nghiệp giải phóng nông dân... Những người dân ấy (bố mẹ thằng Thuyên, ông Ba, cả Khang...) lại dửng dưng, mua máu người cách mạng để chữa bệnh.... Với hiện tượng chiếc bánh bao tẩm máu Hạ Du, Lỗ Tấn đã đặt ra một vấn đề hết sức hệ trọng là ý nghĩa của hi sinh. Tên truyện vì thế mang tầng nghĩa thứ ba: Phải tìm một phương thuốc làm cho quần chúng giác ngộ cách mạng và làm cho cách mạng gắn bó với quần chúng.

3. Ý nghĩa cuộc bàn luận trong quán trà về Hạ Du

+ Chủ đề bàn luận của những người trong quán trà của lão Hoa trước hết là công hiệu của “thứ thuốc đặc biệt” - chiếc bánh bao tẩm máu người.

+ Từ việc bàn về công hiệu của chiếc bánh bao tẩm máu Hạ Du chuyển sang bàn về bản thân nhân vật Hạ Du là diễn biến tự nhiên, hợp lí.

+ Người tham gia bàn luận tán thưởng rất đông song phát ngôn chủ yếu vẫn là tên đao phủ Cả Khang, ngoài ra còn một người có tên kèm theo đặc điểm (cậu Năm gù) và hai người chỉ có đặc điểm (“Người trâu hoa râm”, “anh chàng hai mươi tuổi”).

+ Những lời bàn luận ấy, Lỗ Tấn đã cho ta thấy:

- Bộ mặt tàn bạo, thô lỗ của Cả Khang

- Bộ mặt lạc hậu cảu dân chúng Trung Quốc đương thời

- Lòng yêu nước của người chiến sĩ cách mạng Hạ Du

4. Không gian, thời gian nghệ thuật và ý nghĩa của chi tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du

+ Câu chuyện xảy ra trong 2 buổi sớm vào hai mùa thu, mua xuân có ý nghĩa không tượng trưng. Buổi sáng đầu tiên có 3 cảnh: cảnh sáng tinh mơ đi mua bánh bao chấm máu người, cảnh pháp trường và cảnh cho con ăn bánh, cảnh quán trà.... Ba cảnh gần như liên tục, diễn ra trong mùa thu lạnh lẽo. Bối cảnh quán trà và đường phố là nơi tụ tập của nhiều loại người do đó hình dung được dư luận và ý thức xã hội. Buổi sáng cuối cùng là vào dịp tết Thanh minh- mùa xuân tảo mộ. Mùa thu lá rụng, mùa xuân đâm chồi nảy lộc, gieo mầm.

+ Vòng hoa trên mộ Hạ Du: Có thể xem vòng hoa là cực đối lập của “chiếc bánh bao tẩm máu”. Phủ định vị thuốc là bằng chiếc bánh bao tẩm máu, tác giả mơ ước tìm kiếm một vị thuốc mới- chữa được cả những bệnh tật về tinh thần cho toàn xã hội với điều kiện tiên quyết là mọi người phải giác ngộ cách mạng, phải hiểu rõ “ý nghĩa của sự hi sinh” của những người cách mạng.

+ Chi tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du chủ đề tư tưởng tác phẩm mới được thể hiện trọn vẹn, nhờ đó mà không khí của truyện vốn rất u buồn tăm tối song điều mà tác giả đưa đến cho người đọc không phải là tư tưởng bi quan.

III. TỔNG KẾT

Với cốt truyện đơn giản, cách viết cô đọng, giàu hình ảnh mang tính biểu tượng, Thuốc của Lỗ Tấn thể hiện một nội dung sâu sắc: một dân tộc chưa ý thức được “bệnh tật” của chính mình và chưa có được ánh sáng tư tưởng cách mạng, dân tộc đó vẫn chìm đắm trong mê muội.

IV/ ĐỀ THAM KHẢO

Câu 1 : Trình bày ngắn gọn cuộc đời và sự nghiệp văn chương của LỖ TẤN

a/ Cuộc đời :

Lỗ Tấn tên thật là Chu Thụ Nhân , là nhà văn cách mạng nổi tiếng của nền văn học hiện đại Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XX , sinh năm 1881 , mất 1936 , xuất thân trong một gia đình quan lại sa sút ở tỉnh Chiết giang TQ .

Ông là một trí thức yêu nước có tư tưởng tiến bộ , học nhiều nghề : Khai mỏ , hàng hải , nghề thuốc , cuối cùng quyết tâm làm văn nghệ vơí mong muốn cứu nước , cứu dân .

Lỗ Tấn chủ trương dùng ngòi bút để phanh phui căn bệnh tinh thần cho quốc dân với chủ đề “phê phán quốc dân tính” , nhằm làm thay đổi căn bệnh tinh thần cho nhân dân Trung Hoa .

b/ Sự nghiệp : 

Lỗ Tấn đã để lại tác phẩm , được in thành 3 tập : Gào thét , Bàng Hoàng , Chuyện cũ viết theo lối mới .

Ông xứng đáng là nhà văn hiện thực xuất sắc của TQ , năm 1981 cả Thế giới kỉ niệm 100 năm sinh và tôn vinh ông là danh nhân văn hoá thế giới .

Câu 2 : Tóm tắt truyện “THUỐC” – Lỗ Tấn .Thuốc được đăng trên tạp chí Tân Thanh Niên số tháng 5 – 1919, sau đó in trong tập Gào Thét xuất bản 1923 .

Vợ chồng lão Hoa Thuyên – chủ quán trà có con trai bị bệnh lao(căn bệnh nan y thời bấy giờ) . Nhờ người giúp , lão Hoa Thuyên đi tìm mua chiếc bánh bao tẩm máu người tử tù về cho con ăn , vì cho rằng như thế sẽ khỏi bệnh . Lão Thuyên dành dụm tiền mua bánh bao tẩm máu người tử tù về cho con ăn 

Sáng hôm sau ,trong quán trà mọi người bàn tán về cái chết của người tử tù vừa bị chém sáng nay . Đó là Hạ Du , một nhà cách mạng kiên cường , nhưng chẳng ai hiểu gì về anh , nhiều người cho anh điên. Thế rồi , thằng Thuyên cũng chết vì chiếc bánh bao ấy không trị được bệnh lao.

Năm sau vào tiết Thanh minh , mẹ Hạ Du và bà Hoa Thuyên đến bãi tha ma viếng mộ con . Gặp nhau , hai người mẹ đau khổ có sự đồng cảm với nhau . Họ rất ngạc nhiên khi thấy trên mộ Hạ Du xuất hiện vòng hoa trắng hồng xen lẫn nhau . Đây điểm sáng để kết thúc câu chuyện bi thảm , bày tỏ quyết tâm tiếp bước người đã khuất .

èNội dung tác phẩm : Phản ánh sự u mê của nhân dân TQ trước cách mạng Tân Hợi, sự lạc hậu về chính trị của quần chúng đối với người làm cách mạng và bi kịch của người cách mạng tiên phong Hạ Du

Câu 3 : Giải thích ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn.

-Vạch trần sự u mê, lạc hậu,mê tín của người dân Trung Quốc tin rằng chiếc bánh bao tẩm máu người là một phương thuốc chữa được bệnh lao .

-Thuốc còn là phương thuật giác ngộ quần chúng đấu tranh tự giải thoát khỏi hàng nghìn năm phong kiến đã đè nặng lên đời sống người dân TQ .

Câu 4 : Trước khi trở thành nhà văn, Lỗ Tấn đã học những nghề nào? Tại sao cưối cùng ông chuyển sang làm văn nghệ ? Nêu tên 3 tác phẩm của ông.

- Trước khi trở thành nhà văn Lỗ Tấn đã học những nghề : Hàng hải với ước mong mở rộng tầm mắt – học nghề khai thác mỏ với nguyện vọng làm giàu cho tổ quốc – học nghề y để chữa bệnh cho dân nghèo như bố ông.

- Đang học y khoa ở Tiên Đài (Nhật) ,ông đột ngột đổi nghề Vì : Một lần xem phim ,ông thấy người TQ khỏe mạnh hăm hở đi xem người Nhật chém người TQ làm gián điệp cho Nga ( chiến tranh Nga –Nhật), ông giật mình, nghĩ rằng chữa bệnh thể xác không bằng chữa bệnh tinh thần cho quốc dân. Oâng chủ trương dùng ngòi bút để phanh phui căn bệnh tinh thần của quốc dân và lưu ý mọi người tìm phương chữa trị .

Câu 5 :Ý nghĩa bao trùm tác phẩm THUỐC – Lỗ Tấn.Hạ Du người cách mạng bị xử tử , là nhân vật trung tâm trong tác phẩm chỉ được nhắc qua những mẫu đối thoại trong quán trà. Truyện phê phán tập quán chữa bệnh phản khoa học . Hình ảnh lão Hoa Thuyên “vội vàng móc gói bạc trong túi ra mua chiếc bánh bao nhuốm máu đỏ tươi,máu còn nhỏ tửng giọt,...”cho thấy sự mê tín của quần chúng và dã tâm của bọn đồ tể bán máu người.

- Hạ Du là người chiến sĩ cách mạng đã hi sinh : Tác phẩm phê phán sự lạc hậu về chính trị của quần chúng “ Cái thằng nhãi con ấy không muốn sống nữa ... nằm trong tù mà còn dám rủ lão đề lao làm giặc (... ) hắn điên thật rồi !” 

2. SỐ PHẬN CON NGƯỜI

(Sô-lô-khốp)

I.Tác giả:

- Sô-lô-khôp (1905-1984) là nhà văn Nga được liệt vào hàng các nhà văn lớn nhất TK XX.

- Quê quán: tỉnh Rôx-tôp trên vùng thảo nguyên sông Đông.

- Ông tham gia cách mạng khá sớm.

- Cuối năm 1922, ông dến Mát-xơ-va, làm nhiều nghề để kiếm sống. Thời gian rảnh, ông tự học và tự đọc văn học để tích luỹ kiến thức.

- Năm 1925, ông trở về quê và bắt đầu viết tiểu thuyết Sông Đông êm đềm.

- Năm 1939, ông được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên Xô.

- Trong thời gian chiến tranh vệ quốc, với tư cách là phóng viên, ông xông pha trên nhiều mặt trận.

- Đề tài sáng tác: cuộc sống và con người vùng sông Đông sau cách mạng tháng Mười và trong thời kì nội chiến. Ông còn nổi tiếng khi viết về số phận con người sau chiến tranh.

- Năm 1965, ông vinh dự được nhận giải thưởng Nô-ben về văn học. Tác phẩm của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.

II.Tác phẩm “Số phận con người”:

1. Hoàn cảnh sáng tác:

- Truyện ngắn này được in lần đầu ở Liên Xô trên hai số báo “sự thật” ra ngày 31-12-1956 và ngày 1-1-1957. Chỉ trong vòng một tuần lễ ông đã viết xong tác phẩm vì ý đồ sáng tác đã được ấp ủ từ lâu.

- Tác phẩm thể hiện những tư tưởng và tình cảm lớn mà nhà văn nung nấu trong nhiều năm.

2. Tóm tắt tác phẩm:

- Người kể chuyện (tác giả) tình cờ gặp anh lái xe An-đrây Xô-cô-lốp và cậu bé Va-ni-a trên vùng sông Đông. An-đrây đã kể lại cho tác giả nghe về cuộc đời của mình:

Cả nhà anh chết trong một nạn đói năm 1922, chỉ mình anh làm thuê nên sống sót. Sau đó anh lấy vợ và có một tổ ấm gia đình.

Khi chiến tranh bùng nổ, Xô-cô-lốp lên đường ra mặt trận, chiến đấu được một năm thì bị bắt làm tù binh.

- Sau hai năm bị đày đoạ trong các trại tù binh của phát xít Đức, anh vượt trại tù, trở về với Hồng quân và tiếp tục chiến đấu. Thời gian sau, anh nhận được tin vợ và hai con gái của mình bị bom của quân Đức giết hại. Vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh, bất hạnh lại ập đến với Xô-cô-lốp khi anh nhận được tin con trai của mình đã hi sinh. Niềm hi vọng cuối cùng tan vỡ.

- Chiến tranh kết thúc, vượt lên trên nỗi bất hạnh, Xô-cô-lốp đã nhận nuôi cậu bé mồ côi Va-ni-a với hi vọng hai tâm hồn cô đơn sẽ nương tựa vào nhau, sưởi ấm cho nhau để chiến thắng số phận.

3. Nội dung:

a. Số phận con người qua hình tượng Xô-cô-lốp:

- Xô-cô-lốp phải gánh chịu những mất mát tưởng như quá sức chịu đựng của con người.

- Chiến tranh kết thúc, người lính Xô Viết trở về với cuộc đời thường trong sự cô độc.

Xô-cô-lốp rơi vào tâm trạng đau đớn tột cùng.

- Tai hoạ không chỉ đến với gia đình Xô-cô-lốp, thảm cảnh của gia đình bế Va-ni-a cũng không thua kém.

- Trong cuộc sống thường, Xô-cô-lốp tiếp tục đối mặt với éo le, trắc trở (câu chuyện anh đụng phải con bò và bị tước bằng lái)

* Những đau thương, mất mát của Xô-cô-lốp, Va-ni-a không phải là cá biệt mà khá tiêu biểu cho những gì nhân dân Nga đã phải chịu đựng trong chiến tranh và sau chiến tranh.

b.Phẩm chất của người lính Nga Xô-cô-lốp:

- Tấm lòng nhân ái đã giúp con người vượt lên trên nỗi cô đơn, đồng thời xoa dịu nỗi đau của con người.

+ Xô-cô-lốp nhận Va-ni-a làm con nuôi để hai trái tim đau khổ sưởi ấm cho nhau.

+ Tấm lòng nhân hậu, tình thương mộc mạc, bộc trực dành cho Va-ni-a đã đem lại niềm vui cho anh.

- Xô-cô-lốp còn là một người có ý chí kiên cường cứng cỏi trong cuộc sống đời thường đầy khó khăn:

+ Anh cố nén đau thương, chịu đựng một mình để không làm u ám tâm hồn đứa trẻ.

+ Ban ngày anh bao giờ cũng trấn tĩnh được, không hở ra một tiếng thở dài dù ban đêm gối đẫm nước mắt.

+ Con người có ý chí kiên cường đó sẽ vượt qua mọi thử thách trên con đường vươn tới hạnh phúc.

* Truyện đã khám phá và ca ngợi tính cách Nga: kiên cường và nhân hậu.

4. Nghệ thuật:

- Cách kể chuyện: truyện lồng trong truyện làm cho câu chuyện chân thật, sinh động, lôi cuốn người đọc.

- Lời trữ tình ngoại đề: thể hiện sự ngưỡng mộ và cảm thông của nhà văn.

- Khắc họa chân dung và theo dõi tâm trạng nhân vật.

- Chọn lọc chi tiết.

Câu hỏi:

1. Những đau đớn, mất mát mà Xô-cô-lốp và gia đình Va-ni-a phải gánh chịu? Qua đó Sô-lô-khốp nghĩ gì về số phận con người?

2. Tâm hồn ngây thơ và lòng nhân hậu của Xô-cô-lốp được biểu hiện như thế nào trong đoạn trích?

3. Tính cách Nga được bộc lộ như thế nào qua nhân vật Xô-cô-lốp?

4. Ý nghĩa của lời trữ tình ngoại đề ở cuối tác phẩm?

5. Nét mới của truyện ngắn “số phận con người” trong việc miêu tả cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô?

V. CÂU HỎI THAM KHẢO

Câu 1: Trình bày tóm tắt tiểu sử và sự nghiệp của Mikhaiin Sôlôkhốp , sáng tác nổi tiếng nhất là tác phẩm nào ?

Sôlôkhốp sinh năm 1905 ở tỉnh Rôxtôp , vùng sông Đông nước Nga .

Nhà văn gắn bó máu thịt với con người và cảnh vât vùng đất sông Đông .

Sôlôkhốp trực tiếp tham gia nội chiến và chiến tranh vệ quốc 

Ông là nhà văn nổi tiếng thế giới đã được nhận giải nô ben văn học .

Tác phẩm nổi tiếng là bộ tiểu thuyết‘’SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM’’.

Câu2: Trình bày tiểu sử và sự nghiệp của Mikhain Sôlôkhôp .

Mikhaiin SôlôKhôp là nhà văn Nga sinh năm 1905 , mất 1984 , xuất thân trong một gia đình nông dân vùng thảo nguyên cạnh sông Đông .

Ông rất gắn bó với con người và cảnh vật quê hương trong những bước chuyển mình đau đớn và phức tạp của lịch sử . Chính vì thế tác phẩm của ông thấm đẫm hơi thở và linh hồn của cuộc sống vùng sông Đông .

Sôlô Khốp là người trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại , ông thấu hiểu được những nỗi khổ đau và số phận con người trong cuộc chiến tranh . Chính điều này đã tạo ra một bước ngoặc trong các sáng tác của ông .

Sôlô Khôp được trao tặng giải thưởng nô ben về văn học năm 1965 .

*Sự nghiệp : 

Sôlô Khôp là nhà văn xuất sắc của nước Nga , ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị như : Những truyện ngắn sông Đông , Sông Đông êm đềm , Số phận con người , …….

Câu 3: Tóm tắt tác phẩm ‘’số phận con người ‘’ Sôlôkhốp .

Nhân vật chính trong tác phẩm là Xôcôlôp . Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ , Xôcôlôp nhập ngũ rồi bị thương . Sau đó , anh bị đoạ đày trong trại giam của bọn phát xít . Khi thoát khỏi nhà tù ,anh nhận được tin vợ và con gái bị bom giặc sát hại . người con trai duy nhất của anh cũng đã nhập ngũ và đang cùng anh tiến về đánh Berlin . Nhưng đúng ngày chiến thắng , con trai anh đã bị kẻ thù bắn chết . Niềm hi vọng cuối cùng của anh tan vỡ .

Kết thúc chiến tranh , Xôcôlôp giải ngũ , làm lái xe cho một đội vận tải và ngẫu nhiên anh gặp được bé Vania . Cả bố mẹ em đều bị bắn chết trong chiến tranh , chú bé phải sống bơ vơ không nơi nương tựa . Anh Vania làm con nuôi và yêu thương, chăm sóc chú bé thật chu đáo và coi đó là một nguồn vui lớn .

Tuy vậy , Xôcôlôp vẫn bị ám ảnh bởi những nỗi đau buồn vì mất vợ , mất con “nhiều đêm thức giấc gối ướt đẫm nước mắt” anh thương thay đổi chỗ ở nhưng anh vẫn cố giấu không cho bé Vania biết nỗi khổ của mình .

èNội dung tác phẩm ‘’Số phận con người’’ : Số phận con người nhỏ bé trước hiện thực tàn khốc của chiến tranh , vẻ đẹp tính cách Nga kiên cường nhân hậu .

Câu 4: Ý nghĩa bao trùm tác phẩm “SỐ PHẬN CON NGƯỜI”

- Nhân vật chính trong tác phẩm là Xôcôlôp có cuộc đời gặp nhiều bất hạnh . Nhưng anh vẫn thể hiện được nét tính cách Nga kiên cường và nhân hậu :

Tính cách kiên cường : 

+ Trong chiến tranh ,anh chịu quá nhiều bất hạnh . Sau chiến tranh, anh lại sống trong cô đơn, đau khổ, phiêu bạt nhiều nơi để kiếm sống . Nhưng anh vẫn không thốt một lời than vãn, không suy sụp tinh thần,không sa ngã, không rơi vào bế tắc, tuyệt vọng.

+ Với bản lĩnh cao đẹp, với tấm lòng nhân hậu thắm thiết, anh trở thành chỗ dựa vững chắc cho bé Vania ( bố mẹ đã chết trong chiến tranh).

Tấm lòng nhân hậu : 

Xôcôlôp nhận nuôi bé Vania từ tính thương “Với niềm vui không lời tả xiết” không tính toán ,vụ lợi .

+ Yêu thương ,chăm sóc chu đáo cho Vania hơn cả người cha đối với con.

+ Những mất mát , đau thương ,anh âm thầm chịu đựng “nhiều đêm thức giấc thì gối ướt đẫm nước mắt”, không cho bé Vania biết, vì sợ em buồn .

Hai số phận bất hạnh đặt cạnh nhau ,đã kết hợp với nhau, biết nương tựa vào nhau để vươn lên và không ngừng hi vọng vào cuộc sống là phẩm chất tuyệt vời của những con người chân chính..

3. ÔNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ

(Trích)

Hê-minh-uê

I. TÌM HIỂU CHUNG

1. O-nit Hê-ming-uê (1899- 1961):

+ Nhà văn Mĩ để lại dấu ấn sâu sắc trong văn xuôi hiện đại phương Tây và góp phần đổi mới lối viết truyện, tiểu thuyết của nhiều thế hệ nhà văn trên thế giới.

+ Những tiểu thuyết nổi tiễng của Hê-ming-uê: Mặt trời vẫn mọc (1926), Giã từ vũ khí (1929), Chuông nguyện hồn ai (1940).

+ Truyện ngắn của Hê-ming-uê được đánh giá là những tác phẩm mang phong vị độc đáo hiếm thấy. Mục đích của nhà văn là "Viết một áng văn xuôi đơn giả và trung thực về con người".

2. Ông già và biển cả (The old man and the sea)

+ Được xuất bản lần đầu trên tạp chí Đời sống.

+ Tác phẩm gây tiếng vang lớn và hai năm sau Hê-ming-uê được trao giải Nô-ben.

+ Tóm tắt tác phẩm (SGK).

+ Tác phẩm tiêu biểu cho lối viết "Tảng băng trôi": dung lượng câu chữ ít nhưng "khoảng trống" được tác giả tạo ra nhiều, chúng có vai trò lớn trong việc tăng các lớp nghĩa cho văn bản (Tác giả nói rằng tác phẩm lẽ ra dài cả 1000 trang nhưng ông đã rút xuống chỉ còn bấy nhiêu thôi).

3. Đoạn trích

+ Đoạn trích nằm ở cuối truyện.

+ Đoạn trích kể về việc chinh phục con cá kiếm của ông lão Xan-ti-a-gô. Qua đó người đọc cảm nhận được nhiều tầng ý nghĩa đặc biệt là vẻ đẹp của con người trong việc theo đuổi ước mơ giản dị nhưng rất to lớn của đời mìnhvà ý nghĩa biểu tượng của hình tượng con cá kiếm. 

II. TÌM HIỂU VĂN BẢN ĐOẠN TRÍCH

1. Hình ảnh ông lão và con cá kiếm

+ Xan-ti-a-gô là một ông già đánh cá ở vùng nhiệt lưu. Đã ba ngày hai đêm ông ra khơi đánh cá. Khung cảnh trời biển mênh mông chỉ một mình ông lão. Khi trò chuyện với mây nước, khi đuổi theo con cá lớn, khi đương đầu với đàn cá mập xông vào xâu xé con cá. Cuối cùng kiệt sức vào đến bờ con cá kiếm chỉ còn trơ lại bộ xương. Câu chuyện đã mở ra nhiều tầng ý nghĩa . Một cuộc tìm kiếm con cá lớn nhất, đẹp nhất đời, hành trình nhọc nhằn dũng cảm của người lao động trong một xã hội vô hình, thể nghiệm về thành công và thất bại của người nghệ sĩ đơn độc khi theo đuổi ước mơ sáng tạo rồi trình bày nó trước mắt người đời...

+ Đoạn trích có hai hình tượng: ông lão và con cá kiếm. Hai hình tượng mang một vẻ đẹp song song tương đồng trong một tình huống căng thẳng đối lập:

- Con cá kiếm mắc câu bắt đầu những vòng lượn “vòng tròn rất lớn”, “con cá đã quay tròn”. Nhưng con cá vẫn chậm rãi lượn vòng”. Những vòng lượn được nhắc lại rất nhiều lần gợi ra được vẻ đẹp hùng dũng, ngoan cường của con cá trong cuộc chiến đấu ấy.

- Ông lão ở trong hoàn cảnh hoàn toàn đơn độc, “mệt thấu xương” “hoa mắt” vẫn kiên nhẫn vừa thông cảm với con cá vừa phải khuất phục nó.

- Cuộc chiến đấu đã tới chặng cuối, hết sức căng thẳng nhưng cũng hết sức đẹp đẽ. Hai đối thủ đều dốc sức tấn công và dốc sức chống trả. Cảm thấy chóng mặt và choáng váng nhưng ông lão vẫn ngoan cường “Ta không thể tự chơi xỏ mình và chết trước một con cá như thế này được” lão nói. Ông lão cảm thấy “một cú quật đột ngột và cú nảy mạnh ở sợi dây mà lão đang níu bằng cả hai tay”. Lão hiểu con cá cũng đang ngoan cường chống trả. Lão biết con cá sẽ nhảy lên, lão mong cho điều đó đừng xảy ra “đừng nhảy, cá” lão nói, “đừng nhảy”, nhưng lão cũng hiểu “những cú nhảy để nó hít thở không khí”. Ông lão nương vào giớ chò “lượt tới nó lượn ra, ta sẽ nghỉ”. “Đến vòng thứ ba, lão lần đầu tiên thấy con cá”. Lão không thể tin nỗi độ dài của nó “ “không” lão nói, “Nó không thể lớn như thế được”. Những vòng lượn của con cá hẹp dần. Nó đã yếu đi nhưng nó vẫn không khuất phục, “lão nghĩ: “Tao chưa bao giờ thấy bất kì ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày”. Ông lão cũng đã rất mệt có thể đổ sụp xuống bất kì lúc nào. Nhưng ông lão luôn nhủ “mình sẽ cố thêm lần nữa”. Dồn hết mọi đau đớn và những gì còn lại của sức lực và lòng kiêu hãnh, lão mang ra để đương đầu với cơn hấp hối của con cá. Ông lão nhấc con ngọn lao phóng xuống sườn con cá “cảm thấy mũi sắt cắm phập vào, lão tì người lên ấn sâu rồi dồn hết trọng lực lên cán dao”. Đây là đòn đánh quyết định cuối cùng để tiêu diệt con cá. Lão rất tiếc khi phải giết nó, nhưng vẫn phải giết nó.

- “Khi ấy con cá, mang cái chết trong mình, sực tỉnh phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực của nó”. Cái chết của con cá cũng bộc lộ vẻ đẹp kiêu dũng hiếm thấy cả ông lão và con cá đều là kì phùng địch thủ. Họ xứng đáng là đối thủ của nhau. 

- Nhà văn miêu tả vẻ đẹp của con cá cũng là để đề cao vẻ đẹp của con người. Đối tượng chinh phục càng cao cả, đẹp đẽ thì vẻ đẹp của con người đi chinh phục càng được tôn lên. Cuộc chiến đấu gian nan với biết bao thử thách đau đớn đã tôn vinh vẻ đẹp của người lao động: giản dị và ngoan cường thực hiện bằng được ước mơ của mình.

2. Nội dung tư tưởng của đoạn trích

Hình tượng con cá kiếm được phát biểu trực tiếp qua ngôn từ của người kể chuyện, đặc biệt là qua những lời trò chuyện của ông lão với con cá ta thấy ông lão coi nó như một con người. Chính thái độ đặc biệt, khác thường này đã biến con cá thành “nhân vật” chính thứ hai bên cạnh ông lão, ngang hàng với ông. Con cá kiếm mang ý nghĩa biểu tượng. Nó là đại diện cho hình ảnh thiên nhiên tiêu biểu cho vẻ đẹp , tính chất kiên hùng vĩ đại của tự nhiên. Trong mối quan hệ phức tạp của thiên nhiên với con người không phải lúc nào thiên nhiên cũng là kẻ thù. Con người và thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa là đối thủ. Con cá kiếm là biểu tượng của ước mơ vừa bình thường giản dị nhưng đồng thời cũng rất khác thường, cao cả mà con người ít nhất từng theo đuổi một lần trong đời.

3. Nghệ thuật đoạn trích

Đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện trong tác phẩm Ông già và biển cả của Hê-minh-uê có ngôn ngữ của người kể chuyện và ngôn ngữ trực tiếp của ông già được thể hiện bằng: “lão nghĩ.....”, “lão nói ....”

+ Ngôn ngữ của người kể chuyện tường thuật khách quan sự việc.

+ Lời phát biểu trực tiếp của ông lão. Đây là ngôn từ trực tiếp của nhân vật. Có lúc nó là độc thoại nội tâm. Nhưng trong đoạn văn trích nó là đối thoại. Lời đối thoại hướng tới con cá kiếm:

“Đừng nhảy, cá”, lão nói. “Đừng nhảy”.

“Cá ơi”, ông lão nói “cá này, dẫu sao thì mày cũng sẽ chết. Mày muốn tao cùng chết nữa à?”

“Mày đừng giết tao, cá à, ông lão nghĩ “ mày có quyền làm thế”. “Tao chưa từng thấy bất kỳ ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ”.

+ Ý nghĩa của lời phát biểu trực tiếp:

- Đưa người đọc như đang trực tiếp chứng kiến sự việc.

- Hình thức đối thoại này chứng tỏ Xan-ti-a-gô coi con cá kiếm như một con người.

- Nội dung đối thoại cho thấy ông lão chiêm ngưỡng nó thông cảm với nó và cảm thấy nuối tiếc khi tiêu diệt nó.

- Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên

- Ý nghĩa biểu tượng của con cá kiếm

- Vẻ đẹp của con người trong hành trình theo đuổi và đạt được ước mơ của mình.

III. TỔNG KẾT

Đoạn văn tiêu biểu cho phong cách viết độc đáo của Hê-minh-uê: luôn đặt con người đơn độc trước thử thách. Con người phải vượt qua thử thách vượt qua giới hạn của chính mình để luôn vươn tới đạt được mước mơ khát vọng của mình. Hai hình tượng ông lão và con cá kiếm đều mang ý nghĩa biểu tượng gợi ra nhiều tầng nghĩa của tác phẩm. Đoạn văn tiêu biểu cho nguyên lý “Tảng băng trôi “ của Hê-minh-uê.

IV. CÂU HỎI THAM KHẢO

Câu 1: Trình bày vắn tắt cuộc đời và sự nghiệp HÊMINGUÊ

a/ Cuộc đời :

Hêminguê là nhà văn Mĩ , sinh năm 1899 mất năm 1961,sinh trưởng trong một gia đình trí thức khá giả , là người từng đoạt giải Nobel về văn học.

Ông yêu thích thiên nhiên hoang dại, thích phiêu lưu mạo hiểm ,sống giản dị, gần gũi quần chúng và từng tham gia nhiều cuộc chiến tranh.

Hêminguê có một cuộc đời đầy sóng gió , một cây bút xông xáo không mệt mỏi .Ông là ngưòi đề xướng ra nguyên lí “ Tảng băng trôi” (Đại thể là nhà văn không trực tiếp phát ngôn cho ý tưởng của mình mà xây dựng hình tượng có nhiều sức gợi để người đọc có thể rút ra phần ẩn ý ).

b/ Sự nghiệp :

Sự nghiệp văn chương của ông khá đồ sộ , trong đó có những tác phẩm tiêu biểu : Giã từ vũ khí , Ông già và biển cả , Chuông nguyện hồn ai , ...

Câu 2 : Tóm tắt tác phẩm “Ông gìa và biển cả” –Hêminguê .

Ông già Xanchiagô đánh cá ở vùng nhiệt lưu , nhưng đã lâu không kiếm được con cá nào . Đêm ngủ ông mơ về thời trai trẻ với tiếng sóng gào , hương vị biển , những con tàu , những đàn sư tử . Thả mồi ông đối thoại với chim trời , cá biển .

Thế rồi , một con cá lớn tính khí kì quặc mắc mồi . Đây là một con cá Kiếm to lớn , mà ông hằng mong ước . Sau cuộc vật lộn cực kỳ căng thẳng và nguy hiểm , Xanchiagôgiết được con cá .

Nhưng lúc ông già quay vào bờ , từng đàn cá mập hung dữ đuổi theo rỉa thịt con cá Kiếm . Ông phải đơn độc chiến đấu đến kiệt sức với lũ cá mập . Tuy vậy , ông vẫn nghĩ “không ai cô đơn nơi biển cả” . Khi ông già mệt rả rời quay vào bờ thì con cá Kiếm chỉ còn trơ lại bộ xương .

è Nội dung chính của đoạn trích “ĐƯƠNG ĐẦU VỚI ĐÀN CÁ DỮ’’.

Ca ngợi con người luôn theo đuổi những khát vọng lớn lao . Tuy rằng con người có thể gặp thất bại nhưng sẽ không đầu hàng , bỏ cuộc mà vẫn tiếp tục chiến đấu đem lại thành công .

Câu 3 : Em hiểu như thế nào về nguyên lí “Tảng băng trôi”

Hêminguê lấy hình ảnh tảng băng trôi phần nổi ít ,phần chìm nhiều đặt ra yêu cầu đối với tác phẩm văn chương phải tạo ra “ ý tại ngôn ngoại” . Nhà văn không trực tiếp công khai phát ngôn cho ý tưởng của mình mà xây dựng hình tượng có nhiều sức gợi để người đọc tự rút ra phần ẩn ý . một trong những biện pháp chủ yếu thể hiện nguyên lí“Tảng băng trôi” là độc thoại nội tâm kết hợp dùng ẩn dụ, biểu tượng.

Câu 4: Tóm tắt đoạn trích “ ĐƯƠNG ĐẦU VỚI ĐÀN CÁ DỮ” Hêminguê. + Đoạn trích miêu tả cuộc chiến của ông lão với đàn cá mập hung dữ . 

+ Cuộc chiến diễn ra trong đêm tối khi Xanchiagô đã kiệt sức bởi nhiều ngày đêm vật lôn với sóng gió và từng đàn cá mập hung dữ để giữ gìn con cá Kiếm . Cuộc chiến coi như vô vọng ,ông lão hoàn toàn đơn độc trước biển cả, trước từng đàn cá mập tấn công liên tục . Tuy vậy ,ông lão không hề nhụt chí, ngược lại vẫn kiên cường đương đầu với chúng . 

+ Khi vào tới bờ, ông mệt rã rời thì con cá Kiếm chỉ còn trơ lại bộ xương.

è Ý nghĩa đoạn trích : Ca ngợi ý chí kiên cường, không chịu khuất phục của con người trước khó khăn.

Câu 5 : Ý nghĩa bao trùm đoạn trích ĐƯƠNG ĐẦU VỚI ĐÀN CÁ DỮ

-Bằng nghệ thuật tương phản, Hêminguê dựng lên một bức tranh sinh động về cuộc chiến đấu không cân sức của ông lão và đàn cá mập hung dữ : Đàn cá mập tấn công dữ dội giành lấy con cá Kiếm và sự chống trả quyết liệt của ông lão .

- Đây là một cuộc chiến “vô vọng”, ông lão hoàn toàn đơn độc giữa biển cả, sức khỏe suy sụp. Toàn thân như căng ra, theo dõi, chống đỡ đàn cá mập đang tấn công dữ dội xác con cá Kiếm 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro