on thi triet hoc1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương I.     TRIẾT VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

I.     HỌC LÀ GÌ        

1.   Triết học và đối tượng triết của học

a.   Khái niệm “Triết học”, nguồn gôc của triết học

Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.

Với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học không thể xuất hiện cùng sự xuất hiện của xã hội loài người.

Hệ thống tri thức lý luận chung nhất chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau đây:

-       Con người đạt đến khả năng rút ra được những cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.

-       Xã hội đã phát triển hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ nghiên cứu hệ thống hóa các quan điểm thành học thuyết, thành lý luận và triết học ra đời.

-       Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn, nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.

-       Về nguồn gốc nhận thức, con người đã đạt đến trình độ trừu tượng hóa để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận.

-       Về nguồn gốc xã hội, từ khi ra đời, triết học tự nó đã mang trong mình tính giai cấp, nghĩa là nó phục vụ cho những mục đích giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định.

b.   Đối tượng của triết học

Trong quá trình phát triển. đối tượng của triết học thay đổi từng giai đoạn lịch sử:

-       Triết học thời cổ đại được gọi là triết học tự nhiên, cho rằng triết học là khoa học của nọi khoa học.

-       Thời kỳ trung cổ, triết học chứng minh cho sự đúng đắn của những nội dung trong Kinh thánh bằng nền triết học kinh viện.

-       Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào thế kỷ XV, XVI đã tạo ra một cơ sở tri thức vững chắc cho sự phục hưng triết học.

-       Triết học trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo và đã đạt tới đỉnh cao mới trong chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII.

-       Tư duy triết học được phát triển trong các học thuyết triết học duy tâm mà đỉnh cao là triết học Hêghen, đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức.

Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạng mẽ của khoa học vào đầu thế kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác.

-       Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó.

-       Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, triết học giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.

II. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC, CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM TRIẾT HỌC

1.   Vấn đề cơ bản của triết học

Vấn đề cơ bản của triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại.

Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn.

+ Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?

+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?

2.   Các trường phái triết học

c.    Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

Chủ nghĩa duy vật:

-       Chủ nghĩa duy vật chất phát đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể.

-       Chủ nghĩa duy vật siêu hình chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc.

-       Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.

Chủ nghĩa duy tâm

-       Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người.

-       Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng theo họ đấy là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người.

d.   Thuyết không thể biết

Học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người được gọi là thuyết không thể biết.

III.    SIÊU HÌNH VÀ BIỆN CHỨNG

1.   Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng

e.    Phương pháp siêu hình

Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời, giữa những mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.

Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh.

f.     Phương pháp biện chứng

Nhận thức đối tượng ở trong mối liên hệ nhau, ảnh hưởng với nhau, ràng buộc nhau.

Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển.

2.   Giai đoạn phát triển cơ bản của phương pháp biện chứng

Phép biện chứng duy vật được thể hiện trong triết học do C.Mác và Ph.Ăgghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin phát triển. C.Mác và Ph.Ăgghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về liên hệ phổ biếtn và sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.

IV.    VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

1.   Chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học:

g.   Chức năng thế giới quan:

Tồn tại trong thế giới, dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri thức này dần dần hình thành nên thế giới quan.

Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực và trình độ phát triển của thế giới quan, là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.

Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tự giác do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.

h.    Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.

i.      Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận được dùng làm điểm xuất pháp cho việc xác định các phương pháp luận chung, các phương pháp luận ngành và các phương pháp hoạt động khác của con người.

j.     Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó, việc nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất.

2.   Vai trò của triết học Mác-Lênin

k.   Triết học Mác-Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học trong lịch sử nhân loại. Được C.Mác và Ph.Ăgghen sáng tạo và V.I.Lênin phát triển một cách xuất sắc.

l.      Sự thống nhất giữa lý luận và phương pháp trong triết học Mác-Lênin. Vai trò của triết học Mác-Lênin trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Trong triết học mácxít, thế giới quan và phương pháp luận thống nhất với nhau một cách hữu cơ.

Nắm vững triết học Mác – Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế giới quan khoa học mà còn là xác định một phương pháp luận đúng đắn.

Nguyên tắc khách quan trong sự xem xét đòi hỏi phải biết phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng, đồng thời nó ngăn chặn thái độ chủ quan tùy tiện trong việc vận dụng phương pháp biện chứng.

m.            Triết học Mác – Lênin với các khoa học khác

Sự gắn bó của triết học với các khoa học cụ thể là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Thành quả của các khoa học cụ thể là những tư liệu triết học rút ra những kết luận của mình.

Sự hợp tác chặt chẽ giữa triết học và các khoa học khác là điều hết sức cần thiết. Sự hợp tác này làm cho triết học không khô cứng và lạc hậu, làm cho sự phát triển của khoa học không mất phương hướng và đạt được những thành quả cao nhất mà có thể đạt được. Triết học Mác – Lênin còn giúp con người tự giác trong quá trình trao dồi phẩm chất chính trị, tinh thần và năng lực tư duy sáng tạo, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của công cuộc đổi mới, phục vụ sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Triết học Mác – Lênin không phải là đơn thuốc vạn năng chứa sẵn cách giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tránh cả hai thái cực sai lầm: hoặc xem thường triết học hoặc là tuyệt đối hóa vai trò của triết học.

Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, mất phương hướng, thiếu chủ động và sáng tạo.

Tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng máy móc những nguyên lý, những quy luật chung mà không tính đến tình hình cụ thể trong những trường hợp riêng, dẫn đến những vấp váp, dễ thất bại.

Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng đề phòng và chống chủ nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình.

ªªª

CÂU HỎI ÔN TẬP

1.     Vấn đề cơ bản của triết học. Cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học?

2.     Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình?

3.     Vai trò của triết học trong đời sống xã hội?

4.     Vai trò của triết học Mác – Lênin đối với hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức. Mục đích của việc học tập, nghiên cứu triết học Mác – Lênin?

Chương II.  VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

I.     VẬT CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA NÓ

1.   Định nghĩa phạm trù vật chất

Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta ghép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.

Trước hết cần phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học nó chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi, còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, nó sinh ra và mất đi để chuyển hóa thành cái khác.

Thứ hai vật chất chính là thuộc tính khách quan. Cái đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác của con người.

Như vậy, định nghĩa phạm trù vật chất của V.I.Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:

-       Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.

-       Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động lên giác quan của con người.

-       Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.

          Ý nghĩa: Vật chất là “thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác”, “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”, Lênin đã thừa nhận rằng: trong nhận thức luận, vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức.

          * V.I.Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, đã khắc phục được những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình, máy móc về vật chất.

          Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin còn có ý nghĩa định hướng đối với khoa học cụ thể.

          Khi nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội, giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất, trên cơ sơ ấy tìm ra các phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển.

2.   Vật chất và vận động

-       Vật chất vận động không gian và thời gian.

-       Vận động là gì? Vận động là mọi sự biến đổi nói chung.

-       Vận động “là thuộc tính cố hữu của vật chất”, “là phương thức tồn tại của vật chất”.

-       Vận động sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất.

-       Vận động thành năm hình thức cơ bản sau:

+ Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian)

+ Vận động vật lý (vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt điện v.v.)

+ Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất)

+ Vận động sinh học (trao đổi giữa cơ thể sống và môi trường)

+ Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế - xã hội)

-       Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất.

-       Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp.

-       Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau.

3.   Không gian và thời gian

Cùng với phạm trù vận động thì không gian và thời gian là những phạm trù đặc trưng cho phương thức tồn tại của vật chất. Không gian và thời gian có những tính chất sau đây:

-       Tính khách quan: Vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian và thời gian tồn tại khách quan.

-       Tính vĩnh cửu và vô tận: Nghĩa là không có tận cùng về một phía nào cả, về quá khứ lẫn tương lai, trước sau, phải trái, trên dưới.

-       Không gian luôn có ba chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều cao). Còn thời gian chỉ có một chiều (từ quá khứ đến tương lai).

II. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ KẾT CẤU CỦA Ý THỨC

1.   Nguồn gốc của ý thức

a.   Nguồn gốc tự nhiên

Là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người.

Bộ óc người đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

b.   Nguồn gốc xã hội

Lao động theo C.Mác là một quá trình diễn biến giữa người và tự nhiên.

Sự hình thành ý thức không phải là quá trình thu nhập thụ động, mà đó là kết quả hoạt động chủ động của con người. Nhờ có lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, bắt thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính.

Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được.

2.   Bản chất của ý thức

Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người một cách năng động, sáng tạo.

Bộ óc người là quá trình năng động sáng tạo thống nhất ba mặt sau:

Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính chất hai chiều, có định hướng, có chọn lọc các thông tin cần thiết.

Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.

Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực.

3.   Kết cấu của ý thức

c.    Theo chiều ngang

Tri thức là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác.

d.   Theo chiều dọc

Tự ý thức: Tự ý thức cũng là ý thức, là một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài.

Tiềm thức: Là những tri thức mà chủ yếu đã có được từ trước nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng.

Vô thức: Là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.

4.   Vai trò tác dụng của ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Khi ra đời, ý thức có tính độc lập tương đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

Nói vai trò của ý thức là nói tới vai trò của con người vì ý thức là ý thức của con người.

Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình.

* Ý nghĩa:

-       Từ kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đại hội Đảng lần thứ VII đã rút ra bài học quan trọng là “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.

-       Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Đảng ta chủ trương “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triền nhanh và bền vững”.

-       Phải khởi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn lạc hậu.

ªªª

CÂU HỎI ÔN TẬP

1.     Quan điểm của Mác – Ăngghen về vật chất?

2.     Định nghĩa và nội dung của định nghĩa vật chất của Lênin?

3.     Quan điểm của triết học duy vật biện chứng về bản chất của ý thức?

4.     Vai trò và tác dụng của ý thức? Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức?

Chương III.                      LÝ LUẬN NHẬN THỨC

(4 tiết)

I.     BẢN CHẤT CỦA NHẬN THỨC

1.   Quan niệm về nhận thức của các trào lưu triết học trước Mác

Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng nhận thức chỉ là sự phức hợp những cảm giác của con người.

Duy tâm khách quan lại coi nhận thức là sự “hồi tưởng lại” của linh hồn bất tử về “thế giới các ý niệm”

Những người theo thuyết hoài nghi coi nhận thức là trạng thái hoài nghi về sự vật.

2.   Quan niệm về bản chất nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng

Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý thức của con người.

Hai là, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người.

Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo.

Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

II. THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC

1.   Phạm trù thực tiễn

Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.

Hoạt động thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú.

Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn.

2.   Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

Thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức. Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức còn là vì nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng được hoàn thiện, năng lực tư duy logic không ngừng được củng cố và phát triển.

Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Bởi vì, thực tiễn là những hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập đối với nhận thức. Nó luôn vận động và phát triển trong lịch sử. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý.

* Ý nghĩa:

- Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”

- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn.

- Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành.

- Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.

III.    CÁC CẤP ĐỘ CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC

1.   Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính

Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức.

Cảm giác là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng.

Tri giác là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực tiếp tác động vào các giác quan.

Biểu tượng là hình thức phản ánh cáo nhất và phức tạp nhất của giai đoạn trực quan sinh động.

Nhận thức lý tính giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của đối tượng.

Khái niệm cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật.

Phán đoán là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng.

Suy luận là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới.

2.   Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận

Nhận thức kinh nghiệm là loại  nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học.

Nhận thức lý luận (gọi tắt là lý luận) là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng.

3.   Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học

Nhận thức thông thường là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người.

Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu.

Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất của quá trình nhận thức đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường có trước, nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học.

IV.    VẤN ĐỀ CHÂN LÝ VÀ TIÊU CHUẨN CỦA CHÂN LÝ

1.   Khái niệm chân lý

Chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kinh nghiệm.

2.   Các tính chất của chân lý

Tính khách quan của nội dung đó thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định.

Chân lý không chỉ có tính khách quan mà nó còn có tính tuyệt đối và tính tương đối.

Tính tuyệt đối của chân lý là tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan.

Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đẩy đủ giữa nội dung phản ánh của những tri thức với hiện thực khách quan.

Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống nhất biện chứng với nhau. Chân lý tuyệt đối được cấu thành từ tổng số những chân lý tương đối đang phát triển; chân lý tương đối là những phản ánh tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc lập với nhận thức; những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù là có tính tương đối, vẫn chứa đựng những yếu tố của chân lý tuyệt đối.

V.  CÁC PHƯƠNG PHÁP NHẬN THỨC KHOA HỌC

1.   Khái niệm “phương pháp”

Methodos theo nghĩa thông thường thì phương pháp là những cách thức, con đường, thủ đoạn được chủ thể sử dụng để đạt được mục đích nào đó.

Còn theo nghĩa khoa học thì phương pháp là hệ thống những nguyên tắc mà chủ thể phải thực hiện nhất quán trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt được mục đích đề ra.

Nếu dựa vào mức độ phổ biến và phạm vi ứng dụng thì phương pháp được chia ra thành phương pháp riêng, phương pháp chung và phương pháp phổ biến.

- Phương pháp riêng là phương pháp chỉ áp dụng cho từng bộ môn khoa học cụ thể.

- Phương pháp chung là phương pháp được áp dụng cho một số nghành khoa học khác nhau.

- Phương pháp phổ biến là phương pháp được sử dụng ở tất cả các khoa học.

2.   Một số phương pháp nhận thức khoa học

a. Các phương pháp thu nhận tri thức kinh nghiệm

Quan sát là tri giác các sự vật, hiện tượng được nghiên cứu nhằm một mục đích nhất định.

Quan sát là phương pháp nghiên cứu để xác định các thuộc tính và quan hệ của sự vật, hiện tượng riêng lẻ của thế giới xung quanh.

Khác với quan sát, thí nghiệm là phương pháp nghiên cứu các sự vật, hiện tượng bằng cách sử dụng các phương tiện vật chất để can thiệp vào trạng thái tự nhiên của chúng.

Thí nghiệm không chỉ nhằm thu thập các dữ kiện khoa học để tạo cơ sở cho sự khái quát lý luận mà còn nhằm bác bỏ hoặc chứng minh.

Nhờ thí nghiệm người ta chính xác hóa, chỉnh lý các giả thuyết và lý thuyết khoa học.

b. Các phương pháp xây dựng và phát triển lý thuyết khoa học

Y Phân tích và tổng hợp

+ Phân tích là phương pháp phân chia cái toàn bộ ra thành từng bộ phận để đi sâu nhận thức các bộ phận đó.

+ Tổng hợp là phương pháp liên kết, thống nhất các bộ phận đã được phân tích lại nhằm nhận thức cái toàn bộ.

+ Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp nhận thức khác nhau song lại thống nhất biện chứng với nhau. Không nên tách rời phân tích và tổng hợp hoặc cường điệu phương pháp này, coi nhẹ phương pháp kia và ngược lại.

Y Quy nạp và diễn dịch

+ Quy nạp là phương pháp đi từ tri thức về cái riêng đến tri thức về cái chung, từ tri thức ít chung đến tri thức chung hơn.

+ Diễn dịch là phương pháp đi từ tri thức về cái chung đến tri thức về cái riêng, từ tri thức chung đến tri thức ít chung hơn.

+ Quy nạp và diễn dịch đều dẫn tới tri thức mới, từ cái biết rồi để tìm ra cái chưa biết, tức là khám phá tri thức mới.

+ Mặc dù quy nạp và diễn dịch là hai phương pháp nhận thức có chiều hướng đối lập nhau, nhưng có liên hệ hữu cơ với nhau, làm tiền đề cho nhau, cái này đòi hỏi cái kia và bổ sung cho cái kia.

Y Lịch sử và lôgic

+ Phạm trù lịch sử chỉ quá trình phát trienr và diệt vong của nó. Đặc điểm của lịch sử là nó diễn ra theo một trật tự thời gian với những biểu hiện cụ thể.

+ Còn phạm trù lôgic có hai nghĩa:

-         Thứ nhất, nó chỉ tính tất yếu, tính quy luật của sự vật, đó là “lôgic khách quan” của sự vật.

-         Thứ hai, nó chỉ mối liên hệ tất yếu nhất định giữa các tư tưởng phản ánh thế giới khách quan vào ý thức con người. Đó là lôgic của tư duy, của lý luận.

+ Lôgic còn nói lên trật tự giữa các bộ phận của tư tưởng (các khái niệm, phạm trù, lý thuyết,..)

+ Thống nhất giữa lôgic và lịch sử là một nguyên tắc phương pháp luận quan trọng của nhận thức khoa học và của việc xây dựng các lý thuyết khoa học.

+ Sức mạnh của lôgic tư duy là phát hiện ra bản chất của lịch sử, vạch ra quy luật phát triển của lịch sử, tước bỏ những cái gì là bề ngoài, ngẫu nhiên, không bản chất của lịch sử.

+ Trong nghiên cứu khoa học cần phải áp dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic.

+ Phương pháp lịch sử đòi hỏi phải phản ánh trong tư duy quá trình lịch sử- cụ thể của sự vật với những chi tiết của nó, phải nắm lấy sự vận động lịch sử trong toàn bộ tính phong phú của nó.

+ Phương pháp lịch sử có giá trị to lớn và quan trọng trong các khoa học lịch sử như lịch sử xã hội, lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng, lịch sử kinh tế, lịch sử văn hóa,…

+ Phương pháp lôgic vạch ra bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật dưới hình thức lý luận trừu tượng và khái quát.

+ Phương pháp lôgic có nhiệm vụ dựng lại cái lôgic khách quan trong sự phát triển của sự vật.

+ Quá trình tư duy theo phương pháp của lôgic phải bắt đầu từ khởi điểm của lịch sử.

+ Nói cách khác “Lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư duy cũng phải bắt đầu từ đó”.

+ So với phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic có ưu thế ở chỗ nó không những phản ánh bản chất, tính tất nhiên, quy luật của sự vật mà còn phản ánh được lịch sử phát triển của sự vật.

+ Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic là hai phương pháp nghiên cứu khác nhau, nhưng lại thống nhất biện chứng với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi vì muốn hiểu biết bản chất và quy luật của sự vật thì phải hiểu lịch sử phát sinh, phát triển của nó; đồng thời có nắm được bản chất và quy luật của sự vật thì mới nhận thức được lịch sử của nó một cách đúng đắn và sâu sắc.

+ Phương pháp lịch sử cũng phải nắm lấy cái lôgic , phải rút ra sợi dây lôgic chủ yếu của lịch sử thông qua việc phân tích những sự kiện và hiện tượng cụ thể.

+ Còn phương pháp lôgic phải dựa trên các tài liệu lịch sử để khái quát và chứng minh, dù trong trường hợp nào cũng đều phải quán triệt nguyên tắc thống nhất lôgic và lịch sử.

Y Từ trừu tượng đến cụ thể

+ Hiện tượng của thế giới khách quan bao giờ cũng tồn tại dưới dạng cái cụ thể.

+Cái cụ thể khách quan được phản ánh vào nhận thức dưới hai hình thức: Cái cụ thể cảm tính và cái cụ thể trong tư duy.

-         Cái cụ thể cảm tính là điểm bắt đầu của nhận thức.

-         Cái cụ thể trong tư duy là kết quả của tư duy lý luận, cái cụ thể trong tư duy là một tổng thể phong phú với rất nhiều tính quy định và quan hệ, nó là cái phong phú và sâu sắc.

+ Còn cái trừu tượng là một trong những yếu tố, vòng khâu của quá trình nhận thức.

+ Cái trừu tượng là kết quả sự trừu tượng hóa một mặt, một mối quan hệ nào đó trong tổng thể phong phú của sự vật.

+ Cái trừu tượng là một bộ phận của cái cụ thể, biểu hiện một mặt nào đó của cái cụ thể, là bậc thang của sự xem xét cái cụ thể.

+ Từ nhiều cái trừu tượng, tư duy tổng hợp lại thành cái cụ thể trong tư duy.

+ So với cái cụ thể, cái trừu tượng là cái nghèo nàn hơn về tính quy định và quan hệ.

+ Ranh giới giữa cái trừu tượng và cái cụ thể cũng chỉ là tương đối, tùy thuộc vào mối quan hệ xác định.

+ Nhận thức là sự thống nhất của hai quá trình đối lập: Từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ thể.

+ Theo quá trình thứ nhất, nhận thức xuất phát từ những tài liệu cảm tính, qua phân tích rút ra những khái niệm đơn giản, những định nghĩa trừu tượng phản ánh từng mặt, từng thuộc tính của sự vật.

+ Quá trình từ cụ thể đến trừu tượng tạo tiền đề cho quá trình thứ hai – quá trình từ trừu tượng đến cụ thể.

+ Trong quá trình thứ hai, nhận thức phải từ những định nghĩa trừu tượng thồn qua tổng hợp biện chứng đi đến cái cụ thể với tư cách là kết quả của tư duy chứ không phải với tư cách là điểm xuất phát trong hiện thực.

+ Trong quá trình này, những sự quy định trừu tượng lại dẫn tới sự mô tả lại cái cụ thể bằng con đường của tư duy.

+ Phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể, theo phương pháp này, việc nghiên cứu phải bắt đầu từ cái trừu tượng, từ cái khái niệm phản ánh những mối liên hệ phổ biến, đơn giản của khách thể nhận thức.

* * *

CÂU HỎI ÔN TẬP

1.                 Thực tiễn là gì? Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức?

2.                 Phân tích con đường biện chứng của quá trình nhận thức?

Chương IV.     HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

(7 Tiết)

I.     SẢN XUẤT VẬT CHẤT – CƠ SỞ CỦA SỰ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI

Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.

Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình.

Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp đến cao.

II. BIỆN CHỨNG CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT

1.   Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất

           a. Phương thức sản xuất

Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.

      b. Lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất.

Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.

Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động.

Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.

c.     Quan hệ sản xuất

Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.

Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan  hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.

Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.

Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác.

Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất.

Quan hệ về phân phối sản phẩm nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nó tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.

2.   Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.

Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển.

Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sựu biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh giấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó.

Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người.

Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất.

Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa.

Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó.

Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.

III.    BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG

1.   Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

a.     Cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.

Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác.

b.     Kiến trúc thượng tầng

Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,,v.v. cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội,.v.v.được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.

Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, quy luật vận động phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng.

Có những yếu tố như chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng, còn những yếu tố như triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với nó.

Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp. Đó chính là cuộc đấu tranh về mặt chính trị - tư tưởng của giai cấp đối kháng.

Trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định.

Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị mới thực hiện được sự thống trị của mình về tất cả các mặt của đời sống xã hội.

1.   Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

c.     Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng

Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng trước hết thể hiện ở chỗ: mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó.

Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định.

Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội.

Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng.

Cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế.

Cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo.

d.     Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau.

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều

Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển.

Nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.

II. PHẠM TRÙ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI LÀ QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ - TỰ NHIÊN

1.   Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội

Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.

Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.

Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội.

Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác.

Các quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học,…và các thiết chế tương ứng được hình thành, phát triển trên cơ sở các quan hệ sản xuất tạo thành kiến trúc thượng tầng của xã hội.

2.   sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên

Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau.

Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội, C.Mác đã đi đến kết luận: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.

Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định.

III.    VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA

1.   Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa

Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng.

Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.

Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.

2.   Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại.

Nó là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định.

Kết quả của quá trình phân công lao động xã hội, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, đồng thời nó là động lực mạng mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.

Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta.

3.   Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự nghiệp xây dựng chủ nghía xã hội ở nước ta

Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của chúng ta là một nền đại công nghiệp. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.

Đại hội IX của Đảng đã chỉ ra: “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhày vọt.

Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học.

Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

4.   Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội

Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạng đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

* * *

CÂU HỎI ÔN TẬP

1.     Tại sao nói sản xuất vật chất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận gì?

2.     Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất?

3.     Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay?

Chương VI.                       VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

(5 Tiết)

I.     BẢN CHẤT CON NGƯỜI

1.   Quan niệm về con người trong triết học trước Mác

Các trường phái triết học tôn giáo phương Đông nhận thức bản chất con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí.

Khổng Tử cho bản chất con người do “thiên mệnh” chi phối quyết định.

Mạnh Tử quy tính thiện của con người vào năng lực bẩm sinh. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng phải lấy lòng nhân ái, quan hệ đạo đức để dẫn dắt con người hướng tới các giá trị đạo đức tốt đẹp.

Tuân Tử lại cho rằng, bản chất con người khi sinh ra là ác.

Trong triết học cổ điển Đức, những nhà triết học nổi tiếng như Cantơ, Hêghen đã phát triển quan niệm về con người theo khuynh hướng của chủ nghĩa duy tâm.

Phoiơbắc không thấy được bản chất xã hội trong đời sống con người, tách con người khỏi những điều kiện lịch sử cụ thể. Con người của Phoiơbắc là phi lịch sử, phi giai cấp và trừu tượng.

2.   Quan niệm của triết học Mác – Lênin về bản chất con người

           a. Con người là một thực thể thống nhất giữu mặt sinh vật với mặt xã hội

tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của thế giới tự nhiên

Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên.

Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố nhất định quy định bản chất con người.

Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến toàn bộ giới tự nhiên: “con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”.

Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người.

     b. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội

Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội.

Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định.

Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ.

           c. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử

Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.

Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội.

Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên.

Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.

Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội.

II. QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VỚI XÃ HỘI

1.   Khái niệm cá nhân

Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định và được phân biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó.

Như thế, cá nhân là một chỉnh thể dơn nhất vừa mang tính cá biệt, vừa mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động.

Mỗi cá nhân có đời sống riêng, có quan hệ xã hội riêng, có nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích riêng, nhưng điều đó không loại trừ tính chung trong mỗi cá nhân là thành viên của xã hội và mang bản chất xã hội.

Trong quan hệ với xã hội, cá nhân được phân biệt với các đặc trưng sau đây:

- Thứ nhất, cá nhân là phương thức tồn tại cụ thể của loài người một cách trực tiếp cảm tính.

- Thứ hai, cá nhân là phần tử đơn nhất, riêng lẻ, tạo thành cộng đồng xã hội, là cơ sở hình thành lịch sử xã hội loài người.

- Thứ ba, cá nhân là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách, biểu hiện trong phẩm chất sinh lý và tâm lý riêng biệt của mỗi con người.

- Thứ tư, cá nhân, trong mỗi quan hệ với xã hội, là một hiện tượng trong lịch sử, vận động phát triển phù hợp với mỗi thời đại nhất định.

2.   Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội

    a. Quan hệ biện chứng giữa cá nhân và tập thể

Cá nhân tồn tại trong tập thể với tư cách là đơn vị cấu thành của cái toàn thể, biểu hiện bản sắc của mình thông qua hoạt động tập thể nhưng không hòa tan vào tập thể.

Sự thống nhất biện chứng giữa cá nhân và tập thể là điều kiện cơ bản đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân cũng như của tập thể.

Sự liên kết giữa cá nhân và tập thể được quy định bởi các mối quan hệ khách quan và chủ quan.

Tính khách quan bắt nguồn từ bản chất xã hội của mọi thành viên, những quy định, quy tắc của tập thể bắt mọi thành viên thực hiện.

Tính chủ quan là năng lực tự tiếp nhận điều chỉnh mọi suy nghĩ và hành vi của cá nhân.

     b. Quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội

Trong bất cứ giai đoạn nào, cá nhân cũng không tách rời khỏi xã hội.

Quan hệ cá nhân – xã hội luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, trong đó, sự thay đổi về chất chỉ diễn ra khi có sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác.

Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, xã hội giữ vai trò quyết định đối với cá nhân.

Thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích chính đáng của cá nhân là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.

Vấn đề chăm sóc và phát triển những nhu cầu và năng lực phong phú, đa dạng của mỗi cá nhân hoàn toàn không mâu thuẫn với sự phát triển của xã hội.

Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội do sự quy định của mặt khách quan và mặt chủ quan.

Mặt khách quan biểu hiện ở trình độ phát triển và năng suất lao động xã hội.

Mặt chủ quan biểu hiện ở khả năng nhận thức và vận dụng quy luật xã hội phù hợp với mục đích của con người.

* Ý nghĩa: Ở nước ta hiện nay nền kinh tế thị trường đang thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo ra cơ sở vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng đa dạng và phong phú.

Lợi ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo ra cơ hội mới để phát triển cá nhân.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã ra đời: Xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao động, có lương tâm nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp, có ý thức cộng đồng, tôn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội.

III.    VAI TRÒ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀ CÁ NHÂN TRONG LỊCH SỬ

1.   Vai trò của quần chúng nhân dân

Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung:

- Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Con người muốn tồn tại phải có các điều kiện vật chất cần thiết, mà những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được thông qua sản xuất.

Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc.

Vai trò của khoa học chỉ có thể phát huy thông qua thực tiễn sản xuất của quần chúng nhân dân lao động. Điều đó khẳng định rằng, hoạt động sản xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.

- Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.

Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân.

Là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng.

Trong các cuộc cách mạng làm chuyển biến xã hội từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, nhân dân lao động là lực lượng tham gia đông đảo.

- Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần.

Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học, nghệ thuật, văn hóa, đồng thời, áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn.

Chỉ có trong chủ nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và trí sáng tạo của mình.

2.   Vai trò của lãnh tụ

Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có nhiệm vụ chủ yếu sau:

- Thứ nhất, nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết những quy luật khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.

- Thứ hai, định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách mạng.

- Thứ ba, tổ chức lực lượng, giáo dục thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhằm hướng vào giải quyết những mục tiêu cách mạng đề ra.

Lãnh tụ có vai trò to lớn:

- Một là, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ của xã hội. Lãnh tụ nắm bắt được những quy luật vận động phát triển của xã hội thì sẽ thúc đẩy xã hội phát triển, nếu không nắm bắt được những quy luật của lịch sử xã hội thì lãnh tụ sẽ kìm hãm sự phát triển đối với xã hội.

- Hai là, lãnh tụ là người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, là linh hồn của các tổ chức đó. Lãnh tụ là người tổ chức điều khiển và quản lý các tổ chức chính trị, xã hội.

3.   Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ

- Thứ nhất, tính thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ. Không có phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, không có các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội của đông đảo quần chúng nhân dân, thì cũng không thể xuất hiện lãnh tụ.

- Thứ hai, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình.

- Thứ ba, sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu  hiện trong vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử. Tuy cùng đóng vai trò quan trọng đối với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội, nhưng quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển, còn lãnh tụ là người định hướng, dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.

Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân, đồng thời đánh giá cao vai trò của lãnh tụ, kiên quyết chống lại tệ sùng bái cá nhân.

Tệ sùng bái cá nhân, thần thánh hóa cá nhân người lãnh đạo, sẽ dẫn đến tuyệt đối hóa cá nhân kiệt xuất, vai trò người lãnh đạo mà xem nhẹ vai trò của tập thể lãnh đạo cảu quầng chúng nhân dân.

Căn bệnh trên dẫn đến hạn chế hoặc từ bỏ quyền làm chủ của nhân dân, làm cho nhân dân thiếu tin tưởng vào chính bản thân họ, dẫn đến thái độ phục tùng tiêu cực, mù quáng, không phát huy được tính năng động sáng tạo chủ quan của mình.

Người mắc căn bệnh sùng bái cá nhân thường đặt mình cao hơn tập thể, đứng ngoài đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước.

Họ không thực hiện đúng chính sách cán bộ của Đảng, vi phạm nguyên tắc sinh hoạt Đảng, chia sẻ, bè phái, mất đoàn kết, tạo ra nhiều hiện tượng tiêu cực, đánh mất lòng tin trong cán bộ và nhân dân, phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.

* * *

CÂU HỎI ÔN TẬP

1.     Phân tích vấn đề bản chất con người theo quan điểm của triết học Mác – Lênin?

2.     Tại sao nói quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch sử?

           Phê phán những quan điểm đối lập về vấn đề này?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro