orion3003

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đặt văn bản tại đây...trìnCâu 3: Phân tích nội dung và ý nghĩa quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại?

Câu 3: Phân tích nội dung và ý nghĩa quy luật từ những thay đổi về TRẢ LỜI

1. Vị trí của quy luật.

Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại (còn gọi là quy luật lượng chất) là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này chỉ ra cách thức vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng.

2. Nội dung quy luật:

Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi về lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng biến đổi và phát triển.

a. Khái niệm chất và lượng:

- Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của các sự vật, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính, làm cho nó là nó và phân biệt nó với cái khác.

+ Mỗi sự vật có muôn vàn thuộc tính, mỗi thuộc tính của sự vật cũng có một phức hợp những đặc trưng về chất của mình, khiến cho mỗi thuộc tính lại trở thành một chất. Điều đó cũng có nghĩa là mỗi sự vật có vô vàn chất.

+ Với tư cách là những khía cạnh của chất được bộc lộ ra trong các mối quan hệ, các thuộc tính của sự vật có vị trí khác nhau; trong đó, có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành chất căn bản, đó là loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó quy định sự tồn tại hay mất đi của bản thân sự vật.

- Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị về quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như của các thuộc tính của nó.

+ Trong thực tế, lượng có thể được xác định bằng những đơn vị đo lường cụ thể và chính xác như chiều dài; độ lớn (to - nhỏ); quy mô (lớn - bé)... Song, có những tính quy định về lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như: trình độ (cao - thấph vận động và phát triển, chất và lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi của lượng và của chất không diễn ra độc lập đối với nhau, trái lại, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản chất của sự vật đó.

Sự thay đổi lượng chưa dẫn tới sự thay đổi chất trong những giới hạn nhất định. Vượt quá giới hạn đó sẽ làm cho sự vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời. Khuôn khổ mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất của sự vật được gọi là "độ".

+ Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là khoảng giới hạn mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật.

Sự thay đổi về lượng khi đạt tới "điểm nút" sẽ dẫn đến sự ra đời chất mới.

+ Điểm nút là những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi chất của sự vật.

Sự thống nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một độ mới với điểm nút mới. Sự vận động và phát triển là không cùng. Do đó, sự vận động, biến đổi của các sự vật sẽ hình thành một đường nút của những quan hệ về độ.

+ Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là "bước nhảy". Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra.

- Chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng:

+ Chất mới có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật.

+ Chất mới có thể làm thay đổi nhịp điệu sự vận động và phát triển của sự vật đó.

Từ những điều trình bày trên, có thể rút ra nội dung cơ bản của quy luật này như sau:

Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa lượng và chất; sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.

3. Ý nghĩa phương pháp luận:

- Đối với nhận thức: Để có tri thức đầy đủ về sự vật, ta phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất của nó. Những nhận thức ban đầu về chất của các sự vật chỉ trở nên đúng đắn và làm sâu sắc thêm khi đạt tới tri thức về sự thống nhất giữa chất và lượng của các sự vật đó.

- Đối với hoạt động thực tiễn:

+ Vì sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất có mối quan hệ biện chứng với nhau, nên trong hoạt động thực tiễn phải dựa trên sự hiểu biết đúng đắn vị trí, vai trò và ý nghĩa của mỗi loại thay đổi nói trên để hành động có hiệu quả.

+ Chống khuynh hướng "tả" khuynh, chủ quan, nóng vội, chưa có sự tích luỹ về lượng đã muốn thực hiện bước nhảy về chất. Hoặc thái độ coi nhẹ sự tích luỹ về lượng, chỉ nhấn mạnh bước nhảy dễ dẫn đến phiêu lưu, mạo hiểm...

+ Chống khuynh hướng "hữu" khuynh, bảo thủ, trì trệ, ngại khó không dám thực hiện bước nhảy về chất khi có đủ tích luỹ về lượng.

+ Muốn duy trì sự vật ở trạng thái nào đó phải nắm được giới hạn độ, không để cho lượng thay đổi vượt quá giới hạn của độ gây ra bước nhảy.

Câu 4: Thực tiễn là gì? Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức? Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận?

TRẢ LỜI

1. Phạm trù thực tiễn:

Theo triết học Mác-Lênin: "Thực tiễn là toàn bộ các hoạt động vật chất có mục đích của con người mang tính lịch sử - xã hội nhằm cải tạo thế giới khách quan."

Từ định nghĩa trên có thể thấy:

- Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, có phương pháp, nhằm vào một đối tượng vật chất cụ thể. Nó tồn tại dưới 3 hình thức cụ thể là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.

- Thực tiễn có tính chất lịch sử - xã hội:

+ Tính lịch sử nghĩa là sự quy định của những điều kiện lịch sử đối với hoạt động thực tiễn. Con người sinh ra ở đâu, thời đại nào thì hoạt động của họ sẽ bị những điều kiện khách quan và chủ quan của thời đại đó chi phối.

+ Tính xã hội nghĩa là mọi hoạt động thực tiễn đều là những hoạt động cộng đồng, ngay cả khi hoat động đó diễn ra với từng cá nhân riêng lẻ. Do đó, bản chất của hoạt động thực tiễn là mang tính xã hội.

- Phải có tư duy chỉ đạo. Đây là đặc trưng phân biệt giữa hoạt động thực tiễn của con người với hoạt động bản năng sinh vật. Đã là hoạt động thực tiễn thì từ việc xác định mục tiêu đến phương tiện, phương pháp hoạt động đều phải có tư duy can thiệp.

- Hoạt động thực tiễn có mục đích cụ thể, tức là việc nhằm vào một đối tượng nào đó và cải tạo nó trong hiện thực để phục vụ cho con người. Những hoạt động mới chỉ diễn ra ở trong đầu óc, trong lời nói, trong tranh luận hay trong hội nghị chưa được xem là thực tiễn.

2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:

Trong hoạt động của mình, con người không chỉ muốn nhận thức được bản chất của hiện thực khách quan mà còn muốn cải tạo hiện thực để phục vụ cho cuộc sống của mình. Nhưng những mong muốn đó chỉ thực hiện được trong hoạt động thực tiễn của con người. Do đó, cần hiểu được vai trò quyết định của thực tiễn đối với nhận thức:

a. Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức.

Sở dĩ như vậy là vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức. Nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính con người có nhu cầu tất yếu khách quan là giải thích và cải tạo thế giới mà buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các qui luật vận động và phát triển của thế giới.

b. Thực tiễn là động lực, mục đích của nhận thức.

Nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng hoàn thiện; năng lực tư duy lôgic không ngừng được củng cố, phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại, có tác dụng "nối dài" các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.

Hơn nữa thông qua hoạt động thực tiễn, con người không chỉ nhận thức thế giới mà còn cải tạo thế giới khách quan theo nhu cầu của mình.

c. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí.

Chân lí là những nhận thức (tri thức) đúng đắn về thế giới của con người đã được thực tiễn kiểm nghiệm.

Thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời thực tiễn không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.

Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình.

3. Ý nghĩa phương pháp luận.

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lí luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hoá vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.

Câu 9: Phân tích khái niệm và cấu trúc của nhân cách? Liên hệ với quá trình xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay?

TRẢ LỜI

1. Khái niệm nhân cách.

Nhân cách là tổ hợp thái độ, thuộc tính riêng trong quan hệ hành động của từng người với giới tự nhiên, với xã hội và bản thân.

Từ quan niệm trên ta có thể hiểu:

- Nhân cách là toàn bộ những năng lực và phẩm chất xã hội - sinh lý - tâm lý tạo thành một chỉnh thể giúp cho mỗi cá nhân thực hiện vai trò chủ thể trong mọi hoạt động của mình.

- Nhân cách con người chỉ được bộc lộ thông qua hành vi ứng xử của họ trong các mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội và với chính bản thân của họ.

2. Cấu trúc nhân cách:

- Thế giới quan của cá nhân, là hạt nhân của nhân cách; nó bao gồm toàn bộ những quan điểm, lý tưởng, niềm tin, định hướng giá trị chung của cá nhân.

- Những năng lực và phẩm chất xã hội của cá nhân, là cái bên trong của nhân cách, nó bao gồm: thể chất, năng lực, trí tuệ, trình độ chuyên môn, các phẩm chất chính trị, pháp luật, đạo đức, thẩm mỹ...

- Tâm hồn con người, là cái sâu kín và nhạy cảm nhất, là tầng sâu của nhân cách, là nơi lắng đọng và tiềm ẩn của mỗi cá nhân. Đó là thế giới nội tâm có chức năng khuếch đại hành vi của cá nhân.

Các yếu tố trên có mối quan hệ thống nhất với nhau trong quá trình sống để hình thành nên nhân cách của con người và nó được biểu hiện trong các mối quan hệ xã hội thông qua hành vi và thái độ ứng xử của cá nhân.

3. Quá trình hình thành nhân cách của con người mới XHCN Việt Nam:

Nhân cách của con người mới xã hội chủ nghĩa được hình thành trên cơ sở các tiền đề chủ yếu sau:

- Tiền đề vật chất, bao gồm: cơ sở sinh học - tức là cơ thể của con người; môi trường xã hội, gia đình với những truyền thống, những giá trị văn hóa.

- Tiền đề tư tưởng và giáo dục mà nòng cốt tư tưởng là Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa có tính khoa học, cách mạng lại vừa thấm đậm chủ nghĩa nhân văn cao cả; kết hợp quá trình giáo dục với quá trình tự giáo dục nhằm định hướng cho quá trình hình thành nhân cách.

- Sự hình thành nhân cách cá nhân của con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một quá trình lâu dài suốt cả đời người. Tuy nhiên thời kì quan trọng nhất là trước 30 tuổi. Mô hình nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam là mô hình "động" gồm ba thành tố sau:

+ Phải có thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng.

+ Phải có năng lực thực sự trong công việc, lao động với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.

+ Không ngừng nâng cao đạo đức, lối sống trên cơ sở những chuẩn mực giá trị mới tiến bộ.

Câu 12: Trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí minh về đạo đức cách mạng? Ý nghĩa thực tiễn của vấn đề?

TRẢ LỜI

1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

"Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta" (Văn kiện ĐH Đảng IX).

2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng:

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng.

Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước. Người viết: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: "Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém". Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng: "Có tài mà không có đức là người vô dụng; có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó". Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.

Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau:

a. Trung với nước hiếu với dân.

Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.

Từ khái niệm cũ: "Trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là "Trung với nước, hiếu với dân". Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.

Người căn dặn: "Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Người luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên phải gần gũi gắn bó với nhân dân, kính trọng học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc, "nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí". Có được cái đức ấy thì người cách mạng, người lãnh đạo sẽ được dân tin yêu, dân mến, dân kính trọng... Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.

b. Yêu thương con người.

Dân tộc ta có truyền thống "thương người như thể thương thân". Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo Cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại cùng với những thể nghiệm của chính mình, Hồ Chí Minh đã xác định: Yêu thương con người là một trong những phẩm chất cao đẹp nhất.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".

Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người.

Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn chúng ta: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng, ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời".

Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng ta phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau; nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người.

c. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Bác viết:

"Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc

Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính

Thiếu một mùa thì không thành trời

Thiếu một phương thì không thành đất

Thiếu một đức thì không thành người".

Theo Hồ Chí Minh: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".

Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức...

Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân", phải trong sạch, không tham lam...

Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.

Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.

Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.

Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc". Thực hành chí công vô tư là quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. "Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau"; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".

d. Tinh thần quốc tế trong sáng.

Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.

- Tinh thần quốc tế vô sản trong sáng trước hết là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động của các nước, không phân biệt màu da. Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả loài người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lí và tiến bộ.

- Theo Hồ Chí Minh chủ nghĩa quốc tế vô sản phải gắn liền với tinh thần yêu nước chân chính, nếu không sẽ dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, vị kỉ, hoặc sôvanh nước lớn, kì thị chủng tộc, dân tộc hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền.

3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới:

a. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.

Nói và làm luôn đi đôi với nhau đem lại hiệu quả thiết thực cho chính mình và cho người khác. Nói mà không làm gọi là đạo đức giả. Đối với Bác, trong giáo dục đạo đức vấn đề nêu gương luôn được đặt ra: "Trước mặt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách đạo đức.".

b. Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.

- Xây dựng đạo đức mới là phải giáo dục những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức mới cho con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, từ gia đình, nhà trường, đến xã hội.

- Phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người. Bên cạnh đó, phải không ngừng chống lại những cái xấu, cái sai, vô đạo đức. Để xây và chống có kết quả phải tạo thành phong trào rộng rãi, phải chống lại chủ nghĩa cá nhân với nhiều cách làm phong phú, nhưng phải có hiệu quả.

c. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.

- Mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức, đó là công việc kiên trì bền bỉ, không thể chủ quan tự mãn.

- Mỗi người ai cũng có điều tốt và xấu, thiện và ác. Phải đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng và đem lại hạnh phúc, tự do cho con người.

- Việc tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong thực tiễn hoạt động hằng ngày, trong lao động sản xuất, sinh hoạt... và thể hiện trong các mối quan hệ hằng ngày. Có như thế việc tu dưỡng mới có kết quả.

Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng lớn, là một lãnh tụ cách mạng bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức. Người vừa là một nhà đạo đức lớn, vừa là một tấm gương đạo đức trong sáng nhất, tiêu biểu nhất đã được thế giới thừa nhận và hết lời ca ngợi. Với tư duy độc lập, sáng tạo, Hồ Chí Minh đã thâu hoá được những giá trị đạo đức của quá khứ, đề xuất và nêu gương thực hành những chuẩn mực đạo đức mới, phù hợp yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Người đã đem lại cho nền đạo đức Việt Nam một bản chất mới - đạo đức cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng trở thành di sản vô cùng quí giá trong truyền thống đạo đức Việt Nam, nó đã và đang toả sáng trong thời đại ngày nay. Noi gương sáng của Người, chúng ta phải làm cho những phẩm chất đạo đức trên trở thành hành vi đạo đức ngày càng phổ biến trong toàn xã hội; làm cho xã hội ta có nhiều tấm gương đạo đức tiêu biểu có ý nghĩa thuyết phục và giáo dục được mọi người noi theo.

Câu 14: Trình bày tính tất yếu, nội dung của chính sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn ở Việt Nam hiện nay?

TRẢ LỜI

1. Tính tất yếu và tác dụng của CNH, HĐH.

Nước ta có quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, kinh tế kém phát triển cho nên cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội hầu như chưa có, vì vậy việc tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là tất yếu và cần thiết.

a. Khái niệm:

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

Thực chất của CNH,HĐH ở nước ta là quá trình tạo ra những tiền đề về vật chất, kỹ thuật, con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp... những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho CNXH.

b. Tác dụng của CNH, HĐH:

Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ đem lại những tác dụng to lớn sau:

- Tạo ra nền sản xuất bằng máy móc, tạo ra sức sản xuất mới, do đó tạo điều kiện làm thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động, tạo ra cơ sở kinh tế làm chỗ dựa cho việc cải tạo và phát triển các ngành kinh tế quốc dân.

- Tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, góp phần ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội.

- Tạo điều kiện tăng cường tiềm lực và vai trò kinh tế của Nhà nước, tạo tiền đề để cũng cố vững chắc khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức.

- CNH, HĐH góp phần phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng lực tích lũy của nền kinh tế, tạo thêm việc làm, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của con người, xóa dần sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.

- Tạo điều kiện vật chất để tăng cường củng cố an ninh, quốc phòng, tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, mở rộng phân công lao động và hợp tác quốc tế...

Vì vậy, Đại hội Đảng VIII đã khẳng định: "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, là tất yếu đối với đất nước ta hiện nay."

2. Nội dung chủ yếu của CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân ở nước ta hiện nay.

Để tiến hành thành công quá trình CNH, HĐH đất nước, cần thực hiện tốt các nội dung sau:

a. Tiến hành cách mạng khoa học - công nghệ.

Khẳng định CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, Đảng ta chỉ rõ:

- Con đường CNH, HĐH ở nước ta là cần thiết và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu về khoa học - công nghệ hiện đại.

- CNH, HĐH phải gắn liền với cuộc cách mạng KH-CN để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH, nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.

- Ứng dụng những thành tựu tiên tiến về KH-CN, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

- Sử dụng công nghệ mới phải gắn với việc giải quyết việc làm, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ.

- Cần có chính sách ưu tiên các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ có công nghệ tiên tiến, khả năng thu hồi vốn nhanh, đồng thời chỉ xây dựng những công trình có quy mô lớn khi cần thiết và có hiệu quả.

b. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội.

* Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.

Cơ cấu kinh tế là tổng thể các quan hệ kinh tế giữa các ngành, các thành phần, lĩnh vực kinh tế, giữa các vùng kinh tế... trong đó cơ cấu ngành là quan trọng nhất.

- Cơ cấu kinh tế hợp lý phải phản ánh đúng yêu cầu của các quy luật khách quan, cho phép khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước, tham gia vào phân công lao động xã hội và hợp tác quốc tế.

- Ở nước ta hiện nay, việc bố trí cơ cấu kinh tế hợp lý là một nội dung quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và tối ưu, cần đảm bảo các yêu cầu sau:

+ Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, nhất là các quy luật kinh tế.

+ Phù hợp với thị trường trong nước và quốc tế, cùng sự tiến bộ của KH-CN hiện đại.

+ Phải tốn ít vốn để tạo thành nghề sản xuất mới, nhiều việc làm, khai thác tối đa tiềm năng của đất nước, của các ngành, các thành phần, các xí nghiệp. Hoạt động ngay, quay vòng nhanh, lãi suất cao.

+ Thực hiện sự phân công lao động và hợp tác quốc tế theo xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và phát triển cơ cấu kinh tế mở năng động.

+ Phải tạo được đà cho sự phát triển tiếp theo của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

* Tiến hành phân công lại lao động xã hội.

Trong quá trình CNH, HĐH tất yếu phải phân công lại lao động xã hội.

Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá lao động, chuyên môn hoá sản xuất giữa các ngành, trong nội bộ từng ngành và giữa các vùng trong nền kinh tế quốc dân.

- Phân công lao động xã hội có tác dụng rất to lớn trong việc sử dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại, góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý.

- Phân công lao động xã hội ở nước ta hiện nay phải tuân thủ các yêu cầu sau:

+ Tỉ trọng và số lượng tuyệt đối lao động công nghiệp, dịch vụ ngày một tăng; tỉ trọng và số lượng tuyệt đối lao động trong nông nghiệp ngày càng giảm.

+ Tỉ trọng và số lượng tuyệt đối lao động trong các ngành sản xuất phi vật chất, ngành dịch vụ tăng dần và tốc độ tăng nhanh hơn các ngành sản xuất vật chất.

+ Tỉ trọng lao động trí tuệ ngày càng tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng số lao động xã hội.

+ Phân công lao động xã hội phải được thực hiện trên tất cả các địa bàn một cách có tổ chức, có kế hoạch và phải gắn bó giữa phân công tại chỗ, phân công đi nơi khác và phân công quốc tế.

3. Nội dung CNH, HĐH nước ta từ nay đến năm 2020:

- Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.

- Phát triển nhanh hơn công nghiệp xây dựng.

- Xây dựng và phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là sân bay quốc tế, cảng biển, đường cao tốc, đường ven biển, mạng lưới cung cấp điện, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở các đô thị lớn, hệ thống thủy lợi, cấp thoát nước. Phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với công nghệ tiết kiệm năng lượng. Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa hệ thống bưu chính viễn thông.

- Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh như: vận tải, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, tư vấn...

- Phát triển hợp lý vùng và kinh tế biển.

- Bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên như: đất, nước, khoáng sản và rừng.

- Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả kinh tế đCâu 16: Chính sách xã hội là gì? Trình bày những nội dung cơ bản của chính sách xã hội ở nước ta hiện nay?

TRẢ LỜI

1. Chính sách xã hội.

Chính sách xã hội là bộ phận cấu thành chính sách chung của một chính đảng hay một chính quyền Nhà nước hướng tới lĩnh vực xã hội, nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến cuộc sống con người, nhu cầu lợi ích của các nhóm người, các tầng lớp xã hội, các giai cấp, các dân tộc trong xã hội; đồng thời góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với bản chất giai cấp và những mục tiêu của chính đảng hay của chính quyền đó.

Phạm vi chính sách xã hội phải giải quyết bao trùm mọi mặt của đời sống con người như điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc...

Trong CNXH, nhân dân lao động là người làm chủ; chính xã hội đặt con người với tất cả những nhu cầu và lợi ích phong phú, đa dạng vào vị trí trung tâm của sự phát triển, lấy việc phục vụ con người, phát triển toàn diện con người là mục tiêu cao nhất của chính sách xã hội XHCN. Từ đó cho thấy, "chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng CNXH". Đồng thời đó cũng là động lực thúc đẩy mạnh việc phát triển các mặt đời sống xã hội trên đường đổi mới đất nước vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

Quan hệ giữa chính sách xã hội và chính sách kinh tế:

- Chính sách kinh tế và chính sách xã hội có quan hệ gắn bó với nhau là do bị quy định bởi:

+ Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và xã hội;

+ Điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam - từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa với yêu cầu tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội;

+ Truyền thống nhân đạo "khoan thư sức dân" và từ việc tổng kết thực tiễn của cách mạng nước ta;

+ Yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Chính sách kinh tế và chính sách xã hội có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước:

+ Chính sách kinh tế phải hướng tới mục tiêu xã hội, tạo điều kiện vật chất để giải quyết các vấn đề xã hội, tìm động lực từ các nhân tố xã hội, lấy hiệu quả phục vụ xã hội làm thước đo cao nhất để xác định phương án và kết quả hoạt động kinh tế;

+ Chính sách xã hội phải góp phần thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế, tạo mội trường xã hội thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, làm nảy sinh những nhân tố động lực xã hội cho sự phát triển kinh tế.

- Chính sách kinh tế và chính sách xã hội tác động lẫn nhau, thúc đẩy nhau phát triển, do đó cần phải kết hợp chặt chẽ và giải quyết hài hòa quan hệ giữa chúng phù hợp với từng thời kỳ, từng điều kiện của đất nước. Việc kết hợp chính sách kinh tế và chính sách xã hội ở nước ta hiện nay:

+ Vừa là động lực, vừa là mục tiêu cho sự phát triển.

+ Là nét đặc trưng của định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện bản chất tốt đẹp, nhân đạo cao cả của chủ nghĩa xã hội.

+ Thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là luôn coi con người là trung tâm, là mục đích của sự phát triển kinh tế, lấy việc phục vụ con người là mục tiêu của các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.

2. Nhiệm vụ chủ yếu của chính sách xã hội hiện nay ở nước ta.

a. Phương hướng của chính sách xã hội:

"Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định phương hướng lớn của chính sách xã hội ở nước ta hiện nay là: Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể xã hội.

b. Quan điểm chỉ đạo chính sách xã hội:

Hệ thống chính sách xã hội được hoạch định phải quán triệt những quan điểm chỉ đạo sau:

+ Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ở cả khâu phân phối lẫn tạo cơ hội sử dụng tốt năng lực của con người trong toàn bộ tiến trình phát triển.

+ Thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó, lấy phân phối theo kết quả lao động vừa là hình thức chủ yếu lại vừa là nguyên tắc chi phối các loại hình phân phối khác nhằm điều tiết hợp lý và bảo hộ quyền lợi của người lao động.

+ Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, tầng lớp dân cư.

+ Phát huy truyền thống "uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa", nhân hậu, thủy chung.

+ Các vấn đề chính sách xã hội đều phải theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước đóng vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cá nhân và các tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội

c. Các nhiệm vụ chủ yếu của chính sách xã hội:

- Khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp, thực hiện có hiệu quả chính sách xóa đói, giảm nghèo.

- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục, đào tạo, tạo việc làm, chăm sóc sức khỏe, văn hóa thông tin, thể dục thể thao...

- Phát triển hệ thống y tế công bằng, hiệu quả, đảm bảo mọi người dân được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe.

- Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi.

- Thực hiện tốt chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.

- Chú trọng chính sách ưu đãi xã hội.

- Đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.

Câu 17: Tầm quan trọng và nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại của Đảng ta hiện nay?

TRẢ LỜI

1. Tầm quan trọng của chính sách đối ngoại:

Chính sách đối ngoại là sự tiếp nối chính sách đối nội, là một bộ phận quan trọng trong đường lối chính trị và chính sách của mọi quốc gia, dân tộc. Trong các thời kỳ của cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đều rất coi trọng chính sách đối ngoại.

Thực hiện đường lối đối ngoại nhân đạo, hòa bình thể hiện mục tiêu, bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa của nước ta và nguyện vọng của nhân dân ta, phù hợp với quy luật vận động của thời đại và xu hướng chủ yếu của thế giới.

Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta có tầm quan trọng đặc biệt trong hệ thống chính sách, thể hiện ở chỗ:

- Thông qua việc thực hiện chính sách đối ngoại, chúng ta có thể khai thác tốt nhất những tiềm năng, kinh nghiệm, nguồn vốn, thành tựu văn hóa khoa học kỹ thuật và công nghệ của thế giới để phát triển đất nước.

- Thông qua mở rộng quan hệ quốc tế mà nhân dân ta và bạn bè năm châu hiểu rõ nhau hơn, nâng cao địa vị và uy tín của Đảng và Nhà nước Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần xứng đáng vào cuộc đấu tranh của nhân dân toàn thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

- Trên cơ sở đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn và rộng mở, chúng ta đã tích cực mở rộng quan hệ với tất cả các nước (đã có quan hệ ngoại giao với 167 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đã giữ vững, mở rộng và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống với 200 Đảng Cộng sản và Công nhân trên thế giới; là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới và có quan hệ thương mại trên 150 nước và nhiều công ty của hơn 70 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam).

- Cách mạng nước ta là một bộ phận của cách mạng thế giới và vận động trong bối cảnh chung của thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với trình độ ngày càng cao làm tăng nhanh lực lượng sản xuất và quá trình quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội trên thế giới đã tạo ra nhiều thời cơ và thách thức lớn, nhất là đối với các nước nghèo, kinh tế chưa phát triển. Vì vậy, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta không tách rời những biến đổi trên thế giới, không thể khép kín mọi hoạt động của mình trong phạm vi một quốc gia hoặc bất cứ một khu vực nào.

- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng và Nhà nước ta đã tổng kết bài học lớn là luôn luôn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.

2. Những vấn đề cơ bản của chính sách đối ngoại hiện nay ở nước ta.

a. Mục tiêu và nhiệm vụ cơ bản của chính sách đối ngoại:

- Mục tiêu chung của chính sách đối ngoại:

+ Chính sách đối ngoại không có mục đích tự thân, nó phải gắn liền với nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế và phải quán triệt lập trường có tính nguyên tắc là: kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong điều kiện lịch sử mới.

+ Chính sách đối ngoại nhằm thực hiện mục tiêu chung: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa" nên mục tiêu chính của chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc, sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước.

- Các nhiệm vụ cơ bản của chính sách đối ngoại:

+ Củng cố môi trường hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội; CNH,HĐH đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

+ Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

+ Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

b. Những nguyên tắc cơ bản của chính sách đối ngoại:

- Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực.

- Giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình.

- Tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.

c. Nội dung chính sách đối ngoại:

- Chủ trương của chính sách đối ngoại:

+ Củng cố và tăng cường quan hệ với các Đảng Cộng sản, công nhân, Đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới.

+ Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.

+ Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm: "Chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả".

+ Chủ động tham gia đấu tranh chung vì quyền con người.

+ Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại.

- Nhiệm vụ trước mắt của công tác đối ngoại:

+ Đẩy mạnh công tác văn hóa - thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân tất cả các nước.

+ Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại.

+ Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về công tác đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.

+ Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại.

Câu 18: Phân tích những bài học lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam?

TRẢ LỜI

1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội:

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, là ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách mạng Việt Nam; là tư tưởng chủ đạo để xác định đúng đắn một loạt vấn đề chiến lược và phương pháp cách mạng. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng Việt Nam.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội chính là sự kết hợp vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp của giai cấp công nhân, kết hợp hai nguồn sức mạnh để tạo nên nguồn sức mạnh tổng hợp toàn diện và vô tận nhằm chiến thắng tất cả lực lượng phản động để đưa từng dân tộc đi đến chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội trước hết phải giành thắng lợi trong phạm vi từng dân tộc. Chủ nghĩa xã hội và dân tộc không thể tách rời nhau.

Cách mạng đã phát triển lên tầm cao mới đòi hỏi việc nhận thức và vận dụng kinh nghiệm lịch sử cũng phải đi vào chiều sâu và có sức sáng tạo mới. Những đặc điểm của dân tộc, của đất nước Việt Nam, những quy luật cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn còn phải tiếp tục nghiên cứu. Vận dụng những quy luật đó vào Việt Nam để giải đáp những vấn đề thực tiễn đặt ra, để tìm hệ thống quy luật cách mạng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam đang đòi hỏi sự nỗ lực cao độ về trí tuệ của toàn Đảng và toàn dân tộc.

Những thành tựu to lớn qua hơn 20 năm đổi mới cho thấy lời giải ngày càng sáng tỏ, hướng đi ngày càng được khẳng định, nhận thức của chúng ta ngày càng nâng cao và mở rộng về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhưng trước mắt vẫn còn nhiều vấn đề nan giải. Kiên định quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo cho chúng ta ngày càng khám phá thêm những điều cần biết về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; thực hiện CNH, HĐH đất nước bằng sức mạnh của nhân dân, bằng phát huy nội lực trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là biểu hiện tập trung nhất sự vận dụng kinh nghiệm lịch sử nói trên trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

2. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân:

Quần chúng nhân dân quyết định lịch sử là một nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, là quy luật phổ biến của xã hội loài người. Ở Việt Nam, một nước đất không rộng, người không đông lại phải đương đầu với những tên đế quốc lớn và từ nghèo nàn lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội thì quy luật này lại càng quan trọng.

Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân. Không ai có thể tạo ra cách mạng khi nhân dân không yêu cầu. Không ai có thể ép buộc nhân dân làm cách mạng. Do không chịu nỗi nhục mất nước, nên cả dân tộc đứng lên chống xâm lược. Do không chịu đói nghèo và bất công nên toàn dân thấy cần phải làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, phải đi lên chủ nghĩa xã hội.

Cách mạng là sự nghiệp do nhân dân làm lấy. Sức mạnh quyết định của cách mạng là ở dân. Khi toàn dân đứng dậy thì không lực lượng phản động nào có thể ngăn cản được. Không sức mạnh nào lớn hơn nhân dân.

Cách mạng còn là sự nghiệp vì nhân dân. Mục tiêu trước mắt và lâu dài của cách mạng đều vì lợi ích của nhân dân. Không vì lợi ích nhân dân cách mạng sẽ mất tính cách chính nghĩa và nhân văn. Ngoài lợi ích của nhân dân, cách mạng không vì lợi ích nào khác. Các nhà cách mạng chân chính đều luôn luôn tâm niệm vì lợi ích nhân dân mà chiến đấu, hi sinh, vì nhân dân phục vụ. Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích nào ngoài lợi ích của nhân dân.

Đường lối đổi mới bắt bắt nguồn từ nhân dân. Nhân dân không những đòi hỏi đổi mới mà còn tạo tiền đề cho đường lối đổi mới ra đời. Phương châm: mọi hoạt động của Đảng đều phải "lấy dân làm gốc" được nhấn mạnh là cách khắc phục thiếu sót trước đó để đi đúng quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Khẩu hiệu: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra cũng được ra đời theo phương châm đó để quán triệt hơn nữa vai trò của nhân dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Đứng trước thời cơ và nguy cơ hiện nay, muốn phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, chống tham nhũng và tiêu cực để thực hiện CNH, HĐH đất nước không có cách nào khác ngoài việc Đảng phải dựa vào nhân dân. Nhân dân rất sáng suốt, nên nhân dân sẽ tìm ra hình thức, biện pháp để thúc đẩy sự nghiệp cách mạng phát triển.

Đảng ta luôn luôn đứng vững trên lập trường công nhân để xem xét và giải quyết quan điểm quần chúng trong cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, trong lãnh đạo cần khắc phục tư tưởng theo đuôi quần chúng, hoặc coi thường quần chúng; khắc phục tính tự phát hoặc vô chính phủ trong nhóm quần chúng này hay nhóm quần chúng khác...

3. Không ngừng củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại:

Đoàn kết là sức mạnh. Sức mạnh này không phải là số cộng của nhiều người mà được nhân lên tùy mức độ liên kết thành một khối thống nhất. Đây là sức mạnh của ý chí, nghị lực; sức mạnh của trí tuệ, tinh thần và cả sức mạnh vật chất. Mỗi thành viên đều thấy sức mạnh mình tăng lên khi nằm trong khối đoàn kết ấy. Sức mạnh này không thể đo, đếm định lượng thông thường; nhưng có thể nhận thức được.

Đoàn kết là bài học quan trọng trong lịch sử dân tộc và lịch sử cách mạng Việt Nam. Hồ Chủ tịch đã nhấn mạnh:

"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công"

Đoàn kết có nhiều cấp độ khác nhau: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết nào cũng phải xây dựng theo những nguyên tắc nhất định.

Để thực hiện đoàn kết dân tộc, trước hết Đảng phải chứng tỏ đường lối đúng đắn của mình trước quần chúng, nêu rõ nhiệm vụ cách mạng đều đáp ứng nguyện vọng cơ bản của nhân dân, phù hợp với quy luật khách quan của xã hội; phải thể hiện Đảng là người đại diện chân chính cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.

Đoàn kết dân tộc còn là cơ sở để mở rộng quan hệ quốc tế. Cách mạng một nước là bộ phận cách mạng thế giới nên cần sự đồng tình và ủng hộ của thế giới, cần có đoàn kết quốc tế. Do đặc điểm nước ta, đoàn kết quốc tế lại càng quan trọng. Đoàn kết quốc tế làm tăng thế và lực của cách mạng Việt Nam lên nhiều lần, làm cho cách mạng Việt Nam giảm tổn thất và thúc đẩy quá trình giành thắng lợi.

Để đoàn kết quốc tế, Đảng phải có đối ngoại phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và thế giới trong từng giai đoạn lịch sử. Trước đây, đoàn kết quốc tế để giành độc lập dân tộc. Ngày nay, đoàn kết để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Do hoàn cảnh thế giới và Việt Nam đã có nhiều thay đổi, do yêu cầu chiến lược cách mạng cũng khác thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nên Đảng có đường lối đối ngoại mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá, theo tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển... Nhờ đó, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước phát triển thuận lợi.

Đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế tác động tích cực lẫn nhau để thực hiện kết hợp sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam. Đảng phải mạnh, phải đoàn kết chặt chẽ là điều kiện quyết định để thực hiện thành công và phát huy hiệu quả khối đoàn kết nói trên.

4. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam do nhiều nhân tố tạo nên, nhưng nhân tố hàng đầu là có sự lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là bộ tham mưu, là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập và công bố Cương lĩnh cách mạng của mình thì cách mạng Việt Nam chuyển sang bước ngoặt vĩ đại. Đó là thời kỳ kết thúc cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước và mở đầu thời kỳ cả dân tộc đi theo ngọn cờ của Đảng. Điều đó chứng tỏ dân tộc ta sớm khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Các giai đoạn phát triển về sau, Đảng càng tỏ rõ năng lực lãnh đạo sáng suốt của mình bằng cách đưa cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều hiểm nguy tưởng như không vượt nổi để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không có một tổ chức chính trị nào khác có thể đương đầu với kẻ thù xâm lược và với những khó khăn trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Không có Đảng lãnh đạo, cách mạng Việt Nam không thể như ngày nay.

Vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở việc Đảng đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn; biết tập hợp, tổ chức, động viên lực lượng cách mạng; biết sử dụng những hình thức, phương pháp đấu tranh và hoạt động phong phú, linh hoạt để thực hiện đường lối thành công.

Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh là quá trình khó khăn, gian khổ. Nhưng kiên trì thực hiện những nguyên tắc xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng sẽ trưởng thành theo yêu cầu của lịch sử.

Yêu cầu mới mới của cách mạng đòi hỏi Đảng phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình, xứng đáng là nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

ối ngoại

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro