Phạm trù vật chất

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

II. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ VẬT CHẤT, Ý THỨC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

1. Vật chất

a. Phạm trù vật chất

- Trong lịch sử triết học trước Mác, mỗi một trường phái triết học đều có những quan niệm khác nhau về vật chất. Nhưng chủ yếu vẫn là cuộc đấu tranh giữa triết học duy vật và duy tâm.

+ Chủ nghĩa duy tâm coi bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên của mọi sự tồn tại (tự nhiên – xã hội và tư duy) là tinh thần. Vật chất chỉ là sản phẩm của bản nguyên tinh thần. Ví dụ: Bản nguyên tinh thần theo Platôn (nhà triết học duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại) là “ý niệm”, Hêghen (nhà triết học duy tâm khách quan triết học cổ điển Đức) là “ý niệm tuyệt đối”; Béccơly (nhà triết học duy tâm chủ quan thời cận đại) là cảm giác chủ quan của con người. Chủ nghĩa duy tâm phủ nhận tính khách quan của vật chất, coi vật chất chỉ là sản phẩm của các lực lượng siêu nhiên và ý muốn chủ quan của con người.

+ Chủ nghĩa duy vật trước Mác quan niệm bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên của mọi sự tồn tại (tự nhiên – xã hội và tư duy) là thực thể vật chất cụ thể – cái bản nguyên vật chất, tạo nên mọi sự vật, hiện tượng và những thuộc tính của chúng. Ví dụ: trong triết học Trung quốc cổ đại đã coi vũ trụ được hình thành bởi thái cực, ngũ hành; triết học Hy lạp cổ đại theo Talét là nuớc; Anaximen là không khí; Hêracơlít là lửa và Lơxíp và Đêmôcrít là nguyên tử, v.v...

Thuyết nguyên tử cổ đại là một bước phát triển mới của chủ nghĩa duy vật trước Mác, nó mang tính khái quát và trừu tượng hơn; nhưng do những điều kiện hạn chế có tính chất lịch sử, nên nó cũng chỉ là phỏng đoán giả định và không thoát khỏi tình trạng qui vật chất thành dạng vật thể.

Đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, vật lý học đã có bốn phát minh quan trọng đem lại những hiểu biết mới, sâu sắc hơn về nguyên tử, về cấu trúc thế giới vật chất đã phê phán quan niệm về nguyên tử trước đó:

(1) 1895 Rơnghen phát hiện ra tia X (đó là sóng điện từ có bước sóng rất ngắn...).

(2) 1896 Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ. Đã chứng tỏ rằng nguyên tử không phải là bất biến, là cái không phải là không phân chia được và không thể chuyển hóa cho nhau, mà là cái có thể phân chia và giữa chúng có khả năng chuyển hóa cho nhau.

(3) 1897 Tômxơn phát hiện ra điện tử. Điện tử là một trong những yếu tố tạo nên nguyên tử. Cho nên nguyên tử không phải là đơn vị cuối cùng tạo nên thế giới vật chất.

(4) 1901 Kaufman phát hiện ra hiện tượng khi vận động khối lượng của điện tử tăng khi vận tốc của nó tăng. Như vậy đã bác bỏ quan niệm cho rằng khối lượng là bất biến, v.v...

Quan niệm đồng nhất vật chất là nguyên tử đã kéo dài và trở thành truyền thống trong tư duy của các nhà triết học duy vật và khoa học tự nhiên như: Galilê, Đềcáctơ, Niutơn tiếp tục khẳng định và phát triển. Quan niệm về nguyên tử trong thời kỳ này và ngay cả đầu thế kỷ XIX đồng nhất nguyên tử với vật chất và với một thuộc tính phổ biến của vật thể là khối lượng là một quan niệm siêu hình.

Vì vậy, với những phát minh ở trên đã dẫn đến cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong lĩnh vực nghiên cứu của vật lý học, trong triết học duy vật làm cơ sở cho chủ nghĩa duy tâm chống lại chủ nghĩa duy vật trong quan niệm về nguyên tử.

Khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (và giải quyết sự khủng hoảng về thế quan trong vật lý học, trong triết học duy vật); tiếp thu mang tính phê phán quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước đó; phê phán quan niệm sai lầm của triết học duy tâm. Lê-nin đã nêu định nghĩa khoa học về vật chất.

- Định nghĩa vật chất của Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.

Định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm những luận điểm cơ bản sau:

+ Thứ nhất, cần phải phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất. Vật chất là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả các sự vật, hiện tượng vật chất cụ thề – là cái có quá trình phát sinh, phát triển và chuyển hóa.Vì vậy, không đồng nhất vật chất với một hay một số dạng vật chất cụ thể.

+ Thứ hai, Đặc trưng quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan, tức là thuộc tính tồn tại bên ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người, dù cho con người có nhận thức hoặc không nhận thức được nó.

+ Thứ ba, vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái gây nên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó (trực tiếp hoặc gián tiếp) tác động nên giác quan của con người; tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh vật chất trong bộ não của con người.

- Ý nghĩa phương pháp luận

+ Thứ nhất, định nghĩa vật chất của Lênin đã tiếp thu có tính phê phán những quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước đây và chống lại quan niệm sai lầm của triết học duy tâm, về vật chất. Định nghĩa vật chất của Lênin cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội để có thể giải thích nguồn gốc, bản chất và các qui luật khách quan của xã hội.

+ Thứ hai, định nghĩa vật chất của Lê-nin đã giải đáp một cách khoa học về vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm đến thực tiễn

Đối với chủ nghĩa duy vật trước Mác về cơ bản có những quan điểm đúng về mặt tự nhiên nhưng lại duy tâm về mặt xã hội, nên nó rất hạn chế và không có ý nghĩa cách mạng triệt để đối với quá trình cải tạo hiện thực khách quan của con người. Mác khẳng định nhiệm vụ của triết học phải có ý nghĩa cải tạo thế giới. Tính chất siêu hình máy móc và trực quan của chủ nghĩa duy vật trước Mác không thấy được tính năng động và sáng tạo của ý thức.

Trong triết học trước Mác về cơ bản đều không thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức và đối với sự phát triển của xã hội. Cơ sở lý luận của các hệ thống triết học trước kia, nhất là triết học duy tâm không phải quan điểm từ vật chất, từ hoạt động thực tiễn, mà chủ yếu là sự nhấn mạnh đến vai trò quyết định của cái tinh thần, của lực lượng siêu nhiên, v.v..

Việc đưa quan điểm thực tiễn vào lý luận, triết học Mác không những thực hiện một cuộc cách mạng trong lĩnh vực triết học mà còn tạo cơ sở để khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác, phê phán chững quan điểm sai lầm của triết học duy tâm.

Giải quyết khoa học vấn đề cơ bản triết học, triết học Mác được coi là cơ sở lý luận về thế giới quan và lý luận để nghiên cứu những vấn đề chung của triết học và khoa học. Chống lại những quan điểm duy ý chí chủ quan, quan điểm duy vật tầm thường, v.v…

b. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất

- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất

+ Ph. Ăngghen định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể cả sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.

Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Không thể có vận động thuần túy ở bên ngoài vật chất, mà chỉ có vật chất đang vận động và biến đổi không ngừng, cũng như không thể có vật chất mà không có vận động. Vận động là tự thân, vận động không phải do sự tác động thuần túy từ bên ngoài mà do những mâu thuẫn bên trong bản thân các sự vật và hiện tượng tạo thành và vận động không do “ai” sinh ra và không thể mất đi, vận động mang tính khách quan, tính vĩnh viễn và tuyệt đối.

+ Khái quát những mặt, những mối liên hệ mang tính đa dạng phong phú trong hiện thực khách quan, phép biện chứng duy vật nêu lên năm hình thức vận động cơ bản của vật chất. Đó là các hình thức vận động như: cơ, lý, hóa, sinh học và xã hội. Các hình thức vận động này đều có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau và có khả năng chuyển hóa cho nhau. Sự phân chia các hình thức vận động cũng chỉ mang tính tương đối.

+ Vận động và đứng im. Đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động trong sự “cân bằng”, trong sự ổn định tương đối của sự vật và hiện tượng cụ thể. Thế giới vật chất luôn ở trong quá trình vận động và phát triển không ngừng. Nhưng điều đó không loại trừ mà còn bao hàm trong đó hiện tượng đứng im tương đối. Không có sự đứng im tương đối thì sẽ không có sự vật và hiện tượng vật chất cụ thể nào tồn tại. Đứng im chỉ xét trong một quan hệ nhất định của sự vật, còn khi xét trong mọi quan hệ thì sự vật vận động chứ không phải đứng im.

- Các hình thức tồn tại của vật chất

+ Không gian là thuộc tính phản ánh hình thức tồn tại của vật chất xét về quảng tính, vị trí, kết cấu của các sự vật, hiện tượng, các bộ phận khác nhau của thế giới vật chất.

+ Thời gian là thuộc tính phản sự tồn tại của vật chất xét về sự diễn biến trong quá trình phát sinh, tồn tại và chuyển hóa của các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan.

+ Tính chất của không gian và thời gian. Không gian và thời gian có tính khách quan, tính vô tận và vĩnh cửu; không gian có tính ba chiều (quảng tính). Đó là chiều cao, chiều rộng và chiều dài của các kết cấu vật chất. Thời gian có tính một chiều (quá trình diễn biến). Đó là từ quá khứ đến tương lai. Không có không gian và thời gian tồn tại thuần túy bên ngoài vật chất hoặc không gian trống rỗng chứa đựng vật chất, không có thời gian khởi nguyên và cuối cùng của vật chất.

c. Tính thống nhất vật chất của thế giới

Căn cứ vào sự tồn tại, vận động và phát triển của hiện thực khách quan và sự phát triển của khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng chỉ có một thế giới vật chất đang tồn tại vận động và phát triển không ngừng. Thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều này được thể hiện ở những nội dung sau đây:

- Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngoài ra không có thế giới thuần túy không vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức của con người.

- Thế giới vật chất dù tồn tại dưới các sự vật hiện tượng cụ thể khác nhau và các bộ phận cụ thể khác nhau (cái mà con người đã nhận thức được hoặc chưa nhận thức được) đều là vật chất; giữa chúng đều có mối liên hệ về mặt nguồn gốc, lịch sử và bị chi phối bởi các qui luật khách quan vốn có của nó.

- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, không do “ai” sinh ra và cũng không tự mất đi, mà trong đó không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang vận động và chuyển hoá cho nhau.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro