Phần 2. THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ.

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

PHẦN THỨ HAI

Phần 2. THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ.

1. NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN KHI THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ.

Phạm vi, ý nghĩa công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự

- Phạm vi:

Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm xảy ra đến khi kết thúc việc điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật.

- Ý nghĩa:

Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhằm bảo đảm

- Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội;

- Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật;

- Việc điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh;

- Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật.



Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố.

Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn:

- Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can;

- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật;

- Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự;

- Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật. Trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do;

- Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;

- Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra

Khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn:

- Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra;

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng;

- Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra;

- Yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra;

- Kiến nghị với cơ quan, tổ chức và đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

2. CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT KHI THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA

2.1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can

Tiếp nhận, xử lý và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố:

- Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra phân công Kiểm sát viên tiếp nhận, quản lý đầy đủ tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan Nhà nước chuyển đến.

- Kiểm sát viên khi được giao nhiệm vụ tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm yêu cầu đầu tiên là phải đánh giá sơ bộ bước đầu về tính chất của tố giác, tin báo đó để có phương pháp xử lý kịp thời, đúng pháp luật.

+ Đối với các tố giác, tin báo về tội phạm có tính khẩn cấp và yêu cầu đặt ra là cần phải khám nghiệm hiện trường hoặc cần ngăn chặn ngay hành vi phạm tội thì Kiểm sát viên được phân công phải tiến hành sơ vấn người báo tin để nhanh chóng nắm được thông tin ban đầu và báo cáo ngay với lãnh đạo để có biện pháp xử lý kịp thời. Nội dung sơ vấn ngắn gọn, như: Sự việc gì đã xảy ra?; địa điểm xảy ra? Nếu ở nông thôn thì ghi rõ thôn, xóm, bản, xã, huyện; nếu ở thành phố thì ghi rõ số nhà, đường phố, phường, quận…; thời gian xảy ra sự việc hoặc thời gian phát hiện; những người biết sự việc xảy ra; hậu quả xảy ra (thiệt hại về người, tài sản…); ai là người thực hiện (nếu họ biết)? Có thể ghi lại số điện thoại hoặc địa chỉ của người báo tin để liên hệ với họ khi cần thiết.

+ Nếu vụ việc xảy ra có nhiều người tham gia và có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, nếu không kịp thời ngăn chặn thì hậu quả xảy ra không thể lường hết được hoặc ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương thì Kiểm sát viên phải báo cáo ngay với lãnh đạo để phối hợp với cơ quan Công an có biện pháp giải quyết.

+ Nếu sự việc xảy ra cần phải khám nghiệm hiện trường, như trộm cắp, giết người, phát hiện có tử thi, cháy nổ, sau khi nhận được tố giác, tin báo, Kiểm sát viên vào sổ thụ lý và báo cáo nội dung sự việc với Lãnh đạo viện để và thông báo với Cơ quan điều tra cùng cấp để phối hợp tổ chức bảo vệ hiện trường, tổ chức cấp cứu và lấy sinh cung (nếu nạn nhân sắp chết); truy bắt người thực hiện hành vi phạm tội (nếu xác định được ngay sau khi sự việc xảy ra) và tiến hành khám nghiệm đối với các vụ việc thuộc thẩm quyền …

+ Đối với các tố giác, tin báo về tội phạm do cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân trực tiếp đến Viện kiểm sát cung cấp, Kiểm sát viên phải

vào sổ thụ lý; ghi rõ ngày, tháng, năm tiếp nhận; nội dung tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tên, tuổi và địa chỉ của người hoặc cơ quan, tổ chức cung cấp;

sau đó tiến hành phân tích đánh giá bước đầu về các thông tin, tài liệu đã thu thập được để báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo đồng thời làm thủ tục chuyển cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành thẩm tra, xác minh, đồng thời lập kế hoạch theo dõi, kiểm tra kết quả giải quyết của Cơ quan điều tra.

+ Nếu tố giác, tin báo về tội phạm được gửi đến VKSND bằng đơn, thư, công văn thông qua bưu điện cũng như các tố giác, tin báo về tội phạm do Viện kiểm sát trực tiếp thu thập được thông qua các phương tiện thông tin đại chúng thì Kiểm sát viên sau khi vào sổ thụ lý phải nghiên cứu nội dung sự việc để báo cáo lãnh đạo xin ý kiến trước khi chuyển cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết.

+ Đối với kiến nghị khởi tố vụ án hình sự do cơ quan nhà nước chuyển đến thường kèm theo các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình kiểm tra, thanh tra cùng với bản kết luận về hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm (hồ sơ thanh tra, kiểm tra). Trong trường hợp này, Kiểm sát viên được phân công phải tiến hành nghiên cứu, phân loại, đánh giá các tài liệu chứng cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội xảy ra để báo cáo với lãnh đạo. Nếu có căn cứ xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm thì Kiểm sát viên làm báo cáo bằng văn bản đề nghị lãnh đạo ra quyết định chuyển toàn bộ hồ sơ cho Cơ quan điều tra và yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Nếu qua nghiên cứu xác định chưa có đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo với lãnh đạo làm thủ tục chuyển hồ sơ, tài liệu cho Cơ quan điều tra để tiếp tục kiểm tra, xác minh thêm và giải quyết theo thẩm quyền.

+ Đối với các tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm các hoạt động tư pháp mà người thực hiện là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp thì sau khi tiếp nhận, Kiểm sát viên phải báo cáo với lãnh đạo để chuyển ngay đến Cục điều tra hình sự thuộc VKSND tối cao thẩm tra, xác minh và giải quyết theo thẩm quyền.

- Kiểm sát viên được phân công phải kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận và giải quyết của Cơ quan điều tra cùng cấp đối với các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

- Kiểm sát viên phải kiểm tra quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đảm bảo hoạt động của Cơ quan điều tra theo đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết; nếu phát hiện có vi phạm pháp luật thì yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục kịp thời hoặc báo cáo lãnh đạo ra văn bản kiến nghị.

- Hàng tuần, Kiểm sát viên yêu cầu Cơ quan điều tra cùng cấp thông báo đầy đủ cho Viện kiểm sát các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố mà Cơ quan điều tra đã tiếp nhận được; đồng thời phối hợp để phân loại, xử lý kịp thời.

- Kiểm sát viên cần căn cứ vào quy định tại tiết c, điểm 7 Mục I Thông tư liên tịch số 01/2005 để tiến hành hoạt động kiểm sát. Theo đó, “Cơ quan Công an có trách nhiệm thống kê kết quả tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm từ kết quả xử lý những vụ vi phạm thuộc thẩm quyền xử lý của mình và chuyển kết quả tổng hợp thống kê sang Viện kiểm sát cùng cấp, sau khi loại thống kê này được thực hiện”.

- Theo quy định tại khoản 2 Điều 103 BLTTHS, trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin; nếu xác định có dấu hiệu tội phạm xảy ra thì ra quyết định khởi tố vụ án hình sự; nếu có một trong những căn cứ quy định tại Điều 107 BLTTHS thì ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan điều tra phải gửi các quyết định đó kèm theo các tài liệu liên quan cho Viện kiểm sát cùng cấp để tiến hành kiểm sát.

- Hàng tháng, Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp huyện, Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với Cơ quan điều tra cùng cấp nắm số lượng, kết quả giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã tiếp nhận; nếu phát hiện có tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố chưa được giải quyết theo thời hạn luật định thì yêu cầu Cơ quan điều tra nêu rõ lý do, hướng giải quyết và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát theo quy định tại Điều 103 BLTTHS.

Kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, việc thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự:

- Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ khi nhận được quyết định khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra hoặc cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra cử Kiểm sát viên tiến hành kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án để xem xét, xử lý.

- Kiểm sát viên phải nghiên cứu các tài liệu dùng làm căn cứ để khởi tố vụ án hình sự, bao gồm: Các tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và các tài liệu kèm theo do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; các tài liệu kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét... cùng các tài liệu, dấu vết, tang vật đã được phát hiện thu giữ (đối với các vụ án có khám nghiệm hiện trường); đơn yêu cầu khởi tố của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần theo quy định tại Điều 105 BLTTHS; biên bản và kết quả giám định dấu vết, tang vật như dấu vết máu, dấu vết súng đạn, dấu vết đường vân; chất ma túy…; biên bản và kết quả giám định thương tật; biên bản và kết quả định giá tài sản; biên bản ghi lời khai của người bị hại, người làm chứng...

- Đối với các vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, Kiểm sát viên phải nghiên cứu, xem xét quyết định khởi tố và các tài liệu có liên quan để xác định việc khởi tố vụ án hình sự có thuộc các trường hợp được quy định tại Điều 105 BLTTHS hay không? Sau khi kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố thì Kiểm sát viên được cử phải báo cáo kết quả nghiên cứu với Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra để xem xét xử lý như sau:

+ Nếu thấy quyết định khởi tố vụ án có căn cứ và hợp pháp thì ra quyết định phân công Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án và thông báo bằng văn bản cho cơ quan đã khởi tố biết; nếu chưa rõ căn cứ thì yêu cầu cơ quan đã khởi tố bổ sung tài liệu, chứng cứ làm rõ căn cứ khởi tố.

+ Nếu thấy quyết định khởi tố vụ án rõ ràng là không có căn cứ thì ra văn bản yêu cầu cơ quan đã khởi tố ra quyết định huỷ bỏ; nếu cơ quan đã khởi tố không nhất trí thì báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTHS và điểm 7.1 mục 7 Thông tư liên ngành số 05/2005/TTLN-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005.

+ Nếu thấy tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội hoặc còn có tội phạm khác chưa được khởi tố thì Kiểm sát viên thụ lý vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền yêu cầu cơ quan đã khởi tố ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự; nếu Cơ quan đã khởi tố không nhất trí thì báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự.

+ Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi thay đổi hoặc bổ sung, Kiểm sát viên gửi các quyết định này cho

cơ quan đã khởi tố để tiến hành điều tra theo quy định tại khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

+ Nếu thấy quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự của cơ quan đã ra quyết định không có căn cứ thì Kiểm sát viên thụ lý vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng

hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền yêu cầu cơ quan đó quyết định hoặc trực tiếp ra quyết định huỷ bỏ quyết định đó.

- Đối với quyết định khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên thụ lý vụ án phải kiểm tra tính có căn cứ của quyết định khởi tố đó và báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xử lý như sau:

+ Nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự có căn cứ thì chuyển quyết định khởi tố vụ án hình sự kèm theo các tài liệu có liên quan đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra;

+ Nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ thì kháng nghị lên Toà án cấp trên.

Kiểm sát việc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự:

- Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ khi nhận được quyết định không khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu có liên quan của Cơ quan điều tra hoặc các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra phân công Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của các quyết định đó.

- Các tài liệu, chứng cứ mà Kiểm sát viên cần phải kiểm tra, xem xét, đánh giá bao gồm: Quyết định không khởi tố vụ án hình sự; các tài liệu, chứng cứ ban đầu do các cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang và cá nhân cung cấp kèm theo đơn tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố đã được Cơ quan điều tra có thẩm quyền kiểm tra, xác minh; biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi (Đối với các trường hợp chết người chưa rõ nguyên nhân, tai nạn giao thông) biên bản khám nghiệm hiện trường (đối với các trường hợp trộm cắp tài sản; cướp tài sản, hiếp dâm...) cùng với các tài liệu, tang vật đã được phát hiện, thu giữ; kết quả giám định các dấu vết, tang vật như giám định dấu vết máu, dấu vết súng đạn, dấu vết đường vân...; biên bản đã ghi lời khai của người bị hại, người làm chứng...

- Trên cơ sở kết quả kiểm tra các tài liệu, chứng cứ dùng làm cơ sở để ra quyết định không khởi tố vụ án, Kiểm sát viên báo cáo tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định đó với Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc lãnh đạo đơn vị và xử lý như sau:

+ Nếu thấy quyết định không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan đã khởi tố có căn cứ thì thông báo cho các cơ quan đó biết; nếu chưa rõ căn cứ thì yêu cầu các cơ quan này bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ.

+ Nếu thấy quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra không có căn cứ thì yêu cầu Cơ quan điều tra huỷ bỏ và ra quyết định khởi tố vụ án; hoặc Kiểm sát viên báo cáo người có thẩm quyền ra quyết định huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án và ra quyết định khởi tố vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTHS và gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.

+ Nếu thấy quyết định không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn cứ thì Kiểm sát viên báo cáo người có thẩm quyền ra quyết định huỷ bỏ quyết định này và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự; đồng thời, yêu cầu cơ quan đã ra quyết định không khởi tố vụ án chuyển toàn bộ tài liệu có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra.

Giải quyết yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử:

- Khi nhận được yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên thụ lý vụ án tiến hành kiểm tra các tài liệu, chứng cứ và báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền để xử lý như sau:

+ Nếu thấy yêu cầu khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử có căn cứ thì ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và chuyển ngay quyết định đó kèm theo tài liệu có liên quan đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra;

+ Nếu thấy yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử không có căn cứ thì ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự và gửi quyết định đó cho Toà án nơi Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố.

Xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can:

- Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra hoặc cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Kiểm sát viên thụ lý vụ án tiến hành kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố bị can.

Kiểm sát viên phải tiến hành nghiên cứu, kiểm tra các văn bản, tài liệu, chứng cứ có liên quan, như: Công văn đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; Quyết định khởi tố vụ án; Quyết định khởi tố bị can; Biên bản giao quyết định khởi tố bị can. Các tài liệu làm căn cứ khởi tố bị can bao gồm: Đơn tố giác, tin báo về tội phạm và các tài liệu ban đầu do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; tài liệu do Cơ quan điều tra kiểm tra, xác minh; Biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; Biên bản, kết luận giám định; Biên bản, kết quả định giá tài sản; Biên bản ghi lời khai của người làm chứng, người bị hại; Biên bản nhận dạng, đối chất; Biên bản bắt, khám xét khẩn cấp; Biên bản phạm tội quả tang; Biên bản ghi lời khai của người bị tình nghị thực hiện tội phạm, người bị bắt, bị tạm giữ; biên bản hỏi cung bị can; Trích, sao quyết định xử phạt hành chính; Bản kê các tài liệu trong hồ sơ và từng trang tài liệu được đánh dấu bút lục của Cơ quan điều tra.

-

Sau khi kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định khởi tố bị can, nếu thấy quyết định khởi tố bị can có căn cứ và hợp pháp thì Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền để quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và gửi ngay cho cơ quan đã khởi tố. Nếu thấy chưa rõ căn cứ xác định bị can phạm tội thì Kiểm sát viên yêu cầu cơ quan đã khởi tố bổ sung tài liệu, chứng cứ làm rõ căn cứ khởi tố.

- Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án có thể hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại để làm rõ căn cứ khởi tố bị can trước khi báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, quyết định việc phê chuẩn hay huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can. Biên bản ghi lời khai những người này do Kiểm sát viên lập được chuyển cho cơ quan đã khởi tố để đưa vào hồ sơ vụ án.

- Nếu thấy ngoài bị can đã bị khởi tố còn có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố thì Kiểm sát viên thụ lý vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can đối với người đó; trong trường hợp sau khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra mà phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án mà chưa bị khởi tố thì Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng để xem xét, quyết định việc khởi tố bị can theo qui định tại khoản 5 Điều 126 BLTTHS.

- Nếu hết thời hạn tạm giữ vẫn không đủ căn cứ phê chuẩn quyết định khởi tố bị can đối với người đang bị tạm giữ thì Kiểm sát viên thụ lý vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can và yêu cầu cơ quan đã khởi tố bị can trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

- Trong quá trình kiểm sát điều tra, nếu thấy hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố mà phạm vào tội khác hoặc còn có hành vi phạm tội khác với tội danh đã khởi tố thì Kiểm sát viên thụ lý vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can hoặc trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can và gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, theo quy định tại khoản 2 Điều 127 BLTTHS.

- Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án kiểm tra tài liệu, chứng cứ, báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra quyết định phê chuẩn hoặc huỷ bỏ quyết định bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố bị can và gửi cho Cơ quan điều tra.

- Trường hợp phải thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự.

- Nếu quá trình điều tra xác định được hành vi của bị can phạm vào tội được quy định tại khoản khác với khoản trong cùng một điều luật về cùng một tội danh đã khởi tố đối với bị can thì không phải thay đổi quyết định khởi tố bị can.

- Nếu thấy cần tạm giam bị can theo thời hạn của tội phạm quy định tại khoản của điều luật có khung hình phạt nặng hơn hoặc chuyển vụ án để điều tra, truy tố theo thẩm quyền thì phải ghi rõ lý do này trong lệnh tạm giam hoặc trong quyết định chuyển vụ án.



2.2. Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn.

Xét phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp:

- Theo

khoản 4 Điều 81 BLTTHS, trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, (thời hạn 12 giờ xét phê chuẩn được tính liên tục kể cả trong và ngoài giờ làm việc), Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.

- Ngay sau khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp,

Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án kiểm tra các tài liệu, chứng cứ chứng minh tính có căn cứ của việc bắt khẩn cấp đối với từng trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 81 BLTTHS.

- Nếu

qua nghiên cứu hồ sơ thấy có dấu hiệu của việc lạm dụng việc bắt khẩn cấp, tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ chưa thể hiện rõ căn cứ để bắt khẩn cấp hoặc

người bị bắt không nhận tội, các chứng cứ trong hồ sơ có mâu thuẫn, người bị bắt là người nước ngoài, người có chức sắc trong tôn giáo, người có uy tín trong đồng bào dân tộc ít người hoặc trong trường hợp cần thiết khác thì Kiểm sát viên trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, quyết định việc phê chuẩn.

- Khi cần gặp, hỏi người bị bắt khẩn cấp, Kiểm sát viên thông báo trước với Cơ quan điều tra để phối hợp trong quá trình gặp, hỏi người bị bắt. Biên bản ghi lời khai của người bị bắt do Kiểm sát viên lập phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 95 và Điều 125

BLTTHS và được lưu vào hồ sơ vụ án và hồ sơ kiểm sát.

-

Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Thời hạn này được tính liên tục, kể cả trong và ngoài giờ làm việc.

Kiểm sát việc tạm giữ:

- Theo khoản 3 Điều 86 BLTTHS, trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

- Khi nhận được quyết định tạm giữ, gia hạn tạm giữ của Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên tiến hành kiểm tra ngay tính có căn cứ và hợp pháp của việc tạm giữ, gia hạn tạm giữ để báo cáo

Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xử lý như sau:

+

Nếu

thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định huỷ bỏ quyết định tạm giữ hoặc trực tiếp ra quyết định huỷ bỏ quyết định tạm giữ và yêu cầu Cơ quan điều tra trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

+ Nếu

xét thấy việc gia hạn tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết

thì ra quyết định không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và yêu cầu người đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ theo quy định tại Điều 87

BLTTHS.

+ Nếu thấy việc gia hạn tạm giữ có căn cứ và cần thiết thì ra quyết định phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ.

+ Hàng tuần, Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra phối hợp với Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra nắm số người bị bắt, bị tạm giữ, gia hạn tạm giữ; số người chuyển sang tạm giam; số người được trả tự do hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác; số người Viện kiểm sát không phê chuẩn việc bắt khẩn cấp, không phê chuẩn gia hạn tạm giữ; số người bị bắt không xử lý được bằng biện pháp hình sự; phát hiện và tổng hợp vi phạm của Cơ quan điều tra và báo cáo bằng văn bản lên Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.

Phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam:

- Theo các quy định tại Điều 80 và Điều 88 BLTTHS thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp có quyền ra lệnh bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam nhưng phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

- Trong thời hạn ba ngày, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam kèm theo tài liệu có liên quan của Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên kiểm tra tài liệu, chứng cứ, đối chiếu với quy định tại Điều 80 và Điều 88 BLTTHS để làm rõ thẩm quyền, đối tượng, điều kiện tạm giam đối với từng trường hợp và báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, quyết định việc phê chuẩn và hoàn trả hồ sơ ngay cho Cơ quan điều tra. Trường hợp chưa rõ căn cứ thì ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung tài liệu chứng cứ làm rõ căn cứ để xem xét, quyết định việc phê chuẩn.

- Theo quy định tại khoản 2 Điều 88 BLTTHS, đối với bị can là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây: Bị can bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; bị can được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố; bị can phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì họ sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

Nếu thấy đủ căn cứ để tạm giam bị can theo quy định tại Điều 88 BLTTHS và cần thiết phải tạm giam bị can, nhưng Cơ quan điều tra không ra lệnh bắt bị can để tạm giam, thì Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra ra lệnh bắt bị can để tạm giam.

- Sau khi phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam bị can, Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án phải kiểm sát chặt chẽ việc thi hành lệnh bắt bị can và thời hạn tạm giam bị can để kịp thời báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, xử lý như sau:

+ Nếu còn thời hạn tạm giam nhưng thấy biện pháp tạm giam đối với bị can không còn cần thiết thì đề nghị Cơ quan điều tra ra quyết định huỷ bỏ biện pháp tạm giam hoặc thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn khác.

+ Nếu thời hạn tạm giam còn không quá 10 ngày mà Cơ quan điều tra chưa có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam bị can, thì Kiểm sát viên trao đổi với Điều tra viên để phối hợp xem xét vấn đề này.

Trong thời hạn không quá 5 ngày trước khi hết hạn tạm giam, Kiểm sát viên thụ lý vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền để xem xét, quyết định một trong các phương án xử lý việc tạm giam bị can, như đề nghị Cơ quan điều tra huỷ bỏ, thay thế biện pháp tạm giam; gia hạn tạm giam đối với bị can hoặc Viện kiểm sát trực tiếp huỷ bỏ biện pháp tạm giam đối với bị can.

Quyết định gia hạn tạm giam để điều tra:

- Theo quy định tại khoản 2 Điều 120 BLTTHS, trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.

- Đối với các vụ án được thụ lý điều tra ở cấp tỉnh và thuộc trường hợp được quy định tại đoạn 1 khoản 5 Điều 120 BLTTHS, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền cho Kiểm sát viên giữ chức vụ Vụ trưởng đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra xem xét, quyết định việc gia hạn tạm giam lần thứ ba.

- Trong trường hợp vụ án được thụ lý điều tra ở cấp Trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền cho Kiểm sát viên giữ chức vụ Vụ trưởng đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra xem xét, quyết định việc gia hạn thời hạn tạm giam lần thứ nhất và lần thứ hai; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền xem xét, quyết định việc gia hạn tạm giam lần thứ ba.

- Trong trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền xem xét, quyết định gia hạn tạm giam thêm một lần nữa không quá bốn tháng.

- Những trường hợp gia hạn tạm giam bị can thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp thì Viện kiểm sát cấp dưới phải có văn bản đề nghị gia hạn, trong đó báo cáo rõ các vấn đề như: Nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can, lý do đề nghị gia hạn và chuyển hồ sơ vụ án lên Viện kiểm sát cấp trên.

+ Chậm nhất năm ngày làm việc trước khi hết hạn tạm giam, hồ sơ vụ án kèm theo văn bản đề nghị gia hạn phải có ở Viện kiểm sát cấp trên để xem xét, quyết định việc gia hạn.

+ Trong thời hạn không quá năm ngày làm việc, kể từ khi nhận được văn bản đề nghị và hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát cấp trên phải ra quyết định gia hạn hoặc không gia hạn tạm giam; nếu không gia hạn tạm giam thì trong quyết định không gia hạn tạm giam phải nêu rõ lý do và được gửi ngay cho Viện kiểm sát cấp dưới.

Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn khác:

Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án phải kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn khác của Cơ quan điều tra, gồm: Cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 91 BLTTHS), bảo lĩnh (Điều 92 BLTTHS), đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm (Điều 93 BLTTHS), bảo đảm việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn này có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

2.3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động điều tra

Đề ra yêu cầu điều tra

- Để thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên cần chủ động trao đổi với Điều tra viên được phân công điều tra vụ án về những vấn đề cần điều tra ngay từ khi kiểm sát việc khởi tố vụ án, khám nghiệm hiện trường và trong quá trình điều tra.

- Kiểm sát viên có thể đề ra yêu cầu điều tra bằng lời nói hoặc bằng văn bản trong quá trình trực tiếp kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám xét, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, đối chất, thực nghiệm điều tra. Đối với các trường hợp khác, khi đề ra yêu cầu điều tra, Kiểm sát viên phải có văn bản yêu cầu điều tra, nêu rõ những vấn đề cần điều tra để thu thập, củng cố chứng cứ; hoàn thiện các thủ tục tố tụng hoặc để làm rõ những tình tiết liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự được quy định tại Điều 63 BLTTHS.

- Đối với những vụ án trọng điểm, phức tạp, những vụ án được dư luận đặc biệt quan tâm và những trường hợp thấy có thể phải thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì Kiểm sát viên phải báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền trước khi ký văn bản yêu cầu điều tra. Văn bản yêu cầu điều tra phải được lưu vào hồ sơ kiểm sát một bản.

- Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ hoạt động điều tra của Điều tra viên, bảo đảm các yêu cầu điều tra được thực hiện đầy đủ. Khi thấy có vấn đề cần phải điều tra thêm, Kiểm sát viên kịp thời bổ sung yêu cầu điều tra; nếu Điều tra viên đề nghị, Kiểm sát viên có trách nhiệm giải thích rõ nội dung những yêu cầu điều tra. Trường hợp Điều tra viên không nhất trí thì Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, kiến nghị với Thủ trưởng Cơ quan điều tra giải quyết. Nếu do điều kiện khách quan mà Cơ quan điều tra không thực hiện được đầy đủ các yêu cầu điều tra thì phải nêu rõ lý do trong Bản kết luận điều tra vụ án.

Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường

- Kiểm sát viên phải kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường đối với tất cả các vụ việc mà Cơ quan điều tra tiến hành khám nghiệm. Đối với những vụ án gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, những vụ án giết người không quả tang hoặc những vụ án phức tạp thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng trực tiếp hoặc cùng Kiểm sát viên kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường.

- Trước khi khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên phải chủ động nắm tình hình, yêu cầu Điều tra viên thông báo sự việc xảy ra để tham gia ý kiến vào việc chuẩn bị khám nghiệm, chủ động yêu cầu Điều tra viên tiến hành khám nghiệm hiện trường và lập biên bản khám nghiệm hiện trường theo đúng quy định tại Điều 150 và Điều 154 BLTTHS.

- Nếu thấy người làm chứng, người bị hại hoặc bị can có thể chết hoặc mất khả năng khai báo, thì Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều tra viên lấy lời khai và ghi âm lời khai của họ.

- Trong quá trình khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động khám nghiệm.

 

Kiểm sát viên có thể chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, xem xét tại chỗ dấu vết, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án, lấy lời khai và ghi âm lời khai của người bị hại, người làm chứng... Các tài liệu này được lưu trong hồ sơ kiểm sát.

Một số vấn đề Kiểm sát viên cần chú ý khi kiểm sát khám nghiệm hiện trường:

+ Kiểm sát viên phải nắm tình hình về hiện trường (qua thông báo của Điều tra viên, dư luận nhân dân xung quanh hiện trường); tự mình quan sát và phân tích các yếu tố để kiểm tra tình trạng hiện trường xem còn nguyên vẹn hay đã bị thay đổi, nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi ấy (các yếu tố con người, yếu tố thời tiết mưa nắng, bão lụt và động vật qua lại…); xác định phạm vi cần khám nghiệm và những loại dấu vết, đồ vật cần được xem xét, thu giữ.

+ Đề xuất yêu cầu khám nghiệm cho phù hợp trên cơ sở tư duy logic; nghiên cứu quy luật hình thành dấu vết để suy đoán có thể phát hiện được loại dấu vết nào, ở đâu; dấu vết hình thành đúng hay trái với quy luật thông thường, sự phù hợp hay mâu thuẫn giữa các dấu vết, vật chứng để yêu cầu thu thập đầy đủ dấu vết, tránh làm mất dấu vết hoặc làm thay đổi tình trạng hiện trường. Chú ý xác định có hay không việc tạo hiện trường giả sau khi gây án.

+ Yêu cầu Điều tra viên, kỹ thuật viên thực hiện đúng thủ tục tố tụng, phương pháp khám nghiệm trong việc vẽ sơ đồ, chụp ảnh; đo đạc theo đúng kích thước; tỷ lệ để mô tả đúng thực trạng hiện trường, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án.

+ Phối hợp cùng với Điều tra viên đánh giá dấu vết, vật chứng đã thu lượm được để đặt ra các giả thuyết điều tra, định hướng cho việc khám nghiệm, thu lượm dấu vết được đầy đủ, chính xác và công tác truy tìm vật chứng, truy bắt thủ phạm.

+ Chú ý xác định các dấu vết, đồ vật, các tài liệu quan trọng cần xem xét; những dấu vết, đồ vật, mẫu vật, tài liệu cần thu giữ, bảo quản nguyên trạng để phục vụ cho việc giám định và sử dụng làm chứng cứ.

+ Kiểm tra việc lấy lời khai những người biết về sự việc ngay tại hiện trường; trường hợp người làm chứng, người bị hại hoặc bị can có thể chết hoặc mất khả năng khai báo.

+ Kiểm sát viên phải ghi chép cẩn thận các tình tiết, đặc điểm các dấu vết quan trọng tại hiện tượng; vẽ sơ đồ đặc điểm tả những phần, vị trí quan trọng để có cơ sở, tư liệu đối chiếu kiểm tra biên bản, sơ đồ khám nghiệm hiện trường. Yêu cầu biên bản khám nghiệm hiện trường phải được lập, sơ đồ hiện trường phải được vẽ ngay tại nơi khám nghiệm.

+ Phối hợp cùng Điều tra viên phân tích, đánh giá đúng kết quả khám nghiệm; xem xét quyết định tiếp tục bảo vệ hiện trường để có thể khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại; xác định rõ những dấu vết, vật chứng cần được trưng cầu giám định; nội dung cần trưng cầu để phục vụ cho công tác điều tra, giải quyết vụ án.

+ Yêu cầu Điều tra viên và những người tham gia khám nghiệm giữ bí mật về kết quả khám nghiệm hiện trường, coi đó là bí mật điều tra không được tiết lộ, gây khó khăn cho công tác điều tra.

+

Sau khi khám nghiệm, Kiểm sát viên phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc

Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra về kết quả khám nghiệm hiện trường để có ý kiến chỉ đạo; trong khi kiểm sát việc khám nghiệm hoặc sau khi kết thúc khám nghiệm, nếu thấy việc khám nghiệm chưa đầy đủ, vi phạm các quy định tại Điều 150 và Điều 154 BLTTHS thì yêu cầu Điều tra viên khắc phục.

Kiểm sát việc khám nghiệm tử thi

- Kiểm sát viên phải kiểm sát việc khám nghiệm tử thi trong mọi trường hợp khám nghiệm tử thi theo sự phân công. Khi thấy cần thiết, Viện trưởng, Phó Viện trưởng có thể trực tiếp hoặc cùng Kiểm sát viên kiểm sát việc khám nghiệm tử thi.

- Kiểm sát viên phải chủ động yêu cầu Điều tra viên thực hiện đúng các quy định tại Điều 151 và Điều 154 BLTTHS về khám nghiệm tử thi và lập biên bản khám nghiệm tử thi.

- Trong quá trình khám nghiệm, Kiểm sát viên yêu cầu Hội đồng khám nghiệm xem xét đầy đủ các dấu vết, thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ nguyên nhân chết, tung tích của nạn nhân.

+ Trường hợp phải khai quật tử thi để khám nghiệm thì Kiểm sát viên phải kiểm tra về sự cần thiết khai quật; trình tự, thủ tục tiến hành khai quật theo đúng qui định của pháp luật tố tụng hình sự.

+ Sau khi khám nghiệm, Kiểm sát viên vào sổ thụ lý khám nghiệm; đồng thời báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra về kết quả khám nghiệm tử thi để có ý kiến chỉ đạo.

+ Nếu phát hiện việc khám nghiệm vi phạm các quy định tại Điều 151 và Điều 154

BLTTHS, Kiểm sát viên cần trao đổi với Điều tra viên khắc phục vi phạm hoặc báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục kịp thời.

Kiểm sát việc khám xét, thu giữ, tạm giữ vật chứng, kê biên tài sản

- Kiểm sát viên kiểm sát việc khám xét, thu giữ, tạm giữ vật chứng, kê biên tài sản phải yêu cầu Điều tra viên và những người tham gia khám xét chấp hành đúng các quy định tại các Điều 75, 140, 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 và 148 BLTTHS và các quy định pháp luật hiện hành.

- Đối với những trường hợp Cơ quan điều tra đề nghị phê chuẩn lệnh khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm; lệnh thu giữ thư tín, bưu kiện, bưu phẩm thì Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của các lệnh này và báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xử lý như sau:

+ Nếu đề nghị phê chuẩn của Cơ quan điều tra có đủ căn cứ thì ra quyết định phê chuẩn;

+ Nếu đề nghị phê chuẩn của Cơ quan điều tra không có căn cứ thì ra quyết định không phê chuẩn và nêu rõ lý do.

- Đối với những trường hợp không thể trì hoãn, lệnh khám xét hoặc thu giữ bưu kiện, bưu phẩm không có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, thì ngay sau khi nhận được văn bản thông báo việc khám xét, Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của các lệnh, biên bản khám xét để kịp thời phát hiện vi phạm, báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục; đồng thời, theo dõi và kiểm tra việc bảo quản tài sản, xử lý vật chứng, giải quyết xử lý kịp thời những vấn đề liên quan đến vật chứng, tài sản theo quy định tại Điều 75 và Điều 76 BLTTHS.

Kiểm sát việc lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án

- Để thu thập chứng cứ, xác định sự thật vụ án, Kiểm sát viên cần chủ động yêu cầu Điều tra viên kịp thời lấy lời khai của những người làm chứng và người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; không để sót những người làm chứng quan trọng mà họ trực tiếp nghe được, nhìn thấy hành vi phạm tội, bảo đảm cho họ thực hiện quyền đưa ra tài liệu, đồ vật và những yêu cầu của mình để làm rõ vụ án; nếu thấy cần thiết thì đồng thời với việc ghi lời khai, có thể tiến hành ghi âm, chụp ảnh, ghi hình.

- Khi kiểm sát việc lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên thực hiện đúng các quy định tại các Điều 133, 134, 135, 136 và 137 BLTTHS.

- Trong quá trình điều tra và sau khi kết thúc điều tra vụ án, Kiểm sát viên có thể triệu tập và lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án để kiểm tra chứng cứ trong các trường hợp lời khai của họ có mâu thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với những chứng cứ khác đã thu thập hoặc có nghi ngờ về tính trung thực, khách quan trong lời khai của họ. Nếu việc triệu tập để lấy lời khai thực hiện trước khi kết thúc điều tra thì Kiểm sát viên thông báo cho Điều tra viên thụ lý vụ án về thời gian, địa điểm tiến hành việc lấy lời khai của những người này trước khi lấy lời khai để phối hợp thực hiện.

- Kiểm sát viên phải thực hiện đúng quy định tại các Điều 133, 135, 136 và 137 BLTTHS trong việc triệu tập, lấy lời khai và ghi biên bản lời khai. Biên bản ghi lời khai do Kiểm sát viên tiến hành phải được đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu hồ sơ kiểm sát một bản.

Kiểm sát việc hỏi cung bị can

- Kiểm sát viên cần chủ động bàn với Điều tra viên kế hoạch và đề ra yêu cầu hỏi cung bị can ngay sau khi khởi tố bị can để làm rõ những vấn đề liên quan đến tội phạm đã khởi tố. Nếu thấy việc hỏi cung chưa đạt yêu cầu hoặc có vấn đề mới phát sinh thì Kiểm sát viên tiếp tục nêu yêu cầu để Điều tra viên hỏi cung làm rõ. Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc hỏi cung bị can và việc lập biên bản hỏi cung bị can của Điều tra viên, bảo đảm việc hỏi cung và lập biên bản hỏi cung bị can thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 131 và Điều 132 BLTTHS.

- Trong quá trình điều tra vụ án, khi có đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc thấy bị can kêu oan, lời khai của bị can trước sau không thống nhất, lúc nhận tội, lúc chối tội; bị can khiếu nại về việc điều tra; có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực trong lời khai bị can hoặc trường hợp bị can bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng thì Kiểm sát viên trực tiếp gặp, hỏi cung bị can. Trước khi hỏi cung, Kiểm sát viên phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra để xin ý kiến chỉ đạo và thông báo trước cho Điều tra viên biết.

- Sau khi kết thúc điều tra, nhận hồ sơ vụ án từ Cơ quan điều tra chuyển sang, Kiểm sát viên có thể trực tiếp hỏi cung bị can để kiểm tra tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Việc hỏi cung bị can và lập biên bản hỏi cung bị can do Kiểm sát viên tiến hành phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 131 và Điều 132

BLTTHS. Biên bản hỏi cung bị can của Kiểm sát viên phải được đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu hồ sơ kiểm sát một bản.

Kiểm sát việc đối chất và nhận dạng

-Trong quá trình kiểm sát điều tra, nếu thấy có mâu thuẫn trong lời khai giữa bị can, người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án,

hoặc khi cần thiết phải nhận dạng người hay đồ vật, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên tiến hành việc đối chất hoặc nhận dạng.

- Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc đối chất hoặc nhận dạng, bảo đảm các hoạt động này được thực hiện theo đúng các quy định tại Điều 138 và Điều 139 BLTTHS. Kiểm sát viên có thể trực tiếp hoặc phối hợp cùng Điều tra viên tiến hành việc đối chất. Khi trực tiếp tiến hành đối chất, Kiểm sát viên thông báo trước cho Điều tra viên biết.

- Sau khi kết thúc điều tra, Viện kiểm sát đã nhận hồ sơ vụ án, nếu thấy có mâu thuẫn trong lời khai của những người tham gia tố tụng thì Kiểm sát viên có thể tiến hành đối chất để làm rõ mà không phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung. Nếu

thấy cần phải nhận dạng thì Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành việc nhận dạng.

- Việc đối chất và lập biên bản đối chất do Kiểm sát viên tiến hành phải được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 138BLTTHS. Biên bản đối chất phải được đưa vào hồ sơ vụ án và sao, lưu hồ sơ kiểm sát một bản.

Kiểm sát việc thực nghiệm điều tra

-Kiểm sát viên cần yêu cầu Điều tra viên thực nghiệm điều tra đối với những vụ án cần kiểm tra và xác minh những tài liệu, những tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án. Kiểm sát viên cần nghiên cứu nội dung, kế hoạch thực nghiệm điều tra; kiểm sát việc thực nghiệm điều tra, bảo đảm việc thực nghiệm điều tra và lập biên bản thực nghiệm điều tra tuân thủ đúng các quy định tại Điều 153 và Điều 154 BLTTHS.

- Kiểm sát viên có thể trực tiếp hoặc cùng Điều tra viên tiến hành việc thực nghiệm điều tra. Khi tiến hành thực nghiệm điều tra, Kiểm sát viên thông báo trước cho Điều tra viên biết.

Sau khi kết thúc điều tra, Viện kiểm sát đã nhận hồ sơ vụ án, qua nghiên cứu xét thấy cần phải thực nghiệm điều tra hoặc thực nghiệm điều tra lại để kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tình tiết vụ án thì Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để thực nghiệm điều tra hoặc thực nghiệm điều tra lại.

Trường hợp thấy việc thực nghiệm điều tra hoặc thực nghiệm điều tra lại đối với hành vi, tình huống đơn giản thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra tổ chức việc thực nghiệm điều tra. Việc thực nghiệm điều tra và lập biên bản thực nghiệm điều tra của Viện kiểm sát phải

tuân thủ các quy định tại Điều 153 và Điều 154 BLTTHS. Biên bản thực nghiệm điều tra phải được đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu hồ sơ kiểm sát một bản.

Kiểm sát việc trưng cầu giám định và việc giám định

- Kiểm sát viên cần chủ động phát hiện các vấn đề cần phải giám định để báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành trưng cầu giám định. Kiểm sát viên phải kiểm sát việc trưng cầu giám định của Cơ quan điều tra và việc giám định của người giám định theo đúng quy định tại các Điều 155, 156, 157 và 158 BLTTHS.

Kiểm sát viên có quyền tham dự việc giám định đối với những trường hợp phức tạp, nhưng phải báo trước cho người giám định.

- Kiểm sát viên kiểm sát việc giám định nhằm bảo đảm nội dung trưng cầu giám định phải cụ thể, sát sự việc và những vấn đề cần kết luận; kết luận giám định phải giải đáp các nội dung của quyết định trưng cầu giám định.

- Nếu thấy nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc phát sinh những vấn đề mới liên quan đến các tình tiết vụ án đã được kết luận trước đó, thì Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra trưng cầu giám định bổ sung hoặc trực tiếp ra quyết định trưng cầu giám định bổ sung.

- Nếu thấy có nghi ngờ về kết quả giám định hoặc có mâu thuẫn trong các kết luận giám định về cùng một vấn đề thì Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định trưng cầu giám định lại hoặc trực tiếp ra quyết định trưng cầu giám định lại.

Kiểm sát viên phải kiểm sát để đảm bảo việc giám định bổ sung và giám định lại theo đúng quy định tại Điều 159 BLTTHS.

Kiểm sát việc dùng tiếng nói và chữ viết trong tố tụng hình sự

- Kiểm sát viên thực hiện các hoạt động kiểm sát để đảm bảo mọi hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành bằng tiếng Việt; người tham gia tố tụng dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình theo qui định của BLTTHS.

- Đối với người bị tạm giữ, bị can và những người tham gia tố tụng khác mà không sử dụng được tiếng Việt hoặc bị câm, bị điếc, Kiểm sát viên cần chủ động yêu cầu Điều tra viên bảo đảm cho họ có quyền thông qua người phiên dịch hoặc người biết dấu hiệu của người câm, người điếc để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.

Kiểm sát viên cần chủ động yêu cầu Điều tra viên giải thích quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch cũng như người biết dấu hiệu của người câm, người điếc theo qui định của pháp luật. Việc phiên dịch, diễn tả bằng tiếng việt dấu hiệu của người câm, người điếc phải được ghi biên bản theo quy định tại Điều 95 BLTTHS và đưa vào hồ sơ vụ án.

Kiểm sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng

- Kiểm sát viên cần chủ động yêu cầu Điều tra viên giải thích và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can và những người tham gia tố tụng khác trong hoạt động điều tra theo quy định tại Điều 62 BLTTHS. Việc giải thích quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng phải được ghi vào biên bản theo quy định tại Điều 95 BLTTHS và đưa vào hồ sơ vụ án.

- Trong quá trình kiểm sát điều tra, khi xác định bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS mà bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa, thì Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.

+ Trường hợp các tổ chức trên đã cử người bào chữa, nhưng bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu thay đổi người bào chữa thì Kiểm sát viên căn cứ vào khoản 2 và khoản 3 Điều 56 BLTTHS yêu cầu Điều tra viên báo cáo Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra xem xét, giải quyết.

+ Trường hợp các tổ chức trên đã cử người bào chữa, nhưng bị can và người đại diện hợp pháp của họ từ chối người bào chữa thì Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều tra viên lập biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án.

- Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ khi nhận được đề nghị tham gia tố tụng trong giai đoạn truy tố của người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, Kiểm sát viên xem xét các giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, việc bảo vệ quyền lợi của đương sự theo quy định của pháp luật và báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền cấp giấy chứng nhận người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự để họ tham gia tố tụng; trường hợp từ chối cấp giấy chứng nhận phải nêu rõ lý do và thông báo cho họ biết.

Kiểm sát việc nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra.

Khi nhận được quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, nếu thấy việc nhập hoặc tách vụ án hình sự không có căn cứ thì Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra quyết định huỷ bỏ quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự, bảo đảm việc nhập hoặc tách vụ án hình sự theo đúng quy định tại Điều 117 BLTTHS.

Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra

- Khi có tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa các Cơ quan điều tra thuộc các ngành khác nhau thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp nơi tội phạm xảy ra hoặc nơi phát hiện tội phạm quyết định.

- Khi có tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa các Cơ quan điều tra cùng ngành ở cấp nào thì Viện trưởng Viện kiểm sát cấp đó yêu cầu Thủ trưởng quản lý cùng cấp giải quyết.

- Trong trường hợp cần thiết, Cơ quan điều tra có thẩm quyền có quyền yêu cầu cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển ngay hồ sơ vụ án để trực tiếp điều tra. Khi có tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền nơi xảy ra vụ án quyết định.

Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án

- Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc lập hồ sơ vụ án hình sự của Điều tra viên, bảo đảm từng trang tài liệu trong hồ sơ bắt khẩn cấp, hồ sơ khởi tố vụ án, hồ sơ khởi tố bị can và các hồ sơ khác trong quá trình điều tra phải được đóng dấu bút lục của Cơ quan điều tra và kèm theo bảng kê đầy đủ tên tài liệu, số trang từng tài liệu và lưu trong hồ sơ vụ án. Nếu các hồ sơ gửi Viện kiểm sát xét phê chuẩn, thì sau khi kết thúc việc phê chuẩn, Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án phải đóng dấu bút lục của Viện kiểm sát vào các tài liệu đó và chuyển cho Cơ quan điều tra đưa vào hồ sơ vụ án. Trong quá trình khởi tố, điều tra, tài liệu của Cơ quan điều tra hoặc của Viện kiểm sát thu thập đều phải được đưa vào hồ sơ vụ án theo đúng trình tự tố tụng hình sự như khởi tố, điều tra vụ án. Sau khi kết thúc điều tra, các tài liệu trong hồ sơ do Cơ quan điều tra thống nhất đánh số thứ tự một lần và lập bảng thống kê đầy đủ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án từ 01 cho đến hết.

- Kiểm sát viên phải thực hiện một số yêu cầu sau khi kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của Điều tra viên:

+ Nâng cao chất lượng đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Việc này giúp cho Kiểm sát viên kiểm sát được các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

+ Trong quá trình kiểm sát việc thiết lập các tài liệu, thu thập chứng cứ của Điều tra viên thông qua việc kiểm sát nội dung và hình thức của các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì cần chú ý đến nội dung các biên bản được lập trong các hoạt động tố tụng… đảm bảo các tài liệu này phải được thiết lập theo đúng trình tự của quy định BLTTHS và đảm bảo tính chặt chẽ về nội dung.

+ Kiểm sát viên phải chú ý kiểm sát tính khách quan và sự phù hợp về thời gian, địa điểm trong các tài liệu do Điều tra viên thu thập, như: Thời gian, địa điểm hỏi cung hoặc ghi lời khai không được mâu thuẫn với nhau.

+ Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều tra viên cung cấp đầy đủ tài liệu khi xem xét phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo đúng quy định của Thông tư liên tịch số 05/2005 như các tài liệu trong hồ sơ xét phê chuẩn lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp; hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và phê chuẩn lệnh tạm giam trong trường hợp người đang bị tạm giữ bị khởi tố bị can; hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can (trường hợp không bị tạm giữ), quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can v.v.

+ Khi xét phê chuẩn các quyết định hoặc khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên nên phô tô những tài liệu quan trọng để lưu vào hồ sơ kiểm sát. Tuy nhiên, cũng cần tránh tình trạng lấy việc phô tô tất cả các tài liệu thay cho việc trích cứu tài liệu trong hồ sơ chính của vụ án khi lập hồ sơ kiểm sát.

+ Khi Kiểm sát viên tiến hành một số hoạt động điều tra ngay trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như: Hỏi cung bị can, ghi lời khai người làm chứng, đối chất, thực nghiệm điều tra... Những hoạt động này là một biện pháp nhằm kiểm sát quá trình lập hồ sơ của Điều tra viên, thẩm định lại các tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Đối với các tài liệu do Kiểm sát viên thu thập trong quá trình xét phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra như: Biên bản ghi lời khai người tạm giữ, biên bản hỏi cung bị can… phải được chuyển cho Cơ quan điều tra để đưa vào hồ sơ vụ án. Việc chuyển giao này phải được lập thành biên bản ghi rõ tên tài liệu, số trang tài liệu.

+ Khi kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của Điều tra viên còn cần phải kiểm sát việc tuân thủ các thủ tục tố tụng của các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án: Kiểm sát nội dung các quyết định tố tụng như: Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; quyết định phục hồi điều tra vụ án, bị can, quyết định tạm giữ và lệnh tạm giam… đảm bảo cho các quyết định này được thiết lập đúng theo các quy định của tố tụng hình sự; đúng mẫu ban hành của Bộ Công an; do người có thẩm quyền ra quyết định; đủ căn cứ ban hành quyết định; thể hiện rõ nội dung hành vi; điều khoản áp dụng, thậm chí cả con dấu, chữ ký, dấu chức danh cũng phải đảm bảo đúng quy định của tố tụng.

+ Kiểm sát viên cần đặc biệt chú ý kiểm sát nội dung hành vi bị khởi tố và điều luật áp dụng trong các quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can, vì vấn đề này trong thực tế Điều tra viên không để ý và thường có sai sót dẫn đến vi phạm tố tụng. Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tống đạt, giao nhận, thông báo các quyết định tố tụng tới các đối tượng có liên quan và những người tham gia tố tụng khác nhằm đảm bảo các quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan của những người tham gia tố tụng, như: Tống đạt các quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung Quyết định khởi tố bị can và các quyết định khác của Cơ quan điều tra, các quyết định phê chuẩn, không phê chuẩn của Viện kiểm sát tới bị can.

- Sau khi kết thúc điều tra, nhận hồ sơ vụ án, những tài liệu do Viện kiểm sát thu thập ở giai đoạn truy tố phải được đưa vào hồ sơ vụ án và đánh số thứ tự tiếp theo số tài liệu trong hồ sơ do Cơ quan điều tra chuyển sang; không được thay đổi thứ tự bút lục trong hồ sơ vụ án.

Giữ bí mật điều tra

Kiểm sát viên phải giữ bí mật điều tra; đồng thời, yêu cầu Điều tra viên giữ bí mật điều tra và yêu cầu người tham gia tố tụng, người chứng kiến không được tiết lộ bí mật điều tra. Nếu phát hiện cán bộ điều tra, Điều tra viên, người tham gia tố tụng, người chứng kiến tiết lộ bí mật điều tra, thì Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng xem xét, xử lý, kiến nghị xử lý theo qui định của pháp luật.

Việc chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền

- Trường hợp thấy vụ án không thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp mình, Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành các thủ tục để Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định chuyển vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền tiếp tục điều tra theo quy định tại Điều 116 BLTTHS.

Nếu phải chuyển vụ án ra ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu thì Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra cấp khu vực tiến hành các thủ tục để Viện kiểm sát cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có văn bản đề nghị Viện kiểm sát cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu ra quyết định chuyển vụ án. Nếu vụ án do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu đề nghị chuyển thì Viện kiểm sát cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu ra quyết định chuyển vụ án. Trong thời hạn ba ngày, kể từ khi nhận được đề nghị chuyển vụ án của Viện kiểm sát cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực hoặc của Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu thì Viện kiểm sát cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu phải ra quyết định chuyển vụ án.

Trong thời hạn 24 giờ, kể từ

khi ra quyết định chuyển vụ án, Viện kiểm sát có thẩm quyền phải gửi quyết định chuyển vụ án cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực, Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra cấp quân khu đã đề nghị chuyển vụ án.

- Khi chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền, Viện kiểm sát nơi chuyển vụ án phải chuyển hồ sơ kiểm sát điều tra vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết. Hồ sơ kiểm sát điều tra vụ án chuyển cho Viện kiểm sát nơi tiếp nhận phải được đánh số bút lục của Viện kiểm sát nơi chuyển vụ án và lập danh mục thống kê các tài liệu kèm theo.

Kiểm sát việc chấp hành thời hạn điều tra, phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại

- Kiểm sát viên phải thường xuyên yêu cầu Điều tra viên chấp hành thời hạn điều tra, thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại theo quy định tại Điều 119 và Điều 121 BLTTHS.

- Trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án theo đề nghị của Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên phải kiểm tra các căn cứ để gia hạn điều tra và báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra.

- Đối với trường hợp thuộc thẩm quyền gia hạn của Viện kiểm sát cấp trên, Viện kiểm sát cấp dưới phải có văn bản báo cáo rõ nội dung vụ án và lý do xin gia hạn do Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng ký, gửi cùng hồ sơ vụ án lên Viện kiểm sát cấp trên. Chậm nhất là năm ngày trước khi hết hạn điều tra, văn bản đề nghị gia hạn điều tra của Viện kiểm sát cấp dưới kèm theo hồ sơ vụ án phải có ở Viện kiểm sát cấp trên. Trước khi hết hạn điều tra, Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên phải xét, quyết định gia hạn hoặc không gia hạn thời hạn điều tra vụ án; nếu không gia hạn phải nêu rõ lý do và thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới biết.

Phát hiện và xử lý vi phạm

- Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án phải kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra để yêu cầu khắc phục, báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra. Nếu vi phạm của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm, thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền yêu cầu Cơ quan điều tra có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thì báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao giao cho Cục điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao khởi tố, điều tra theo thẩm quyền.

- Đối với các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ hoặc trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ. Đối với các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Thủ trưởng Cơ quan điều tra thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ.

- Đối với các quyết định của Cơ quan điều tra đã được Viện kiểm sát phê chuẩn mà phát hiện không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ.

Quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định của Cơ quan điều tra phải được gửi ngay cho Cơ quan điều tra để thực hiện.

- Trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự, Kiểm sát viên có trách nhiệm tổng hợp các vi phạm pháp luật của Cơ quan điều tra, các vi phạm pháp luật và những sơ hở thiếu sót trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, xã hội của các cơ quan, tổ chức có liên quan, báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra ra văn bản kiến nghị khắc phục, áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.



2.4. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra và kiểm sát việc kết thúc điều tra

Kiểm sát việc tạm đình chỉ điều tra, truy nã bị can

-

Kiểm sát viên kiểm sát việc tạm đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra, bảo đảm các trường hợp tạm đình chỉ điều tra thực hiện theo đúng quy định tại Điều 160 BLTTHS; nếu thấy quyết định tạm đình chỉ điều tra không có căn cứ thì báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra quyết định huỷ

 

bỏ quyết định tạm đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra theo quy định tại Điều 165 BLTTHS.

- Khi phát hiện bị can trốn hoặc không xác định được bị can ở đâu thì Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can trước khi tạm đình chỉ điều tra theo quy định tại Điều 161 BLTTHS.

- Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra phải phân công Kiểm sát viên thường xuyên theo dõi, quản lý các vụ án đã tạm đình chỉ. Khi thấy lý do tạm đình chỉ không còn thì Kiểm sát viên được phân công thụ lý giải quyết vụ án phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra vụ án để tiến hành điều tra.

- Khi Kiểm sát viên được phân công thụ lý vụ án tạm đình chỉ điều tra chuyển công tác; chuyển làm việc khác hoặc có lý do khác phải nghỉ việc thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra phải phân công Kiểm sát viên khác tiếp tục theo dõi, quản lý vụ án đó.

- Viện kiểm sát các cấp phải mở sổ quản lý, theo dõi các vụ án tạm đình chỉ và định kỳ (3 tháng, 6 tháng, 1 năm) báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.

Kiểm sát việc kết thúc điều tra

- Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc kết thúc điều tra vụ án, bảo đảm các vụ án đã được khởi tố, điều tra phải được kết thúc bằng bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra. Bản kết luận điều tra đề nghị truy tố và bản kết luận điều tra kèm theo quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra phải thể hiện được đầy đủ các nội dung được quy định tại Điều 163 và Điều 164 BLTTHS. Bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra phải được gửi cho bị can, người bào chữa theo quy định tại khoản 4 Điều 162 BLTTHS.

- Trường hợp Cơ quan điều tra đã làm bản kết luận điều tra đề nghị truy tố nhưng hồ sơ chưa chuyển sang Viện kiểm sát, nếu qua kiểm sát việc kết thúc điều tra Kiểm sát viên thấy có đủ căn cứ đình chỉ điều tra thì báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền có ý kiến để Cơ quan điều tra làm lại bản kết luận điều tra và ra quyết định đình chỉ điều tra.

Kiểm sát việc đình chỉ điều tra

- Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ khi nhận được quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ vụ án để kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định đình chỉ điều tra theo quy định tại Điều 164 BLTTHS và báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, xử lý như sau:

+ Nếu quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì có văn bản trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền;

+ Nếu quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì ra quyết định huỷ bỏ quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan

 

điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra;

+ Nếu thấy đủ căn cứ để truy tố thì quyết định huỷ bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố bị can.

- Trong trường hợp

quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền phải yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra huỷ bỏ ngay biện pháp ngăn chặn, trả lại các đồ vật, tài liệu đã tạm giữ hoặc tịch thu cho bị can hoặc người có liên quan. Đối với biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn thì yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành các thủ tục để Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ.

Kiểm sát việc phục hồi điều tra

- Khi nhận được quyết định phục hồi điều tra vụ án của Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên kiểm tra căn cứ phục hồi điều tra theo quy định tại Điều 165

BLTTHS, báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, xử lý như sau:

+ Nếu quyết định phục hồi điều tra có căn cứ thì cử Kiểm sát viên tiến hành tố tụng đối với vụ án;

+ Nếu quyết định phục hồi điều tra không có căn cứ thì ra quyết định huỷ bỏ quyết định phục hồi điều tra của Cơ quan điều tra.

- Nếu việc đình chỉ điều tra theo quy định tại điểm 5 và điểm 6 Điều 107

BLTTHS (đã

hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã được đại xá) mà bị can không đồng ý và yêu cầu điều tra lại thì Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định phục hồi điều tra hoặc trực tiếp ra quyết định phục hồi điều tra và gửi quyết định đó cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.



2.5. Quyết định truy tố, đình chỉ vụ án hoặc tạm đình chỉ vụ án

Tiếp nhận hồ sơ vụ án và thụ lý hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra tra chuyển đến

Khi nhận được bản kết luận điều tra đề nghị truy tố và hồ sơ vụ án hình sự kèm theo vật chứng do Cơ quan điều tra chuyển đến, người nhận hồ sơ phải đối chiếu bản kê tài liệu, vật chứng của Cơ quan điều tra với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và vật chứng kèm theo; kiểm tra việc giao bản kết luận điều tra cho bị can, người bào chữa theo quy định tại khoản 4 Điều 162

BLTTHS và xử lý như sau:

- Nếu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, vật chứng chưa đủ so với bản kê tài liệu, vật chứng của Cơ quan điều tra hoặc bản kết luận điều tra chưa được giao cho bị can, người bào chữa thì chưa nhận hồ sơ vụ án;

- Nếu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, vật chứng đủ so với bản kê tài liệu, vật chứng của Cơ quan điều tra và bản kết luận điều tra đã được giao cho bị can, người bào chữa, thì ký nhận và vào sổ thụ lý hồ sơ vụ án, ghi ngày nhận hồ sơ vào góc trên bên trái bìa hồ sơ và báo cáo ngay với Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra để chuyển hồ sơ vụ án cho Kiểm sát viên được phân công thụ lý giải quyết vụ án. Việc giao nhận hồ sơ giữa người nhận hồ sơ với Kiểm sát viên phải có xác nhận trong số thụ lý vụ án.

Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn

Sau khi thụ lý hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên kiểm tra ngay các biện pháp ngăn chặn đã áp dụng và báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật. Đối với biện pháp tạm giam thì xử lý như sau:

- Nếu thời hạn tạm giam còn dài hơn thời hạn truy tố đối với những loại tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 166BLTTHS và xét thấy cần thiết phải tiếp tục tạm giam bị can thì không phải ra lệnh tạm giam mới.

- Nếu còn thời hạn tạm giam nhưng không đủ để hoàn thành việc truy tố thì trước khi hết hạn tạm giam năm ngày, Kiểm sát viên phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, ra lệnh tạm giam mới. Thời hạn tạm giam cũ và mới không được quá thời hạn truy tố đối với từng tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 166

BLTTHS. Sau khi ra lệnh tạm giam mới, Viện kiểm sát chuyển ngay lệnh tạm giam cho Giám thị trại tạm giam, Trưởng nhà tạm giữ nơi bị can đang bị tạm giam.

Thời hạn xem xét, quyết định việc truy tố

- Thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án đối với từng loại tội phạm và ra các quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 166 BLTTHS.

- Chậm nhất là mười ngày trước khi hết thời hạn truy tố quy định tại đoạn 1 khoản 1 Điều 166 BLTTHS, nếu thấy vụ án phức tạp, có nhiều tài liệu, chứng cứ mâu thuẫn nhau cần có thêm thời gian nghiên cứu, tổng hợp chứng cứ hoặc thỉnh thị Viện kiểm sát cấp trên nên chưa thể đề xuất việc xử lý vụ án thì Kiểm sát viên phải báo cáo ngay với Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền quyết định gia hạn thời hạn truy tố theo quy định của BLTTHS.

Nghiên cứu hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra.

-Nghiên cứu các thủ tục tố tụng:

Kiểm tra các quyết định tố tụng; việc giao các quyết định tố tụng. Kiểm tra lại các hành vi tố tụng: Gồm các hoạt động của Điều tra viên trong quá trình khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, nhận dạng, đối chất, thực nghiệm Điều tra, lấy lời khai, hỏi cung và các hoạt động Điều tra xác minh...Việc nghiên cứu các hành vi tố tụng được tiến hành đồng thời với việc nghiên cứu nội dung vụ án.

- Nghiên cứu nhân thân của bị can:

+ Nghiên cứu lý lịch tư pháp của bị can: Yêu cầu lý lịch tư pháp của bị can phải là “Lý lịch bị can” theo mẫu của Bộ Công an. Lý lịch bị can phải phản ánh cụ thể đặc điểm nhân thân: Tuổi, bố mẹ, anh chị em, nghề nghiệp, tiền án, tiền sự và phải có xác nhận của chính quyền địa phương. Nếu bị can đăng ký nhân khẩu thường trú ở một nơi và cư trú ở nhiều nơi thì phải có xác nhận của chính quyền địa phương các nơi đó.

+ Nghiên cứu các tài liệu khác bổ sung lý lịch bị can như: Giấy khai sinh nếu bị can là người chưa thành niên hoặc là người già; kết luận giám định về sức khỏe, tâm thần đối với người có nhược điểm thể chất, tâm thần; các giấy tờ tài liệu về hoàn cảnh và đặc điểm gia đình như ông, bà, cha mẹ là liệt sỹ, thương binh, người có công với cách mạng; trích lục tiền án, tiền sự; các bản án; các quyết định và việc xác minh về việc chấp hành hình phạt tù, việc thi hành phần dân sự trong bản án (nếu có)...

+ Nghiên cứu tiền án, tiền sự: Việc nghiên cứu tiền án, tiền sự cần phải so sánh giữa các tài liệu sau: Lý lịch bị can, trích lục tiền án, tiền sự, các bản án, lời khai của bị can. Khi nghiên cứu phải đọc kỹ từng bản án về nội dung: Thời điểm phạm tội, tuổi, các hình phạt chính, bổ sung. Phải xem xét cụ thể: Ngày phạm tội, ngày xét xử, án có kháng cáo, ngày, tháng, năm cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thi hành án, ngày thi hành quyết định trên,.... để xem xét việc xóa án tích, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, nếu bị can chưa thi hành thì lý do của việc chưa thi hành là gì.

- Nghiên cứu Bản kết luận điều tra và các tài liệu, chứng cứ.

+

Nghiên cứu Bản kết luận điều tra:

Kiểm sát viên nghiên cứu kết luận điều tra vụ án về nội dung vụ án, diễn biến hành vi phạm tội, các chứng cứ chứng minh tội phạm, căn cứ đề nghị truy tố, những quan điểm giải quyết các vấn đề liên quan như: Diện đề nghị truy tố, tội danh, Điều, khoản đề nghị truy tố theo đúng các quy định tại Điều 163, 164 BLTTHS. Ngoài ra, Kiểm sát viên cần đọc kỹ kết luận điều tra không chỉ để xem xét việc đề nghị truy tố mà còn kiểm tra nội dung kết luận điều tra có phản ánh đúng với hồ sơ điều tra hay không và phát hiện những vi phạm của Cơ quan điều tra để yêu cầu khắc phục kịp thời.

+ Nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu:

Khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu của vụ án, Kiểm sát viên cần xác định có hành vi phạm tội xảy ra không, bị can (hoặc các bị can) phạm tội gì, theo điều khoản nào của BLHS, có đồng phạm không, tính chất mức độ, hậu quả, các tình tiết năng nặng, giảm nhẹ, thời gian xảy ra tội phạm (liên quan đến thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự), địa điểm xảy ra tội phạm (liên quan đến việc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ). Việc nghiên cứu phải khách quan trên cơ sở hệ thống các chứng cứ buộc tội, gỡ tội. Ngoài ra, Kiểm sát viên phải kiểm tra tính hợp pháp, có căn cứ của các tài liệu, chứng cứ đó. Nếu nội dung của các tài liệu đó có giá trị chứng minh được các vấn đề trong vụ án nhưng không được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục của BLTTHS thì sẽ không được coi là hợp pháp.

+ Nghiên cứu lời khai và biên bản hỏi cung bị can:

Trường hợp bị can nhận tội: Đối với những vụ án phạm tội quả tang, bị can nhận tội cần nghiên cứu kỹ biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang có thể xác định được nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can. Tuy nhiên, thường biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang lập không được chi tiết và đầy đủ về ý thức chủ quan, kể cả hành vi khách quan... do đó cần so sánh, nghiên cứu các lời khai, biên bản hỏi cung để làm sáng tỏ hành vi phạm tội của bị can. Đối với vụ án truy xét mà bị can nhận tội cũng phải hết sức thận trọng, phải xem xét lời khai nhận tội của bị can có phù hợp với các chứng cứ khác hay không, phải đọc kỹ các chi tiết mà bị can khai: Địa điểm, thời gian, đặc điểm tang vật, cách thức phạm tội... quan tâm nghiên cứu nội dung các bản tường trình, bản tự khai.

Trường hợp bị can không nhận tội thì cần phải nghiên cứu kỹ nội dung của lời khai của các bị can về việc bị can chứng minh ngoại phạm, về việc sử dụng thời gian của bị can khi xảy ra sự việc và các tình tiết có liên quan đến vụ án để phát hiện ra những mâu thuẫn ngay trong lời khai của bị can để có thể xác định lời khai đó không phù hợp với các chứng cứ khác và bác bỏ lời khai không nhận tội.

Trường hợp bị can lúc nhận tội, lúc chối tội, hoặc nhận một phần thì Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ cả những lần bị can khai nhận và không khai nhận để xem xét lời khai nào là khách quan và phù hợp với các chứng cứ khác. Đối với những lời khai của bị can mà Kiểm sát viên nghiên cứu thấy có nghi ngờ về tính khách quan hoặc chưa rõ những nội dung cần thiết, nhất là bị can một mực kêu oan không nhận tội thì Kiểm sát viên phải phúc cung bị can.

+ Nghiên cứu lời khai bị hại, nguyên đơn dân sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Kiểm sát viên cần chú ý lời khai của người bị hại về hành vi của bị can, về thiệt hại. Trong một số trường hợp, người bị hại thường hay khai theo cảm tính, chủ quan về hành vi của bị can và hay khai quá lên về thiệt hại. Trong vụ án mà bị hại có lỗi thì thường hay không nhận lỗi về mình. Do đó cũng cần phải đánh giá lời khai của người bị hại trong mối quan hệ với các chứng cứ khác. Chú ý nghiên cứu các yêu cầu đòi bồi thường, căn cứ của các yêu cầu đó để giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án.

+ Nghiên cứu lời khai người làm chứng:

Kiểm sát viên cần chú ý xem xét lời khai của người làm chứng về nguyên nhân biết bị can và hành vi phạm tội của bị can. Việc biết được hành vi phạm tội của bị can trong hoàn cảnh, điều kiện nào, thời gian, địa điểm, khoảng cách, ánh sáng... so sánh lời khai của những người làm chứng khác.

+ Nghiên cứu biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi:

Kiểm sát viên phải xem xét cụ thể, tỷ mỉ, chính xác và phải được so sánh với nhau, các dấu vết thương tích, dấu vết trên tang vật, dấu vết trên hiện trường, dấu vết trên các phương tiện v.v.. nếu phù hợp nhau sẽ là những chứng cứ phản ánh khách quan sự kiện phạm tội, hành vi phạm tội và trong nhiều vụ án nó có thể chứng minh bị can phạm tội mặc dù bị can chối tội. Nếu qua nghiên cứu các biên bản trên thấy nội dung biên bản chưa rõ hoặc có mâu thuẫn thì Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên hoặc những người thực hiện việc khám nghiệm trên giải thích hoặc bổ sung bằng văn bản.

+ Nghiên cứu Biên bản khám xét và biên bản thu giữ tang vật:

Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ đặc điểm tang vật, vị trí để tang vật. Nhiều vụ án căn cứ vào đặc điểm, vị trí các nơi cất dấu tang vật có ý nghĩa lớn trong việc đấu tranh hoặc xác định hành vi phạm tội của bị can.

+ Nghiên cứu Biên bản đối chất:

Được thực hiện khi các lời khai mâu thuẫn với nhau, do đó nội dung của biên bản đối chất phải nhằm giải quyết những mâu thuẫn đó để tìm ra sự thật. Kiểm sát viên có thể phối hợp với Điều tra viên thực hiện việc đối chất lại trong những trường hợp cần thiết.

+ Nghiên cứu Biên bản nhận dạng:

Kiểm sát viên cần chú ý kiểm kiểm tra tính khách quan và chính xác của biên bản nhận dạng bảo đảm việc nhận dạng phải có người chứng kiến; các đối tượng được đưa ra nhận dạng là phải có những đặc điểm gần giống nhau.

+ Nghiên cứu kết luận giám định:

Cần xem xét nội dung trưng cầu giám định của Cơ quan điều tra đã đầy đủ và đáp ứng yêu cầu của vụ án chưa, việc trả lời của Cơ quan giám định có đúng và đầy đủ theo yêu cầu của Cơ quan điều tra không, kết luận giám định có căn cứ không. Nếu thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, nếu có nghi ngờ thì yêu cầu Cơ quan giám định giải thích hoặc yêu cầu giám định lại.

+ Nghiên cứu tài liệu chứng minh thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra:

Thiệt hại về vật chất: Yêu cầu chung là xác định bằng các số liệu cụ thể trên cơ sở lời khai của người bị hại, nguyền đơn dân sự, các giấy tờ chứng minh trị giá tài sản, kết luận của Hội đồng định giá tài sản. Lưu ý trường hợp tang vật, tài sản không thu hồi được thì cần xem xét kỹ lời khai bị hại, chủ sở hữu về đặc điểm trị giá tài sản. Đối với kết luận của Hội đồng định giá tài sản thì phải xem xét Hội đồng định giá tài sản có đúng thành phần theo quy định tại Điều 5, 6 Nghị định 26/2005/NĐ-CP ngày 2/3/2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự hay không.

Thiệt hại phi vật chất: Là những ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội, đến uy tín của Đảng và Nhà nước được đánh giá thông qua dư luận xã hội nói chung và theo yêu cầu của từng thời điểm, của từng địa phương nói riêng thể hiện qua đơn thư của quần chúng nhân dân, công văn đề nghị của chính quyền địa phương…

+ Nghiên cứu tài liệu chứng minh các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 48 BLHS. Kiểm sát viên phải nghiên cứu tính hợp pháp của những tài liệu chứng minh các tình tiết tăng nặng bảo đảm các tài liệu đó phải phản ánh được tình tiết tăng nặng áp dụng đối với bị can. Ví dụ: Tình tiết phạm tội với người già, trẻ em thì đối với những trường hợp này phải có giấy khai sinh hoặc các tài liệu khác chứng minh độ tuổi của bị hại.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 46 BLHS. Kiểm sát viên phải kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu mà bị can hoặc gia đình bị can xuất trình để hoặc các tài liệu mà Cơ quan điều tra thu thập để chứng minh các tình tiết giảm nhẹ.

+ Nghiên cứu các quyết định khác của Cơ quan điều tra:

Quyết định xử lý vật chứng, quyết định truy nã đối với bị can bỏ trốn, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ đối với các bị can khác. Kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của các quyết định đó.

Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng các thủ tục tố tụng, tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, Kiểm sát viên phải đánh giá được những nội dung sau: Hồ sơ vụ án đã đầy đủ chưa? Nếu thiếu thì cần bổ sung, khắc phục vấn đề gì? Biện pháp khắc phục ra sao?

- Để giải quyết vụ án được đúng đắn, tránh oan, sai, sau khi nghiên cứu toàn bộ nội dung vụ án, Kiểm sát viên phải tổng hợp toàn bộ chứng cứ, xem xét đánh giá một cách toàn diện và khách quan trên cơ sở các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội; chứng cứ chứng minh tình tiết tăng năng, giảm nhẹ...

- Trên cơ sở hệ thống chứng cứ, Kiểm sát viên phải đánh giá chứng cứ theo quy định tại Điều 63 BLTTHS về những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự. Căn cứ Điều 66 BLTTHS thì việc xác định các chứng cứ thu thập được phải đảm bảo đủ để giải quyết vụ án hình sự trên cơ sở nguyên tắc chung là các chứng cứ phải đảm bảo tính xác thực, tính hợp pháp và tính liên quan; đồng thời việc đánh giá chứng cứ phải đặt trong tổng thể diễn biến của vụ án.

+ Sau khi xác định được hành vi phạm tội của bị can, Kiểm sát viên phải xem xét hành vi đó phạm vào tội gì, theo điều khoản nào của BLHS?

+ Việc nghiên cứu hồ sơ phải được ghi chép (trích cứu tài liệu) một cách khoa học, đầy đủ, cụ thể nhưng không dài dòng để có thể dễ dàng tổng hợp, phân tích, đánh giá.

- Cần chú ý:

Hồ sơ kiểm sát không phải là sao chụp lại toàn bộ hồ sơ điều tra, mà phải thể hiện kết quả nghiên cứu của Kiểm sát viên. Khi trích cứu, Kiểm sát viên ghi những nội dung chính của tài liệu. Tuy nhiên, cũng có những tài liệu mà chi tiết lại hết sức quan trọng đối với việc kết tội, đánh giá chứng cứ… thì phải ghi cụ thể.

Khi trích cứu các tài liệu phải ghi rõ số bút lục, đặc biệt là với các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, báo cáo... cần phải ghi cả giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm.

Qua nghiên cứu hồ sơ phải ghi chép lại những vi phạm, thiếu sót và những điều cần phải bổ sung, ý kiến, quan điểm của Kiểm sát viên để làm cơ sở trao đổi với Điều tra viên hoặc báo cáo lãnh đạo Viện.

Báo cáo án

.

-

Sau khi nghiên cứu xong hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải đăng ký báo cáo án với lãnh đạo Viện. Việc báo cáo phải dựa trên kết quả nghiên cứu và phải bằng văn bản (có thể với tiêu đề: Phiếu đề xuất, bản báo cáo án…).

- Nội dung của báo cáo án phải thể hiện được các nội dung sau:

+ Lý lịch và đặc điểm nhân thân bị can: Họ tên tuổi, địa chỉ, nghề nghiệp của bị can, nếu là người chưa thành niên thì báo cáo rõ khi phạm tội là bao nhiêu tuổi, tháng, ngày. Có đặc điểm gì về bản thân và thân nhân. Các tiền án, tiền sự: có bao nhiêu tiền án về những tội gì? Đã được xóa án hay chưa? Tại sao?.

+ Tóm tắt toàn bộ nội dung vụ án: Thời gian địa điểm xảy ra tội phạm và hệ thống chứng cứ tài liệu chứng minh hành vi của bị can. Quan điểm của Cơ quan điều tra thể hiện ở bản kết luận điều tra. Quan điểm của Kiểm sát viên sau khi nghiên cứu hồ sơ và việc có chấp nhận hay không chấp nhận quan điểm của Cơ quan điều tra. Những đề xuất cụ thể của Kiểm sát viên: Về tội danh, điều, khoản áp dụng, chứng cứ, diện truy tố, hậu quả, vai trò của các bị can, các văn bản pháp luật được viện dẫn để áp dụng (Ví dụ: Luật giao thông đường bộ, Luật đất đai, Nghị Quyết, Thông tư...); những vướng mắc, khó khăn trong đánh giá chứng cứ, những vẫn đề cần xin ý kiến huỷ bỏ hoặc phục hồi quyết định của Cơ quan điều tra, yêu cầu khởi tố, bắt giam, truy nã, đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bị can, hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, chuyển vụ án theo thẩm quyền. Khi đề xuất những vấn đề trên, Kiểm sát viên cần phải có những căn cứ và lập luận cụ thể. Đối với những vụ án phức tạp, khi báo cáo cần nêu hết sức cô đọng, súc tích nội dung diễn biến vụ việc, xác định đâu là nội dung chính, cơ bản báo cáo trước, sau đó mới đi vào chi tiết. Nội dung báo cáo án cần đảm bảo nội dung báo cáo phải đầy đủ, cụ thể và chính xác. Cần tập trung báo cáo những vấn đề chính cần phải giải quyết đối với những vụ án, đặc biệt là những vụ án có vướng mắc.

Quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố

Trong thời hạn quyết định truy tố đối với từng tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 166 BLTTHS, Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xử lý như sau:

- Nếu thấy đủ căn cứ để quyết định truy tố thì Kiểm sát viên dự thảo Cáo trạng trình Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, duyệt ký. Cáo trạng phải phản ánh đúng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và đầy đủ các nội dung theo quy định tại Điều 167 BLTTHS và được lập theo mẫu do Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định.

- Nếu có căn cứ xác định thuộc một trong những trường hợp qui định tại Điều 168 BLTTHS thì Kiểm sát viên phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung.

- Nếu có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 BLTTHS hoặc tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 BLHS thì ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án đối với bị can;

- Nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây thì ra quyết định tạm đình chỉ vụ án hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can: Bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác mà có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y; Bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu (trong trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can).

- Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra các quyết định trên, Kiểm sát viên phải thông báo cho bị can, người bào chữa biết; giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị can và lập biên bản giao nhận đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu một bản vào hồ sơ kiểm sát; chuyển bản cáo trạng kèm theo hồ sơ vụ án đến Toà án có thẩm quyền xét xử.

Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát cấp dưới phải được gửi lên Viện kiểm sát cấp trên. Nếu quyết định đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát cấp dưới không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp ra quyết định huỷ bỏ các quyết định đó và yêu cầu Viện kiểm sát cấp dưới tiếp tục giải quyết

vụ án theo quy định của BLTTHS.

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung

Theo quy định tại

Điều 168 BLTTHS thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung khi nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện thấy: Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được; có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

-“Chứng cứ quan trọng đối với vụ án”

quy định tại khoản 1 Điều 168 và điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS là chứng cứ quy định tại Điều 64 của BLTTHS dùng để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của BLTTHS và nếu thiếu chứng cứ này thì không thể giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật.

Thiếu những chứng cứ sau đây là trường hợp thiếu chứng cứ quan trọng đối với vụ án:

+ Chứng cứ để chứng minh “có hành vi phạm tội xảy ra hay không” là chứng cứ để xác định hành vi xảy ra đó có đủ yếu tố của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS hay thuộc các trường hợp không phải là hành vi phạm tội (phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ, quan hệ dân sự, kinh tế, vi phạm hành chính...);

+ Chứng cứ để chứng minh “thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định nếu có hành vi phạm tội xảy ra thì xảy ra vào thời gian nào, ở đâu; phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm như thế nào;

+ Chứng cứ để chứng minh “Ai là người thực hiện hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định một con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội đó;

+ Chứng cứ để chứng minh “có lỗi hay không có lỗi” là chứng cứ xác định người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có lỗi hay không có lỗi; nếu có lỗi thì thuộc trường hợp lỗi cố ý (lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp) hoặc lỗi vô ý (lỗi vô ý do quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả) theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 BLHS;

+ Chứng cứ để chứng minh “có năng lực trách nhiệm hình sự hay không” là chứng cứ xác định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay chưa; có mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hay không và nếu có thì mắc bệnh đó vào thời gian nào, trong giai đoạn tố tụng nào;

+ Chứng cứ để chứng minh “mục đích, động cơ phạm tội” là chứng cứ xác định người thực hiện hành vi phạm tội với mục đích, động cơ gì và trong trường hợp mục đích, động cơ phạm tội là yếu tố tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc là yếu tố (tình tiết) của cấu thành tội phạm hoặc là yếu tố (tình tiết) định khung hình phạt;

+ Chứng cứ để chứng minh tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo là chứng cứ xác định bị can, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 46 BLHS; có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 48 BLHS hoặc là chứng cứ xác định tình tiết định khung hình phạt;

+ Chứng cứ để chứng minh những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo là chứng cứ xác định lý lịch tư pháp của bị can, bị cáo;

+ Chứng cứ để chứng minh “tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra” là chứng cứ để đánh giá tính chất, hậu quả (vật chất và phi vật chất) của hành vi phạm tội trong việc xác định tội phạm và quyết định hình phạt;

+ Chứng cứ khác để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 BLTTHS mà thiếu chứng cứ đó thì không có đủ căn cứ để giải quyết vụ án, như: Chứng cứ để xác định chính xác tuổi của bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc xác định chính xác tuổi của người bị hại là trẻ em; chứng cứ để chứng minh vị trí, vai trò của từng bị can, bị cáo trong trường hợp đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức...

Chú ý:

Viện kiểm sát không trả hồ sơ nếu là chứng cứ quan trọng nhưng nếu thiếu cũng truy tố, xét xử được hoặc không thể thu thập được. Ví dụ, có 3 người làm chứng nhưng chỉ xác định được 2 người hoặc hiện trường đã bị thay đổi không thể xem xét lại được; vật chứng đã mất không thể tìm được.

- “Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác” theo quy định tại khoản 2 Điều 168 của BLTTHS là căn cứ thuộc một trong các trường hợp sau đây:

+ Khởi tố và điều tra về một hay nhiều tội nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can đã thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác;

+ Ngoài tội phạm đã khởi tố và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có căn cứ để khởi tố bị can về một hoặc nhiều tội khác;

+ Ngoài bị can đã bị khởi tố và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác có liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can.

Chú ý:

Viện kiểm sát không trả hồ sơ để điều tra bổ sung nếu có căn cứ để tách vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 117 của BLTTHS.

-“Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”

quy định tại khoản 3 Điều 168 và điểm c khoản 1 Điều 179 của BLTTHS là trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án.

Những trường hợp sau đây được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự:

+ Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của BLTTHS phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng đã không có phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;

+ Không yêu cầu cử người bào chữa cho bị can, bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của BLTTHS;

+ Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ;

+ Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của BLTTHS;

+ Nhập vụ án hoặc tách vụ án không có căn cứ và trái với quy định tại Điều 117 của BLTTHS;

+ Không giao các lệnh, quyết định tố tụng cho bị can, bị cáo theo đúng quy định của pháp luật xâm phạm đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo;

+ Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can; chưa xác định được những đặc điểm quan trọng về nhân thân của người có hành vi phạm tội (tuổi, tiền án, tiền sự của bị can, bị cáo);

+ Không có người phiên dịch cho người tham gia tố tụng trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc họ là người câm, điếc theo quy định tại Điều 61 của BLTTHS;

+ Không từ chối tiến hành tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng trong các trường hợp quy định tại Điều 42, Điều 60 và Điều 61 của BLTTHS;

+ Việc điều tra, thu thập chứng cứ quan trọng đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự;

+ Chứng cứ, tài liệu quan trọng đối với vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt làm sai lệch hồ sơ vụ án;

+ Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền, trừ trường hợp cơ quan có thẩm quyền phân công điều tra vụ án cụ thể;

+ Có căn cứ để xác định có việc mớm cung, bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật;

+ Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của họ…

Chú ý:

Viện kiểm sát không trả hồ sơ để điều tra bổ sung mặc dù “có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

+ Có vi phạm thủ tục tố tụng, nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng;

+ Bị can (bị cáo) là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra nhưng đến khi truy tố, xét xử bị can (bị cáo) đã đủ 18 tuổi.

Đình chỉ vụ án hoặc tạm đình chỉ vụ án.

-

Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 BLTTHS hoặc tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 BLHS.

- Viện kiểm sát quyết định tạm đình chỉ vụ án trong những trường hợp sau đây:

+ Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác mà có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y;

+ Khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu; trong trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.

- Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả các bị can, thì có thể đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với từng bị can.

- Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra một trong những quyết định đình chỉ vụ án hoặc tạm đình chỉ vụ án, Kiểm sát viên phải thông báo cho bị can, người bào chữa biết; giao quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị can và lập biên bản giao nhận đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu một bản vào hồ sơ kiểm sát.

- Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát cấp dưới phải được gửi lên Viện kiểm sát cấp trên. Nếu quyết định đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát cấp dưới không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp ra quyết định huỷ bỏ các quyết định đó và yêu cầu Viện kiểm sát cấp dưới tiếp tục giải quyết

vụ án theo quy định của BLTTHS.

Bản cáo trạng.

-

Theo Điều 13 Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và các điều 36, 166, 167 BLTTHS năm 2003, thì trên cơ sở thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự và sau khi nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ, khách quan hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra đề nghị truy tố của Cơ quan điều tra, nếu thấy có đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự thì Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử. Đây là quyền năng pháp lý rất quan trọng mà Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất được Nhà nước giao cho.

- Cáo trạng là văn bản pháp lý mang tính quyền lực Nhà nước – Quyền công tố, do Viện kiểm sát, nhân danh Nhà nước, truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, đúng pháp luật, tránh oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm.

Bố cục của bản cáo trạng.

Bố cục của bản cáo trạng gồm có 4 phần: Phần nêu căn cứ pháp lý xác định việc truy tố của Viện kiểm sát; Phần mô tả hành vi phạm tội của bị can (các bị can); Phần kết luận; Phần quyết định.

* Phần nêu căn cứ pháp lý xác định việc truy tố của VKS.

- Ngoài tiêu đề và cụm từ Viện trưởng Viện kiểm sát… thì nêu căn cứ pháp luật trong việc ra quyết định truy tố của Viện kiểm sát là các điều 36, 166, 167 BLTTHS năm 2003.

- Nêu các căn cứ như:

Căn cứ Quyết định khởi tố vụ án hình sự số…. Ngày…. Tháng…. Năm… của …. Về tội…. Quy định tại khoản…. Điều…. Của BLHS.

Căn cứ Quyết định phục hồi điều tra số…. Ngày…. Tháng…. Năm…. Của …………………………………………………………………………….

Hoặc Quyết định nhập (tách) vụ án số…. Ngày…. Tháng…. Năm …………….

Của ……………… (nếu có).

Căn cứ Quyết định khởi tố bị can số…. Ngày…. Tháng…. Năm………… của …………………………………………………………………………….

Đối với …………………………về tội………………………………………..

quy định tại khoản…. Điều………….. của BLHS.

Căn cứ Quyết định chuyển vụ án hình sự số…. Ngày…. Tháng…. Năm……… của ……………(nếu có).

(Nếu vụ án có nhiều bị can, phạm nhiều tội thì chỉ ghi: Căn cứ các quyết định khởi tố bị can số… ngày… tháng… năm… về các tội… hoặc có các quyết định liên quan đến quá trình tố tụng thì phải ghi vào mục căn cứ).

Việc nêu các căn cứ này để xác định tính hợp pháp của các hoạt động điều tra, truy tố.

* Phần mô tả hành vi phạm tội của bị can (các bị can).

Đây là phần trọng tâm, phần quan trọng nhất của bản cáo trạng.

Sau phần mở đầu là câu chuyển tiếp “Trên cơ sở kết quả điều tra đã xác định được như sau:”

Nội dung phần này phải đạt được những yêu cầu mà Điều 167 BLTTHS đã quy định. Cụ thể là:

- Ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm.

+ Về thời gian xảy ra tội phạm, Kiểm sát viên cần ghi chính xác ngày… tháng… năm... xảy ra sự việc; còn về giờ, phút nếu xác định được chính xác thời gian xảy ra sự việc phải ghi rõ “vào hồi… giờ… phút”; nếu không xác định được chính xác thời gian xảy ra sự việc thì ghi “vào khoảng… giờ… phút”.

+

Về địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, nếu các địa điểm đó có số nhà, tên phố thì Kiểm sát viên phải mô tả chi tiết, cụ thể… Nếu các địa điểm đó có không có dố nhà, tên phố thì chỉ mô tả về khu vực nơi xảy ra tội phạm theo địa danh của thôn (xóm, đội), xã, phường, thị trấn, thị xã…

Ví dụ:

“Vào khoảng ... giờ ...ngày ...tháng... năm... tại ... đã xảy ra sự việc phạm tội như sau:…”.

- Hành vi, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác.

+ Khi mô tả hành vi phạm tội của bị can, xác định hậu quả của vụ án... chính là nhằm trình bày những chứng cứ xác định tội của bị can, các chứng cứ đưa ra để chứng minh cho hành vi, động cơ, phương thức, thủ đoạn, công cụ phương tiện phạm tội... của tội phạm. Nó không những có giá trị thuyết phục mà còn là phương tiện để Kiểm sát viên buộc tội bị can trước tòa và là căn cứ để Hội đồng xét xử nhận định, đánh giá, kết luận bị cáo có phạm tội hay không? Chính vì vậy, một bản cáo trạng được xây dựng tốt, viện dẫn chứng cứ buộc tội đầy đủ và thuyết phục sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Kiểm sát viên làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố tại phiên tòa khi vụ án được đưa ra xét xử.

+ Bản cáo trạng sẽ kém thuyết phục khi các chứng cứ đưa ra không chọn lọc, thiếu logíc, không chặt chẽ. Vì vậy, khi viện dẫn chứng cứ để chứng minh tội phạm phải chọn lọc, đưa ra chứng cứ điển hình, có giá trị chứng minh cao như: Dấu vết, vật chứng, tài liệu, chứng từ, kết luận của Giám định viên, lời khai của người làm chứng... Viện dẫn chính xác và đầy đủ chứng cứ buộc tội bị can chính là nhằm phản ánh bản chất của vụ án, làm rõ hành vi, thủ đoạn thực hiện tội phạm của bị can trong cáo trạng. Cần nắm vững các nội dung đã được quy định tại Điều 63 BLTTHS (những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự). Chỉ khi nào các nội dung này được chứng minh một cách thuyết phục thì việc buộc tội mới chặt chẽ, đầy đủ.

Khi mô tả hành vi phạm tội của bị can (các bị can) Kiểm sát viên cần chú ý:

+ Nếu vụ án có đồng phạm thì phải chứng minh vai trò của từng người đồng phạm. Hành vi vượt ra khỏi sự thoả thuận với những người đồng phạm khác của đối tượng nào trong vụ án cũng phải được phân tích chi tiết để cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với người đó.

+ Đối với những vụ án đơn giản, ít nghiêm trọng có thể nêu đầy đủ diễn biến của tội phạm theo thời gian.

+ Đối với những vụ án bị can bị khởi tố trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng bị can khai nhận trước đó đã thực hiện một số hành vi phạm tội thì cần mô tả hành vi phạm tội quả tang trước, sau đó mô tả các hành vi phạm tôi trước đó của bị can theo trình tự thời gian.

+ Nếu vụ án có một bị can phạm nhiều tội có thể nêu theo diễn biến của từng tội phạm theo thời gian hoặc nêu các tội theo tính chất của từng tội phạm, từ tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng đến tội phạm ít nghiêm trọng.

+ Nếu vụ án có nhiều bị can phạm một tội có thể nêu diễn biến của tội phạm theo thời gian hoặc theo vai trò của từng bị can. Khi nêu cần chú ý làm rõ tính chất, mức độ tham gia của từng bị can. Đồng thời, cúng cần chú ý phân tích các tình tiết liên quan đến trách nhiệm riêng của từng bị can như các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

+ Nếu vụ án có nhiều bị can phạm nhiều tội có thể nêu theo diễn biến của từng tội phạm hoặc nêu từng bị can (phạm tội bao nhiêu lần, các hành vi phạm tội cụ thể...). Sau đó tổng kết đánh giá vai trò của từng bị can trong đồng phạm.

+ Yêu cầu khi nêu và phân tích phải viện dẫn chứng cứ thể hiện trong hồ sơ (trích dẫn các bút lục). Khi phân tích chỉ cần vừa đủ khẳng định các bị can phạm tội gì, theo điểm, khoản, điều nào của BLHS. Không cần phân tích quá sâu về tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm như bản luận tội.

+ Trong vụ án mà Viện kiểm sát truy tố với nhiều tội danh khác nhau thì phải phân tích làm rõ

+ Trong các vụ án có thiệt hại về tài sản thì phải nêu rõ giá trị tài sản bị thiệt hại, vật chứng của vụ án đã thu giữ, hình thức xử lý ra sao, các yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc thực hiện trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự như thế nào.

* Phần kết luận.

Phần này nêu những nội dung sau đây:

- Tổng hợp ngắn gọn hành vi phạm tội của bị can, tính chất, mức độ, hậu quả của vụ án, xác định vai trò của bị can trong vụ án (chú ý sắp xếp theo trật tự từ bị can có vai trò quan trọng và thực hiện hành vi nguy hiểm nhất đến các bị can có vai trò thấp hơn. Nếu bị can phạm nhiều tội thì phải phân tích, đánh giá từ tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm ít nghiêm trọng).

Sau đó có câu chuyển tiếp: “Như vậy có đủ căn cứ để xác định các bị can có lý lịch dưới đây đã phạm tội (các tội) như sau:”

- Nêu lý lịch của từng bị can (chú ý sắp xếp theo thứ tự từ bị can có vai trò chính đến bị can có vai trò thứ yếu). Phần này bao gồm những nội dung sau đây:

+ Họ và tên: Cần ghi đúng theo lý lịch tư pháp, chú ý tên đệm; nếu có tên gọi khác cũng cần ghi rõ.

+ Ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi đăng ký nhân khẩu thường trú, chỗ ở, nghề nghiệp, chức vụ, quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, trình độ văn hóa, họ và tên cha, mẹ (sóng hay chết), anh, chị, em ruột, vợ chồng, có mấy con, con lớn nhất bao nhiêu tuổi, con nhỏ nhất bao nhiêu tuổi.

Cần chú ý:

Đối với bản thân bị can hoặc nhân thân của họ là những người đã có một quá trình cống hiến cho cách mạng, có thành tích đặc biệt trong học tập, sản xuất và chiến đấu, họ là thương binh, bệnh binh hoặc được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu, huân, huy chương cao quí hoặc các danh hiệu Nhà nước phong tặng khác cũng thể hiện đầy đủ; hoặc thân nhân của họ là thương binh, liệt sĩ hoặc có các danh hiệu Nhà nước phong tặng cũng thể hiện rõ như: Cán bộ hoạt động trước cách mạng tháng tám, Anh hùng lao động, Anh hùng các lực lượng vũ trang, Bà mẹ Việt nam anh hùng... Bởi vì những vấn đề này khi xem xét có thể được coi là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, có ý nghĩa khi lượng hình đối với những bị can đó.

+ Tiền sự: Ghi tiền sự được phản ánh qua trích lục tại tàng thư của công an.

+ Tiền án: Phải ghi rõ ngày xét xử, Tòa án xét xử, tội danh, điều, khoản của BLHS và hình phạt đã áp dụng (thời gian tạm giữ, tạm giam nếu có). Khẳng định hành vi phạm tội trên đây đã phạm tội gì, theo quy định tại điểm, khoản, điều nào của BLHS (lưu ý trích dẫn điều luật).

+ Trong vụ án nếu có bị can được đình chỉ hay tạm đình chỉ, tách ra để xử lý ở vụ án khác, không khởi tố để xử lý bằng hình thức khác thì cũng ghi rõ lý do cùng với căn cứ pháp lý. Cần chú ý là với trường hợp trong bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra đề nghị truy tố, nhưng Viện kiểm sát quyết định không truy tố hoặc tại bản kết luận điều tra Cơ quan điều tra đề nghị đình chỉ, nhưng Viện kiểm sát vẫn truy tố, với những trường hợp này cần phân tích rõ lý do có tính thuyết phục trong bản cáo trạng. Nếu bị can bị tạm giữ, tạm giam thì phải ghi rõ bị can bị tạm giữ, tạm giam từ ngày nào đến ngày nào để đề nghị Toà án khi quyết định hình phạt trừ thời gian tạm giữ, tạm giam vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.

* Phần quyết định.

- Sau khi nêu lý lịch bị can như trên, có viện dẫn tội danh cũng như các điểm, khoản, điều luật áp dụng truy tố; sẽ có câu chuyển tiếp như sau: “Vì lẽ đó”; hoặc “Vì các lẽ trên”: Quyết định truy tố ra trước Tòa án (nêu tên Tòa án) để xét xử bị can (hoặc các bị can – nêu họ và tên bị can) về tội hoặc các tội.

- Nếu nhiều bị can cùng bị truy tố về một tội danh và áp dụng điểm, khoản, điều luật giống nhau thì ghi tất cả họ và tên bị can đến tội danh, điểm, khoản, điều của BLHS.

- Kèm theo Cáo trạng có:

+ Hồ sơ vụ án gồm có bao nhiêu tập, bao nhiêu trang, đánh số thứ tự từ 01 đến trang cuối cùng của hồ sơ vụ án.

+ Bản thống kê vật chứng (nếu có).

+ Danh sách những người cần triệu tập ra trước Tòa án.

- Phần cuối của bản cáo trạng phải có chữ ký, họ và tên người ký và đóng dấu của VKSND nơi ban hành cáo trạng.

+ Về thẩm quyền ký cáo trạng: Nếu là Viện kiểm sát cấp huyện, cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì do Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng ký (nếu Phó Viện trưởng ký thì phải ghi rõ: KT. Viện trưởng, Phó Viện trưởng, chữ ký, họ tên). Ở VKSND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao ủy quyền cho Kiểm sát viên VKSND tối cao giữ chức vụ Vụ trưởng các Vụ 1; 1A; 1B; 1C và Vụ 2 ký cáo trạng (khi ký cần ghi rõ TUQ. Viện trưởng, Kiểm sát viên, chữ ký, họ và tên).

+ Cáo trạng sau khi ban hành phải được giao cho bị can; gửi VKSND cấp trên trực tiếp, Cơ quan điều tra, lưu hồ sơ vụ án, hồ sơ kiểm sát án hình sự, lưu trữ.

- Yêu cầu về hình thức của cáo trạng: Cáo trạng phải được lập theo đúng quy định tại Điều 167 BLTTHS. Bố cục của bản cáo trạng phải chặt chẽ, câu văn viết phải trong sáng, đúng ngữ pháp, không sai lỗi chính tả. Lý lẽ đưa ra khi lập luận phải chặt chẽ, sắc bén, có tính thuyết phục cao. Cáo trạng phải được đánh máy sạch sẽ, rõ ràng, đầy đủ dấu, không tẩy xóa, không viết thêm.

- Trong thời hạn 3 ngày kể từ khi ban hành cáo trạng, Viện kiểm sát phải thông báo cho người bào chữa biết; giao bản cáo trạng cho bị can (có biên bản giao nhận). Cũng trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày ban hành bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến Tòa án.

Khi xây dựng cáo trạng Kiểm sát viên cần lưu ý những vấn đề sau:

+ Xây dựng theo “Mẫu số 107 hướng dẫn viết cáo trạng kèm theo Quyết định số 07 ngày 02 tháng 01 năm 2008 của Viện trưởng VKSND tối cao”.

+ Trước khi trình Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được uỷ quyền ký ban hành cáo trạng, Kiểm sát viên cần đọc kỹ lại để chỉnh sửa lỗi chính tả, câu văn từ ngữ, tránh tình trạng cáo trạng đã được ban hành lại viết bổ sung, sửa chữa vào nội dung của bản cáo trạng.

+ Khi mô tả hành vi phạm tội của bị can (các bị can) Kiểm sát viên cần lưu ý chỉ mô tả vừa đủ để khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội của bị can (các bị can) là có tội, phạm vào điểm, khoản, điều nào của BLHS. Không nên phân tích qua sâu, quá rộng dễ lẫn sang nội dung của bản luận tội hoặc mô tả quá chi tiết, cụ thể dễ lẫn sang nội dung của bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra.

Việc chuyển vụ án để truy tố theo thẩm quyền; việc uỷ quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm

- Trong giai đoạn quyết định truy tố, nếu thấy vụ án không thuộc thẩm quyền truy tố của mình, Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra quyết định chuyển vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố theo quy định tại khoản 4 Điều 166 BLTTHS. Hồ sơ vụ án và hồ sơ kiểm sát điều tra phải được chuyển cho Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát nơi ra quyết định chuyển vụ án phải sao lục một bộ hồ sơ kiểm sát để lưu.

- Đối với những vụ án hình sự được thụ lý điều tra ở cấp tỉnh, sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, nếu thấy vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp huyện, thì Viện kiểm sát cấp tỉnh quyết định chuyển vụ án cho Viện kiểm sát cấp huyện có thẩm quyền làm cáo trạng truy tố.

- Đối với những vụ án hình sự được thụ lý điều tra ở cấp Trung ương, sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp tỉnh thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Viện kiểm sát quân sự Trung ương làm cáo trạng truy tố, uỷ quyền cho Viện kiểm sát cấp tỉnh thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm; nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp huyện thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự Trung ương quyết định chuyển vụ án về Viện kiểm sát cấp huyện có thẩm quyền làm cáo trạng truy tố và thông báo việc chuyển vụ án cho Viện kiểm sát cấp tỉnh nơi đó biết để theo dõi, chỉ đạo.

- Đối với những vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thụ lý có nhiều tình tiết phức tạp, án trọng điểm, vụ án mà dư luận quan tâm, Viện kiểm sát cấp trên phải yêu cầu Viện kiểm sát cấp dưới cử Kiểm sát viên tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra đề nghị truy tố ngay từ khi Cơ quan điều tra chuyển hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát cấp trên. Khi phát hiện có sai sót về thủ tục tố tụng hoặc thiếu chứng cứ quan trọng cần bổ sung, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cấp dưới kịp thời báo cáo với Viện kiểm sát cấp trên để có biện pháp khắc phục.

- Sau khi đã thụ lý vụ án, nếu thống nhất quan điểm truy tố với Viện kiểm sát cấp trên, thì Viện kiểm sát cấp dưới làm đầy đủ thủ tục để chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cùng cấp để xét xử; nếu có quan điểm truy tố khác thì báo cáo ngay với Viện kiểm sát cấp trên để Viện kiểm sát cấp trên kịp thời giải quyết.

Nếu thấy hồ sơ vụ án thuộc một trong các trường hợp cần điều tra bổ sung theo qui định của pháp luật thì ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát cấp trên để yêu cầu Cơ quan điều tra điều tra bổ sung.

- Đối với vụ án mà Toà án trả lại để điều tra bổ sung, Kiểm sát viên kiểm tra căn cứ ra quyết định trả hồ sơ của Toà án và báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra cùng cấp xem xét, xử lý. Nếu việc trả hồ sơ của Toà án có căn cứ thì làm văn bản nêu rõ lý do và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cấp trên để yêu cầu Cơ quan điều tra điều tra bổ sung; nếu việc trả hồ sơ của Toà án không có căn cứ thì chuyển hồ sơ lại cho Toà án và làm văn bản yêu cầu Toà án đưa vụ án ra xét xử.

2.6. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc áp

dụng

Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc áp dụng thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên

- Trong vụ án hình sự có người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên thì Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều tra viên xác định rõ tuổi, mức độ phát triển về thể chất, tinh thần và khả năng nhận thức về hành vi phạm tội; điều kiện sinh sống và giáo dục; có hay không có người thành niên xúi giục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội của người chưa thành niên.

- Nếu thấy đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng; Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; xem xét việc phê chuẩn các lệnh bắt, lệnh gia hạn tạm giữ, lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra theo quy định tại Điều 302 và Điều 303 BLTTHS; nếu thấy không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên thì báo cáo, đề xuất việc không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và các quyết định tố tụng khác.

- Khi kiểm sát việc lấy lời khai, hoặc hỏi cung những người bị tạm giữ, bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong những trường hợp cần thiết khác, Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều tra viên triệu tập đại diện của gia đình, đại diện của nhà trường, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức khác nơi người đó học tập, lao động, sinh sống tham gia tố tụng. Trường hợp đã được triệu tập mà đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng thì việc lấy lời khai hoặc hỏi cung những người này vẫn được tiến hành và biên bản lấy lời khai hoặc biên bản hỏi cung phải ghi rõ lý do đó theo quy định tại Điều 306 BLTTHS.

Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh

- Khi có căn cứ cho rằng người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 13 BLHS thì Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền yêu cầu Cơ quan điều tra trưng cầu giám định pháp y (nếu vụ án đang trong giai đoạn điều tra) hoặc trực tiếp trưng cầu giám định pháp y (nếu vụ án đã kết thúc điều tra, hồ sơ vụ án đã chuyển sang Viện kiểm sát) để làm sáng tỏ tình trạng tâm thần và bệnh tâm thần của người có hành vi nguy hiểm cho xã hội và xác định người có hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình hay không.

Căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y, Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền có thể quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội theo quy định tại khoản 2 Điều 311 BLTTHS; nếu thấy không cần thiết phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh thì có thể giao họ cho gia đình hoặc người giám hộ trông nom dưới sự giám sát của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 43 BLHS.

- Sau khi nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra đối với trường hợp đã trưng cầu giám định pháp y, Kiểm sát viên kiểm tra kỹ hồ sơ vụ án, kết luận của Hội đồng giám định pháp y để báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên có thẩm quyền ra quyết định xử lý vụ án theo quy định tại Điều 313 BLTTHS.

Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút gọn

- Sau khi nhận được quyết định khởi tố vụ án, theo đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ án có đủ các điều kiện quy định tại Điều 319 BLTTHS, Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và gửi ngay quyết định đó cho Cơ quan điều tra và bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.

Nếu quyết định áp dụng thủ tục rút gọn bị khiếu nại thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện trưởng Viện kiểm sát có trách nhiệm giải quyết khiếu nại; nếu khiếu nại đó có căn cứ thì Viện trưởng ra quyết định huỷ bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và vụ án được tiến hành theo thủ tục chung.

- Sau khi có quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ thời hạn điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Điều tra viên, bảo đảm thời hạn tạm giữ, tạm giam bị can để điều tra, truy tố theo đúng quy định tại các Điều 321 và 322 BLTTHS. Trong thời hạn bốn ngày, kể từ ngày nhận được quyết định đề nghị truy tố của Cơ quan điều tra và hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra một trong những quyết định sau đây: Truy tố bị can ra trước Toà án bằng quyết định truy tố; trả hồ sơ điều tra bổ sung; tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ vụ án.

Trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án, Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung.

3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ, CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

3.1. Chế độ lập hồ sơ; sử dụng, quản lý hồ sơ kiểm sát án hình sự

- Khi thực hiện công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, Kiểm sát viên phải lập hồ sơ kiểm sát án hình sự theo đúng quy định tại Quyết định số 07/QĐ ngày 12/01/2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Hồ sơ kiểm sát điều tra án hình sự có đầy đủ các tài liệu phản ảnh thủ tục tố tụng; các tài liệu điều tra thu thập được làm chứng cứ chứng minh tội phạm, người có hành vi phạm tội; các tài liệu phản ánh hoạt động của Kiểm sát viên, Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra, Phó Viện trưởng, Viện trưởng khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự; các tài liệu hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ của Viện kiểm sát cấp trên, của Lãnh đạo liên ngành và Cấp uỷ (nếu có). Hồ sơ kiểm sát điều tra cũng phải được đánh số bút lục thứ tự từ 01 cho đến hết như hồ sơ vụ án.

- Việc quản lý, sử dụng, bảo quản hồ sơ kiểm sát điều tra vụ án hình sự được thực hiện theo Quyết định số 92 ngày 01/01/2001 và Quyết định số

 

07/QĐ ngày 12/01/2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

3.2.Thỉnh thị và trả lời thỉnh thị

- Viện kiểm sát cấp dưới phải báo cáo thỉnh thị Viện kiểm sát cấp trên những vụ việc được quy định trong danh mục phải thỉnh thị ban hành kèm theo Quy chế về thông tin, báo cáo, quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân và những việc khác mà Viện kiểm sát cấp dưới thấy cần thiết phải thỉnh thị Viện kiểm sát cấp trên. Báo cáo thỉnh thị Viện kiểm sát cấp trên do Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới ký gửi kèm theo hồ sơ vụ án.

Việc thỉnh thị và trả lời thỉnh thị phải theo đúng quy định về báo cáo thỉnh thị và trả lời thỉnh thị được quy định tại Quy chế về thông tin, báo cáo, quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân.

- Trong thời hạn bảy ngày (đối với án cấp huyện) và mười lăm ngày (đối với án cấp tỉnh), kể từ ngày nhận được thỉnh thị và hồ sơ vụ án, đơn vị nghiệp vụ cấp trên phải nghiên cứu kỹ hồ sơ và nội dung thỉnh thị và có văn bản hướng dẫn rõ ràng, cụ thể để Viện kiểm sát cấp dưới nghiên cứu thực hiện. Đối với những vụ án phức tạp về chứng cứ, cần có thời gian nghiên cứu dài hơn phải thông báo lại để cấp thỉnh thị biết. Thời hạn nghiên cứu và trả lời thỉnh thị không được quá thời hạn giải quyết vụ án theo luật định. Đơn vị nghiệp vụ của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp chịu trách nhiệm về quan điểm hướng dẫn của mình.

Đối với hướng dẫn của đơn vị nghiệp vụ cấp trên, Viện kiểm sát cấp dưới nghiên cứu vận dụng và chịu trách nhiệm về quyết định của mình; nếu không đồng ý với hướng dẫn thì phải có văn bản nêu rõ lý do cho đơn vị nghiệp vụ cấp trên biết; nếu thấy cần thiết thì báo cáo Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên cho ý kiến chỉ đạo tiếp.

3.3. Chế độ quản lý hồ sơ, tài liệu

- Công văn giấy tờ, tài liệu gửi đi và đến phải được đăng ký vào sổ sách văn thư và thực hiện chế độ lưu theo đúng quy định.

- Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm có trách nhiệm quản lý hồ sơ vụ án, không được để mất tài liệu hồ sơ và thực hiện việc gửi lưu trữ hồ sơ theo quy định. Hết giờ làm việc, phải bảo quản hồ sơ vụ án trong tủ có khoá của cơ quan. Không được đem hồ sơ hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ quan, trừ trường hợp vì lý do công vụ và được sự đồng ý của Lãnh đạo Viện hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra.

Khi chuyển công tác hoặc vì lý do khác phải nghỉ việc, bị thay đổi, Kiểm sát viên phải bàn giao ngay đầy đủ tài liệu của vụ án và những thông tin có liên quan cho Kiểm sát viên được phân công thay thế; việc giao nhận hồ sơ, tài liệu của vụ án phải lập biên bản giao, nhận và đưa vào hồ sơ kiểm sát.

3.4. Chế độ bảo mật

- Kiểm sát viên làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự phải tuyệt đối giữ bí mật về thông tin trong vụ án. Nếu chưa có sự đồng ý của Lãnh đạo Viện thì không được cung cấp tin tức, tình hình, tài liệu, hồ sơ vụ án cho bất cứ người nào trong và ngoài cơ quan.

- Kiểm sát viên phải giữ bí mật ý kiến của Lãnh đạo Viện, Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra đã chỉ đạo giải quyết vụ án; không được tư vấn cho bị can, người bị hại, những người tham gia tố tụng khác; không được tiếp bị can, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong các vụ án mà mình đang thụ lý ngoài nơi quy định.

- Phiếu đề xuất của Kiểm sát viên, báo cáo thỉnh thị và các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ đối với vụ án của Viện kiểm sát cấp trên, biên bản họp liên ngành và các văn bản khác không phải là văn bản tố tụng phải được lưu vào hồ sơ kiểm sát, không được đưa vào hồ sơ chính của vụ án.

- Các báo cáo về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự chỉ gửi tới các cơ quan, đơn vị có liên quan trong nội bộ ngành, không được gửi cho các ngành khác nếu không có yêu cầu của Lãnh đạo Viện. Việc gửi các tài liệu về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra theo yêu cầu của Cấp uỷ Đảng do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định.

4. Các biểu mẫu tố tụng

PHẦN THỨ BA

Phần 3. THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

1. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ.

Chức năng.

Trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm:

- Thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

- Kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời.

1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.

Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có các nhiệm vụ và quyền hạn:

- Đọc cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung, nếu có; quyết định của Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên toà;

- Tham gia xét hỏi tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm;

- Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm;

- Tranh luận với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm;

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án;

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;

- Kiểm sát các bản án, biên bản phiên toà và quyết định của Toà án theo quy định của pháp luật;

- Yêu cầu Toà án cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị;

- Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án hoặc quyết định của Toà án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự;

- Tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;

- Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; ra các quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng khác theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

1.3. Phạm vi công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự.

 Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự bắt đầu từ khi chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn cùng hồ sơ vụ án sang Toà án để xét xử và kết thúc khi bản án và quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị.



2. HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN KHI THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ HÌNH SỰ.

2.1. Hoạt động của kiểm sát viện khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm.

Nghiên cứu hồ sơ vụ án.

- Kiểm sát viên kiểm tra chặt chẽ thủ tục giao nhận hồ sơ và vật chứng vụ án giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát bằng cách nghiên cứu biên bản bàn giao hồ sơ và đối chiếu với từng bút lục của hồ sơ vụ án để xem có thiếu bút lục nào không.

- Hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra phải được đánh số theo trật tự nhất định. Từng trang tài liệu trong các hồ sơ này phải được đóng dấu bút lục của Cơ quan điều tra và kèm theo bản kê đầy đủ tên tài liệu, số trang từng tài liệu và lưu trong hồ sơ vụ án. Kiểm sát viên phải kiểm tra từng trang, tập hồ sơ, đối chiếu với bảng kê tài liệu có trong hồ sơ để quyết định nhận hay không nhận hồ sơ. Nếu phát hiện hồ sơ thiếu bút lục thì phải trả hồ sơ để yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục. Nếu đủ và đúng thì nhận và vào sổ thụ lý và ghi ngày nhận hồ sơ vào bìa hồ sơ.

- Kiểm sát viên tham gia phiên toà phải trực tiếp nghiên cứu toàn bộ hồ sơ của vụ án để nắm vững: nội dung vụ án, hành vi phạm tội của các bị cáo; các chứng cứ buộc tội, gỡ tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; các yêu cầu về bồi thường thiệt hại hoặc trách nhiệm dân sự (nếu có) trong vụ án; phân tích đánh giá tổng hợp vụ án; áp dụng các điều, khoản của Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự để chuẩn bị thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên toà.

Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải trích cứu đầy đủ, trung thực lời khai của bị can, của những người tham gia tố tụng và các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án.

- Kiểm sát viên phải nghiên cứu toàn diện vụ án. Các tài liệu, chứng cứ (buộc tội hoặc gỡ tội) đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Do vậy, không thể xem xét các tài liệu một cách biệt lập, tách rời.

Kiểm sát viên cần phân loại tài liệu theo tập (nhóm) hợp lý phù hợp với chủ đề nghiên cứu theo một trật tự nhất định. Kiểm sát viên cần hệ thống các tài liệu, chứng cứ chứng minh các sự kiện phạm tội, qua đó bằng hoạt động tư duy có thể dựng lại được toàn bộ vụ án diễn ra trong thực tiễn. Thông thường có thể phân thành các tập: Tập về thủ tục tố tụng; tập về kết quả khám nghiệm; tập về ý kiến của những nhà chuyên môn, kỹ thuật; tập về biên bản ghi lời khai; các tài liệu kết thúc điều tra; các tài liệu về nhân thân bị can; các tài liệu về thu giữ vật chứng, kê biên…

- Hồ sơ vụ án gồm nhiều tài liệu như các tài liệu về lời khai của bị can, người bị hại, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi v.v. trong đó có tài liệu mâu thuẫn với nhau như các lời khai của người làm chứng mâu thuẫn với các lời khai của bị can hoặc lời khai của bị can mâu thuẫn với các tài liệu khác như biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi v.v.. Khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên cần đối chiếu, so sánh để loại trừ những nội dung không hợp lý, chắt lọc các nội dung hợp lý để phân tích, đánh giá một cách tổng hợp về các tình tiết của vụ án. Điều đó đòi hỏi Kiểm sát viên không những nghiên cứu một cách toàn diện, mà còn phải so sánh, tổng hợp để xác định các tình tiết có thực của vụ án, loại trừ những tình tiết không có thực của vụ án.

- Đối với những lời khai của bị can, bị hại, người làm chứng… phải lược ghi những nội dung chính. Tài liệu ghi chép, cần phải sắp xếp khoa học theo từng tập, có viện dẫn bút lục trong hồ sơ để dễ tìm khi cần thiết. Tránh tình trạng không ghi chép, chỉ sao chụp (photocoppy) lại các bản lời khai, sẽ dẫn đến thiếu chủ động, lúng túng; nhất là khi gặp trường hợp bị cáo hoặc luật sư đưa ra những lý lẽ trái ngược với lời buộc tội của Kiểm sát viên. Đối với những chứng cứ quan trọng như biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định v.v… cần phải sao chép, photocopy để sử dụng tại phiên toà.

Kiểm sát viên có thể kiểm tra các tài liệu, chứng cứ trong các trường hợp cần thiết, nhằm xác định rõ các mâu thuẫn mà qua nghiên cứu hồ sơ Kiểm sát viên đã phát hiện được.

- Để có quan điểm đánh giá chính xác về vụ án và trên cơ sở đó có biện pháp xử lý vụ án đúng với các quy định của pháp luật, Kiểm sát viên cần tổng hợp, phân tích, đánh giá về vụ án. Khi tổng hợp đánh giá cần chú ý các nội dung sau:

+ Đánh giá

 

khái quát về thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm, diễn biến hành vi phạm tội của các bị can, mục đích, động cơ phạm tội, hậu quả của của hành vi phạm tội. Trên cơ sở hồ sơ vụ án, bản kết luận điều tra và các tài liệu khác, Kiểm sát viên cần tổng hợp, đánh giá, phân tích toàn bộ vụ án, tiến hành hệ thống các chứng cứ buộc tội và các chứng cứ gỡ tội.

+

Các chứng cứ buộc tội gồm có lời khai nhận tội của bị can, lời khai người làm chứng về các tình tiết liên quan đến hành vi của bị can, nhân thân bị can, biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng, giám định chuyên môn, giám định pháp y, kết quả xác minh của Cơ quan điều tra và của Kiểm sát viên… có giá trị chứng minh hành vi của bị can là hành vi phạm tội. Đây là các căn cứ hết sức quan trọng khẳng định tính có căn cứ của hành vi phạm tội của bị can, đồng thời, đây là cơ sở pháp lý để Kiểm sát viên tiến hành tranh luận, đối đáp với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.

+ Các chứng cứ gỡ tội là các chứng cứ chứng minh bị can không phạm tội hoặc phạm tội nhẹ hơn so với tội phạm đã bị khởi tố, điều tra. Ngoài ra, chứng cứ gỡ tội còn thể hiện các tài liệu đã thu thập có nhiều mâu thuẫn, nhưng không được giải quyết, như các lời khai của bị can, người làm chứng mâu thuẫn với nhau, hoặc lời khai đó không phù hợp với hiện trường. Kiểm sát viên phải hệ thống và nắm chắc các mâu thuẫn này để giải quyết.

+

Kiểm sát viên phải tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án để khảng định các nội dung cơ bản như:

 

Vụ án có bao nhiêu bị can hành vi của các bị can phạm tội gì, cần áp dụng điểm, khoản, điều nào của BLHS, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, các chứng cứ buộc tội, các chứng cứ gỡ tội. Trên cơ sở đó, đề xuất xử lý vụ án theo theo quy định tại khoản 1 Điều 166 BLTTHS.

+ Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử những vụ án trọng điểm, phức tạp của Viện kiểm sát cấp huyện, thì Viện kiểm sát cấp huyện phải thông báo cho Viện kiểm sát cấp tỉnh; những vụ án trọng điểm, phức tạp của Viện kiểm sát cấp tỉnh thì Viện kiểm sát cấp tỉnh phải báo cáo

 

Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự hoặc Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm khu vực biết để cử Kiểm sát viên theo dõi, nghiên cứu nắm vững hồ sơ vụ án nhằm phục vụ cho công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử.

Xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ hoặc gặp bị cáo

- Khi cần thiết Kiểm sát viên đến xem xét tại chỗ đối với những vật chứng không thể đưa đến phiên toà được; xem xét nơi xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án; gặp bị cáo để hỏi cung đối với những trường hợp: Vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, vụ án có bị cáo mà Kiểm sát viên đề nghị xử phạt tù chung thân hoặc tử hình, lời khai của các bị cáo trong vụ án có mâu thuẫn, bị cáo kêu oan hoặc những trường hợp Viện kiểm sát thấy cần thiết.

- Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện tổ chức thực nghiệm điều tra

 

bằng cách cho dựng lại hiện trường diễn lại hành vi, tình huống. Khi thấy cần có thể đo đạc, chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ.

- Việc xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ hoặc gặp bị cáo phải lập biên bản theo quy định của BLTTHS.

Giải quyết việc Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung

- Khi Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ các nội dung Toà án yêu cầu điều tra bổ sung,

xác định căn cứ Toà án trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung. Xem xét lại các tài liệu có trong hồ sơ để xác định những yêu cầu của Toà án đã được phản ánh trong hồ sơ như thế nào? Các yêu cầu đó đã đúng với tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quy định của BLHS, BLTTHS hay không?

- Kiểm sát viên cần kiểm tra tính hợp pháp của quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung. Căn cứ Điều 179 BLTTHS thì Thẩm quyền ban hành quyết định trả hồ sơ phải là Thẩm phán chủ toạ phiên toà; Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải nêu rõ thuộc trường hợp cụ thể nào quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 179 BLTTHS và những vấn đề cụ thể cần điều trả bổ sung.

- Sau khi nhận được hồ sơ vụ án và quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, nếu xác định việc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án là không có căn cứ thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện về nội dung quyết định trả hồ sơ; phân tích sự thiếu căn cứ và không hợp pháp của quyết định này (chứng minh bằng hồ sơ vụ án và các quy định của BLTTHS) hoặc xác định rõ các yêu cầu của Toà án là không thể thực hiện được hoặc xác định rõ vấn đề Toà án yêu cầu hoàn toàn có thể làm rõ tại phiên toà và Kiểm sát viên đề xuất hướng giải quyết là: Chuyển lại hồ sơ cho Toà án, tiếp tục đề nghị truy tố. Nếu lãnh đạo đồng ý thì Kiểm sát viên lập văn bản trả lời Toà án, trong đó nêu rõ lý do

giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án để đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 2 Điều 179 của BLTTHS.

- Nếu xác định việc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án là có căn cứ thì Kiểm sát viên phải báo cáo với lãnh đạo Viện hoặc lãnh đạo đơn vị nghiệp vụ, đồng thời đề xuất rõ hướng bổ sung chứng cứ theo yêu cầu của Toà án theo một trong những cách sau đây:

+ Nếu những yêu cầu điều tra bổ sung không quá phức tạp và Viện kiểm sát có thể tiến hành được theo quy định của BLTTHS, Quy chế nghiệp vụ của ngành thì Kiểm sát viên đề xuất không phải trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra mà Viện kiểm sát tự mình bổ sung chứng cứ. Nếu lãnh đạo Viện đồng ý với phương án này thì Kiểm sát viên phải lập kế hoạch cụ thể để tiến hành việc bổ sung chứng cứ và thông qua lãnh đạo đơn vị phê duyệt (cần thiết thì xin ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Viện).

+ Nếu các yêu cầu điều tra bổ sung quá phức tạp thì Kiểm sát viên đề xuất với lãnh đạo Viện trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra tiến hành việc điều tra bổ sung. Trong văn bản trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra cũng phải nêu rõ lý do, những yêu cầu điều tra bổ sung cụ thể; thời hạn thực hiện.

- Sau khi có kết quả điều tra bổ sung (do Viện kiểm sát hoặc Cơ quan điều tra thực hiện), Kiểm sát viên phải xem xét kỹ các tài liệu này và đánh giá với hệ thống tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án xem đã đầy đủ, chính xác chưa? Có đúng với yêu cầu điều tra bổ sung của Toà án không?.

- Đối với trường hợp tài liệu điều tra bổ sung không làm thay đổi nội dung quyết định truy tố trước đây hoặc việc điều tra bổ sung không thể tiến hành theo yêu cầu của Toà án thì Kiểm sát viên báo cáo với lãnh đạo Viện để ban hành văn bản trả lời Toà án và giữ nguyên quan điểm truy tố.

- Đối với trường hợp tài liệu điều tra bổ sung làm thay đổi nội dung quyết định truy tố, cụ thể như:

+ Thay đổi về tội danh hoặc xác định có đồng phạm khác thì Kiểm sát viên phải đề xuất với lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan điều tra thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Sau khi hoàn thành việc điều tra bổ sung, Kiểm sát viên phải lập lại bản cáo trạng phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mới thu thập được.

+ Trường hợp thay đổi về điểm, khoản, áp dụng của điều luật... thì Kiểm sát viên yêu cầu Cơ quan điều tra kết luận điều tra bổ sung sau đó lập cáo trạng truy tố theo điểm, khoản mới...

- Đối với trường hợp tài liệu điều tra bổ sung dẫn đến việc phải đình chỉ điều tra theo quy định của BLHS và BLTTHS thì Kiểm sát viên báo cáo với lãnh đạo Viện quyết định. Trường hợp đình chỉ điều tra toàn bộ vụ án thì phải thông báo cho Toà án biết còn việc đình chỉ điều tra đối với một hay nhiều bị can trong số các bị can của vụ án) thì phải tiếp tục lập cáo trạng để truy tố các bị can còn lại. Việc thay đổi nội dung quyết định truy tố đều phải thông báo cho bị can, những người tham gia tố tụng.

-

Đối với vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và giao cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm nếu phát hiện có căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung thì Kiểm sát viên báo cáo Lãnh đạo viện có ý kiến trao đổi với Tòa án cùng cấp để làm rõ những vấn đề điều tra bổ sung trước khi báo cáo với Viện kiểm sát cấp trên xem xét, quyết định.

Kiểm sát việc chuẩn bị xét xử của Toà án

Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án về thẩm quyền xét xử; về việc chuyển vụ án; về thời hạn chuẩn bị xét xử; về việc ra các quyết định: Quyết định áp dụng thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án và việc giao các quyết định này theo Điều 182 BLTTHS.

Nếu phát hiện có vi phạm pháp luật thì báo cáo lãnh đạo Viện kiến nghị, yêu cầu Toà án khắc phục hoặc

 

kháng nghị theo các quy định của BLTTHS.

Kiểm sát viên phải căn cứ vào tính chất của từng vụ án và yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương báo cáo lãnh đạo Viện

 

để chủ động phối hợp với Toà án tổ chức phiên toà xét xử cho thiết thực, phù hợp với thực tế nhằm tuyên truyền và nâng cao ý thức pháp luật cho quần chúng nhân dân.

- Kiểm sát thời hạn chuẩn bị xét xử:

Kiểm sát viên phải kiểm sát thời hạn ban hành một trong những quyết định sau đây của Thẩm phán chủ toạ phiên toà: Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung; Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

Các quyết định này đều phải được Thẩm phán chủ toạ phiên toà đưa ra trong thời hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS. Thời hạn chuẩn bị xét xử đã được Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn cụ thể tại mục 1.2 Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004. Nếu quá thời hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS mà Thẩm phán chưa ban hành một trong những quyết định trên thì Kiểm sát viên phải yêu cầu Thẩm phán chuyển ngay cho Viện kiểm sát quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử.

- Kiểm sát việc áp dụng thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn:

Đối với các quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn thì Kiểm sát viên phải kiểm sát tính hợp pháp của các quyết định này với các yêu cầu sau:

+ Căn cứ Điều 177 BLTTHS thì việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam phải do Chánh án hoặc Phó Chánh án thực hiện; các biện pháp ngăn chặn khác do Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà thực hiện.

+ Thời hạn tam giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 BLTTHS và tại Mục 2.2 Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần thiết tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa. Kiểm sát viên phải phát hiện và kiến nghị kịp thời các trường hợp để quá hạn tạm giam của Toà án.

- Kiểm sát quyết định đưa vụ án ra xét xử:

Kiểm sát nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có đầy đủ các nội dung theo Điều 178 BLTTHS. Trong đó chú ý đến:

+ Thành phần Hội đồng xét xử, danh sách những người tham gia tố tụng được triệu tập đến phiên toà.

+ Sự tham gia phiên toà của người giám hộ cho người chưa thành niên; luật sư; người bào chữa trong các vụ án theo quy định của điểm a, điểm b khoản 2 Điều 57 BLTTHS.

+ Sự tham gia của những người mà lời khai của họ có giá trị chứng minh tại phiên toà, như nhân chứng, bị hại.. nếu những người đó vắng mặt thì sẽ gây khó khăn cho việc xác định sự thật của vụ án. Nếu thấy nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa đầy đủ hoặc chưa đúng thì phải kiến nghị ngay với Toà án để bổ sung.

+ Kiểm sát việc giao quyết định này cho Viện kiểm sát, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất 10 ngày trước khi mở phiên toà. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử phải kiểm sát thời hạn mở phiên toà theo quyết định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS.

- Kiểm sát việc tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án:

Kiểm sát viên phải xác định tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, cụ thể là:

+ Đối với quyết định tạm đình chỉ vụ án cần kiểm tra thẩm quyền ra quyết định và căn cứ để tạm đình chỉ theo quy định tại Điều 160 BLTTHS; xác định rõ các yêu cầu: Sau khi Toà án tạm đình chỉ phải thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của tố tụng hình sự như: Yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo với trường hợp không rõ bị cáo ở đâu; ra quyết định bắt buộc chữa bệnh khi bị cáo bị bệnh tâm thần…

+ Đối với quyết định đình chỉ vụ án: Cần kiểm sát các căn cứ mà Toà án đình chỉ theo đúng theo quy định tại Điều 180 BLTTHS. Chú ý là Toà án chỉ được đình chỉ theo một trong các căn cứ sau: Khoản 1 Điều 105 BLTTHS (người có yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên toà); các căn cứ theo các điểm 3, 4, 5, 6, 7 Điều 107 BLTTHS; khi Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên toà.

+ Nếu phát hiện thấy việc đình chỉ, tạm đình chỉ không đúng thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện để xem xét quyết định việc kháng nghị phúc thẩm.

- Kiểm sát việc giao quyết định của Toà án:

+ Kiểm sát viên kiểm sát việc giao quyết định của Tòa án theo quy định tại Điều 182 BLTTHS;

+ Để kiểm sát việc Toà án giao các quyết định thì Kiểm sát viên sau khi nhận được các quyết định này cần yêu cầu Toà án gửi cho những người khác theo quy định, thông qua hoạt động kiểm sát phần thủ tục tại phiên toà hoặc khiếu nại của người bào chữa, bị can, bị cáo để phát hiện các vi phạm của Thẩm phán, Thư ký trong việc giao các quyết định để có kiến nghị kịp thời với Chánh án.

Báo cáo án

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 36 Bộ luật TTHS, thì việc truy tố bị can trước Toà án do Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định. Vì vậy, trước khi tham gia phiên toà xét xử Kiểm sát viên và lãnh đạo đơn vị phải báo cáo lãnh đạo Viện về việc giải quyết vụ án.

- Về hình thức:

Văn bản báo cáo án phải ghi rõ ngày, tháng, năm báo cáo án, người báo cáo án phải ký tên, nêu ý kiến của Kiểm sát viên là lãnh đạo đơn vị (Viện Kiểm sát nhân dân tối cao là lãnh đạo Vụ, ở Viện Kiểm sát tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là lãnh đạo cấp Phòng). Văn bản báo cáo án phải được lưu giữ trong hồ sơ kiểm sát vụ án. Bản báo án phải ghi rõ lý lịch bị can: họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, thành phần xã hội, quan hệ gia đình, những đặc điểm cơ bản thuộc về nhân thân như tiền án, tiền sự. . . của bị can, ngày bị tạm giữ, tạm giam (nếu có). Ngoài ra, báo cáo cũng ghi đầy đủ về các thông tin của người bị hại, bị đơn dân sự, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp.

- Về nội dung:

Báo cáo án phải nêu tóm tắt nội dung vụ án, cụ thể là: thời gian, địa điểm, hoàn cảnh nơi phạm tội. Diễn biến của hành vi phạm tội. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội? vụ án do một hay nhiều người thực hiện, có đồng phạm không, vai trò trách nhiệm từng người trong vụ án; tính chất lỗi của từng người tham gia? mục đích và động cơ phạm tội của từng người? tính chất và mức độ thiệt hại? Báo cáo cần phân tích và viện dẫn đầy đủ các chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội. Cụ thể là, lời khai nhận tội hoặc chối tội của bị can, lời khai của người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan... Kiểm sát viên phải báo cáo đầy đủ các lời khai (kể cả lời khai do cơ quan điều tra thu thập và các lời khai do Viện kiểm sát thu thập) để lãnh đạo có đầy đủ các thông tin trước khi quyết định phương hướng xử lý vụ án. Báo cáo cụ thể biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi; các vật chứng thu thập được, những dấu vết, tài liệu thu thập được có ý nghĩa chứng minh hoặc phủ nhận hành vi phạm tội. Kết luận giám định về những vấn đề xác định sự thật vụ án (giám định tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, giá trị tài sản, tỷ lệ thương tật, tốc độ xe cơ giới, vật liệu nổ, vũ khí, tiền giả, séc giả, ma tuý, tài chính...). Báo cáo cần nêu rõ những điểm khác nhau và những mâu thuẫn trong các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được. Khi báo cáo Kiểm sát viên có thể đọc văn bản đã được chuẩn bị, sau đó, trình bày thêm trên sơ đồ hiện trường, máy chiếu...

- Đề xuất áp dụng pháp luật:

Báo cáo cần đối chiếu giữa hành vi phạm tội của bị can với các quy định của BLHS để xác định rõ hành vi của bị can phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS. Ngoài quy định của BLHS, Kiểm sát viên cần căn cứ vào các văn bản pháp luật khác để viện dẫn áp dụng đối với bị can, nhất là trong các trường hợp điều luật quy định về tội phạm của BLHS lại dưới dạng quy định cần viện dẫn các văn bản pháp luật khác. Ngoài ra, Kiểm sát viên cần nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật như các thông tư liên tịch, các nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn về những nội dung có liên quan.

- Đề xuất đường lối giải quyết vụ án:

Để cho việc đề xuất có căn cứ, ngoài việc nêu những căn cứ chứng minh bị can phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS, báo cáo án cần xác định rõ những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo (Điều 46, 48 BLHS), trong đó, cần phân biệt rõ những tình tiết có tính chất tăng nặng hoặc giảm nhẹ chung đối với tất cả các bị can, bị cáo trong vụ án có đồng phạm (phạm tội có tổ chức, phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, phạm tội chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn. . .) và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ chỉ gắn liền với từng bị can, bị cáo như tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội nhiều lần, cố tình thực hiện tội phạm đến cùng, tự thú, thật thà khai báo, tố giác tội phạm, lập công chuộc tội, người phạm tội là người già, phụ nữ có thai, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần

. . .

Trong trường hợp vụ án vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ thì báo cáo án phải đánh giá toàn diện trên tất cả các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ để xác định ảnh hưởng của các tình tiết tăng nặng hay các tình tiết giảm nhẹ lớn hơn. Trên cơ sở đó, đề xuất hướng xử lý đối với bị can, bị cáo, đồng thời cũng cần xác định rõ bị can, bị cáo có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự hay không? Việc

giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự (nếu có) thế nào?..

- Báo cáo vụ án cũng cần đề cập đến các tình tiết mà qua nghiên cứu hồ sơ Kiểm sát viên thấy khác với kết luận điều tra, những nội dung mà Viện kiểm sát yêu cầu điều tra, nhưng quá trình điều tra chưa được làm rõ. Đối với các nội dung mà cơ quan điều tra chưa làm rõ thì Kiểm sát viên cũng cần nêu rõ các phương pháp cần tiến hành, như cần xác minh thêm vấn đề gì? Ai xác minh và thời gian tiến hành?... Đối với các vấn đề cần thay đổi nội dung các tình tiết của vụ án so với bản kết luận điều tra hoặc thay đổi diện truy tố cũng cần báo cáo với lãnh đạo Viện.

Đối với các bị can kêu oan, những vấn đề mà dư luận xã hội đề cập đến các tình tiết của vụ án như điều tra không khách quan, bỏ lọt tội phạm...

 

thì Kiểm sát viên cần báo cáo đầy đủ với Lãnh đạo Viện.

- Khi báo cáo án, các Kiểm sát viên trực tiếp trả lời các câu hỏi của Lãnh đạo viện. Những vấn đề nào chưa trả lời được thì ghi chép lại nghiên cứu trả lời sau. Kiểm sát viên phải ghi chép ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo viện. Những vụ án được đưa ra Uỷ ban kiểm sát xin ý kiến hoặc thỉnh thị Viện kiểm sát cấp trên thì ý kiến chỉ đạo hoặc văn bản thỉnh thị và trả lời thỉnh thị cần phải được lưu lại trong hồ sơ kiểm sát (không để vào hồ sơ chính). Đối với những vụ án phức tạp, quan trọng cần phải có sự chỉ đạo chặt chẽ của các ngành, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo Viện kiểm sát cấp mình họp trù bị với Toà án.

Rút truy tố trước khi mở phiên toà.

- Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án,

Nếu

Kiểm sát viên

thấy có một trong những căn cứ quy định tại Điều 107 của BLTTHS hoặc có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo theo quy định tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 của BLHS,

thì phải báo cáo lãnh đạo Viện xem xét quyết định

rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án.

- Báo cáo đề xuất của kiểm sát viên với lãnh đạo viện kiểm sát về việc rút quyết định truy tố phải được thể hiện bằng văn bản trình bày rõ ràng các yêu cầu: Tóm tắt nội dung quyết định truy tố, căn cứ để rút quyết định truy tố; quan điểm đề xuất của Kiểm sát viên (rút toàn bộ; hay rút một phần, cụ thể rút vấn đề gì với ai, lý do, hướng giải quyết tiếp theo của vụ án là gì...).

- Đề xuất của Kiểm sát viên rút quyết định truy tố phải được lãnh đạo trực tiếp (lãnh đạo Vụ, Trưởng phòng, Phó Viện trưởng) có ý kiến cụ thể, sau đó báo cáo với Viện trưởng xem xét quyết định cuối cùng. Với những vụ án phức tạp về đánh giá chứng cứ, vướng mắc về quan điểm giải quyết thì phải báo cáo VKSND cấp trên (cần chú ý: Mọi hoạt động nghiệp vụ chỉ được giải quyết trong thời hạn chuẩn bị xét xử của Toà án theo quy định của BLTTHS).

- Đối với những vụ án do Viện kiểm sát cấp trên uỷ quyền cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố, nếu Viện kiểm sát uỷ quyền có tài liệu là căn cứ rút quyết định truy tố thì trình tự làm như trên và ban hành quyết định rút quyết định truy tố, sau đó chuyển văn bản cho Viện kiểm sát được uỷ quyền để chuyển cho Toà án đang thụ lý hồ sơ vụ án thực hiện các bước tiếp theo quy định của BLTTHS.

- Nếu Viện kiểm sát được uỷ quyền thấy có căn cứ để rút quyết định truy tố thì phải làm văn bản báo cáo Viện kiểm sát cấp trên đã uỷ quyền, nêu rõ lý do, quan điểm (kèm theo tài liệu làm căn cứ rút quyết định truy tố) để Viện kiểm sát đã uỷ quyền xem xét quyết định việc rút quyết định truy tố.

Xây dựng đề cương xét hỏi

- Trước khi tham gia phiên toà, Kiểm sát viên phải dự thảo đề cương xét hỏi và những nội dung cần làm rõ tại phiên toà như: Hỏi về hành vi phạm tội, thời gian, địa điểm, động cơ, mục đích, hậu quả, công cụ, phương tiện phạm tội, thủ đoạn phạm tội…

- Dự kiến những tình huống, diễn biến có thể xảy ra tại phiên toà như thái độ tâm lý của bị cáo, khả năng phản cung của bị cáo, thay đổi lời khai của những người tham gia tố tụng. Dự kiến những tài liệu, chứng cứ đưa ra để đấu tranh với bị cáo, trích đọc lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, dự kiến đối chất tại phiên toà để giải quyết các mâu thuẫn…

- Chuẩn bị những câu hỏi đối với người làm chứng, người bị hại, người giám định và những người tham gia tố tụng khác. Phải dự kiến đầy đủ nội dung cần hỏi đối với từng đối tượng. Ví dụ, đối với người bị hại cần phải hỏi kỹ về yêu cầu bồi thường thiệt hại, yêu cầu xử lý đối với bị cáo và các tình tiết của vụ án mà họ có thể biết được. Đối với người làm chứng cần chú ý hỏi về những tình tiết của vụ án mà họ biết, về quan hệ của họ với bị can, bị cáo, đối với người giám định, chủ yếu nêu những câu hỏi về những căn cứ khoa học về kết luận giám định.v.v

- Dự kiến những vấn đề mà người bào chữa hoặc bị cáo quan tâm để đặt ra những câu hỏi làm sáng tỏ …

- Nội dung các câu hỏi phải rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn, không đặt các câu hỏi mớm cung, dụ cung .v.v.

Dự kiến những vấn đề cần tranh luận tại phiên toà.

- Để bảo đảm việc tranh luận có hiệu quả, Kiểm sát viên phải dự kiến trước những vấn đề mà bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đưa ra trong phiên toà. Thường đó là những vấn đề về đánh giá chứng cứ, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, thiệt hại do tội phạm gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân bị cáo, những điểm mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án, vai trò của bị cáo trong đồng phạm v.v… Chuẩn bị lý lẽ để bác bỏ những quan điểm sai trái, không đúng của bị cáo, người bào chữa trên cơ sở viện dẫn chứng cứ để chứng minh, bảo vệ quan điểm truy tố của Viện kiểm sát, đường lối, chính sách pháp luật.

- Kiểm sát viên phải chuẩn bị đầy đủ các văn bản pháp luật cần thiết có liên quan đến vụ án để khi cần thiết trích đọc hoặc viễn dẫn có căn cứ, chính xác.

- Để đảm bảo tranh luận tại phiên toà đạt chất lượng tốt Kiểm sát viên phải tổng hợp, đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện, coi trọng cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, các tình tiết có liên quan đến vụ án; phải kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ tài liệu được thu thập trong quá trình giải quyết vụ án.

2.1.2. Xây dựng dự thảo luận tội.

- Yêu cầu của bản dự thảo luận tội.

+ Những nội dung của bản luận tội phải được chứng minh bằng các chứng cứ thu thập đầy đủ trong hồ sơ vụ án. Các tình tiết, chứng cứ nêu trong bản luận tội là có thực và được thể hiện tại các bút lục của hồ sơ vụ án. Các căn cứ áp dụng cũng phải được bảo đảm đúng với các điểm, khoản, điều mà Kiểm sát viên trích dẫn.

Việc mô tả hành vi phạm tội, phân tích đánh giá chứng cứ, phân tích vai trò trách nhiệm của bị cáo gắn liền với việc viện dẫn chứng cứ để chứng minh phải chính xác, lôgíc. Việc đề xuất đường lối xử lý phải trên cơ sở phân tích đánh giá chứng cứ, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, nhân thân người phạm tội, vai trò trách nhiệm của từng bị cáo trong vụ án, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đồng thời, xem xét đối chiếu với các quy định của pháp luật hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan để cân nhắc lựa chọn điều, khoản của BLHS để đề xuất Toà án áp dụng pháp luật xử lý chính xác, phù hợp với tính chất mức độ, hậu quả ao hành vi phạm tội gây ra.

- Bản luận tội phải thể hiện được tính đấu tranh và tính thuyết phục cao:

Bản luận tội phải thể hiện được sự phê phán và lên án trước dư luận về hành vi phạm tội của bị cáo, có tác dụng răn đe, phòng ngừa; đồng thời có căn cứ, có lý, có tình.

-

Bản luận tội phải xác định được nguyên nhân và điều kiện phạm tội, thông qua đó, tuyên truyền giáo dục pháp luật, góp phần đấu tranh chông và phòng ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật.

- Bản luận tội phải bám sát các nội dung truy tố. Nội dung của bản luận tội phải bám sát nội dung truy tố của bản cáo trạng. Bản cáo trạng truy tố những hành vi phạm tội nào, bị can nào thì nội dung của bản luận tội phải phân tích, đánh giá kết luận về hành vi phạm tội đó và bị can đó, không được bỏ sót vấn đề nào.

- Bản luận tội phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên toà và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.

Cơ cấu của luận tội:

Gồm 3 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung và Phần kết luận.

- Phần mở đầu:

Phần này mang tính chất vào đề và được bắt đầu bằng câu: "Thư­­a Hội đồng xét xử", tiếp đó Kiểm sát viên tự giới thiệu về mình là đại diện Viện kiểm sát… thực hành quyền công tố tại phiên toà sơ thẩm xét xử về hình sự vụ án (nêu tên vụ án). Sau đó nêu mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, tầm quan trọng của việc xét xử vụ án.

- Phần nội dung:

Đây là phần trọng tâm và quan trọng nhất, đòi hỏi Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, phải chuẩn bị kỹ l­­ưỡng, khách quan, đầy đủ và có sức thuyết phục cao, nhất là khi xét xử các vụ án nghiêm trọng và phức tạp hoặc các vụ án được tổ chức xét xử l­ưu động có đông người tham dự.

Phần này gồm những vấn đề sau:

+ Phân tích đánh giá chứng cứ:

Trên cơ sở hồ sơ vụ án và kết quả thẩm vấn tại phiên tòa, Kiểm sát viên cần đánh giá khách quan, toàn diện và đầy đủ để xác định được sự thật của vụ án; xác định tội phạm đã xảy ra và người phạm tội; hành vi phạm tội đã diễn ra như­­ thế nào, nêu chứng cứ chứng minh (lời khai, kết quả giám định, các chứng từ… có nêu bút lục, nêu đúng hành vi phạm tội và viện dẫn chứng cứ chứng minh. Sau khi chứng minh toàn bộ hành vi phạm tội, lưu ý cả hậu quả của tội phạm, ý thức chủ quan). Nếu có lời bào chữa của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác thì phải lập luận, bác bỏ hoặc chấp nhận và viện dẫn chứng cứ chứng minh. Từ đó, Kiểm sát viên đánh giá tổng hợp, kết luận về sự việc phạm tôi, người phạm tội và viện dẫn các chứng cứ để chứng minh tội phạm như: Các biên bản khám nghiệm, kiểm tra, thu giữ vật chứng, giám định pháp y, sổ sách, chứng từ, lời khai của bị cáo, người bị hại, người liên quan, nhân chứng… trước Cơ quan điều tra và tại phiên tòa (có phân tích, đánh giá những mâu thuẫn để kết luận đúng, sai rõ ràng). Trên cơ sở đánh giá toàn bộ chứng cứ của vụ án, Kiểm sát viên sẽ khẳng định nội dung truy tố của bản cáo trạng là hoàn toàn đúng hoặc có vấn đề gì cần thay đổi như: Rút quyết định truy tố, thay đổi tội danh, khung hình phạt nhẹ hơn… Đối với những vấn đề, tình tiết mới phát hiện tại phiên tòa có thể làm thay đổi nội dung, tính chất của vụ án, nếu chưa được thẩm tra đầy đủ, chưa có đủ căn cứ thì không thể kết luận mà phải đề nghị hoãn phiên tòa để điều tra xác minh.

Khi phân tích đánh giá chứng cứ đối với vụ án có bị cáo phạm nhiều tội, thì phải tuân theo quy định đi từ tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng đến tội phạm ít nghiêm trọng. Có thể xếp thành nhóm tội phạm có liên quan chặt chẽ với nhau để cùng phân tích đánh giá như: Tội giết người và cướp tài sản, tội đưa hối lộ và nhận hối lộ... Cần tránh việc sao chép nội dung của bản cáo trạng vào nội dung luận tội.

- Phân tích đánh giá tình chất, mức độ tội phạm, vai trò, vị trí, trách nhiệm của bị cáo (hoặc từng bị cáo):

+ Trên cơ sở đánh giá chứng cứ để phân tích đánh giá chung tính chất, mức độ của vụ án, tính chất hành vi và thủ đoạn phạm tội, xem xét mục đích và động cơ phạm tội, mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra; phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo; xác định nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh… phạm tội.

+ Đánh giá, xác định vai trò, trách nhiệm của từng bị cáo trong vụ án theo trật tự: Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tọi phạm ít nghiêm trọng. Cần sắp xếp các bị cáo theo thứ tự về vai trò trong vụ án nh­­ư trong cáo trạng. Đối với từng bị cáo cũng phải phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được áp dụng đối với họ.

+ Khi phân tích, xác định vai trò, trách nhiệm của bị cáo nào xong thì kết luận bị cáo đã phạm tội gì, tội đó được quy định tại điều, khoản, điểm nào của BLHS.

+ Nêu những thiếu sót sơ hở, vi phạm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội … và nguyên nhân điều kiện tội phạm phát sinh, từ đó có kiến nghị với các cơ quan, đơn vị rút kinh nghiệm, đề ra biện pháp xử lý, sửa chữa.

- Đề nghị xử lý.

+ Trên cơ sở đánh giá, phân tích tính chất, mức độ hậu quả của vụ án, mục đích và động cơ phạm tội, thủ đoạn thực hiện tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò của từng bị cáo trong vụ án và các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ được áp dụng cho từng bị cáo; nguyên nhân, điều kiện phạm tội … có chú ý đến tình hình đấu tranh chống tội phạm nói chung, một loại tội nào đó nói riêng; tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa ph­ương… mà đề nghị xử lý đối với từng bị cáo.

Khi đề nghị xử lý phải theo thứ tự sau:

+ Đề nghị hình phạt chính trước, đối với bị cáo chính trước (theo trật tự như­­ đã nêu ở phần đánh giá vài trò, trách nhiệm của từng bị cáo). Bị cáo phạm nhiều tội phải đề nghị hình phạt cho từng tội riêng biệt và tổng hợp theo quy định tại Điều 50 BLHS. Nếu bị cáo đang chấp hành một bản án khác thì phải đề nghị tổng hợp hình phạt theo Điều 51 BLHS.

+ Hình phạt bổ sung: các bị cáo bị xét xử về các tội phạm mà theo quy định của BLHS, việc áp dụng hình phạt bổ sung là bắt buộc thì đều phải đề nghị áp dụng. Nếu đề nghị không áp dụng phải nêu rõ lý do. Đối với hình phạt bổ sung mà luật quy định có thể (tuỳ nghi) thì phải cân nhắc để giải quyết cho phù hợp.

+ Các biện pháp t­ư pháp quy định tại các điều 41, 42, 43, 44 BLHS. Chú ý khi đề nghị bồi thường thiệt hại cần cụ thể, tránh nêu chung chung.

- Phần kết luận của bản luận tội:

Phần này cần l­­ưu ý Hội đồng xét xử về yêu cầu, mục đích, tầm quan trọng… của việc xét xử vụ án để có quyết định chính xác và về những quan điểm mới phát sinh tại phiên toà, những thay đổi quyết định truy tố của Viện kiểm sát tại phiên toà (nếu có) để Hội đồng xét xử xem xét giải quyết khi nghị án.

2.1.3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên toà sơ thẩm hình sự.

Kiểm sát việc chấp hành các thủ tục tố tụng tại phiên tòa

- Kiểm sát thủ tục bắt đầu phiên tòa:

+ Kiểm sát hoạt động của Thư ký Toà án tại phiên tòa theo đúng quy định tại Điều 197 BLTTHS.

+ Đề nghị hoãn phiên tòa nếu thấy số lượng hoặc thành phần Hội đồng xét xử không đúng theo quy định tại Điều 185 và Điều 307 BLTTHS.

+ Đối chiếu quyết định đưa vụ án ra xét xử do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đọc và quyết định đưa vụ án ra xét xử mà Toà án đã gửi cho Viện kiểm sát (Điều 182 BLTTHS) xem có thống nhất với nhau không? Nếu có điểm, mục nào mâu thuẫn thì cần đánh dấu hoặc ghi lại để lưu ý Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa hoặc kiến nghị khắc phục. Căn cứ Điều 201 BLTTHS thì sau khi đọc xong Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa đề nghị Thư ký Toà án báo cáo danh sách những người được triệu tập đã có mặt đủ chưa? Nếu có người vắng mặt thì báo cáo lý do của sự vắng mặt đó; kiểm tra căn cước của những người được triệu tập đến phiên tòa...

+ Căn cứ kết quả kiểm tra ở giai đoạn trước khi bắt đầu phiên tòa đối chiếu với tài liệu có trong hồ sơ vụ án để phát biểu quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử giải thích rõ thêm quy định của pháp luật, đề nghị tiến hành xét xử hoặc phải hoãn phiên tòa khi có căn cứ pháp luật theo quy định tại các Điều 187, 190, 191, 192, và 193 BLTTHS.

+ Căn cứ vào các điều luật tương ứng quy định tại các điều 42, 45, 46, 47, 60, 61 và 202 BLTTHS và hướng dẫn tại Phần I Nghị quyết số 03/2003/NQ-HĐTP để đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và quyết định, khi có người yêu cầu thay đổi ai trong số những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch. Quyết định về việc thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên và người giám định, người phiên dịch phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và lập thành văn bản theo quy định của khoản 2 Điều 199 BLTTHS và hướng dẫn tại phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP.

+ Kiểm sát viên phải được Hội đồng xét xử hỏi ý kiến về việc giải quyết những yêu cầu về xem xét chứng cứ và hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt theo quy định tại Điều 205 BLTTHS. Việc quyết định các vấn đề này cũng phải được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng xử án, được ghi trong biên bản phiên tòa (Điều 199 BLTTHS).

+ Xem xét quyết định việc cách ly người làm chứng với những người có liên quan? Cách ly bị cáo với người làm chứng theo quy định của khoản 2 Điều 204 BLTTHS.

+ Nghiên cứu nắm vững việc giám sát bị cáo tại phiên toà theo quy định tại Điều 188 BLTTHS và hướng dẫn tại mục 1 phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP; Quyết định số 810/2006/QĐ-BCA ngày 4/7/2006 của Bộ trưởng Bộ công an ban hành Quy trình bảo vệ phiên tòa, áp giải bị cáo, dẫn giải người làm chứng ra tòa.

- Kiểm sát thủ tục xét hỏi tại phiên tòa:

+ Kiểm sát Hội đồng xét xử tiến hành việc xét hỏi theo đúng trình tự quy định tại Điều 207 BLTTHS. Thông qua xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án, làm cơ sở cho việc xác định tội danh, quyết định hình phạt và các biện pháp tư pháp khác. Hội đồng xét xử phải cho

bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án

rồi mới hỏi thêm theo quy định tại khoản 2 Điều 209 BLTTHS. Hội đồng xét xử phải hỏi từng bị cáo theo quy định tại khoản 1 của Điều 207 và trình tự xét hỏi theo quy định tại khoản 2 của Điều 209 BLTTHS.

+ Việc công bố lời khai tại Cơ quan điều tra chỉ được thực hiện khi có một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 208 BLTTHS. Kiểm sát viên phải lưu ý: Mọi chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đều phải được thẩm tra, xác minh công khai tại phiên tòa. Do vậy, tuỳ theo trình tự xét hỏi và căn cứ vào khoản 2 Điều 208 BLTTHS, Hội đồng xét xử hoặc Kiểm sát viên công bố lời khai hoặc tài liệu.

+ Kiểm sát việc xét hỏi bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc đại diện hợp pháp của họ; người làm chứng, người giám định được thực hiện theo quy định tại các điều 209, 210, 211 và 215 BLTTHS.

+ Kết thúc việc xét hỏi, theo quy định tại Điều 216 BLTTHS thì Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa xem họ có yêu cầu xét hỏi vấn đề gì nữa không? Nếu có và xét thấy cần thiết thì Chủ tọa phiên tòa phải tiếp tục việc xét hỏi.

+ Ngoài ra, trong quá trình xét xử, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa như việc có mặt theo giấy triệu tập của Toà án, ý thức chấp hành nội quy phòng xử án, thái độ khai báo trong quá trình được xét hỏi v.v…

- Kiểm sát việc tuyên án:.

+ Kiểm sát viên cần nắm vững giới hạn việc xét xử của tòa án theo quy định tại Điều 196 BLTTHS và Hướng dẫn tại mục 2 phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP như: Tòa án có thể xét xử theo khoản nặng hơn hoặc khoản nhẹ hơn so với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật; xét xử về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố (tiểu mục 2.2. Phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP); về một tội nhẹ nhất trong các tội mà Viện kiểm sát truy tố hoặc về tội nhẹ hơn tất cả các tội mà Viện kiểm sát truy tố đối với tất cả các hành vi phạm tội, trong trường hợp Viện kiểm sát truy tố bị cáo về nhiều tội đối với nhiều hành vi phạm tội (tiểu mục 2.3 mục 2 phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP).

+ Nếu xét thấy có thể xét xử bị cáo theo một trong các trường hợp trên đây, Kiểm sát viên cần kiểm sát việc tuân thủ quy định của BLTTHS về thẩm quyền xét xử của Toà án các cấp, về thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm và về việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo.

+ Kiểm sát viên phải kiểm sát việc Hội đồng xét xử thực hiện những yêu cầu khi ghi biên bản phiên tòa theo quy định tại Điều 200 BLTTHS.

+ Kiểm sát viên phải kiểm sát việc Hội đồng xét xử tuyên án theo quy định tại Điều 226 BLTTHS và Hướng dẫn tại Mục 3 phần IV Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP.

+ Kiểm sát viên kiểm sát việc trả tự do cho bị cáo hoặc bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án theo quy định tại Điều 227, Điều 228 BLTTHS, Hướng dẫn tại mục 4 phần IV Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP.

+ Kiểm sát viên phải ghi lại những nhận định quan trọng, nội dung quyết định của bản án sơ thẩm để làm căn cứ kiểm tra đối chiếu với biên bản phiên toà và báo cáo Lãnh đạo Viện (cần lưu ý cả phần lý lịch bị cáo nhất là các bị cáo có nhiều tiền án thì phải ghi cụ thể các số bản án ngày bắt thi hành bản án đó, ngày thi hành xong bản án .v.v. Đối với phần quyết định hình phạt cần chú ý việc khấu trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc xử phạt tù cho hưởng án treo, các biện pháp tư pháp áp dụng đối với bị cáo là người chưa thành niên .v.v. tất cả những tình tiết này có ý nghĩa để đối chiếu giữa bản án Tòa án tuyên tại tòa với bản án ban hành sau này để kiểm sát bản án).

- Kiểm sát việc hoãn phiên tòa:

Kiểm sát viên phải đề nghị hoãn phiên toà trong các trường hợp sau:

+ Bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng; người bào chữa vắng mặt theo quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

 

người tham gia tố tụng khác vắng mặt sẽ gây trở ngại cho việc xét xử vụ án;

+ Thành phần Hội đồng xét xử không đúng với quy định của BLTTHS;

+ Bị cáo yêu cầu hoãn phiên toà, nếu việc giao nhận bản cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử không đúng quy định tại khoản 2 Điều 49 và khoản 1 Điều 182 BLTTHS.

Trường hợp Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử thì Kiểm sát viên phải tham gia phiên toà và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Sau phiên toà phải báo cáo ngay với lãnh đạo Viện cấp mình để xem xét, quyết định và

 

báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên.

Hoạt động của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố tại phiên tòa.

- Đọc cáo trạng.

+ Trước khi đọc cáo trạng, Kiểm sát viên cần đứng dậy, hướng về phía Hội đồng xét xử và những người tham dự phiên tòa để có lời phát biểu ngắn mang tính “dẫn đề”. Ví dụ: Thưa Hội đồng xét xử, tôi là … đại diện Viện kiểm sát tỉnh (hoặc quận, huyện…) xin công bố bản cáo trạng hoặc nói ngắn gọn “Tôi xin công bố bản cáo trạng”.

+ Kiểm sát viên phải đọc nguyên văn bản cáo trạng, không được tự ý bớt xén lời văn hoặc sửa chữa từ, ngữ… Khi đọc bản cáo trạng, Kiểm sát viên phải đọc to, rõ ràng, mạch lạc, chính xác, ngắt câu hoặc từ phải đúng lúc, đúng chỗ. Phải sử dụng từ ngữ tiếng Việt phổ thông. Đối với các vụ án có các tên riêng tiếng nước ngoài thì phải phiên âm sang tiếng Việt và đọc chuẩn xác đúng câu từ đó.

+ Sau khi đọc cáo trạng, Kiểm sát viên có thể trình bày ý kiến bổ sung để làm rõ thêm nội dung của bản cáo trạng chứ không phải là bổ sung làm thay đổi nội dung bản cáo trạng (trừ trường hợp được Viện trưởng đồng ý).

- Tham gia xét hỏi.

Kiểm sát viên xét hỏi để khẳng định kết quả điều tra. Thông qua việc hỏi để khẳng định, chứng minh các tài liệu điều tra được thu thập có trong hồ sơ vụ án đã đảm bảo tính hợp pháp hay không về mặt nội dung cũng như về mặt hình thức. Kiểm sát viên phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu quy định tại Điều 22 Quy chế công tác THQCT&KSXX và lưu ý một số hoạt động sau:

Xét hỏi bị cáo

:

Kiểm sát viên cần chú ý:

+ Lắng nghe, theo dõi, đối chiếu với những câu hỏi của thành viên Hội đồng xét xử, nếu họ đã hỏi trùng với dự kiến câu hỏi của mình và bị cáo đã trả lời đúng rồi thì cần đánh dấu (hoặc gạch bỏ) để không hỏi nữa. Nếu các thành viên Hội đồng xét xử hỏi trùng với câu hỏi của mình nhưng bị cáo trả lời chưa rõ thì cũng đánh dấu lại để hỏi cho rõ thêm (Trên cơ sở đề cương tham gia xét hỏi đã chuẩn bị từ giai đoạn trước).

+ Phải hỏi toàn bộ những tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội của bị cáo (khoản 3 Điều 209 BLTTHS) để có cơ sở bổ sung, đề xuất trong phần luận tội (đề xuất về tội danh, hình phạt, các quyết định khác có liên quan…), trừ những câu hỏi các thành viên Hội đồng xét xử đã hỏi và bị cáo đã trả lời rõ. Câu hỏi của Kiểm sát viên phải rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu và phải trực tiếp liên quan đến việc làm sáng tỏ các tình tiết, nội dung của vụ án.

+ Giải thích, thuyết phục bị cáo để bị cáo suy nghĩ trả lời trong trường hợp bị cáo im lặng, không khai báo hoặc thay đổi lời khai so với lời khai tại Cơ quan điều tra. Nếu bị cáo vẫn thể hiện thái độ cố tình không khai báo thì Kiểm sát viên căn cứ vào các câu hỏi tình huống đã dự kiến sẵn để nêu câu hỏi hoặc chuyển sang hỏi tiếp những người khác. Chỉ được công bố những lời khai tại Cơ quan điều tra khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 208 BLTTHS. Đồng thời chỉ cần công bố những lời khai có ý nghĩa chứng minh về các tình tiết của vụ án.

+ Yêu cầu bị cáo khai rõ lý do có sự mâu thuẫn nếu lời khai của bị cáo mâu thuẫn với lời khai tại Cơ quan điều tra để làm cơ sở cho việc xem xét đánh giá tính trung thực, khách quan trong lời khai của bị cáo.

+ Việc xét hỏi đối với bị cáo mà trước đó đã bị cách ly được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 209 BLTTHS.

Xét hỏi đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ.

Kiểm sát viên cần chú ý:

+ Lắng nghe, ghi chép tất cả những ý kiến của người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của những người này khi họ trình bày về những tình tiết của vụ án có liên quan đến họ; ghi chép những câu hỏi của Hội đồng xét xử và trả lời của họ. Sau đó đối chiếu với dự thảo đề cương tham gia thẩm vấn của mình. Nếu thấy đầy đủ rồi thì thôi tránh hỏi trùng lặp, nếu điểm nào chưa rõ thì hỏi cho rõ thêm.

+ Đặt câu hỏi ngắn, gọn, rõ ràng, dễ hiểu và có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng này.

Xét hỏi người làm chứng.

Kiểm sát viên cần chú ý:

+ Lắng nghe, ghi chép lại những vấn đề có liên quan đến vụ án mà người làm chứng trình bày. Đặc biệt là các tình tiết có ý nghĩa trong việc buộc tội và gỡ tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo mà người làm chứng cung cấp. Sau khi Hội đồng xét xử hỏi, nếu thấy điểm nào chưa được làm rõ thì Kiểm sát viên hỏi, yêu cầu người làm chứng trình bày rõ thêm. Trường hợp lời khai của người làm chứng có mâu thuẫn với nhau hoặc các nhân chứng có lời khai mâu thuẫn nhau thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử cho phép được gọi để đối chất ngay tại phiên tòa, nhằm làm sáng tỏ mọi tình tiết của vụ án.

+ Chú ý trạng thái tâm lý của người làm chứng để đặt câu hỏi hoặc nêu vấn đề thật cụ thể cho họ dễ trả lời. Đối với người làm chứng là người chưa thành niên thì tùy từng trường hợp có thể yêu cầu cha, mẹ, người đỡ đầu hoặc thầy giáo, cô giáo giúp đỡ để hỏi.

+ Kiểm tra và xét hỏi về nguồn gốc, nội dung tài liệu khi có người tham gia tố tụng xuất trình tài liệu mới tại phiên toà để có kết luận về tính hợp pháp và tính có căn cứ của tài liệu đó. Trường hợp chưa đủ điều kiện kết luận mà tài liệu mới đó có thể làm thay đổi nội dung, tính chất vụ án thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà để xác minh.

+ Có thể đề nghị cùng Hội đồng xét xử, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa đến xem xét tại chỗ những vật chứng có liên quan đến vụ án hoặc xem xét nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án, trong quá trình tham gia xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa theo quy định tại Điều 212, 213 BLTTHS.

+ Đề nghị Hội đồng xét xử cho hỏi thêm nếu sau khi đã hỏi mà thấy có vấn đề cần hỏi bổ sung để làm rõ theo quy định tại Điều 216 BLTTHS.

Trình bày luận tội:

+ Theo quy định tại Điều 217 BLTTHS thì Kiểm sát viên trình bày lời luận tội sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng, hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội. Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.

+ Khi trình bày lời luận tội, Kiểm sát viên phải nói rõ ràng, mạch lạc và khúc triết trong từng câu phát biểu, sử dụng từ ngữ phải chuẩn xác theo tiếng Việt phổ thông.

+ Kết thúc phần xét hỏi, Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa thường phát biểu điều hành “kết thúc phần xét hỏi (hoặc thẩm vấn) công khai tại phiên tòa, chuyển sang phần tranh luận, trước khi tranh luận, mời vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu lời luận tội ”. Kiểm sát viên phải đứng dậy hướng về phía Hội đồng xét xử và mở đầu là câu “ thưa Hội đồng xét xử ” tiếp đó Kiểm sát viên tự giới thiệu về mình, tư cách pháp lý và nhiệm vụ của mình tại phiên tòa, tên vụ án.

+ Tiếp theo Kiểm sát viên trình bày phần nội dung của luận tội, phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu theo quy định của ngành, bao gồm:

Thứ nhất,

phân tích, tổng hợp chứng cứ. Trên cơ sở hồ sơ vụ án và kết quả xét hỏi, thẩm tra tại phiên tòa, luận tội phải phân tích đánh giá chứng cứ nhằm chứng minh các yếu tố cấu thành tội phạm (các tội cụ thể) mà bị cáo (các bị cáo) đã bị truy tố và xét xử, qua đó luận tội cần khẳng định nội dung và quyết định truy tố ghi trong cáo trạng là hoàn toàn đúng. Nếu có gì thay đổi (rút một phần quyết định truy tố, chuyển khung hình phạt hoặc chuyển tội danh nhẹ hơn .v.v…) thì cũng phải đề cập trong luận tội và thực hiện đúng các quy định của BLTTHS.

Thứ hai,

việc tổng hợp, đánh giá chứng cứ phải được đánh giá theo trình tự thời gian, theo từng vụ việc, từng bị cáo. Kiểm sát viên phải nêu nội dung lời khai tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa, kết quả giám định, biên bản khám nghiệm… để đảm bảo tính có căn cứ của nội dung luận tội.

Thứ ba, 

phân tích đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, vai trò, vị trí trách nhiệm của bị cáo (từng bị cáo trong vụ án).

Thứ tư, 

phân tích những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm và kiến nghị phòng ngừa.

- Đề xuất quan điểm, đường lối xử lý vụ án: Trên cơ sở phân tích, đánh giá chứng cứ, phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, vai trò, vị trí, trách nhiệm của bị cáo (từng bị cáo), nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm ở địa phương… Kiểm sát viên đề xuất quan điểm đường lối xử lý vụ án cần lưu ý một số yêu cầu sau:

+

Một là,

đề nghị hình phạt chính trước, đối với vụ án có nhiều bị cáo thì đề nghị theo thứ tự như đã nêu ở phần đánh giá vai trò, vị trí từng bị cáo (lưu ý phải khấu trừ thời gian tạm giam, tạm giữ khi áp dụng Điều 31 BLHS, khấu trừ thời hạn tạm giam, tạm giữ khi áp dụng Điều 60 BLHS và áp dụng Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC). Nếu bị cáo phạm nhiều tội thì đề nghị hình phạt từng tội, sau đó tổng hợp theo Điều 50 BLHS. Nếu bị cáo phải chấp hành nhiều bản án thì tổng hợp theo Điều 51 BLHS. Nếu bị cáo bị xét xử về các tội có hình phạt bổ sung là bắt buộc thì phải đề nghị, nếu không bắt buộc thì tuỳ từng trường hợp để quyết định.

+

Hai là,

các biện pháp tư pháp khác áp dụng theo quy định tại các điều 41, 42, 43, 44 BLHS. Chú ý khi đề nghị bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phải căn cứ vào quy định tại các điều từ Điều 604 đến 612 Bộ luật dân sự 2005; Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 để đề nghị áp dụng bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

- Phần kết luận: Kiểm sát viên lưu ý Hội đồng xét xử về yêu cầu, mục đích, tầm quan trọng của việc xét xử vụ án để có quyết định chính xác. Nếu có những thay đổi quyết định truy tố tại phiên toà thì lưu ý Hội đồng xét xử quan tâm khi nghị án. Thông thường, trong thực tế khi kết luận trong luận tội thường thể hiện như sau “Thưa Hội đồng xét xử! Trên đây là toàn bộ quan điểm của VKSND... đối với vụ án. Chúng tôi đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc trong khi nghị án để đưa ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; có tác dụng giáo dục, trừng trị đối với bị cáo và đảm bảo yêu cầu phòng ngừa chung”.

- Tranh luận của Kiểm sát viên.

+ Kiểm sát viên phải có trách nhiệm bảo vệ quan điểm luận tội của mình, bảo vệ cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo tại phiên toà bằng việc đối đáp, tranh luận.

+ Theo quy định tại Điều 218 BLTTHS thì bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về lời luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra ý kiến của mình. Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến để ghi nhận hay bác bỏ, nếu Kiểm sát viên chưa trả lời với từng ý kiến thì Chủ tọa phiên toà có quyền đề nghị Kiểm sát viên đối đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những tham gia tố tụng khác.

Để tranh luận tốt, Kiểm sát viên phải chú ý:

+ Lắng nghe các bên trình bày quan điểm, ý kiến của họ, vừa nghe vừa ghi lại tóm tắt để nắm được nội dung vấn đề. Nếu vụ án có nhiều người cùng bào chữa cho một bị cáo thì Kiểm sát viên có thể nghe từng người để tham gia đối đáp, hoặc tổng hợp ý kiến chung của tất cả những người bào chữa để phản biện.

+ Phân tích nội dung của vấn đề, đồng thời xác định nhanh nội dung cần đối đáp. Những nội dung, vấn đề mà các bên đưa ra phải là những nội dung có liên quan đến vụ án và phải có trong hồ sơ án. Trường hợp tài liệu mới phát sinh thì cũng phải là tài liệu có liên quan đến vụ án và phải kiểm tra nguồn gốc, tính hợp pháp của tài liệu đó để có lập luận đối đáp. Kiểm sát viên có thể đề nghị Hội đồng xét xử cắt những ý kiến của các bên không có liên quan đến vụ án để không phải đối đáp lại.

+ Chủ động đề nghị Chủ tọa phiên toà để tranh luận tuỳ theo từng trường hợp cụ thể, từng nội dung cụ thể để lựa chọn nội dung nào, vấn đề nào cần đối đáp tranh luận trước v.v. Thông thường, Kiểm sát viên nên chọn những vấn đề mà trong hồ sơ vụ án đã được khẳng định cả hình thức lẫn nội dung phù hợp với kết quả thẩm tra công khai tại phiên toà để phản bác ý kiến của người bào chữa hoặc bị cáo.v.v. Khi tranh luận, cần căn cứ vào lý luận của cấu thành tội phạm, lý luận về chứng cứ để lập luận có tính lôgic từng vấn đề, để từ đó phản bác các ý kiến của phía đối tượng. Kiểm sát viên phải nắm vững những quy định của BLTTHS để khẳng định tính có căn cứ, hợp pháp của tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đồng thời chú ý thẩm tra, xác minh công khai tại phiên toà những thiếu sót về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra để khẳng định bản chất của vụ việc đang được xem xét và phản bác những ý kiến của người bào chữa đưa ra.

+ Chú ý những mâu thuẫn trong tranh luận của người bào chữa và giữa những người bào chữa với nhau, giữa người bào chữa với người bảo vệ quyền lợi của các đương sự… trong quá trình tham gia phiên toà để làm cơ sở phản bác lại những ý kiến của họ.

2.1.4. Hoạt động của kiểm sát viên sau khi kết thúc phiên toà sơ thẩm hình sự

Báo cáo kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử

+ Kiểm sát viên phải báo cáo với lãnh đạo Viện, lãnh đạo đơn vị và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp kết quả phiên toà sơ thẩm; đề xuất những vấn đề cần kháng nghị, kiến nghị, hướng giải quyết những vấn đề đó, nếu thấy cần thiết.

+ Báo cáo kết quả xét xử sơ thẩm của VKSND cấp huyện gửi đến Phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự, Phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; báo cáo kết quả xét xử sơ thẩm

 

của Viện kiểm sát quân sự khu vực gửi đến Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương.

Báo cáo kết quả xét xử của VKSND cấp tỉnh gửi đến Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự, Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm khu vực; báo cáo kết quả xét xử

 

của Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương gửi đến Viện kiểm sát quân sự Trung ương.

Đối với bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì Kiểm sát viên đã tham gia xét xử sơ thẩm làm báo cáo kèm theo các văn bản, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết vụ án gửi Viện kiểm sát sẽ xét xử phúc thẩm để giải quyết theo thẩm quyền.

Báo cáo kết quả phiên toà thực hiện theo mẫu của VKSND tối cao.

Kiểm tra biên bản phiên tòa:

+ Theo quy định tại khoản 4 Điều 200 BLTTHS thì Kiểm sát viên được xem biên bản phiên toà, có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên toà và ký xác nhận. Để kiểm tra biên bản phiên tòa, Kiểm sát viên đối chiếu bút ký của mình tại phiên tòa với biên bản phiên toà xem biên bản phiên tòa có ghi đầy đủ không? Có mâu thuẫn gì không? Nếu phát hiện sai sót thì yêu cầu sửa chữa, bổ sung (lưu ý không được sửa chữa tẩy xoá vào những phần đã ghi mà phải ghi xuống phía sau những phần đó và Kiểm sát viên cùng Thư ký tòa án ký vào phần bổ sung).

+ Kiểm sát biên bản phiên tòa thường liên quan chặt chẽ đến việc kiểm sát việc chấp hành thủ tục tố tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự. Do vậy, Kiểm sát viên cần nắm vững các quy định từ Điều 170 đến Điều 229 BLTTHS để kịp thời phát hiện các vi phạm của Tòa án, có biện pháp yêu cầu Tòa án khắc phục.

Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án:

+ Kiểm sát viên phải kiểm tra bản án hoặc quyết định của Toà án nhằm phát hiện những sai sót và vi phạm của Toà án trong việc ra bản án hoặc quyết định. Khi kiểm tra bản án hoặc quyết định của Toà án Kiểm sát viên cần chú ý:

+ Kiểm sát viên căn cứ Điều 224 BLTTHS để tiến hành kiểm sát bản án: Bản án trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định không có tội, xác định bị cáo có phạm tội hay không và nếu phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của BLHS. Bị cáo có những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nào theo quy định của pháp luật và cần phải xử lý ra sao?...

+ Kiểm sát viên cần đọc kỹ toàn bộ bản án, cả phần thủ tục cũng như phần nội dung và phần quyết định của vụ án khi kiểm sát bản án.

+ Nếu phát hiện những vi phạm, thiếu sót của bản án thì phải có hướng xử lý tuỳ theo mức độ. Những sai sót nhỏ không ảnh hưởng đến bản chất của vụ án thì kiến nghị Thẩm phán Chủ toạ phiên toà khắc phục, sửa chữa kịp thời. Những thiếu sót, vi phạm nghiêm trọng ảnh hưởng đến bản chất của vụ án, không đúng với thực tế khách quan thì phải xem xét thận trọng, kịp thời đề xuất với Lãnh đạo Viện xem xét quyết định kháng nghị.

- Kiểm sát việc giao bản án.

+ Sau khi xét xử sơ thẩm xong, Kiểm sát viên cần tập trung vào việc kiểm sát việc giao bản án của Hội đồng xét xử bảo đảm việc giao bản án thực hiện theo quy định tại Điều 229 BLTTHS.

+ Việc giao bản án ở đây phải được thể hiện bằng biên bản giao - nhận, có chữ ký của người nhận.

- Kháng nghị bản án hoặc quyết định của tòa án, kiến nghị tòa án khắc phục vi phạm.

Sau phiên xét xử sơ thẩm, Kiểm sát viên cần làm một số việc sau:

+ Kiểm tra ngay biên bản phiên tòa, biên bản nghị án, đối chiếu với những ghi chép tại phiên tòa;

+ Báo cáo ngay những diễn biến tại phiên tòa với lãnh đạo Viện kiểm sát, nhất là các ý kiến khác nhau về mức án, về đánh giá chứng cứ tại phiên tòa, quan điểm xét xử của Tòa án có phù hợp với quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát hay không để lãnh đạo Viện xem xét quyết định việc kháng nghị hay không?

+ Đọc kỹ và kiểm tra cụ thể từng phần của bản án, nhận định trong bản án và những phần quyết định cụ thể của bản án, xem xét về các căn cứ áp dụng hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; phần giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự…

+ Nếu các bản án, quyết định có kháng cáo thì Kiểm sát viên phải nghiên cứu các đơn kháng cáo, nhất là các lý do kháng cáo mà bị cáo hoặc người tham gia tố tụng khác nêu ra…

+ Trên cơ sở nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ các vấn đề nêu trên, Kiểm sát viên báo cáo đề xuất Lãnh đạo Viện, nêu rõ quan điểm có kháng nghị phúc thẩm hay không, lý do kháng nghị.

Kỹ năng xây dựng kháng nghị phúc thẩm.

+ Về thẩm quyền: Căn cứ Điều 232 BLTTHS thì Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm.

+ VKSND tối cao đã ban hành mẫu số 138 ban hành kèm theo Quyết định số 960/2007/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007, khi viết kháng nghị phúc thẩm cần đáp ứng các yêu cầu sau:

Về hình thức kháng nghị:

Hình thức kháng nghị phải thực hiện đúng mẫu quy định. Căn cứ điều luật để ban hành kháng nghị phúc thẩm là Điều 36 và Điều 232 BLTTHS.

Về nội dung kháng nghị:

Điều 33 của Quy chế THQCT&KSXXHS xác định bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây: Việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà sơ thẩm phiến diện hoặc không đầy đủ; kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án; có vi phạm trong việc áp dụng BLHS. Đây là những trường hợp mà Hội đồng xét xử đã áp dụng các quy định của BLHS không đúng; thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.

Khi viết kháng nghị phải phân tích thật cụ thể vi phạm của bản án sơ thẩm. Vi phạm về thủ tục tố tụng hay vi phạm trong việc áp dụng các quy định của BLHS và viện dẫn căn cứ pháp luật cụ thể (điều luật hoặc của văn bản hướng dẫn áp dụng). Đối với vụ án có nhiều bị cáo bị kháng nghị thì phải phân tích vai trò tham gia thực hiện tội phạm và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của từng bị cáo, đánh giá một cách toàn diện các căn cứ, cơ sở quyết định hình phạt để đề xuất việc xử lý đối với từng trường hợp cụ thể. Đối với vụ án có đồng phạm nhưng chỉ kháng nghị đối với một hoặc một số bị cáo cần có sự phân tích vị trí, vai trò cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo bị kháng nghị so với bị cáo không bị kháng nghị để kháng nghị có căn cứ và có sức thuyết phục.

Trên cơ sở phân tích, lập luận những vi phạm của bản án sơ thẩm phần quyết định của kháng nghị phải cụ thể. Kháng nghị toàn bộ hay một phần bản án? Nếu kháng nghị một phần cần nêu rõ kháng nghị phần nào về áp dụng điểm, khoản, điều luật; về hình phạt hay bồi thường… Kháng nghị yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo hướng nào? tăng hoặc giảm hình phạt đối với bị cáo (hoặc các bị cáo); chuyển từ việc cho bị cáo được hưởng án treo sang không cho hưởng án treo hoặc ngược lại, tăng hoặc giảm mức bồi thường…

Về thời hạn kháng nghị:

Quyết định kháng nghị phải được làm trong thời hạn mà pháp luật quy định. Đối với bản án là 15 ngày ở Viện kiểm sát cùng cấp và 30 ngày là ở Viện kiểm sát trên một cấp.

Kiến nghị Toà án khắc phục vi phạm.

- Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự, nếu phát hiện Toà án có vi phạm pháp luật trong việc xét xử vụ án thì tuỳ từng trường hợp, Kiểm sát viên tự mình hoặc báo cáo Lãnh đạo Viện kiến nghị với Toà án khắc phục vi phạm.

- Kiến nghị có thể ban hành ngay sau phiên toà, nhưng thường là tổng hợp lại thành một dạng để kiến nghị chung theo định kỳ 6 tháng, 1 năm.

- Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự, nếu phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm thì Kiểm sát viên báo cáo Lãnh đạo Viện để xem xét kiến nghị với cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan khắc phục, áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

- Khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm, VKSND có quyền kiến nghị với TAND cùng cấp và cấp dưới khắc phục những vi phạm pháp luật trong việc xét xử, kiến nghị với cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

- Thông thường, hình thức kiến nghị được trình bày dưới dạng một văn bản có trích yếu nội dung chính của kiến nghị. Khi viết kiến nghị cũng phải bảo đảm sự chính xác trong việc sử dụng các thuật ngữ pháp lý. Nội dung kiến nghị phải nêu các vấn đề cần kiến nghị theo những dạng vi phạm nhất định có dẫn chứng minh họa và trích dẫn căn cứ pháp luật bị vi phạm.

- Để kiến nghị có nội dung tốt và đem lại hiệu quả cao, Kiểm sát viên cần chú ý tích lũy vi phạm theo những dạng vi phạm nhất định, như vi phạm về thời hạn tố tụng (thời hạn chuyển hồ sơ của các Tòa án cấp sơ thẩm, thời hạn xét xử phúc thẩm, thời hạn tạm giam…); vi phạm về thực hiện các thủ tục tố tụng (biên bản nghị án, biên bản phiên tòa, việc triệu tập những người tham gia phiên tòa phúc thẩm…); vi phạm trong việc áp dụng luật hình sự, về đường lối xét xử đối với những loại tội nhất định. Việc kiến nghị khắc phục vi phạm không chỉ đối với Tòa án cấp phúc thẩm mà còn đối với cả các Tòa án cấp sơ thẩm cũng như các Cơ quan điều tra và các chủ thể khác nếu phát hiện có vi phạm.

Kiểm sát việc kháng cáo, kháng nghị.

Sau phiên toà sơ thẩm, Kiểm sát viên còn phải chú ý kiểm sát việc kháng cáo, kháng nghị. Khi tiến hành kiểm sát việc kháng cáo, kháng nghị cần chú ý các quy định tại các điều luật của BLTTHS về những người có quyền kháng cáo; thủ tục kháng cáo và kháng nghị; thời hạn kháng cáo, kháng nghị; kháng cáo quá hạn; thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị; hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị; bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị.

Theo dõi kết quả xét xử phúc thẩm.

- Nếu bản án hoặc quyết định bị kháng cáo, kháng nghị thì Kiểm sát viên đã giải quyết vụ án phải theo dõi kết quả xét xử phúc thẩm để kiểm tra lại nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm. Trường hợp không nhất trí với bản án hoặc quyết định phúc thẩm thì Kiểm sát viên báo cáo đề xuất Lãnh đạo Viện cấp mình ký văn bản đề nghị VKSND tối cao xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

- Nếu bản án hoặc quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì Kiểm sát viên đã giải quyết vụ án phải theo dõi kết quả xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm để báo cáo Lãnh đạo Viện và Thủ trưởng đơn vị. Kiểm sát viên cần trực tiếp dự phiên toà phúc thẩm (nhất là đối với các vụ án có kháng nghị của Viện kiểm sát). Nếu thấy không nhất trí với kết quả xét xử phúc thẩm, thì Kiểm sát viên nêu rõ lý do, có văn bản báo cáo với Lãnh đạo Viện cấp mình, để Lãnh đạo Viện báo cáo với VKSND tối cao xem xét, kháng nghị giám đốc thẩm. Trách nhiệm theo dõi và đề xuất ý kiến là thuộc Kiểm sát viên đã giải quyết vụ án sơ thẩm.

- Gặp trường hợp bản án hoặc quyết định sơ thẩm tuy đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị cấp có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì Kiểm sát viên có trách nhiệm tìm hiểu lý do vì sao mà bị kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm và theo dõi kết quả xét xử.

Lập, sử dụng và lưu trữ hồ sơ kiểm sát án hình sự.

- Sau khi kết thúc phiên toà, Kiểm sát viên làm báo cáo bằng văn bản gửi cho các cấp theo quy định. Sắp xếp lại hồ sơ kiểm sát, cho đánh số bút lục, làm danh mục bảng kê các tài liệu có trong hồ sơ kiểm sát… Những tài liệu bổ sung sau này cũng phải được đưa đầy đủ vào hồ sơ kiểm sát.

- Kiểm sát viên là người có trách nhiệm quản lý hồ sơ kiểm sát. Chỉ giao hồ sơ kiểm sát cho cấp có thẩm quyền và khi giao phải làm thủ tục giao – nhận theo thủ tục hành chính. Đơn vị mượn hồ sơ nghiên cứu, khi xong việc phải trả lại đầy đủ.

2.2. Hoạt động của kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm hình sự.

Nghiên cứu kháng cáo, kháng nghị.

- Nghiên cứu thủ tục kháng cáo, kháng nghị:

+ Theo quy định tại Mục 2 Phần III Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP thì khi vụ án có kháng cáo hoặc kháng nghị được chuyển đến Toà phúc thẩm, trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ, Toà án cấp phúc thẩm chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu trước. Thời gian nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát cấp tỉnh là 10 ngày, cấp Trung ương là 20 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.

+ Sau khi nhận được hồ sơ vụ án do Toà phúc thẩm chuyển đến, Kiểm sát viên tham gia phiên toà xét xử phúc thẩm phải trực tiếp nghiên cứu hồ sơ vụ án. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên kiểm tra xem xét lý do yêu cầu của kháng cáo, kháng nghị và thủ tục kháng cáo, kháng nghị ...

- Nghiên cứu nội dung kháng cáo, kháng nghị:

+ Kiểm sát viên phải nghiên cứu nội dung đơn kháng cáo và quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát (cùng cấp hoặc trên một cấp) để nắm chắc được lý do kháng cáo, kháng nghị; yêu cầu của kháng cáo, kháng nghị giải quyết vấn đề gì (tăng, giảm hình phạt; thay đổi tội danh; áp dụng điểm, khoản, điều luật áp dụng; xin được hưởng án treo; tăng, giảm bồi thường; đề nghị minh oan vì không có tội…).

+ Trong trường hợp vẫn còn thời hạn kháng cáo, kháng nghị quy định tại Điều 234 của BLTTHS, thì theo quy định tại Mục 7.1 Phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP, người kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền bổ sung, thay đổi nội dung kháng cáo, kháng nghị đối với phần hoặc toàn bộ bản án mà mình có quyền kháng cáo, kháng nghị theo hướng có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo.

+ Trong trường hợp người kháng cáo, Viện kiểm sát đã rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị nhưng sau đó có kháng cáo, kháng nghị lại mà vẫn còn trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị, thì vẫn được chấp nhận để xét xử phúc thẩm theo thủ tục chung.

+ Trong trường hợp đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 234 của BLTTHS, thì trước khi bắt đầu hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền bổ sung, thay đổi nội dung kháng cáo, kháng nghị, nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Căn cứ Mục 3.3 phần II Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP thì "làm xấu hơn tình trạng của bị cáo" được hiể là những trường hợp: chuyển khung hình phạt nặng hơn; áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn; không cho hưởng án treo đối với bị cáo được Toà án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo; tăng mức bồi thường thiệt hại; áp dụng thêm hình phạt bổ sung; áp dụng thêm biện pháp tư pháp so với bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Kiểm sát viên cần căn cứ vào đây để kiểm sát việc kháng cáo hoặc kháng nghị bổ sung.

Nghiên cứu nội dung vụ án.

- Nghiên cứu tính có căn cứ của bản án sơ thẩm: Trong phạm vi những phần của án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ nội dung vụ án sơ thẩm để nắm được việc kết tội của Tòa án trong bản án sơ thẩm dựa vào những căn cứ nào? Đối chiếu với hồ sơ điều tra, với nội dung bản kết luận điều tra, nội dung bản cáo trạng; so sánh với lời luận tội của Kiểm sát viên ở phiên toà sơ thẩm để xem có gì khác biệt với nhận định của bản án sơ thẩm không? Đồng thời còn phải nghiên cứu biên bản phiên toà để qua đó hình dung được quá trình diễn biến phiên toà sơ thẩm.

- Kiểm tra phần thủ tục tố tụng của vụ án để xác định hồ sơ vụ án chuẩn bị được đưa ra xét xử phúc thẩm có chấp hành đầy đủ các quy định về tố tụng hình sự hay không? Phiên toà sơ thẩm được xét xử đã chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật chưa? Thời hạn xét xử phúc thẩm, về việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo...đã đúng chưa?.

- Nghiên cứu bản án sơ thẩm để nắm được nội dung vụ án, những chứng cứ được nêu ra để làm căn cứ buộc tội bị cáo; hành vi phạm tội của bị cáo và những dấu hiệu đặc trưng của tội phạm mà án sơ thẩm nhận định; tội danh, hình phạt mà án sơ thẩm đã quyết định.

Trên cơ sở của các nghiên cứu trên, Kiểm sát viên đưa ra nhận xét về việc án sơ thẩm kết tội như vậy có đúng với các quy định của BLHS không? Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đầy đủ chưa? Các tình tiết thuộc về nhân thân của bị cáo đã rõ ràng chưa? Nếu thấy việc xét xử sơ thẩm đã có căn cứ và đúng pháp luật thì đối chiếu với nội dung của kháng cáo, kháng nghị để xem xét. Từ đó rút ra kết luận việc kháng cáo, kháng nghị là có căn cứ hay không có căn cứ.

- Trong khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải ghi chép, trích cứu đầy đủ các lời khai của bị cáo, của những người tham gia tố tụng tại phiên toà sơ thẩm và các tài liệu liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị. Ngoài ra, Kiểm sát viên còn phải kiểm tra biện pháp ngăn chặn để đề nghị Toà án cấp phúc thẩm áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS.

Việc rút kháng nghị của Viện kiểm sát trước khi mở phiên tòa.

- Sau khi đã có quyết định kháng nghị, nếu thấy việc kháng nghị là không có căn cứ, hoặc có tình tiết mới có thể đã thay đổi tính chất, nội dung sự việc nên việc kháng nghị không còn phù hợp nữa thì Kiểm sát viên phải đề xuất việc rút kháng nghị. Việc bổ sung, thay đổi và rút kháng nghị thực hiện theo quy định của Điều 37 Quy chế công tác THQCT&KSXXHS.

- Trước khi rút quyết định đều phải trao đổi trước với Lãnh đạo Viện kiểm sát đã ban hành kháng nghị. Việc rút kháng nghị phải bằng văn bản, nêu rõ lý do gửi cho Toà phúc thẩm và đồng gửi cho các nơi khác theo quy định tại Điều 35 Quy chế công tác THQCT&KSXXHS.

Việc xác minh ở cấp phúc thẩm.

- Theo quy định tại Điều 38 Quy chế công tác THQCT&KSXXHS thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh quyết định việc xác minh theo thủ tục phúc thẩm của cấp mình.

- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền cho Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm quyết định việc xác minh theo thủ tục phúc thẩm của cấp mình.

- Kiểm sát viên có thể tự mình hoặc yêu cầu Viện kiểm sát cấp dưới điều tra xác minh bổ sung những chứng cứ mới như: Hỏi cung bị cáo, lấy lời khai của người có liên quan, tổ chức đối chất, xem xét lại hiện trường để làm rõ những tình tiết của vụ án trong thời hạn xét xử phúc thẩm, việc xác minh phải được Kiểm sát viên ghi biên bản, trong trường hợp thấy cần thiết có thể ghi âm, chụp ảnh, ghi hình để lưu hồ sơ vụ án.

- Đối với những vấn đề không thể điều tra xác minh bổ sung được thì Kiểm sát viên kết luận đề nghị huỷ án giao về cấp sơ thẩm để điều tra lại theo quy định tại Điều 250 BLTTHS.

Báo cáo án.

- Theo quy định tại Điều 40 Quy chế công tác THQCT&KSXXHS thì trước khi tham gia phiên toà phúc thẩm, Kiểm sát viên phải viết dự thảo quan điểm của Viện kiểm sát về tính hợp pháp, tính có căn cứ của kháng cáo, kháng nghị; phân tích làm sáng tỏ quan điểm kháng nghị của Viện kiểm sát đối với những vi phạm pháp luật của bản án hoặc quyết định sơ thẩm; phân tích về nội dung kháng cáo, lý do chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo; phân tích, kết luận những phần không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo đã được phát hiện qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án. Đề xuất quan điểm giải quyết đối với bản án hoặc quyết định bị kháng cáo, kháng nghị theo đúng quy định của pháp luật

- Kiểm sát viên phải nắm vững nội dung vụ án và nội dung kháng cáo, kháng nghị khi báo cáo Lãnh đạo Viện để khi Lãnh đạo Viện hỏi về những tình tiết quan trọng của vụ án thì Kiểm sát viên có thể trả lời được.

- Báo cáo đề xuất phải bằng văn bản. Khi báo cáo Kiểm sát viên phải ghi đầy đủ ý kiến chỉ đạo giải quyết vụ án của Lãnh đạo Viện, làm cơ sở cho việc xem xét, đánh giá ở các giai đoạn tiếp theo (kiểm tra, thanh tra…).

Viết dự thảo đề cương xét hỏi.

- Theo quy định tại khoản 1 Điều 39 Quy chế công tác THQCT & KSXXHS thì trước khi tham gia phiên toà phúc thẩm, Kiểm sát viên phải dự thảo đề cương xét hỏi, tập trung vào những vấn đề và những tình tiết liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. Đề cương xét hỏi phải được lưu trong hồ sơ kiểm sát xét xử phúc thẩm.

- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án, nghiên cứu án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị, Kiểm sát viên phải chuẩn bị cho việc xét hỏi tại phiên toà, phục vụ cho việc xét kháng cáo, kháng nghị. Các câu hỏi đều phải có chuẩn bị trước, câu hỏi đặt ra phải rõ nghĩa, dễ hiểu. Các câu liên quan đến việc xem xét, giải quyết nội dung kháng cáo, kháng nghị.

Dự thảo quan điểm của Viện kiểm sát.

- Trên cơ sở nội dung đã chuẩn bị khi báo cáo án và ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Viện, Kiểm sát viên cần chuẩn bị trước quan điểm sẽ phát biểu tại phiên toà phúc thẩm.

- Nội dung phát biểu quan điểm khác với nội dung luận tội ở phiên toà sơ thẩm. Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về tính hợp pháp và có căn cứ của bản án sơ thẩm. Trên cơ sở các quy định của pháp luật mà đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận hay không chấp nhận nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nội dung phát biểu quan điểm cần phân tích cả về tính hợp pháp và tính có căn cứ của án sơ thẩm. Khi đề nghị chấp nhận hoặc không chấp nhận nội dung kháng cáo, kháng nghị phải phân tích và nêu rõ lý do.

2.2.2. Hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm.

Kiểm sát việc chấp hành thủ tục tố tụng của Hội đồng xét xử.

- Khi tham gia phiên toà phúc thẩm, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử về thủ tục phiên toà; về thành phần Hội đồng xét xử và những người tham gia phiên toà; về việc bổ sung và xem xét chứng cứ mới tại phiên toà; về việc tuyên án hoặc quyết định của Hội đồng xét xử. Ngay sau khi tuyên án Kiểm sát viên phải kiểm sát việc Hội đồng xét xử áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo tại phiên toà theo quy định tại khoản 2 Điều 243 BLTTHS.

- Kiểm sát viên căn cứ Mục 3 Phần II Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành Điều 245 BLTTHS để kiểm sát phần thủ tục phiên toà trong từng trường hợp.

- Kiểm sát viên căn cứ Điều 46 BLTTHS để kiểm tra thành phần Hội đồng xét xử, nếu thấy có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xử án mà thuộc các trường hợp phải thay đổi thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định. Kết thúc phần thủ tục, Hội đồng xét xử sẽ hỏi ý kiến của Kiểm sát viên về phần thủ tục, Kiểm sát viên phải nói rõ ý kiến của mình là đã đầy đủ chưa? Có cần phải bổ sung vấn đề gì không?

- Về xem xét chứng cứ tại phiên toà: Theo quy định tại khoản 2 Điều 246 BLTTHS thì chứng cứ cũ, chứng cứ mới, tài liệu, đồ vật mới bổ sung đều phải được xem xét tại phiên toà. Kiểm sát viên phải có trách nhiệm xem xét chứng cứ một cách toàn diện kể cả chứng cứ đã được thu thập trước đó và chứng cứ mới được đưa ra xem xét, đánh giá ở phiên toà phúc thẩm.

Tham gia xét hỏi tại phiên toà.

- Khi xét hỏi, giống như ở phiên toà sơ thẩm, chủ toạ phiên toà hỏi trước, đến các thành viên khác trong Hội đồng xét xử rồi đến Kiểm sát viên.

- Kiểm sát viên phải theo dõi và ghi chép nội dung xét hỏi của Hội đồng xét xử, của người bào chữa và ý kiến của người được xét hỏi để chủ động tham gia xét hỏi nhằm kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án hoặc quyết định sơ thẩm đối với những vấn đề có kháng cáo, kháng nghị.

- Kiểm sát viên phải đặt câu hỏi rõ ràng, dễ hiểu, tránh giải thích, kết luận ngay. Việc xét hỏi của Kiểm sát viên cần dựa vào dự thảo đề cương xét hỏi đã được chuẩn bị trước, theo dõi diễn biến của phiên toà và những câu hỏi mà Hội đồng xét xử đã hỏi, để hỏi thêm những vấn đề phục vụ cho việc kết luận. Nếu thấy những gì mà Hội đồng xét xử đã hỏi rồi và đã được trả lời rõ thì không hỏi lại. Những vấn đề gì mà dự thảo xét hỏi chưa đề cập, nhưng cần thiết làm rõ thì Kiểm sát viên phải hỏi thêm.

Trình bày quan điểm của Viện kiểm sát.

- Kiểm sát viên với tư cách đại diện cho Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật sẽ phát biểu ý kiến, trình bày quan điểm của Viện kiểm sát đối với bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị.

- Căn cứ vào nội dung của bản án sơ thẩm và việc xem xét các tài liệu, chứng cứ tại phiên toà phúc thẩm Kiểm sát viên trình bày, kết luận về từng vấn đề theo nội dung của kháng cáo, kháng nghị. Kiểm sát viên phải căn cứ vào diễn biến phiên toà để điều chỉnh bản dự thảo kết luận cho phù hợp. Khi trình bày quan điểm, Kiểm sát viên phải cân nhắc đến những chứng cứ và tình tiết mới tại phiên toà.

- Đối với kháng nghị của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên phải tập trung trình bày, phân tích lý do của việc kháng nghị, viện dẫn các quy phạm pháp luật để bảo vệ kháng nghị.

- Khi đề nghị, Kiểm sát viên phải trình bày rõ ràng, cụ thể về từng nội dung mà kháng cáo, kháng nghị đã nêu ra.

- Trường hợp tại phiên toà có những tình tiết mới làm thay đổi quan điểm giải quyết vụ án đã được lãnh đạo Viện cấp mình cho ý kiến mà không có điều kiện báo cáo lại thì Kiểm sát viên quyết định cho phù hợp với thực tế vụ án và phải chịu trách nhiệm về quyết định đó. Sau phiên toà phải báo cáo ngay với lãnh đạo Viện và lãnh đạo đơn vị.

- Việc rút kháng nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà: Tại phiên toà phúc thẩm, Kiểm sát viên có quyền rút kháng nghị. Căn cứ vào diễn biến của phiên toà, và kết quả xét hỏi cũng như qua việc tranh luận, nếu thấy xuất hiện các tình tiết mới làm thay đổi nội dung đã kháng nghị thì Kiểm sát viên có quyền rút kháng nghị.

Tranh luận tại toà.

- Khi bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác trình bày ý kiến của họ về quan điểm của Viện kiểm sát và đưa ra đề nghị thì Kiểm sát viên phải ghi lại tất cả những ý kiến đó để tranh luận. Kiểm sát viên phải tranh luận tất cả những ý kiến có liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị mà người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nêu ra nhằm làm sáng tỏ sự thật, bác bỏ ý kiến không đúng của họ.

- Để việc tranh luận đạt kết quả tốt thì Kiểm sát viên phải chú ý:

+ Ghi lại nội dung trình bày của người bào chữa, của bị cáo và của những người tham gia tố tụng khác, xem giữa quan điểm của Kiểm sát viên và họ có gì khác nhau? Họ không đồng tình với quan điểm của Kiểm sát viên ở phần nào, điểm nào? Lý do vì sao?.

+ Đối đáp lại từng vấn đề mà bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác nêu ra. Đối với những nội dung trùng lặp thì có thể trả lời chung. Cần chú ý đến giới hạn của việc tranh luận. Chú ý tranh luận những vấn đề liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị.

+ Đưa ra những luận điểm để phản bác lại ý kiến của phía bên kia khi tranh luận. Lý lẽ đưa ra phải rõ ràng, viện dẫn chính xác các quy định của pháp luật.

- Nội dung kế hoạch tranh luận và những ý kiến tranh luận của Kiểm sát viên phải được ghi chép đầy đủ và lưu trong hồ sơ kiểm sát.

2.2.3. Hoạt động của Kiểm sát viên sau phiên tòa.

Kiểm tra biên bản phiên toà, bản án, quyết định của Tòa án.

Sau phiên tòa, Kiểm sát viên phải kiểm tra biên bản phiên toà và bản án, quyết định của Tòa án để xem biên bản phiên toà đã phản ảnh đầy đủ diễn biến của phiên toà một cách khách quan không? Phần trình bày quan điểm của Kiểm sát viên ghi chép có đúng không? Có đầy đủ không? Phần tranh luận, đối đáp trở lại của Kiểm sát viên có ghi đúng không?... Nếu phát hiện điều gì không đúng thì Kiểm sát viên phải có ý kiến kịp thời, yêu cầu Chủ toạ phiên toà khắc phục.

Báo cáo với Lãnh đạo và cấp có thẩm quyền về kết quả xét xử phúc thẩm.

- Sau khi tham gia phiên toà, Kiểm sát viên cần hệ thống lại toàn bộ nội dung vụ án; diễn biến ở phiên toà; kết quả xét xử của Toà án cấp phúc thẩm để báo cáo kết quả với Lãnh đạo Viện.

- Đối với những vấn đề có sự khác nhau giữa quan điểm giải quyết vụ án của Viện kiểm sát với quyết định của Hội đồng xét xử thì cần báo cáo với Lãnh đạo Viện để xem xét, quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc báo cáo Viện kiểm sát tối cao xem xét kháng nghị theo thẩm quyền. Đồng thời, cần tổng hợp những vi phạm của Tòa án để kiến nghị yêu cầu khắc phục.

- Đối với những bản án sơ thẩm bị Toà án cấp phúc thẩm huỷ án để điều tra lại hoặc xét xử lại, Kiểm sát viên đã tham gia xét xử phúc thẩm phải làm văn bản báo cáo Lãnh đạo Viện để

 

hướng dẫn Viện kiểm sát cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

2.2.4. Hoạt động của Kiểm sát viên sau khi kết thúc phiên tòa xét xử phúc thẩm hình sự.

Kiểm tra biên bản phiên tòa phúc thẩm hình sự.

- Kiểm tra thành phần Hội đồng xét xử có đúng những người đã ngồi xét xử phúc thẩm vụ án đó hay không?

- Kiểm tra những lời trình bày của bị cáo, người làm chứng, người giám định, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan có ghi đúng hoặc những lời khai của họ tại phiên tòa phúc thẩm có được ghi nhận tại biên bản phiên tòa hay không?.

- Kiểm tra biên bản phiên tòa phải xem xét có ghi đúng, đầy đủ nội dung lời phát biểu kết luận về vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm hay không?... Hội đồng xét xử có ký, đóng dấu đầy đủ vào biên bản phiên tòa theo đúng quy định của pháp luật hay không?.

- Cùng với việc kiểm tra biên bản phiên tòa, Kiểm sát viên còn phải kiểm tra biên bản nghị án tại phiên tòa phúc thẩm. Khi kiểm tra biên bản nghị án Kiểm sát viên phải kiểm tra thật kỹ những nội dung sau:

+ Biên bản nghị án có ghi đúng ngày, tháng, năm nghị án và ghi đầy đủ thành phần Hội đồng xét xử đã trực tiếp xét xử vụ án đó hay không?.

+ Kiểm tra xem biên bản nghị án có ghi đầy đủ họ tên bị cáo, tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt (tù, các hình phạt khác) không? Biên bản nghị án có biểu quyết theo từng vấn đề một như quy định tại Điều 222 BLTTHS không?. Hội đồng xét xử có ký và đóng dấu đầy đủ vào biên bản nghị án hay không.

+ Nếu qua kiểm tra biên bản phiên tòa, biên bản nghị án, Kiểm sát viên phát hiện các biên bản đó ghi không đầy đủ hoặc ghi không đúng hay không ghi những lời khai của bị cáo, người làm chứng, người giám định, kết luận của Kiểm sát viên… thì yêu cầu Thư ký, Thẩm phán bổ sung đầy đủ theo đúng với lời khai của họ, lời kết luận của Kiểm sát viên…

Kiểm sát bản án, quyết định phúc thẩm.

- Kiểm tra phần đầu của bản án, quyết định bằng việc xem xét: Bản án, quyết định có ghi đầy đủ thành phần Hội đồng xét xử đã xét xử phúc thẩm vụ án đó hay không? Ngày, tháng, năm, địa điểm xét xử; họ và tên, địa chỉ, trình độ văn hóa, lý lịch tư pháp của bị cáo; họ và tên, địa chỉ của những người tham gia tố tụng.

- Kiểm tra phần nội dung của bản án, quyết định thì Kiểm sát viên phải kiểm tra kỹ nội dung về hành vi phạm tội của bị cáo, vai trò từng bị cáo (nếu là vụ đồng phạm), tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; phần bồi thường về dân sự xem có đúng nội dung như đã tuyên tại phiên tòa phúc thẩm hay không?.

- Kiểm tra phần quyết định của bản án, quyết định phúc thẩm, Kiểm sát viên phải kiểm tra bản án, quyết định tuyên có đúng với họ tên bị cáo, tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt (đối với từng bị cáo nếu là vụ đồng phạm) không? Các quyết định của bản án tuyên về phần dân sự, xử lý vật chứng, tài sản, án phí… xem có đúng nội dung nội dung mà Hội đồng xét xử đã tuyên ở tại tòa hay không?.

Báo cáo kết quả thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm.

- Sau phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên phải làm báo cáo kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa phúc thẩm theo mẫu quy định của VKSND tối cao.

- Kiểm sát viên phải ghi đầy đủ trong mẫu báo cáo xét xử phúc thẩm như họ, tên bị cáo, số bản án, ngày, tháng, năm xét xử sơ thẩm, ngày, tháng năm kháng cáo hoặc kháng nghị phúc thẩm; nội dung bản án, quyết định sơ thẩm (tội danh, hình phạt, điều luật áp dụng); nội dung kháng cáo, kháng nghị; quan điểm kết luận của Kiểm sát viên tại tòa phúc thẩm… Sau khi ghi đầy đủ các nội dung của báo cáo xét xử phúc thẩm, Kiểm sát viên phải ký vào báo cáo xét xử phúc thẩm.

- Báo cáo kết quả xét xử phúc thẩm phải được gửi ngay cho Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử (Vụ 3 VKSND tối cao); Văn phòng; lưu hồ sơ kiểm sát xét xử phúc thẩm và gửi Lãnh đạo Viện.

Đề xuất kháng nghị giám đốc, tái thẩm.

- Sau phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên báo cáo Lãnh đạo Viện và làm báo cáo đề xuất với cấp có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án nếu phát hiện có căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định tại Điều 273 hoặc Điều 291 BLTTHS.

- Báo cáo đề xuất kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm gồm 3 phần:

+ Phần đầu ghi: Kính gửi Viện trưởng VKSND…

+ Phần nội dung nêu rõ những vi phạm của Tòa án cấp phúc thẩm về tố tụng hoặc vi phạm trong việc áp dụng pháp luật hình sự cần phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó cần phải kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.

+ Phần đề nghị: Ghi rõ đề nghị kháng nghị giám đốc hoặc tái thẩm.

Kiến nghị với Tòa án, các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa vi phạm.

- Căn cứ Điều 19 Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và Điều 10 Quy chế công tác THQCT&KSXXHS thì khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự, nếu phát hiện Toà án có vi phạm pháp luật trong việc xét xử vụ án thì Kiểm sát viên tự mình hoặc báo cáo lãnh đạo Viện kiến nghị với Toà án khắc phục vi phạm. Nếu phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện để xem xét kiến nghị với cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan khắc phục, áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

- Kiểm sát viên phải tập hợp đầy đủ những vi phạm của Tòa án (sơ thẩm, phúc thẩm) và những vi phạm của Cơ quan điều tra (cấp sơ thẩm) cũng như những thiếu sót của VKSND trong công tác kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm để kiến nghị với Tòa án, với Công an, với các cơ quan hữu quan; rút kinh nghiệm trong ngành kiểm sát những thiếu sót về kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử vụ án nhằm khắc phục, đồng thời có biện pháp phòng ngừa, rút kinh nghiệm.

- Thông qua công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm, phát hiện những vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng pháp luật, những văn bản hướng dẫn báo cáo với Viện trưởng cấp mình để tập hợp báo cáo Viện trưởng VKSND tối cao có biện pháp nâng cao chất lượng việc quản lý, chỉ đạo điều hành công tác kiểm sát xét xử hình sự nói chung, công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm nói riêng.

Lưu trữ hồ sơ kiểm sát xét xử phúc thẩm.

- Kiểm sát viên làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm hình sự bổ sung tiếp những tài liệu mới phát sinh vào hồ sơ kiểm sát xét xử như:

+ Quyết định trưng cầu giám định;

+ Công văn của Viện kiểm sát đề nghị Tòa án trưng cầu giám định hoặc yêu cầu cấp sơ thẩm điều tra xác minh bổ sung;

+ Các kết luận giám định mới;

+ Các văn bản lấy lời khai; biên bản mới xác minh…

+ Các văn bản, tài liệu khác phục vụ cho công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm hình sự mới phát sinh đều được bổ xung đầy đủ vào hồ sơ kiểm sát xét sự hình sự.

- Sau khi thực hiện các công việc trên, Kiểm sát viên phải đánh số bút lục vào hồ sơ và ghi đầy đủ vào bìa hồ sơ vụ án như: VKSND nào? Họ tên bị cáo, tội danh, điều luật, hình phạt áp dụng. Ghi ngày, tháng, năm xử phúc thẩm, tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt mà Tòa phúc thẩm tuyên; tóm tắt kết luận của Kiểm sát viên. Đồng thời, ghi đầy đủ số thụ lý của Tòa phúc thẩm; số thụ lý của Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm, ghi số tờ trang hồ sơ, tên Kiểm sát viên Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm.

- Sau khi đã ghi đầy đủ trên bìa hồ sơ kiểm sát xét xử phúc thẩm, Kiểm sát viên chuyển toàn bộ hồ sơ cho bộ phận văn phòng để chuyển lưu trữ.

Sao gửi bản án, quyết định phúc thẩm và theo dõi kết quả xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm (nếu có).

- Sau phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên phải sao chụp bản án hoặc quyết định phúc thẩm gửi Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự;

- Đối với những bản án hoặc quyết định phúc thẩm của Toà án cùng cấp bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, Kiểm sát viên đã giải quyết vụ án phải theo dõi kết quả xét xử để báo cáo lãnh đạo Viện và lãnh đạo đơn vị.

- Đối với những bản án hoặc quyết định phúc thẩm bị Toà án cấp giám đốc thẩm xét xử huỷ án để xét xử lại ở cấp phúc thẩm, Kiểm sát viên phải kiểm tra hồ sơ vụ án, chứng cứ để chuẩn bị tham gia phiên toà phúc thẩm xét xử lại vụ án.

2.3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử giám đốc thẩm.

- Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm

:

Căn cứ Điều 273 BLTTHS thì bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau:

+ Việc điều tra xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc không đầy đủ.

+ Kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án.

+ Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi điều tra, truy tố hoặc xét xử.

+ Có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng BLHS.

Thẩm quyền kháng nghị của Viện kiểm sát theo thủ tục giám đốc thẩm.

Căn cứ Điều 275 BLTTHS và Điều 50 Quy chế công tác THQCT & KSXXHS thì thẩm quyền kháng nghị của Viện kiểm sát được xác định như sau:

- Viện trưởng VKSND tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao.

- Viện trưởng VKSND tối cao uỷ quyền cho Phó Viện trưởng phụ trách khối ký kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp tỉnh.

- Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự cấp dưới.

- Viện trưởng VKSND cấp tỉnh và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới.

Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Căn cứ Điều 278 BLTTHS thì thời hạn kháng nghị được xác định như sau:

- Kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến hành trong thời hạn một năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

- Kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án được tiến hành bất cứ lúc nào, kể cả trường hợp người bị kết án đã chết cần minh oan cho họ.

- Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

2.3.2.

 

Hoạt động của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự theo thủ tục giám đốc thẩm.

- Nguồn phát hiện vi phạm pháp luật:

Căn cứ Điều 274 BLTTHS thì người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân có quyền phát hiện những vi phạm pháp luật trong các bản án và quyết định của Tòa án đó có hiệu lực pháp luật và thông báo cho những người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Trong trường hợp phát hiện thấy những vi phạm pháp luật trong bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, Viện kiểm sát, Tòa án phải thông báo cho người có quyền kháng nghị giám đốc thẩm.

Căn cứ Điều 46 Quy chế KSXXHS thì Kiểm sát viên nghiên cứu phát hiện vi phạm pháp luật trong các bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật

 

trên cơ sở những nguồn sau đây:

+ Báo cáo đề xuất kháng nghị của Viện kiểm sát các cấp;

+ Đơn đề nghị của người bị kết án và của mọi công dân hoặc kiến nghị của các cơ quan, tổ chức;

+ Các tin tức trên các phương tiện thông tin đại chúng;

+ Kết quả kiểm tra công tác nghiệp vụ.

- Yêu cầu chuyển hồ sơ vụ án và nghiên cứu hồ sơ vụ án.

+ Sau khi phát hiện bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, Kiểm sát viên làm văn bản yêu cầu Toà án đã ra bản án hoặc quyết định đó chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

+ Kiểm sát viên phải nghiên cứu hồ sơ vụ án để xem xét các nguồn phát hiện vi phạm pháp luật có hợp pháp

 

và cócăn cứ hay không. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án Kiểm sát viên phải ghi đầy đủ lời khai của bị cáo, người bị hại, của những người

 

tham gia tố tụng khác, ý kiến của Kiểm sát viên, biên bản phiên toà, dư luận báo chí và các chứng cứ, tài liệu liên quan đến việc xem xét kháng nghị. Nếu có căn cứ xác định bản án hoặc quyết định của Toà án vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì báo cáo lãnh đạo Viện kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

+ Trường hợp có căn cứ xác định bản án hoặc quyết định không có vi phạm pháp luật hoặc có vi phạm pháp luật nhưng ít nghiêm trọng không phải kháng nghị thì thông báo cho người hoặc cơ quan, tổ chức đã phát hiện

 

biết rõ

 

lý do của việc không kháng nghị.

+ Ở VKSND tối cao uỷ quyền cho Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự trả lời cho người hoặc cơ quan tổ chức biết, nếu họ tiếp tục khiếu nại thì báo cáo lãnh đạo Viện xem xét và quyết định.

+ Ở Viện kiểm sát cấp tỉnh uỷ quyền cho phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm trả lời cho người hoặc cơ quan tổ chức biết, nếu họ tiếp tục khiếu nại thì báo cáo lãnh đạo Viện xem xét và quyết định.

+ Đối với bản án hoặc quyết định do Toà án kháng nghị, Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ quyết định kháng nghị, kiểm tra bản án hoặc quyết định và hồ sơ vụ án, đề xuất quan điểm nhất trí hoặc không nhất trí với kháng nghị; nêu rõ những điểm mới phát hiện theo hướng có lợi cho bị cáo cần đề nghị Toà án xem xét thêm để báo cáo lãnh đạo đơn vị và lãnh đạo Viện để xem xét, quyết định việc kháng nghị hay không kháng nghị theo quy định tại Điều 277 BLTTHS.

+ Căn cứ khoản 2 Điều 277 BLTTHS, nếu không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, thì trước khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại Điều 278 BLTTHS, người có quyền kháng nghị phải trả lời cho người hoặc cơ quan, tổ chức đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị.

Quyết định kháng nghị; gửi kháng nghị; xác minh theo thủ tục giám đốc thẩm; bổ sung hoặc rút kháng nghị.

+ Quyết định kháng nghị phải nêu rõ lý do và hướng giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Quyết định kháng nghị bằng văn bản theo mẫu hướng dẫn của VKSND tối cao. Trường hợp xét thấy cần thiết tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thực hiện theo Điều 276 BLTTHS.

+ Theo quy định tại khoản 1 Điều 277 BLTTHS và Điều 53 Quy chế công tác THQCT& KSXXHS thì kháng nghị được gửi cho: Toà án sẽ xét xử giám đốc thẩm cùng hồ sơ vụ án; Toà án đã ra bản án hoặc quyết định bị kháng nghị; người bị kết án và những người có quyền và lợi ích liên quan đến việc kháng nghị; Viện kiểm sát cấp trên để báo cáo và Viện kiểm sát cấp dưới, Viện kiểm sát đã đề nghị kháng nghị, Vụ (hoặc phòng) kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù và Vụ (hoặc phòng) kiểm sát thi hành án để theo dõi. Đối với kháng nghị mà Viện trưởng VKSND tối cao uỷ quyền cho Phó Viện trưởng VKSND tối cao ký thì phải gửi cho Viện trưởng VKSND tối cao để báo cáo.

+ Trong những trường hợp cần thiết để làm rõ thêm những căn cứ kháng nghị hoặc kết luận kháng nghị, lãnh đạo đơn vị báo cáo để trình

 

lãnh đạo Viện kiểm sát cùng cấp quyết định xác minh theo thủ tục giám đốc thẩm. Khi tiến hành xác minh theo thủ tục giám đốc thẩm tuỳ từng trường hợp Kiểm sát viên có thể lấy lời khai của người bị kết án hoặc những người tham gia tố tụng khác, trưng cầu giám định, thu thập vật chứng, chụp ảnh, ghi âm, đo đạc, vẽ sơ đồ hiện trường…

+ Bổ sung hoặc rút kháng nghị: Căn cứ khoản 3 Điều 277 BLTTHS và Điều 54 Quy chế công tác THQCT&KSXX thì trước khi bắt đầu phiên toà giám đốc thẩm Viện trưởng Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền bổ sung kháng nghị (nếu chưa hết thời hạn kháng nghị) hoặc rút kháng nghị. Quyết định bổ sung hoặc rút kháng nghị phải bằng văn bản nêu rõ lý do. Việc gửi quyết định kháng nghị bổ sung hoặc quyết định rút kháng nghị thực hiện theo quy định tại Điều 53 của Quy chế công tác THQCT&KSXXHS.

+ Đối với bản án hoặc quyết định do Toà án kháng nghị, nếu phát hiện có các vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác cần phải kháng nghị thì Viện kiểm sát phải trao đổi với Toà án để Toà án kháng nghị bổ sung. Nếu Toà án không kháng nghị thì Viện kiểm sát kháng nghị theo quy định tại Điều 275 BLTTHS.

- Hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên toà giám đốc thẩm.

+ Tham gia phiên toà giám đốc thẩm: Căn cứ Điều 280 BLTTHS và Điều 56 Quy chế công tác THQCT&KSXXHS thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên tham gia phiên toà giám đốc thẩm cùng cấp. Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát cùng cấp phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Đối với kháng nghị của Toà án phải nêu rõ lý do nhất trí hoặc không nhất trí với kháng nghị. Phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về kháng nghị của Toà án phải được lưu trong hồ sơ kiểm sát xét xử giám đốc thẩm. Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên tham gia phiên toà chỉ phát biểu quan điểm về những vấn đề đã được Viện trưởng cho ý kiến. Nếu phải thay đổi cơ bản quan điểm đã được Viện trưởng cho ý kiến thì đề nghị hoãn phiên toà để báo cáo Viện trưởng xem xét và quyết định.

+ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật ở thủ tục giám đốc thẩm: Kiểm sát viên được giao giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án xét xử giám đốc thẩm về thời hạn xét xử; về việc triệu tập người bị kết án, người bào chữa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị (nếu có). Thành phần Hội đồng xét xử giám đốc thẩm; thủ tục xét hỏi những người được Toà án triệu tập đến phiên toà (nếu có); việc Hội đồng xét xử giám đốc thẩm biểu quyết và áp dụng hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo; việc ra và gửi các quyết định giám đốc thẩm; việc chuyển hồ sơ vụ án bị huỷ để điều tra, xét xử lại.

- Hoạt động của Kiểm sát viên sau phiên toà giám đốc thẩm.

Kiểm sát viên tham gia phiên toà phải báo cáo lãnh đạo Viện và lãnh đạo đơn vị về kết quả xét xử và đề xuất những vấn đề cần phải tiếp tục giải quyết; phải làm thông báo kết quả xét xử gửi cho các Viện kiểm sát đã tham gia xét xử sơ thẩm và phúc thẩm vụ án biết. Đối với bản án hoặc quyết định bị Toà án cấp giám đốc thẩm huỷ án để điều tra lại thì Kiểm sát viên đã tham gia phiên toà làm thủ tục chuyển ngay hồ sơ vụ án đến đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra cùng cấp để giải quyết theo thẩm quyền.

2.4. Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tái thẩm.

Căn cứ kháng nghị tái thẩm.

Căn cứ Điều 291 BLTTHS thì những tình tiết được dùng làm căn cứ để kháng nghị tái thẩm là:

- Lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật;

- Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai;

- Vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật;

- Những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không đúng sự thật.

Thẩm quyền kháng nghị của Viện kiểm sát theo thủ tục tái thẩm.

Căn cứ Điều 293 BLTTHS và Điều 64 Quy chế công tác THQCT & KSXXHS thì thẩm quyền kháng nghị của Viện kiểm sát được xác định như sau:

- Viện trưởng VKSND tối cao kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao.

- Viện trưởng VKSND tối cao uỷ quyền cho Phó Viện trưởng VKSND tối cao phụ trách khối ký kháng nghị theo thủ tục tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh.

- Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự cấp dưới.

- Viện trưởng VKSND cấp tỉnh kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện.

- Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự khu vực.

Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.

Căn cứ Điều 295 BLTTHS và Điều 65 Quy chế công tác THQCT & KSXXHS thì thời hạn kháng nghị được xác định như sau:

- Thời hạn kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án phải tiến hành trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 23 của BLHS và thời hạn kháng nghị không được quá 1 năm, kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện.

- Thời hạn kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian và được tiến hành trong cả trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.

- Việc kháng nghị về dân sự đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Nguồn phát hiện vi phạm pháp luật:

+ Căn cứ Điều 292 BLTTHS thì người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân có quyền phát hiện những tình tiết mới của vụ án và báo cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm ra quyết định xác minh những tình tiết đó.

+ Căn cứ Điều 59 Quy chế công tác THQCT&KSXXHS thì Kiểm sát viên nghiên cứu phát hiện những tình tiết của vụ án mới qua các nguồn sau đây: Báo cáo đề xuất kháng nghị của Viện kiểm sát các cấp; đơn đề nghị của người bị kết án, của mọi công dân hoặc kiến nghị của cơ quan, tổ chức; tin tức trên các phương tiện thông tin đại chúng; kết quả kiểm tra công tác nghiệp vụ.

Yêu cầu chuyển hồ sơ vụ án và nghiên cứu hồ sơ vụ án.

+ Yêu cầu chuyển hồ sơ vụ án: Căn cứ Điều 60 Quy chế công tác THQCT&KSXXHS thì sau khi phát hiện thấy những tình tiết mới của vụ án, Kiểm sát viên làm văn bản yêu cầu Tòa án đã ra bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

+ Nghiên cứu hồ sơ vụ án: Căn cứ Điều 62 Quy chế công tác THQCT&KSXX thì Kiểm sát viên phải nghiên cứu hồ sơ vụ án để xem xét những tình tiết mới được xác minh có được dùng làm căn cứ để kháng nghị tái thẩm không. Nếu những tình tiết mới làm thay đổi nội dung bản án hoặc quyết định thì báo cáo lãnh đạo Viện kháng nghị tái thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Nếu không có căn cứ kháng nghị tái thẩm thì Viện kiểm sát trả lời cho cơ quan, tổ chức hoặc người đã phát hiện biết rõ lý do không kháng nghị.

+ Ở VKSND tối cao ủy quyền cho Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự trả lời cho cơ quan, tổ chức hoặc người đã phát hiện biết, nếu họ tiếp tục đề nghị thì báo cáo lãnh đạo Viện xem xét, quyết định.

+ Ở Viện kiểm sát cấp tỉnh ủy quyền cho Phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm trả lời cho cơ quan, tổ chức hoặc người đã phát hiện biết, nếu họ tiếp tục đề nghị thì báo cáo lãnh đạo Viện xem xét, quyết định.

Quyết định kháng nghị; gửi kháng nghị; xác minh theo thủ tục tái thẩm.

+ Quyết định kháng nghị: Theo quy định tại Điều 66 Quy chế công tác THQCT & KSXX thì quyết định kháng nghị phải nêu rõ lý do và hướng giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Kháng nghị bằng văn bản theo mẫu hướng dẫn của VKSND tối cao. Trường hợp cần thiết tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định đã bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm thực hiện theo Điều 294 BLTTHS.

+ Gửi kháng nghị: Căn cứ khoản 4 Điều 293 BLTTHS và Điều 67 Quy chế công tác THQCT&KSXX, kháng nghị được gửi cho: Tòa án sẽ xét xử tái thẩm cùng hồ sơ vụ án và các tài liệu mới điều tra xác minh; Tòa án đã ra bản án hoặc quyết định bị kháng nghị; người bị kết án và người có quyền và lợi ích liên quan đến việc bị kháng nghị; Viện kiểm sát cấp trên để báo cáo và Viện kiểm sát cấp dưới để theo dõi rút kinh nghiệm;

+ Đối với kháng nghị mà Viện trưởng VKSND tối cao ủy quyền cho Phó Viện trưởng VKSND tối cao phụ trách khối ký thì phải gửi cho Viện trưởng VKSND tối cao để báo cáo.

Hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên toà tái thẩm.

+ Tham gia phiên toà tái thẩm: Căn cứ Điều 297 BLTTHS và Điều 68 Quy chế công tác THQCT&KSXX thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên tham gia phiên toà tái thẩm cùng cấp. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên

 

chỉ phát biểu quan điểm về những vấn đề đã được Viện trưởng cho ý kiến. Nếu phải thay đổi cơ bản quan điểm đã được Viện trưởng cho ý kiến thì phải đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa để báo cáo Viện trưởng quyết định.

+ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật ở thủ tục tái thẩm: Theo quy định tại Điều 69 Quy chế công tác THQCT&KSXXHS thì đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa tái thẩm phải kiểm sát việc tuân theo các thủ tục tố tụng tại phiên tòa. Chú ý, thành phần Hội đồng xét xử, thời hạn xét xử, thủ tục xét hỏi những người được Tòa án triệu tập đến phiên tòa (nếu có) và việc biểu quyết của Hội đồng xét xử.

- Hoạt động của Kiểm sát viên sau phiên toà tái thẩm.

Những việc làm của Kiểm sát viên sau phiên tòa tái thẩm được thực hiện tương tự những việc làm của Kiểm sát viên sau phiên tòa giám đốc thẩm quy định tại Điều 58 của Quy chế công tác THQCT&KSXXHS.



XÂY DỰNG HỒ SƠ KIỂM SÁT ÁN HÌNH SỰ.

3.1. Lập hồ sơ kiểm sát án hình sự ở giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, truy tố.

Về thủ tục tố tụng.

- Các tài liệu dùng làm căn cứ để khởi tố vụ án và khởi tố bị can, (bản phô tô hoặc bản chính). Một trong các căn cứ để khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều 100 BLTTHS và các tài liệu xác định người đã thực hiện hành vi phạm tội (Biên bản phạm tội quả tang; biên bản về người phạm tội tự thú...).

- Quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định thay đổi bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự. Đề nghị áp dụng thủ tục rút gọn của Cơ quan điều tra và quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của Viện kiểm sỏt.

- Quyết định khởi tố bị can; Quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; Quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát. Kèm theo danh chỉ bản của bị can.

- Quyết định phân công Điều tra viên; Kiểm sát viên; yêu cầu thay đổi Điều tra viên.

- Các yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát trong hoạt động kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra (chú ý quyết định huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát theo quy định BLTTHS).

- Lệnh bắt người (khẩn cấp, tạm giam); Lệnh khám xét (người, chỗ ở, địa điểm, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm…) kèm theo báo cáo xin phê chuẩn hoặc báo cáo ban đầu. Trích ghi kết quả bắt khám xét.

- Các công văn, quyết định áp dụng, thay đổi huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát và các quyết định của Viện kiểm sát trong việc phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra.

- Các lệnh, quyết định truy nã bị can, biên bản bắt người có lệnh truy nã, (trích ghi); quyết định đình nã; yêu cầu truy nã bị can của Viện kiểm sát.

- Bản yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều tra vụ án.

- Bản phô-tô các quyết định thu giữ, xử lý tài sản, đồ vật, vật chứng… trong vụ án; kèm theo biên bản về kết quả thực hiện.

- Bản phô tô các biên bản giao nhận các lệnh, quyết định cho bị can (kèm các lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã ban hành.)

- Biên bản giao nhận hồ sơ, vật chứng, tài sản kê biên, tạm giữ .

- Các quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định uỷ thác điều tra; quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án, bị can; quyết định phục hồi điều tra, quyết định chuyển hồ sơ vụ án; quyết định tách, nhập vụ án….

- Các quyết định tố tụng hình sự và tài liệu khác và các thông báo theo quy định của BLTTHS.

Lưu ý:

Đối với các loại tài liệu, văn bản nêu trên mà BLTTHS không quy định Cơ quan điều tra phải gửi cho Viện kiểm sát thì Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải trích ghi nội dung (hoặc bản photocopy) để lưu vào hồ sơ kiểm sát.

Tài liệu điều tra.

- Trích ghi hoặc phôtô các biên bản khám nghiệm hiện trường; sơ đồ hiện trường, khám nghiệm tử thi; xem xét dấu vết trên thân thể, xác định thương tích ban đầu (của bị can, người bị hại..), biên bản thực nghiệm điều tra; các quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung, giám định lại các bản kết luận giám định; các biên bản đối chất, nhận dạng; phôtô bản ảnh bị can.

- Bản sao các chứng từ, hoá đơn và các tài liệu khác để giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự.

- Bản trích ghi hoặc phô-tô một số bản tường trình, tự khai, tự thú, các bản ghi lời khai của bị can; lời khai của người làm chứng; người bị hại; người có quyền và nghĩa vụ liên quan… do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát lập (theo thứ tự thời gian, kể cả lời nhận tội, chối tội của bị can).

- Trích ghi lý lịch của bị can (chú ý quá trình hoạt động của bản thân, trình độ văn hoá, dân tộc, tôn giáo, tiền án, tiền sự…) hoặc bản phô-tô lý lịch bị can.

- Bản kết luận điều tra vụ án; kết luận điều tra bổ sung; hoặc quyết định đề nghị truy tố theo thủ tục rút gọn, kèm biên bản giao nhận kết luận điều tra.

- Bản cáo trạng (kèm danh sách những người cần triệu tập ra toà); quyết định truy tố (theo thủ tục rút gọn) của VKSND, kèm biên bản giao nhận cáo trạng, quyết định truy tố.

- Các văn bản, tài liệu khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội; xác định rõ nhân thân người phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; chứng cứ gỡ tội đối với bị can…, cũng phải trích ghi nội dung hoặc sao chụp để lưu vào hồ sơ kiểm sát án hình sự.

Các tài liệu khác.

- Bản nghiên cứu tổng hợp của Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải phản ánh được việc tuân theo BLTTHS của Điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án, diễn biến, nội dung vụ án; tính xác thực và hợp pháp của các tài liệu điều tra; đánh giá phân tích tổng hợp các chứng cứ để xác định tội danh, điều luật áp dụng; các chứng cứ buộc tội, gỡ tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nguyên nhân, điều kiện phạm tội; các tài liệu phản ánh hoạt động của kiểm sát viên, lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra, phó viện trưởng, viện trưởng khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự; các tài liệu hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ của viện kiểm sát cấp trên.

- Các biên bản (hoặc trích) các cuộc họp để giải quyết vụ án trong ngành Kiểm sát hoặc liên ngành.

- Các văn bản báo cáo cấp uỷ địa phương về giải quyết vụ án. Những tài liệu về hoạt động áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm. Các kiến nghị khắc phục nguyên nhân, điều kiện vi phạm, tội phạm.

- Các tài liệu về vi phạm của Cơ quan điều tra (Điều tra viên) và Viện kiểm sát (Kiểm sát viên) và biện pháp khắc phục.

- Phiếu thống kê tội phạm.

- Các đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động điều tra; kiểm sát điều tra - truy tố; biện pháp và kết quả giải quyết. Các văn bản, tài liệu cần thiết khác trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ban hành.

- Trong quá trình lập hồ sơ kiểm sát điều tra, Kiểm sát viên phải lập nhật ký kiểm sát điều tra theo mẫu quy định. Hồ sơ kiểm sát án hình sự phải được đánh số bút lục thứ tự từ 01 cho đến hết

3.2. Lập hồ sơ kiểm sát án hình sự ở giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự.

Hồ sơ kiểm sát án hình sự ở giai đoạn này cần có các tài liệu sau:

- Quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định gia hạn thời hạn xét xử;

- Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn của Toà án cấp sơ thẩm; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; quyết định rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát; bản sao biên bản giao các quyết định của Toà án (kèm theo loại quyết định);

- Quyết định phân công Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm;

- Báo cáo án của Kiểm sát viên, Kiểm tra viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm, kèm theo đề cương thẩm vấn và kế hoạch chuẩn bị tranh luận tại phiên toà, ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Viện;

- Trích ghi biên bản họp trù bị giữa Viện kiểm sát và Toà án;

- Công văn thỉnh thị Viện kiểm sát cấp trên, xin ý kiến cấp uỷ địa phương về đường lối xét xử và hướng dẫn chỉ đạo của Viện kiểm sát cấp trên, của cấp uỷ địa phương;

- Bản luận tội của Kiểm sát viên; biên bản phiên toà sơ thẩm của Kiểm sát viên; quyết định hoãn phiên toà; bản án, quyết định sơ thẩm;

- Đơn kháng cáo; quyết định kháng nghị bản án sơ thẩm;

- Báo cáo kết quả xét xử sơ thẩm; thông báo án có kháng cáo, kháng nghị;

- Tài liệu ghi kết quả kiểm tra biên bản phiên toà; kiểm tra bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp sơ thẩm (do Kiểm sát viên lập);

- Các tài liệu phản ánh việc phát hiện, kiến nghị khắc phục vi phạm của Toà án cấp sơ thẩm và những nguyên nhân, điều kiện phạm tội cũng như tài liệu phản ánh biện pháp và kết quả khắc phục;

- Các văn bản, tài liệu khác trong hoạt động xét xử sơ thẩm và kiểm sát xét xử sơ thẩm: Các tài liệu do các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ hoặc qua đơn thư khiếu tố phản ánh;

- Đơn khiếu nại, tố cáo cán bộ tư pháp trong hoạt động thực hành quyền công tố, KSXX và hoạt động xét xử sơ thẩm; kết quả giải quyết .

Lưu ý:

Đối với những tài liệu nêu trên mà BLTTHS không quy định Toà án cấp sơ thẩm gửi cho Viện kiểm sát thì Kiểm sát viên phải trích ghi nội dung hoặc sao chụp lại để lưu và hồ sơ kiểm sát xét xử sơ thẩm.



3.3. Lập hồ sơ kiểm sát án hình sự ở giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm.

3.4. Lập hồ sơ kiểm sát hình sự ở giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm.

3.5. Lập hồ sơ kiểm sát thẩm định bản án tử hình trình chủ tịch nước ân giảm và việc quản lý, sử dụng, bảo quản hồ sự kiểm sát án hình sự.

* Hồ sơ kiểm sát thẩm định bản án tử hình trình Chủ tịch nước ân giảm gồm:

-

Các tài liệu về nguồn hồ sơ: Bản sao đơn xin Chủ tịch nước ân giảm hình phạt tử hình, đơn kêu oan của người bị kết án tử hình.

- Quyết đinh không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm và tờ trình Chủ tịch nước của Chánh án TAND tối cao về đơn xin ân giảm án tử hình và đơn kêu oan của người bị kết án tử hình.

- Bản sao hoặc trích các tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, bản kết luận điều tra vụ án, cáo trạng, bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm…

- Bản nghiên cứu hồ sơ vụ án của Kiểm sát viên, Kiểm tra viên.

- Quyết định không kháng nghị, tờ trình Chủ tịch nước của Viện trưởng VKSND tối cao về đơn xin giảm án tử hình và đơn kêu oan của người bị kết án.

- Quyết định của Chủ tịch nước.

* Việc quản lý, sử dụng, bảo quản hồ sự kiểm sát án hình sự.

- Việc quản lý, sử dụng, bảo quản hồ sơ kiểm sát án hình sự được thực hiện theo Quyết định số 92/QĐ-VKSTC ngày 01/01/2001 và Quyết định số

 

07/QĐ-VKSTC ngày 12/01/2006 của Viện trưởng VKSND tối cao.

- Hồ sơ kiểm sát án hình sự được lưu trữ, quản lý chặt chẽ theo chế độ bảo mật theo đúng Quyết định số 88/2004/QĐ-TTg ngày 21/5/2004 của Thủ tướng Chính phủ “Về danh mục bí mật nhà nước độ tuyệt mật, tối mật trong ngành Kiểm sát” và “Quy chế bảo vệ bí mật nhà nước của ngành Kiểm sát nhân dân” ban hành kèm theo Quyết định số 14/2005/QĐ-VKSTC ngày 21/01/2005 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hồ sơ kiểm sát án hình sự phải được bảo quản chu đáo không được để hư hỏng, mất mát, thất lạc. Nếu vi phạm thì tuỳ theo mức độ lỗi sẽ bị kỷ luật nghiêm minh.

- Hàng năm thực hiện nộp hồ sơ kiểm sát án hình sự để lưu trữ theo quy định.

- Khi cần nghiên cứu hồ sơ kiểm sát các vụ án hình sự để phục vụ yêu cầu công tác chung thì đề nghị Lãnh đạo đơn vị yêu cầu cấp quản lý hồ sơ (văn phòng hoặc lưu trữ) cung cấp. Việc cấp hoặc trả lại hồ sơ kiểm sát án hình sự phải thực hiện giao nhận bằng văn bản có ký xác nhận.

- Thời hạn bảo quản hồ sơ kiểm sát án hình sự thực hiện phù hợp với thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.



Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro