Phần 2 - Triết 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 2: Phân tích nội dung nguyên lý về mối quan hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Ý nghĩa phương pháp luận.

1, Khái niệm

- Trong triết học mối quan hệ có nghĩa là sự quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, phụ thuộc và chuyển hoá cho nhau giữa các sự vật và hiện tượng

- Liên hệ sự phụ thuộc lẫn nhau sự ảnh hưởng tương tác và sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật và hiện vật trong thế giới hoặc giữa các mặt các yếu tố các quá trình của sự vật và hiện tượng trong thế giới.

- Khái niệm mối liên hệ phổ biến nói lên rằng mọi sự vật hiện tượng trong thế giới dù phong phú và đa dạng nhưng đều tồn tại trong mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng khác đều chịu sự tác động, sự quy định các hiện tượng và các sự vật khác, không sự vật nào tồn tại biệt lập ngoài mối liên hệ với sự vật và các hiện tượng khác.

- Mối liên hệ phổ biến còn nói lên rằng các bộ phận các yếu tố các giai đoạn phát triển khác nhau của mỗi sự vật đều có tác động quy định lẫn nhau mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình.

2, Tính chất

+ Tính khách quan: Liên hệ là vốn có của các sự vật hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, là điều kiện tồn tại và phát triển của các sự vật hiện tượng, con người không thể tạo ra được mối liên hệ của các sự vật hiện tượng mà chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó.

+ Tính đa dạng nhiều vẻ: Các sự vật hiện tượng trong thế giới là đa dạng phong phú, do đó mối liên hệ phổ biến cũng đa dạng phong phú được thể hiện. Có mối liên hệ chung-riêng, bên trong-bên ngoài, trực tiếp-gián tiếp, tất nhiên-ngẫu nhiên, cơ bản-không cơ bản.

3, Ý nghĩa

- Sự vật không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Nên muốn nhận thức sự vật phải nhận thức được các mối liên hệ của nó. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có quan điểm toàn diện, khắc phục quan điểm phiến diện một chiều.

- Có nhiều loại mối liên hệ và chung có vai trò khác nhau trong sự vật do đó để thúc đẩy sự vật phát triển phải phân loại các mối liên hệ, nhận thức được mối liên hệ cơ bản, quy định bản chất sự việc từ đó giải quyết mối liên hệ đó.

Câu 3: Phân tích nội dung và ý nghĩa quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại?

1, Khái niệm

- Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật nó chứ không phải là cái khác.

 - Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.

- Độ là mối liên hệ giữa lượng và chất của sự vật ở đó thể hiện sự thống nhất giữa lượng và chất của sự vật, trong đó sự vật vẫn còn là nó chứ chưa biến thành cái khác.

- Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.

- Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Nói là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên tục của sự vật.

2, Mối liên hệ biện chứng giữa chất và lượng

+ Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất. Sự thống nhất giữa chất và lượng tồn tại trong một độ nhất định khi sự vật còn là nó chưa trở thành cái khác. Trong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổn đinh, còn lượng là mặt biến đổi hơn. Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Song không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc, mặc dù bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. Chỉ khi nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định (điểm nút) thì mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Sự thay đổi căn bản về chất được gọi là bước nhảy. Như vậy, khi lựợng biến đổi đến điểm nút thì diễn ra bước nhảy, chất mới ra đời thay thế cho chất cũ, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ, nhưng rồi những lượng mới này lại tiếp tục biến đổi đến điểm nút mới lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ như vậy, quá trình vận động, phát triển của sự vật diễn ra theo cách thức từ những thay đổi về lựợng dẫn đến những thay đổi về chất một cách vô tận. Đó là quá trình thống nhất giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với tính gián đoạn, nhảy vọt trong sự vận động, phát triển

+ Sự tác động trở lại của chất đối với lượng. Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động, mà có sự tác động trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ, chất mới sẽ tạo ra một lượng mới cho phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất là lượng. Sự quy định này có thể được biểu hiện ở quy mô, nhịp độ và mức độ phát triển mới của lượng.

3, Ý nghĩa

- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải chú ý tích lũy dẫn những thay đổi về lượng, đồng thời phải biết thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi.

- Chống lại quan điểm tả khuynh: chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy.

- Chống lại quan điểm hữu khuynh: bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến điểm nút nhưng không thực hiện bước nhảy.

- Phải thấy được tính đa dạng của các bước nhảy, nhận thức được từng hình thức bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được thực hiện một cách kịp thời.

- Phải có thái độ khách quan và quyết tâm thực hiện bước nhảy khi hội đủ các điều kiện chin muồi.

Câu 4: Phân tích nội dung và ý nghĩa quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập?

1, Khái niệm mâu thuẫn

- Ở những lĩnh vực ngoài lĩnh vực biện chứng, có rất nhiều cách hiểu, khái niệm của mâu thuẫn như mâu thuẫn xã hội (là mâu thuẫn của những giai cấp, tập đoàn người, giữa các lực lượng, khuynh hướng xã hội có lợi ích đối lập nhau), mâu thuẫn là sự phủ định một gì đó mà có hai nội dung, hình thức trái ngược nhau, phủ định nhau.

- Mâu thuẫn biện chứng dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Hay nói cách khác mâu thuẫn là sự liên hệ, tác động qua lại của hai mặt đối lập biện chứng.

2, Tính chất của mâu thuẫn

- Tính khách quan, phổ biến: Tính khách quan, phổ biến thể hiện ở chỗ mọi sự vật, hiện tượng thuộc mọi lĩnh vực hiện thực trong thế giới điều chứa đựng trong mình sự thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập.

- Tính đa dạng, phong phú: Tính đa dạng, phong phú của mâu thuẫn biểu hiện ở chỗ, mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử, cụ thể khác nhau; chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Đó là: Mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu, … Trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với những tính chất khác nhau tạo nên tính phong phú trong sự biểu hiện của mâu thuẫn.

3, Sự vận động của mâu thuẫn

Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau.

Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buột, không tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại của chính mình. Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng bao hàm sự đồng nhất của nó.(sự phân biệt của các từ đồng nhất và thống nhất không quan trọng lắm, theo một nghĩa nào đó, cả hai đều đúng).

Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập rất phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ và điều kiện cụ thể của sự vật, hiện tượng.

Trong sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự đấu tranh giữa chúng là tuyệt đối, có điều kiện, tạm thời; trong sự thống nhất đã có sự đấu tranh, còn trong đấu tranh bao hàm tính thống nhất giữa chúng. Theo V.I.Lenin: “sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập, bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển, vận động là tuyệt đối.

Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng. Sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập diễn ra hết sức phong phú, đa dang, tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động qua lại dẫn đến sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập là một quá trình. Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển thành hai mặt đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và khi điều kiện đã chín muồi thì chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau. Mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới hình thành, và quá trình tác động, chuyển hóa giữa hai mặt đối lập lại tiếp diễn làm cho sự vật hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển.

Vì vậy, sự liên hệ, tác động, và chuyển hóa giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển thế giới. “Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”.

4, Ý nghĩa

Mâu thuẫn nói chung, đấu tranh giữa các mặt đối lập nói riêng là nguyên nhân, nguồn gốc của mọi vận động và phát triển. vì:

- Tác động qua lại là nguyên nhân chính và cuối cùng của mọi sự vật.

- Trong tác động lẫn nhau, cả hai mặt đối lập đều biến đổi, mâu thuẫn được giải quyết, mâu thuẫn cũa mất đi, ra đời mâu thuẫn mới làm sự vật không còn là nó.

- Sự vận động và phát triển là sự thống nhất giữa liên tục và gián đoạn. Sự liên tục do sự thống nhất của các mặt đối lập tạo thành; sự gián đoạn, sự vật không còn là nó do đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo thành.

Do vậy, cả thống nhất và đấu trạnh giữa các mặt đối lập đều có vai trò quan trọng trong sự vận động và phát triển.

Câu 5: Phân tích nội dung và ý nghĩa quy luật phủ định của phủ định?

1, Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng, đặc điểm của phủ định biện chứng

- Phủ định: là khái niệm triết học nhằm để chỉ ra sự ra đời của sự vật mới trê cơ sở mất đi của sự vật mới.

 - Phủ định biện chứng: là sự phủ định tạo điều kiện, tiền đề cho sự phát triển tiếp sau – Sự vật hiện tượng, trong TG khách quan luôn vận động phát triển liên tục không ngừng.

- Đặc điểm của phủ định biện chứng:

+ Tính Khách Quan: các sự vật luôn luôn nằm trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển do sự đấu tranh giải quyết những mâu thuẫn bên trong của các sự vật. Từ đấu tranh các mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển không ngừng, do vậy, phủ định biện chứng luôn mang tính khách quan trong quá trình vận động và phát triển.

+ Tính Kế Thừa. Phủ định là phát triển tự thân của sự vật nên nó không phải thủ tiêu cái cũ mà là gạt bỏ những cái xấu, không tốt, lạc hậu để tiếp thu, chọn lọc những cái hay, cái đẹp khi hình thành cái mới. Do vậy, cái mới đó được hình thành từ cơ sở chọn lọc của cái cũ. Cái mới là mới từ cái cũ và cái cũ là cũ của cái mới. Giữa cái cũ và cái mới có mối liên hệ và khắng khít với nhau. Đó chính là tính kế thừa của phép phủ định biện chứng.

Trong quá trình phủ định biện chứng, phủ định đồng thời cũng là khẳng định, phủ định mặt xấu, tiêu cực còn khẳng định những mặt tích cực, tốt đẹp. Do vậy, cái mới có mặt là một phần tất yếu, xuất phát từ cái cũ nhưng khác chất cái cũ. Và tất nhiên, quy trình phủ định biện chứng cần phải đảm bảo được ba điều kiện sau: Tính thời đại, Tính dân tộc, Tính mỹ thuật.

2, Nội dung của quy luật phủ định của phủ định:

- Chu kỳ của sự phát triển: Trong quá trình vận động và phát triển, sự vật mới được ra đời trên cơ sở khẳng định và phủ định sự vật cũ. Khi hai mặt mâu thuẫn đấu tranh với nhau mà vượt qua giới hạn độ thì sự vật mới ra đời, phủ định biện chứng có mặt. Thế nhưng sự vật không dừng lại ở đó mà nó lại tiếp tục đấu tranh giữa các mặt mâu thuẫn mới và một lần nữa cái mới đó bị cái mới hơn phủ định. Quá trình phủ định hai lần đó được gọi là Phủ định của phủ định và “sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển”. Quá trình phủ định cái phủ định của sự vật đó làm xuất hiện những sự vật mới là kết quả tổng hợp tất cả các yếu tố tích cực mới được bổ sung và từ những lần khẳng định và phủ định trước đó. Quy luật phát triển liên tục, điểm kết thúc của chu kỳ này lại là điểm bắt đầu của một chu kỳ mới. Do vậy, kết quả phủ định cái phủ định luôn luôn bao giờ cũng có hình thức mới hơn, có nội dung toàn diện và phong phú hơn những cái ban đầu.

 - Khuynh hướng phát triển: Tuy nhiên, sự tiến lên của sự vật không theo con đường thẳng tắp mà được diễn ra theo hình “xoắn ốc”. Bởi “sự phát triển theo đường “xoắn ốc” là biểu thị sự rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên”. Khi nghiên cứu về Quy luật phủ định của phủ định chúng ta không nên máy móc trong nhận thức, không nên lấy cái cố định để ràng buộc cái bất định, nếu làm như thế là đi sai với quy luật và đó là một sai lầm. Nghĩa là chúng ta không nên khăng khăng cho rằng sự vật, hiện tượng phải đủ hai lần phủ định mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Thực ra, có nhiều sự phát triển còn cần nhiều hơn cả con số hai lần phủ định như thế, hai lần là con số tối thiểu.

3, Ý nghĩa:

- Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức được tính đúng đắn và tất yếu của sự vật bởi phát triển là khuynh hướng chung, do đó cái mới bao giờ cũng chiến thắng. Song, quá trình phát triển không diễn ra theo đường đường thẳng mà con đường xoắn ốc: quanh co, phức tạp với nhiều chu kỳ và giai đoạn trung gian.

- Sự vật ra đời sau luôn là cái mới, cái tiến bộ hơn cái trước thế nhưng không phải lúc nào cũng như vậy, có nhiều lúc, cái mới lại là cái thụt lùi so với cái cũ, thế nhưng sự thụt lùi đó là những bước thụt lùi trong quá trình phát triển chung của nó.

- Nhận thức được quy luật này chúng ta sẽ biết cách tác động phù hợp sao cho sự vật phát triển nhanh hay chậm, tránh được những nhận thức sai lầm, chủ quan duy ý chí và bảo thủ trong công việc và trong các hiện tượng xã hội. Đồng thời cần phải chống thái độ phủ định sạch trơn hoàn toàn không có gì, coi thường giá trị truyền thống mà cần phải biết phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển.

Câu 6: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất?

1, Khái niệm:

- Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ việc con người chinh phục giới tự nhiên bằng tất cả sức mạnh hiện thực của mình trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, là cái nói lên năng lực của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội . Lực lượng sản xuất được tạo thành do sư kết hợp giữa lao động với tư liệu sản xuất mà trước hết là với công cụ lao động, cũng như khoa học .

- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và tái sản xuất, bao gồm : các quan hệ sở hửu đối với tư liệu sản xuất, các quan hệ trong tổ chứcquản lý và sản xuất, các quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất .

2, Mối quan hệ biện chứng:

Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phụ thuộc và tác động lẫn nhau một cách biện chứng và biểu hiện thành một trong những quy luật cơ bản nhất của sự vận động của đời sống XH. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất .

- Lực lượng sx tác động tới quan hệ sx:

Trình độ của lượng sản xuất là khái niệm nói lên khả năng của con người thực hiện quá trình biến đổi và thích nghi với giới tự nhiên nhằm bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển của mình thông qua công cụ lao động; là sự kết hợp giữa các nhân tố: trình độ của công cụ lao động, trình độ tổ chức lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất, trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ phân công lao động.

Tính chất của lực lượng sản xuất là khái niệm nêu lên tính chất xã hội hoá của tư liệu sản xuất và của lao động .

Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lượng sản xuất là một trạng thái trong đó các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển . Chỉ khi nào cả ba mặt của quan hệ sản xuất thích ứng với trình độ của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tốt nhất cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất thì sẽ tạo ra cơ sở phát triển hết khả năng của lực lượng sản xuất .

Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ mới với tính chất xã hội hoá ở mức cao hơn sẽ xuất hiện mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ chuyển thành không phù hợp . Mâu thuẫn càng gay sẽ dẫn tới việc xã hội phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và thay bằng quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi, phương thức sản xuất cũ bị diệt vong và sự ra đời của phương thức sản xuất mới, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.Như vậy, lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển của quan hệ sản xuất, một khi lượng sản xuất đã biến đổi thì sớm hay muộn thì quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất mới .

- Quan hệ sx tác động trở lại lực lượng sx:

Quan hệ sx có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của một lực lượng sản xuất . Khi quan hệ sản xuất phù hợp, phát triển hợp lý và đồng bộ với lực lượng sản xuất thì sẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất; ngược lại quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển . Nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo cũng sẽ làm cho lực lượng sản xuất không phát triển.Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động tới toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử loài người từ xã hội công xã nguyên thuỷ đến xã hội cộng sản tương lai và là quy luật cơ bản nhất trong hệ thống các quy luật xã hội.

Câu 7: Phân tích mối quân hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. nêu đặc điểm của cơ sở hạn tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện nay?

 1. Khái niệm:  

- CSHT: Là toàn bộ các quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một mô hình thái kinh tế xã hội nhất định. Đặc trưng cho tính chất của CSHT của xã hội là do quan hệ sản xuất thống trị quyết định.  

- KTTT: Là toàn bộ tư tưởng xã hội những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của KTTT được hình thành trên cơ sở hạ tầng quyết định, KTTT bao gồm: Những tư tưởng xã hội (chính trị, pháp luật, đạo đức tôn giáo, nghệ thuật...) và những tổ chức thiết chế khác nhau (Nhà nước, giáo hội chính Đảng, các đoàn thể...). 

2, Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:  

- CSHT quyết định KTTT.  

+ CSHT nào thì KTTT ấy tức là KTTT phản ánh CSHT.  

+ CSHT thay đổi thì KTTT cũng thay đổi theo sự thay đổi của KTTT rõ rệt khi CSHT này được thay thế bằng CSHT khác.  

- Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT.  

+ KTTT có thể tác động trở lại đối với CSHT, vì chức năng của KTTT là bảo vệ duy trì, củng cố và phát triển CSHT đã sinh ra nó.  

+ Các bộ phận khác nhau của KTTT đều tác động đến CSHT bằng nhiều hình thức khác nhau trong đó Nhà nước giữ vai trò to lớn và quan trọng đối với CSHT.  

+ Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT được thể hiện ở hai điểm sau:  

Thứ nhất: Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội KTTT có quá trình biến đổi nhất định qua trình độ càng phù hợp với CSHT thì nó càng thúc đẩy CSHT phát triển.  

Thứ hai: Khi KTTT tác động ngược chiều với CSHT thì nó sẽ gây cản trở cho sự phát triển của CS hạ tầng.  

3, Những đặc điểm của CSHT và KTTT trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.  

+ Về CSHT của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH.  

CSHT bao gồm các thành phần kinh tế các kiểu quan hệ SX với các hình thức sở hữu khác nhau thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN.  

Kinh tế Nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo.  

Kinh tế HTX bao gồm HTX sản xuất nông nghiệp tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Kinh tế Nhà nước và kinh tế HTX trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.  

- Kinh tế TB Nhà nước dưới các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến.  

- Kinh tế cá thể tiểu chủ.  

- Kinh tế TB tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể.  

+ Về KTTT:  

- Đảng khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành đông. Xây dựng hệ thống chính trị XHCN.  

- Xây dựng Nhà nước ta của dân do dân và vì dân.  

- Mọi người sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.  

- Phát triển nền tảng văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.  

- Thực hiện dân chủ XHCN. Phát huy khả năng sáng tạo thành tích cực chủ động của mọi cá nhân

Câu 8: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội?

1, Khái niệm

- Tồn tại xã hội: là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội v bao gồm các yếu tố chính là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân số... trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất .  

- Ý thức xã hội : là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tình cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận ... là sự phản ánh của tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. 

2, Kết cấu

- Ý thức xã hội thông thường : Là những tri thức, những quan niệm của con người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa,khái quát hóa. Nhưng ý thức đời thường gần với hiện thực trực tiếp. Những kinh nghiệm của ý thức đời thường đôi khi là vô giá, cung cấp nhiều thông tin cho các khoa học cụ thể, triết học và nghệ thuật.  

- Ý thức lý luận : Là toàn bộ những tư tưởng , quan điểm của xã hội được hệ thống hóa hợp lý, thành chỉnh thể các mối liên hệ bản chất tất yếu, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. 

3, Mối quan hệ biện chứng

+ Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội: Cả hai đều có nguồn gốc là tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. 

- So với ý thức xã hội, hệ tư tưởng phản ánh sâu sắc hơn tồn tại xã hội, làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho ý thức xã hội, thúc đẩy ý thức xã hội phát tiển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho sự tiến bộ xã hội. 

- Ngược lại, tâm lý, tình cảm giai cấp tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu hệ tư tưởng của giai cấp. Với ý thức xã hội, với thực tiễn cuộc sống sinh độngvà phong phú sẽ giúp cho hệ tư tưởng xã hội bớt sơ cứng, bớt sai lầm. 

+ Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội:

Ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định. Nhưng ý thức xã hội không hoàn toàn thụ động, nó có tính năng động, có tính độc lập tương đối trong sự phát triển của mình . 

- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội . Do sức mạnh của thói quen, tập quán truyền thống, do những lực lượng xã hội, đảng phái, giai cấp lỗi thời tìm mọi cách duy trì ý thức cũ, chống lại ý thức xã hội mới tiến bộ hơn.  

- Tính vượt trước của tư tưởng tiến bộ khoa học . Tư tưởng của con người, nhất là tư tưởng triết học, khoa học, nghệ thuật có thể đóng vai trò dự báo tương lai, tìm ra được khuynh hướng phát triển chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. 

- Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội. Những quan điểm và lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không, mà được tạo nên trên cơ sở những tài liệu lý luận của các thời đại trước, tức là có quan hệ kế thừa với ý thức tư tưởng của thời đại trước.  

+ Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng.  

Ý thức xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thái cụ thể như chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, nghệ thuật, tôn giáo, khoa học. Mỗi hình thái ý thức xã hội phản ánh một đối tượng nhất định, một phạm vi nhất định của tồn tại xã hội, nhưng giữa chúng có mối quan hệ với nhau . 

Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội: Đây là một trong những biểu hiện quan trọng nhất của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, biểu hiện tập trung vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.  

Ý thức tiến bộ - cách mạng : Thúc đẩy xã hội phát triển  

Ý thức lạc hậu : ngăn cản sự phát triển của xã hội .  

Tóm lại : Ý thức xã hội phụ thuộc vào tồn tại xã hội, nhưng nó có tính độc lập tương đối của nó. Vì vậy nếu chỉ thấy tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội một cách máy móc, sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường, ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội, không thấy vai trò của tồn tại xã hội sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro