Phan tich bai tho Chieu Toi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.

- Hai câu đầu vẽ nên một bức tranh nên thơ, yên bình của cuộc sống :chim bay về rừng tìm chốn trú ngụ, đám mây trôi lững lờ trên bầu trời chiều... Chỉ vài nét chấm phá, những bức hoạ phong cảnh đã thể hiện rõ. Đấy là lối viết "thi trung hữu hoạ" ( trong bài thơ có hoạ ) của thơ xưa. Song, phong vị cổ thi ấy do sự gần gũi về bút pháp .Còn thực ra, đây vẫn là buổi chiều nay, với cảnh thật, mà người người thật ( người tù -nhà thơ ) đang tận mắt nhìn ngắm .

- Bức tranh phong cảnh kia tuy đẹp và nên thơ nhưng vẫn có nét buồn.Quyện, nguyên nghĩa là mỏi, chán ; mỏi mệt .Tầm là tìm kiếm .Cánh chim sau một ngày rong đuổi, trong cái giờ khắc của ngày tàn, mỏi mệt, phải trở về rừng đặng tìm kiếm chỗ trú.Cô là lẻ loi, một mình. Mạn mạn là dài và rộng, không là trên bầu trời dài, rộng mênh mông .Bản thân bầu trời vẫn dài rộng như là triệu năm qua, nhưng đám mây đơn lẻ kia dã khiến nó càng trở nên mênh mang hơn .Hai câu thơ, theo đúng nghĩa đen cũng đã chỉ ra một cảnh buồn .Với người bình thường, thậm chí đang vui, trước cảnh ấy, lòng hẳn không sao tránh một cảm xúc man mác, bâng khuâng. Câu thơ khiến nguời ta liên tưởng đến một buổi chiều khác, trong thơ cổ :

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,

Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn.

Gác mái ngư ông về viễn phố,

Gõ sừng mục tử lại cô thôn.

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,

Dặm liễu sương sa khách bước dồn.

Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ,

Lây ai mà kể nỗi hàn ôn.

(Cảnh chiều hôm -Bà Huyện Thanh Quan )

Buổi chiều xưa không vắng lặng, nhưng lòng người đã tím ngát nỗi buồn .Còn cảnh ở đây, vốn là đơn chiếc .Cảnh ấy nói hộ lòng người, hẳn đang buồn. Đúng thôi, ngay đến cánh chim kia, khi chiều tắt, đã vội vã trở về .Thế mà, giờ này, người tù mắt mờ, chân yếu, lại bị gông cùm, vẫn đang le buớc trên đường dài. Người đó không than vãn, do nhân cách vĩ đại, song ai không cảm được nỗi đau rất thật từ cảnh tình ấy ?

3. Bình giảng hai câu cuối:

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn, lỗ dĩ hồng.

- Hai câu kết chuyển hướng vận động của hình tượng thơ. Ở trên, cảnh vật mênh mông, vắng lặng, ánh nắng ngày đang dần tắt, nhường chỗ cho bóng đêm ập xuống .Còn ở đây, dù không tả, nhưng ai cũng biết, đất trời đã vào đêm, bóng tối ken dày muôn nơi .Vậy, điều gì đã khiền người ta có thể cảm nhận được từng bước đi của thời gian, cảm nhận thấy được ánh sáng và bóng tối ? Đó là cánh chim đơn lẻ bay về chốn cũ. Đặc biệt, đó là ánh rực hồng của lò than nơi xóm núi . Đây cũng là lối chấm phá, lấy ánh sáng tả bóng tối.

- Nhưng sự chuyển hướng đích thực của hình tượng thơ không chỉ có vậy .Nếu cảnh ở trên mang nét buồn của sự lẻ loi, hoang vắng, thì cảnh ở đây, dù là đêm tối nhưng ấm áp, giàu sức sống. Đôi, mắt của người nghệ sĩ ở cảnh truớc khi phóng nhìn ra xa và lên cao, càng nhìn càng mất hút và trống trải .Khi đôi mắt ấy nhìn gần, đã bắt gặp một hình ảnh không ngờ :

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Vóc dsáng của người thôn nữ cùng với cônlg việc lao động dường như là thường ngày ấy đã xua di sự cô quạnh giữa miền sơn cước .Và, đến lúc công việc đã xong, thì ánh sáng tràn ngập:

Bao túc ma hoàn, lỗ dĩ hồng.

Trong bóng đêm, ánh sáng ấy càng có sức lan toả .Lòng người từng man mác buồn đã ấm lại cùng với ánh lửa đơ kia . Đến đây thì sự vận động của hình tượng thơ tới đọ trọn vẹn.

4. Mộ là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Hồ Chí Minh

Khi sử dụng thể thơ luật Đường, tác giả đã vận dụng khá nhuần nhuyễn bút pháp chấm phá để tả cảnh, lấy động tả tĩnh, đặc biệt là lấy cảnh tả tình. Trong bài thơ, không có từ hay chi tiết nói về chủ thể trữ tình, nhưng người đọc vẫn nhận ra đội mắt, tấm lòng của con người ấy .Tuy nhiên, dù mang phong vị cổ điển, đây vẫn là bài thơ hiện đại .Chất hiện đại đó bộc lộ ở sự vận động của hình tượng thơ, nhất là ở tấm lòng và tư tưởng cua thi nhân .Dù bị gông cùm, xiềng xích, con người đó vẫn hết sức ung dung tự tại, luôn quên mình để nhìn ngắm cuộc sống và rung động với từng biểu hiện, dù chỉ nhỏ nhoi, tinh tế.

..........................................

Thơ Bác có những bài đọc hiểu ngay không phải phân tích, bình phẩm gì thêm, đó là trường hợp Bác viết để tuyên truyền, kiểu như: "Năm qua thắng lợi vẻ vang...". Nhưng có bài phải đọc hai ba lần mới hiểu hết cái hay của nó, đó là trường hợp bài: "Mộ" (Chiều tối) mà tôi đề cập đến trong bài viết này.

Mới đọc lần đầu bài thơ "Mộ" tưởng như không có gì. Đây chỉ là một bài thơ tả cảnh bình thường. Bác tả cảnh chiều tối ở một vùng quê miền núi nơi Bác vừa đi qua. Buổi chiều tối có mây trôi, chim bay, có một cô gái đang xay ngô và có một ngọn lửa vừa rực hồng trong lò than... Chỉ thế thôi. Nhưng không lẽ chỉ chừng ấy ? Tôi đọc đi, đọc lại, cố tìm điều ẩn chứa đằng sau những câu thơ hết sức bình dị kia và bắt gặp niềm cảm thông kín đáo của Bác thấm đẫm trong từng câu, từng chữ. Bác cảm thông với cánh chim, với làn mây với cô gái miền núi xay ngô trong xóm vắng. Nhìn chim bay, Bác hiểu chim đang mỏi cánh tìm về rừng. Ta vẫn ngắm cánh chim bay trong buổi chiều tà nhưng đã mấy ai hiểu được nó đang mỏi cánh? Phải thực sự giao cảm mới hạ được chữ "quyện" ấy. Người bình thường chỉ có thể viết: chim bay về rừng tìm chốn ngủ. Thêm một từ "mỏi" vào đã thay đổi hẳn ý tưởng của câu thơ.

Và người bình thường cũng chỉ viết như bản dịch: "Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không". Ở nguyên tác, Bác không viết là chòm mây, làn mây hay đám mây mà là "cô vân" nghĩa là chỉ một mình nó cô độc, lẻ loi, nhỏ bé trên bầu trời mênh mông vô định. Người dịch cũng hiểu điều đó nhưng bất lực không thể dịch nổi đành tạm dùng "chòm mây" vậy. Nhưng từ "cô vân" đổi sang "chòm mây" đã đánh mất hết vẻ đẹp của câu thơ. "Chòm mây" không biểu hiện được niềm cảm thông sâu sắc của Bác, phải là "cô vân" mới thể hiện nỗi lòng của Bác gửi vào trong đó. Ta vẫn ngắm mây chiều trôi chầm chậm nhưng đã mấy ai thấu hiểu nỗi niềm cô đơn, lẻ loi, bơ vơ của nó? Và cũng phải thực sự giao cảm và đồng cảm mới hạ được chữ "cô" ấy.

Mộ

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.

Dịch thơ: Chiều tối

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng...

Tôi chợt nhớ đến một câu thơ rất hay của Lý Bạch khi tiễn Mạnh Hạo Nhiên: "Cô phàm viễn ảnh bích không tận". Ngô Tất Tố phải chọn mãi mới tìm được chữ "bóng buồm" để dịch "cô phàm": "Bóng buồm đã cách bầu không...". Có lẽ khi viết "Cô vân mạn mạn độ thiên không..." trong tâm hồn Bác đã in dấu câu thơ nổi tiếng kia của Lý Bạch? Bác không chỉ thương một "quyện điểu quy lâm "một "cô vân mạn mạn" mà còn cảm thương cả cô gái xay ngô. Cô gái miệt mài xay, xay một cách kiên nhẫn, âm thầm. Xay, xay mãi. Vòng cối xay cứ trở đi, trở lại: "Ma bao túc..." rồi "bao túc ma"... đều đều như thế, nhẫn nại như thế cho đến khi xay xong ngô thì trời đã tối lắm rồi: lửa đã rực hồng lên. Nguyễn Khuyến ngày trước lấy động để tả tĩnh: "Cá đâu đớp động dưới chân bèo!". Nghe được tiếng cá đớp mồi, xung quanh phải vô cùng tĩnh lặng. Ở đây Bác lấy sáng để tả tối. Phải tối đến mức nào mới thấy ngọn lửa rực lên như vậy.

Bài thơ diễn tả một cách tài tình bước đi của thời gian. Tất cả đều chuyển động, cánh chim đang bay, mây đang trôi và cối xay cũng đang xoay vòng. Chim về rừng, mây mất hút giữa khoảng không và cô gái xay ngô dừng tay khi đã xay xong. Ánh lửa bùng lên sưởi ấm cả không gian vắng lặng. Chỉ còn Bác là đang "cất bước trên đường thẳm". Bác quên mình "tay bị trói giật cánh khỉ, cổ mang xiềng, có những người lính mang súng theo". Ta chỉ thấy chim mỏi cánh, mây cô lẻ bay chầm chậm mà không thấy Bác cũng đang lê bước trên đường.

Một người bị trói, bị giải đi như vậy vẫn còn ngắm một cánh chim, một làn mây, một cô gái xay ngô đã là khác thường rồi, huống hồ Bác còn quên Cảnh ngộ mình để cảm thông cho cảnh vật và con người xung quanh. Cái hay, cái sâu sắc của bài thơ chính là ở chỗ đó. Nhưng điều này đọc lướt qua không thể cảm nhận ngay được. Bởi vậy, những bài thơ như "Chiều tối" buộc ta đọc thật kỹ vừa đọc vừa suy ngẫm mới thấm thía cái dư vị đặc biệt của nó.

..................................

Mộ (Chiều tối)

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;

Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết , lò than đã rực hồng.

Trong thời gian bị tù ở Quảng Tây (Trung Quốc) , Bác Hồ bị giải qua nhiều nhà lao. Không thể nói hết những nỗi gian khổ dọc đường giải tù , nhưng Bác ít nhắc đến nỗi khổ ải đó mà nếu có nhắc đến một vài sự việc trên đường giải tù thì Người pha giọng châm biếm , hài hước , tự trào. Bác cảm thấy có thi hứng trên đường giải tù , nhiều đề tài thơ đã được phát hiện và nhiều bài thơ hay đã được lưu lại trong "Nhật kí trong tù". Bài thơ "mộ" (Chiều tối) là một bài thơ đặc sắc , tưởng như không phải là thơ của tù nhân Hồ Chí Minh mà là một bài thơ của thời thịnh Đường.

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không;

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn , lô dĩ hồng.

Dịch thơ:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;

Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết , lò than đã rực hồng.

Trước hết , ta nhận thấy "Mộ" (Chiều tối) là bài thơ thể hiện một cách cụ thể và sinh động tư tưởng trong bài thơ tuyên ngôn của Hồ Chí Minh:

"Thân thể tại ngục trung

Tinh thần tại ngục ngoại"

(Thân thể ở trong lao

Tinh thần ở ngoài lao)

Bác đã quên đi nỗi gian khổ dọc đường , nhưng những người đọc chúng ta thì không thể quên những lần giải tù đầy gian nan khổ ải:

"Năm mươi ba cây số một ngày

Áo mũ dầm mưa rách hết giày"

Trong điều kiện thể xác bị đày đoạ , chân bị xiềng , tay bị trói , nhưng tâm hồn Bác vẫn nhẹ tênh như một người đi ngoạn cảnh. Người thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên , đồng cảm với chim muông , hoa lá. Không gian mở ra bao la trước buổi chiều tối:

"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không;"

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Thơ Bác rất tinh tế , có lẽ vì tâm hồn Bác rất nhạy cảm. Vào buổi chiều , trên con đường heo hút , nhìn thấy những cánh chim bay về rừng , Bác cảm thấy rất xúc động , cũng như những thi sĩ cổ kim đã từng rung động trước cánh chim chiều. Câu thơ "Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ" đầy tâm trạng. Nhìn cánh chim bay mà nhận ra vẻ uể oải của đôi cánh chim. Chỉ một cái nhìn ta nhận ra con người đó giàu tình cảm biết bao! Có lẽ Bác vị giải đi suốt cả ngày quá mệt mỏi cho nên dễ đồng cảm với cánh chim "quy lâm" kia. Nhưng tác giả không để lộ ra vẻ mỏi mệt của chính mình , mà chỉ thấy vẻ mỏi mệt của cánh chim:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Xa nữa là "Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không" (Cô vân mạn mạn độ thiên không).

Câu thơ dịch đã hay , nhưng vẫn còn mất đi những từ miêu tả vẻ lẻ loi, trôi nổi , lờ lững của áng mây trong từ láy "mạn mạn". Áng mây cô đơn (cô vân) và mệt mỏi tưởng như không bay được nữa. Thiên nhiên hoang vắng và ảm đạm có phần phù hợp với cảnh ngộ của người đang trên đường bị áp giải.

Nhưng qua hai câu thơ trên ta vẫn thấy được một nét nổi bật trong tâm hồn của Bác là trong những giờ phút đau khổ , nặng nề , cực nhọc nhất của cuộc đời , Bác vẫn tha thiết với thiên nhiên và tìm thấy ở thiên nhiên sự đồng cảm.

Bài thơ chuyển một cách đột ngột , từ quang cảnh buổi chiều tối buồn bã sang những hình ảnh sinh động , đầy sức sống:

"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn , lô dĩ hồng."

(Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết , lò than đã rực hồng.)

Hình ảnh thiếu nữ xuất hiện làm xôn xao cả buổi chiều cô quạnh. Lại có sự vận động "ma bao túc" (xay ngô tối) làm cho không khí buổi chiều đượm một chút náo nhiệt. Cảnh chiều tối bỗng dưng có sinh khí. Chứng tỏ Bác tuy khổ sở về cảnh tù ngục , nhưng không lúc nào là không lưu tâm đến những người lao động và những hoạt động thiết thực của họ. Nhưng nếu bài thơ chỉ dừng lại ở đây thì thơ Bác không thể vượt lên trên những kiệt tác của thơ Đường được. Bác tiếp thu tinh hoa của thơ Đường nhưng cũng đổi mới thơ Đường. Người không kết thúc bài thơ một cách lạnh lẽo. Người đã đem vào hình thức chật hẹp của thơ Đường tâm hồn một người chiến sĩ Cộng sản lỗi lạc. Câu kết của bài thơ đã rực lên màu sắc thiết tha , tin yêu vào cuộc sống của Người.

"Bao túc ma hoàn , lô dĩ hồng."

(Xay hết , lò than đã rực hồng.)

Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã bàn luận về tứ thơ này như sau:

"Hồ Chí Minh rất Đường mà lại không Đường tí nào. Với một chữ "hồng" , Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ , đã làm mất đi sự mỏi mệt, sự uể oải , sự vội vã , sự nặng nề đã diễn tả trong ba câu đầu , đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay ngô tối. Chữ "hồng" trong nghệ thuật thơ Đường người ta gọi là "con mắt" của thơ (thi nhãn hoặc nhãn tự) , nó sáng bừng lên , nó cân lại , chỉ một chữ thôi với hai mươi bảy chữ khác dầu nặng đến mấy đi chăng nữa.

Với chữ "hồng" đó có ai còn cảm giác nặng nề , mệt mỏi , nhọc nhằn nữa đâu mà chỉ thây màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm , cả thân hình , cả lao động của cô gái đáng yêu kia. Đó là màu đỏ của tình cảm Bác".

Không thể tưởng tượng được bài thơ "Mộ" (Chiều tối) là một bài thơ trong tập "Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh. Không hề có bóng dáng của nhà tù. Không thấy hình ảnh của tù nhân mà cứ tưởng rằng đây là thơ của thi sĩ tự do. Mà đúng , đây là thơ của tinh thần tự do , "Tinh thần tại ngục ngoại". Với cách cấu tứ theo kiểu thơ Đường , tác giả đã thoả mãn được nhu cầu thẩm mĩ của người đọc và bộc lộ được tư tưởng , tình cảm một cách kín đáo. Cả bài thơ màu sắc cứ bàng bạc để rồi kết bài thơ bằng một chữ "hồng" tươi sáng , ấm áp , tin yêu. Đó là tấm lòng , là niềm tin của Bác. Đọc thơ Bác, chúng ta cũng cảm thấy nhuốm cái màu hồng của buổi chiều tối Bác tả trong thơ.

Những điểm cần phân tích ở bài Chiều tối (Mộ)

a. Dù lâm vào cảnh bị đọa đày, Bác vẫn thể hiện tình cảm yêu mến thiết tha và thái độ đồng cảm, chia sẻ với tạo vật, thiên nhiên vùng sơn cước lúc chiều buông. Cánh chim mỏi mệt (quyện điểu) và chòm mây lẻ loi (cô vân) vừa là đối tượng của niềm thương cảm vừa chính là biểu hiện bên ngoài của nỗi buồn trong lòng người tù trên con đường đày ải, xa đất nước quê hương.

b. Sự chuyển cảnh ở nửa sau bài thơ cho thấy lòng yêu con người, yêu cuộc sống đặc biệt sâu sắc của Bác. Bác đã nói về hình ảnh cô gái xóm núi xay ngô với biết bao cảm xúc trìu mến. Bác hiểu nỗi nhọc nhằn vất vả của người lao động (cụm từ ma bao túc được lặp lại theo trật tự đảo ngược ở câu 3 và 4 góp phần biểu đạt ý này) nhưng đồng thời cũng nhìn thấy nét đẹp riêng, chất thơ riêng ở những cảnh đời bình dị (điều ít gặp trong thơ cổ điển).

c. Ánh hồng của lò than được nhắc tới ở cuối bài (qua chữ hồng - nhãn tự trong tác phẩm) cho thấy tâm trạng Bác đang chuyển biến từ buồn sang vui. Quan trọng hơn, nó giúp ta hiểu được niềm lạc quan đáng quý của nhà cách mạng.

Rõ ràng trong hoàn cảnh nào Bác cũng hướng tới phần tươi sáng của cuộc đời.

Khái quát về những nét đẹp trong tâm hồn tác giả Hồ Chí Minh được thể hiện qua hai bài thơ

a. Bác rất yêu thiên nhiên, luôn dạt dào cảm xúc thi ca trước mọi sắc thái đa dạng của nó (từ cảnh hiu hắt, tiêu sơ đến cảnh hoành tráng, lộng lẫy).

b. Bác yêu con người, gắn bó trước hết với cuộc sống con người (nhất là cuộc sống người lao động); thường biểu lộ tình cảm một cách tự nhiên, bình dị; hoà đồng với chung quanh.

c. Bác có tinh thần thép, ý thức rõ về đường đi của mình, kiên nghị trước thử thách, tự chủ trong mọi hoàn cảnh. Bác luôn lạc quan, tràn đầy lòng tin vào cuộc sống, tương lai, vào xu thế vận động tích cực của sự vật.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#voon