Phân tích đoạn trích Trao Duyên

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Phân tích đoạn trích Trao Duyên (Truyện Kiều - Nguyễn Du) (Bài 4)

Đoạn trích Trao Duyên (Truyện Kiều) – Nguyễn Du

Thứ tư - 30/04/2014 01:02

      Truyện Kiều là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Du nói riêng, của cả nền văn học Việt Nam nói chung. Như tên gọi, ‘Đoạn Trường Tân Thanh’ là tiếng khóc, tiếng kêu xé lòng của một – những số phận tài hoa mà bạc mệnh dưới chế độ phong kiến hà khắc, bất công. Qua hình ảnh Kiều, Nguyễn Du khắc họa nên sự tài hoa, tinh tế, thông minh, nhưng cũng khắc họa nên một cuộc đời nhiều đau thương, éo le, trớ trêu. Nguyễn Du vừa tạo nên một Kiều sắc sảo, mạnh mẽ, lại vừa vẽ nên một Kiều yếu đuối trước những đau thương, sóng gió. Điều đó thể hiện rõ nét nhất qua đoạn trích Trao Duyên, khi mà Kiều phải trao đi niềm hạnh phúc riêng tư.   Mở đầu cuộc nói chuyện, Kiều không nói ngay vào lý do – điều sẽ khiến người khác phật lòng, khiến người khác nghĩ nàng rất kịch, mà lại tạo không khí.   “Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”   Kiều tạo nên một không khí chân thành, trang trọng khi dùng những lời lẽ thiết tha và đầy chân thật. Nàng dùng từ ‘cậy’ chứ không phải ‘nhờ’, nàng dùng từ ‘chịu’ chứ chẳng phải ‘nhận’. Nàng là phận làm chị, nhưng lại bảo Vân ‘ngồi lên cho chị lạy’. Giờ đây, nàng không còn là người chị của Vân nữa, nàng chỉ đơn thuần là một người đang nhờ cậy người khác, và Vân sẽ là người giúp nàng. Kiều xem Vân như một ân nhân – người có công cao, nghĩa nặng, một bậc bề trên – giống như cha mẹ nàng vậy. Kiều biết Vân sẽ khó xử, nhưng người xưa chẳng nói ‘Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau’ đấy sao, và Kiều khiến Vân chẳng thể từ chối được.   Và cái ngôi lại bất chợt chuyển dời. Kiều sau đó đối với Vân vừa như một người chị đang tâm sự với em về hoàn cảnh éo le của mình. Vì ‘sự đâu sóng gió bất kì’ mà nàng đành ‘giữa đường đứt gánh tương tư’. Giờ nàng chỉ có thể gửi gắm niềm tin nơi Vân ‘tơ thừa mặc em’. Nếu như người Trung Quốc có câu ‘Đời này liệu có cách lưỡng toàn, bất phụ Như Lai, bất phụ người?(1)’ thì Kiều có ‘Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai’. Kiều đã từng đem cân chữ hiếu và chữ tình ‘Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn’, và nàng chọn chữ hiếu. Nhưng khi đứng ở bờ vực chênh vênh – khi mà lý trí bảo nàng trao duyên này đi và tình cảm lại hối thúc nàng dừng lại, nàng lại mâu thuẫn. Nàng đã suy nghĩ trước khi đến gặp Vân, nàng quyết tự tay mình chặt đứt dây tơ hồng này, nhưng quá khứ tươi đẹp ‘Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề’ ‘kể từ khi gặp chàng Kim’ khiến nàng chùn bước. Nhưng lý trí lại mạnh mẽ đánh tỉnh nàng, lôi nàng ra khỏi giấc mộng – giấc mộng về những ngày đẹp đẽ gia đình êm ấm, khiến nàng nhận ra:   "Một kiếp phù sinh một kịch trường Đồng sàng dị mộng kịch thê lương Say sưa mộng cảnh người ai tỉnh Tỉnh giấc nồng say mộng kịch tàn.”   Kiều chẳng biết nhờ ai ngoài Vân – vì Vân là người em của nàng, vì Vân là người cũng chịu cảnh gia đình tan nát như nàng – và có lẽ nàng nghĩ Vân sẽ là người duy nhất hiểu nàng, không khuyên can nàng. Mà có lẽ Vân cũng chẳng thể khuyên Kiều – khi những lời Kiều nói vừa hợp lẽ, lại hợp tình, và sự đã đến nước này rồi, chẳng gì có thể suy chuyển:   “Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”   Kiều cũng chỉ bằng tuổi Vân, cũng đang độ như hoa chớm nở, như trăng non mới mọc, vậy mà Kiều lại bảo Vân ‘ngày xuân em hãy còn dài’ – như thể là nàng lớn tuổi hơn Vân. Có lẽ vậy thật – một loạt các biến cố xảy ra đã khiến Kiều già đi – về mặt tâm hồn chứ không phải thể xác – khiến Kiều phải lựa chọn. Và những ngày tháng lênh đênh, lận đận, khuất nhục trước mắt khiến Kiều nghĩ đến cái chết. Cái chết đối với Kiều tựa như nhẹ tựa lông hồng – chỉ cần Vân chịu đồng ý làm cho Kiều cái ân này thì nàng ‘ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây’. Lời Kiều tựa như lời trăn trối của một người sắp chết. Ô hay, Kiều đi chuyến này chắc gì đã chết! Nhưng Kiều đã chết rồi – nàng chết vì khoảng trống trong tâm hồn không có cách nào lấp đầy – khi mà nàng trao đi cái duyên mình cố công vun đắp, ấy như cắt đi trái tim nàng vậy.   “Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ vật này của chung.”   Càng đến gần lúc phải trao duyên thật sự – khoảnh khắc Kiều trao đi kỉ vật minh chứng tình yêu giữa nàng với Kim Trọng – tình cảm càng lấn át lý trí nàng. Kiều trở nên có vẻ ích kỉ hơn, và câu nói của nàng gần như xúc phạm Vân ‘duyên này thì giữ vật này của chung’. Nhưng không, duyên có sờ, có chạm vào được đâu. Kiều trao đi cũng chỉ trao được kỉ vật thôi. Kim Trọng và Vân vốn chẳng có tình cảm, làm sao có duyên được. Nàng như đang van vỉ Vân – hãy để nàng giữ lại cái duyên này – giữ nó lại trong tâm can này, tựa như một niềm an ủi nhỏ nhoi trong những tháng ngày dài dằng dặc, mịt mù vô tận, không có điểm dừng phía trước. Mâu thuẫn giữa tình cảm và lý trí đã đẩy tâm trạng Kiều lên đến đỉnh điểm. Kiều muốn Kim Trọng được hạnh phúc, không cần phải nhìn vật nhớ người mà tự hỏi và băn khoăn ‘Nhân diện bất tri hà xử khứ?/Đào hoa y cựu tiếu đông phong(3)’ nên mới muốn gả Vân cho Kim Trọng. Nhưng tình giữa nàng và Kim Trọng quá nặng – đến mức mà nàng không muốn trao đi, hoặc nàng cảm thấy như trao đi bao nhiêu cũng không đủ.   “Dù em nên vợ nên chồng Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên Mất người còn chút của tin Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa Mai sau dù có bao giờ Đốt lò hương ấy so dây phím này Trông ra ngọn cỏ lá cây Thấy hiu hiu gió thì hay chị về Hồn còn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai Dạ đài cách mặt khuất lời Rưới xin giọt nước cho người thác oan”   Lời của Kiều như từ cõi chết vọng về – vì tâm nàng đã chết – nàng cũng như chết rồi. Nàng là người mệnh bạc – tài hoa thì có để làm gì. Nàng vẫn mong Vân và chàng Kim ‘Cầm sắt vô đoạn ngũ thập huyền/ Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên(4)’. Hồn của nàng còn ‘mang nặng lời thề’ nên dù có chết đi cũng chẳng thể siêu thoát. Nàng sẽ dùng chính linh hồn mình về tìm gặp lại người yêu cũ, theo dõi chàng, tìm cách đền đáp chàng. Nhưng chàng liệu có hiểu được chăng? Vì ấy như là âm dương cách trở. Nàng chỉ muốn người còn sống có thể thấu hiểu và đồng cảm với nàng mà thôi.   Và rồi, tình cảm như đê vỡ phá ra tràn bờ, đánh tan chút lý trí mỏng manh của nàng. Nàng như đang tự nói với chính mình, nàng quên đi sự tồn tại của Vân. Nàng tự đặt mình vào trong vòng xoáy lộn xộn những kỉ niệm và những đau khổ của hiện tại. 
“Bây giờ trâm gãy gương tan Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”   ‘Trâm’ đã gãy, ‘gương’ đã tan, còn có cách này để nối lại. Mà lỡ có nối lại, cũng sẽ mãi còn vết nối ấy thôi, chẳng bao giờ lành lặn được như xưa nữa. Nàng dù có về bên Kim Trọng – nhưng liệu nàng sẽ còn mặn mà với chàng sau bao nhiêu gian khó, cay đắng? Nàng ý thức được bi kịch của nàng – là bi kịch không gì có thể cứu vãn được nữa. Nàng muốn đến đáp Kim Trọng, nhưng đã trễ rồi, nàng chỉ mong được quỳ lạy trước Kim Trọng cầu xin chàng tha thứ.   “Ví không duyên nợ kiếp xưa Kiếp này hồ dễ tình cờ xui nên”   Kiều và Kim Trọng đã có duyên, thế mà duyên chỉ ngắn ngủi trong phút chốc, mà phận cũng chẳng có. Kiều chỉ có thể trách ‘phận sao phận bạc như vôi’, nhưng liệu nàng có thể làm gì? Người đời sợ cảnh ‘Lạc hoa hữu ý tùy lưu thủy/ Lưu thủy vô tình luyến lạc hoa(6)’ hay ‘Mạc đãi vô hoa không chiết chi(7)’, nhưng mấy ai hiểu được ‘Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên (Một thuở đau lòng chữ nợ duyên)(8)’. Kiều và Kim Trọng đã cùng nhau thề nguyền, cùng nâng chén ngọc, nhưng cuối cùng chỉ có thể thốt lên rằng ‘Ly loan biệt phụng kim hà tại?(9)’. Trò đùa dai của số phận, nó rình rập khắp mọi nơi, chuẩn bị vồ xé lấy ngươi bất cứ lúc nào(10).    Và Kiều đã phải khóc nấc lên – tiếng khóc nghẹn ngào và bất lực – tiếng khóc lột bỏ tất cả những lý trí, những mạnh mẽ, những kiên cường, thông minh sắc sảo mà nàng cố thể hiện ra.    “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.”    Kiều không giống như Hồ Xuân Hương mà mỉa mai Tổng Cóc ‘Chàng Cóc ơi chàng Cóc/ Thiếp bén duyên chàng có thế thôi(11)’. Chúng ta bất chợt nhận ra Kiều chỉ là một cô gái tuổi đôi mươi, yếu đuổi và mỏng manh đến thế nào. Nàng chỉ có thể phụ Kim Trọng – nàng không muốn phụ Kim Trọng, nhưng nàng biết làm sao bây giờ? Nàng dù dám ‘xăm xăm băng lối vườn khuya một mình’ để gặp tình quân, nhưng nàng vẫn chẳng dám phá vỡ hết thảy lề lối phong kiến – những lề lối đã ăn sâu vào nàng. Và Kim Trọng cũng chẳng phải kẻ có tiền có quyền để đủ sức bảo vệ nàng. Cả hai đều bất lực trước những bất hạnh do thứ mang tên xã hội phong kiến đẩy đến.    “Ba nghìn thế giới nha giết hết Cùng quân cộng chẩm đáo bình minh”   Kiều có lẽ chỉ mong muốn như thế – ‘cùng quân cộng chẩm đáo bình minh’, nhưng chỉ tiếc, cả nàng và Kim Trọng đều muộn. Đoạn trích Trao duyên mở đầu cho cung đàn bạc mệnh của Kiều, mở đầu cho cuộc đời thứ hai của kiều – cuộc đời đầy những sóng gió, những trớ trêu, đau đớn, những nhơ nhuốc mà xã hội phong kiến đương thời có thể ập đến với một thiếu nữ thơ ngây, xinh đẹp, tài hoa. Nguyễn Du đã rất xuất sắc trong việc khắc họa Kiều với hai trạng thái đối lập – một Kiều sắc sảo và một Kiều yếu đuối, mất đi lý trí. Và có lẽ chỉ Nguyễn Du – một người cũng trải qua những năm tháng lưu lạc như Kiều, một người chịu đủ cảnh sang hèn bần quý – mới có thể thấu hiểu nàng đến vậy.

Chủ nghĩa nhân đạo trong truyện kiều nguyễn du

Mộng Liên Đường Chủ Nhân (1820) bình luận: "... Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đứt ruột... Tố Như Tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trong thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy".
Nếu là một tâm hồn không bị sóng gió vùi dập, một trái tim không thổn thức trước những nỗi đắng cay của bức tranh thế sự, một lương tâm không phẫn nộ trước những thói đời vô nhân bạc nghĩa, thì Nguyễn Du, dẫu có tài ba lỗi lạc đến đâu cũng không tìm ra được nhưng âm điệu, những vần thơ khiến cho người đọc trong cuộc nghe như khóc, như than, như uất ức, như oán hờn. 
Quả đúng như vậy, Truyện Kiều không chỉ là vấn đề số phận con người bị áp bức trong xã hội, mà còn là tiếng nói nhân đạo chủ nghĩa cất lên tha thiết từ xã hội đó. Đó là tiếng nói của tầng lớp người đau khổ, đòi tự do yêu đương, đòi công lý. 
Tinh thần nhân đạo bao la trong Truyện Kiều là sự kết tinh truyền thống nhân đạo cao đẹp của dân tộc hằng bao thế kỷ. 
Truyện Kiều là tiếng nói thiết tha bảo vệ quyền sống con người. Trong vô số nạn nhân của xã hội xưa; Nguyễn Du đặc biệt trân trọng và xót thương cho số kiếp mỏng manh của người phụ nữ có tài, có sắc. Với Nguyễn Du, họ là hình ảnh kết tinh về số kiếp bi đát của con người trong cuộc đời bế tắc.
Tiêu biểu là Thuý Kiều, một người con gái tài sắc vẹn toàn, nhân hậu, thuỷ chung, trong sạch, cao thượng nhưng phải ngụp lặn triền miên trong vũng bùn ô nhục của cuộc đời.
Kiều đã từng trãi qua hầu hết những kiếp đời oan khổ của người phụ nữ dười chế độ phong kiến : tình duyên tan vỡ, làm gái lầu xanh, làm nô tì, làm vợ lẻ, bị làm nhục khi chồng vừa chết . Và khi Từ Hải chết, lòng Kiều đã tắt hết mọi niềm ước ao hạnh phúc trên cõi đời 
"Còn chi nữa cánh hoa tàn
Tơ lòng đã đứt dây đàn Tiểu Lân
Rộng thương còn mảnh hồng quần
Hơi tàn được thấy gốc phần là may."
Người ngoài cuộc nghe tiếng nói của Kiều cũng phải thổn thức cùng nỗi niềm tuyệt vọng ẩn chứa trong ước mơ bé nhỏ ấy! Cuộc đời nàng được nhà thơ vĩ đại giàu lòng nhân đạo tổng kết bằng những lời thơ đau xót : 
"Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi
Những là oan khổ lưu li
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân".
Tuy nhiên, Thuý Kiều không chỉ xuất hiện với tư cách là một nạn nhân đau khổ mà còn là hình tượng tiêu biểu cho giá trị phẩm chất, cho tinh thần chiến đấu, tiêu biểu ở thái độ chống lễ giáo phong kiến, dám vươn lên tìm lấy hạnh phúc chính đáng . 
Chỉ phút đầu gặp gỡ với chàng Kim; Kiều đã rung động, ước mơ thầm kín nhưng vô cùng tha thiết : "Người đâu gặp gỡ làm chi - Trăm năm biết có duyên gì hay không?" mặc dù Kiều vẫn biết rằng : "Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha". Khi Kim Trọng tỏ tình, Kiều mạnh dạn nhận lời gắn bó . 
Khi thuận lợi, Kiều chủ động vượt rào sang nhà người yêu tình tự "Xăm xăm băng nẻo vườn khuya một mình .Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa".
Mối tình vượt lễ giáo phong kiến ấy lại là một mối tình rất trong sạch, thuỷ chung. 

Kiều chính là người phụ nữ trong trắng, đoan trang :
"Đã cho vào bậc bố kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu
Ra tuồng trên bộc trong dâu
Thì con người ấy ai cầu làm chi"
Khi buộc phải cách xa, nàng khắc sâu hình bóng chàng Kim . Tất cả đều nói lên rằng những thế lực hắc ám của chế độ phong kiến chỉ có thể làm tan nát hạnh phúc của Kiều nhưng không thể tiêu diệt tình yêu trong trái tim chung thuỷ ấy, đúng như lời Chu Mạnh Trinh đã viết : 
"Tấm lòng này như tuyết, như băng, mối sầu nọ qua ngày, qua tháng . Ngọc kia không vết, giá liên thành khôn xiết so bì. Nước đã trôi xuôi, hồn cựu mộng hãy còn vơ vẩn . " 
Mối tình Kim Trọng - Thuý Kiều là thiên diễm tình tuyệt đẹp trong văn học thời phong kiến ! 
Chế Lan Viên viết : "Tố Như ơi ! Lệ chảy quanh thân Kiều."
Quả vậy, tấm lòng thương người cao cả, sâu sắc của nhà thơ như "máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy.", như hoà trong từng chữ, từng câu thơ xé ruột. Ở đoạn "Mã Giám Sinh mua Kiều", Thuý Kiều là hiện thân của con người bị chà đạp, của sắc tài bị vùi dập thảm thương. 
Miêu tả đúng tâm trạng của Kiều trong cảnh mua bán - đó là hiện thực; nhưng nói lên được nỗi đau xót khôn cùng khi sắc tài bị vùi dập - đó lại là nhân đạo và nhân văn sâu sắc. Nguyễn Du đã từng trân trọng tài sắc con người khi miêu tả chị em Thuý Kiều; giờ đây ông lại đau đớn lòng trước tài sắc bị vùi dập bởi những thế lực bạo tàn mà tiêu biểu chính là tên buôn người vô lương tàn ác với sức mạnh tàn nhẫn, lạnh lùng của đồng tiền trong xã hội cũ : "Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong"
Và, khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, bị Tú Bà "khoá xuân", trong cái nỗi buồn mênh mang vô tận, không thể gì làm vơi bớt, không có ai để sẻ chia - nỗi buồn của một con người hoàn toàn cô đơn giữa một khung cảnh cô đơn, vắng lặng; Kiều chỉ còn biết nhớ về người thân. Nhà thơ lại đảo tình lên hiếu, trái với trật tự cương thường của đạo lý phong kiến khi miêu tả Kiều nhớ Kim Trọng trước, nhớ cha mẹ sau. 
Nếu trước kia, Nguyễn Du đã không tiếc lời ngợi ca thiên diễm tình tuyệt đẹp vượt lễ giáo phong kiến thì giờ đây, khi mối tình đầu trong sáng ấy "trâm gẫy bình tan"; chính ông lại đồng cảm hết sức với tâm sự của người con gái đang yêu buộc phải xa cách người yêu. Nguyễn Du thật thấu hiểu nhân tình !
Nỗi nhớ người thân cũng không làm Kiều khuây khoả nỗi buồn rợn ngợp. Buồn mà trông ra cảnh vật :
Buồn trông cửa biển chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa. Buồn trông ngọn nước mới sa 
Hoa trôi man mác biết là về đâu Buồn trông nội cỏ rầu rầu 
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng quanh quanh ghế ngồi
Tám câu thơ dựng lên bốn bức tranh buồn được bắt đầu bằng hai chữ "Buồn trông". Dường như ở đây không có con người, chỉ có cái nhìn hay đúng hơn, chỉ có tâm trạng. Tâm trạng của Kiều mà cũng là tâm trạng của Nguyễn Du. Lòng nhà thơ tưởng như cũng hoà vào với lòng nhân vật, cùng đồng cảm, buồn thương, đau xót với nhân vật . 
Không dừng lại ở sự ca ngợi, đồng cảm với người trong cuộc bể dâu . Nhà thơ còn dựng lên cả một bức tượng đồng Từ Hải - tượng trưng cho công bằng, công lý, dân chủ trong xã hội phong kiến xấu xa, mục nát. 
Đó là một bậc anh hùng cái thế với tính chất phi thường về diện mạo, vóc dáng : Râu hùm , hàm én, mày ngài Vai năm tấc rộng thân mười thước cao 
Phi thường cả về bản lĩnh, tài năng, phong độ, chí khí :
Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài
Đội trời đạp đất ở đời 
Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo
Từ Hải chính là nhân vật phản ánh ước mơ tự do và công lí. Từ Hải là một người anh hùng cái thế, tài cao trí cả, dũng mãnh vô song, rất mực phóng túng ngang tàng, sống chí khí "đội trời đạp đất", "Dọc ngang trời rộng vẫy vùng biển khơi". Từ Hải thiết tha với lí tưởng : "Chọc trời khuấy nước mặc dầu - Dọc ngang nào biết trên đầu có ai" 
Với giọng điệu anh hùng ca, Nguyễn Du kể về sự nghiệp anh hùng của Từ Hải : 
"Thừa cơ trúc chẻ ngói tan 
Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài
Triều đình riêng một góc trời
Gồm hai văn vũ, rạch đôi sơn hà!"
Thái độ vô quân ấy, về nhiều mặt có ý nghĩa phản phong khá mạnh mẽ . Hình tượng Từ Hải là một minh chứng cho sự sụp đổ của quyền lực phong kiến . 
Đặc biệt, Từ Hải còn là con người có tấm lòng bao dung, nhân ái hào hiệp, tình cảm nhân văn bình dị tôn trọng phẩm giá con người, đường hoàng cứu vớt Kiều ra khỏi lầu xanh, đem lại cho Kiều cuộc sống hạnh phúc :
Vinh hoa bõ lúc phong trần
Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày . 
Từ Hải là ân nhân lớn nhất của Kiều, là người duy nhất có thể đem Kiều từ thân phận một cô gái lầu xanh lên địa vị một phu nhân ngồi ở ghế quan tòa để báo ân, báo oán :
Trướng hùm mở giữa trung quân
Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi
Tiên nghiêm, trống chửa dứt hồi
Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên
Từ rằng : "Ân oán hai bên
Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh" 
Từ Hải đã thiết lập một toà án, một pháp trường để xét xử những kẻ gian manh, độc ác đã từng giày xéo, đọa đày Kiều. Phiên tòa ấy thể hiện khát vọng lẽ công bằng, công lí sẽ chiến thắng. 
Từ Hải đến và đi trong cuộc đời Kiều như một ngôi sao vụt sáng; là giấc mơ dẹp tan mọi bất bình, xoá sạch những bất công ngang trái, sống tự do ngoài khuôn khổ chật hẹp của xã hội phong kiến. GIẤC MƠ TỪ HẢI !
Vừa đau xót, thông cảm; vừa ca ngợi đồng tình với những con người bị chà đạp, áp bức; Nguyễn Du đã biểu lộ trong Truyện Kiều tinh thần nhân đạo sâu xa của một nghệ sĩ thiên tài. 

Chính giá trị nhân đạo đã làm cho Truyện Kiều trở thành kiệt tác của nghìn đời. 
Phải có một mục tiêu trong cuộc sống để vươn tới

Diễn biến tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích "Trao DuyênChủ nhật - 27/04/2014 15:40

Nhắc đếnTruyện Kiều, người ta không thể không nhắc đến Nguyễn Du - một nghệ sĩ bậc thầy trong việc miêu tả nội tâm nhân vật. Nguyễn Du viết về Truyện Kiều bằng tất cả niềm say mê tính nhiệt huyết. Ông hoá thân trên từng trang viết để cảm thấu hết những nỗi khổ, niềm vui, những tâm tư sâu kín của con người, để rồi lại viết nên những dòng thơ có sức lay động lòng người sâu sắc. Vì vậy, đã có người cho rằng: đặc sắc nhất là nghệ thuật miêu tả trong Truyện Kiều là miêu tả nội tâm nhân vật. Trao duyên là đoạn trích như thế.

Đoạn trích chính là tiếng lòng tái tê, đau xót của Thuý Kiều trước nỗi đau hạnh phúc chia lìa. Nàng trao duyên cho em, nhờ em trả nghĩa giùm mình cho Kim Trọng nhưng nàng lại không sao dứt tình với chàng Kim được. Đoạn trích Trao duyên đã miêu tả thật tinh thế, chân thực và sống động diễn biến nội tâm ngổn ngang, phức tạp trong lòng Kiều. Bằng tài năng miêu tả tuyệt vời của mình, Nguyễn Du đã làm sống dậy trên trang thơ hình ảnh một Thuý Kiều đa cảm, hiếu hạnh, thuỷ chung. Đoạn trích sẽ còn sống mãi trong lòng người đọc với ý nghĩa nghệ thuật đặc sắc. 

Nguyễn Du mở đầu đoạn trích bằng lời nói rất mực dịu dàng, ân cần của Kiều với Vân: 

Cậy em em có chịu lời 

Ngồi đây cho chị lạy rồi sẽ thưa

Lời nói của Kiều nghe sao tha thiết, khẩn khoản đến thế. Nàng không "nhờ" Vân "nhận" lời mà lại "cậy em em có chịu lời". Trong lời nói của Kiều không chỉ có sự nhờ cậy mà còn có cả sự nài ép. Từng lời, từng chữ được sử dụng rất đắt khiến cho câu nói của Kiều trở nên vô cùng khôn khéo. 

Nhưng đằng sau đó ta còn nhận ra cả sự mong ngóng, hy vọng của Kiều. Tuy nhiên, cái hay trong cách miêu tả nội tâm nhân vật không chỉ dừng lại ở đó, Kiều không chỉ nhờ cậy Vân mà nàng thậm chí còn "lạy, thưa" Vân  một nghịch lý trớ trêu. Phải chăng, việc mà Kiều sắp nói ra đây, điều mà Kiều sẽ nhờ cậy Vân quá lạ lùng, quá to lớn và hệ trọng đến nỗi nàng phải hạ mình cầu xin Vân. Kiều ý thức rất rõ về thân phận của mình nhưng cũng hiểu được mình đã đẩy Vân vào tình thế vô cùng khó xử. Bởi chữ "duyên" chữ "hạnh phúc" đối với mỗi con người là điều rất thiêng liêng, đặc biệt là với người phụ nữ. Chính vì thế, Kiều đã buộc mình phải quỳ lạy để thưa Vân, mong nàng nhận lời. Tâm lý nhân vật được Nguyễn Du miêu tả thật tinh tế, đặc sắc khiến cho người đọc như hoá thân vào nhân vật để thấy hết được tâm tư sâu kín của nàng. 

Giữa đường đứt gánh tương tư 

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Chỉ bằng bốn từ "đứt gánh tương tư' nhà thơ đã cho ta nhận ra cuộc đời bi kịch, éo le, khổ đau của nàng. Cuộc tình với Kim Trọng ngày nào còn đẹp đẽ là thế, vậy mà giờ đây chỉ còn lại là một "mối tơ thừa". Đau đớn, xót xa, Kiều bắt đầu hồi tưởng lại những ngày tháng hạnh phúc bên Kim Trọng: 

Kể từ khi gặp chàng Kim 

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề 

Sự đâu sóng gió bất kỳ 

Hiếu tình khôn lẽ hại bề vẹn hai

Có lẽ những kỷ niệm về Kim Trọng sẽ không bao giờ nhạt phai trong Kiều. Những ngày tháng vui vẻ, hạnh phúc ấy đến thật nhanh mà đi cũng thật nhanh. Kiều chưa kịp hưởng trọn nó thì hạnh phúc đã vụt khỏi tay nàng. 

Tai hoạ bất ngờ đổ ập xuống cuộc đời nàng. Kiều đứng giữa hai bên tình và hiếu. Một bên là hình ảnh của mẹ cha, gia đình, một bên là hình ảnh của người yêu dấu. Và Kiều đã quyết định chọn chữ hiếu để đền ơn sinh dưỡng của cha mẹ. Kiều quả là một người con hiếu thảo. Báo hiếu cha mẹ, nhưng lại phụ tình: 

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về 

Hồn còn mang nặng lời thề 

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai 

Dạ đài cách mặt khuất lời 

Rảy xin chén nước cho người thác oan

Câu thơ nói đến quan niệm nhà Phật. Con người sống có cả thể xác lẫn linh hồn. Còn với Kiều, cho dù nàng chết đi thì cũng không quên lời thề nguyền son sắt cùng Kim Trọng. Kiều thực sự là một người con gái thuỷ chung, đa tình. Nhưng ở đây, Kiều không còn nhận mình là người bạc mệnh nữa mà là người "thác oan". Câu thơ khẳng định cuộc đời éo le, oan trái của Kiều. 

Trong đoạn trích ngắn ngủi này, Nguyễn Du đưa ra cùng một lúc ba mốc thời gian: ngày xưa ... bây giờ ... mai sau. Đó chính là mốc thời gian của tâm trạng con người, tâm trạng băn khoăn, rối bời. Kiều nuối tiếc quá khứ, đau xót cho hiện tại và lo lắng cho tương lai. Những kỷ vật, kỷ niệm của Kiều với Kim Trọng mới xảy ra hôm nào thôi, vậy mà Kiều ngỡ như nó xa xôi lắm rồi, ngỡ như có từ "ngày xưa" vậy. Dấy lên trong lòng Kiều là sự hụt hẫng, nuối tiếc, đau xót, bẽ bàng. 

Những dòng thơ cuối như những giọt nước tràn bờ, nỗi đau như lên đến tột định khiến Kiều như quên hết hiện tại để sống những giây phút với Kim Trọng: 

Bây giờ trâm gãy bình tan 

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân

"Trâm gãy bình tan" là hình ảnh cho sự hạnh phúc bị tan vỡ. Trước hiện thực phũ phàng ấy, Kiều như cất lên tiếng than xé ruột trước cuộc đời bi kịch, ngang trái của mình.

Kiều giờ đây dường như đã quên hẳn sự có mặt của Thuý Vân, nàng như đang trò chuyện cùng Kim Trọng: 

Trăm nghìn gửi lạy tình quân 

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Dường như hạnh phúc đến với Kiều quá mong manh. Kiều chưa kịp hưởng hết hạnh phúc thì nó đã tuột khỏi tay. Câu thơ như lời than xót xa cho thân phận đau khổ của Kiều. 

Lời than khóc của Kiều giờ đây nhói lên mạnh mẽ, dữ dội như một lời phản kháng: 

Phận sao phận bạc như vôi 

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng

Từ "phận" được láy đi láy lại diễn tả sự ý thức rất rõ của Kiều về thân phận hẩm hiu của mình. Câu hỏi tu từ càng khẳng định nỗi chua xót trong lòng Kiều. "Đã đành" không chỉ diễn tả sự buông xuôi, chấp nhận mà còn là sự tủi hổ của Kiều. Câu thơ diễn tả sự tuyệt vọng, bế tắc của nàng. 

Câu thơ cuối oà trong nước mắt, nó như lời kêu khóc đến xé ruột: 

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang 

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

Kiều cất tiếng gọi Kim Trọng trong sự mong ngóng, chờ đợi. Kiều gọi Trọng bằng tiếng gọi của người vợ với người chồng. Câu thơ như lời nhận lỗi của Kiều với Trọng. "Từ đây" là mốc thời gian Kiều bắt đầu bước vào cuộc đời mười lăm năm lưu lạc cát bụi. Câu thơ không một chữ lệ nhưng ta nhận ra rất rõ nước giọt nước mắt đau xót đến tái tê của Kiều. Đây là một trong những đoạn trích đặc sắc. Nó diễn tả nỗi đau đứt đoạn trong lòng Kiều khi phải trao duyên cho em. Dù trao duyên nhưng Kiều không trao tình, nàng vẫn nặng nỗi đau khổ sâu sắc. Càng đọc thơ Nguyễn Du, ta càng nhận ra vẻ đẹp cao quý của Kiều - người con gái tài sắc vẹn toàn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro