phân tích ôn tập học kì

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CÂU  CÁ MÙA THU

Đề: Phân tích bài thơ “ Câu cá mùa thu” của nhà thơ Nguyễn Khuyến

-Bài Làm-
Mùa thu – mùa của các thi nhân. Tại sao lại khẳng định như vậy? Bởi vì hầu hết các nhà thơ xưa và nay không ít thì nhiều đều có những bài thơ viết về mùa thu. Phải chăng mùa thu tiết trời se lạnh, gió thu hắt hiu, cảnh thu mơ màng, trăng thu huyền ảo, lá thu rơi,... đã tạo cho các nhà thơ niềm xúc cảm dạt dào? Chắc là thế! Với thi nhân, mùa thuxưa nay như người bạn tri ân để gởi gắm nỗi niềm, để tâm tình chia sẻ. Và nhắc đến thu, ta không thể không nhắc đến Nguyễn Khuyến với chùm thơ thu: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm. Mà trong đó, Thu điếu là một trong những bài thơ hay nhất trong hệ thống thơ ca viết về mùa thu.
Tuy nhan đề là “Câu cá mùa thu” nhưng bài thơ không lấy việc câu cá làm chính mà lấy mùa thu làm chính. Việc câu cá chẳng qua là cái cớ , cái hoàn cảnh, cái chỗ để nói về mùa thu. Ơû đây, cảnh thu được tác giả đón nhận từ gần đến cao xa, rồi từ cao xa trở lại gần. Điểm nhìn cảnh thu được nhìn từ chiếc thuyền câu đến mặt ao rồi nhìn lên bầu trời, nhìn tới ngõ trúc rồi nhìn ra mặt ao.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh mùa thu với một không gian thanh bình ở chốn làng quê của tác giả, trong một cái ao nhỏ và chiếc thuyền câu tĩnh lặng nhẹ tênh giữa một không khí mùa thu bắt đầu se lạnh:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Hai câu thơ trên không chỉ miêu tả không gian mùa thu mà còn miêu tả được cả không gian của mùa thu. Mùa thu được biểu hiện ở làn nước trong, đã trong mà lại còn “trong veo”. Ao thu như là một chiếc gương sáng, phản chiếu những nét bình dị của làng quê Viện Nam. Nay được tác giả đưa vào càng làm cho bài thơ thêm ý vị. Trong cái lạnh lẽo của mùa thu, một mình tác giả “du ngoạn” trên một chiếc thuyền câu vốn đã bé lại càng “bé tẻo teo”. Mùa thu thường là mùa của tâm trạng buồn, qua hai câu thơ này ta lại càng thấy Nguyễn Khuyến rất tài tình khi miêu tả khung cảnh mùa thu. Và cũng qua hai câu thơ cũng cho ta biết rằng với tính chất “lạnh lẽo nước trong veo” thì đây khộng phải là môi trương thuận lợi và thích hợp cho việc câu cá. Từ chiếc thuyền câu, tác giả lại tiếp tục đưa ta vào thế giới cảnh sắc trên ao thu qua hai câu thơ tiếp theo:
Sóng biếc theo làn hơi gơn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Cái tĩnh như cô đọng hơn trong một không gian ngưng đọng. Sự vật dường như chuyển động khẽ hơn, chỉ có gió mà lại rất nhẹ, làm cho chiếc thuyền câu “bé tẻo teo” chỉ hơi chòng chành đủ cho sóng chỉ hơi gơn tí. Khung cảnh mùa thu đượm buồn như im lìm lặng lẽ, chỉ có chiếc lá khẽ đưa mà thôi. Ngòi bút của tác giả tinh tế đến từng chi tiết nhỏ. Chỉ việc một từ “khẽ” đã miêu tả được miêu tả được cả âm thanh, đó là âm thanh tĩnh chứ không động, tả được cái trạng thái tĩnh lặng của mùa thu. Ngay cả từ “vèo” cũng vậy, không chỉ là bay qua của chiếc lá khi có làn gió mà nó còn thể hiện được tâm trạng của tác giả, một sự đau buồn trước cảnh đất nước rơi vào tay bọn thực dân Pháp. Màu “biếc” của sóng và màu “vàng” của lá đã vẽ nên một bức tranh làng quê thật thanh bình. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ “vèo” trong thơ Nguyễn Khuyễn. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được câu thơ vừa ý trong bài thơ “Cảm thu, tiễn thu”:
Vèo trông lá rụng đầy sân
Ngay cả Xuân Diệu cũng có lời nhận xét: “ Cái thú vị của bài thơ Thu điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi Lời bình của Xuân Diệu thật tâm đắc.
Từ việc miêu tả cảnh ao thu, nhà thơ mở rộng không gian lên chiều cao tạo nên không khí khoáng đạt và không gian như rộng hơn làm cho bức tranh thêm đường nét:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Cả trời thucũng được nhà thơ quan sát tỉ mỉ. Màu da trời “xanh ngắt” thật là đẹp, cùng với những đám mây trôi lơ lửng tạo cho ta thêm cảm giác muốn được hòa mình vào thiên nhiên. Ơû đây từ “lơ lửng” còn là tâm trạng của tác

bài 2:

Thu điếu nằm trong chùm thơ thu ba bài nức danh nhất về
1 thơ Nôm của Nguyễn Khuyến. Bài thơ nói lên một nét thu
đẹp tĩnh lặng nơi làng quê xưa, biểu lộ mối tình thu đẹp mà cô đơn,
buồn của một nhà nho nặng tình với quê hương đất nước. Thu điếu
cũng như Thu ẩm, Thu vịnh chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào
thời gian sau khi ông đã từ quan về sống ở quê nhà (1884).
Hai câu thơ: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo - Một chiếc thuyền
câu bé tẻo teo mở ra một không gian nghệ thuật, một cảnh sắc
mùa thu đồng quê. Chiếc ao thu nước trong veo có thể nhìn được
rong rêu tận đáy tỏa ra khí thu lạnh lẽo như bao trùm không gian.
Không còn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi
nên mới lạnh lẽo như vậy. Trên mặt ao thu đã có một chiếc thuyền
câu bé tẻo teo tự bao giờ. Một chiếc gợi tả sự cô đơn của thuyền
câu Bé tẻo teo nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi
ra sự tun hút của cảnh vật (trong veo - bé tẻo teo). Đó là một nét
thu đẹp và êm đềm.
Hai câu thực (Sông biếc theo làn hơi gợn tí - Lá vàng trước gió
khẽ đưa vèo) tá không gian hai chiều. Màu sắc hòa hợp, có sóng biếc
với lá vàng Gió thổi nhẹ cũng đủ làm cho chiếc lá thu màu vàng
khẽ đưa vèo, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí.
Phép đối tài tình làm nổi bật một nét thư, tô đậm cái nhìn thấy và
cái nghe thấy. Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trọng dùng
từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ
bay xoay xoay khẽ đưa vẻo của chiếc lá thu. Chữ vẻo là một nhãn tự
mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. ông thổ lộ
một đời thơ mới có được một. câu vừa ý: Vèo trông lá rụng đầy sân"
(cảm thu, tiễn thu).
Bức tranh thu được mở rộng dần ra qua hai câu thơ:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Bầu trời thu xanh ngắt thăm thẳm, bao la. áng mây, tầng mây
(trắng hay hồng ?) lơ lửng nhè nhẹ trôi. Thoáng đãng, êm đềm,
tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Không một bóng người lại qua trên con
đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Vắng teo nghĩa là vô cùng vắng lặng không một tiếng động nhỏ
nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam
nguyên Yên Đo lúc nào cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng
khuâng, man mác:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến dâu đây?
(Nhớ núi Đọi)
Ngõ trúc tầng mây cũng là một nét thu đẹp và thân thuộc
của làng quê. Thi sĩ .như đang lặng ngắm và mơ màng đắm chìm
vào cảnh vật.
Đến hai câu kết thì bức tranh thu mới xuất hiện một dối tượng khác:
Tựa gối ôm cắn lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu điếu nghĩa là mùa thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ có cảnh
vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ
trúc mãi đến phần kết mới xuất hiện người câu cá. Một tư thế
nhàn: tựa gối ôm cần. Một sự đợi chờ: lâu chẳng được. Một cái
chợt tỉnh khi mơ hồ nghe cá đâu đớp động dưới chân bèo. Người
câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu. Người đọc
nghĩ vế một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy
nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu
đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. âm thanh ấy hòa quyện
với một tiếng trên không ngỗng nước nào, như đưn hồn ta về với
mùa thu quê hương. Người câu cá đang sống trong một tâm trạng
cô đơn và lặng lẽ buồn: Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn
thanh cao đáng trọng.
Xuân Diệu đã hết lời ca ngợi cái diệu xanh trong Thu điếu.
xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo... và chỉ có một
màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Cánh đẹp êm đềm, tĩnh lặng
mà man mác buồn. Một tâm thế nhàn và thanh cao gắn bó với
mùa thu quê hương, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét thu là một sắc
thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiết. Vần thơ: veo
- teo - vèo - teo - bèo, phép đối tạo nên sự hài hòa cân xứng, điệu
thơ nhẹ nhàng bâng khuâng... cho thấy một bút pháp nghệ thuật
vô cùng điêu luyện, hồn nhiên - đúng là xuất khẩu thành chương.
Thu điếu là một bài thơ thu, tả cảnh ngu tình tuyệt bút.

Tự tình

1.Hai câu đề.

- Mở đầu bài thơ là điểm thời gian canh khuya, khi con người đối diện thật nhất với mình cũng là lúc XH nhận ra tình cảnh đáng thương của mình.Sự cô đơn trơ trọi được đặt trong thời gian.

- Tiếng trống canh được cảm nhận trong cái tỉnh lặng, trong sự phấp phỏng như sợ bước chuyển mau lẹ của thời gian. Đối diện với thời gian ấy là “cái hồng nhan”. Chữ “trơ” được đặt ở đầu câu nhấn mạnh nỗi đau của sự cô đơn, của sự bất hạnh trong tình duyên.

Thông thường, giữa không gian rợn ngợp con người cảm thấy bé nhỏ, cô đơn, ở đây HXH lại cảm nhận sự cô đơn trước thời gian. Thời gian cũng vô thuỷ vô chung…, “đêm khuya…dồn”: cái nhịp gấp gáp liên hồi của trống vừa là sự cảm nhận vừa là sự thể hiện bước đi liên hồi của thời gian và sự rối bời của tâm trạng. Khi trăm mối tơ lòng không thể gỡ mà thời gian gấp gáp cứ trôi đi thì còn lại là sự bẽ bàng…

- "Trơ” đặt đầu câu có tác dụng nhấn mạnh. “trơ” là tủi hổ, là bẽ bàng. Thêm vào đó hai chữ “hồng nhan” là để nói về dung nhan thiếu nữ mà lại đi với từ “cái” thì thật là rẻ rúng, mỉa mai. “Cái hồng nhan” trơ với nước non không chỉ là dãi dầu mà còn là cay đắng, vì vậy nỗi xót xa càng thấm thía, càng ngẫm lại càng đau.

- Nhịp điệu câu thơ: 1/3/3 cũng là để nhấn mạnh vào sự bẽ bàng.

Tuy nhiên bên cạnh nỗi đau là bản lĩnh Xuân Hương, bản lĩnh ấy thể hiện ngay trong chữ “trơ”. Trong văn cảnh câu thơ, chữ “trơ” không chỉ là bẽ bàng mà còn là thách thức. Chữ trơ kết hợp với từ nước non để thể hiện sự bền gan thách đố.


2.Hai câu thực

Trong khoảnh khắc của canh khuya ấy là một con người cùng đối diện với rượu và trăng, mượn trăng làm bạn, mượn rượu vơi sầu. Nhưng rượu không thể say, trăng sắp tàn mà vẫn “khuyết chưa tròn”. Đó là một nỗi niềm chất chứa thấm lan vào cảnh vật. Ngậm ngùi thân phận con người, tuổi xuân qua mau mà duyên vẫn còn chưa trọn vẹn.

Cụm từ “say lại tỉnh” → vòng luẩn quẩn, tình duyên đã trở thành trò đùa của con tạo, càng say càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận. Câu thơ là ngoại cảnh cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa tăng và người. Trăng sắp tàn ( “bóng xế”) mà vẫn “khuyết chưa tròn”, tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không trọn vẹn. Hương rượu để lại vị đắng chát, hương tình thoảng qua để chỉ còn phận hẩm duyên ôi…

3.Hai câu luận.

Hai câu thơ sử dụng biện pháp đảo ngữ để nhấn mạnh trạng thái của thiên nhiên, cũng là tâm trạng của con người.

Các động từ mạnh: xiên, đâm kết hợp với những bổ ngữ: ngang, toạc thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh, phẫn uất, một tâm trạng khác thường, khác người.

Hai câu thơ gợi cảnh thiên nhiên và cảnh được cảm nhận qua tâm trạng như cũng mang nỗi niềm phẫn uất của con người. Những sinh vật nhỏ bé, hèn mọn như đám rêu kia mà cũng không chịu mềm yếu, nó phải mọc xiên, lại xiên ngang mặt đất. Đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, lại phải nhọn hoắt lên để “đâm toạc chân mây”. biện pháp nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu luận đã làm nổi bật sự phẫn uất của thân phận đất đá, cỏ cây mà cũng chính là sự phẫn uất của tâm trạng con người. Các đt mạnh: xiên, đâm kết hợp với bổ ngữ: ngang, toạc → bướng bỉnh, ngang ngạnh, phẫn uất, rêu xiên ngang mặt đất, đá đâm toạc chân mây như vạch đất, trời mà hờn oán, không chỉ là phẫn uất mà còn là phản kháng…


4.Hai câu kết.

“Ngán” là chán ngán, ngán ngẩm . Từ “lại” cũng có 2 nghĩa.

HXH đã quá ngán ngẩm nỗi đời éo le, bạc bẽo. Mùa xuân đi rồi mùa xuân trở lại với thiên nhiên, nhưng với con người thì mùa xuân qua không bao giở trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân.

Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn: mảnh tình – san sẻ - tí – con con. Mảnh tình đã bé lại còn san sẻ thành ra ít ỏi, chỉ còn tí con con, nên càng xót xa tội nghiệp

→ Nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, với họ, hạnh phúc luôn là chiếc chăn quá hẹp.

III.Tổng kết.

1.Nội dung:

Qua lời tự tình, bài thơ nói lên cả bi kịch và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của HXH. Trong buồn tủi, người phụ nữ gắng vựơt lên trên số phận nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bi kịch.

2.Nghệ thuật.

Sử dụng từ ngữ giản dị mà đặc sắc (trơ, xiên ngang, đâm toạc,…), hình ảnh giàu sức gợi cảm ( trăng khuyết chưa tròn, rêu xiên ngang,…) để diễn tả các biểu hiện phong phú, tinh tế của tâm trạng.

Trong hệ thống những bài thơ mang chứa tâm sự của Hồ Xuân Hương, "Tự Tình" là một trong những bài thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện nỗi buồn, nỗi cô đơn thầm thía của người yêu đời, tràn đầy sức sống nhưng gặp những cảnh ngộ éo le, một con người luôn khao khát tình yêu nhưng gặp toàn dang dở bất hạnh. Đó là sự bất hạnh của một ước mơ không thành.

Sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy sóng gió (nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX), Hồ Xuân Hương là người chứng kiến và phần nào chịu ảnh hưởng của không khí sôi sục của phong trào quần chúng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Không khí ấy tác động đến tâm hồn vốn thông minh và giàu lòng trắc ẩn của bà. Bà uy nghiêm, thức tỉnh, trắc trở về đời mình, một cuộc đời đầy éo le, bạc phận, lấy chồng hai lần, hai lần làm lẻ và hai lần chồng đều chết sớm. Điều đó, với bà là những biểu hiện cụ thể, đầy nước mắt của nỗi đau "hồng nhan bạc phận". Mở đầu bài thơ Tự tình, tác giả gợi ra một khoảng thời gian, một góc xao xác tiếng gà. Đây là một thứ không gian, thời gian nghệ thuật được vận dụng làm cho sự thổ lộ tâm trạng tác giả:"canh khuya văng vẳng trống canh dồn". "Văng vẳng" chính là từ tượng thanh nhưng ở đây nó biểu thị tâm trạng, không khí, cái không khí buồn vắng lặng của một người thao thức giữa đêm khuya thanh vắng. Câu thứ hai nhức nhói một tâm sự :

"trơ cái hồng nhan với nước non"

Hay nhất của câu thơ thứ hai là từ "trơ". Trơ là trơ trọi, cô đơn, lẻ loi. Nhà thơ cảm nhận nỗi buồn hồng nhan. Một nỗi buồn cá thể càng kinh khủng hơn khi cọ xát với toàn xã hội, toàn cuộc đời: "nước non". Một nỗi buồn đè nặng lên tâm sự bà, lên số phận của người phụ nữ. Không chịu đựng nổi, bà muốn chống lại, thoát khỏi. " Chén rượu hương đưa" là một phương tiện. không phải là phương tiện duy nhất mà hầu như là cuối cùng cho một đè nén quá mức. Thế nhưng, bi kịch vẫn cứ là bi kịch :

"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh"

Câu thơ nữ sĩ gợi nhớ một câu thơ đầy trầm tư của Lý Bạch :

"Dùng gươm chém nước, nước chẳng dứt
Uống rượu tiêu sầu, sầu vẫn sầu".

Bất lực, câu thơ chuyển sang một sự cám cành si tình. Hồ Xuân Hương nói :

"Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn".

Trong quan điểm thẩm mỹ xưa, vầng trăng tượng trưng cho cuộc đời, tuổi tác của người phụ nữ. Câu "vầng trăngbóng xế khuyết chưa tròn" vừa là hình ảnh đẹp, có thực nhưng đượm buồn. Cái buồn của một "vầng trăng khuyết". Đối với thơ xưa cảnh là tình, cảnh trăng khuyết man mác, gợi nhớ cuộc đời bà. Trong "mời trầu" bà đã ẩn ý như vậy.

Sang câu 5,6 tứ thơ như đột ngột chuyển biến. sự cụ thể trong miêu tả khiến việc tả cảnh trở nên thuần khuyết. Một cảnh thực hoàn toàn :

"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn".

Nghệ thuật đảo ngữ và đối tạo nên sự sinh động và cảnh đầy sức sống. Một sức sống của bà như vẫy đạp, cựa mình. Cảnh này chỉ có thể là cảnh của "bà chúa thơ Nôm" chứ không phải của ai khác. Rò ràng, dẫu đang rất buồn, rất cô đơn nhưng điều đó vẫn không làm suy giảm chất riêng của Hồ Xuân Hương. Bản lĩnh, sức sống mãnh liệt, sự khát khao với cuộc đời khiến cho lòng đầy cám cảnh bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời, tha thiết, chứa chan sức sống. Đó là lý giải về những phản kháng, đối nghịch trong bản chất của bà, tạo nên những vần thơ châm biến đối lập. Vũ khí ấy hơn hẳn chén rượu "say rồi tỉnh". Đó lả phương tiên kỳ diệu nâng đỡ tâm hồn bà. Chỉ như thế mới có thể hiểu tâm trạng, tiếng thở dài của Hồ Xuân Hương, ở hai câu kết :

"Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!".

Yêu đời là thế, sức sống mãnh liệt là thế, mà cuộc đời riêng thì vẫn:"xuân đi xuân lại lại.", điệp từ chỉ cái vòng luẩn quẩn đáng ghét, vô vị của ngày tháng, cuộc đời. Điều này khiến bà không tránh khỏi một tiếng thở dài chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần hoàn thời gian ấy là một "mảnh tình" đang bị san đi, sẻ lại... chia xới. Đối với trái tim thiết tha với đời kia, điều đó như một vết thương, nhức nhối.

Người ta nói rằng thơ là tâm trạng, là một bức thông điệp thẩm mĩ. Đọc "tự tình", ta thấu hiểu tâm sự ẩn chứa bi kịch của Hồ Xuân Hương. Là một nhân cách luôn khát khao hạnh phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống, yêu đời lại bắt gặp toàn những dang dở, bất hạnh, điều đó tạo nên thơ bà có khi là một tiếng thở dài. Một tiếng thở đáng quý của một người có hoài bão nhưng không thể thực hiện được, trách nhiệm là ở phía xã hội phong kiến, một xã hội mà hạnh phúc riêng đã đối lập gay gắt với cơ cấu chung, trong chiều hướng ấy, "tự tình" là một bà thơ đòi quyên hạnh phúc, một lời phản kháng độc đáo lại chứa chan tiếng nói bênh vực của người phụ nữ, tạo được sự thấu hiểu , đồng cảm với cảnh ngộ éo le, trắc trở.


“Tự tình 2”_một trong chùm thơ 3 bài cùng tên của Hồ Xuân Hương, dù chưa rõ thời điểm sáng tác, nhưng người đọc có thể dễ dàng đoán đc. chúng đã được viết nên khi nhà thơ đang ở trong tâm trạng chua xót nhất, cay đắng nhất trước những éo le trên con đường tình duyên. Ba bài thơ là 1 sự chuyển biến tâm lí rất lôgich mà cũng mang nặng 1 bi kịch của người phụ nữ gặp trắc trở trong hạnh phúc lứa đôi. “Tự tình 1” là 1 khao khát mãnh liệt đến không chịu nổi của tác giả, giọng thơ mang đầy vẻ thax thức, nhất quyết hok cam chịu 1 số phận hẩm hiu : “Tài tử văn nhân ai đó tá?/ Thân này đâu đã chịu già tom”. Đến “Tự tình 2”, những đợi chờ, hi vọng dần bị thời gian tàn nhẫn làm cho chai sạn lạnh lùng, làm nguội đi trái tim đang bừng bừng khao khát của tác giả “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại/ Mảnh tình san sẻ tí kon kon...” Càng hi vọng bao nhiu thì càng thất vọng bấy nhiu, H2X dần trở nên ngao ngán, và mất niềm tin vào cuộc đời. Và khi “Tự tình 3” được đặt bút, là khi tác giả đã chìm xuống tận cùng của hố sâu thất vọng , bà hok còn mong mỏi điều j' nữa, mà buông xuôi, để mặc cho số phận đưa đẩy “Chiếc bánh buồn vì phận nổi nênh/ Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”. Ôi, còn đâu là con ng' mạnh mẽ, cá tính, bướng bỉnh, không chịu khuất phục điều j'?(Câu này hem bít có đúng hok các bạn xem lại choa tớk :”>) Thế mới biết số phận tàn nhẫn có thể làm lạnh lùng cả 1 tâm hồn cứng rắn nhất, mạnh mẽ nhất, biến nó thành thờ ơ, vô kảm. Và đó quả thật là 1 bi kịch, bi kịch của những ng' fụ nữ gặp éo le trong số phận cuộc đời (kả câu nài nữa vì tớk vốn hok tin có 1 thứ gọi là “số phận” và tớk tin là bà H2X cũng vậy ^^).
(Phân tik):
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ kái hồng nhan vs nước non.”
Mở đầu bài thơ là một âm thanh khá âm vang và đầy hối hả: Trống canh dồn. Nhưng, dù mãnh liệt đến mấy, tiếng trống cũng vẫn chỉ là âm thanh duy nhất trong đêm vắng, nếu hok có nó thì đêm khuya sẽ trở nên vô cùng vắng lặng. Cái động đã đc. sử dụng để tôn lên kái tĩnh, cái cô độc, trống trải của đêm khuya. Nửa đêm là thời gian sum họp vợ chồng, là thời điểm của hạnh phúc lứa đôi. Vậy mà lại có 1 ng' phục nữ tỉnh dậy vào đúng thời khắc thiêng liêng ấy, hay vì cả đêm ng' phụ nữ ấy đã không ngủ đc. vì thiếu vắng 1 điều j' đó, vì tâm trạng đang mang nặng một nỗi niềm? Tiếng trống canh âm vang từ xa vọng lại như đang thúc giục thời gian qua mau, gọi đến 1 điều vô cùng đáng sợ đối với 1 ng' đàn bà vẫn còn thân đơn gối chiếc: Tuổi già. Tuổi già càng đến gần nghĩa là hi vọng càng tuột xa, mọi mong mỏi, khát khao càng trở nên vô vọng. Tiếng trống dồn dập cứ xoáy vào tâm can tác giả, nó âm vang, trong tâm tưởng, âm vang trong suy nghĩ, hok tài nào dứt ra được. Dồn dập, hối hả, tiếng trống không chỉ bao trùm lên không gian mà còn lên cả thời gian nữa, và ta tự hỏi, đêy có thật là tiếng trống hiện hữu trong đời sống thực tại hay phải chăng đó là tiếng trống cất lên từ tấm lòng thổn thức của tác giả, tiếng trống ám ảnh về 1 bi kịch đang ngày đến gần hơn với bà....“Trơ cái hồng nhan với nước non”_Khi thời gian cứ lướt qua càng lúc càng dồn dập, thì cũng là lúc “cái hồng nhan" ngày một “trơ” ra với đời. “Hồng nhan” là một từ dùng để chỉ nhan sắc, chỉ gương mặt xinh đẹp của ng' phụ nữ. Đó là điều mà bất cứ người phụ nữ nào có đc. cũng phải hết sức tự hào, hết sức coi trọng và nâng niu. Nhưng từ “cái” gắn liền với “hồng nhan” như một hòn đá kéo nặng cả câu thơ xuống, khi đập tan bâo nhiêu niềm tự hào, bao nhiêu trân trọng mà biến “hồng nhan” trở thành một thứ đồ vật tầm thường hok hơn hok kém. Hồng nhan để làm j' khi nửa đêm phải tỉnh giấc, trong cái trống trải lạnh lẽo đến đắng cay? Hồng nhan để làm gì khi nó đâu phải là vĩnh cửu mà sẽ nhanh chóng vỡ tan theo từng nhịp trống dồn? Tác giả ý thức được nhan sắc của mình nhưng cũng ý thức được những bất hạnh và chua xót mà mình đã, đang và sẽ phải nếm trải. Và khi nỗi đau lên đến đỉnh điểm, người phụ nữ sẽ trở nên “trơ” ra với “nước non”, với cuộc đời. Từ “trơ” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh sự vô kảm, lạnh lùng, thờ ơ trước những đớn đau đã trở nên quá quen thuộc. Còn j' đau xót hơn khi những bất hạnh lại trở thành một điều j' đó rất thường tình, cứ đeo đẳng, bám lấy con người ta và thậm chí khiến người ta trở nên nhàm chán, mất hết cảm xúc và trở nên trơ ra như gỗ đá? Chưa hết, từ “trơ” trong câu thơ còn mang một nghĩa khác, một hàm ý cay đắng và chua xót không kém: Trơ trọi. Tác giả nhận thấy mình hok có j' kả, hok có tình yêu, hok có hạnh phúc, chỉ đơn độc, lẻ loi một mình trong cuộc đời này. Từ “trơ” đặt ở đầu câu cộng với cách ngắt nhịp 1/3/3 đẩy từ “trơ” tách biệt một mình đã xoáy sâu, nhấn mạnh vào tâm trạng cay đắng, tủi hổ và bẽ bàng của bà. Câu thơ như một lời đay nghiến, m** mai chính mình, có hồng nhan mà phải trơ ra như thế Thật đáng thương cho số phận của nhà thơ, đáng thương cho một kiếp người tài hoa mà bất hạnh. Và cũng thật đáng thương cho những người phụ nữ đương thời bị đè nén, áp bức với những hủ tục phong kiến đến mức xơ xác, héo mòn cả một phận hồng nhan......
Nhưng, dù đáng thương, chua xót đến mức nào, chúng ta vẫn phải công nhận một “bản lĩnh Xuân Hương” rất đáng nể phục trong hai câu thơ, khi mà “trơ” hok chỉ là một sự bẽ bàng hay vô kảm mà còn là thách thức. “Trơ” kết hợp với “nước non” và “hồng nhan” đựoc xếp ngang tầm thiên nhiên vũ trụ đã cho ta thấy sự can đảm, dám đương đầu với những j' lớn lao nhất, khó khăn nhất của bà. Đó quả thật là một ý chí đáng nể phục, một bản lĩnh đáng ngưỡng mộ của Hồ Xuân Hương.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xê khuyết chưa tròn.”
Hai câu thơ vẽ lên một khung cảnh rất thật mà cũng chứa chan bao nỗi niềm của tác giả. Một người phụ nữ mà phải ngồi uống rượu một mình trong đêm vắng thì quả là một sự bất hạnh. Con người ta chỉ uống rượu vì hai mục đích: Một là để sẻ chia và hai là để để quên sầu. Sẻ chia là khi con ng' ta nhất định phải uống cùng bạn bè, đặc biệt là tri kỉ, để nói lên những nỗi lòng, tâm sự cho nhau nghe và nhận lại đc. sự cảm thông và thấu hiểu. Chẳng thế mà Nguyễn Khuyến từng viết:“Rượu ngon không có bạn hiền/Không mua không phải không tiền không mua”Còn khi muốn quên sầu, là lúc con ng' ta đang ở trong tâm trạng cay đắng nhất, khi xung quanh không có 1 ai để có thể chia sẻ nỗi niềm và ta chỉ còn biết tìm quên trong men rượu, một mình. Nhưng liệu chén rượu có làm tan đi bao nỗi cô đơn, tủi nhục trong lòng, hay Hồ Xuân Hương uống rượu mà như uống bao giọt sầu giọt tủi, như nuốt từng giọt đắng giọt cay. Chén rượu là chén sầu mà người uống chẳng thể đổ đi đươc mà chỉ có thể lặng lẽ, âm thầm nuốt vào cổ họng, để đau khổ cũng chẳng mất đi đâu mà lại trở lại trong chính tâm trí mình. "Say lại tỉnh"_Uống rượu có thể say, nhưng sau cơn say người ta sẽ lại tỉnh. Tỉnh rồi, người ta mới nhận ra, hương rượu còn để lại vị đắng chát trên đầu lưỡi. Và những đau khổ, chua xót sau cơn say càng đc.nhân lên vạn lần. Cụm từ này đã cho ta thấy một vòng luẩn quẩn, đầy bế tắc rất đỗi xót xa của tác giả. Bà cứ bị đẩy qua đẩy lại liên hồi trong vòng tuần hoàn nghiệt ngã của số phận. Và ta nhớ đến một hình ảnh bẽ bàng tủi nhục của nàng Kiều ngày nào "Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh/ Giật mình mình lại thương mình xót xa.." Đến câu thơ tiếp theo, nỗi đau lại tiếp tục được thể hiện rõ ràng và đậm nét. "Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn"_Có vẻ như Hồ Xuân Hương đã ngồi một mình bên chén rượu như thế đến hết đêm, đến tận khi “mặt trăng bóng xế”, nhường chỗ cho một ngày mới. Bà cứ ngồi uống rượu và ngằm trăng như vậy, như mong chờ một sự đồng cảm và sẻ chia. Nhưng bà đã nhìn thấy j'? Một sự đồng cảm chăng? Hay bà chỉ thấy số phận dở dang của mình đang hiện diện trong một vầng trăng khuyết? Trăng vốn là một biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho cho những ước mơ và hy vọng. Nhưng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương lại xót xa đến mức “khuyết chưa tròn”, một hạnh phúc không hề trọn vẹn,một cuộc đời còn dang dở với những éo le, trắc trỏ trong tình duyên. Hạnh phúc của bà chỉ như vầng trăng khuyết mà bà không thể biết ngày mai trăng sẽ lại khuết tiếp hay sẽ tròn. Ánh trăng sáng mà lạnh lẽo vô cùng khi ẩn hiện trong nó một nỗi cô đơn, trống vắng.Và “bóng xế” đi kèm với trăng lại gợi nên một nỗi niềm trong lòng tác giả: nỗi lo sợ trước tuổi thanh xuân đang mất đi. Trăng đã xế mà vẫn khuyết chưa tròn, giống như tuổi xuân của Xuân Hương đang dần mất đi mà tình duyên vẫn không được trọn vẹn. Hình ảnh mặt trăng là hình ảnh ẩn dụ vô cùng độc đáo và đặc sắc, miêu tả chính xác và vô cùng sinh động ngoại cảnh mà cũng bộc lộ được tâm cảnh, những suy nghĩ, tâm tư đang hiện hữu trong lòng bà.
Nhưng dù có thất vọng, dù có đau xót, chán chường đến mức nào, Hồ Xuân Hương vẫn là một người phụ nữ đầy bản lĩnh. Và sâu thẳm trong tâm trí bà, dù yếu ớt đến đâu vẫn luôn lóe lên một ánh lửa khát khao, hy vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên thay đổi cuộc sống của mình. Hai câu thơ tiếp theo đã nói lên điều ấy:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn..”
Một hình ảnh thiên nhiên rất dữ dội, đầy cựa động, giống như tính cách bướng bỉnh, hok chịu khuất phục điều j' của chính tác giả vậy. Ở Hồ Xuân Hương, sự buồn tủi bao h cũng gợi nên những phản ứng tik cực (giống mình :”>). Bà hok buông xuôi, hok đầu hàng mà lun cố gắng tìm cách để thay đổi vận mệnh, cho dù những cố gắng đó mới chỉ dừng lại trong suy nghĩ. Hai câu thơ tửong như chỉ miêu tả cảnh vật xung quanh, nhưng chính đặc điểm của những cảnh vật đó đã đc. dùng để bộc lộ tâm trạng của con người. Hàng loạt động từ mạnh, đầy sắc thái biểu cảm như “xiên”, “đâm” được đảo lên đầu câu cùng với những bổ ngữ độc đáo, ấn tượng đi kèm với nó đã thể hiện rất rõ cảm xúc của bà. Rêu “xiên ngang”, dàn trải như bao phủ khắp cả mặt đất. Không phải xiên dọc hay xiên chéo j' kả mà phải là “xiên ngang”, những tảng rêu như chọc thủng mặt đất để đâm lên một cách đầy ngang tàng, ngạo nghễ. Đá “đâm toạc” chĩa lên nhọn hoắt đầy đe dọa như muốn xuyên thủng cả bầu trời. Và cũng chẳng phải đâm thủng hay đâm xuyên gì hết mà là “đâm toạc”, tảng đá dường như đã bị dồn nén tất cả những căm hậm, phẫn uất mà đâm thẳng lên, xé toạc tất cả những j' đang gò bó, áp đặt chúng. Chỉ là những cảnh vật bình thường, không có j' đặc biệt như rêu và đá, nhưng qua cái nhìn đầy ấm ức, bất mãn của tác giả, chúng đã trở nên vô cùng sống động. Cựa động, nổi loạn, phá phách, muốn đập tan những j' gò bó để đc. tự do vùng vẫy giữa đất trời, thiên nhiên hòa hợp với con người, đặc điểm thiên nhiên cũng chính là nỗi niềm của nhân vật. Và ta cũng thấy đc. tâm trạng phẫn uất của H2X với tuổi già và những luật lệ phong kiến cũng như số phận hẩm hiu đang tàn nhẫn ra tay bóp chết hạnh phúc của bà; những uất hận ây bị đè nén, gò ép trong lòng bà đến không chịu nổi chỉ chực vỡ òa ra, bà khao khát muốn đạp tung tất cả, muốn lật đổ mọi thứ, muốn tự do biết nhường nào. Nhưng dù sao, bà vẫn chỉ là một người phụ nữ phong kiến, một thân phận nữ nhi cô độc, dù phá phách, dù nổi loạn đến đâu thì tất cả vẫn chỉ kết thúc trong giới hạn ngôn từ. Bà không thể làm gì hơn được nữa....Mặc dù ta vẫn phải công nhận, đây là một suy nghĩ vô cùng mới mẻ, một tư tưởng đi trước thời đại, một tính cách hoàn toàn khácc biệt so với những người phụ nữ thời bấy h. Đó là một bản lĩnh, một cá tính Xuân Hương đáng trân trọng...
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con..” Những khát khao, vùng vẫy, nổi loạn cuối cùng cũng đã bị dập tắt trong sự chán chường, bất lực. Hồ Xuân Hương đã không thể vượt khỏi thân phận mình, vị thế nhỏ nhoi cô độc của mình trong xã hội. Kết thúc bài thơ là một sự cam chịu đc. thốt lên trong một tiếng thở dài ngao ngán. Bà đã phát ngán , đã chán lắm rồi cái vòng xoáy luẩn quẩn của số phận. Càng cố bao nhiêu thì càng thất bại bấy nhiêu, hi vọng càng nhiều thì thất vọng càng lớn, càng chua xót. Thế thì còn cố gắng để làm j' nữa? “Xuân”, hình ảnh nổi bật trong câu thơ có thể là mùa xuân, cũng có thể là tuổi xuân của tác giả. những mùa xuân cứ đến và đi, dòng thời gian cứ chầm chậm chảy, cũng có nghĩa là tuổi xuân của bà đang tuột mất từng ngày. Và nỗi đau của bà lại càng đc. nhân lên gấp bội. Hai chữ “lại” đứng ở cuối câu chứa đựng biết bao sự ngán ngẩm nặng nề của bà khi cảm nhận tuổi xuân đang trôi đi từng ít một. Bà chán ghét số phận hẩm hiu của mình, chán ghét vòng tình duyên ngang trái lun đeo đẳng, chán ghét hạnh phúc ít ỏi đến nỗi gần như không tồn tại. “Mảnh tình”, một cụm từ mang nặng nỗi trớ trêu của số phận. Tình iêu vốn là một điều j' đó thật cao cả thiên nhiên (Haiz ), Nhưng tình iêu của H2X lại như một mảnh vỡ nhỏ bé đc. sẻ ra từ hạnh phúc của ng' khác. Tình yêu của bà rẻ mạt như một sự bố thí, như một thứ đồ vật đã qua sử dụng ng' ta vứt lại cho bà. Đau xót biết mấy, khi “mảnh tình” lại là một thứ đc. chia năm sẻ bảy mà bà chỉ đc. nhận duy nhất một mảnh “tí con con”. Hạnh phúc của bà chẳng những không trọn vẹn mà còn nhỏ bé, ít ỏi đến mức tội nghiệp. Tình duyên như thế thì có để làm j', chỉ cảng thêm tủi nhục đắng cay. Cách dùng từ giản đơn mà vẫn vô cùng độc đáo đã cực tả nỗi niềm của tác giả. H2X ngang tàng thách thức đầy nổi loạn ở trên là thế, nhưng cuối cùng, tất cả vẫn chìm vào vô vọng trong sự bất lực tột cùng và chán chường mệt mỏi. Những cố gắng vùng vẫy của bà chỉ là vô ích, bởi số phận của bà vốn đã là một bi kịch và mãi mãi chỉ là 1 bi kịch mà thôi. Có lẽ trong giờ phút ấy, bà đã muốn buông xuôi, muốn bỏ mặc tất cả cho số phận đưa đẩy, bà đã mất hết hy vọng.....Giọt nc’ mắt em...âm thầm buông rơi, đêm sầu đơn côi.....trong tim em ôm trọn một nỗi sầu bơ vơ.......đành khóc vậy thôi.....Liệu H2X có thể vượt qua tất cả để có thể trở lại là một ng' phụ nữ yêu đời mạnh mẽ không sợ j' cả như ngày nào? Đó vẫn là một câu hỏi còn dở dang của những thân phận phụ nữ đem thân đi lam lẽ, phận ng' mà hạnh phúc không bao h trọn vẹn mà chỉ nhỏ nhoi như 1 mảnh gg vỡ....Câu thơ đã diễn trả đc. đỉnh đ? bi kịch của H2X và cũng là của n~ ng' fụ nữ thời bấy h...


I: MỞ BÀI

Cách 1: Giới thiệu tác giả - dẫn dắt vào tác phẩm

(VD: Có thể nói Hồ Xuân Hương là một trong hai nhà thơ nữ nổi tiếng nhất của nền thơ trung đại Việt Nam. Bà không chỉ chiếm giữ vị trí bà chúa thơ Nôm mà còn là một đỉnh cao của của trào lưu nhân đạo thời kì này. Hầu hết sáng tác của bà tập trung tái hiện số phận nhiều cay đắng đâu khổ của người phụ nữ trong XHPK. Bà đã cất lên tiếng nói đồng cảm trân trọng họ với tư cách một người trong cuộc. Tiêu biểu cho cảm hứng nhân đạo ấy là bài thơ Tự tình II.)

Cách 2 : Giới thiệu đề tài người phụ nữ _ liệt kê những tác giả tác phẩm tiêu biểu ( vd như Nguyễn Dữ, Nguyễn Du..) _ nhấn mạnh đóng góp riêng của Hồ Xuân Hương với chùm thơ Tự tình _ trong đó bài Tự tình II để lại nhiều sâu sắc....

II: THÂN BÀI

Giải thích nhan đề Tự tình:

1, Câu 1 : Câu thơ mở ra với khoảng thời gian không gian đặc biệt;

- Đêm khuya: lúc nửa đêm về sáng, khi vạn vật chìm trong bóng tối
- Trên nền không gian ấy nổi bật âm thanh tiếng trống điểm canh
+ "văng vẳng" từ láy tượng thanh _ những âm thanh nhỏ từ xa vọng đến _ càng gợi cái im vắng của không gian ( lấy động tả tĩnh)
+ "dồn" đối lập tương phản _ âm thanh dồn dập gấp gáp như hối thúc, dội vào lòng người.

2, Câu 2

- Cấu trúc đảo ngữ đc nhà thơ sử dụng để nhấn mạnh:
+ cảm giác lẻ loi trơ chọi
+ nỗi bẽ bàng trơ chẽn
- " Cái hồng nhan" cụm từ ngữ mang sắc thái trai ngược
+"cái" suồng sã
+"hồng nhan" trang trọng
- " Với nước non" gợi cốt cách cứng cỏi, tư thế kiêu hãnh của người phụ nữ cô đơn buồn tủi..
3, Hai câu 3, 4
Người phụ nữ lẻ loi cô độc ấy muốn kiếm tìm cho tâm hồn mình một điểm tựa nhưng ko thể
- Chén rượu: nỗi cô đơn buồn tủi chồng chất - phải tìm đến chén rượu - mong có sự khuây khoả...nhưng kết cục " say lại tỉnh" - lúc tỉnh ra thì nỗi cô đơn buồn tủi lại càng trĩu nặng
- Hướng đến vầng trăng mong tìm thấy một người bạn tri ân giữa đất trời nhưng:

+ mảnh trăng khuyết mỏng manh
+ lại còn bóng xế - đang tà đang lặn - càng thêm mờ nhạt xa vời
==>Con người chới với giữa một thế giới mênh mông hoang vắng _ bất lực trước nỗi cô đơn trơ trọi của chính mình.

4, Hai câu 5, 6

Nhưng người phụ nữ đó không hề đắm chìm trong tuyệt vọng mà cất lên tiếng nói bi phẫn - tràn đầy tinh thần phản kháng
- Tác giả đã sử dụng các yếu tố tương phản để gợi lên thân phận người phụ nữ xưa
+ "rêu từng đám; đá mấy hòn" - ít ỏi nhỏ nhoi trên nền không gian rộng lớn mênh mông của chân mây mặt đất
+ Ẩn dụ cho thân phận lẻ loi cô đơn của chủ thể trữ tình
- Nhưng người phụ nữ này đã ko chịu khuất phục - trái lại dũng cảm đấu tranh - tinh thần phản kháng mạnh mẽ quyết liệt
+ tinh thần ấy đc diễn tả bằng cấu trúc đảo ngữ với những động từ mang sắc thái mạnh "xiên ngang; đâm toạc"...
+ khát vọng "nổi loạn" : phá tung đạp đổ tất cả những trói buộc đang đè nặng lên thân phận mình...

5, Hai câu cuối

Tiềm ẩn trong tâm hồn người phụ nữ ấy là niềm khát khao đc hạnh phúc
- Câu 1:
+ "ngán" - tâm sự chán trường, bất mãn
+ xuân đi: tuổi trẻ của con người cứ trôi qua - thời gian không chờ đợi
+xuân lại lại: vòng tuần hoàn của thời gian vô tận _ sự trớ trêu: cứ mỗi mùa xuân đến cũng là lúc tổi xuân của con người mất đi, quy luật khắc nhiệt của tạo hoá.
=>Bộc lộ ý thức của con người về bản thân mình với tư cách cá nhân - có ý thức về giá trị của tuổi thanh xuân và sự sống.
- Câu 2: Đời người hữu hạn, tuổi xuân ngắn ngủi mà cơ hội có hạnh phúc lại quá mong manh
+ " mảnh tình": chút tình cảm nhỏ nhoi - lại còn phải san sẻ - cuối cùng chỉ còn là " tí con con" - chút nhỏ nhoi không đáng kể
+ câu thơ in đậm dấu ấn tâm trạng nhà thơ - Hồ Xuân Hương là người phụ nữ xinh đẹp tài hoa - nhưng lỡ làng duyên phận - từng chịu cảnh làm lẽ - thấm thía hơn ai hết nỗi cay đắng bẽ bàng hờn tủi của cảnh ngộ mảnh tình san sẻ...
==> Ẩn sâu trong những dòng thơ này là niềm khát khao hạnh phúc tình yêu - một tình yêu nồng thắm một hạnh phúc trọn vẹn đủ đầy.


III: KẾT BÀI

- Bày tỏ một cách chân thành sâu sắc những tâm tư tình cảm,, tác giả đã cất lên tiếng nói đồng cảm sâu sắc với thân phận người phụ nữ...đống thời nhà thơ thể hiện tinh thân phản kháng mạnh mẽ và khát vọng hạnh phúc tha thiết -> tràn đầy giá trị nhân đạo.
- Bài thơ cũng tiêu biểu cho phong cách thơ Nôm của HXH
+ngôn từ hình ảnh bình dị dân dã mà giàu sức gợi
+ thể thơ Đường luật đc Việt hoá ......

bức tranh phố huyện

Make A Wish !

Make a wish in this virtual wishing well and it will come true.

milliondollarwishingwell.com

BỨC TRANH ĐỜI SỐNG CỦA PHỐ HUYỆN NGHÈO LÚC CHIỀU TỐI TRONG TRUYỆN NGẮN "HAI ĐỨA TRẺ" CỦA THẠCH LAM

Trong Tự Lực văn đoàn, nhà văn Thạch Lam đứng thành một dòng riêng biệt. Nhất Linh với Khái Hưng còn có thể viết tiểu thuyết chung nhưng Thạch Lam thì không. Giọng điệu của Thạch Lam nhỏ nhẹ, điềm tĩnh, sâu lắng, nhiều dư vị, có sức truyền cảm đặc biệt. Thạch Lam lại hướng về các nhân vật bé nhỏ ở tầng lớp dưới của xã hội. Trong khi đó, các nhà văn khác của Tự lực văn đoàn lại hướng về các nhân vật thượng lưu. “Hai đứa trẻ” là truyện ngắn tiêu biểu cho văn phong Thạch Lam, cho khuynh hướng tư tưởng của Thạch Lam, hướng về cuộc đời, hướng về cái Thiện, cái Mĩ.

Truyện của Thạch Lam không có chuyện. Truyện “Hai đứa trẻ” cũng vậy. Chỉ có hai đứa trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều, hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hoàng hôn, rồi đêm đến, tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm từ Hà Nội chạy qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm thường là hấp dẫn người đọc bằng cốt truyện li kì, những tình tiết éo le, những cuộc tình mùi mẫn, hoặc là những xung đột gay cấn hồi hộp. “Hai đứa trẻ” hấp dẫn người đọc bằng chất liệu thật của đời sống. Cách lựa chọn chất liệu này gần với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài (các nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo), lại kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Tinh thần lãng mạn ấy gắn với các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Thạch Lam có một lối văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa. Bức tranh bằng ngôn ngữ của ông có thể ví với tranh lụa chứ không phải sơn dầu. Thạch Lam trước sau vẫn là một nhà văn lãng mạn. lãng mạn tích cực, đẹp.

Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát...” thiên nhiên thì cao rộng thì cao rộng và thơ mộng. “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Nhưng làng quê thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đôi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương day cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo.

Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện. Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế.

Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi ở bãi chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này...”. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”. Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác bẩn bên đường. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc. Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua rượu uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những **** sống lầm than, cực khổ, tàn tạ. Qua con mắt của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mông, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên... tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dầy đặc mà thôi. “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới bẩy lần trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những **** sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời.

Cảnh phố huyện lúc chiều tối như một khúc nhạc buồn mà điệp khúc cứ lặp lại. Chiều tối nào mẹ con chị Tí cũng lễ mễ dọn hàng, chị em Liên lại kiểm hàng rồi tính tiền, rồi ngồi trên chõng tre ngắm cảnh. Bác phở Siêu lại gánh hàng và thổi lửa, bác Xẩm lại trải chiếu, đặt thau. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ. Họ cũng lóe lên một chút hi vọng. Hi vọng là liều thuốc an thần cho những con người **** khổ ấy. Nhất Linh cũng từng nói những người dân quê rất nghèo khổ tiền bạc nhưng rất giàu hi vọng hão “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

Hai đứa trẻ làm sao ý thức rõ rệt được cảnh tù đọng, buồn chán, bế tắc mà chúng đang sống cũng như về những khát vọng tinh thần mơ hồ của mình. Song với tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm, cô bé Liên cảm nhận thấm thía tuy chỉ là vô thức hiện thực đó, khát vọng đó. Chính vì khao khát được thoát khỏi cảnh tù đọng mù tối ấy mà chị em Liên đêm đêm cố thức đợi chuyến tàu đi qua. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bác Siêu.

“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, xung đột giai cấp. Ông cũng không để tâm miêu tả những bộ mặt gớm ghiếc của những kẻ bóc lột và khuôn mặt bi thảm của những kẻ bị áp bức, vì nói cho cũng Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn. Ông phác họa bức tranh phố huyện nghèo, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của nó. Bức tranh làng quê mù xám với những con người nhỏ nhoi đáng thương ấy thấm đẫm niềm cảm thương chân thành của tác giả đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm. Qua bức tranh ảm đạm của phố huyện và qua hình ảnh của những con người bé nhỏ với chút hi vọng le lói, ta thấy được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó cho những con người lao động nghèo khổ.

Dàn ý chi tiết:

1.1. Thời gian:

- Thời gian nơi phố huyện nghwò trong truyện ngắn Hai đứa trẻ dương như ngưng đọng ,vì sự trôi đi hết sức chậm cạhp:Tiếng trống thu không gọi buổi chiều về.Buổi chiều như còn mải mê ở tận đâu. Đến tiếng trống thu không cũng chẫm rãi ,gọi nhưng chưa phải là thúc giục.

- Thời gian ấy là một sinh thể già cỗi, đánh giấu sự tàn lụi,già nua.Khi mặt trời sắp tắt , đó là cái giờ khắc của ngày tàn .Khi chợ vãn ,tức là lúc sự hoạt động của con người đã hết ,cũng là khi đêm đã khuya.

Thời gian ở phố huyện vì thế giới chung quanh con người .Còn chính trong thế giới của con người , âm thanh đó cũng ít ỏi chẳng kém gì.Khi chợ vãn thì những tiếng ồn ào cũng mất theo bước chân của con người. Lúc trời nhá nhem tối ,cái chợ “tự khát” mọc lên.Người ta trao đổi với nhau ,nhưng có lời ma không có tiếng.Có chăng là tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi ,một bà già hơi điên, Đó là thứ tiếng duy nhất phát ra, nhưng người ta không thấy người vì không dám nhìn ,hoặc không cần ngoảnh lại cũng biết là ai.

1.2. Không gian
- Không gian nơi phố huyện vào buổi chiều tối là không gian mà bốn tối chiếm dần,chiếm đầy. Đến đôi mắt của con người (Liên) ,bóng tối cũng ngập đầy dần.Thứ bóng tối ấy trong truyện , được nhà văn miêu tả như một nhân vật .Nó chẫm rãi bước tới nhưng không ai cưỡng lại được. Ban đầu,người ta biết nó đến khi tiếng trống thu không vang lên ,lớn dần, nhiều hơn khi trời nhá nhem ,rồi chứa đầy các đường phố và các con ngõ con.Chưa đủ,cả con đường thăm thẳm ra sông ,con đường qua chợ về nhà,các ngõ vào làng nơi đâu cũng tối hết cả .Tới khi bóng tối bao bọc chung quanh thì phố huyện trở thành thế giới của bóng tối.

- Trong cái không gian chứa đầy bóng tối ấy,sự hiện diện của ánh sáng càng làm bóng tối sẫm đen hơn . Ánh sáng mặt trời đỏ rực như lửa của hòn than sắp tàn.Chống lại bóng tối ,con người thắp đèn lên.Nhưng những ánh đèn leo lét khiến chi họ thêm lẻ loi, đơn chiếc trong một thế giới mà bóng tối đang lần lượt :Những nguồn sáng ấy đều chiếu ra ngoài phố khiến cát lấp lánh từng chỗ và đường mấp mô thêm vì những hòn đá nhỏ một bên sáng,một bên tối. Ánh đèn nơi gánh phở của bác Siêu chỉ là chiếu sáng nhỏ một vùng đất cát với trong cửa hàng . Ánh sáng ngọn đèn của Liên ,ngọn đèn vặn nhỏ thưa thớt từng hạt sáng lọt qua phến nứa.Về phía huyện ,chỉ thấy một chấm lửa nhỏ và lơ lửng đi trong đêm tối.

2. Bức tranh đời sống con người :

2.1 Sự nghèo khổ:

- Trẻ con nhà nghèo lom khom trên mặt đất đẻ nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre ,hay bất cứ thư gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại.

- Phố đêm nhưng chỉ cái hàng nước của chị Tý ;gánh phở của bác Siêu; vợ chồng bác Xẩm.

- Chị em Liên :Cả nhà bỏ Hà Nội về quê , vì thầy Liên mất việc .Một gian nhà bé thuê lại của bà lão móm,ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình ;bố mẹ Liên làm hàng xáo.Liên trông thấy trẻ em nghèo động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để cho chúng nó.

2.2 Sự đơn điệu:

- Công việc lặp lại ,tẻ nhạt ,có phần máy móc :Chị Tý hàng ngày đi mò cua bắt tép ,tối đến mới dọn cái gánh hàng nước dưới gốc cây bàng,chả kiếm được bao nhiêu.Bác Siêu lặng lẽ gánh phở ra phố rồi lầm lũi gánh về .Khi đoàn tầu đi qua ,hoạt động của một ngày chấm dứt ,cả phố rơi vào bóng đêm .

- Sự đơn điệu ,tẻ nhạt hiện lên cả trên nét mặt ,cử chỉ ,lời nói của từng con người .Trong truyện ,thỉnh thoảng có những mẩu đối thoại ,nhưng lời đó là những lời chiếu lệ,bởi có lẽ ngày nào người ta cũng hỏi và trả lời những câu đấy.Thành ra ,khi Liên hỏi Tý vì sao dọn hàng muộn thì chị Tý để chõng xuốn đất ,bày biện các bát uống nước mãi rồi mới chép miệng trả lời trả lời.Sau khi kê xong chõng , ghế , dịch ngọn đèn Hoa Kì lại ngồi têm trầu trong lúc thằng con loay hoay nhóm lửa nấu nồi nước chè ,bấy giờ chị Tý mới ngẩng đầu lên nói với Liên câu thứ hai trong buổi tối .Mà đó là một trong ba câu nói của chị Tý trong buổi tối rất dài từ lúc mặt trời chưa tắt đến giữa khuya!

Sự đơn điệu không riêng gì ở Tý .Một buổi chiều tối bác Siêu chỉ nói có hai câu.Câu trước là lời đáp vẩn vơ :Hôm nay là lúc bác nghển cổ nhìn ra phía ga lên tiếng: Đèn ghi đã ra kia rồi .Ngay cả chị em Liên ,những người trẻ nhất ở phố huyện ,sự đơn điệu còn hiện ra ở cách tính toán hàng bán cuối ngày ,trong dánh đi ,dáng ngồi.

Sự vô vọng:

- Cuộc sống ngưng đọng ,con người sống tẻ nhạt .Người ta buồn không rõ nguyên do gì cụ thể ,nhưng bàng bạc ,man mác hết cõi lòng. Người cảm nhận sâu sắc nhất nỗi buồn ấy chính là Liên .Cứ n\mỗi chiều,khi đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần thì cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn thơ ngây của chị.Liên không hiểu sao ,nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.

- Con người không có gì để chờ đợi ,mơ ước ngoài việc hằng đêm trông thấy chuyến tàu đi qua .Nhưng đoàn tầu ấy đến rồi đi thoáng chốc để lại phố huyện tịch mịch và đầy bóng tối.

3. Cảm nhận về bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo:

3. 1. Đó là bức tranh chân thật và đầy xúc động về số đông những con người bình thường trong xã hội cũ,trước năm 1945 .Họ không chỉ nghèo khó về vật chất mà còn thiếu thốn cả niềm vui tinh thần.

3. 2. Phản ánh chân thực bức tranh đời sống ấy,Thạch Lam đã âm thầm bày tỏ tiếng nói đầy thương đối với những kiếp người nhỏ bé mcơ cực ,sống quẩn quanh ,bế tắc không hạnh phúc ,không tương lai ,những con người bị chôn vùi trong những kiếp sống vô danh,vô nghĩa ở xã hội cũ. Đây cũng chính là nét đặc sắc trong tư tưởng nhân đạo của Thạch Lam khi ông tỏ ra hết sức nhạy cảm với những thân phận bé nhỏ ,những kiếp sống tù mù ,dờ dật trong bóng tối.

Bài làm:

Nếu như các nhà văn thuộc Tự Lực Văn Đoàn miêu tả cuộc sống với tất cả những gì đẹp nhất ,tronh sáng nhất thì Thạch Lam lại tìm cho mình một lối đi riêng.Dưới con mắt của ông , đời không chỉ có tình yêu mãnh liệt đến quên cả trời đất ,quên cả mọi người mà còn có cả những nỗi đau .Ngòi bút Thạch Lam hoà cùng cuộc sống ,lách vào sâu những ngõ ngách tâm hồn con người để từ đó chắt lọc ra cả một bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo (Hai đứa trẻ) mà ở đó bóng tối đè nặng lên cuộc sống cùng cực ,lẩn quẩn của con người.

Bức tranh đời sống phố huyện bắt đầu với cảnh nhá nhem tối và kết thúc với cảnh chờ tầu của chị em Liên và mọi người.Toàn bộ bức tranh là bóng tối ,bóng tối lan toả ,bao trùm lên cảnh vật ,tạo nên bầu không khí nặng nề ,u uất.Dường như cuộc sống ở đây chỉ có một mầu đen xám xịt .Bóng tối ở rặng tre ,bóng tối ở góc quán ,bóngtối ở ánh sáng lập loè của đom đóm. Tất cả ,tất cả đều chìm vào bóng tối .Cuộc sống con người nơi phố huyện vốn đã không sung túc gì lại bị màn đêm bao trùm , đè nặng lại càng trở nên côi cút ,lẻ loi đến tội nghiệp . Đâu đó vài đứa trẻ nhặt nhạnh nơi góc chợ hoang vắng vào lúc nửa đêm .Chị em Liên quanh quẩn cùng quán hàng xén vốn đã vắng khách .Hàng phở của bác Siêu lặng lẽ lăn bánh ...Những hình ảnh lẻ loi , đơn chiếc ấy cùng vài ánh sáng nhỏ nhoi không đủ để xua tan bóng tối dày đặc ,lan toả đang dần đẻ lên cuộc sống của họ -những con người mà số lượng có thể đếm được trên đầu ngón tay “mấy chú” , “mấy người” .Bóng tối cùng người bạn đồng hành của mình là sự im lặng đã thống trị trên cõi người .Thời gian bỗng chốc trở nên im lặng , uất ức đén kỳ lạ. Không gian bị thu hẹp còn vài mảnh đời nho nhỏ .Không khí nặng nề như dồn nén bao nhiêu uất nghẹn của kiếp người .Bửctanh ấy gợi lên bao nỗi xót xa.

Nhưng Thạch Lam -người nghệ sĩ của tâm hồn ấy ,không dừng lại ở khắc hoạ bóng tối.Bóng tối đã đáng sợ nhưng cuộc sống quẩn quanh ở góc phố còn đáng sợ hơn .Họ ở đây chỉ toàn những người nghèo . Đó là gia đình chị em Liên ở do túng quẫn mà phải về phố huyện. Đó là bà cụ Thi hơi điên;là gia đình bác Xẩm ;là gánh hàng chị Tý ;là quán phở của bác Siêu... Những mảnh đời nghèo khó nơi phố huyện tụ họp lại không đủ để làm nên cuộc sống ồn ào.Cả một sự tẻ nhạt đén kinh khủng hiện ra .Chỉ qua một chi tiết nhơ:Chị em Liên không ngoái lại cũng biết tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi ,nhìn đốm sáng xanh lúc ẩn lúc hiện đằng xa cũng biết là gánh phở của bác Siêu .Dường như bao năm ,bao tháng rồi họ chỉ một công việc lặp đi lặp lại đó.Một công việc nhàm chán ,tẻ nhạt như chính cuộc đời họ.Nhưng sự việc ấy làm cho cuộc sống của họ thêm tù túng ,ngột ngạt ,không có lối thoát ,không biết đi đâu . Đối với họ,tương lai dường như không có mà chỉ có thực tại u buồn,quẫn bách .Trước mắt họ ,tương lai đã khép kín cánh cửa. Họ không hy vọng điều gì ,không ngóng đợi ai .Hiện tại chỉ là những nghèo khó,cơ cực ,tù túng cùng những công việc nhàm chán .Bức tranh ấy xoay lên nỗi đau trong tâm hồn độc giả ,bật lên thành những tiếng kêu uất ức mà không có lời giải đáp.

Tất cả những hành động ,sự việc và cuộc đời con người ở phố huyện nghèo đều lặp lại và nhàm chán.Duy chỉ có con tàu tuy vẫn lặp lại nhưng không nhàm chán .Con tàu là hiện thân của ước vọng ,của tương lai đối với mọi người .Ho tìm kiếm với con tàu ,chờ đợi nó không phải chỉ để buôn bán mà còn đón chờ một cái gì lạ lẫm đối với cuộc sống chung quanh vốn đã đơn điệu .Con tàu đó với tiếng máy gầm phá tan bầu không khí vốn u uất lặng nề, với ánh sáng chói lọi ,rực rrỡ xé toang màn đêm bao phủ rồi lại rơi vào tối tăm như cũ .Với chị em Liên ,con tàu còn là hiện thân của quá khứ huy hoàng với cuộc sống sung túc ở Hà Nội ,là chút gì mới mẻ ở hiện tại và cả niềm mơ ước ở tương lai.Hình ảnh con tàu vụt qua đã làm giảm bớt sự bế tắc tù túng của cuộc sống để lại ước mơ - một ước mơ hết sức tội nghiwpj cho mõi con người ...

Nếu như nhà văn thuộc Tự Lực Văn Đoàn đã xa rời thực tại ,thi vị hoá cuộc sống thì Thạch Lam lại gắn chặt với ngòi bút với đời sống ,dù ông là thành viên củ cốt của văn đàn ấy.Nếu đồng nghiệp của ông ca ngợi tình yêu khi say đắm ,khi đâu đớn ,lúc xô bờ (Hồn bướm mơ tiên, trăng sáng ,tình tuyệt vọng...)thì Thạch Lam lại đến với tình người. Văn chương Thạch Lam lay động đến cõi sâu thẳm của tâm hồn con người và thức tỉnh họ bằng những nỗi đau.Với phong cách vừa lãng mạn ,vừa hiện thực ,ngòi bút Thạch Lam thực sự xuất xắc khi viết về cuộc sống con người nghèo khổ ,cùng nỗi đau âm thầm ,nhẹ nhàng nhưng khi sắp sách lại ta không sao quên được. Không phải là những nụ cười đến thắt ruột ,cười ra nước mắt của Nguyễn Công Hoan ,không phải là cái xót xa đến tận xương tuỷ như Nam Cao nhưng những trang văn nhẹ nhàng ,tinh tế và sâu lắng của Thạch Lam đã lột tả hết cuộc sống phố huyện và cũng là cuộc sống của xã hội Việt Nam tù túng ,ngột ngạt đương thời , đem đến cho người đọc những tình cảm thương xót đầy tính nhân bản.

Dù chưa mạnh mẽ và nhất quán ở hành động như một số nhà văn giàu tính cách mạng ,nhưng với quan niệm nghệ thuật sâu sắc và đúng đắn :Văn chương không phải là một cách để thoát ly hay lãng quên ,mà trái lại ,văn chương “phải thực sự là thứ vũ khí thanh cao và đắc lực”,là tiếng kêu thương thoát ra từ những kiếp lầm than ,khổ cực ,Thạch Lam đã khác xa với những nhà văn lãng mạn cùng thời và bức phù điêu quý giá ấy của ông nơi Hai đứa trẻ sẽ còn mãi xúc động đối với người đọc.


Nguồn: http://tuoitrequynhon.com/forum/showthread.php?t=21997#ixzz1cT9v5oU9


Nguồn: http://tuoitrequynhon.com/forum/showthread.php?t=21997#ixzz1cT9rLFni

thương vợ

Make A Wish !

Make a wish in this virtual wishing well and it will come true.

milliondollarwishingwell.com


Thơ xưa viết vế người vợ đã ít; mà viết về người vợ khi còn sống càng hiếm hoi hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời. Kể cũng là điều nghiệt ngã khi người vợ đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca. BàTú Xương có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được: Ngay lúc còn sống bà đã đi vào thơ ông Tú Xương với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. Trong thơ Tú Xương, có một mảng lớn viết về người vợ mà bài "Thương vợ" là một trong những bài xuất sắc nhất.

Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao và phẩm chất cao đẹp của người vợ. Câu thơ mở đâu nói hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú. Hoàn cảnh vất vá, lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nêu địa điểm. Quanh năm là suốt cả năm, không trừ ngày nào dù mưa hay nắng. Quanh năm còn là năm này tiếp năm khác đến chóng mặt, đến rã rời chứ đâu phải chỉ một năm. Địa điểm bà Tú buôn bán là mom sông, cái doi đất nhô như lời giới thiệu, lại như một bối cảnh làm hiện lên hình bà Tú tần tảo, tất bật ngược xuôi:

Quanh năm buôn bán ở mom sông..

Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có diều hình ảnh con cò trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian (như con cò trong ca dao) mà cái rợn ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba từ khi quãng vắng, tác giả đã nói lên được cả thời gian, không gian heo hút, rợn ngợp, chứa đầy lo âu cái rợn ngợp của thời gian, đã làm hao hụt cả ý thơ. So với câu ca dao: Con cò lặn lội bờ sông, câu thơ của Tú Xương: Lặn lội thân cò khi quãng vắng là cả một sự sáng tạo. Cách đảo ngữ - đưa ra từ lặn lội lên đầu cáu, cách thay từ - thay từ con cò bằng thân cò - càng làm tăng nỗi vất vá gian truân của bà Tú. Từ thân cò gợi cả nỗi đau thân phận, so với từ con của Tú Xương cũng sâu sắc thấm thía hơn.

Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú:

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Câu thơ gợi cảnh chen chúc, bươn chải trên sông nước của những người buôn bán nhỏ. Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn khi quãng vắng. Trong ca dao, người mẹ từng đặn con rằng:

. Con ơi nhớ lấy câu này
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua.

Buổi đò đông không chi có những lời phàn nàn, mè nheo, cáu gắt, những sự chen lấn, xô đẩy mà còn chứa đầy bất trắc hiểm nguy. Hai câu thực đối nhau về ngữ (khi quãng vắng đối với buổi đò đông) nhưng lại thừa tiếp nhau về ý để làm nổi bật sự vất vá gian truân của bà Tú: đã vất vả, đơn chiếc, lại thêm sự bươn chải trong hoàn cảnh chèn chúc làm ăn. Hai câu thực nói thực cảnh bà Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương, đó là tấm lòng xót thương da diết.

Cuộc sống vất vả gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp của bà Tú. Bà là người đảm đang tháo vát:

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chất chứa bao tình ý, từ đủ trong nuôi đủ vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Bà Tú nuôi đủ cả con, cả chồng, nuôi đảm bảo đến mức:

Cơm hai bữa: cá kho rau muống
Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô
(Thầy đồ dạy học)

Trong hai câu luận, Tú Xương một lần nữa cám phục sự hy sinh rất mực của vợ:

Năm nắng mười mưa dám quản công

ờ câu thơ này, nắng mưa chỉ sự vất vả, năm mười là số lượng phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo (năm nắng mười mưa) vừa nói lên sự vất vả gian lao, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khô, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.

Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp ở phía sau, nhìn tinh mới thấy. Khi đã thấy rồi thì ấn tượng thật sâu đậm. ờ bài thơ thương vợ cũng vậy. ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ thương mà còn tri ân vợ. Về câu thơ Nuôi đủ năm con với một chồng, có người cho rằng ở đây ông Tú tự coi mình là một thứ con đặc biệt để bà Tú phải nuôi. Tú Xương đã không gộp mình với con để nói mà tách riêng, con riêng rất rạch ròi là để ông tự riêng tri ân vợ.

Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn sự hi. sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách, tự lên án bản thân. ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên nhưng duyên một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu Nợ gấp đôi duyên, duyên ít nợ nhiều. ông chửi thói đời bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ. Nhưng Tú Xương cũng không đổ vấy cho thói đời. Sự hờ hững của ông với con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo. Câu thơ Tú Xương tự rủa mát mình cũng là lời tự phán xét, tự lên án:

Có chồng hờ hững cũng như không

Ờ cái thời mà xã hội đã có luật không thành văn đối với người phụ nữ: xuất giá tòng phu (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan hệ vợ chồng thì phu xướng, phụ tùy (chồng nói, vợ theo), 'thế mà có một nhà nho đám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, đám tự thừa nhận mình là quân ăn lương vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn đám tự nhận khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao.

Nhan đề "Thương vợ" chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ về đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. ở bài thơ này, tác giả không chỉ thương vợ mà còn ơn vợ, không chỉ lên án thôi đời mà còn tự trách. Nhà thơ dám tự nhận khuyết điểm, càng thấy mình khiếm khuyết càng thương yêu, quý trọng vợ hơn.

Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻso với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ánh và ngôn ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc.

Mình sẽ gợi ý cho bạn những luận điểm chính về tâm trạng đợi tàu:

_Trước hết mình nên tìm hiểu nguyên nhân khiến 2 chị em Liên đợi tàu, họ đợi tàu ko fải để bán được hàng mà đợi tàu vì muốn nhìn thấy hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Nói sâu xa ra nó xuất fát từ cuộc sống tù túng nghèo nàn và tâm hồn fong fú đa cảm của 2 đứa trẻ

_Đoàn tàu như mang 1 thế giới khác đi wa, "Một thế gới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu", thế giới đó chứa chan những giàu sang, hạnh phúc.

_Đoàn tàu mang theo 1 niềm hi vọng, là thứ ánh sáng của "chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi 1 cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ"

_Dù đã đến đêm khuya, 2 chị em vẫn thức để đợi tàu : "An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt. Tuy vậy hai chị em vẫn gượng để thức khuya chút nữa", "An đã nằm xuống gối đầu lên đùi chị, mi mắt sắp sửa rơi xuống, còn dặn với:_Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé." -> đợi tàu trong 1 sự mệt mỏi ko chỉ về tinh thần mà còn về thể chất

_Sở dĩ 2 chị em chịu khó như vậy vì nhìn tàu là hành động thỏa mãn thị giác & tư tưởng những tâm hồn thơ dại đồng thời cũng nhìn thấy rõ cuộc sống tù đọng ảm đạm nơi đây

_Ngoài ra, chuyến tàu còn gợi nhắc cho 2 chị em những kỉ niệm xa xăm ở Hà Nội khi thầy chưa mất việc, Liên "được hưởng những thức quà ngon lạ - bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền - được đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ"

===>>Thạch Lam đã thể hiện niềm trân trọng, thương xót đối với những kiếp người nhỏ bé nghèo nàn tăm tối & buồn chán nơi fố huyện.

Câu 1:   Nêu ngắn gọn giá trị nghệ thuật của hình ảnh chuyến tàu đêm trong trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam)

Hai đứa trẻ là một trong những truyện ngắn thường được nhắc tới nhiều nhất của Thạch Lam. Hình ảnh chuyến tàu đêm chạy qua một phố huyện nghèo thời trước đã được Thạch Lam miêu tả rất khéo léo, đã nổi lên thành một hình ảnh đầy ý nghĩa, bộc lộ chủ đề của tác phẩm.

Bối cảnh cho chuyến tàu đêm xuất hiện là cuộc sống buồn tẻ, đơn điệu, đáng thương nơi phố huyện. Nơi ấy chỉ có bóng tối và sự im lặng, hoang vu và nỗi buồn. Chính giữa khung cảnh, hai chị em Liên chờ đợi chuyến tàu trong tâm trạng khắc khoải. Đó là chuyến tàu hàng đêm từ Hà Nội đi qua phố huyện chỉ trong mấy phút.

Chuyến tàu vừa là hình ảnh giúp người đọc nhận ra hiện thực khốn khó, vừa là biểu trưng cho khát vọng của nhưng con người nhỏ bé nơi phố huyện.

Cư dân phố huyện cũng như hai chị em Liên ngồi đợi tàu để bán cho được những món hàng nhỏ nhoi như: bao diêm, cuộn chỉ, bánh xà phòng lẻ… Đấy là “cơ hội” để sinh nhai, độ nhật qua ngày. Nó cũng là hình ảnh để tô đậm sự thiếu hẳn ánh sáng và niềm vui của còn người khi chuyến tàu là hình ảnh hiếm hoi duy nhất trong ngày đem đến mơ ước cho cư dân phố huyện.

Thế nhưng cái quan trọng hơn cả là chuyến tàu ấy chuyên chở một Hà Nội đầy những kỷ niệm êm đềm, đẹp đẽ và rực rỡ ánh sáng. Hình ảnh đoàn tàu với Liên mang một vẻ đẹp của ngày qua. Ở đó, lặng theo mơ tưởng, một thế giới hoài niệm nơi ký ức sâu đằm hiện lên ngân nga một dư vị ngọt ngào. Đó là một trang cổ tích ngày xưa bỏ quên ở Bờ Hồ, nơi hai chị em đã từng ”uống cốc nước lạnh xanh đỏ thần tiên”. Quá vãng đã trào lên muôn sắc hào quang, dù không rõ rệt nhưng vẫn hấp dẫn và quyến rũ mê hồn. Vì vậy, Liên vừa cố thức để ”may ra còn có người mua”, vừa muốn được nhìn chuyến tàu. Đó là hạnh phúc duy nhất trong ngày, và phải chăng còn là mơ ước cả một đời ở con người.

Vì thế con tàu trong mắt Liên đồ sộ lạ lẫm và đi với tốc độ phi thường, vừa tới đã vụt qua. Và cô bé đã xốn xang như uống lấy tiếng động của nó, sắc màu của nó. Các toa đèn đều sáng trưng… những toa hạng trên sang trọng, lố nhố người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Đoàn tàu đi qua nhưng tâm hồn chị em Liên thì vẫn gửi hút theo nó mãi, nhìn nó để lại trong đêm tối những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt… cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh… xa xa mãi rồi đi khuất sau rặng tre.

Thế nhưng, như một thứ trò chơi của số phận, con tàu mà Liên ngưỡng mộ khát khao đến rồi đi, trả lại cho cuộc đời thực cái bóng đêm cố hữu như số phận. Nó chỉ là một con sóng đột nhiên dội tới mặt nước bằng phẳng từ hãm của cuộc đời. Cái còn lại sau đó là môt bầu trời đầy sao, và Liên cũng như bao con người khuất lấp khác lại tiếp tục lầm lũi cẩn thận gài then cửa, vặn nhỏ ngọn đèn, khép lại cánh cửa thường nhật để gieo mình câm lặng trong bóng tối. Nhưng ngày mai, ngày mai lại bắt đầu, và giấc mơ của Liên sẽ trở lại,…

Đọc xong Hai đứa trẻ, người đọc không thể không ngẫm nghĩ về ý nghĩa sâu xa của hình ảnh chuyến tàu đêm mà Thạch Lam đã cố tình miêu tả nó để làm nổi lên thật rõ cuộc sống buồn tẻ đáng thương của hai chị em Liên? Với các em, chuyến tàu ấy là tất cả niềm vui và hi vọng. Đó là Hà Nội trong quá khứ êm đềm xa xôi. Đó là niềm vui duy nhất để giải toả cho tâm trí sau một ngày mệt mỏi, đơn điệu và buồn chán. Đó là âm thanh, ánh sáng, vẻ lấp lánh, của một cuộc đời mà các em hi vọng, một cuộc đời khác, hoàn toàn không giống với cuộc đời nghèo nàn và tẻ nhạt nơi phố huyện.

Mặt khác, ở khía cạnh chọn lựa hình ảnh để miêu tả hiện thực, hình ảnh chuyến tàu tàu đêm mà Thạch Lam khắc họa trong truyện còn giúp nhà văn thể hiện được tinh thần lãng mạn của trào lưu lãng mạn chủ nghĩa của Tự Lực văn đoàn.

Hai đứa trẻ không thuộc loại truyện hấp dẫn người đọc, nhưng lại có sức ám ảnh mạnh mẽ vì hình ảnh, chi tiết và ngôn ngữ biểu hiện, đặc biệt thái độ yêu thương, trân trọng của nhà văn giành cho các nhân vật bé nhỏ của mình.

  Đề 1:  Phân tích bức tranh phố huyện nghèo trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam)

Hai đứa trẻ tuy chưa phải là truyện ngắn hay nhất nhưng lại khá tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam: bình dị, nhẹ nhàng mà tinh tế, thâm thuý. Đó là một câu chuyện của phố huyện nghèo với những con người bé nhỏ, tội nghiệp đang âm thầm sống trong bóng tối. Nhưng hình ảnh tầm thường ấy, qua tấm lòng nhân hậu, qua ngòi bút tinh tế, giàu chất thơ của Thạch Lam lại như có linh hồn, lung linh muôn màu sắc, có khả năng làm xao động đến chỗ thầm kín và nhạy cảm nhất của thế giới xúc cảm, có khả năng đánh thức và khơi gợi biết bao tình cảm xót thương, day dứt, dịu dàng, nhân ái.

Truyện dường như chẳng có gì: hầu như không có cốt truyện, chẳng có xung đột gay cấn. Đó là câu chuyện của một vài mảnh đời thường bình lặng của một phố huyện nghèo từ lúc chiều xuống cho tới đêm khuya, với hương vị màu sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng trống thu không cất trên một chiếc chòi nhỏ, một ráng chiều ở phía chân trời, một mùi vị âm ẩm của đất, tiếng chó sủa, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve… những âm thanh của mấy người bé nhỏ, thưa thớt, một quán nước chè tươi, một gánh hàng phở, một cảnh vãn chợ chiều với vỏ nhãn, vỏ thị, rác rưởi và những đứa trẻ con nhà nghèo đang cúi lom khom tìm tòi, nhặt nhạnh, một đoàn tàu đêm lướt qua… và nỗi buồn mơ hồ với những khao khát đến tội nghiệp của “Hai đứa trẻ”

Ít có tác phẩm nào hình ảnh đêm tối lại được miêu tả đậm đặc, trở đi trở lại… như một ám ảnh không dứt như trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Tác phẩm mở đầu bằng những dấu hiệu của một “ngày tàn” và kết thúc bằng một “đêm tịch mịch đầy bóng tối”.  Màu đen và bóng tối bao trùm và ngự trị tất cả: đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối, tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Một tiếng trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn, khô khan, không vang động ra xa, rồi cũng chìm ngay vào bóng tối… Cả đoàn tàu từ  Hà Nội mang ánh sáng lướt qua trong phút chốc rồi cũng “đi vào đêm tối”

Trong cái phông của một khung cảnh bóng tối dày đặc này, là những mảnh đời của những con người sống trong tăm tối. Họ là những con người bình thường, chỉ xuất hiện thoáng qua, hầu như chỉ như một cái bóng, từ hình ảnh mẹ con chị Tí với hàng nước tồi tàn đến một gia đình nhà xẩm sống lê la trên mặt đất, cho đến cả những con người không tên: một vài người bán hàng về muộn, những đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom nhặt nhạnh, tìm tòi… Tất cả họ không được Thạch Lam miêu tả chi tiết: nguồn gốc, xuất thân, số phận, nhưng có lẽ nhờ thế mà số phận họ hiện lên càng thêm bé nhỏ, tội nghiệp, ai cũng sống một cách âm thầm, nhẫn nhục, lam lũ.

Văn Thạch Lam là như thế: nhẹ về tả, thiên về gợi và biểu hiện đời sống bên trong: sống trong lặng lẽ, tăm tối nhưng giữa họ không thể thiếu vắng tình người. Qua những lời trao đổi và những cử chỉ thân mật giữa họ ta nhận ra được mối quan tâm, gắn bó. Và tất cả họ dường như đều hiền lành, nhân hậu qua ngọn bút nhân hậu của Thạch Lam.

Nhưng giữa bấy nhiêu con người, nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới tâm hồn của “hai đứa trẻ”: Liên và An. Chúng chưa phải là loại cùng đinh nhất của xã hội nhưng là tiêu biểu cho những con nhà lành, đang rơi vào cảnh nghèo đói, bế tắc vì sa sút, thất nghiệp.

Không phải ngẫu nhiên tác giả lấy “Hai đứa trẻ” để đặt tên cho truyện ngắn của mình. Mở đầu tác phẩm, ta bắt gặp hình ảnh Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị” “chị thấy buồn man mác trước cái giờ khắc của “ngày tàn”. Thạch Lam không miêu tả tỉ mỉ đời sống vật chất của họ, nhà văn chủ yếu đi sâu thể hiện thế giới tinh thần của Liên với nỗi buồn man mác, mơ hồ của một cô bé không còn hoàn toàn trẻ con, nhưng cũng chưa phải là người lớn. Tác giả gọi “chị” là vì quả Liên là một người chỉ biết quan tâm săn sóc em bằng tình cảm trìu mến, dịu dàng, biết đảm đang tảo tần thay mẹ nhưng tâm hồn Liên thì vẫn còn là tâm hồn trẻ dại với những khao khát hồn nhiên, thơ ngây, bình dị.

Ở đây, nhà văn đã nhập vào vai của “hai đứa trẻ”, thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ và diễn tả cái thế giới tâm hồn trong sáng của chị em Liên: hình ảnh bóng tối và bức tranh phố huyện mà ta đã nói trên kia được cảm nhận chủ yếu từ nỗi niềm khao khát của hai đứa trẻ. Tâm hồn trẻ vốn ưa quan sát, sợ bóng tối và khát khao ánh sáng. Bức tranh phố huyện hiện ra chính là qua tâm trạng này: “Hai chị em gượng nhẹ (trên chiếc chõng sắp gãy) ngồi yên nhìn ra phố…”. Liên trông thấy “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi” nhưng “chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó…”. Trời nhá nhem tối, bây giờ chị em Liên mới thấy thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra… Hai chị em Liên đứng sững nhìn theo bà cụ Thi đi lẫn vào bóng tối… “Hai chị em đành ngồi yên trên chõng đưa mắt theo dõi những người về muộn từ từ đi trong đêm”… “Từ khi nhà Liên dọn về đây… đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang cảnh phố xung quanh”…

Đêm tối đối với Liên “quen lắm, chị không sợ nó nữa”. “Không sợ nó nữa” nghĩa là đã từng sợ. Chỉ mất từ “không sợ nó nữa” mà gợi ra bao liên tưởng. Hẳn là Liên đã từng sợ cái bóng tối dày đặc đã từng bao vây những ngày đầu mới dọn về đây. Còn bây giờ Liên đã “quen lắm”. Sống mãi trong bóng tối rồi cũng thành quen, cũng như khổ mãi người ta cũng quen dần với nỗi khổ. Có một cái gì tội nghiệp, cam chịu qua hai từ “quen lắm” mà nhà văn dùng ở đây.

Thế nhưng ngòi bút và tâm hồn của Thạch Lam không chỉ dừng ở đấy. Camchịu nhưng cũng không hoàn toàn cam chịu, nhà văn đã đi sâu vào cái nỗi thèm khát ánh sáng trong chỗ sâu nhất của những tâm hồn trẻ dại. Ông dõi theo Liên và An ngước mắt lên nhìn vòm trời hàng vạn ngôi sao lấp lánh để tìm sông Ngân hà và con vịt theo sau ông thần nông như trẻ thơ vẫn khao khát những điều kì diệu trong truyện cổ tích. Nhưng vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật, lại quá xa lạ làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát, hai em lại cúi nhìn về mặt đất, và quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động của chị Tí… Nhà văn chăm chú theo dõi từ cử chỉ, ánh mắt của chúng và ghi nhận lại thế thôi. Nhưng chỉ cần thế, cũng đủ làm nao lòng người đọc. Sống mãi trong bóng tối, “quen lắm” với bóng tối, nhưng càng như thế, chúng càng khát khao hướng về ánh sáng, chúng theo dõi, tìm kiếm, chỉ mong ánh sáng đến từ mọi phía: từ “ngàn sao lấp lánh trên trời”, đếm từng hột sáng lọt qua phên nứa, chúng mơ tưởng tới ánh sáng của quá khứ, của những kỉ niệm về “Hà Nội xa xăm”, “Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo” đã lùi xa tít tắp; chúng mải mê đón chờ đoàn tàu từ Hà Nội về với “các toa đèn sáng trưng”; chúng còn nhìn theo cả cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng xa xa mãi…

Đó là thế giới của ao ước, dù chỉ là một ao ước nhỏ nhoi, dù chỉ như là một ảo ảnh. Không có một tấm lòng nhân ái sâu xa, không hiểu lòng con trẻ, không có một tâm hồn nhạy cảm giàu chất thơ thì không thể diễn tả tinh tế đến thế nỗi thèm khát ánh sáng của những con người sống trong bóng tối.

Đọc Hai đứa trẻ, ta có cảm giác như nhà văn chẳng hư cấu sáng tạo gì. Mọi chi tiết giản dị như đời sống thực. Cuộc sống cứ hiện lên trang viết như nó vốn như vậy. Nhưng sức mạnh của ngòi bút Thạch Lam là ở đấy. Từ những chuyện đời thường vốn phẳng lặng, tẻ nhạt và đơn điệu, nhà văn đã phát hiện ra một đời sống đang vận động, có bề sâu, trong đó ánh sáng tồn tại bên cạnh bóng tối, cái đẹp đẽ nằm ngay trong cái bình thường, cái khao khát ước mơ trong cái nhẫn nhục cam chịu, cái xôn xao biến động trong cái bình lặng hàng ngày, cái tăm tối trước mắt và những kỉ niệm sáng tươi…

Nét độc đáo trong bút pháp Thạch Lam là ở chỗ: nhà văn đã sử dụng nghệ thuật tương phản một cách hầu như tự nhiên, không chút tô vẽ, cường điệu, và nhờ thế, bức tranh phố huyện trở nên phong phú, chân thật, gợi cảm.

Đọc Hai đứa trẻ ta bị ám ảnh day dứt không thôi trước đêm tối bao trùm phố huyện và xót xa thương cảm trước cuộc đời hiu quạnh cam chịu của những con người sống nơi đây. Nhưng Hai đứa trẻ cũng thu hút ta bởi cái hương vị man mác của đồng quê vào một “chiều mùa hạ êm như ru”“một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”… Nó làm sống lại cả một thời quá vãng, nó đánh thức tình cảm quê hương đậm đà, và làm giàu tâm hồn ta bởi những tình cảm “êm mát và sâu kín”.

  Đề 2:  Phân tích tâm trạng chị em Liên đêm đêm cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua phố huyện trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam)

Hai đứa trẻ là một trong những truyện ngắn thường được nhắc tới nhiều nhất của Thạch Lam. Hình ảnh chuyến tàu đêm chạy qua một phố huyện nghèo thời trước đã được Thạch Lam miêu tả rất khéo léo, đã nổi lên thành một hình ảnh đầy ý nghĩa, bộc lộ chủ đề của tác phẩm. Và hai chị em Liên đã cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua phố huyện.

Bối cảnh cho chuyến tàu đêm xuất hiện là cuộc sống buồn tẻ, đơn điệu, đáng thương nơi phố huyện. Thạch Lam đã chọn được thời điểm để làm nổi bật những tính chất ấy. Truyện bắt đầu từ tiếng trống thu không dội xuống phố huyện, từng tiếng, từng tiếng mỏi mòn, giữa lúc trên bầu trời, ánh ngày đang dần nhường chỗ cho bóng hoàng hôn, “phương tây đỏ rực lên như lửa” báo hiệu một ngày đang tắt. Đêm tối sẽ đem tới cho phố huyện những gì? Chỉ có bóng tối, sự im lặng, mà tiếng ếch nhái ngoài đồng, tiếng muỗi kêu trong nhà, lại khiến cho nó càng trở nên vắng lặng, hoang vu, buồn bã hơn.

Khi phiên chợ chiều đã vãn, những ồn ào tấp nập của buổi chợ đã tan đi, để lại phố huyện nghèo nàn, tiêu điều, xơ xác. Những đứa trẻ con lom khom tìm kiếm trên cái nền chợ xơ xác ấy, giữa những rác rưởi mà phiên chợ bỏ lại, mong tìm được chút gì đỡ cho cuộc sống. Thật là một chi tiết đầy ý nghĩa và rất gợi cảm về cái nghèo.

Rồi đêm xuống. Cuộc sống có xôn xao động đậy được chút nào chăng? Quả cũng có xôn xao một chút đấy, nhưng không vì thế mà vẻ nghèo, vẻ buồn của cuộc sống lại bớt đi. Bắt đầu là ngôi hàng nước của con chị Tí, với chiếc võng con, vài ba cái bát, một điếu hút thuốc lào… bày ra rồi lại thu vào vì vắng khách. Tiếp đến là gánh phở có ngọn lửa bập bùng của bác Siêu, cũng vắng khách vì đó là thứ quá xa xỉ (?).

Chính giữa cảnh tiêu điều như vậy của phố huyện, hai chị em Liên chờ đợi chuyến tàu trong tâm trạng khắc khoải. Đó là hai đứa trẻ đã từng có những ngày sống ở một nơi không đến nỗi nghèo khổ và tối tăm như thế. Với chúng, nhất là với bé Liên, nơi ấy Hà Nội luôn đọng lại như một kỷ niệm xa xôi và mơ hồ nhưng bao giờ cũng êm đềm, đẹp đẽ và rực rỡ ánh sáng. Còn giờ đây, nơi phố huyện, cuộc sống của chúng thiếu hẳn ánh sáng và niềm vui. Ngày nào cũng giống hệt ngày nào, chúng chờ bán cho người ta những món hàng nhỏ nhoi không hề thay đổi: một bao diêm, một cuộn chỉ, mấy bánh xà phòng…

Chiều chiều, trong bóng chập choạng của hoàng hôn và trong tiếng muỗi vo ve, hai chị em cặm cụi kiểm đếm số tiền bé nhỏ bán được trong ngày. Chi tiết về chiếc chõng tre cũ, sắp gãy được Thạch Lam đưa vào đây thật là đầy ý nghĩa: cuộc sống của hai đứa trẻ mới lớn lên sao mà đã sớm già nua tàn tạ! Cả chi tiết bà lão hơi điên đến mua rượu uống, cũng gợi lên bao nỗi buồn. Cái thế giới mà các em Liên và An tiếp cận ngày này qua ngày khác chỉ có thế.

May mắn thay, hai đứa trẻ đã tìm được chút niềm vui để mong đợi. Đó là hàng đêm, chuyến tàu từ Hà Nội sẽ đi qua phố huyện trong mấy phút. Thế là mỗi đêm, hai đứa trẻ lại chờ đợi chuyến tàu. Nỗi đợi chờ dường như bắt đầu khắc khoải từ khi bóng chiều đổ xuống. Rồi trong đêm tối, những ngọn đèn thắp lên ở đằng kia, bóng hai mẹ con chị Tí trên đường, ngọn lửa bập bùng của gánh phở bác Siêu, tiếng hát của vợ chồng bác xẩm mù… Với Liên, đó là những cái mốc điểm bước đi của thời gian để cô bé “xích” gần lại với chuyến tàu. Bởi thế, đã buồn ngủ ríu cả mắt, An và Liên vẫn cố chống lại cơn buồn ngủ. Cho đến khi, vì chờ đợi quá lâu trong cái không khí buồn tẻ của phố huyện, bé An không thể thức được nữa. Em gối đầu lên tay chị, mi mắt sắp sửa rơi xuống, còn dặn với:  – Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé! Thật là một cảnh chờ đợi thiết tha như mọi sự chờ đợi thiết tha ở trên đời !

Trên phố huyện ấy, giữa tâm trạng chờ đợi ấy của hai đứa trẻ, chuyến tàu đêm được Thạch Lam miêu tả tỉ mỉ và trang trọng làm sao ! Chuyến tàu được báo trước từ xa, với hình ảnh hai ba người cầm đèn lồng lung lay các bóng dài, vẻ xôn xao của những người chờ tàu, rồi ngọn lửa xanh biếc sát mặt đất như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi. Chuyến tàu đã đến cùng với tiếng còi đã rít lên. Đoàn tàu vụt qua trước mặt. Bé An đã thức dậy và tâm hồn cả hai đứa trẻ đều bị cuốn hút bởi chuyến tàu. Các toa đèn đều sáng trưng… những toa hạng trên sang trọng, lố nhố người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Đoàn tàu đã đi qua nhưng tâm hồn chị em Liên thì vẫn gửi hút theo nó mãi, nhìn nó để lại trong đêm tối những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt… cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh… xa xa mãi rồi đi khuất sau rặng tre. Giờ đây, sự tương phản giữa hình ảnh đoàn tàu với cuộc sống nơi phố huyện càng trở nên rõ rệt trong tâm trí của  đứa trẻ: đêm tối vẫn bao bọc xung quanh, đồng ruộng mênh mang và yên lặng.

Đọc xong Hai đứa trẻ, người đọc không thể không ngẫm nghĩ về ý nghĩa sâu xa của hình ảnh chuyến tàu đêm mà Thạch Lam đã cố tình miêu tả nó để làm nổi lên thật rõ cuộc sống buồn tẻ đáng thương của hai chị em Liên? Với các em, chuyến tàu ấy là tất cả niềm vui và hi vọng. Đó là Hà Nội trong quá khứ êm đềm xa xôi. Đó là niềm vui duy nhất để giải toả cho tâm trí sau một ngày mệt mỏi, đơn điệu và buồn chán. Đó là âm thanh, ánh sáng, vẻ lấp lánh, của một cuộc đời mà các em hi vọng, một cuộc đời khác, hoàn toàn không giống với cuộc đời nghèo nàn và tẻ nhạt nơi phố huyện. Có lẽ, qua truyện ngắn này, Thạch Lam đã muốn nói với chúng ta: có những cuộc đời mới đáng thương sao, có những ước mơ bé nhỏ, tội nghiệp nhưng chân thành tha thiết và cảm động làm sao !

Hai đứa trẻ không thuộc loại truyện hấp dẫn người đọc vì sự ly kỳ hay gay cấn của cốt truyện. Sức mạnh và sức sống của nó nằm trong vấn đề mà nó đặt ra và cả trong thái độ của Thạch Lam đối với cuộc sống: một thái độ ấp iu đầy lòng nhân ái. Chính thái độ ấy cũng ảnh hưởng đến cách viết của Thạch Lam: tỉ mỉ và trân trọng. Truyện tuy hơi buồn nhưng nó giúp cho con người thêm yêu thương con người.

  Đề 3:  Phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam)

Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn tiêu biểu của Tự Lực Văn Đoàn, thế nhưng ông lại có một lối đi riêng khiến văn chương của ông vừa tràn đầy vẻ đẹp lãng mạn mà vẫn đậm chất hiện thực. Truyện ngắn tiêu biểu Hai đứa trẻ của ông đã giúp người đọc không chỉ nhìn ra sự thực cuộc đời mà còn thấy được những giấc mơ lãng mạn của con người dù cho họ có bị bỏ rơi trong nghèo khổ. Và nhân vật trung tâm của câu chuyện đó là chị em Liên.

Vũ trụ nghệ thuật của Hai đứa trẻ là vũ trụ của bóng tối. Chọn cái “giờ khắc của ngày tàn” để khởi đầu trang truyện và đặt nhân vật của mình vào lòng đêm thăm thẳm, bí mật và ngập tràn bóng tối, nhà văn đã rất “hiện thực” trong việc miêu tả kiếp sống con người. Trên cái nền kiến trúc cơ bản: sáng và tối, Thạch Lam đã triển khai cuộc sống cho các nhân vật của mình, từ đó làm bật lên những điều bi thiết mà nhà văn muốn gửi gắm.

Khung cảnh Hai đứa trẻ xác xơ, tiêu điều và ngập đầy bóng tối. Thế giới nhân vật hiện hình hầu hết là những cuộc đời bóng tối: đám trẻ con nhếch nhác nhặt rác ở mặt chợ, mẹ con chị Tí với một gia tài nghèo nàn thảm hại, bác Xẩm mù chỉ biết bần bật mấy tiếng đàn trên chiếc chiếu rách với cái thau sắt trắng chờ tiền thưởng nằm trống trơ trước mặt, rồi bà cụ Thi hơi điên điên, bác phở Siêu gánh phở đi bán rong…

Có thể nói, nhịp thở của phố huyện trong Hai đứa trẻ phập phồng một sự sống tàn lụi, khuất lấp. Nó xào xạc, u tối và hiu quạnh. Trong cái ao tù ấy, theo dòng chảy thời gian, những con người có tên lẫn không tên cứ hiện ra như những vụn đời bé nhỏ âm thầm, yên lặng nhiều hơn là cử động, nếu cử động thì khẽ khàng, sè sẽ, chầm chậm, từ từ: gượng nhẹ, cúi nhìn, lặng ngước mắt lên, gượng nhẹ ngồi, khẽ quạt… Họ nghĩ nhiều hơn nói, nếu nói thì nhỏ nhẹ, chậm rãi, bâng quơ, vẩn vơ, ơ hờ,… hỏi cho có chuyện, và đáp cũng vì thế phẳng lặng, nhạt nhẽo, rời rạc. Họ hoạt động theo một nếp sinh hoạt có phần máy móc, quán tính, dọn hàng chờ đợi rồi dẹp hàng, gánh phở ra phố rồi kĩu kịt gánh trở về. Dường như đối với họ, cuộc sống chẳng bao giờ đem lại một cơ may, vì thế họ không có những dằn vặt nội tâm, hay những giằng xé về món nợ áo cơm. Ở họ, an phận là lẽ sống. Cứ thế, họ sống lặng lẽ, bình tĩnh, nhẫn nhịn, một sự nhẫn nhịn bất đắc dĩ của kiếp người. Vì thế, mong ước của họ chỉ là nỗi khắc khoải mơ hồ, chập chờn và vu vơ. Phần lớn các nhân vật trong Hai đứa trẻ được Thạch Lam lược giản tối đa để chỉ còn lại tựa hồ như những cái bóng thầm trong một vũ trụ bóng tối rộng lớn vô cùng.

Thế nhưng, trong những cái bóng nhập nhòa của đời sống phố huyện ấy lại hiện diện chỉ một tâm hồn biết sống. Tâm hồn ấy là Liên. Liên vừa hòa vào khối người trong bóng tối, vừa tách ra như một điểm nhìn đầy ý thức của ”cái tôi”. Cô bé không chịu tự đánh mất mình trong một tổng thể nhạt nhòa dễ lẫn.

Mở đầu tác phẩm, người đọc bắt gặp hình ảnh Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị” “chị thấy buồn man mác trước cái giờ khắc của “ngày tàn”. Liên một cô bé – người lớn, nghĩa là Liên không còn hoàn toàn trẻ con, nhưng cũng chưa phải là người lớn. Tác giả gọi Liên là “chị”  vì cô bé như một trái cây chín sớm trước dòng chảy nghèo khó của kiếp người. Liên đã biết quan tâm săn sóc em bằng tình cảm trìu mến, dịu dàng như người mẹ. Liên lại đảm đang tảo tần thay mẹ quản lý cửa hàng tạp hóa như một người lớn. Liên chính là một cô bé có tâm hồn trẻ dại với những khao khát hồn nhiên, thơ ngây, bình dị nhưng đã sớm bước vào đời để kiếm kế sinh nhai. Liên chính là hiện thân của một kiếp sống nghèo khổ, an phận của con người tại một phồ huyện nghèo trước cách mạng tháng Tám.

Thế nhưng, trong cái hun hút khuya đêm, trong bóng tối tĩnh lặng của đời mình, Liên đã nhìn vào lòng đêm mà khắc khoải nhận ra một thứ hào quang cao rộng, xa xôi hơn của kiếp người. Đôi mắt mở to của cô thiếu nữ không chịu ngủ yên. Cuộc sống diễn ra trước mắt người khác sẽ lặng lẽ như một thứ ao tù, nhưng tâm hồn tinh tế nhạy cảm của Liên đã tự thấy ở cõi lụi tàn ấy cả một sự sống xôn xao. Đằng sau dáng ngồi bất động và gương mặt ưu phiền của Liên là cả một ”cái tôi” đa cảm và trầm tư.

Bên ngưỡng cửa của người lớn, Liên vừa cứ hồn nhiên vừa biết lo toan, Liên đã cảm nhận cái gì đó thật mơ mộng, bâng khuâng mà cô bé không đặt tên nỗi: ”Liên không hiểu tại sao chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Cho nên người đọc không lạ gì khi đôi mắt ngập buồn của Liên có thể vừa nhận ra sự giống nhau vừa nhận ra sự khác nhau trong các loại đèn: đèn nhà bác phở Mỹ, đèn Hoa kỳ leo lắt ở nhà ông Cửu, đèn dây sáng xanh ở hiệu khách, đèn ma trơi của tàu,… Thế giới còm cõi, đơn điệu với cô vì thế chẳng hề vô cảm. Tiễn một ngày tàn ở phố chợ hiu quạnh, từ cái mùi âm ẩm của xác lá và rác bốc lên hơi nóng của ngày lẫn mùi cát bụi, cô cũng nhận ra ở đấy có mùi riêng của đất quê hương, ở đấy có một cái gì rất đằm thắm, rất riêng tư. Cô còn nhận ra nỗi cô đơn muốn đồng cảm níu kéo gặp gỡ của những con người ”mặc dù đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi” nhưng cứ chưa rời nhau vì cố ”đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa”. Để lắng nghe và cảm thức được những điều ấy, rõ ràng tâm hồn cô bé Liên phải hết sức gắn bó âu yếm với mảnh đất này, một sự gắn bó chỉ ở một tâm hồn lãng mạn mới có.

Ở nhân vật Liên, chúng ta có cảm tưởng rằng, Liên cũng chỉ quẩn quanh trong cái ngõ cụt như bao kiếp phận khác. Vì có gì buồn bằng bóng tối, có gì đáng sợ hơn bóng tối, ấy thế mà giữa cái tối vây quanh hun hút, Liên không thấy buồn, nhất là “đêm tối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa”. Thực ra, tâm cảm của Liên đã quên bóng tối, cô để cho đôi mắt của mình bắt lấy mọi thứ ánh sáng, từ vệt đom đóm bay đến ngọn đèn con của chị Tí, từ những hột lửa của đoàn tàu bắn ra đến ”hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”, nghĩa là từ mặt đất quá thiểu não, nặng nề, tâm hồn bay bổng đã lặng lẽ tách Liên ra khỏi cuộc đời tăm tối để sống những phút giây mơ ước hi vọng, dẫu đó chỉ là những giấc mơ hão huyền. Hình ảnh đoàn tàu với Liên vì thế chất chứa một vẻ đẹp của ngày qua. Ở đó, lặng theo mơ tưởng, một thế giới hoài niệm nơi ký ức sâu đằm hiện lên ngân nga một dư vị ngọt ngào. Đó là một trang cổ tích ngày xưa bỏ quên ở Bờ Hồ, nơi hai chị em đã từng ”uống cốc nước lạnh xanh đỏ thần tiên”. Quá vãng đã trào lên muôn sắc hào quang, dù không rõ rệt nhưng vẫn hấp dẫn và quyến rũ mê hồn với những nhân vật lãng mạn. Vì vậy, ta hiểu vì sao Liên là nhân vật duy nhất trong phố huyện cố thức không phải chỉ để ”may ra còn có người mua” mà chỉ muốn được nhìn chuyến tàu. Đó là hạnh phúc duy nhất trong ngày, và phải chăng còn là mơ ước cả một đời ở con người. Vì thế con tàu trong mắt Liên đồ sộ lạ lẫm và đi với tốc độ phi thường, vừa tới đã vụt qua. Và cô bé đã xốn xang như uống lấy tiếng động của nó, sắc màu của nó. Thế nhưng, như một thứ trò chơi của số phận, con tàu mà Liên ngưỡng mộ khát khao đến rồi đi, trả lại cho cuộc đời thực cái bóng đêm cố hữu như số phận. Nó chỉ là một con sóng đột nhiên dội tới mặt nước bằng phẳng từ hãm của cuộc đời. Cái còn lại sau đó là môt bầu trời đầy sao, và Liên cũng như bao con người khuất lấp khác lại tiếp tục lầm lũi cẩn thận gài then cửa, vặn nhỏ ngọn đèn, khép lại cánh cửa thường nhật để gieo mình câm lặng trong bóng tối. Nhưng ngày mai, ngày mai lại bắt đầu, và giấc mơ của Liên sẽ trở lại,… Trong mắt nhìn của Thạch Lam, nhân vật Liên là thế đấy, một nhân vật lãng mạn.

Có thể nói, thiên truyện Hai đứa trẻ vừa là một bức tranh hiện thực độc đáo, vừa là một phát hiện lãng mạn đáng giá về con người. Nói như một nhà nghiên cứu, hai đứa trẻ vừa nhỏ nhoi như hạt bụi vô thường vừa là một chủ thể nhạy cảm biết nhận ra mối liên hệ với thời gian và vũ trụ, với cuộc sống và con người, luôn khát khao tự tìm kiếm lại mình trên mảnh đất đầy nỗi buồn và sự gian khó này.

Chính điều này, dù chỉ với một kiếp sống mỏng manh cùng một đời văn ngắn ngủi nhưng chỉ vài trang văn ít ỏi đối thoại với đời, Thạch Lam là nhà văn gây nhiều vang vọng nhất trong sự suy tư về kiếp người. Bằng một thứ ngôn ngữ đầy ám ảnh, ngân vang chất thơ, chất nhạc, Thạch Lam đã “phản ánh” được hiện thực những cuộc đời bé nhỏ như ”những chiếc đèn con”, nhưng tất cả tình thương của ông lại tụ hội nơi quầng sáng bé nhỏ của những tâm hồn biết đi tìm cái đẹp, niềm mơ ước, mang khát vọng được chia sẻ, được sống trong hạnh phúc ấy. Và nhờ thế khiến ông là thành viên duy nhất của Tự Lực văn đoàn đã ghi tên mình vào phía vĩnh cửu.

  Đề 5:  Tinh thần lãng mạn trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam)

Đối với tôi, Thạch Lam là nhà văn hiếm hoi của Việt Nam luôn biết cách thả trôi nổi người đọc chúng ta theo những dòng văn man mác, dịu nhẹ để rồi ”cưỡng đoạt” chúng ta một cách tài tình. Văn chương ông là một dòng hương thoang thoảng giản dị nhưng luôn buộc người ta quay lại để nhớ, để suy ngẫm. Với cách nhìn và sự triển khai nghệ thuật riêng biệt giữa một bên mà khuynh hướng lãng mạn được đặt trên bàn viết Tự lực văn đoàn mà ông thuộc loại trụ cột và một bên là áp lực của thời đại đau đớn cần sự thật, Thạch Lam đã tạo dựng cho mình một mỹ học riêng: hiện đại mà truyền thống, Tây phương mà vẫn rất Á Đông. Ở đấy, người ta không chỉ nhìn ra sự thực cuộc đời mà còn thấy được những giấc mơ lãng mạn của con người dù cho họ có bị bỏ rơi trong nghèo khổ.

Một Thạch Lam như thế, nhưng bị đối xử rất không công bằng trong nhà trường phổ thông. Đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ của ông, người ta chỉ nhìn thấy phía “hiện thực”, “sự phản ánh”. Họ chỉ thấy đó là bức tranh của một phố huyện nghèo lay lắt đau khổ trước Cách mạng, và nhân vật Liên cũng thế, cô bé hiện lên trong mắt nhìn “tư lợi” của thời đại chỉ là hiện thân của một số phận giàu hi vọng nhưng đau khổ và thất vọng. Trong khi đó, không hề nhầm lẫn tuổi tác của nhân vật mà ông khai sinh, nhà văn Thạch Lam đã gọi Liên là ”chị” và đặt toàn bộ cuộc sống phố huyện từ đôi mắt của cô bé này để triển khai câu chuyện lãng mạn nhưng giàu chất hiện thực của mình.

Quả thực, Hai đứa trẻ rất đậm chất hiện thực. Hiện thực thể hiện đậm đặc trong chi tiết miêu tả, trong hệ thống các nhân vật truyện. Khung cảnh Hai đứa trẻ xác xơ, tiêu điều và ngập đầy bóng tối. Thế giới nhân vật hiện hình hầu hết là những cuộc đời bóng tối: đám trẻ con nhếch nhác nhặt rác ở mặt chợ, mẹ con chị Tí với một gia tài nghèo nàn thảm hại, bác Xẩm mù chỉ biết bần bật mấy tiếng đàn trên chiếc chiếu rách với cái thau sắt trắng chờ tiền thưởng nằm trống trơ trước mặt, rồi bà cụ Thi hơi điên điên, bác phở Siêu gánh phở đi bán rong… Có thể nói, nhịp thở của phố huyện trong Hai đứa trẻ phập phồng một sự sống tàn lụi, khuất lấp. Nó xào xạc, u tối và hiu quạnh. Trong cái ao tù ấy, theo dòng chảy thời gian, những con người có tên lẫn không tên cứ hiện ra như những vụn đời bé nhỏ âm thầm, yên lặng nhiều hơn là cử động, nếu cử động thì khẽ khàng, sè sẽ, chầm chậm, từ từ: gượng nhẹ, cúi nhìn, lặng ngước mắt lên, gượng nhẹ ngồi, khẽ quạt… Họ nghĩ nhiều hơn nói, nếu nói thì nhỏ nhẹ, chậm rãi, bâng quơ, vẩn vơ, ơ hờ,… hỏi cho có chuyện, và đáp cũng vì thế phẳng lặng, nhạt nhẽo, rời rạc. Họ hoạt động theo một nếp sinh hoạt có phần máy móc, quán tính, dọn hàng chờ đợi rồi dẹp hàng, gánh phở ra phố rồi kĩu kịt gánh trở về. Dường như đối với họ, cuộc sống chẳng bao giờ đem lại một cơ may, vì thế họ không có những dằn vặt nội tâm, hay những giằng xé về món nợ áo cơm. Ở họ, an phận là lẽ sống. Cứ thế, họ sống lặng lẽ, bình tĩnh, nhẫn nhịn, một sự nhẫn nhịn bất đắc dĩ của kiếp người. Vì thế, mong ước của họ chỉ là nỗi khắc khoải mơ hồ, chập chờn và vu vơ. Phần lớn các nhân vật trong Hai đứa trẻ được Thạch Lam lược giản tối đa để chỉ còn lại tựa hồ như những cái bóng thầm trong một vũ trụ bóng tối rộng lớn vô cùng.

Thế nhưng, tất cả điều ấy không tước đoạt đi được tinh thần lãng mạn in đậm một cách ấn tượng trong thiên truyện ngắn đặc biệt này.

Bức tranh thiên nhiên trong Hai đứa trẻ mở đầu là những dòng văn đầy chất thơ. Đấy là những dòng văn đi sâu tìm kiếm chất thơ của cuộc sống nông thôn mà người đọc thường thấy trong các trang văn của Tự Lực văn đoàn. “Một chiều êm ả như ru, với gió nhẹ, với ếch nhái kêu ran và cả khi bóng tối ăn lan lên mặt đất, ở bầu trời, hàng ngàn vạn sao đã chi chít mọc. Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Qua những dòng chữ đơn giản, “bức tranh quê” bình dị lại trở nên rất đỗi thân thiết và nên thơ.

Vũ trụ nghệ thuật của Hai đứa trẻ là vũ trụ của bóng tối, hay nói đúng hơn đó là một thế giới có sự xung đột rõ rệt giữa ánh sáng và bóng tối. Chọn cái “giờ khắc của ngày tàn” để khởi đầu trang truyện và đặt nhân vật của mình vào lòng đêm thăm thẳm, bí mật và ngập tràn bóng tối, nhà văn đã rất “hiện thực” trong việc miêu tả kiếp sống con người. Trên cái nền kiến trúc cơ bản: sáng và tối, Thạch Lam đã triển khai cuộc sống cho các nhân vật của mình, từ đó làm bật lên những điều bi thiết mà nhà văn muốn gửi gắm.

Lúc hoàng hôn, tuy các nhà lên đèn, nhưng nguồn sáng vẫn không đủ xua tan bóng tối khiến những “hòn đá hãy còn một bên tối”. Lúc bắt đầu đêm thì đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. Bác hàng phở lom khom nhóm lửa, bóng bác mênh mông ngã xuống đất một vùng và kéo dài ra tận đằng xa. Chị em Liên ngồi dưới gốc bàng tối. Con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng sẫm đen hơn. Lối đi của con người đã tối, mà ngay cả âm thanh của tiếng trống cầm canh đánh tung lên một tiếng rồi cũng chìm vào ngay trong bóng tối. Các cửa hàng cơm ở ga cũng im lặng tối đen. Ngay cả con tàu cũng loáng qua như một giấc mơ rồi bị bóng đêm nuốt chững. Dường như vũ trụ nghệ thuật của Hai đứa trẻ là vũ trụ của bóng tối. Đất quê đồng ruộng mênh mang cứ yên lặng nằm trong bóng tối đã đành mà ngay cả đôi mắt con người cũng ngập đầy bóng tối. Kết thúc tác phẩm là sự “tịch mịch và đầy bóng tối”.

Thế nhưng, không chỉ có bóng tối, ánh sáng cơ hồ cũng đi tìm chỗ đứng của mình trong Hai đứa trẻ,… nhưng nó chỉ mong manh yếu đuối như là những dấu hiệu của sự sống. Đó là những vệt sáng của đom đóm bay là là trên mặt đất cành cây, đó là những ngôi sao ganh nhau lấp lánh. Nhưng cái ánh trời ấy chỉ là sản phẩm thiên tạo nhợt nhạt xa vời. Trong lây lất lụi tàn, những đốm sáng của con người thắp lên có lẽ ít nhiều xua đi vẻ u ám của bóng đêm, nhưng quả thực, cái hiu hắt lặng lẽ và nhỏ nhoi của nó chỉ có ý nghĩa như là dấu hiệu của sự sinh tồn của con người mà thôi. Nó yếu ớt, le lói. Ngọn đèn chị Tí chỉ là một “quầng sáng nhỏ nhoi” trên mặt đất ngập tràn bóng đêm. Bếp lửa bác Siêu chỉ là “một chấm lửa nhỏ và vàng, lơ lửng đi trong đêm tối”. Ánh đèn cửa tiệm chị Liên thưa thớt từng hột lọt qua phên nứa. Ánh đèn lồng của hiệu khách đi đón người ở nhà ga về thì chỉ đủ sức làm lung lay cái bóng đen dài của người cầm đèn. Chiếc đèn ghi nhà ga thì xanh biếc như đốm lửa ma trơi. Chính vì thế, ánh sáng tự thân từ các nhân vật đốt lên chỉ là những ”vết”, những ”hột”, những ”chấm” lửa trước bóng đêm u tối vô tận. Trong bóng tối dày đặc, đen nghịt mênh mông, những điểm sáng leo lắt của con người chỉ là những biểu hiện cho sự vươn sống, nhưng cũng chỉ là chứng nhân cho một sự mỏi mòn, yếu ớt như sự mong manh tàn lụi của kiếp người không hơn không kém. Chính ở đây, rõ ràng nhà văn Thạch Lam đã sử dụng thủ pháp tương phản của văn học lãng mạn để làm bật lên chủ đề của truyện.

Song điều đặc biệt thể hiện rõ nhất tinh thần lãng mạn trong Hai đứa trẻ là nhân vật Liên. Trong những cái bóng nhập nhòa của đời sống phố huyện chỉ hiện diện có một tâm hồn biết sống. Tâm hồn ấy là Liên. Liên vừa hòa vào khối người trong bóng tối, vừa tách ra như một điểm nhìn đầy ý thức của ”cái tôi”. Cô bé không chịu tự đánh mất mình trong một tổng thể nhạt nhòa dễ lẫn. Trong cái hun hút khuya đêm, trong bóng tối tĩnh lặng của đời mình, Liên đã nhìn vào lòng đêm mà khắc khoải nhận ra một thứ hào quang cao rộng, xa xôi hơn của kiếp người. Đôi mắt mở to của cô thiếu nữ không chịu ngủ yên. Cuộc sống diễn ra trước mắt người khác sẽ lặng lẽ như một thứ ao tù, nhưng tâm hồn tinh tế nhạy cảm của Liên đã tự thấy ở cõi lụi tàn ấy cả một sự sống xôn xao. Đằng sau dáng ngồi bất động và gương mặt ưu phiền của Liên là cả một ”cái tôi” đa cảm và trầm tư.

Bên ngưỡng cửa của người lớn, Liên vừa cứ hồn nhiên vừa biết lo toan, Liên đã cảm nhận cái gì đó thật mơ mộng, bâng khuâng mà cô bé không đặt tên nỗi: ”Liên không hiểu tại sao chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Cho nên người đọc không lạ gì khi đôi mắt ngập buồn của Liên có thể vừa nhận ra sự giống nhau vừa nhận ra sự khác nhau trong các loại đèn: đèn nhà bác phở Mỹ, đèn Hoa kỳ leo lắt ở nhà ông Cửu, đèn dây sáng xanh ở hiệu khách, đèn ma trơi của tàu,… Thế giới còm cõi, đơn điệu với cô vì thế chẳng hề vô cảm. Tiễn một ngày tàn ở phố chợ hiu quạnh, từ cái mùi âm ẩm của xác lá và rác bốc lên hơi nóng của ngày lẫn mùi cát bụi, cô cũng nhận ra ở đấy có mùi riêng của đất quê hương, ở đấy có một cái gì rất đằm thắm, rất riêng tư. Cô còn nhận ra nỗi cô đơn muốn đồng cảm níu kéo gặp gỡ của những con người ”mặc dù đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi” nhưng cứ chưa rời nhau vì cố ”đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa”. Để lắng nghe và cảm thức được những điều ấy, rõ ràng tâm hồn cô bé Liên phải hết sức gắn bó âu yếm với mảnh đất này, một sự gắn bó chỉ ở một tâm hồn lãng mạn mới có.

Ở nhân vật Liên, chúng ta có cảm tưởng rằng, Liên cũng chỉ quẩn quanh trong cái ngõ cụt như bao kiếp phận khác. Vì có gì buồn bằng bóng tối, có gì đáng sợ hơn bóng tối, ấy thế mà giữa cái tối vây quanh hun hút, Liên không thấy buồn, nhất là “đêm tối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa”. Thực ra, tâm cảm của Liên đã quên bóng tối, cô để cho đôi mắt của mình bắt lấy mọi thứ ánh sáng, từ vệt đom đóm bay đến ngọn đèn con của chị Tí, từ những hột lửa của đoàn tàu bắn ra đến ”hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”, nghĩa là từ mặt đất quá thiểu não, nặng nề, tâm hồn bay bổng đã lặng lẽ tách Liên ra khỏi cuộc đời tăm tối để sống những phút giây mơ ước hi vọng, dẫu đó chỉ là những giấc mơ hão huyền. Hình ảnh đoàn tàu với Liên vì thế chất chứa một vẻ đẹp của ngày qua. Ở đó, lặng theo mơ tưởng, một thế giới hoài niệm nơi ký ức sâu đằm hiện lên ngân nga một dư vị ngọt ngào. Đó là một trang cổ tích ngày xưa bỏ quên ở Bờ Hồ, nơi hai chị em đã từng ”uống cốc nước lạnh xanh đỏ thần tiên”. Quá vãng đã trào lên muôn sắc hào quang, dù không rõ rệt nhưng vẫn hấp dẫn và quyến rũ mê hồn với những nhân vật lãng mạn. Vì vậy, ta hiểu vì sao Liên là nhân vật duy nhất trong phố huyện cố thức không phải chỉ để ”may ra còn có người mua” mà chỉ muốn được nhìn chuyến tàu. Đó là hạnh phúc duy nhất trong ngày, và phải chăng còn là mơ ước cả một đời ở con người. Vì thế con tàu trong mắt Liên đồ sộ lạ lẫm và đi với tốc độ phi thường, vừa tới đã vụt qua. Và cô bé đã xốn xang như uống lấy tiếng động của nó, sắc màu của nó. Thế nhưng, như một thứ trò chơi của số phận, con tàu mà Liên ngưỡng mộ khát khao đến rồi đi, trả lại cho cuộc đời thực cái bóng đêm cố hữu như số phận. Nó chỉ là một con sóng đột nhiên dội tới mặt nước bằng phẳng từ hãm của cuộc đời. Cái còn lại sau đó là môt bầu trời đầy sao, và Liên cũng như bao con người khuất lấp khác lại tiếp tục lầm lũi cẩn thận gài then cửa, vặn nhỏ ngọn đèn, khép lại cánh cửa thường nhật để gieo mình câm lặng trong bóng tối. Nhưng ngày mai, ngày mai lại bắt đầu, và giấc mơ của Liên sẽ trở lại,… Trong mắt nhìn của Thạch Lam, nhân vật Liên là thế đấy, một nhân vật lãng mạn.

Có thể nói, thiên truyện Hai đứa trẻ vừa là một bức tranh hiện thực độc đáo, vừa là một phát hiện lãng mạn đáng giá về con người. Nói như một nhà nghiên cứu, hai đứa trẻ vừa nhỏ nhoi như hạt bụi vô thường vừa là một chủ thể nhạy cảm biết nhận ra mối liên hệ với thời gian và vũ trụ, với cuộc sống và con người, luôn khát khao tự tìm kiếm lại mình trên mảnh đất đầy nỗi buồn và sự gian khó này.

Chính điều này, dù chỉ với một kiếp sống mỏng manh cùng một đời văn ngắn ngủi nhưng chỉ vài trang văn ít ỏi đối thoại với đời, Thạch Lam là nhà văn gây nhiều vang vọng nhất trong sự suy tư về kiếp người. Bằng một thứ ngôn ngữ đầy ám ảnh, ngân vang chất thơ, chất nhạc, Thạch Lam đã “phản ánh” được hiện thực những cuộc đời bé nhỏ như ”những chiếc đèn con”, nhưng tất cả tình thương của ông lại tụ hội nơi quầng sáng bé nhỏ của những tâm hồn biết đi tìm cái đẹp, niềm mơ ước, mang khát vọng được chia sẻ, được sống trong hạnh phúc ấy. Và nhờ thế khiến ông là thành viên duy nhất của Tự Lực văn đoàn đã ghi tên mình vào phía vĩnh cửu.

Tâm trạng thức đợi tàu của chị em liên trong truyện “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam

Trong các nhà văn lãng mạn nổi tiếng (1930-1945), Thạch Lam có phong cách riêng biệt không lẫn với bất kì nhà văn nào. Đang khi các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng thiên về tần lớp trên của xã hội thì Thạch Lam lại viết về những con người bé nhỏ, nghèo khổ , sống trong bóng tối. Văn Thạch Lam nhẹ nhàng với lối quan sát độc đáo và phân tích tâm lí tinh tế. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” tiêu biểu cho văn phong Thạch Lam cho lí tưởng xã hội và quan điểm thẩm mĩ của Thạch Lam.

Thạch Lam có lối viết truyện ngắn không có cốt truyện. Ông không kích thích người đọc bằng cốt truyện li kì và tình tiết éo le. Ông hấp dẫn người đọc bằng chất liệu bên trong của đời sống, bằng lí tưởng xã hội tiến bộ của nhà văn, bằng phân tích tâm lí tinh tế và bằng tinh thần lãng mạn của ông. Thạch Lam dồn nén các nhân vật, các sự kiện và diễn biến của con người, của hành động trong một thời gian ngắn và không gian nhỏ. Nó cũng thích hợp với những nhân vật nhỏ bé của ông. Truyện của Thạch Lam có chiều sâu hun hút, chiều sâu của cuộc sống, chiều sâu của lòng người và chiều sâu của mộng mơ, ước vọng.

Liên và An là hai đứa trẻ từng sống ở Hà Nội, rồi gia đình bị sa cơ thất thế nên đã trở về quê, một phố huyện hẻo lánh. Hai chị em trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. “Một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình”. Buổi tối hai chị em cùng ngủ ở đây để trông hàng. “Đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang cảnh phố chung quanh”, thế giới chung quanh hai đứa trẻ là những con người bé nhỏ đang thương, sống lẩn lút trong bóng tối. Đó là chị Tí ngày thì mò cua bắt ốc, tối đến dọn cái hàng nước dưới gốc cây bàng với ngọn đèn Hoa Kỳ leo lét. Đó là cụ Thi, bà lão hơi điên, tối tối đến cửa hàng Liên nốc một cút rượu rồi lẫn vào bóng tối với giọng cười khanh khách. Đó là bác phở Siêu gánh gánh phở, món quà xa xỉ của phố huyện, có chấm than hồng như ma trơi. Đó là vợ chồng bác Xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật lên trong yên lặng. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo đi nhặt thanh nứa thanh tre hoặc bất cứ cái gì có thể dùng được. Từ cảnh thiên nhiên đến số phận con người đều có một cái gì tàn lụi, không tương lai, leo lét một cách tội nghiệp, trong nghèo đói, buồn chán và tăm tối.

“Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ của họ”. Thạch Lam đã hiểu sâu sắc những con người bé nhỏ trong bóng tối này với những ước vọng đáng thương của họ.

Sống trong bóng tối, trong yên lặng, trong buồn chán, đêm đêm chị em Liên cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé!”. Nghe lời dặn của bé An ta cảm thấy hai đứa trẻ tha thiết với chuyến tàu đêm đến biết chừng nào. Rồi đèn ghi ra. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vọng lại trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi. Và chỉ cần nghe chị Liên gọi: “Dậy đi An! Tàu đến rồi!” là Anh nhổm dậy dụi mắt và tỉnh hẳn. Rồi tiếng còi rít lên, đoàn tàu rầm rộ đi tới. Liên quan sát rất kĩ đoàn tàu, thèm khát như được nhìn một thế giới xa lạ “Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng”. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Chuyến tàu đã xáo trộn cả cõi yên tĩnh của phố huyện. Chuyến tàu gợi cho Liên mơ tưởng: “Họ ở Hà nội về! Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”.

Rõ ràng là Liên và An đợi tàu không phải để bán ít quà vặt cho khách đi đường mà là một nhu cầu bức xúc về tinh thần của hai đứa trẻ, muốn trong chốc lát được thoát ra khỏi cuộc sống buồn chán tối tăm này. “Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”. Dưới mắt hai đứa trẻ, chiếc tàu là hình ảnh của một thế giới văn minh, giàu sang, nhộn nhịp, huyên nào và đầy ánh sáng.

Qua tâm trạng đợi tàu của hai đứa trẻ, tác phẩm thể hiện một niền xót thương vô hạn đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh không bao giờ được biết ánh sáng và hạnh phúc. Cuộc sống mãi mãi bị chôn vùi trong tăm tối nghèo đói, buồn chán nơi phố huyện và nói rộng ra trên đất nước còn chìm đắm trong cảnh nô lệ và đói nghèo. Qua tâm trạng Liên, tác giả đồng thời cũng muốn thức tỉnh tâm hồn uể oải đang lụi tắt ngọn lửa lòng khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang chôn vùi họ.

Trên văn đàn văn học Việt Nam trước cách mạng tháng tám, Thạch Lam chưa được xếp ở vị trí số một nhưng cũng là một tên tuổI rất đáng coi trọng và khẳng định, Thạch Lam tuy có viết truyện dài nhưng sở trường của ông là truyện ngắn, bởI ở đó tài năng nghệ thuật được bộc lộ một cách trọn vẹn, tài hoa. Nguyễn Tuân viết : “Nói đến Thạch Lam ngườI ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài”. Đóng góp của Thạch Lam không chỉ ở nghệ thuật mà nó còn giúp ta thanh lọc tâm hồn : “ MỗI truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương” . Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam cũng là “một bài thơ trữ tình đầy xót thương” như thế . Thạch Lam tuy có chân trong Tự lực Văn đoàn nhưng tư tưởng thẩm mĩ lạI theo một hướng riêng. Ông xây dựng cho mình một thế giớI nhân vật khác. Ông lặng lẽ hướng ngòi bút của mình về phía những ngườI nghèo khổ vớI tấm lòng trắc ẩn chân thành? ( Phong Lê ). Thế giớI nhân vật là những lớp ngườI nghèo khổ cơ cực bế tắc nói chung, những nhân vật của Thạch Lam thật nhỏ bé và tộI nghiệp: Họ thường nép mình trong bóng tốI của một không gian hẹp thường là nơi phố huyện tiêu điều, xơ xác hoặc những xóm nghèo ngoạI ô Hà NộI. Nhân vật của ông chủ yếu là con ngườI thân phận, họ thường tìm kiếm nơi ẩn nấu trong gia đình, giữa bốn bức tường hoặc trong sân vườn, có nghĩa là tách khỏI cuộc đờI, nơi xã hộI đầy bất trắc bên ngoài. Có lẽ như thế con ngườI mớI cảm nhận hết về mình và về cuộc sống xung quanh. Dường như họ thu mình trước thực tạI để xót mình và thương ngườI, để bâng khuâng man mác khi hồI tưởng về quá khứ? Không dám nhìn về tương lai, mang nặng một mặc cảm mờ mịt trong lòng khi nghĩ về mai sau.

Cảm quan trong truyện của Thạch Lam có thể gói gọn trong ba chữ đó là niềm xót thương. Những con ngườI nhỏ bé ấy bao giờ cũng được nhà văn học trong một không khí trữ tình đầy mến thươngtoả ra một cách dịu dàng từ tấm lòng tác giả ..

Truyện của Thạch Lam không có cốt truyện đặc biệt, giọng điệu và ngôn ngữ nhiều chất trữ tình: MỗI truyện ngắn của Thạch Lam có cấu từ và giọng điệu như một bài thơ trữ tình, gợI sự thương xót trước số phận của những con ngườI nhỏ bé bất hạnh. Một giọng văn bình dị mà tinh tế. Âm điệu man mác bao trùm hầu hết truyện ngắn và thiên nhiên cũng trữ tình. Văn cứ mềm mạI, uyển chuyển, giàu hình ảnh, nhạc điệu . Đó chính là chất thơ trong truyện ngắn Thạch Lam, “có cái dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây” khiến ta vương phải.

“ Hai đứa trẻ” là đặc trưng của hồn văn Thạch Lam. Nó là “một bài thơ trữ tình đầy xót thương”
Truyện “ Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là một mẩu chuyện sinh hoạt kéo dài của hai chị em đứa trẻ thay mẹ trông nom một gian hàng vặt ở một phố huyện gần một cái ga xép. Đêm đêm những bóng ngườI bình thường cũng lù mù đi qua trước gian hàng. Những bóng ngườI ấy cũng lù mù như nhiều chấp lửa ở những nguồn sáng quanh quất nơi phố huyện. Trong cái bốn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có tiếng động mạnh và những luồng sáng mạnh của một chuyến xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em ngày nào cũng chờ một chuyến tàu đêm kéo qua ra mớI chịu đóng cửa hàng. Nguyễn Tuân đã tóm tắt truyện như thế. Đúng vậy, truyện này tưởng như không có cốt truyện, không có biến cố. Nó chỉ là biến diễn của một thờI gian ngắn, từ khoảng năm giờ chiều khi “phương tây đỏ rực như lửa cháy” đến chín giờ tốI “đêm tốI bao bọc chung quang”; nó chỉ là biến diễn bên trong “tâm hồn ngay thơ của hai chị em Liên, An trong một buổI tốI của các thường ngày tưởng như “ tẻ nhạt”, “không có gì” … Song vượt lên trên các thường ngày, Thạch Lam bằng con đường nghệ thuật riêng vớI thế giới nghệ thuật riêng, một thờI gian riêng, không gian riêng, nhân vật riêng, ngôn ngữ riêng đã tạo nên khí vị nhẹ nhàng, buồn man mác, đậm đà hương vị đồng quê; nhiều bóng tốI mà chói sáng mốI tình thương yêu hiền hoà, nhân hậu, xót thương chân thành, phảng phất thơ toả lên từ quê hương. Truyện không có cốt truyện như chất chứa biết bao cảnh đờI, bao tâm trạng, tâm cảnh sâu lắng tinh tế.
Diện mao phố huyện được Thạch Lam tái hiện là một khung cảnh buồn, là cảnh chiều tàn đi dần vào đêm khuya. Hàng ngà, những cái ồn ào của buổI sáng làm không khí bị nhoè đi trong nắng như đến chiều thì cái bộ mặt thật của phố huyện hiện ra vớI tất cả những cái tiêu điều, xác xơ, tàn lụi. “Chiều chiều rồI” như là một lờI thảng thốt, bàng hoàng như một tiếng thơ dài. Thế là một buổI chiều nữa lạI đến, chiều là buồn. Ấn tượng về buổI chiều khá sâu đậm. Thạch Lam đã chọn một phiên chợ tàn để nói lên được tất cả bộ mặt của phố huyện. Chợ là nơi biểu hiện sức sống của một làng quê, biểu hiện thuần phong mĩ tục của làng quê. NgườI ở nông thôn thường trông chờ vào ngày chợ phiên đông vui tấp nập. Thạch Lam đã chọn ngày chợ phiên để nói cái xác xơ tiêu điều của phố huyện. Mặc dù không tả buổi chợ phiên nhưng ông đã tả những phế phẩm còn lạI của buổI chợ, đó cũng là cách biểu hiện sức sống đầy hay vơi của phố huyện. Tả những con ngườI cuốI cùng trao đổI vớI nhaurồI bước vào các ngỏ tối. Rác chỉ là những thứ phế thảI vớ vẫn “rác rưởI, vỏ bưởI, vỏ thị, lá nhãn và bã mía, những thanh nứa thanh tre…Lũ trẻ vẫn còn ra bòn mót, nhặt nhạnh. Ngày chợ phiên như thế thì sức sống đã kém lắm, đã yếu lắm rồi. NgườI bán trông vào ngườI mua và ngược lạI nhưng chỉ là sự vô vọng, lẩn quẩn, trông chờ vào sự vô vọng. Mùi vị toả ra trong không gian này là một thứ mùi đặc trưng để nói tớI sự nghèo nàn. Đó là mùi bã mía, vỏ bưởI, vỏ thị, đất ẩm, mùi khói, mùi cỏ, mùi phân trâu nồng nồng ngai ngái… Cái mùi vị ấy cũng góp phần làm cho khung cảnh thêm phần tàn tạn héo úa, lụI dần.

Có thể thấy xung đột giữa bóng tốI và ánh sáng khá mạnh mẽ. Ánh sáng và bóng tốI đang giao tranh nhau. Ánh sáng yếu dần ban đầu là “ bầu trờI đỏ rực như lửa cháy, mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” sau đó là bóng tốI hiện dần ở bóng xẩm trên ngọn tre và cuốI cùng bao trùm lên khu phố huyện là cái bóng tốI mênh mông của nó, tín hiệu là ngọn đèn Hoa Kỳ của chị Tí. Ở đây ánh sáng và bóng tốI còn mang ý nghĩa tượng trưng, ánh sáng là ước mơ , bóng tốI là nghèo nàn và cô đơn; mở đầu chuyện ánh sáng tắt dần, bóng tốI chiếm lĩnh. Chính cái ánh sáng cuốI cùng ấy báo hiệu rõ màn đêm- màn đêm vừa sâu vừa dày sẽ diễn ra tiếp đó. Ánh sáng càng ngày càng thu nhỏ phạm vi hoặc ở xa manh mảnh, li ti như ánh sáng của ngôi sao trên bầu trờI hoặc yếu ớt ảm đạm lọt qua khe cửa khép hờ hoặc toả trên cái bóng tre của chị Tí. Ánh sáng ấy biểu hiện một sự tàn lụI ở cường độ thấp và khả năng thu hẹp của nó. Tiếng trống thu không rờI rạc, chậm, lẽ tẻ và cứ tắt lịm dần. Nhưng âm thanh nhỏ nhất như tiếng muỗI vo ve gợI cảm giác về sự ngưng đọng. Nó rơi tỏm vào trong không gian đang chết lặng. Đó là những âm thanh không có hồI âm, nó chỉ nhấn mạnh thêm cái buồn tẻ đến rợn ngườI của phố huyện lúc chiều tối. Tất cả hô ứng, qui tụ để cho ngườI đọc thấy rõ được khung cảnh thật của phố huyện một ngày tàn. Thạch Lam miêu tả nhận xét một cách tinh tế, sâu xa bước đi thờI gian của nơi phố nghèo. NgườI đọc dường như thấy được bước chuyển biến của thờI gian rung lên bằng ngôn ngữ riêng. Sức rung động của câu văn có khả năng đánh thức con ngườI hãy cảm nhận thật tinh tế khung cảnh phố huyện và tâm sự của Thạch Lam.
Trên cái nền ấy, những cảnh đờI, những con ngườI, đúng hơn là những phiến cảnh về cuộc đờI, về con ngườI bé mọn, hoàn toàn không có ước vọng, khát khao được khắc hoạ rõ nét. Họ nói chuyện vớI nhau nhưng dường như chẳng có nộI dung. Họ có đi lạI, ăn nói vớI nhau nhưng chỉ thấy họ vừa lòng thoả mãnvớI cảnh chật hẹp. Mua chịu nửa bánh xà phòng, bán đong hơn một ngấn rượu trong chiếc cút bé nhỏ …Chị Tí là điển hình cho ngườI dân phố huyện vớI nhịp sống quẩn quanh : ban ngày mò cua bắt tép, ban tốI chị mớI mở cái hàng bán nước. Cái đáng sợ là vẫn biết bán không được gì “sớm muộn mà có ăn thua gì?” mà vẫn cứ ra. Đây không phảI là sự sống thực sự mà là sự sống cầm chừng cầm cự vớI cuộc sống, giao tranh, tranh giành vớI cái đói,cái chết trông chờ vào những ngườI trên tàu là qua bấp bênh có khác gì trông chờ vào những ngườI khách ấy để sống. Cách chị Tí trả lờI câu hỏI của Liên: không trực tiếp trả lờI ngay mà còn làm thêm để chõng xuống đất, bày biện các bát uống nước mãi rồI mớI chép miệng trả lờI : “ỐI chao, sớm muộn mà có ăn thua gì”. Câu văn cho ta thấy nhịp sống chập chạp, lẩn quẩn của nhân vật. Bác phở Siêu có vẻ khá hơn nhưng nhưng nguy cơ lạI lớn hơn vì thứ mà bác bán là thứ quà xa xỉ mà ngay cả chị em Liên cũng không dám ăn. Bác Xẩm góp tiếng đàn run bần bật trong đêm tốI, mà không hề có tiếng động nào của một đồng xu. Bà cụ là một con ngườI bị tàn lụI, héo úa và cho ta cảm giác rợn ngườI, kinh hoàng. Bà là kiếp ngườI đáng sợ ở chi tiết vừa đi vào bóng tốI vừa cườI khanh khách. Cách xưng hô vớI Liên “chị” đã kéo xa khoảng cách tình giữa con ngườI vớI con gnườI vốn nó rất cần trong hoàn cảnh cầm chứng này. Cụ Thi điên là một nạn nhân đầy đủ nhất của kiếp ngườI, như một cái cây đã tàn lụI quá nhiều - kiếp ngườI héo hắt – tàn lụi. Cụ Thi xuất hiện chỉ trong mấy dòng truyện ít ỏI nhưng đã ám ảnh ngườI đọc, thức dậy trong ta lòng trắc ẩn chân thành.
Ở vị trí tiền cảnh của bức tranh đờI buồn thảm, héo tàn, mờ mờ lay động bóng hai chị em nhỏ tuổI cũng âm thầm không kém vớI cái “cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu” mà khách hàng là những ngườI khốn khổ có khi không đủ tiền mua nổI nửa bánh xà phòng hoặc chỉ đủ tiền cho cút rượu nhỏ “uống một hơi cạn sạch”. Liên xót xa cho những kiếp ngườI lay lắt nhưng cuộc sống của Liêncũng cầm chừng không kém. NỗI khổ của Liên có lẽ còn cao hơn nỗI khổ vật chất của những ngườI khác, đó là bi kịch tinh thần bởI họ khổ mà không biết mình khổ còn Liên đã thực sự thấm thía cảnh sống tẻ nhạt tù hãm và đơn độc hết ngày này sang ngày khác. Biện pháp duy nhất để khuây khoả nỗI hắt hiu, đơn điệu chỉ là đêm nào cũng mỏI mắt cố gắng chờ đợI một chuyến tàu đi qua : “đó là hoạt động cuốI cùng của đêm khuya”.

Ánh sáng của đoàn tàu là mảng ánh sáng rực rở, mạnh mẻ song ở ánh sáng này cũng chỉ vụt loé lên nhanh như một vì sao băng dể rồI vĩnh viễn tắt lịm trong màn đêm khiến ta phảI ngơ ngác, bàng hoàng. Dường như “Hai đứa trẻ” là truyện của những nguồn ánh sáng, hồi tưởng của Liên cũng là hồI tưởng về ánh sáng. Lần đầu tiên Liên “nhớ lạI” Hà NộI, một kí ức không rõ rệt, Hà NộI là một vừng sáng rực lấp lánh “và” Hà NộI nhiều đèn quá. Lần thứ hai, Liên mơ tưởng “Hà NộI xa xăm” , “Hà NộI sáng rực vui vẻ và huyên náo” . Cái cảnh tượngcủa quá khứ đẹp đẽ ấy tương phản gay gắt vớI cái tốI mịt mù dướI gốc bàng của hiện tạI đang diễn ra. Quá khứ và hiện tạI, ánh sáng và bóng tốI, lãng mạng và hiện thực, giấc mơ nghèo và sự thật nghèo khổ, tất cả tạo nên biến động sâu kín trong tâm hồn Liên. Ánh sáng của đoàn tàu là ánh sángcủa mơ ước, nó chỉ thoáng qua, tắt lịm và để rồI tất cả lạI chìm trong bóng tốI mênh mông, buồn tẻ.
Tất cả các nhân vật đó đã hiện ra dướI cái nhìn xót thương của ngườI tái hiện. Và nỗI thương cảm của Liên đốI vớI mấ đứa trẻ đi nhặt rác, vớI chị Tí, vớI bác Siêu, vớI cụ Thi điên cũng là cảm xúc của chính Thạch Lam. Thạch Lam đã hoá thân vào nhân vật để nói cái cảm quan xót thưong của mình. Đoàn tàu vớI thoáng sáng vụt qua rất nhanh rồI tắt lịm đã thay đổI một chút ít không khí của thế giớI hiện tạI, phảI chăng đó là khát vọng thoát khỏI cuộc sống tù đọng dù chỉ trong chốc lát của Thạch Lam. Nhà văn day dứt về một kiếp sống tàn lụI, héo úa, đơn điệu, hư vô chứ không chỉ có xót thương thông thường. Chính vì vậy mà ông trình bày hiện thực của phố huyện mang ý nghĩa khái quát lớn của xã hộI Việt Nam về sự trì trệ. Nếu đặt trong dòng thờI sự văn học buổI ấy, ta thấy Thạch Lam phản ánh khá rõ nét một hoàn cảnh, tâm lí thờI đạI mã Nam Cao đã phảI từng thốt lên : “Cuộc đờI đang cùn đi, gỉ đi, nổI váng lên”…

“Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn như một bài thơ trữ tình bởI cấu từ, giọng điệu, ngôn ngữ của nó, giống như một bài thơ.

Cấu từ của truyện là cấu từ vòng tròn xoay quanh hình ảnh bóng tốI được lặp đi lặp lạI nhiều lần (không dướI ba mươi lần). Khi miêu tả cảnh trờI phố huyện cũng như cảnh đờI những con ngườI phố huyện, tác giả đặc biệt có ý sử dụng một cách công phu yếu tố nghệ thuật :hình ảnh bóng tốI bao trùm cảnh vật và con ngườI mà tác giả dụng công miêu tả từ nhiều thờI điểm, từ nhiều góc nhìn, từ nhiều tâm cảnh khác nhau. Bóng tốI như một ám ảnh, như một sự hăm doạ, như một quái vật đè nặng lên cảnh vật và con người. Tác giả nhắc đến bóng tốI nhiều lần dướI những cách nói hình ảnh từ ngữ tuy có khác nhau : “buổI chiều hòn than sắp tàn”, “mặt đen lạI”, “chiều, chiều rồI” , “bóng tốI ngập đầy” , “bước của buổI chiều” , “ngày tàn” . Tác giả miêu tả rất nhiều trạng thái khác nhau của bóng tốI đến vớI tiếng trống thu không tư trên chòi cao, bóng tốI sắp đến vớI những đám mây hồng như hòn than sắp tàn, bóng tốI đến vớI dãy tre làng đen lạI, bóng tốI đến vớI cánh muỗI vo vo, bóng tốI đến vớI những viên đá nhỏ trên con đường mấp mô, bóng tốI trùm lên đường phố và các ngõ huyện… Nói tóm lạI, bóng tốI được lặp đi lặ lạI đầu và cuốI huyện. Bóng tốI như một cái gì hãi hùng đang hoạt động, đang thâm nhập, đanglen lỏI, luồn lách, bám sát vào mọI cảnh vật, mọI trạng thái hoạt động âm thâm của mọI sinh vật. Nó như cái nền không gian nghệ thuật của tác phẩmvà không gian xã hộI của con người. BởI tốI là lúc chị Tí xuất hiện “tốI đến chị mớI dọn cái hàng dướI gốc cây bàng”; về đêm bác phở Siêu mớI xuất hiện như một chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tốI, mất đi rồI lạI hiện ra … bóng tốI là nơi cụ Thi mang đến và mang đi “một tiếng cườI khanh khách nhỏ dần” , một cụ Thi cuộc đờI không rõ ràng nhưng rõ ràng là đang chứa ẩn một nỗI lòng u uất cứ chìm trong bóng tốI; vợ chồng bác Xẩm thu gọn trên manh chiếu chật hẹp, vớI chị em Liên, tác giả kể tỉ mỉ hơn nhưng tâm trạng, những suy nghĩ của hai đứa trong đêm tốI: đêm tốI ngập đầy đôi mắt của Liên, Liên thích ngồI yên lặng ngắm nhìn trong đêm tốI, về khuya, Liên ngồI yên lặng trong đêm chờ đón đoàn tàu, khi tàu vụt qua, Liên nhập dần vào giấc ngủ yên tĩnh như đêm ở trong phố tịch mịch và đầy bóng tối…

Lặp đi lặp lạI gián tiếp hay trực tiếp hình tượng bóng tốI cũng chính là cách để tác giác bộc lộ chủ đề tác phẩm qua cảm quan xót thương và tạo cho truyện có âm hưởng, cấu từ như một bài thơ trữ tình.

Mặt khác, việc miêu tả những cảm giác thiên nhiên rất hiếm trong hiện thực phê phán nhưng trong “Hai đứa trẻ” , Thạch Lam luôn luôn miêu tả khi có cơ hội. Thiên nhiên bao bọc truyện vớI nhiều trạng thái phong phú. Tác giả còn chú ý khắc hoạ được cảm giác mơ hồ về giờ khắccủa ngày tàn và về vũ trụ thăm thẳm bao la rất gần ũi mang sắc thái dân tộc, cũng chính vì vậy mà nhân vật chính của câu chuyện là Liên cứ mang theo vẻ hồn man mác.

Chất thơ còn được thể hiện ở ngữ điệu nhỏ nhẹ, man mác thú vị ở lờI văn, ở những cảm xúc tinh tế của một tâm hồn dể rung động. Truyện cứ trảI dài ra như một bài thơ, lắng sâu thanh lọc hồn ta. Chất nhạc thấm trong từng câu văn thấm thía. Một giọng văn bình dị mà tinh tế, đầy ưu ái. Có thể nói “ hai đứa tẻ” là một bài thơ trữ tình trọn vẹn của Thạch Lam.
Khi nói “mỗI truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương” thì ngườI nói muốn nhấn mạnh cả về nộI dung lẫn hình thức của truyện. NộI dung thể hiện hình thức và ngược lại. Nó là sự gắn bó hoài hoà để tạo nên tác phẩm. Văn phong của Thạch Lam được thể hiện đặc trưng trong “Hai đứa trẻ”, và tôi muốn kết thúc bài viết này bằng ý kiến của Nguyễn Tuân: “Ngày này đọc lạI Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học.”

Trong các nhà văn lãng mạn nổi tiếng (1930-1945), Thạch Lam có phong cách riêng biệt không lẫn với bất kì nhà văn nào. Đang khi các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng thiên về tần lớp trên của xã hội thì Thạch Lam lại viết về những con người bé nhỏ, nghèo khổ , sống trong bóng tối. Văn Thạch Lam nhẹ nhàng với lối quan sát độc đáo và phân tích tâm lí tinh tế. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” tiêu biểu cho văn phong Thạch Lam cho lí tưởng xã hội và quan điểm thẩm mĩ của Thạch Lam.
Thạch Lam có lối viết truyện ngắn không có cốt truyện. Ông không kích thích người đọc bằng cốt truyện li kì và tình tiết éo le. Ông hấp dẫn người đọc bằng chất liệu bên trong của đời sống, bằng lí tưởng xã hội tiến bộ của nhà văn, bằng phân tích tâm lí tinh tế và bằng tinh thần lãng mạn của ông. Thạch Lam dồn nén các nhân vật, các sự kiện và diễn biến của con người, của hành động trong một thời gian ngắn và không gian nhỏ. Nó cũng thích hợp với những nhân vật nhỏ bé của ông. Truyện của Thạch Lam có chiều sâu hun hút, chiều sâu của cuộc sống, chiều sâu của lòng người và chiều sâu của mộng mơ, ước vọng.
Liên và An là hai đứa trẻ từng sống ở Hà Nội, rồi gia đình bị sa cơ thất thế nên đã trở về quê, một phố huyện hẻo lánh. Hai chị em trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. “Một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình”. Buổi tối hai chị em cùng ngủ ở đây để trông hàng. “Đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang cảnh phố chung quanh”, thế giới chung quanh hai đứa trẻ là những con người bé nhỏ đang thương, sống lẩn lút trong bóng tối. Đó là chị Tí ngày thì mò cua bắt ốc, tối đến dọn cái hàng nước dưới gốc cây bàng với ngọn đèn Hoa Kỳ leo lét. Đó là cụ Thi, bà lão hơi điên, tối tối đến cửa hàng Liên nốc một cút rượu rồi lẫn vào bóng tối với giọng cười khanh khách. Đó là bác phở Siêu gánh gánh phở, món quà xa xỉ của phố huyện, có chấm than hồng như ma trơi. Đó là vợ chồng bác Xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật lên trong yên lặng. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo đi nhặt thanh nứa thanh tre hoặc bất cứ cái gì có thể dùng được. Từ cảnh thiên nhiên đến số phận con người đều có một cái gì tàn lụi, không tương lai, leo lét một cách tội nghiệp, trong nghèo đói, buồn chán và tăm tối.
“Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ của họ”. Thạch Lam đã hiểu sâu sắc những con người bé nhỏ trong bóng tối này với những ước vọng đáng thương của họ.
Sống trong bóng tối, trong yên lặng, trong buồn chán, đêm đêm chị em Liên cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé!”. Nghe lời dặn của bé An ta cảm thấy hai đứa trẻ tha thiết với chuyến tàu đêm đến biết chừng nào. Rồi đèn ghi ra. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vọng lại trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi. Và chỉ cần nghe chị Liên gọi: “Dậy đi An! Tàu đến rồi!” là Anh nhổm dậy dụi mắt và tỉnh hẳn. Rồi tiếng còi rít lên, đoàn tàu rầm rộ đi tới. Liên quan sát rất kĩ đoàn tàu, thèm khát như được nhìn một thế giới xa lạ “Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng”. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Chuyến tàu đã xáo trộn cả cõi yên tĩnh của phố huyện. Chuyến tàu gợi cho Liên mơ tưởng: “Họ ở Hà nội về! Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”.
Rõ ràng là Liên và An đợi tàu không phải để bán ít quà vặt cho khách đi đường mà là một nhu cầu bức xúc về tinh thần của hai đứa trẻ, muốn trong chốc lát được thoát ra khỏi cuộc sống buồn chán tối tăm này. “Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”. Dưới mắt hai đứa trẻ, chiếc tàu là hình ảnh của một thế giới văn minh, giàu sang, nhộn nhịp, huyên nào và đầy ánh sáng.
Qua tâm trạng đợi tàu của hai đứa trẻ, tác phẩm thể hiện một niền xót thương vô hạn đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh không bao giờ được biết ánh sáng và hạnh phúc. Cuộc sống mãi mãi bị chôn vùi trong tăm tối nghèo đói, buồn chán nơi phố huyện và nói rộng ra trên đất nước còn chìm đắm trong cảnh nô lệ và đói nghèo. Qua tâm trạng Liên, tác giả đồng thời cũng muốn thức tỉnh tâm hồn uể oải đang lụi tắt ngọn lửa lòng khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang chôn vùi họ.

Thạch Lam (1910 – 1942) là cây bút có tài nhất trong Tự lực Văn đoàn. Hàng loạt những truyện ngắn của ông ghi dấu ấn của một tấm lòng nhân ái , như làn gió đầu mùa se lạnh, thấm đẫm niềm cảm thông trước những số phận bất hạnh, những cuộc đời chìm trong bóng tối. Thấp thoáng trong những câu chuyện của ông bóng hình kỷ niệm của những ngày tháng đã hằn sâu trong ký ức tuổi thơ Thạch Lam. Hai đứa trẻ, tác phẩm thấm đượm tình người, như minh chứng tiêu biểu cho một tấm lòng nhân ái.

2. Có người đã nhận xét, mỗi truyện ngắn Thạch Lam như một bài thơ trữ tình. Thế Lữ, một người bạn của ông đã nhận xét: “Sự thực của tâm hồn mà Thạch Lam diễn trong lời của văn chương phức tạp nhiều hình nhiều vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương”. Tình thương với con người trong Hai đứa trẻ hình thành trên nền không gian phố huyện nghèo đầy bóng tối, với những cuộc đời lầm lụi, vất vả mưu sinh: mẹ con chị Tý, bác phở Siêu, gia đình bác Xẩm. Nhưng những nhân vật được ông dành cho “chút lệ thầm kín”, yêu thương chân thành nhất có lẽ là hai chị em Liên và An. Bởi hai đứa trẻ chính là một mảng đời nghèo túng của hai chị em Thạch Lam tại phố huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). Thế giới phố huyện hiện ra qua góc nhìn trẻ thơ chứa đựng những bí mật mơ hồ. Hơn ai hết, Thạch Lam hiểu rõ tâm trạng của những em bé không có tuổi thơ khắc khỏai, đau đớn thế nào, bởi đó chính là những gì nhà văn đã từng trải nghiệm. Tất thảy những gì nhà văn đem đến trong câu chuyện không có cốt truyện này: không gian đìu hiu phố huyện, thời gian đi dần vào đêm khuya, đến những khỏanh khắc sống của Liên và An chờ đợi chuyến tàu cuối cùng băng qua phố huyện… mang ý nghĩa thông điệp của một tấm lòng chân thành : đừng bao giờ lãng quên những cuộc đời trong bóng tối! Và chính ông là người đã khơi dậy những nguồn sáng lạ kỳ để mỗi người đọc chúng ta thấm thía vẻ đẹp bình dị và sâu sắc của con người.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro