lính

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng . Được biết TT là 1 hồi ức của QD vô cùng thương nhớ về đồng đội của mình, những người đã từng sống, từng chiến đấu, từng hi sinh về đất nước . Qua đó ta thấy được hình tượng của những ngừơi lính TT thuộc nhìu tầng lớp khác nhau, phần đông đảo điều là thanh niên Hà Nội kể cả sinh viên và học sinh. Với nghệ thuật đối lập để kích thích trí tưởng tượng phog phú và tác động mạnh vào cảm quan người đọc qua sự xuất hiện của những người lính TT ở đoạn thơ thứ 3 bày.

Chân dung của đoàn binh TT được chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ của QD, để rồi sau đó hiện lên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi người lính TT đối mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Dùng chữ của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng "đoàn quân" thì ở đây tác giả đùng "đoàn binh", tuy nó đều là đoàn quân ấy thôi. Nhưng khi dùng "đoàn binh" thì gợi lên được hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế để át đi vẻ yếu đuối của bệnh tật. Ba chữ "không mọc tóc" là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn là đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tụy rụng đi hết cả tóc. Giọng điệu của nhag thơ như họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng khiêu bạc và thấy rõ sự bóc tếu rất linh tráng. Các chi tiết "không mọc tóc", " quân xanh màu lá" diễn tả cái gian khổ khác thường của cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của bệnh sốt rét triền miên là "tóc ko mọc",da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình ấy là sức mạnh phi thường từ bên trong phát ra v?từ tư thế "dữ oai hùm". Với nghệ thuật tương phản chỉ hai dòng thơ QD đã làm nổi bật vẻ khác thường của đoàn quân TT.
Họ hiện lên như một hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thưở qua hai câu thơ tiếp:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
"Mắt trừng" biểu thị sự dồn nén câm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bậc ý chí của đoàn quân Tây Tiến. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn, thiếu thốn tâm hồn người lính vẫn cất cánh "đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính TT với những phút giây thả hồn mơ về những cô gái Hà Nội. "Mắt trừng gửi mộng" giấc mộng chinh phu gửi về phía chiến trường nhưng khi bom đạn yên rồi thì giấc mộng ấy lại hướng về phía sau, cũng là hướng về phía trước, phía tương lai hẹn ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xưa. Ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm, hai nét đẹp hài hoà trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.
QD đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến binh:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ"
"Mồ viễn xứ" là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Nhưng nấm mồ rải rác trên đường hành quân, nhưng không cản được ý chí quyết ra đi của người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:
" Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Chính tình yêu quê hương đất nước sây nặng đã giúp người lính TT coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hi sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên như một giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chiến trường của bậc trượng phu:
"Áo bào thay chiếu anh về đất"
Nếu như người tráng sĩ phong kiến thời trước coi da ngựa bọc thay là lí tưởng thì anh bộ đội cụ Hồ ngày nay, chiến đấu hi sinh vì Tổ Quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh "Áo bào" làm tăng thêm ko khí cổ kính trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ "Áo bào" lấy từ văn học cổ, tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở chiến trường . Nó cũng gợi được hào khí của chí trai "thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thay". Chữ "về" nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người chiến sĩ đu vào cái chết. "Anh về đất" là một hình ảnh hết sức ngợi ca.

Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính TT trở về trong niềm chở che của đất mẹ của quê hương, của đồng đội. Trở về với nơi sinh dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi, hẻo lánh thì Sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa. Lúc mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh Sông Mã (Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi), con sông gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hi sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của con sông Mã:
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Dóng Sông Mã là chính nhân của một thời kì hào hùng, chứng kiến cái chết của người tráng sũ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái ko khí chiến trận của bản hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau thương mà vẫn hùng tráng.

TT là sự kết hợp những sắc thái vừa độc đáo đa dạng dưới ngòi bút QD. Ông đã dựng lên một bức tranh chân dung, một bức tượng đài người lính CM vừa chân thực vừa có sức khái quát. Tiêu biểu cho sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại dân tộc ta đứng lên kháng chiến chống TDP. Đó là những hình tượng người lính TT được QD khắc tạc bằng tình yêu của chính mình đối với những đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế mà đoạn thơ đã vút lên khúc ngợi ca của nhà thơ, cũng như của cả đất nước về những người anh hùng ấy.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#văn12