phanbo

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

http://www.ebook.edu.vn 1

Chương 1: Chương mở đầu

1.1. Bản chất kinh tế của thương mại

1.1.2. Bản chất kinh tế của thương mại

1.1.2.1. Một số cách tiếp cận khi nghiên cứu bản chất kinh tế của Thương mại

Nghiên cứu bản chất kinh tế của Thương mại chúng ta có nhiều cách tiếp cận khác

nhau. Trong giáo trình này chúng tôi sẽ đề cập tới 3 cách tiếp cận cơ bản nhất:

a. Thương mại - hoạt động kinh tế.

Nếu nhìn dưới góc độ một hoạt động kinh tế thì thương mại là một trong những hoạt

động kinh tế cơ bản và rất phổ biến trong nền kinh tế thị trường.

Mọi hoạt động thương mại đều bắt đầu bằng hành vi mua hàng và kết thúc bằng

hoạt động bán.Mục đích của hoạt động thương mại là nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Có thể

tóm tắt hoạt động thương mại bằng công thức sau: T - H - T' .

Đối tượng của các hoạt động thương mại là các hàng hóa vá dịch vụ. Chủ thể của

hoạt động thưong mại gồm những người bán (người sản xuất hàng hóa, người cung ứng

dịch vụ, thương gia ) và những người mua( người sản xuất, thương gia, những người tiêu

dùng).Tuy nhiên tham gia vào hoạt động thương mại còn có một số người khác như :

người môi giới, người đại lý thương mại ... Hoạt động thương mại xảy ra trong khâu lưu

thông, trên thị trường với những điều kiện kinh tế, xã hôi, luật pháp, chính tri, và môi

trường vật chất cụ thể.

Trong hành vi mua, người ta chuyển đổi hình thái giá trị của hàng hóa từ hình thái

tiền tệ sang hình thái hiện vật và cùng với quá trình này là sự chuyển đổi về sở hữu,

người mua đổi quyền sở hữu tiền tệ để có được quyền sở hữu hàng hóa. Nhờ vậy mà có

được quyền sử dụng sản phẩm cho việc thỏa mãn nhu cầu. Trong hành vi bán hàng, quá

trình diễn ra hoàn toàn ngược lại.

Hoạt động thương mại là một quá trình bao gồm các hoạt động cơ bản là mua và

bán. Ngoài các hoạt động cơ bản còn có các hoạt động hỗ trợ cho các hoạt động mua bán,

người ta gọi chung các hoạt động này là dịch vụ thương mại.

Dịch vụ thương mại gồm tất cả những hoạt động thương mại ngoài hoạt động

thương mại cơ bản (hoạt động mua và bán ), chúng phát sinh gắn với mua bán, hỗ trợ

cho mua bán được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả.

Hoạt động thương mại được tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận và

cùng có lợi. Vì thế quá trình mua bán vừa là quá trình cạnh tranh vừa là quá trình hợp tác

giữa người bán và người mua. http://www.ebook.edu.vn 2

Thông qua các hoạt động thương mại, người bán đạt được giá trị nhằm mục đích lợi

nhuận, người mua có được giá trị sử dụng để thỏa mãn các nhu cầu tiêu dùng khác nhau.

Chính nhờ hoạt động thương mại mà sản xuất và tiêu dùng nối liền với nhau trong điều

kiện của kinh tế hàng hóa.

b. Thương mại - khâu trao đổi (lưu thông) của quá trình tái sản xuất xã hội

Tái sản xuất xã hội gồm 4 khâu cơ bản: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng.

Bốn khâu này có quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau trong đó mối quan hệ

giữa sản xuất và tiêu dùng là mối quan hệ cơ bản nhất.

Là hình thái phát triển của trao đổi và lưu thông hàng hóa, thương mại được coi là

một khâu cơ bản của tái sản xuất. Thương mại chính là khâu trao đổi nằm trung gian giữa

sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện xã hội hóa sản xuất và lưu thông hàng hóa ngày

một phát triển, hàng hóa được tạo ra trong khâu sản xuất, sau đó được chuyển sang khâu

lưu thông qua các giai đoạn khác nhau của khâu lưu thông: Mua ---> Vận chuyển ---> Dự

trữ ---> Bán. Kết thúc khâu lưu thông, hàng hóa sẽ được chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng.

Trong điều kiện kinh tế hàng hóa, đại bộ phận các sản phẩm và dịch vụ được sản

xuất ra đều phải trải qua khâu lưu thông, thông qua hoạt động mua bán bằng tiền mới có

thể chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng để thỏa mãn nhu cầu khác nhau của xã hội. Vì thế

khâu lưu thông rất quan trọng. Nó là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Nền kinh tế hàng

hóa giống như một cơ thể sống. Trong đó, lưu thông hàng hóa, thương mại được xem như

hệ tuần hoàn. Thương mại phát triển, lưu thông hàng hóa thông suốt là biểu hiện của nền

kinh tế lành mạnh, thịnh vượng.

c. Thương mại - ngành kinh tế

Nếu nhìn dưới giác độ phân công lao động xã hội thì thương mại được coi là một

ngành kinh tế độc lập của nền kinh tế. Ngành thương mại chuyên đảm nhận chức năng tổ

chức lưu thông hàng hóa và cung ứng các dịch vụ cho xã hội thông qua việc thực hiện

mua bán nhằm sinh lợi.

1.1.2.2. Bản chất kinh tế của Thương mại

Nghiên cứu Thương mại dưới các góc độ cơ bản: Hoạt động kinh tế, khâu của quá

trình tái sản xuất xã hội cũng như góc độ ngành kinh tế của nền kinh tế quốc dân, chúng

ta đều nhận thấy đặc trưng chung nhất của Thương mại là buôn bán, trao đổi hàng hóa và

cung ứng dịch vụ gắn với tiền tệ và nhằm mục đích lợi nhuận.

Từ đó có thể rút ra bản chất kinh tế chung của Thương mại là:

Thương mại là tổng hợp các hiện tượng, các hoạt động và các quan hệ kinh tế gắn

và phát sinh cùng với trao đổi hàng hóa và cung ứng dịch vụ nhằmi mục đích lợi nhuận. http://www.ebook.edu.vn 3

Thương mại, tiếng Anh là "Commerce" , ngoài ra còn có thuật ngữ khác là Trade,

tiếng Pháp "Commerce", tiếng Latinh "Commercium", ... về cơ bản các từ này đều được

hiểu là buôn bán hàng hóa với mục đích sinh lợi.

Luật Thương mại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng ghi:

Hoạt động Thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi bao gồm: mua bán

hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động sinh lợi khác.

1.1.3. Phân loại Thương mại

1.1.3.1. Theo phạm vi hoạt động thương mại

Người ta phân thành Thương mại nội địa (nội thương) và Thương mại Quốc tế

(ngoại thương)

Thương mại nội địa có thể được phân thành: Thương mại thành thị và Thương mại

nông thôn, Thương mại vùng đặc biệt,thương mại biên giới, thương mại vùng sâu, vùng

xa, ...

Thương mại nội địa phản ánh những quan hệ kinh tế thị trường của các chủ thể kinh

tế của một quốc gia. Các hoạt động thương mại nội địa về cơ bản diễn ra trong phạm vi

biên giới của một quốc gia.

Thương mại Quốc tế bao gồm việc mua bán hàng hóa và dịch vụ qua biên giới quốc

gia có thể ở phạm vi toàn cầu (WTO), có thể ở phạm vi khu vực (EU, ASEAN ...) hoặc

thương mại song phương giữa 2 quốc gia. Thương mại quốc tế phản ánh những mối quan

hệ kinh tế thương mại giữa các chủ thể kinh tế của các quốc gia với nhau. Chúng tuân thủ

những luật lệ và những thông lệ buôn bán toàn cầu, khu vực và các hiệp định thương mại

ký kết song phương giữa các quốc gia.

Trong hoạt động ngoại thương, xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho nước

ngoài và nhập khẩu là việc mua hàng hóa và dịch vụ của nước ngoài.

Ngoại thương là hoạt động kinh tế đã có từ rất lâu, nhưng ngoại thương chỉ thực sự

phát triển trong thời đại Tư bản chủ nghĩa. Ngày nay toàn cầu hóa kinh tế thế giới và tự

do hóa thương mại là một xu hướng phổ biến, thì sự phát triển ngoại thương hết sức

mạnh mẽ. Ngoại thương không chỉ có ý nghĩa đơn thuần là sự trao đổi buôn bán với bên

ngoài mà thực chất cùng với các quan hệ kinh tế đối ngoại khác ngoại thương tham gia

vào phân công lao động quốc tế.

Thương mại nội địa diễn ra trên thị trường nội địa, ngoại thương là hoạt động

thương mại diễn ra trên thị trường quốc tế. Thị trường thế giới và thị trường nội địa là

những thị trường khác nhau vì vậy thương mại nội địa và ngoại thương được thực hiện

theo những hình thức và phương pháp hoàn toàn không giống nhau.

1.1.3.2. Theo các khâu của quá trình lưu thông

Người ta phân thành Thương mại bán buôn và thương mại bán lẻ. http://www.ebook.edu.vn 4

Thương mại bán buôn chủ yếu xảy ra trong lĩnh vực buôn bán các sản phẩm vật thể.

Chủ thể của hoạt động thương mại bán buôn là những nhà sản xuất và thương gia. Chúng

phản ánh các mối quan hệ kinh tế thương mại giữa những nhà sản xuất, giữa nhà sản xuất

với thương gia và giữa những người thương gia với nhau. Khi hoàn thành các hoạt động

mua bán buôn, hàng hóa vẫn chưa kết thúc quá trình lưu thông, chúng nằm lại trong khâu

sản xuất để sau khi kết thúc sản xuất lại tiếp tục quay trở lại lưu thông hoặc vẫn nằm

trong lưu thông để chờ bán cho người tiêu dùng cuối cùng.

Thương mại bán lẻ: phản ánh mối quan hệ buôn bán hàng hóa và các dịch vụ giữa

những nhà sản xuất, nhà cung ứng dịch vụ hoặc các thương gia với bên kia là những

người tiêu dùng cuối cùng. Khi hoàn thành các hoạt động mua, bán lẻ hàng hóa sẽ kết

thúc quá trình lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng để thỏa mãn những nhu cầu khác

nhau của xã hội.

Sự phân biệt giữa thương mại bán buôn và thương mại bán lẻ dựa chủ yếu về sự

khác biệt theo các khâu của quá trình lưu thông của sản phẩm. Bất kỳ mối quan hệ

thương mại nào mà một bên có sự tham gia của người tiêu dùng cuối cùng quan hệ

thương mại đó thuộc về thương mại bán lẻ và ngược lại thì đó là thương mại bán buôn.

Các hoạt động bán buôn diễn ra ở các chợ đầu mối, thị trường với trung tâm buôn bán

trong nước và quốc tế... Ngược lại, hoạt động bán lẻ diễn ra ở các chợ, các cửa hàng

chuyên doanh, tổng hợp, các siêu thị, hội chợ thương mại...

1.1.3.3. Theo đối tượng của hoạt động thương mại

Ngưới ta phân thành thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ.

Thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ là những khái niệm phân biệt với nhau

chủ yếu dựa vào sự khác biệt về đối tượng của hoạt động trao đổi trong thương mại. Nếu

thương mại hàng hóa về cơ bản là trao đổi các sản phẩm hữu hình thì Thương mại dịch

vụ là lĩnh vực trao đổi, mua bán các sản phẩm "vô hình" .

Thương mại dịch vụ là lĩnh vực rất rộng và phức tạp. Trong nền kinh tế hiện đại,

thương mại dịch vụ ngày càng phát triển mạnh mẽ. Thương mại dịch vụ tồn tại song song

cùng thương mại hàng hóa và ngày càng giữ vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của

xã hội hiện đại.

Thương mại hàng hóa gồm thương mại hàng tư liệu sản xuất và thương mại hàng

tiêu dùng.

Người ta có thể phân chia thương mại theo từng nhóm hàng. Ví dụ: Thương mại về

hàng công nghiệp, hàng nông sản, thực phẩm, thủy sản,hay theo mặt hàng Ví dụ như: gạo,

cà phê, chè hay sắt thép, máy nông nghiệp...

1.1.3.4. Theo kỹ thuật trao đổi, buôn bán

Người ta phân thành thương mại truyền thống và thương mại điện tử. http://www.ebook.edu.vn 5

Sự phân biệt giữa hai khái niệm này dựa trên sự khác biệt về các phương thức mua

bán trong thương mại. Các phương thức mua bán trong thương mại truyền thống được

xẩy ra trong môi trường tự nhiên ở đó người mua, người bán thường tiếp xúc trực tiếp

trên thị trường dưới nhiều hình thức khác nhau.Trong thương mại truyền thống người

mua người bán gặp gỡ trực tiếp, tiến hành các giao dịch mua bán ở các chợ, siêu thị,

trung tâm thương mại, hội chợ triển lãm... thương mại truyền thống đã có từ rất lâu cùng

với sự ra đời của trao đổi .

Ngược lại, thương mại điện tử là một phương thức trao đổi mua bán bằng phương

pháp điện tử trong môi trường điện tử. Thương mại điện tử chỉ xuất hiện trong xã hội

hiện đại. Hiện nay thương mại điện tử đang phát triển rất nhanh chóng trên toàn thế giới

và đó là xu hướng phát triển tất yếu vừa là yếu tố hợp thành của nền kinh tế số hóa.

Theo định nghĩa phổ biến hiện nay, thương mại điện tử là phương thức hoạt động

thương mại bằng các phương pháp điện tử, là việc trao đổi thông tin thương mại thông

qua các phương tiện công nghệ điện tử mà không cần phải in ra giấy trong bất cứ công

đoạn nào của quá trình giao dịch.

Các phương tiện điện tử được sử dụng trong phương thức mua bán này rất đa dạng:

điện thoại, máy fax, truyền hình,các hệ thống thiết bị công nghệ thanh toán điện tử, các

mạng nội bộ (intranet), mạng ngoại bộ (extranet), mạng toàn cầu internet...

Cần lưu ý rằng "Thương mại điện tử" còn được hiểu theo nghĩa rộng hơn so với

cách hiểu thông thường chỉ là buôn bán các hàng hóa và dịch vụ. Trong thực tế, áp dụng

thương mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của gần như tất cả các hoạt động

kinh tế.

Thương mại điện tử sẽ trở thành phương thức thương mại phổ biến trong xã hội

tương lai, tuy nhiên thương mại truyền thống vẫn giữ nguyên giá trị về kinh tế và văn hóa,

nó vẫn tồn tại song song cùng với thương mại điện tử mặc dù kinh tế thị trường và

thương mại thế giới không ngừng mở rộng và phát triển.

1.1.3.5. Phân loại theo mức độ cản trở thương mại

Người ta phân thành thương mại có bảo hộ và thương mại tự do hóa.

Thương mại bảo hộ thường được các quốc gia áp dụng trong một số lĩnh vực nhạy

cảm để bảo vệ các lợi ích quốc gia hoặc để bảo vệ sản xuất trong nước, nhất là đối với

những ngành công nghiệp non trẻ, mới hình thành. Các biện pháp thường được sử dụng

trong thương mại bảo hộ là thuế quan và các biện pháp phi thuế quan như: các biện pháp

hành chính, cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép, các quy định kỹ thuật, các tiêu chuẩn...

đồng thời các quốc gia còn có thể áp dụng nhiều chính sách ưu đãi đối với sản xuất trong

nước. http://www.ebook.edu.vn 6

Thương mại tự do hóa được thể hiện qua việc xóa bỏ và giảm thiểu hàng rào thuế

quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, bảo đảm quyền tự do kinh doanh cho các thương

nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa trong nước và quốc tế lưu thông thông suốt.

Thương mại tự do hóa có nhiều cấp độ và hình thức khác nhau.

3.2.2. Cung ứng và nguồn cung ứng hàng hóa

3.2.2.1. Khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng tới cung ứng hàng hoá

a. Khái niệm

Cung ứng hàng hoá là tổng trị giá và cơ cấu hàng hoá hiện có và sẽ có bán trên thị

trường đề đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán trong một khoảng thời gian nhất định.

Cung ứng hàng hoá bao gồm những hàng hoá là các thành phẩm đã kết thúc quá

trình sản xuất, những bán thành phẩm sẽ được hoàn tất quá trình sản xuất để đưa vào lưu

thông. Cung ứng hàng hoá thể hiện ở cả tổng trị giá và lượng hàng hoá đưa ra thị trường

từ các nguồn hàng khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư

và xã hội trong một khoảng thời gian xác định.

b. Các yếu tố ảnh hưởng tới cung ứng hàng hoá bao gồm http://www.ebook.edu.vn 23

Yếu tố về sản xuất như năng lực sản xuất trong nước thể hiện ở quy mô vốn, nhân

lực và trình độ công nghệ, chu kỳ sống của sản phẩm. Các yếu tố đó ảnh hưởng tới sự

phát triển nguồn hàng trong nước, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng, quy mô và cơ

cấu cũng như thời gian cung ứng hàng hoá trên thị trường. Ngoài ra, yếu tố sản xuất còn

phụ thuộc vào công tác nghiên cứu và triển khai, phát triển sản phẩm.

Yếu tố về nguồn hàng nhập khẩu. Quy mô, cơ cấu, khoảng cách địa lý và tính ổn

định hay sự thay đổi của nguồn hàng nhập khẩu có ảnh hưởng trực tiếp đến cung ứng

hàng hoá trong nước. Ngoài ra, năng lực, uy tín của các nhà cung cấp nước ngoài và yếu

tố xuất khẩu cũng ảnh hưởng tới hoạt động cung ứng đối với các hàng hoá nhập khẩu để

lưu thông trên thị trường nội địa.

Yếu tố về thị trường. Giá cả hàng hoá và các sản phẩm thay thế, những thay đổi của

nhu cầu, tình hình cạnh tranh trong nước và quốc tế, ... có thể ảnh hưởng tới quy mô hay

cơ cấu cung ứng hàng hoá trên thị trường.

Các chính sách vĩ mô đối với cung và nguồn hàng bao gồm các chính sách thương

mại, đầu tư, tài chính, đất đai, tài nguyên môi trường, ...và quy hoạch phát triển nguồn

hàng.

3.2.2.2. Nguồn hàng cung ứng trên thị trường

a. Khái niệm

Nguồn hàng là nguồn tạo ra hàng hoá để cung ứng trên thị trường. Đó là nơi phát

ra các luồng hàng hoá vận động trên thị trường trong nước và quốc tế, là nơi cung ứng

hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu dùng, sản xuất nội địa và xuất khẩu. Tuy nhiên, nguồn

hàng không phải đơn thuần là khái niệm chỉ vị trí địa lý, nơi khởi nguồn các dòng chảy

của hàng hoá vào kênh phân phối, mà còn hàm chứa quy mô, cơ cấu và sự phân bố nguồn

hàng, tiềm năng đưa hàng hoá ra thị trường trong một khoảng thời gian nhất định.

b. Tạo lập nguồn hàng cung ứng trên thị trường

Nguồn hàng có 2 loại: nguồn hàng trong nước và nguồn nhập khẩu. Mỗi nguồn hàng

có vị trí, vai trò quan trọng khác nhau đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Một mặt quy mô, cơ cấu và sự phân bố nguồn hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt

động cung ứng hàng hoá trên thị trường. Mặt khác, sự phát triển của nguồn hàng phụ

thuộc vào sản xuất, các quy hoạch phát triển kinh tế và chính sách vĩ mô của chính phủ

về tài chính, thương mại và đầu tư cũng như các hỗ trợ khác về hạ tầng cơ sở, các yếu tố

của môi trường quốc tế.

Nhà nước cần phải có chính sách tạo lập và phát triển nguồn hàng, đảm bảo nguồn

hàng mang tính ổn định, hợp lý và cân đối. Doanh nghiệp cũng cần chủ động tham gia

đầu tư vào các khu vực nguồn hàng để tạo ra cơ sở vật chất cho hoạt động cung ứng liên

tục, mang tính cạnh tranh và có hiệu quả, nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế.. http://www.ebook.edu.vn 24

Chương 4: Thương mại dịch vụ , thương mại quyền sở hữu trí tuệ và thương mại

liên quan đến đầu tư

Chương 5: Nguồn lực và hiệu quả thương mại

5.1.3. Chi phí nguồn lực thương mại

5.1.3.1. Khái niệm chi phí nguồn lực thương mại

Đó là sự biểu hiện bằng tiền những hao phí cần thiết về vật chất như hao mòn tài sản,

phương tiện và hao phí sức lao động cũng như chất xám của thương nhân, các chủ thể

kinh doanh và các nhà quản lý thương mại trong quá trình tổ chức lưu thông hàng hoá và

cung ứng dịch vụ trên thị trường.

Phí tổn về nguồn lực thương mại bao gồm tổng số và cơ cấu chi phí được phân bổ

vào quá trình lưu thông và trao đổi dịch vụ có sự phân biệt đối với hoạt động đầu tư và

kinh doanh thường xuyên.

Xác định, tính toán và phân tích phí tổn nguồn lực thương mại, có ý nghĩa quan

trọng trong đánh giá khả năng cạnh tranh và hiệu quả thương mại của quốc gia trong từng

thời kỳ.

5.1.3.2. Các loại chi phí nguồn lực thương mại

Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, người ta phân chi phí nguồn lực thương mại

thành nhiều loại theo các tiêu chí sau:

- Theo chức năng thương mại, gồm chi phí phục vụ lưu chuyển hàng hoá (còn gọi

chi phí lưu thông thuần tuý) và chi phí phục vụ vận động và giữ gìn, hoàn thiện giá trị sử

dụng hàng hoá cho tiêu dùng (chi phí lưu thông bổ sung). Đối với thương mại dịch vụ,

chi phí nguồn lực thương mại phục vụ cho cả mục đích sản xuất, phân phối cung ứng,

marketing và tổ chức tiêu dùng các dịch vụ.

- Theo đặc điểm hạch toán, gồm chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí tiền

lương và tiền công, thù lao trả cho người lao động, chi phí về tài chính như tiếp cận

nguồn vốn, lãi vay, thuế, chí phí về tổn thất hàng hoá, hao mòn vô hình...

- Theo tính chất của chi phí, gồm chi phí bất biến (các khoản chí phí tương đối ổn

định so với kết quả thương mại) và khả biến (thay đổi theo kết quả thương mại).

- Về phương diện kinh tế, có thể phân ra chi phí cần thiết cho lưu thông (hao tổn vật

chất, hao phí sức lao động để tổ chức quá trình lưu thông) và chi phí không phải cần thiết,

mà do chính lưu thông tạo nên (như các loại thuế, hao hụt hàng hoá). Mặt khác, ngoài chi

phí được hạch toán thông thường còn bao hàm cả chi phí cơ hội của các nguồn lực, được

khai thác hoặc sử dụng trong thương mại. http://www.ebook.edu.vn 46

- Theo nội dung hoạt động, gồm chi phí cho hoạt động thường xuyên và chi phí cho

hoạt động đầu tư.

Các hoạt động thường xuyên cần các nguồn lực chi phí mang tính trực tiếp, chẳng

hạn khấu hao để bù đắp hao mòn tài sản cố định trong quá trình sử dụng, tiền lương gia

nhập vào chi phí lưu thông phải được bù đắp trực tiếp từ giá bán hàng hoá.

Các hoạt động đầu tư, không thể áp dụng cách bù đắp như vậy, mà cần lấy thu nhập

từ GDP do thương mại tạo ra và GDP gián tiếp thương mại thúc đẩy các ngành, lĩnh vực

khác tạo nên hoặc huy động nguồn vốn quốc tế để trang trải.

- Theo thời gian gồm chi phí nguồn lực trong ngán hạn, trung hạn và dài hạn.

Trên tầm vĩ mô các chi phí nguồn lực trong ngắn hạn khoảng 2-3 năm, trung hạn

khoảng 5-7 năm và dài hạn từ 10-15 năm trở lên.

5.2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả thương mại

Hiệu quả thương mại chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Nó tác động trên

nhiều phương diện, tới kết quả, chi phí hoặc tác động đồng thời đến cả kết quả và các

nguồn lực sử dụng, làm tăng hoặc giảm hiệu quả thương mại. Dưới đây là các nhóm nhân

tố chủ yếu:

a. Môi trường vĩ mô

- Các nhân tố môi trường trong nước.

Môi trường trong nước bao gồm rất nhiều các yếu tố như: địa kinh tế; sự ổn định

chính trị và kinh tế vĩ mô; mức độ đầy đủ, đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật;

sự ổn định, nhất quán và minh bạch của các chính sách; mức độ cải thiện các thủ tục hành

chính; hiệu lực của bộ máy tổ chức và hiệu suất làm việc của đội ngũ công chức; độ mở,

tính năng động và sức cạnh tranh của nền kinh tế trong nước.

- Các nhân tố môi trường quốc tế.

Môi trường quốc tế chứa đựng cả những cơ hội và thách thức, ảnh hưởng tới hiệu

quả thương mại của doanh nghiệp, của ngành và nền kinh tế, bao gồm:

Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới làm thay đổi nhu cầu và cung ứng hàng

hoá, dịch vụ thúc đẩy thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài; Cạnh tranh trong thương

mại ngày càng quyết liệt, gay gắt hơn làm thay đổi vị trí dẫn đạo thị trường; hệ thống tài

chính quốc tế phát triển tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư; xu hướng sáp nhập các

công ty lớn, các tập đoàn đa quốc gia trong nhiều lĩnh vực để chi phối thị trường khu vực

và toàn cầu; xu hướng các rào cản thương mại đan xen với quá trình tự do hoá thương

mại diễn ra ở cả các nước phát triển và đang phát triển; những thay đổi trong đàm phán

và các quy định của hệ thống WTO.

b. Nhân tố về thị trường

Đây là nhóm nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thương mại của mỗi quốc

gia, bao gồm:

- Dung lượng thị trường.

Xu hướng phát triển về quy mô, dung lượng và thay đổi cơ cấu thị trường của các

nước nhập khẩu cũng như thị trường nội địa; sự mở cửa thị trường và giảm bớt rào cản kỹ

thuật trong thương mại; sự phát triển các thị trường mới.

- Khách hàng.

Quy mô và cơ cấu nhu cầu; thu nhập và hướng sử dụng thu nhập, quyết định mua

sắm và đầu tư của người tiêu dùng; sự ổn định và phát triển khách hàng; sự sẵn sàng mua http://www.ebook.edu.vn 50

và trả giá; tập quán thói quen và sự tín nhiệm của khách hàng; sự liên kết giữa khách

hàng và các nhà cung cấp.

- Các nhà cung cấp.

Số lượng các nhà cung cấp; quy mô, cơ cấu, chất lượng, giá cả của hàng hoá; sự

phát triển các dịch vụ hỗ trợ thương mại; tính ổn định của nguồn hàng và sự đa dạng các

nhà cung cấp; năng lực tài chính, công nghệ và quản trị của nhà cung cấp; uy tín trong

thực hiện hợp đồng và giao hàng đúng hạn.

- Đối thủ cạnh tranh.

Số lượng các đối thủ, các hình thức và thủ pháp cạnh tranh; những ưu thế và bất lợi

thế cạnh tranh của đối thủ; những hỗ trợ thương mại, cạnh tranh trong nước và quốc tế;

các xu hướng cạnh tranh đa phương.

c. Sự phát triển của ngành và các doanh nghiệp

- Sự phân công chuyên môn hoá, liên kết và hợp tác của ngành thương mại

Sự phát triển của phân công chuyên môn hoá về các dịch vụ có tính chất sản xuất

trong thương mại; mối quan hệ hợp tác giữa ngành thương mại với các ngành sản xuất

vật chất và dịch vụ hỗ trợ; sự liên kết trong nội bộ ngành như bán buôn và bán lẻ, hệ

thống thương mại nội địa và xuất nhập khẩu, thương mại của các chủ thể thuộc thành

phần kinh tế nhà nước với các thành phần khác; sự liên kết hợp tác giữa hệ thống kinh

doanh vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước trong chuỗi sản xuất,

cung ứng và tiêu thụ sản phẩm; sự phát triển thương mại theo ngành, nhóm hàng và khu

vực lãnh thổ. Đây là những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả thương mại cả về kinh tế và

xã hội.

Ngoài ra, sự phát triển các hình thức thương mại mới cũng là một trong những nhân

tố thúc đẩy mơ rộng lưu thông hàng hoá, nâng cao hiệu quả thương mại của quốc gia.

- Chiến lược và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp

Lợi thế so sánh của đất nước được khai thác và sử dụng có hiệu quả hay không suy

cho cùng được thể hiện ở doanh nghiệp. Do vậy, hiệu quả hoạt động và chiến lược kinh

doanh là nhân tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là bộ phận của hiệu quả ngành và nền kinh tế.

Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp liên quan tới việc áp dụng các quy trình

công nghệ mới; sử dụng nhiều nguồn cung ứng mới, đa dạng khác nhau; sử dụng các dịch

vụ phân phối hợp lý, giao hàng đúng hạn; các biện pháp cải thiện về chất lượng và năng

suất. Hiệu quả hoạt động có quan hệ chặt chẽ với chiến lược của doanh nghiệp. Chiến

lược kinh doanh tạo nên các công cụ cạnh tranh hữu hiệu cho doanh nghiệp, không chỉ

bằng chi phí mà phải bằng cả việc mang lại các lợi ích cho khách hàng trong các dịch vụ

phân phối giá trị gia tăng. Xác định tầm nhìn chiến lược, mang tính dài hạn để định http://www.ebook.edu.vn 51

hướng, lựa chọn mục tiêu và mở rộng kinh doanh trên cả thị trường trong và ngoài nước

trên cơ sở thay đổi cách tư duy cũ, phát huy nội lực. Tạo vị thế cạnh tranh khác biệt, xây

dựng các nhãn hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp mang tầm quốc tế.

- Trình độ, năng lực của đội ngũ doanh nhân

Đây là nhân tố đóng vai trò chủ chốt đối với việc nâng cao hiệu quả thương mai.

Doanh nhân có bản lĩnh kinh doanh vững vàng, có trình độ, năng lực chuyên môn và

quản trị sẽ biết tìm kiếm, khai thác các nguồn lực và kết hợp chúng trong hoạt động của

doanh nghiệp một cách tốt nhất nhằm mang lại hiệu quả. Doanh nhân cũng là lớp người

xây dựng chiến lược kinh doanh để tận dụng cơ hội và vượt qua các thách thức của cuộc

cạnh tranh nhằm vươn lên khẳng định vị thế của mình trên thị trường, góp phần nâng cao

hiệu quả thương mại của ngành và nền kinh tế.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#jar