phao dai so 28-70

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Senor Roldan ngồi sau chiếc bàn làm việc của mình ở trung tâm Escortes Belen, đang rất hài lòng với bản thân vì đã khôn khéo chặn một âm mưu đáng khinh bỉ của cảnh sát nhằm bẫy anh ta. Một nhân viên giả mạo giọng Đức để yêu cầu một cô gái cho một đêm, đúng là một cái bẫy. Không biết bọn họ còn nghĩ ra trò gì nữa đây. Điện thoại trên bàn bỗng reo chuông. Senor Roldan tự tin cầm lấy ống nghe. - Buenas noches, Escortes Belen. - Xin chào buổi tối - Người bên kia đáp lại bằng một giọng Tây Ban Nha hơi nhanh. Anh ta nói giọng mũi, giống như hơi bị cúm - Đây có phải là khách sạn không? - Không, thưa ngài, số điện thoại ngài vừa gọi là số nào thưa ngài - Senor Roldan không muốn rơi vào một cái bẫy lần nữa trong tối hôm nay. - 34 62-10 - người bên kia trả lời. Roldan tức giận. Giọng nói này nghe rất quen. Anh ta đang cố nhớ xem - có thể là người vùng Burgos chăng? - Ngài đã bấm đúng số thưa ngài - Roldan tò mò - Nhưng đây là dịch vụ bạn đồng hành. Bên kia ngừng một lúc. - Ồ… tôi hiểu. Tôi xin lỗi. Có ai đó viết số điện này xuống, tôi nghĩ đó là số điện khách sạn. Tôi đang thăm quan khu vực này, từ Burgos đến. Xin lỗi đã làm phiền anh. Chúc buổi tối… - Espere! Xin đợi một lát - Senor Roldan không thể ngăn mình được; bản năng săn tiền trong anh ta trỗi dậy. Đây có thể là người mới đến? Một khách hàng từ miền Bắc? Anh ta không thể để sự hoài nghi của mình làm tụt doanh số kinh doanh. - Anh bạn - Roldan nói - Tôi nhận ra giọng vùng Burgos của anh bạn rồi. Tôi cũng từ Valentica đây. Cái gì đã đưa anh bạn đến với Seville vậy? - Tôi bán đồ trang sức. Ngọc trai Majorica. - Majorica! Thật chứ! Chắc anh đi rất nhiều nơi? Giọng bên kia ho hung hắng. - Ô, vâng, đúng thế. - Anh đến Seville vì công việc à - Roldan nhấn mạnh. Không còn nghi ngờ gì nữa, người này không phải là cảnh sát. Anh ta còn là khách sộp chẳng biết chừng - Để tôi đoán xem - một người bạn đưa cho anh số của chúng tôi? Anh ta nói với anh hãy gọi cho chúng tôi. Đúng vậy không? Giọng bên kia rõ ràng hơi bối rối. - Ô, thực ra không hẳn là như thế. - Không có gì phải ngượng cả, Senor. Chúng tôi là dịch vụ bạn đồng hành. Không có gì xấu hổ cả. Những cô gái đáng yêu, bữa tối, chỉ vậy thôi. Ai đưa cho anh số điện thoại của chúng tôi vậy? Có lẽ anh ta là khách hàng thường xuyên. Tôi có thể giảm giá cho anh khá đấy! Giọng bên kia hơi bối rối. - Ah… thực ra không có ai đưa cho tôi số điện thoại này cả. Tôi nhìn thấy nó trong một tấm hộ chiếu. Tôi đang cố tìm chủ nhân của nó. Tim Roldan trùng xuống. Người đàn ông này không phải là khách hàng. - Anh vừa nói là anh tìm thấy số điện thoại này phải không? Đúng vậy, tôi tìm thấy trong công viên. Số của anh được viết trong một tờ giấy kẹp bên trong. Tôi nghĩ có thể đó là số điện thoại khách sạn của anh ta. Tôi định trả lại hộ chiếu cho anh ta: Xin lỗi. Tôi sẽ gửi chuyển cho cảnh sát trên đường đến… - Perdon - Roldan ngắt lời ngay - Tôi có một ý hay hơn - Roldan rất tự hào về sự nhanh nhạy của mình. Đến cảnh sát ở Guardia có nghĩa là anh ta bị mất một khách hàng. - Thử cách này xem - Anh ta gợi ý - Vì người chủ tấm hộ chiếu đó có có điện thoại này nên anh ta chắc là khách hàng ở của chúng tôi. Có lẽ anh sẽ khỏi phải đến đồn cảnh sát. Giọng bên kia lưỡng lự. - Tôi không biết. Có lẽ tôi nên… - Đừng vội vàng anh bạn. Tôi thật xấụ hổ phải thú thật với anh rằng cảnh sát ở Seville không hoạt động hiệu quả như ở miền Bắc đâu. Cho tôi tên của anh ta đi. Tôi có thể giúp anh ta lấy lại được hộ chiếu ngay lập tức. - Vâng,… Tôi nghĩ là không có vấn đề gì… - Tiếng vài tờ giấy được lật, và giọng nói cất lên - Đó là tên tiếng Đức. Tôi không biết phát âm từ đó… Gusta… Gustafson? Roldan không nhận ra cái tên đó. Nhưng khách hàng của anh ở khắp nơi trên thế giới. Họ không bao giờ để lại tên thật. - Ông ta trông như thế nào, trong ảnh ấy? Có lẽ tôi có thể nhận ra ông ta chăng? - Oh…- Giọng nói cất lên - Khuôn mặt ông ta rất rất béo. Roldan lập tức nhận ra ngay người này. Anh vẫn nhớ khuôn mặt phì nộn đó. Đó là người cặp với Rocio. Thật tồi tệ. Có hai cuộc gọi về tên người Đức này trong một đêm. - Ông Gustafson - Roldan cố cười mỉm. - Tất nhiên, tôi biết rất rõ người này. Nếu anh mang hộ chiếu đến đây, tôi sẽ chuyển cho anh ta. - Tôi không có xe ô tô - Giọng nói cắt ngang - Hay là anh nên đến chỗ tôi? - Thực ra… - Roldan nói nước đôi - Tôi không thể rời máy điện thoại được. Nhưng nếu không quá xa, nếu anh có thể… - Tôi xin lỗi, muộn quá rồi. Có một sở cảnh sát ở gần đây. Tôi sẽ ghé vào đó. Vậy nếu anh gặp ông Gustafson, nhờ ông nhắn lại cho ông ấy tên đồn cảnh sát cũng được. - Không, xin đợi một chút! - Roldan kêu lên - Cảnh sát không can phải tham gia vào việc này. Anh nói là anh đang trên đường vào thành phố đúng không? Anh có biết khách sạn Alfonso XIII không? Đó là khách sạn xịn nhất thành phố. - Có, tôi biết - Giọng nói trả lời - Tôi biết khách sạn Alfonso XIII. Gần đây thôi! - Tuyệt vời! Tối nay ông Gustafson là khách ở đó. Có thể ông ta vẫn còn ở đó. Giọng nói lưỡng lự. - Tôi hiểu,… tôi cho là không vấn đề gì. - Tuyệt vời! Ông ấy đang dùng bữa với một trong những người đồng hành của chúng tôi trong nhà hàng của khách sạn đó - Roldan biết có thể bây giờ hai người đó đang ở trên giường. Nhưng anh ta cần phải cẩn thận không làm mất lòng khách hàng phật ý - Chỉ cần đưa hộ chiếu cho nhân viên bảo vệ, tên anh ta là Manuel. Nói với anh ta là tôi cử anh đến. Yêu cầu anh ta chuyển nó cho Rocio. Tối nay Rocio là bạn đồng hành của ông Gustafson. Cô ấy sẽ đưa hộ chiếu cho ông ta. Anh có thể ghi lại tên và địa chỉ - có lẽ ông Gustafson sẽ gửi lởi cảm ơn đến anh. - Một ý kiến hay. Khách sạn Alfonso XllI. Rất tốt. Tôi sẽ đến đó ngay bây giờ. Cảm ơn anh đã giúp đỡ! David Becker gác máy - Alfonson XIII. - Anh cười thầm - Chỉ cần biết cách hỏi thôi. Một lúc sau, một bóng đen lặng lẽ theo sau Becker trên đường Calle Delicias hoà mình vào ban đêm tĩnh lặng ở Andalusian. Chương 29 Vẫn còn thấy khó chịu vì cuộc chạm trán với Hale, Susan đưa mắt qua những bức tường kính của Node 3. Crypto vắng trơn, Hale giờ đã chịu yên và có vẻ rất chăm chú với công việc của mình. Susan ước gì không phải nhìn thấy mặt anh ta ở đây. Cô tự hỏi có nên gọi cho Strathmore hay không. sếp có thể sẽ giúp cô tống cổ anh ta đi, dẫu sao thì rõ ràng anh ta cũng chẳng có lý do gì mà lại có mặt ở đây vào ngày thứ bảy cả. Tuy nhiên, Susan cũng hiểu nếu như bị đuổi ra ngoài vô cớ chắc chắn Hale sẽ nghi ngờ. Và anh ta có thể sẽ dò hỏi các mật mã viên khác xem có chuyện gì. Cuối cùng cô quyết định cứ mặc kệ Hale, cô nghĩ nếu không có việc gì quan trọng chắc anh ta cũng sẽ sớm rời khỏi chỗ này. Một thuật toán không giải nối. Susan thở dài, cô lại nghĩ đến Pháo Đài Số. Đến giờ cô vẫn không tin được rằng con người có thể nghĩ ra một thuật toán phức tạp đến thế, nhưng bằng chứng đã rõ ràng, TRANSLTR hoàn toàn vô hiệu trước Pháo Đài Số. Susan chợt nghĩ đến Strathmore, ông đối mặt với thảm hoạ này một cách thật can trưởng. Làm tất cả những gì cần thiết và vẫn rất bình tĩnh. Đôi khi Susan cảm nhận được một phần tính cách của David trong con người Strathmore, họ đúng là có nhiều điểm tương đồng, cả hai đều rất kiên trì, sống hết mình, và thông minh. Đã có lúc Susan nghĩ rằng nếu không có cô có lẽ Strathmore đã đi chệch hướng, chính niềm say mê thuần khiết mà cô dành cho ngành mật mã đã giúp ông giữ vững được con đường mà mình đang đi, giúp ông vượt lên trên những cám dỗ của đời sống chính trị đầy sóng gió và luôn gợi cho ông nhớ về những ngày đầu tiên khi ông còn là một nhân viên giải mã. Bù lại, Susan cũng nhận thấy cô có thể trông cậy vào Strathmore, ông che chở cho cô trong cái thế giới mà con người như phát điên phát cuồng vì quyền lực này, ông nâng đỡ cô trong công việc, bảo vệ cô và, như chính ông vẫn thường đùa: biến những giấc mơ của cô thành hiện thực. Cô không đơn thuần coi đó là những lời nói đùa, cô biết đó là sự thật, chẳng phải ông chính là người đã gọi điện mời David Becker đến với NSA vào buổi chiều định mệnh đó sao? Ý nghĩ của cô lại hướng về David, một cách bản năng, cô đưa mắt nhìn cái giá nhỏ bên cạnh bàn phím vi tính. Có một bản fax nhỏ được đính ở đó. Bản fax này được đính vào đó từ khoảng bảy tháng trước, đó là bản mật mã duy nhất mà cho đến nay Susan vẫn chưa tài nào giải được. Bản fax đó là của David, cô đã đọc đi đọc lại cả trăm lần. PLEASE ACCEPT THE HUMBLE FAX (Xin em hãy nhận bản fax này như lời xin lỗi) MY LOVE FOR YOU IS WITHOUT WAX (Tình yêu anh dành cho em sẽ không có chỗ cho bất cứ sự giận dỗi nào nữa) Anh gửi cho cô bản fax này sau khi hai người có một trận cãi nhau nho nhỏ. Trong suốt mấy tháng ròng, cô đã xin anh giải mã ý nghĩa của nó, nhưng anh đều từ chối. Without Wax (không có chỗ cho bất cứ sự giận dỗi nào nữa), rõ ràng là anh đang trêu lại cô. Trước đây, Susan đã hướng dẫn cho David khá nhiều về việc giải mãi và để trêu anh cô đã dùng các phương pháp đơn giản để mã hoá tất cả những thông điệp giữa hai người từ danh mục hàng hoá khi đi chợ cho đến những lời lê yêu đương. Và dần dần, David đã trở thành một mật mã viên khá xuất sắc. Rồi David quyết định đáp lễ cho Susan, anh bắt đầu bằng cách ký dưới tất cả các bức thư anh gửi cho cô dòng chữ đó: "Without Wax (không có chỗ cho bất cứ sự giận dỗi nào nữa), David". Susan nhận được rất nhiều những bức thư như vậy của David, chúng đều được kết thúc theo cùng một cách như vậy. Mặc cho cô gạn hỏi ra sao anh cũng không giải thích, khi nào cô thắc mắc anh chỉ cười và nói: "Em là một chuyên gia mật mã mà".  Cô, một chuyên gia hàng đầu của NSA, đã thử mọi cách có thể từ các phép thế, các hộp mã hoá đến các phép đảo chữ cái. Cô đã thử cho cụm từ "Without Wax" (không có chỗ cho bất cứ sự giận dỗi nào nữa) vào chạy trong máy vi tính, đặt lệnh tái sắp xếp các chữ cái nhằm tạo ra các cụm từ mới. Nhưng tất cả những gì cô nhận được là dòng chữ "TAXI HUT WOW" (xe taxi-Túp lều- Oa). Bây giờ thì cô tin chắc là không chỉ có Ensei Tankado mới có thể viết ra những dòng mã không thể giải nổi. Ý nghĩ của cô bị gián đoạn bởi tiếng mở cửa, Strathmore bước vào. - Susan này, đã tìm được điều gì chưa? - Strathmore nhìn thấy Greg Hale, ông dừng ngay lại. - Ô, chào anh Hale! - ông cau mày, đôi mắt hơi nhíu lại - Làm việc vào thứ Bảy? Lý do của hành vi đáng biểu dương này là gì thế? Hale cười: - Tôi chỉ cố gắng hoàn thành phần việc của mình thôi! - Tôi thấy rồi! - Strathmore hạ giọng, rõ ràng là ông đang cân nhắc cái gì đó. Chỉ sau một thoáng, ông như đã quyết định sẽ không đả động gì đến Hale nữa, quay sang Susan ông nói – Cô Fletcher, tôi có thể nói chuyện với cô một lát ở ngoài không? Susan hơi bối rối. - À… vâng, thưa sếp! - Cô liếc mắt qua màn hình vi tính của mình rồi rảo bước đi qua chỗ Greg Hale - Sếp đợi một chút. Chỉ với một vài thao tác trên bàn phím, cô đã khởi động chương trình Screenlock (Khoá màn hình), đây là một tiện ích bảo mật trên máy vi tính. Tất cả các máy tính tại Node 3 đều được cài đặt tiện ích này. Do các máy tính tại đây luôn phải hoạt động liên tục cả ngày, Screenlock giúp các mật mã viên có thể yên tâm rời máy mà không sợ bị ai đụng đến các file được lưu trên máy của họ. Susan nhập một mật mã gồm 5 ký tự và ngay lập tức màn hình máy tính của cô chuyển sang màu đen. Nó sẽ chỉ có thể trở lại hoạt động như cũ nếu Susan quay lại và nhập đúng mật mã mà cô đã cài đặt. - Anh ta làm cái quái gì ở đấy thế - Strathmore hỏi ngay khi Susan vừa bước ra khỏi Node 3. - Như thường lệ, chẳng làm gì cả - Susan trả lời. Strathmore trông có vẻ khá lo ngại: - Anh ta có thắc mắc gì về TRANSLTR không? - Không đâu, nhưng nếu anh ta tiếp cận Run-Monitor và phát hiện ra con số 17giờ thì nghĩ kiểu gì cũng sẽ thắc mắc. Strathmore cân nhắc: - Anh ta không có lý do gì để tiếp cận Run Monitor cả! Susan nhìn sếp. - Ông muốn tống Hale khỏi đây à? - Không, cứ mặc anh ta! - Strathmore liếc mắt về phía phòng An ninh hệ thống - - Chartrukian đã về chưa? - Tôi không rõ, tôi không thấy anh ta đâu cả! - Lạy chúa! - Strathmore bực bội - Chẳng khác gì một gánh xiếc. Ông đưa tay lên xoa cằm, sau mấy chục giờ không cạo râu khuôn mặt ông bây giờ như sạm đi râu ria lởm chởm. - Chương trình tìm địa chỉ có phát hiện được gì không? Tôi như ngồi trên đống lửa rồi đấy! - Chưa có gì cả, ông có tin của David không? Strathmore lắc đầu: - Tôi đã yêu cầu cậu ấy không liên lạc gì cho đến khi lấy được chiếc nhẫn. Susan ngạc nhiên: - Tại sao lại không? Nhỡ ra anh ấy cần được giúp đỡ thì sao? Strathmore nhún vai: - Tôi không thể ngồi đây mà giúp cậu ta được cậu ta phải tự xoay sở thôi, mà tôi cũng không muốn nói chuyện qua điện thoại vì rất dễ bị nghe trộm. Susan mở to mắt chú ý: - Nghĩa là sao ạ? Strathmore cảm thấy mình đã nhỡ mồm, ông cười xoà an ủi Susan. David vẫn ổn mà, tôi chỉ muốn cẩn thận một chút thôi. Cách chỗ hai người nói chuyện khoảng vài chục bước chân, sau bức tường kính mầu của Node 3, Greg Hale đang đứng cạnh máy vi tính của Susan. Màn hình vẫn toàn một màu đen. Hale để mắt chú ý theo dõi Strathmore và Susan, rồi anh ta đưa tay vào ví rứt ra một tấm thẻ và đọc nó. Nhìn lại, biết chắc Strathmore và Susan vẫn đang nói chuyện Hale cẩn thận gõ năm ký tự trên bàn phím máy tính của Susan, chỉ thoáng một lát màn hình hoạt động trở lại. - Chuyện nhỏ! - Hale cười thầm. Việc ăn trộm mật khẩu của các máy tính trong Node 3 thực sự quá đơn giản với Hale. Tại Node 3, tất cả các máy tính đều được trang bị cùng một loại bàn phím có thể dễ dàng tháo lắp. Một buổi tối Hale đã mang bàn phím của mình về nhà và cài vào đó một con chip điện tử có khả năng lưu lại tất cả các thao tác trên bàn phím. Sáng hôm sau, anh ta chỉ cần đến sớm một chút, tráo đổi bàn phím của mình và bàn phím trên máy người khác và chờ đợi. Hết ngày làm việc, Hale lắp lại như cũ và xem xét những dữ liệu con chip ghi lại. Mặc dù có đến hàng triệu thao tác trên bàn phím đã được lưu lại nhưng việc tìm ra mật mã truy nhập thực sự rất đơn giản. Thông thường, thao tác đầu tiên của bất cứ mật mã viên nào cũng là nhập mật khẩu để truy cập máy tính của họ. Việc này hiển nhiên giúp công việc còn lại của Hale vô cùng nhàn hạ, mật khấu chính là 5 ký tự đầu tiên được lưu lại. Buồn cười thật, Hale nghĩ vậy khi nhìn vào màn hình của Susan. Anh ta ăn cắp mật khẩu của cô chỉ để cho vui, nhưng bây giờ sau khi đã thành công anh ta cảm thấy rất vui, chương trình đang chạy trên máy của Susan có vẻ khá là quan trọng. Hale trải qua một thoáng lúng túng, chương trình này được viết bằng ngôn ngữ lập trình LIMBO - thứ này anh ta không am hiểu cho lắm. Nhưng chỉ cần nhìn thoáng qua là Hale đã có thể chắc chắn một điều - đây không phải là một chương trình chẩn đoán. Anh ta nhận ra điều đó chỉ nhờ có hai từ, hai từ là quá đủ. TRACER SEARCHING (Chương trình đang tìm kiếm) - Tracer (Phần mềm tìm kiếm) à - Hale tự hỏi - Nó đang tìm kiếm cái gì vậy nhỉ - Anh ta đột nhiên cảm thấy khó hiểu. Sau khi ngồi một lát quan sát thật kỹ những gì hiện trên màn hình của Susan anh ta quyết định hành động. Kiến thức vừa đủ của Hale về ngôn ngữ lập trình LIMBO giúp anh ta hiểu rằng nó được cấu thành từ hai ngôn ngữ lập trình khác- C và Pascal, cả hai ngôn ngữ này Hale nắm chắc như lòng bàn tay. Ngoái đầu lại kiểm tra, sau khi biết chắc Strathmore và Susan vẫn đang nói chuyện ở ngoài, Hale bắt đầu thế hiện. Anh nhập một vài lệnh viết bằng ngôn ngữ Pascal rồi bấm phím RETURN (phím TRỞ LẠI). Cửa sổ trạng thái của Tracer phản hồi ngay, đúng như mong muốn. TRACER ABORT? (Huỷ chương trình?) Anh ta nhanh chóng đánh: YES (Đồng ý) ARE YOU SURE? (Bạn có chắc chắn không?) Anh ta đánh lại một lần nữa: YES (đồng ý) Chỉ một thoáng sau, máy vi tính kêu một tiếng Bíp. TRACER ABORTED (Chương trình đã bị huỷ) Hale mỉm cười: máy tính đã phát ra thông điệp yêu cầu chương trình Tracer mà Susan đang chạy phải ngưng hoạt động giữa chừng và thế là cho dù Susan có tìm kiếm cái gì thì cô cũng sẽ phải đợi. Cẩn thận không muốn để lại dấu vết, rất chuyên nghiệp, Hale truy nhập vào bản ghi nhớ các thao tác trên máy của Susan, xoá toàn bộ các lệnh anh ta đã nhập, sau đó nhập lại mật khẩu bảo vệ cho máy tính. Màn hình máy tính lại chuyển sang toàn một màu đen. Khi Susan Fletcher trở lại Node 3, Greg Hale đã yên vị tại máy vi tính của mình. Alfonso XIII là một khách sạn 4 sao tương đối nhỏ, nằm lọt thỏm phía sau khách sạn Puerta de Jerezl. Bao quanh khách sạn là một hàng rào sắt khá kiểu cách nhưng hơi dày với những bụi câỵ đinh hương. David bước lên bậc thềm lát đá cẩm thạch của khách sạn. Khi anh đến cửa ra vào, cửa tự mở như có phép màu, rồi một nhân viên xuất hiện. - Thưa ngài, tôi có thể mang giúp hành lý cho ngài không? - Không, cảm ơn, tôi muốn gặp người phụ trách. Anh chàng phục vụ thoáng tự ái, dường như giây gặp gỡ vừa qua với vị khách này làm anh ta cảm thấy không hài lòng cho lắm. - Phía này, thưa ông! - Anh chàng liền dẫn David vào tiền sảnh, chỉ tay về chỗ người phụ trách rồi nhanh chóng quay ra ngoài. Tiền sảnh của khách sạn được xây dựng khá kiểu cách, tuy hơi nhỏ nhưng thiết kế rất trang nhã. Đúng là thời kỳ hoàng kim của đất nước Tây Ban Nha này chỉ còn là dĩ vãng, nhưng ai cũng biết vào giữa năm 1600, đất nước nhỏ bé này đã từng thống trị gần như cả thế giới. Khu vực tiền sảnh mà chúng ta đang nói đến đây có thể được coi như một minh chứng hùng hồn của thời kỳ rực rỡ đó với những bộ giáp trụ, những bức phù điêu mang phong cách nhà binh và cả một tủ trưng bày những thỏi vàng được mang về từ Tân Thế Giới. David tiến lại một chiếc quầy với dòng chữ nhân viên PHỤC VỤ, trước mặt anh là một nam nhân viên gọn gàng chải chuốt, anh ta cười vô cùng thân thiện: - Tôi cố thể giúp gì cho quý ông? Giọng của anh chàng này có vẻ hơi ngọng một chút, nhưng anh ta cũng đã tranh thủ ngắm kỹ một lượt từ đầu đến chân Becker. Becker trả lời bằng tiếng Tây Ban Nha. - Tôi muốn nói chuyện với anh Manuel. Khuôn mặt cháy nắng của anh chàng này trở nên rạng rỡ hơn. - Vâng, thưa ông. Vâng, tôi là Manuel đây, tôi có thể biết quý ông cần gì không? - Ông Roldan ở Escortes Belen có nói với tôi rằng anh sẽ… Người phục vụ liền đưa tay ra hiệu cho David im lặng, anh ta đưa mắt thận trọng quan sát lại toàn bộ tiền sảnh. - Ông đi ra đây với tôi! - Anh ta dẫn Becker ra phía cuối quầy và tiếp tục nói nhưng giọng chỉ thì thà thì thầm - Nào, bây giờ thì tôi giúp được gì cho ông? Becker hạ giọng nói: - Tôi cần nói chuyện với một người quen của ông ấy mà tôi biết chắc là người đó đang ăn tối ở đây, tên cô ta là Rocio. Anh chàng phục vụ thở phào khoan khoái: - À, Rociol cô nàng xinh đẹp. - Tôi cần gặp cô ta ngay lập tức. - Nhưng ông ạ, cô ta đang đi khách! Becker lắc đầu không khoan nhượng: - Việc này rất hệ trọng, anh nên biết, đây là vấn đề an ninh quốc gia. Người phục vụ từ chối: - Không thể được, có lẽ ông nên để lại… - Việc này chỉ một lát là xong thôi mà, có phải cô ta đang trong phòng ăn không? Người phục vụ lắc đầu: - Chúng tôi đóng cửa phòng ăn nửa tiếng rồi, tôi sợ là cô nàng và khách đang vui vẻ rồi. Nếu ông để lại một lời nhắn, tôi chắc chắn sẽ chuyển đến tay cô nàng vào sáng mai. - Anh chàng liền đưa tay về phía mấy chiếc hộp có đánh số ở sau lưng. - Liệu tôi có thể gọi phòng cô ta và… - Tôi rất tiếc! - Người phục vụ cứng giọng, sự lịch thiệp ban đầu như tan biến - Khách sạn Anfonso XIII chúng tôi luôn rất tôn trọng chuyện riêng tư của khách hàng. Becker bực mình, rõ ràng là anh không có ý định sẽ ngồi lại đây 10 tiếng đồng hồ chờ cho đến khi gã béo và con điếm đó xuống ăn sáng. - Tôi hiểu! - Anh nói - Xin lỗi đã làm phiền anh! Anh quay lại tiền sảnh, bước thẳng đến chiếc bàn nắp cuộn xinh xắn mà anh bắt gặp lúc đi vào. Trong chiếc bàn có đựng rất nhiều thiệp của khách sạn Anfonso XIII, có cả bút và phong bì thư. Becker cho vội một tấm thiệp vào bì thư và viết bên ngoài mấy chữ. "ROCIO". Sau đó anh trở lại chỗ người phục vụ. - Xin lỗi làm phiền anh lần nữa! - Becker nói tỏ vẻ hơi ngượng ngùng - Tôi biết anh có thể cho là tôi không bình thường, nhưng tôi chỉ muốn tâm sự mấy câu với cô nàng về những khoảnh khắc vui vẻ khó quên mấy hôm trước thôi mà. Có lẽ tôi đành phải để lại lời nhắn vậy! - Becker liền đặt chiếc phong bì lên quầy. Anh chàng phục vụ nhìn chiếc phong bì và cười thầm. Lại một gã si tình, đúng là rỗi hơi. Anh ta ngước lên và mỉm cười - Tất nhiên rồi thưa ông…? - Buisan! - Becker đáp lại - Miguel Buisan. - Tôi bảo đảm cô nàng sẽ nhận được lời nhắn của ông vào sáng mai. - Cảm ơn! - Becker mỉm cười và quay trở ra. Sau khi đã chắc chắn là Becker đã quay lưng đi ra, người phục vụ liền nhặt phong bì lên và quay lại phía những chiếc hộp có đánh số ở trên tường. Đúng lúc người phục vụ đưa phong bì vào chiếc hộp cần thiết, Becker ngoái lại thăm dò lần cuối. - Tôi có thể kiếm một chiếc taxi ở đâu được nhỉ? Người phục vụ quay lại trả lời nhưng Becker đâu có để ý đến lời nói của anh ta. Khoảnh khắc đó quá đủ để Becker nhận ra anh chàng vừa dời tay ra khỏi chiếc hộp có dòng chữ Phòng 301. Becker cảm ơn anh chàng phục vụ rồi thong thả rảo bước tìm đến chỗ thang máy. Vào nhanh rồi ra nhanh, anh lẩm bẩm với chính mình. Chương 31 Susan quay trở lại Node 3. Cuộc trò chuyện với Strathmore làm cô cảm thấy mỗi lúc một lo lắng cho sự an toàn của David. Những suy nghĩ vu vơ làm cô cảm thấy rất bất an. Ái chà, ông Strathmore muốn gì đấy? Chắc là một buổi tối lãng mạn với cô nhân viên xuất sắc nhất của mình rồi, đúng không nào? Susan bỏ ngoài tai lời bình phẩm đó của Hale và ngồi xuống bên cạnh chiếc máy vi tính của mình. Cô nhập mật khấu và chiếc màn hình sáng trở lại. Chương trình tìm kiếm Tracer đã hiện ra, vẫn chưa có thông tin gì về North Dakota. - Chán quá, Susan nghĩ, sao lại lâu thế nhỉ? - Sao bực bội thế - Hale giả vờ ngây ngô - Chương trình chẩn đoán có trục trặc à? Không có gì - Susan trả lời, nhưng cô hoàn toàn không chắc chắn một chút nào, rõ ràng là Tracer chạy quá chậm. Cô tự hỏi không biết mình có mắc lỗi nào khi viết chương trình này không. Susan đưa mắt dọc theo những dòng lệnh của ngôn ngữ lập trình UMBO đang hiện trên màn hình, cố tìm xem có thấy gì bất ổn không Hale lén lút để ý xem cô đang làm gì. - Này, tôi muốn hỏi… - anh ta thăm dò - Liệu cô có biết gì về thuật toán không có thuật giải mà Ensei Tankado nói rằng anh ấy đang viết không? Giật mình, Susan ngước lên hỏi lại: - Thuật toán không có thuật giải - Cô nói dối - À, tôi nghĩ là đã nghe thấy ở đâu đó rồi. - Một điều không tưởng đúng không? Susan tự hỏi tại sao tự nhiên Hale lại đề cập đến chuyện này. - Ai cũng biết một thuật toán không có thuật giải là điều không thể có thật trên đời. Hale cười: - À ừ…Theo định lý Bergofsky chứ gì. - Đó là điều hiển nhiên - cô đáp lời. - Ai mà biết được… - Hale thở dài - Cả thiên đàng làm đều phức tạp hơn ta tưởng! - Anh nói gì vậy? - Trích Shakespeare - Hale đáp - Kịch Hamlet đấy! - Lúc ngồi tù chắc anh đọc không ít nhỉ? Hale cười khừng khục: - Nghiêm tức nhé Susan, cô có bao giờ nghĩ chuyện đó là thật không? Có thể Tankado đúng là đã viết ra một thuật toán không có thuật giải lắm chứ. Susan có vẻ cảm thấy hơi bí trước những lời này: - À, chúng ta còn không thể làm được việc đó nữa là? - Biết đâu Tankado giỏi hơn chúng ta thì sao? - Ừ cũng không thể - Susan nhún vai giả bộ không quan tâm. - Chúng tôi ngày trước hay viết thư cho nhau lắm - Hale nói có vẻ vu vơ - Takando và tôi, cô biết chứ? Susan ngước lên, cô cố gắng che giấu sự kinh ngạc của mình. - Thế hả? - Ừ, sau khi tôi giải mã được thuật toán Skipjack, anh ta có viết thư cho tôi, anh ta nói thế này: "Chúng ta là những chiến hữu trong trận tuyến duy trì tính bảo mật trong thế giới kỹ thuật số". Suýt nữa Susan không giấu nổi vẻ ngờ vực của mình. Hale có quan hệ cá nhân với Tankado! Cô cố hết sức tỏ vẻ không quan tâm. Hale nói tiếp: - Anh ta chúc mừng tôi vì đã chứng minh được Skipjack có lỗ hổng - anh ta cho rằng đó là một chiến công phi thường củng cố quyền lợi bảo mật của người dân trên toàn thế giới. Cô cũng sẽ thừa nhận điều đó đúng không Susan? Kẽ hở của Skipjack thực ra là một trò ba que xỏ lá.  - Có kẻ nào đó muốn đọc thư điện tử của cả thế giới này ư? - Nếu cô hỏi thì tôi sẽ nói thẳng, Strathmore đáng bị tống vào tù. - Greg! - Susan bất chợt lên tiếng giận dữ - Anh nên biết kẽ hở đó tồn tại là vì nó giúp NSA có thể giải mã những bức thư điện tử có khả năng đe doạ an ninh của đất nước này. - Vậy à? - Hale thở dài rồi ra vẻ ngây thơ hỏi lại - Vậy chuyện nhúng mũi vào những thông tin cá nhân của người khác chỉ là việc tình cờ thôi sao? - Chúng ta không động chạm gì vào thông tin cá nhân của người khác, chắc anh biết rõ điều đó. Như bên FBI chẳng hạn, họ có thể nghe trộm điện thoại, nhưng điều đó không có nghĩa là họ đã nghe hết tất cả các cuộc gọi của người dân. - Nếu họ có đủ người, tôi dám chắc họ sẽ không từ chối đâu. Susan bỏ qua lời bình phẩm đó. - Mọi chính phủ đều được quyền thu thập những thông tin có thể gây ảnh hưởng đến lợi ích của số đông công dân của mình. - Lạy chúa! - Hale thở dài - Hình như cô bị Strathmore tẩy não thực sự rồi. Cô thừa biết ngay cả FBI cũng không thể thích nghe trộm cái gì thì nghe, họ cần phải có giấy phép. Nhưng một hệ thống mã hoá có lỗ hổng sẽ đồng nghĩa với việc NSA có thể nghe trộm bất cứ ai, bất cứ lúc nào và bất cứ chỗ nào mà họ muốn. - Đúng, và nên như thế - Giọng nói của Susan trở nên gay gắt - Nếu như không phải anh tiết lộ lỗ hổng của Skipjack thì chúng ta đã có thể giải mã được mọi thứ rồi, đâu phải dựa vào TRANSLRT như bây giờ. - Nếu như tôi không tìm được lỗ hổng - Hale biện minh - thì ai đó khác cũng sẽ tìm ra, việc tôi tiết lộ chuyện đó cũng chỉ vì không muốn mọi người tiếp tục sai lầm mà thôi. Cô đã bao giờ nghĩ xem hậu quả sẽ ra sao nếu tin tức đó lọt ra ngoài khi Skipjack đã được tung ra thị trường chưa? - Đằng nào cũng thế thôi! - Susan đáp trả - Bây giờ chúng ta đang bị một lũ hoang tưởng EFF nào đó chỉ trích là cố tình tạo ra các kẽ hở trong tất cả các thuật toán mà chúng ta viết ra. Hale hỏi lại một cách tự mãn: - À, thế sự thực không phải vậy sao? Susan nhìn anh ta lạnh lùng. - Này! - anh ta thêm vào - cô đã chế tạo TRANSLTR, bây giờ chẳng phải cô đã có được một nguồn thông tin vô tận sao? Cô có thể đọc được bất cứ thứ gì tại bất cứ thời điểm nào cô muốn mà không sợ kẻ nào thọc mạch. Cô thắng rồi còn gì nữa. - Anh phải nói là chúng ta đã thắng chứ. Tôi vừa nghe anh nói rằng anh cũng là người của NSA mà. - Không lâu nữa đâu! - Hale nói nhỏ nhẹ. - Ôi, nói trước bước không qua đâu! - Susan nói kháy. - Tôi nói thật đấy. Một ngày nào đó tôi cũng sẽ đi khỏi chỗ này. - Thế cơ à. Lúc này, Susan chỉ muốn nguyền rủa Hale về tất cả mọi chuyện không hay đã xảy ra, từ chuyện về Pháo Đài Số cho đến những vấn đề giữa cô và David rồi cả chuyện cô nhỡ chuyến đi đến Smokys, nhưng tất cả rõ ràng đâu phải lỗi của anh ta. Lỗi duy nhất của Hale là anh ta thực đáng ghét. Susan thấy mình cần phải bao dung độ lượng hơn. Là trưởng nhóm, cô cần duy trì được mối quan hệ và phải biết cách dẫn đạo người khác, đúng là Hale còn trẻ và quá ngây ngô. Susan nhìn Hale, thật đáng tiếc, cô nghĩ. Rõ ràng Hale là một nhân tài tại Crypto, thế mà anh ta lại không thông suốt được những sứ mạng quan trọng mà NSA phải gánh vác. - Greg này! - cô nói giọng đã nhẹ nhàng và điềm tĩnh trở lại. Hôm nay hình như tôi hơi căng thẳng một chút, vừa rồi tôi rất buồn khi nghe anh nói về NSA cứ như thể chúng ta là những kẻ chuyên sử dụng công nghệ cao để làm trò tồi tệ. Tổ chức của chúng ta được thành lập ra với một mục đích mà tôi nghĩ anh cũng biết đó là bảo vệ an ninh quốc gia. Công việc của chúng ta rõ ràng sẽ có lúc phải soi xét người này người kia, can thiệp vào những thông tin cá nhân của họ. Nhưng tôi nghĩ đa số người dân sẽ tán thành việc chấp nhận hy sinh một vài sự riêng tư nho nhỏ để tránh lọt lưới những thông tin nguy hiểm. Hale im lặng. - Sẽ có những lúc - Susan tiếp tục - những người dân của cái đất nước này cảm thấy họ cần phải đặt niềm tin của họ vào một nơi nào đó. Rõ ràng xã hội của chúng ta đa số là người tốt, nhưng anh cũng sẽ thấy không ít kẻ xấu lẩn khuất đâu đó. Phải có ai đó hiểu rõ được điều này và đứng ra gánh vác công việc tách bạch giữa cái xấu và cái tốt. Đó là nhiệm vụ của chúng ta, đó là trách nhiệm của chúng ta. Dù muốn hay không, chúng ta luôn phải thừa nhận một điều là chỉ có một ranh giới rất mong manh giữa tình trạng dân chủ và sự vô chính phủ, và chính NSA sẽ đóng vai trò như một giám sát viên đứng ở giữa ranh giới đó và đảm bảo sự tồn tại của ranh giới đó. Hale gật đầu vẻ rất trầm tư. - Quis custodiet ipsos custodies? Susan bối rối. - Tiếng La tinh đấy! - Hale tiếp lời - Có nghĩa là: Ai sẽ giám sát những giám sát viên đó? - Tôi không hiểu? - Susan nói - Thế nghĩa là sao? - Vâng, thế này nhé, chúng ta tự nhận mình là những người bảo vệ xã hội trước những kẻ nguy hiểm, vậy thì ai sẽ là người giám sát chúng ta và đảm bảo rằng chính chúng ta sẽ không trở thành những kẻ nguy hiểm? Susan gật đầu, không biết nên trả lời ra sao. Hale mỉm cười: - Đó là câu nói mà Takando thường viết trong những bức thư anh ta gửi cho tôi. Đây là câu nói mà anh ta rất thích. David Becker đứng ở hành lang trước cửa phòng 301. Anh biết chắc đâu đó sau cánh cửa bí mật kia là chiếc nhẫn mà anh đang tìm. Vấn đề an ninh quốc gia. Becker có thể nghe được tiếng động trong phòng. Có tiếng nói chuyện nhỏ dần nhỏ dần. Anh quyết định gõ cửa. Một thứ giọng Đức đặc sệt vọng ra. - Ai đấy? Becker im lặng. - Ai đấy? Cánh cửa mở ra và một khuôn mặt Đức phì nộn hơi cúi xuống nhìn anh. Becker cười nhã nhặn. Anh không hề biết tên gã người Đức này. Anh hỏi: - Ông có phải người Đức không? Người đàn ông gật đầu, hơi hoang mang. Becker tiếp tục nói với một giọng Đức chuẩn hoàn hảo. - Tôi có thể nói chuyện với ông một lát được không? Người đàn ông tỏ vẻ khó chịu. - Anh cần gì? Becker bây giờ mới nhận ra đáng nhẽ anh phải nghĩ đến tình huống này trước: không có lý do gì mà lại gõ cửa một người không quen biết. Anh cố tìm ra những lời thích hợp. - Ông đang giữ một vật mà tôi cần. Rõ ràng là những lời này của anh chẳng phù hợp chút nào. Mặt gã người Đức nhăn lại. - Ông đang giữ một cái nhẫn. - Cút ngay! - gã người Đức gầm lên. Hắn đóng cửa lại. Không kịp suy nghĩ, Becker đưa bàn chân vào giữa khe cửa, cánh cửa không khép lại được. Ngay lập tức anh thấy tiếc vì đã hành động như vậy. Mắt gã người Đức trợn trừng. Hắn gào lên: - Làm cái gì thế hả? Becker biết hắn đã phát điên rồi. Anh liếc mắt thật nhanh xem xét lại hành lang. Trước kia, anh đã từng bị người ta ném ra ngoài khi đang ở phòng khám bệnh. Anh không có ý định sẽ đọ tay đôi với hắn ta chút nào. - Gã rống lên: - Nhấc chân mày ra ngay! Becker nhìn thoáng qua những ngón tay mập mạp của gã tìm xem có thấy chiếc nhẫn không. Không thấy. - Chiếc nhẫn! - Becker nhắc lại đúng lúc cánh cửa đóng sầm lại trước mặt anh. David Becker đứng như trởi trong một lúc lâu trong cái hành lang trang nhã trước căn phòng 301 đó. Bên cạnh anh là một bức tranh chép lại của tác giả Salvador Dali. - Trùng hợp thật! - Becker lầm bầm. Đúng là siêu thực. Mình đang có một giấc mơ kỳ dị thì phải. Anh thức giấc trên chiếc giường của mình vào buổi sáng hôm đó vậy mà không hiểu sao bây giờ anh lại ở đây, ở giữa Tây Ban Nha, đập cửa làm phiền một kẻ hoàn toàn xa lạ trong khách sạn chỉ để tìm kiếm một chiếc nhẫn quái quỷ nào đó. Lời của Strathmore đưa anh về với thực tại: "Cậu phải tìm thấy chiếc nhẫn đó". Becker hít một hơi thật dài rồi phác hoạ ra những gì cần phải làm. Anh muốn về nhà. Nhìn lại cánh cửa phòng 301, Anh biết tấm vé giúp anh trở về nằm sau cánh cửa đó - cái nhẫn vàng. Tất cả những gì anh cần làm bây giờ là lấy được nó. Anh thở mạnh ra, rồi rảo bước trở lại trước căn phòng 301. Anh gõ cửa thật mạnh, đến lúc phải thể hiện rồi đây. Gã người Đức mở cửa, ngay khi hắn định phản kháng Becker đã chặn đứng hành động đó. Anh giơ ra thật nhanh tấm thẻ Hội viên câu lạc bộ Bóng Quần Maryland rồi hét lên: - Polizei! Cảnh sát đây! - Tiếp đó, không chờ đợi, Becker đẩy cửa xông vào. Ngạc nhiên, gã người Đức tròn mắt đứng như trời trồng lắp bắp: - Thế này là… - Im mồm! - Becker chuyển sang nói tiếng Anh. - Anh đang chứa gái điếm trong phòng đúng không - Becker đảo mắt quan sát căn phòng. Nó cũng sang trọng như bất cứ căn phòng khách sạn nào anh đã từng nhìn thấy. Những bông hồng, sâm panh, một chiếc giường to có mái. Không thấy bóng dáng Rocio đâu. Cửa phòng tắm đang đóng kín. - Gái điếm - gã người Đức liếc mắt sợ sệt về phía cánh cửa phòng tắm đóng kín. Trông gã to hơn so với những gì Becker tưởng tượng. Dưới cái cổ ba ngấn của hắn là một bộ ngực đầy lông và dưới nữa là một cái bụng phệ ngoại cỡ. Đây lưng trên chiếc áo choàng tắm bằng vải bông của khách sạn Anfonso XIII đúng là cũng không đủ dài để có thể buộc quanh cái bụng ngoại cỡ của gã. Becker lườm gã khổng lồ bằng một cái nhìn đầy đe doạ. - Ông tên gì? Một vẻ sợ hãi hiện ra trên khuôn mặt to béo của gã. - Ông muốn gì vậy? - Tôi là cảnh sát phụ trách khách du lịch ở Seville. Ông đang chứa gái điếm trong phòng phải không? Gã người Đức nhìn một cách sợ sệt về phía cánh cửa phòng tắm. Gã lưỡng lự rồi thừa nhận: - Vâng.  - Ông có biết đây là hành vi bất hợp pháp ở Seville không? - Nein – Không… - Gã nói dối - Tôi không hề biết điều đó. Bây giờ tôi sẽ bảo cô ta về nhà ngay. - Quá muộn rồi ông bạn ạ - Becker nói vẻ trịnh thượng - - Tôi có một đề nghị dành cho ông đây. Gã người Đức hổn hển: - Một đề nghị… - Phải, hoặc là sẽ đưa ông về trụ sở cảnh sát ngay bây giờ… Becker đột nhiên dừng lại, anh bẻ từng đốt ngón tay răng rắc. - Hoặc là sao - Gã người Đức hỏi, mắt gã đầy vẻ sợ hãi. - Hoặc là chúng ta sẽ làm một vụ trao đổi. - Ông muốn trao đổi như thế nào - Gã đã từng được nghe vô khối chuyện về lũ cảnh sát tham nhũng ở Tây Ban Nha. - Ông đang có một thứ mà tôi cần - Becker nói. - À vâng, tất nhiên rồi! - gã thở pháo, nở một nụ cười gượng gạo. Ngay lập tức hắn với chiếc ví trên bàn ngủ. - Thế ông muốn bao nhiêu? Becker làm ra vẻ khinh bỉ: - Ông định hối lộ người đang thi hành công vụ hả? - Không! Tất nhiên là không rồi! Tôi cứ nghĩ là… - Gã béo nhanh chóng cất ví đi - Tôi…tôi… - Gã trở lên lúng túng. Hắn ngồi xụp xuống góc giường, vò hai bàn tay lo lắng. Chiếc giường như oằn xuống trước sức nặng của gã. - Tôi xin lỗi. Becker chậm rãi rút ra một bông hồng từ chiếc bình hoa đặt ở giữa phòng, anh đưa lên mũi ngửi thật thoải mái trước khi đột nhiên thả bông hoa rơi xuống sàn nhà. Anh đột nhiên chuyển hướng. - Ông có thể cho tôi biết gì về vụ án mạng? Mặt gã người Đức trở lên trắng bệch. - Vụ án mạng ư? - Phải, ông còn nhớ người đàn ông châu Á hồi sáng chứ? Ở trong công viên ấy, đó là một vụ ám sát – Ermordung! Becker cảm thấy thích từ vụ ám sát trong tiếng Đức. Ennordung, nghe mới rùng rợn làm sao. - Ermordung? Ông ta…ông ta đã bị…? - Phải! - Nhưng… không thể nào - Gã người Đức như nghẹn ứ trong cố họng. Tôi đã ở đó mà. Ông ta hình như chỉ bị một cơn đau tim thôi, chính tôi đã thấy, không có máu cũng chẳng có đạn. Becker lắc đầu lạnh lùng. - Mọi thứ không phải lúc nào cũng đúng như vẻ bề ngoài của chúng.  Mặt gã người Đức tái mét. Becker cười thầm trong bụng. Câu chuyện anh bịa ra đã thực sự có tác dụng. Gã người Đức đáng thương sợ đến mức vã hết cả mồ hôi. - A…a…anh muốn gì - Gã lắp bắp - Tôi có biết gì đâu. Becker bắt đầu đi qua đi lại quanh gã. - Người đàn ông bị giết lúc đó có đeo một chiếc nhẫn. Tôi muốn có chiếc nhẫn đó. - Tôi… tôi không có chiếc nhẫn đó. Becker tỏ vẻ bề trên, anh hất hàm ra phía cửa phòng tắm. - Thế còn Rocio? Còn Dewdrop thì sao? Khuôn mặt gã người Đức chợt chuyển từ tái mét sang trắng nhợt - Ông biết Dewdrop - Gã liền đưa tay lên lau trán, chiếc tay áo bằng vải bông thấm đẫm mồ hôi. Gã đang định trả lời thì cánh cửa phòng tắm đột nhiên hé mở. Hai người đàn ông đưa mắt nhìn. Rocio Eva Granada đứng ở bệ cửa. Một mái tóc đỏ dài bồng bềnh, một làn da Iberian không chê vào đâu được, đôi mắt nâu sâu thăm thẳm, một gò trán cao tuyệt đẹp. Cô nàng mặc chiếc áo khoác tắm bằng vải bông cùng một loại với gã người Đức đang mặc. Sợi giải rút buộc khít bên hông, cổ áo trễ đễ lộ ra bộ ngực rám nắng. Cô nàng bước vào phòng, đầy vẻ tự tin. - Tôi giúp gì được anh nhỉ - cô nàng thốt ra một thứ tiếng Anh hơi khàn khàn. Becker nhìn người đàn bà trước mặt không chớp mắt. - Tôi cần chiếc nhẫn - Anh nói giọng lạnh lùng. - Thế anh là ai - cô nàng vặn lại. Becker chuyển sang dùng tiếng Tây Ban Nha với một âm giọng Andulusian đặc sệt. - Cảnh sát. Cô nàng bật cười rồi trả lời bằng tiếng Tây Ban Nha. - Không thể nào. Becker cảm giác cứng lưỡi. Rõ ràng Rocio cứng cơ hơn nhiều so với gã khách hàng của cô ả. - Không thể - Anh nhắc lại, cố giữ thái độ lạnh nhạt - Liệu tôi có cần đưa cô về đồn để giúp cô tin không? Rocio cười tự mãn. - Tôi sẽ không làm khó cho anh như vậy đâu. Nào, nói xem anh là ai? Becker vẫn kiên trì với vở kịch của mình. - Cảnh sát Seville. Rocio bước lại phía anh đầy hăm doạ. - Tôi không lạ gì mấy gã cảnh sát vùng này. họ đều là những khách hàng tuyệt vời nhất của tôi.. Becker cảm giác cái nhìn của cô ả như xuyên thấu tim gan anh. Anh liền thay đổi vở diễn đôi chút. - Tôi thuộc bên cảnh sát đặc nhiệm chuyên trách vấn đề về khách du lịch. Cô đưa chiếc nhẫn ra đây nếu không tôi sẽ đưa cô về đồn và… - Và gì nào - Cô nàng nhếch cặp lông mày lên vẻ mỉa mai thách thức. Becker đột nhiên im lặng. Anh gần như điên lên, kế hoạch của anh xem ra đã thất bại. Tại sao cô ta lại không tin nhỉ? Rocio tiến lại gần hơn nữa. - Tôi không biết anh là ai và anh muốn gì nhưng nếu anh không biến khỏi đây, tôi sẽ gọi bảo vệ khách sạn và chắc chắn những nhân viên cảnh sát thực sự sẽ tống anh vào tù vì dám mạo danh họ. Becker biết rằng trong tình huống đó, Strathmore sẽ chỉ cần khoảng 5 phút thôi là có thể đưa anh ra khỏi xà lim, nhưng anh nhận thức rõ rằng chuyện này nhất thiết cần phải được giải quyết một cách bí mật. Nếu bị tống giam thì chẳng còn gì để nói nữa. Rocio dừng lại cách Becker vài bước chân và lườm anh chằm chằm. - Thôi được rồi - anh thở dài, giọng nói nặng nề như thừa nhận thất bại. Anh nói tiếng Tây Ban Nha bằng giọng chuẩn của mình. - Đúng là tôi không phải cảnh sát ở Seville này. Chính phủ Mỹ phái tôi qua đây tìm chiếc nhẫn. Đó là toàn bộ những gì tôi có thể cho cô biết. Tôi muốn mua lại chiếc nhẫn của cô. Không gian yên lặng một hồi lâu. Rocio đột nhiên hé môi nở một nụ cười quỷ quyệt. - Bây giờ thì dễ nói chuyện hơn rồi - Cô nàng ngồi xuống một chiếc ghế vắt chéo chân lên hỏi - Thế anh có thể trả tôi bao nhiêu? Becker cố che đậy sự hài lòng của mình. Anh nhanh chóng bắt đầu cuộc mặc cả. - Tôi sẽ trả cô 750 000 pesetas. 5000 đô đấy - Số tiến này chỉ là một nửa số tiền anh hiện có nhưng có lẽ phải gấp đến 10 lần giá trị thực của chiếc nhẫn. Rocio nhếch lông mày lên. - Cũng khá nhiều đấy? - Đúng vậy, cô đồng ý chứ? Rocio lắc đầu. - Ước gì tôi có thể nói có. - 1.000.000 pesetas. - Becker thốt lên - Tôi chỉ có từng đó thôi. - Úi chà! - cô nàng mỉm cười - Mấy người Mỹ các anh đúng là chẳng biết mặc cả gì thật. Sống ở đây mà thế thì… - Tiền mặt, trao tay luôn - Becker vừa nói vừa định rút chiếc phong bì trong túi áo ra. Mình chỉ muốn được về nhà. Rocio lắc đầu. - Tôi không thể. Becker gần như phát khùng. - Tại sao không? - Tôi không còn giữ chiếc nhẫn nữa! - cô nàng nói giọng thương cảm - Tôi đã bán đi rồi. Chương 33 Tokugen Numataka nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ rồi đi đi lại lại vô cùng bực bội. Vẫn chưa nhận được tin tức gì từ đối tác của ông ta, North Dakota. Mấy thằng Mỹ chết tiệt, chẳng đúng giờ chút nào! Đáng nhẽ ông ta đã chủ động gọi cho Dakota nhưng lại không có số điện thoại. Numataka không thích làm việc theo kiểu này chút nào, và không muốn bị phụ thuộc vào bất cứ ai trong công việc. Ngay từ đầu ông ta đã nghi ngờ rằng những cuộc gọi của North Dakota có thể chỉ là một trò lừa bịp - có thể một đối thủ cạnh tranh người Nhật đang cố ý chơi khăm. Giờ đây, những ý nghĩ đó lại quay trở lại trong tâm trí. Numataka cảm thấy cần có thêm nhiều thông tin hơn nữa. Ông ta lao ra khỏi phòng rồi rẽ trái đi xuống đại sảnh của công ty Numatech. Thấy chủ tịch đi qua, mấy nhân viên liền cúi đầu chào. Numataka biết rằng những nhân viên đó thực sự tôn trọng và quý mến ông mặc dù hình thức cúi đầu chào chỉ là một cử chỉ xã giao không hơn không kém. Numataka đến thẳng tổng đài chính của công ty. Tất cả các cuộc gọi đến và đi đều được kiểm soát bằng một chương trình phần mềm chạy trên hệ máy chủ Corenco 2000, đây là một máy chủ có khả năng đồng thời kết nối với 12 đường dây điện thoại khác nhau. Người phụ nữ trực máy dù đang rất bận nhưng vẫn đứng dậy, cúi chào khi thấy Numataka đi vào. - Ngồi đi! - Ông nói nhanh. Cô ta liền ngoan ngoãn ngồi xuống. - Hôm nay tôi có nhận được một cuộc gọi vào khoảng 4 giờ 45 phút tới máy điện thoại của tôi. Cô có thể kiểm tra xem cuộc gọi đó từ đâu đến không - Numataka tự trách mình sao không hỏi việc này sớm hơn. Người phụ trách phòng máy tỏ vẻ sợ sệt. - Thưa ông, chúng ta không lưu lại thông tin về người gọi trên máy chủ. Nhưng nếu ông can tôi sẽ liên hệ ngay với công ty điện thoại. Tôi chắc chắn họ sẽ giúp được chúng ta. Numataka không hề nghi ngờ việc công ty điện thoại sẽ đồng ý giúp đỡ. Trong thời đại kỹ thuật số này, vấn đề bảo mật thông tin xem ra đã chỉ còn là chuyện của ngày xửa ngày xưa. Họ luôn luôn ghi chép lại tất cả các thông tin. Các công ty điện thoại có thể nói cho bạn biết một cách chính xác ai đã gọi cho bạn và cuộc gọi đó kéo dài trong bao lâu. - Cô hãy làm đi - Ông ra lệnh. - Có thông tin thì báo tôi ngay. Susan ngồi một mình tại Node 3 chờ đợi kết quả tìm kiếm của Tracer. Trước đó một lát, Hale vừa quyết định ra ngoài để hít thở không khí trong lành. Không có anh ta cô cảm thấy thật dễ chịu. Nhưng thật kỳ quặc, chính sự vắng vẻ lúc này tại Node 3 như sắp biến nó thành một nhà thương điên. Susan cứ thắc mắc mãi về mối quan hệ mà cô vừa biết giữa Tankado và Hale. "Thế ai giám sát các giám sát viên". Cô tự nhắc lại. Lời trích này cứ lởn vởn mãi trong đầu cô. Susan cố tống khứ nó khỏi tâm trí mình. Cô lại hướng suy nghĩ của mình về David, hi vọng rằng anh sẽ bình an vô sự. Cô vẫn khó có thể tin được giờ này anh đang ở mãi tận Tây Ban Nha. Càng sớm tìm thấy mật khẩu và kết thúc chuyện này sớm bao nhiêu thì sẽ càng tốt bấy nhiêu. Susan hoàn toàn không thể ước lượng được cô đã ngồi ở đây bao lâu để chờ đợi kết quả tìm kiếm của Tracer. Hai giờ đồng hồ? hay là ba nhỉ? Cô đưa mắt nhìn toàn bộ trung tâm, bây giờ Crypto hoàn toàn vắng lặng, cô chờ một tiếng bíp sẽ phát ra từ chiếc máy vi tính của mình nhưng vô vọng. Không gian xung quanh hoàn toàn im ắng. Phía bên ngoài kia, mặt trời mùa hè đã sắp lặn. Trên trần nhà những chiếc bóng đèn huỳnh quang đã được bật lên tự bao giờ. Susan thực sự hiểu rằng cô không còn nhiều thời gian nữa. Cô nhăn mặt khi quay lại nhìn chiếc máy vi tính. - Nhanh nữa lên nào - Cô càu nhàu - Mày đã ngốn của tao quá nhiều thời gian rồi đấy! Cô di chuột và bấm để hiển thị cửa sổ trạng tháị của chương trình Tracer. - Không biết máy đã chạy được bao lâu rồi? Cửa sổ trạng thái đã hiển thị - Susan có thể trông thấy một chiếc đồng hồ giống hệt như trong chương trình TRANSLTR, nhìn vào đó cô có thể nắm được chương trình đã được chạy trong bao lâu. Cô dán mắt vào màn hình hy vọng sẽ biết được bao nhiêu thời gian đã trôi qua, nhưng những thứ hiện ra trên màn hình như làm tứn cô ngừng đập. TRACER ABORTED (Chương trình đã ngừng chạy) - Tracer đã ngưng chạy! - Cô như nghẹt thở. - Tại sao thế này? Quá sợ hãi, Susan nhìn chằm chằm vào màn hình, cố gắng tìm kiếm xem liệu có một lệnh bị lỗi đã được nhập hay không, có thể chính nó đã khiến cho Tracer ngưng hoạt động. Nhưng những cố gắng của cô hoàn toàn vô hiệu. Có vẻ như chương trình đã tự động tắt Susan hiểu rằng chuyện này chỉ có thể do một nguyên nhân duy nhất - chính chương trình của cô đã bị lỗi lập trình. Susan coi những lỗi lập trình là một trong những vấn đề đau đau nhất trong các chương trình máy tính. Do các máy vi tính luôn tuân theo một trật tự hoạt động chính xác tuyệt đối, chỉ cần một lỗi rất nhỏ trong khi lập trình cũng có thể sẽ làm hỏng toàn bộ chương trình. Các lỗi cú pháp chẳng hạn - ví dụ như khi lập trình viên chỉ cần sử dụng nhầm dấu phẩy thay cho dấu chấm - có thể khiến cho toàn bộ chương trình sụp đổ. Susan biết từ "lỗi " (bug) trong lĩnh vực công nghệ thông tin có nguồn gốc khá ly kì. Nó bắt nguồn từ một trục trặc xảy ra với chiếc máy vi tính đầu tiên trên thế giới - chiếc Mark 1- chiếc máy này được làm ra vào năm 1944 tại phòng thí nghiệm của Đại học Harvard, nó có kích cỡ bằng cả một căn phòng với chằng chịt các bảng mạch cơ điện. Đột nhiên một hôm chiếc máy này chạy rất chập chờn, không ai hiểu nguyên nhân tại sao. Sau nhiều giờ tìm kiếm một nhân viên trong và gây ra hiện tượng đoản mạch. Từ đó trở đi, những hiện tượng kiểu đó thường được gọi là lỗi (bug). - Mình không đủ thời gian để giải quyết vấn đề này! - Susan bực bội. Tìm kiếm một lỗi bất kỳ trong một chương trình máy tính có thể phải mất đến mấy ngày. Sẽ phải xới tung hàng ngàn lệnh của chương trình để tìm một sai sót có thể là rất nhỏ - Việc này tương tự như việc tìm một lỗi in ấn của một cuốn từ điển bách khoa toàn thư. Susan hiểu mình không còn lựa chọn nào nữa, chỉ còn cách cho Tracer chạy lại từ đầu. Cô cũng biết chắc chương trình sẽ gặp phải lỗi đó một lần nữa và sẽ lại tiếp tục ngưng hoạt động. Nhưng việc sửa lỗi lập trình cho Tracer sẽ cần rất nhiều thời gian, mà thứ đó thì cả cô và sếp đều không có vào lúc này. Nhưng ngay khi Susan nhìn lại Tracer một lần nữa, thắc mắc không hiểu nó đã bị lỗi gì thì cô chợt cảm thấy có cái gì đó không bình thường. Tháng trước chính cô đã từng chạy chương trình này mà đâu có gặp trục trặc nào. Tại sao hôm nay đột nhiên nó lại dở chứng như vậy? Đang hoang mang, chợt một câu nói trước đây của Strathmore chợt vang lên trong đầu cô. "Susan này, tôi đã thử tự mình gửi chương trình Tracer nhưng những số liệu nó truyền về hoàn toàn vô nghĩa". Susan nhớ lại. Những số liệu nó truyền về… Cô đưa tay lên gõ đầu mình, liệu có thể hay không? Số liệu nó truyền về ư? Nếu như Strathmore đã từng nhận được số liệu từ Tracer thì rõ ràng là lúc đó chương trình vẫn hoạt động tốt. Những số liệu mà ông ấy nhận được vô nghĩa có thể là do ông ấy đã nhập không chính xác các chuỗi ký tự cần tìm kiếm, cô phán đoán. Nhưng hiển nhiên là chương trình vẫn hoạt động. Susan ngay lập tức nhớ ra rằng có thể còn có một cách giải thích khác cho trục trặc xảy đến với chương trình tìm kiếm của cô. Những lỗi lập trình không phải là nguyên nhân duy nhất khiến các chương trình máy tính ngưng hoạt động. Đôi khi còn có những tác nhân bên ngoài nữa - nguồn điện, bụi bám vào bảng mạch điện tử, dây cáp bị lỗi. Từ trước đến nay, do các thiết bị phần cứng ở Node 3 hoạt động rất ổn định nên Susan chưa hề bao giờ nghĩ rằng chuyện đó có thể xảy ra. Susan đứng dậy và sải bước thật nhanh ngang qua Node 3 đến chỗ có đặt một cái giá sách lớn toàn các cuốn sổ tay hỗ trợ kỹ thuật. Cô vội lấy xuống một cuốn có tên gọi SYS-OP và bắt đầu tìm kiếm. Dường như cô đã phát hiện ra thứ mình cần tìm, cô liền mang cuốn sổ tay đến chỗ máy vi tính của mình và gõ một vài dòng lệnh. Tiếp theo cô chỉ còn việc ngồi chờ máy vi tính tìm kiếm lại tất cả các lệnh đã được thực hiện trên máy trong suốt ba giờ qua. Susan hi vọng máy sẽ tìm ra được những tác động từ bên ngoài - một lệnh ngừng chạy phát ra do trục trặc về nguồn điện hay do lỗi của con chíp nào đó chẳng hạn. Một vài giây sau, máy vi tính của Susan kêu bíp một tiếng. Tìm cô như đập nhanh hơn. Cô nín thở nhìn lên màn hình. ERROR CODE 22 (LỖI 22) Susan cảm thấy có một tia hi vọng. Một tin tốt lành đây. Việc máy tính tìm ra một mã lỗi có nghĩa là Tracer vẫn ổn. Quá trình tìm kiễm của phần mềm rõ ràng đã bị cắt ngang bởi một trục trặc từ bên ngoài, chắc chắn nếu được phát hiện và khắc phục nó sẽ không lặp lại nữa. LỖI 22 à? Susan đánh vật với bản thân cố gắng nhớ xem đây là lỗi gì. Các lỗi về phần cứng rất hiếm khi xảy ra ở Node 3 do vậy việc này quá khó khăn. Các ngón tay của Susan lại lướt thoăn thoắt trên các trang của cuốn sổ tay tìm kiếm phần danh sách các mã lỗi. 19: HỎNG Ổ CỨNG 20: CHƯƠNG TRÌNH KHÔNG TƯƠNG THÍCH Khi tìm được mã lỗi 22 cô bỗng nhiên dừng lại, mắt nhìn đăm đăm một hồi lâu. Hoàn toàn mất phương hướng, cô kiểm tra lại màn hình cho chắc chắn. ERROR CODE 22 (LỖI 22) Susan nhăn mặt quay trở lại nhìn vào cuốn SYS-OP. Cô không hiểu mình đang nhìn thấy cái gì nữa. Cuốn sổ tay đơn giản chỉ ghi một dòng: 22: NGƯNG HOẠT ĐỘNG DO THAO TÁC BẰNG TAY Chương 35 Becker nhìn Rocio chằm chằm, anh hoàn toàn bị sốc. - Cô đã bán cái nhẫn rồi sao? Cô ta gật đầu, mái tóc đỏ đổ xoà xuống vai. Becker không muốn tin chuyện này là có thực. - Pero… Nhưng… Cô nàng nhún vai rồi nói bằng tiếng Tây Ban Nha: - Cho một con bé ở gần công viên. Becker cảm thấy chân anh mềm ra như sắp khuỵ đến nơi. - Không thể nào! Rocio nở một nụ cười ướt át rồi chỉ về phía gã người Đức: - Ông ta muốn giữ chiếc nhẫn ấy nhưng tôi bảo không nên. Tôi mang trong lòng dòng máu Gitana, dòng máu của dân Gypsy; những người Gitana như chúng tôi luôn có mái tóc đỏ và rất mê tín. Một chiếc nhẫn từ tay một kẻ sắp chết chắc chắn sẽ chẳng mang lại điều tốt lành nào. - Thế cô có biết cô gái đó không - Becker xen vào. Rocio cong đôi lông mày. - Anh cần chiếc nhẫn đó đến thế sao? Becker gật đầu lạnh lùng: - Cô đã bán nó cho ai? Gã béo người Đức ngơ ngác ngồi trên giường. Buổi tối lãng mạn của gã thế là đi tong, và rõ ràng là hắn không tài nào hiểu nổi họ đang nói gì với nhau. Gã hỏi vẻ sợ sệt: - Chuyện gì đang xảy ra vậy?  Becker không thèm để ý đến hắn. - Thực ra tôi không bán nó - Rocio nói - Tôi đã thử ra giá, nhưng cô gái đó chỉ là một đứa trẻ và nó chẳng có đồng nào cả. Thế là tôi đành cho không nó cái nhẫn. Tôi mà biết trước là anh sẽ đưa ra một lời đề nghị hào phóng thế này thì chắc chắn tôi đã để nó lại cho anh. - Thế tại sao cô lại rời khỏi công viên - Becker thăm dò - Có người chết, tại sao cô không đợi cảnh sát đến rồi nộp cho họ chiếc nhẫn? - Ông Becker ạ, tôi không muốn mua dây buộc mình. Vả lại, lúc ấy ông già đó dường như kiểm soát được tình hình. - Người đàn ông Canada? - Đúng rồi, ông ta gọi xe cứu thương, thế là chúng tôi quyết định bỏ đi, tôi chẳng muốn dính líu tới mấy tên cớm chút nào. Becker gật đầu vẻ thẫn thờ. Anh đang cố gắng chấp nhận sự thật phũ phàng này. Cô ả đã đem cho người khác! - Tôi cũng định giúp - Rocio giải thích - Nhưng có vẻ ông ta không cần. Ông ta cứ giơ chiếc nhẫn lên rồi dúi vào mặt chúng tôi, mấy ngón tay của ông ấy duỗi thẳng ra. Ông ấy cứ liên tục dúi bàn tay về phía chúng tôi như thể muốn chúng tôi lấy chiếc nhẫn đó. Tôi không hề muốn vậy, nhưng cuối cùng anh bạn đây đã lấy thật. Rồi ông ta chết. - Và cô đã thử hồi sức cấp cứu cho ông ta - Becker đoán. - Chúng tôi không hề chạm vào ông ta. Anh bạn tôi cảm thấy sợ. Anh ta trông to con thế thôi nhưng nhát gan lắm - Cô nàng cười vẻ đưa đẩy với Becker. - Anh đừng lo, anh chàng này không biết tí tiếng Tây Ban Nha nào đâu. Becker cau mày. Anh đang nghĩ về vết tím trên ngực của Tankado. - Có phải mấy nhân viên y tế đã làm hồi sức cấp cứu không? - Tôi không rõ. Như tôi vừa nói với anh, chúng tôi đi trước khi họ đến. - Tức là sau khi cô ăn trộm cái nhẫn đó - Becker gằn giọng. Rocio trừng mắt. - Chúng tôi không ăn cắp. Ông ta sắp chết. Rõ ràng ông ta có ý tặng chúng tôi. Chúng tôi chỉ đơn giản đã thực hiện ước nguyện cuối cùng của ông ta thôi. Becker dịu xuống. Cô ả Rocio này nói đúng: trong tình huống ấy chắc cũng sẽ làm như vậy. - Cô đem cái nhẫn ấy cho một cô gái nào đó à? - Tôi đã nói rồi. Cái nhẫn làm tôi thấy sợ. Tôi thấy cô gái đó lúc ấy đeo rất nhiều đồ trang sức do vậy tôi mới nghĩ chắc con bé sẽ thích. - Và cô bé không cảm thấy kỳ lạ hay sao? Sao tự nhiên lại có người cho không cô ta cái nhẫn được? Không hề, tôi bảo tôi nhặt được nó trong công viên. Tôi cứ nghĩ con bé sẽ trả cho tôi vài đồng, nhưng không. Tôi cũng chẳng thèm quan tâm, tôi chỉ muốn tống khứ nó đi cho nhanh. - Cô cho cô bé vào lúc nào? Rocio nhún vai. - Chiều nay. Khoảng một giờ sau khi chúng tôi nhận nó. Becker nhìn đồng hồ của mình: 11 giờ 48 phút tối. Vậy là chuyện đó xảy ra đã 8 tiếng rồi. Mình đang làm cái quái gì ở đây thế này? Đáng nhẽ mình đang ở Smokys rồi chứ. Anh thở dài và hỏi câu duy nhất có thể nghĩ ra lúc này: - Cô gái đó trông như thế nào? - Nó ăn mặc kiểu Punk. - Rocio trả lời. Becker ngước nhìn bối rối. - Kiểu punk? - Vâng, đúng thế! Cô nàng đáp lại bằng thứ tiếng Anh không trôi chảy lắm, và ngay lập tức chuyển sang tiếng Tây Ban Nha. - Con bé đeo rất nhiều đồ trang sức. Nó đeo một cái hoa tai khá kỳ dị. Hình đầu lâu thì phải. - Ở Seville mà cũng có người ăn mặc kiểu Punk ư? Rocio mỉm cười. - Mmọi thứ trên đời. Đó là khẩu hiệu quảng cáo của Sở Du Lịch Seville. - Cô bé có cho cô biết tên không? - Không! - Cô ta có nói đang đi đâu không? - Không, tiếng Tây Ban Nha của con bé rất kém. Cô bé không phải người Tây Ban Nha sao - Becker hỏi. - Không, Tôi nghĩ con bé là người Anh. Nó có mái tóc loè loẹt lắm, đỏ, trắng rồi còn xanh nữa chứ. Becker nhau mày trước hình ảnh quái dị vừa được vẽ ra. - Có lẽ cô ta là người Mỹ. - Tôi không nghĩ vậy - Rocio nói - Con bé có mặc một cái áo phông có hình quốc kỳ nước Anh. Becker gật đầu trong im lặng. - Được rồi, tóc đỏ, trắng và xanh, áo phông có cờ của nước Anh, một khuyên tai hình đầu lâu, còn gì nữa nào? - Chẳng có gì. Nó giống hệt những người ăn mặc kiểu Punk điển hình. Kiểu Punk điển hình? Becker đã quen sống trong một môi trường với các cô cậu sinh viên quần áo chỉnh tề đầu tóc gọn gàng. Anh thậm chí không thể mường tượng ra hình ảnh của cô gái mà Rocio vừa nhắc tới. - Cô còn nghĩ ra điều gì nữa không - Anh hối thúc Rocio nghĩ ngợi một lát. - Không, chỉ có thế thôi. Đúng lúc đó, tiếng kẽo kẹt từ chiếc giường vang lên. "Thượng đế" của cô nàng Rocio vừa xoay người một cách không thoải mái cho lắm. Becker quay sang chỗ gã, nói một câu tiếng Đức chuẩn. - Còn gì nữa không? Ông có biết gì thêm về cô gái đang cầm chiếc nhẫn không? Im lặng kéo dài. Có vẻ như gã khổng lồ có gì đó muốn nói nhưng hắn không biết nói ra như thế nào. Môi hơi run run, hắn ngập ngừng và cuối cùng cũng chịu nói. Gã thốt ra bốn từ tiếng Anh nhưng do cái giọng Đức đặc khịt, mấy từ đó trở nên rất khó hiểu. - Fock off und die. Becker há hốc mồm ngạc nhiên. - Ông nói gì? - Fock off und die! Gã vừa nhắc lại vừa đưa lòng bàn tay trái vỗ nhẹ lên cẳng tay phải mập mạp của gã. Hành động đó na ná như một từ thô tục trong ngôn ngữ cử chỉ của dân Italia có nghĩa "Mẹ kiếp". Becker quá mệt mỏi, anh chẳng buồn nổi giận vì những từ ngữ xúc phạm vừa hiểu ra. Fuck off and die? Cút xéo ngay ư? Gã nhút nhát này đang sinh chuyện đây? Anh quay về phía Rocio và nói bằng tiếng Tây Ban Nha. - Có vẻ như tôi đã lạm dụng quá đáng lòng tốt của anh bạn cô rồi thì phải? - Anh đừng ngại! - cô nàng cười. - Anh ta đang thất vọng một chút ấy mà. Lát nữa anh ta sẽ có cái mà anh ta muốn - Cô nàng đưa tay vuốt tóc rồi nháy mắt với Becker. - Cô còn biết thêm gì nữa không - Becker hỏi - Bất cứ điều gì có thể giúp tôi? Rocio lắc đầu. - Hết rồi, nhưng anh chẳng thể tìm thấy con bé đó đâu. Thành phố Seville này rất lớn, sẽ rất khó tìm đấy. - Tôi sẽ làm hết sức có thể. Vấn đề an ninh quốc gia mà… - Nếu anh không gặp may - Rocio vừa nói vừa nhìn vào chỗ cái phong bì phồng to trong túi áo Becker - thì nhớ quay lại đây nhé. Tôi dám chắc anh bạn tôi đây lát nữa sẽ ngủ say như chết. Anh cứ gõ cửa nhẹ nhàng thôi. Tôi sẽ kiếm cho hai ta một căn phòng khác. Tôi sẽ chỉ cho anh xem một phần của đất nước Tây Ban Nha này, đảm bảo anh sẽ khó mà quên được - Cô nàng trề môi với Becker đầy vẻ khêu gợi. Becker cười gượng lịch thiệp. - Có lẽ tôi nên đi - Anh quay sang xin lỗi gã người Đức vì đã quấy rầy buổi tối vui vẻ này. Gã khổng lồ mỉm cười. - Không vấn đề gì.  Becker bước ra khỏi phòng. Không vấn đề gì? Chẳng phải mày vừa văng tục đó sao? "Ngưng hoạt động do thao tác bằng tay" - Susan chết lặng nhìn vào màn hình. Cô biết mình chưa hề gõ một dòng lệnh nào có thể khiến chương trình ngưng chạy - Ít nhất là một cách có ý thức. Cô tự hỏi không biết mình có vô tình đánh nhầm một dòng lệnh nào đó hay không - Không thể nào - Cô lẩm bẩm. Những gì cô đọc được trên màn hình giúp cô khẳng định chắc chắn lệnh đó đã được nhập cách đây khoảng 20 phút trước. Susan nhớ rất rõ thứ duy nhất cô nhập vào máy vi tính trong khoảng thời gian đó là mật khẩu của Screenlock (chương trình bảo vệ màn hình) lúc cô bước ra ngoài nói chuyện với sếp. Thật ngu ngốc nếu nghĩ rằng những ký tự mật khẩu đó lại có thể bị máy vi tính hiểu nhầm là lệnh ngưng hoạt động chương trình Tracer. Biết rằng mình đang phí phạm thời gian, Susan nhanh chóng khởi động lại chương trình Screenlock và nhập mật mã đến hai lần để chắc chắn rằng cô không mắc bất cứ lỗi nào khi tiến hành thao tác này. Và quả thật không có bất cứ trục trặc nào. Cô giận dữ. - Vậy thì Tracer đã nhận lệnh ngưng hoạt động từ đâu chứ… Susan cau mày bực mình và đóng cửa sổ chương trình Screenlock. Nhưng thật kỳ lạ, ngay lúc cửa sổ chương trình còn chưa kịp đóng lại hoàn toàn, dường như cô đã kịp phát hiện ra điều gì đó. Susan liền mở lại chương trình và nhìn đăm đăm vào những dòng dữ liệu. Chúng hoàn toàn vô nghĩa. Chương trình còn ghi lại thời điểm cô thao tác khoá máy tính khi Susan rời khỏi Node 3, nhưng có cái gì đó không bình thường liên quan đến thời điểm máy tính bị truy nhập lại. Hai thao tác này được chương trình ghi lại cách nhau chưa đến một phút. Susan chắc chắn rằng cô đã đứng nói chuyện ở ngoài với sếp lâu hơn một phút rất nhiều. Susan di chuyển về phía dưới màn hình xem còn gì khác lạ nữa không. Những thông tin trên màn hình làm cô thực sự choáng váng. Chương trình Screenlock còn ghi lại một thao tác khoá máy và một thao tác truy nhập khác nữa. Thao tác truy nhập cuối cùng được ghi lại cách thời điểm hiện tại khoảng 3 phút. Vậy là đã rõ! Susan hiểu ngay ra rằng đã có người truy cập lén lút vào máy của cô trong khi cô đang ở bên ngoài. - Không thể nào! - Susan như nghẹn thở. Kẻ đáng ngờ duy nhất là Greg Hale nhưng Susan chắc chắn rằng cô chưa bao giờ cho Hale biết mật khẩu. Tuân thủ những quy tắc của một mật mã viên, Susan đã chọn ngẫu nhiên mật khẩu của mình và chưa bao giờ ghi nó ra cả. Việc Hale có thể đoán chính xác 5 kỹ tự mật khẩu của cô là chuyện không tưởng vì 5 ký tự đều nằm trong bảng chữ cái la tinh và điều đó đồng nghĩa với việc sẽ có đến 36 mũ 5 tương đương với trên 60 triệu khả năng xảy ra. Nhưng việc có người truy nhập lén lút vào máy của cô qua chương trình Screenlock đã rõ như ban ngày. Susan không hiểu chuyện gì đang xảy ra nữa. Có lẽ Greg Hale bằng cách nào đó đã truy nhập được vào máy của cô khi cô đi ra ngoài và chính anh ta đã nhập lệnh yêu cầu Tracer ngưng hoạt động. Bây giờ Susan chuyển sang thắc mắc không hiểu tại sao Hale lại làm vậy? Anh ta đâu có động cơ nào để đột nhập vào máy của cô. Anh ta thậm chí còn không biết cô đang chạy chương trình Tracer mà. Ngay cả khi nếu có biết đi nữa, Susan nghĩ, thì tại sao anh ta lại muốn phá rối việc cô tìm kiếm gã North Dakota này? Những câu hỏi không có lời đáp liên tục nảy sinh trong đầu cô. - Phải giải quyết việc quan trọng nhất trước đã - Cô buột miệng nói ra thành lời. Cô quyết định sẽ giải đáp những thắc mắc về Hale sau. Susan khởi động lại chương trình Tracer, cô nhấn vào phím ENTER, máy tính kêu một tiếng bíp. CHƯƠNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC GỬI ĐI Susan biết phải mấy tiếng đồng hồ nữa Tracer mới gửi thông tin trở về. Cô nguyền rủa Hale, không hiểu làm thế quái nào mà anh ta lại có được mật khẩu của cô, không hiểu anh ta muốn gì khi làm Tracer ngừng hoạt động chứ? Susan liền đứng dậy và ngay lập tức cô bước đến bên máy vi tính của Hale. Màn hình tối đen nhưng cô nhận ra ngay là nó không bị khoá - vẫn có thể nhận thấy những điểm sáng mờ mờ bên các mép màn hình. Các lập trình viên rất hiếm khi khoá máy vi tính của mình, trừ khi họ kết thúc công việc và rời khỏi Node 3 về nhà. Thay vào đó họ thường chỉ đơn giản giảm độ sáng của màn hình - đây được coi là một thông báo ngầm mà ai cũng hiểu đó là: đừng đụng vào máy của tôi. Susan ngồi cạnh máy của Hale: - Sao lại để máy thế này mà ra ngoài chứ? - Cô nói - Có ai bắt anh phải làm thế đâu? Nhìn thoáng qua không gian vắng lặng của Crypto, Susan tăng độ sáng màn hình của Hale lên. Màn hình đã chạy bình thường nhưng trên đó hoàn toàn trống trơn. Susan cau mày trước màn hình trống rỗng không biết nên làm gì tiếp đây, cô quyết định chạy chương trình tìm kiếm và bắt đầu gõ: TÌM KIẾM: "CHƯƠNG TRÌNH TRACER" Việc tìm kiếm này xem ra rất khó có thể mang lại kết quả. Nhưng nếu tồn tại bất cứ thông tin gì về phần mềm Tracer của Susan trên máy của Hale, việc tìm kiếm sẽ cho kết quả. Nó có thể sẽ giúp hé mở nguyên nhân tại sao Hale lại tắt chương trình Tracer khi nó đang hoạt động. Một vài giây sau, màn hình xuất hiện dòng chữ.. KHÔNG TÌM THẤY Susan ngồi thẫn thờ một lát, cô cũng không biết là mình đang tìm gì nữa. Cô thử lại lần nữa. TÌM KIẾM: "CHƯƠNG TRÌNH SCREENLOCK" Màn hình thay đổi trạng thái và hiển thị một loạt những thông tin vô bố - rõ ràng là không có dấu vết nào chứng tỏ Hale đã sao chép mật khẩu của Susan và lưu trên máy của mình. Susan thở dài thành tiếng. Vậy hôm nay anh ta ta đã chạy những chương trình gì nhỉ? Cô liền truy cập vào danh mục những ứng dụng gần thời điểm hiện tại nhất trên máy của Hale để tìm xem anh vừa chạy chương trình gì. Đó là chương trình Email - thư điện tử. Susan kiểm tra ngay ổ cứng của máy, cuối cùng cô cũng tìm được danh mục Email được dấu kín sau hàng loạt các thư mục khác nhau. Cô mở danh mục đó ra và một loạt doanh mục khác cùng lúc hiện ra, có vẻ như Hale sử dụng nhiều địa chỉ Email khác nhau. Susan không mấy khó khăn phát hiện ra một địa chỉ không ghi tên cụ thể. Cô mở danh mục đó ra, bấm vào một trong số những lá thư gửi đến và đọc. Ngay lập tức cô cảm thấy nghẹn thở. Nội dưng bức thư như sau: Người nhận: [email protected] Người gửi: [email protected] MỘT BƯỚC TIẾN LỚN! CHƯƠNG TRÌNH PHÁO ĐÀI SỐ ĐÃ GẦN XONG. VÀI THẬP KỶ NỮA NSA MỚI THEO KỊP! Susan không tin vào mắt mình nữa. Cô đọc đi đọc lại bức Email, rồi sau đó run rẩy mở bức khác. Người nhận: [email protected] Người gửi: [email protected] CHỨC NĂNG XOÁ VĂN BẢN LIÊN TỤC ĐÃ CÓ TÁC DỤNG! NHỜ CÓ CÁC CHUỖI KÝ TỰ HOÁN CHUYỂN! Không tài nào tưởng tượng nổi, nhưng đó là sự thực. Đây là những bức thư điện tử của Ensei Tankado. Cả hai đã liên lạc và làm việc với nhau một thời gian rồi. Susan nhìn màn hình chết lặng. Geg Hale chính là NDARKOTA sao? Susan dán mắt vào màn hình. Cô cố nghĩ xem liệu còn có cách lý giải nào khác nữa không, nhưng không, bằng chứng quá rõ ràng, quá bất ngờ và không thể chối cãi được: Tankado đã sử dụng các chuỗi ký tự hoán chuyển nhằm tạo ra chức năng xoá văn bản liên tục, và Hale đã đồng loã với anh ta nhằm cản bước NSA. - Điều này…- Susan lắp bắp - Điều này…là không thể. Lúc đó những lời nói trước đây của Hale như vang lên trong tâm trí Susan, chống lại nhưng phán đoán vừa rồi của cô. "Tankado có vài lần viết cho tôi… Strathmore đúng là thật quá mạo hiểm khi thuê tôi làm việc… Một ngày nào đó tôi sẽ ra đi". Nhưng Susan vẫn không thể tin được những điều cô thấy là sự thật Đúng, Hale là một kẻ đáng ghét và ngạo mạn - nhưng anh ta không thể là kẻ phản bội đữợc. Hale thừa hiểu tầm quan trọng của Pháo Đài Số đối với NSA, không có lý nào anh ta lại tham gia vào một âm mưu nhằm tiết lộ nó ra ngoài được! Nhưng Susan cũng phải công nhận không có lý do gì ngăn cản anh ta cả - ngoại trừ danh dự và sự chính trực trong con người anh ta. Cô nghĩ lại chuyện xảy ra với thuật toán Skipjack. Rõ ràng Greg Hale đã từng làm hỏng các kế hoạch của NSA một lần, vậy thì chẳng có lý do gì mà anh ta lại không lặp lại chuyện đó một lần nữa. - Nhưng Tankado… - Susan thắc mắc - Tại sao một người thận trọng như Tankado lại đi tin một kẻ khó lường như Hale chứ? Cô chợt nhận ra tất cả những thứ đó bây giờ không còn quan trọng nữa. Việc cần phải làm ngay bây giờ là gặp ngay Strathmore. Susan không thể hiểu nổi, trời xui đất khiến thế nào mà đối tác của Tankado lại ở ngay tnrớc mũi họ thế này. Susan lại tự hỏi không hiểu Hale biết chuyện Tankado đã chết hay chưa. Susan nhanh chóng tắt hết các thư điện tử mình vừa mở, nhằm để máy tính trở về với trạng thái ban đầu như trước khi cô truy nhập Hale sẽ không nghi ngờ gì - chưa thể. Đột nhiên cô nghĩ ra rằng có thể mật khẩu của chương trình Pháo Đài Số có cất giấu đâu đó trong chiếc máy vi tính này. Ngay khi Susan vừa đóng xong file cuối cùng, một bóng người đi ngang qua cửa sổ của Node 3. Susan giật thót nhìn ra ngoài và trông thấy Greg Hale đang quay trở lại. Lượng hoóc môn adrenalin trong người Susan đột nhiên tăng vọt - cô hoảng sợ. Anh ta đã gần đến cửa rồi. - Chết tiệt! - Cô vừa nghĩ vừa ước lượng khoảng cách từ chỗ này đến chỗ bàn làm việc của mình. Cô hiểu rằng mình sẽ không thể kịp về chỗ. Hale đã sắp vào đến nơi rồi. Lo lắng, Susan đảo mắt thật nhanh quanh Node 3 để tìm đường rút lui Có tiếng mở cửa phát ra sau lưng cô. Cánh cửa từ từ hé mở. Susan cảm thấy mọi hành động của mình như bị bản năng chế ngự. Cô đột nhiên tăng tốc, sải những bước nhanh và dài về phía phòng ăn. Khi cánh cửa được mở ra Susan đã kịp dừng lại ngay trước chiếc tủ lạnh và giật mạnh cánh cửa. Bình nước thuỷ tinh đặt trên nóc tủ chòng chành như muốn đổ, nhưng rồi nó cũng dần thăng bằng trở lại và không có chuyện gì xảy ra. - Cô đói à? Hale hỏi khi vừa ló mặt vào trong Node 3. Anh ta đi lại chỗ Susan, giọng bình thản và châm chọc - Cùng nhau làm chút đậu hũ chứ? Susan thở phào nhẹ nhõm, cô quay mặt lại. - Không, cảm ơn! - cô nói - Tôi nghĩ sẽ chỉ… Đột nhiên cô như nghẹn ứ trong cổ họng. Mặt Susan chuyển sắc trắng bệch. Hale nhìn cô thắc mắc: - Có chuyện gì vậy? Susan cắn môi nhìn anh ta. - Không! - cô cố gắng kiếm soát tình hình. Nhưng đó chỉ là một lời nói dối. Từ bên này gian phòng, Susan vẫn nhận ra màn hình vi tính của Hale đang hoạt động. Susan đã quên không giảm độ sáng của nó. Chương 37 Bước xuống lầu dưới khách sạn Anfonso XIIl, Becker uế oải lê bước đến quầy bar. Một anh chàng phục vụ trông không khác gì một chú lùn tiến lại đặt trước mặt anh một cái khăn ăn. - Ông muốn dùng gì ạ? - Không, cảm ơn anh - Becker trả lời. - Tôi định hỏi xem liệu anh có biết trong thành phố này có câu lạc bộ Punk không? Người phục vụ nhìn anh ngạc nhiên. - Câu lạc bộ Punk ư? - Phải, ở thành phố này có chỗ nào mà họ hay tụ tập không? - Không thưa ông, tôi không rõ lắm, nhưng chắc chắn không phải là ở đây rồi - Anh ta mỉm cười - Ông uống chút gì nhé? Becker cảm thấy hình như mình vừa làm anh chàng phục vụ ngạc nhiên và hơi thất vọng. Có vẻ không giống những gì anh ta đã lên kế hoạch từ trước. - Ông dùng rượu nhé - Anh chàng nhắc lại - Fino? Hay Jerez? Một giai điệu nhẹ nhàng vang lên. Bản công xéc tô Brandenburg, Becker nghĩ, Số 4. Năm ngoái, anh và Susan đã được xem dàn nhạc của Học Viện St. Martin chơi bản công xéc tô này tại trường đại học. Đột nhiên anh ước gì lúc này Susan ở đây bên anh. Hơi mát toả ra từ chiếc máy điều hoà phía trên đầu khiến anh hình dung ra nhiệt độ ở bên ngoài khách sạn. Anh nghĩ đến cảnh mình sắp phải lê bước trên những con phố nóng nực và vắng ngắt ở Triana tìm kiếm một con bé mặc chiếc áo phông có hình quốc kỳ Anh. Anh lại nghĩ về Susan một lần nữa. - Zumo de arandanol - Anh nói. - Nước quất Cranberry. Người phục vụ quầy bar ngạc nhiên. - Một thôi ư? Nước quất Cranberry rất phổ biến ở Tây Ban Nha nhưng anh chàng này chưa thấy ai dùng thứ đồ uống đó một mình bao giờ. - Ừ! - Becker nói - Một thôi. Người phụ vụ dỗ dành. - Pha thêm một chút xíu Vodka nhé? - Không, cảm ơn! - Chúng tôi không tính tiền đâu - Anh chàng ngon ngọt – Miễn phí. Đầu nhức như búa bổ, Becker vẫn mường tượng được cảnh những con phố bẩn thỉu và ngột ngạt ở Triana và cả một đêm dài ở trước mắt. Đúng là địa ngục. Anh gật đầu. - Ừ thì thêm tí vodka vậy! Anh chàng phục vụ có vẻ đã thoải mái trở lại, bắt đầu pha chế đồ uống. Becker ngắm nhìn quầy bar trang nhã anh đang ngồi và lại tự hỏi xem mình có nằm mơ không nhỉ? Không gì có thể thật hơn sự thực trần trụi này được. Mình là một giảng viên đại học, anh nghĩ, đang thực thi một nhiệm vụ tối mật. Anh chàng phục vụ mang cho Becker đồ uống anh vừa gọi. - Nước quất Cranberry ới một chút xíu vodka của ông đây! Becker cảm ơn anh ta. Anh đưa lên miệng nhâm nhi một ngụm, nhưng ngay lập tức khạc ra. Một chút xíu mà thế này à? Chương 38 Hale đứng gần phòng ăn của Node 3, anh ta nhìn Susan chằm chằm. - Sao vậy Sue? Trông cô không được khoẻ thì phải. Susan cố gắng vật lộn với lỗi lo lắng đang tăng dần. Cách chỗ họ đứng chỉ khoảng 10 bước chân, màn hình của Hale vẫn sáng. - Tôi… Tôi không sao - Cô gắng gượng, tim cô đang như muốn nhảy khỏi lồng ngực. Hale nhìn cô vẻ mặt lúng túng. - Này, cô uống chút nước nhé? Susan không còn trả lời được nữa. Cô tự nguyền rủa mình, sao mình lại có thể quên không giảm độ sáng cái màn hình chết tiệt ấy chứ, Susan biết chắc ngay khi Hale nghi ngờ cô lén lút truy nhập anh ta sẽ nghĩ rằng cô đã biết được thân phận thực sự của anh ta, North Dakota. Cô sợ anh ta sẽ làm tất cả để che dấu thân phận đó. Susan đang cân nhắc xem liệu mình có nên lao ngay ra phía cửa hay không. Nhưng cô không kịp làm việc đó. Đột nhiên có một tiếng đập mạnh vào thành tường kính. Cả Hale và Susan đều giật thót Đó là Chartrukian. Anh ta liên tục giơ cánh tay ướt nhoèn mồ hôi lên đập liên hồi vào bức tường. Vẻ mặt anh ta như vừa mới thấy ma hiện hình. Hale quắc mắt nhìn anh chàng nhân viên an ninh như đang động kinh ngoài cửa sổ rồi quay lưng lại phía Susan. - Tôi sẽ quay lại ngay. Cô uống chút gì đi, trông cô nhợt nhạt lắm đấy! Hale đi ra ngoài. Susan cố gắng lấy lại dũng khí rồi nhanh chóng chạy đến bên máy tính của Hale. Cô cúi xuống và điều chỉnh độ sáng của màn hình. Màn hình đã tối đen. Đầu óc Susan chao đảo. Cô cố gắng quay lại và theo dõi cuộc đối thoại đang diễn ra ở phía ngoài Crypto. Chartrukian vẫn chưa chịu về nhà Trông anh chàng rất hoảng sợ, hình như anh ta như đang nói với Hale điều gì đó. Susan không còn quan tâm đến chuyện đó nữa - Hale đã biết hết những gì Chartrukian định nói. Mình phải gặp Strathmore, cô nghĩ ngay lập tức. Chương 39 Trong phòng 301. Loã thể, Rocio Eva Granada đứng trước tấm gương trong phòng tắm. Giây phút đáng ghét nhất đã tới. Gã người Đức đang ở trên giường chờ đợi. Gã đúng là tên đàn ông to lớn nhất mà cô từng phục vụ. Lưỡng lự một lát, cô đưa tay với lấy một cục đá để trong chậu nước gần đó rồi từ từ xoa lên ngực mình. Bộ ngực dần cứng lại. Đây là bí quyết riêng của Rocio - để khiến bọn đàn ông thèm khát. Và khiến chúng phải quay lại tìm cô. Rocio đưa hai bàn tay xoa khắp tấm thân đầy đặn và mềm mại thầm hi vọng mình sẽ còn giữ được phong độ thêm ba bốn năm nữa, khi đã kiếm đủ để có thể giải nghệ. Mặc dù bị Roldan ăn chặn mất phần lớn thu nhập nhưng Rocio thừa hiểu nếu không có hắn thì cô cũng sẽ chỉ như những con điếm hạ đẳng khác ở Triana suốt ngày chỉ phục vụ mấy thằng say rượu ít ra mấy gã khách này còn có nhiều tiền. Bọn chúng cũng không bao giờ đánh đập cô và thực ra cũng dễ chiều. Cô ta mặc bộ đồ ngủ, hít một hơi thật dài rồi mở của phòng tắm. Vừa thấy Rocio bước ra, gã người Đức sáng mắt lên. Cô nàng diện một bộ đồ ngủ màu đen. Nước da nâu đẹp như ánh lên dưới ánh đèn mờ ảo, đôi bầu vú thật khiêu gợi dưới làn vải mỏng. - Hãy lại đây nào - Gã thốt lên háo hức trong khi cởi phanh chiếc áo choàng và nằm xuống giường. Rocio cố gắng nở một nụ cười và tiến lại phía chiếc giường. Cô nàng cúi xuống nhìn gã người Đức to béo. Đưa mắt vào giữa hai đùi gã cô nàng cười thầm nhẹ nhõm: cái ấy của gã không to lắm. Không thể đợi thêm nữa, gã vồ lấy Rocio, chiếc áo ngủ bị xé toạc trong nháy mắt. Những ngón tay mập mạp không bỏ xót một centimet nào trên thân thể Rocia. Cô nàng không ngớt rên rỉ và quằn quại trong cơn khoái lạc giả tạo. Gã chồm dậy rồi nằm đè lên Rocio, Tưởng như mình sắp bị đè bẹp đến nơi. Rocio thở hốn hển cố gắng cưỡng lại cái cổ bè bè trắng bệch như trát ma tít của gã. Cô nàng cầu nguyện sao cho gã kết thúc việc này sớm. - Nữa! Nữa! - Rocio hổn hển sau mỗi lần gã dập xuống. Những ý nghĩ lộn xộn ùa vào tâm trí Rocio, khuôn mặt của vô khối những gã đàn ông mà cô đã chiều chuộng, hình ảnh những cái trần nhà đã từng dán mắt vào nhiều giờ đồng hồ trong bóng tối, rồi cả những mơ ước về con cái… Đột nhiên, thân thể gã người Đức cong lên, cứng ngắt và gần như ngay lập tức đổ sụp xuống đè lên người Rocio. Chỉ có vậy thôi sao? Cô nàng tự hỏi, ngạc nhiên và nhẹ nhõm. Rocio cố gắng lách ra khỏi tấm thân đang đè cứng lên mình. - Anh yêu! - Rocio khàn giọng - Cho em lên trên nào? hưng gã không nhúc nhích. Rocio cố gắng ngồi dậy, cô lấy hết sức đẩy đôi vai kềnh càng của gã. - Anh yêu, em… em không thở được! - Cô như sắp ngất đến nơi, Rocio cảm thấy mấy rẻ xương sườn của mình như sắp gãy đến nơi. - Lạy chúa! - Một cách bản năng cô đưa mấy ngón tay tóm lấy tóc gã và bắt đầu giật - Tỉnh dậy nào!  Đúng lúc đó, Rocio cảm thấy tay mình sờ vào một chất lỏng âm ấm và nhơm nhớp. Chất lỏng đỏ bết trên tóc của gã người Đức - nó đang từ từ chảy xuống má và trôi vào miệng cô. Cô giãy giụa như điên dại dưới thân hình kềnh càng đó. Một tia sáng ma quái loé lên giúp Rocio nhìn thấy trước mặt cô là khuôn mặt méo mó vô thần của gã người Đức. Máu của gã đang phun ra tung toé từ một lỗ đạn nằm ngay thái dương. Rocio cố gắng hét lên nhưng vô vọng, trong phổi cô lúc này không còn chút không khí nào cả. Gã đang đè bẹp cô. Hoảng loạn, Rocio điên cuồng quờ tay che nguồn sáng chiếu đến từ phía cánh cửa. Cô trông thấy một cánh tay. Một khẩu súng và ống giảm thanh. Một luồng sáng loé lên. Và Rocio không còn nhìn thấy gì nữa. Phía bên ngoài Node 3, Chartrukian trông có vẻ tuyệt vọng. Anh chàng đang cố gắng thuyết phục Hale rằng TRANSLTR đang gặp trục trặc. Susan đi qua chỗ họ với một suy nghĩ duy nhất trong đầu: tìm Strathmore. Anh chàng nhân viên Phòng An ninh hệ thống chụp ngay lấy tay Susan khi cô đi ngang qua. - Cô Fletcher! Chúng ta đang bị virus tấn công! Chắc chắn đấy! Cô phải… Susan giật ngay tay mình lại và nhìn anh ta bực tức. - Tôi tưởng sếp đã yêu cầu anh về nhà rồi cơ mà. - Nhưng cái màn hình đang chạy! Nó đã đăng nhập những 18… - Sếp đã yêu cầu anh phải ra về! - Mặc xác lão Strathmore ấy đi! - Chartruklan gào lên, tiếng của anh chàng này vang vọng khắp toà nhà. Bỗng một giọng nói trầm trầm vọng xuống từ đâu đó trên cao. - Chartrukian! Cả ba nhân viên của Crypto lặng gắt. Ngay trên đầu họ, Strathmore đang nhìn xuống từ ban công phòng làm việc của ông. Không gian như chết lặng trong giây lát, âm thanh duy nhất họ nghe thấy là tiếng vo vo phát ra từ chiếc máy phát điện đặt ở bên dưới toà nhà. Susan cố nhìn thẳng vào mắt Strathmore. Sếp! Hale chính là North Dakota! Nhưng ánh mắt của Strathmore lúc này chỉ tập trung vào một điểm duy nhất, anh chàng nhân viên an ninh hệ thống trẻ tuổi. Chỉ mất mấy giây, ông đi xuống cầu thang, ngang qua Cypto, và dừng lại. Cách anh chàng kỹ thuật viên tội nghiệp đúng một bước chân. - Anh vừa nói cái gì đấy? - Dạ thưa sếp… - Chartrukian nghẹn ứ trong họng - TRANSLTR đang có trục trặc ạ. - Thưa sếp! - Susan cắt ngang. - Liệu tôi… Strathmore xua tay, ông không muốn nghe cô nói. Mắt ông vẫn không rời anh chàng nhân viên an ninh hệ thống. Phil thốt lên từng lời: - Thưa sếp, chúng ta đang bị virus tấn công, tôi chắc chắn như vậy! Mặt Strarthmore tím bầm lại. - Chartrukian, chúng ta đã nói chuyện này rồi, TRANSLTR không gặp phải vấn đề nào cả, hiểu chưa! - Thưa, có đấy ạ! - Anh chàng thốt lên. - Và nếu như con virus đó mà xâm nhập được vào cơ sở dữ liệu chính… - Con virus đó chui từ chỗ quái quỷ nào ra vậy - Strathmore gầm lên - Anh thử chỉ cho tôi xem nào! Chartrukian lưỡng lự. - Tôi không thể. - Tất nhiên, anh không thể, nó đâu có tồn tại! Susan nói: - Thưa sếp, tôi cần… Một lần nữa Strathmore khiến cô im lặng bằng một cái xua tay bực bội. Susan nhìn Hale lo lắng. Trông anh ta đầy vẻ tự mãn và không một chút quan tâm. Quá rõ ràng rồi, cô nghĩ, Hale chẳng cần phải lo lắng gì về con virus đó, anh ta biết quá rõ điều gì đang diễn ra với TRANSLTR. Chartrukian vẫn cứ khăng khăng. - Con virus đó có thực thưa sếp, nhưng chương trình Gauntlet không phát hiện được nó. - Nếu như Gauntlet không phát hiện ra - Strathmore tức giận - thì làm thế quái nào anh biết là có nó chứ? Chartrukian đột nhiên có vẻ tự tin hơn. - Các chuỗi ký tự hoán chuyển, sếp ạ, tôi đã chạy một chương trình phân tích tổng hợp, và kết quả là đã phát hiện ra một chuỗi ký tự hoán chuyển! Bây giờ thì Susan đã hiểu tại sao Chartrukian lại lo lắng đến vậy. Các chuỗi ký tự hoán chuyển, cô trầm ngâm. Cô biết đó là những đoạn chương trình có thể phá huỷ dữ liệu theo những phương thức rất phức tạp. Những đoạn chương trình này rất phổ biến trong các chương trình virus máy tính, đặc biệt là những loại virus thường phá huỷ những khối dữ liệu lớn. Nhưng qua những bức thư của Ensei Tankado, Susan thừa biết những các chuỗi ký tự hoán chuyển mà Chartrukian phát hiện được là hoàn toàn vô hại - nó chỉ đơn thuần là một phần của chương trình Pháo Đài Số. Anh chàng nhân viên an ninh hệ thống tiếp tục. - Thưa sếp, khi thoạt trông thấy những chuỗi các ký tự hoán chuyển đó, tôi đã nghĩ rằng bộ lọc virus của Gauntlet có trục trặc. Nhưng sau đó tôi đã cho chạy kiểm tra vài lần và phát hiện ra rằng… - Anh chàng dừng lại có vẻ khó chịu - Tôi đã phát hiện rằng có người nào đó đã cố tình tắt bộ lọc virus của Gauntlet. Tuyên bố của Chartrukian tạo ra một sự im lặng đột ngột. Gương mặt của Strathmore lúc này càng tím bầm hơn. Ai cũng hiểu anh chàng Chartrukian đang buộc tội ai - tại Crypto chỉ có máy tính của Strathmore là có khả năng tắt bộ lọc virus Gauntlet. Strathmore lên tiếng, giọng lạnh như băng. - Chartrukian, đúng là chính tôi đã tắt Gauntlet nhưng đấy không phải là việc của anh. Ông tiếp tục: - Tôi đã nói với anh rồi, tôi đang chạy một chương trình chẩn đoán rất mới, những chuỗi ký tự hoán chuyển mà anh thấy trên TRANSLTR là một phần của chương trình đó, chúng tồn tại là vì chính tôi đã để chúng ở đó. Chương trình Gauntlet đã ngăn cản tôi tải chương trình đó về máy, do vậy chính tôi đã tắt bộ lọc virus của Gauntlet đi - Strathmore nhìn Chartrukian nghiêm khắc. - Nào, anh còn gì thắc mắc trước khi bước khỏi đây không? Susan chợt thấy mọi chi tiết trở nên sáng tỏ. Những chuỗi ký tự hoán chuyển đã bị bộ lọc virus của Gauntlet giữ lại khi Strathmore tải thuật toán Pháo Đài Số đã được mã hoá từ trên mạng Internet về máy và cố sử dụng TRANSLTR để giải mã. Do nôn nóng muốn giải mã Pháo Đài Số cho nên ông đã chủ động tắt chế độ lọc virus đi. Thông thường, việc tắt chương trình Gauntlet là việc không thể chấp nhận được. Nhưng trong tình huống này thì khác, ngài chỉ huy biết một cách chính xác nội dung và nguồn gốc của file được tải về. - Với toàn bộ sự kính trọng của tôi, thưa sếp - Chartrukian dấn thêm - Thú thực là tôi chưa bao giờ nghe nói đến một chương trình chẩn đoán nào mà lại có chuỗi ký tự hoán chuyển… - Thưa sếp - Susan cắt ngang, cô không thể đợi thêm được nữa - Tôi rất cần… Cô chưa kịp nói thêm gì thì điện thoại di động của Strathmore đột nhiên đổ chuông. Viên chỉ huy lập tức nghe máy. - Cái gì? - Ông gắt lên. Sau đó ông im lặng và lắng nghe. Trong giây lát, Susan quên mất Hale. Cô cầu nguyện người gọi chính là David. "Hãy nói rằng anh ấy bình an". Cô ước. "Hãy nói rằng anh ấy đã tìm được chiếc nhẫn!" Strathmore như đọc được ánh mắt của Susan, ông liền cau mày. - Không phải David. Susan cảm giác như hơi thở của mình như gấp gáp hơn. Lúc này cô chỉ muốn được biết rằng người đàn ông cô yêu được an toàn. Susan biết chắc Strathmore đang sốt ruột vì những lý do khác; nếu David không thể tìm được chiếc nhẫn sớm, sếp bắt buộc sẽ phải gửi tiếp viện đến cho anh - các đặc vụ của NSA. Đó là một canh bạc liều lĩnh mà chắc chắn sếp muốn tránh. - Thưa sếp - Chartrukian thúc giục - tôi cho rằng chúng ta cần kiểm tra… - Đợi máy nhé! - Strathmore nói với người gọi cho ông. Ông đưa bàn tay lên che ống nói và nhìn anh chàng nhân viên trẻ người non dạ với ánh mắt nảy lửa. - Anh Chartrukian! - Strathmore gầm gừ - Chúng ta dừng cuộc nói chuyện ở đây. Anh hãy rời khỏi Crypto, ngay bây giờ, đó là mệnh lệnh. Chartrukian đứng như trời trồng. - Nhưng thưa sếp, còn chuỗi ký tự hoán chuyển… - NGAY BÂY GIỜ! - Strathmore gào lên. Chartrukian chết sững một lúc không nói lên lời. Rồi đột nhiên anh ta bước thẳng về phòng An ninh hệ thống. Strathmore quay lại, ông nhìn Hale thắc mắc. Susan có thể hiểu được sếp đang thắc mắc điều gì. Hale đã im lặng từ nãy đến giờ - quá im lặng. Hale biết rõ không thể có một chương trình chẩn đoán nào lại sử dụng các chuỗi ký tự hoán chuyển, vả chắc chắn cũng có rất ít chương trình nào có thể làm khó cho TRANSLTR suốt 18 giờ qua. Biết thế nhưng Hale không hề thốt ra một lời. Anh ta hoàn toàn dửng dưng trước những diễn biến vừa qua. Chính vì vậy mà Strathmore đang thắc mắc tại sao. Susan đã có câu trả lời. - Thưa sếp - cô cố gắng xen vào - Liệu tôi có thể nói… - Một lát nữa - Ông vừa từ chối vừa nhìn Hale đầy ngờ vực - Tôi cần nhận cuộc gọi này đã - Nói xong ông quay lưng và rảo bước về văn phòng của mình. Susan đã mở mồm định nói nhưng những lưỡi cô như đờ ra. Hale chính là North Dakota! Cô đứng như trời trồng đó, thẫn thờ, thở không ra hơi. Susan có cảm giác Hale đang quan sát mình, cô liền quay lại. Hale bước tới ngay cạnh cô, anh ta đưa tay phác cử chỉ lịch thiệp hướng về phía cửa của Node 3. - Sue, mời. Chương 41 Trong một căn phòng trên tầng ba khách sạn Alfonso XlII, một cô hầu phòng nằm bất động trên sàn nhà. Gã đàn ông với cặp kính gọng thép đang nhét trả lại chiếc chìa khoá vạn năng vào túi áo của cô. Hắn không hề nghe thấy một tiếng động nào lúc ra tay với cô gái, nhưng thực ra hắn cũng không chắc - hắn bị điếc từ năm 12 tuổi. Hắn đưa tay xuống chiếc hộp đeo dưới thắt lưng, từng cử chỉ cẩn trọng đến mức sùng kính. Đây là món quà hắn nhận được từ một khách hàng, chiếc máy này đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống của hắn. Bây giờ chỉ cần ngồi một chỗ hắn cũng có thể nhận được hợp đồng từ khắp nơi trên thế giới. Mọi liên lạc có thể được tiến hành ngay tức thì và không để lại dấu vết nào. Hắn háo hức bật công tắc. Cặp kính của hắn lập tức phát sáng. Một lần nữa những ngón tay của hắn lại quờ quạng trong không khí chúng bắt đầu phát ra những tiếng lách cách. Như thường lệ, hắn đã ghi lại tên những nạn nhân mới của mình - để làm điều đó, hắn chỉ cằn đơn giản kiểm tra ví của họ. Các tiếp điểm trên những ngón tay của hắn chạm vào nhau, rồi đột nhiên những chữ cái xuất hiện trên tròng kính của hắn một cách ma quái. ĐỐI TƯỢNG: ROCIO EVA GRANADA - THANH TOÁN XONG ĐỐI TƯỢNG: HANS HUBER - THANH TOÁN XONG Dưới đó ba tầng, David Becker thanh toán hoá đơn và đi thơ thẩn qua hành lang, tay cầm cốc rượu đã vơi đến nửa. Anh đi về phía sân thượng của khách sạn hóng gió. "Đến rồi về ngay", anh lơ mơ nghĩ. Mọi việc có vẻ không diễn ra như dự kiến. Lúc này anh cằn phải quyết định. Liệu anh có nên từ bỏ và quay trở lại sân bay hay không? Vấn đề an ninh quốc gia! Thế thì tại sao họ lại giao cho một giảng viên chứ? Ra khỏi tầm mắt của người phục vụ quầy rượu, Becker đổ phần rượu còn lại vào một chậu hoa nhài. Rượu vodka đã làm anh hơi choáng váng. Susan thường gọi anh là gã say rượu rẻ tiền nhất thiên hạ. Sau khi lấy nước đầy chiếc cốc thuỷ tinh lớn ở vòi nước, Becker tu một hơi dài. Vặn người mấy lần để rũ bỏ cảm giác chuếnh chuáng, anh đặt chiếc cốc xuống rồi đi qua hành lang. Khi anh đi ngang qua thang máy, cửa thang chợt mở. Bên trong có một người đàn ông. Tất cả những gì Becker có thể nhìn thấy là cặp kính gọng thép dày cộp. Người đàn ông dùng khăn tay để xì mũi. Becker cười xã giao và đi tiếp… hoà mình vào đêm tối Seville ngột ngạt. Chương 42 Node 3, Susan căng thẳng đi đi lại lại. Cô ước gì mình có thể vạch mặt Hale khi có cơ hội. Hale đang ngồi bên chiếc máy của anh ta. - Sự căng thẳng chính là một sát thủ đấy, Sue ạ. Cô có muốn trút điều gì ra khỏi lồng ngực không thế? Susan miễn cưỡng ngồi xuống. Cô tưởng Strathmore kết thúc cuộc điện thoại và quay lại nói chuyện với cô, nhưng vẫn chẳng thấy ông đâu cả. Susan gắng giữ bình tĩnh. Cô nhìn chằm chằm vào màn hình vi tính. Biểu tượng "đang tải về" trên màn hình vẫn đang chạy - lần thứ hai như thế rồi. Bây giờ, màn hình đang ở trạng thái chờ. Susan biết là màn hình sẽ hiện lên địa chỉ của ai: [email protected] Susan lại nhìn về phía phòng làm việc của Strathmore và biết rằng mình không thể đợi lâu hơn được nữa. Đã đến lúc phải chen ngang vào cuộc gọi của ngài chỉ huy. Cô đứng dậy và tiến thẳng về phía cửa ra. Hale dường như thấy bất ốn và chú ý đến hành động bất thường của Susan. Anh ta bước thật nhanh qua phòng và đứng chặn ở cửa. Anh ta khoanh tay và đứng chắn trước mặt cô. - Nào, hãy nói cho tôi biết đã có chuyện gì - anh ta gặng hỏi - Chắc chắn đã có điều gì đó xảy ra ở đây. Việc gì thế? - Hãy để tôi ra - Susan cố gắng nói giọng đều đều, bất chợt cô cảm thấy một nguy cơ đe doạ nào đó. - Thôi nào - Hale thúc ép - Strathmore thực tế đã đuổi việc Chartrukian vì anh ta đã làm phận sự của mình. Điều gì đang diễn ra bên trong TRANSLTR? Chúng ta chẳng có chương trình chẩn đoán nào kéo dài đến 18 tiếng cả. Đúng là chuyện nhảm nhí. Cô biết như thế mà. Hãy nói cho tôi biết chuyện gì đang diễn ra đi. Susan nheo mày. Anh ta biết quá rõ rồi còn gì! - Tránh ra, Greg - cô yêu cầu - Tôi cần vào nhà vệ sinh. Hale cười. Tiếp tục đứng trơ ra đó một lúc lâu rồi mới tránh sang một bên. - Xin lỗi nhé, Sue. Đùa chút thôi mà. Susan lao ra khỏi Node 3. Đi qua bức tường kính, cô vẫn cảm thấy ánh mắt của Hale đang chằm chằm nhìn cô từ phía trong. Miễn cưỡng, cô đi vòng về phía khu vệ sinh. Cần phải đánh lừa được Hale trước khi gặp ngài Strathmore. Như thế, Greg Hale mới không nghi ngờ gì. Chương 43 Tuổi 45 sung mãn, Chad Brinkerhoff là một người ăn mặc chải chuốt, và thạo tin. Bộ trang phục mùa hè lạ và làn da rám nắng không cho thấy bất kỳ dấu hiệu nào của sự mệt mỏi. Mái tóc dày màu hung, đôi mắt màu xanh nhạt ánh lên sau cặp kính áp tròng. Anh ta nhìn quanh văn phòng ốp gỗ và biết mình đã thăng tiến hết mức tại Cơ quan An ninh Quốc gia. Anh ta đang ở tầng thứ chín Mahogany Row- Văn phòng 9A197, dãy phòng dành cho Giám đốc. Đêm thứ bảy, khu văn phòng giám đốc vắng nặng. Các giám đốc đều vắng mặt - họ đang tận hưởng những giây phút rỗi rãi của riêng mình. Mặc dù Brinkerhoff luôn mong ước có được một địa vị "thực sự đáng nể" trong cơ quan nhưng dường như anh chỉ có thể là một "quân hầu" - một vị thế chẳng có gì đáng tự hào trong giới chính trị. Được làm việc cận kề với một trong những người quyền uy nhất trong ngành tình báo Mỹ chẳng khiến anh được an ủi nhiều. Brinkerhoff tốt nghiệp hạng ưu trường Andover and Williams, vậy mà cho đến bây giờ, dù đã ở tuổi trung tuần, anh vẫn chưa có một địa vị nào đáng kể. Anh vẫn chỉ là người sắp xếp thời gian biểu, lịch làm việc cho người khác. Là trợ lý riêng của giám đốc, Brinkerhoff cũng có những lợi thế nhất định. Anh có cả phòng làm việc riêng trong dãy phòng dành cho giám đốc, anh cũng có quyền ra vào tất cả các phòng ban của Cơ quan An ninh quốc gia, và được nhiều người vị nế. Anh thực hiện những công việc lặt vặt cho các cấp lãnh đạo cao nhất. Từ đáy lòng, anh biết mình sinh ra để làm trợ lý - anh đủ nhanh nhẹn, tháo vát để ghi chép ngắn gọn, có vẻ ngoài ưa nhìn, phù hợp với việc tổ chức các cuộc họp báo nhưng lười biếng, không chịu tiến thủ đế an phận với vị trí này. Chiếc đồng hồ trên mặt lò sưởi điểm chuông êm dịu báo hiệu một ngày nhàm chán, vô vị nữa của anh dần kết thúc. Mẹ kiếp, anh nghĩ thầm: 5 giờ ngày thứ Bảy, mình đang làm cái quái gì đây? - Chad à - Một người phụ nữ xuất hiện trước cửa phòng anh. Brinkerhoff ngước nhìn lên. Đó là Midge Milken, chuyên gia phân tích An ninh nội bộ của Fontaine. Bà ta khoảng 60 tuổi, dáng dấp trông khá nặng nề, tuy nhiên Brinkerhoff bối rối khi nhận ra rằng bà ta vẫn khá quyến rũ. Midge là tay già đời trong chuyện tán tỉnh tình và đã qua ba đời chồng. Có vẻ như bà ta luôn biết điểm mạnh của mình. Sắc sảo, tinh tế, cần mẫn, và bà ta biết về nội bộ Cơ quan An ninh Quốc gia nhiều hơn cả Chúa. Quái quỷ thật, Brinkerhoff vừa nghĩ vừa ngắm chiếc váy bằng len Cashmire của Midge. Hoặc là mình đã già mất rồi, hoặc là bà ta trẻ lại. - Những bản tin tuần - Mụ mỉm cười, tay phe phẩy một tập báo cáo - Anh cần phải kiểm tra cho kỹ. Brinkerhoff lại nhìn chằm chằm vào thân hình của mụ: - Những chi tiết và hình ảnh ở đây đã rõ nét lắm rồi. - Thật hả Chad - mụ cười to - Tôi đủ tuổi để làm mẹ của anh đấy. Ai chả biết, anh ta nghĩ. Midge bước vào trong và đi từ từ đến ghế của Brinkerhoff: - Tôi đang định đi nghỉ thì giám đốc gọi về nói là ông ấy muốn đống tài liệu này được xử lý xong trước khi ông ta từ Nam Mỹ về. Tức là vào sáng sớm thứ Hai - Bà ta thả tập tài liệu xuống trước mặt Brinkerhoff. - Là cái gì đấy? Kế toán viên chắc? - Không đâu, chàng trai, anh là cánh tay phải của giám đốc mà. Tôi tưởng là anh biết điều đó chứ? - Tôi phải làm gì với những con số khô khan này? Bà ta lùa tay vào tóc Chad. - Thì anh muốn gánh vác nhiều trách nhiệm hơn mà. Nhiệm vụ mới đấy còn gì? Brinkerhoff buồn bã. - Midge à…Tôi còn biết sống vào lúc nào đây? Mụ gõ nhẹ ngón tay lên tờ giấy. - Đây chính là cuộc sống của anh đấy, Chad Brinkerhoff - Mụ nhìn xuống Brinkerhoff và dịu dàng - Tôi có thể làm gì cho anh trước khi tôi đi không? Anh ta nhìn mụ với ánh mắt năn nỉ và lúc lắc cổ đang bị đau: - Vai của tôi mỏi nhừ ra. Nhưng Midge không hưởng ứng. - Vậy thì uống thuốc đi. - Không phải là đấm lưng à? Mụ lắc đầu. - Người ta nói rằng hai phần ba các cuộc đấm lưng kết thúc trong tình dục. Brinkerhoff bực bội nhìn mụ. - Nhưng chúng ta sẽ không làm thế mà! - Đúng rồi - Mụ nháy mắt. - Đó mới là vấn đề. - Ôii, Midge… - Ngủ ngon nhé, Chad - Mụ đi thẳng về phía cửa. - Bà định đi đấy à? - Anh biết là tôi có thể ở lại - Midge nói và dừng lại ở lối ra - Nhưng mà tôi cũng có tự trọng. Tôi không thể chịu được việc mình chỉ là người thứ hai sau một đứa trẻ con đang tuổi lớn. - Vợ tôi không phải là một đứa trẻ đang tuổi lớn đâu nhé! - Brinkerhoff chống chế - Bà ấy chỉ hành động giống như thế thôi. Midge ngạc nhiên nhìn anh: - Tôi có nói về vợ anh đâu - Mụ chớp mắt một cách ngây thơ - Tôi đang nói về Cannen đấy chứ? Mụ phát âm cái tên với chất giọng Puerto Rico đặc sệt. - Ai cơ? - giọng Brinkerhoff vỡ ra. - Carmen? Cái cô ở bên hậu cần chứ còn ai? Brinkerhoff đỏ bừng mặt. Carmen Huerta là bếp trưởng làm bánh. Cô nàng mới 27 tuổi và làm việc ở bộ phận hậu cần của Cơ quan An ninh Quốc gia. Brinkerhoff bí mật tán tỉnh cô trong nhà kho nhiều lần sau giờ làm việc. Mụ nháy mắt giảo quyệt. - Hãy nhớ đấy, Chad… Anh Cả biết tất cả. - Anh Cả ư? - Brinkerhoff nuốt nước bọt và không thể tin được - Anh Cả cũng theo dõi cả nhà kho nữa ư? Anh Cả, hay "Anh Trai" như Midge vẫn thường gọi là một tổng đài hiệu Centrex 333 được đặt trong một khoảng không gian bằng một phòng nhỏ ở bên ngoài phòng trung tâm của dãy phòng dành cho giám đốc. Anh Cả là thế giới riêng của Midge. Thiết bị này nhận dữ liệu từ 148 máy quay ghi hình sát nhau, 399 cửa điện tử, 377 điểm mắc rẽ nghe trộm điện thoại, và 212 máy ghi âm không cố định trong khu liên hợp của Cơ quan An ninh Quốc gia. Những người đứng đầu của NSA cho rằng 26.000 công nhân viên của mình không chỉ là một tài sản lớn mà cũng là một mối nguy hiểm tiềm tàng. Những vụ xâm phạm an ninh trong lịch sử của NSA đều bắt nguồn ngay nội bộ cơ quan. Midge là một nhà phân tích an ninh nội bộ, chuyên xem xét mọi việc diễn ra bên trong NSA…bao gồm cả nhà kho lương thực. Brinkerhoff đứng lên định biện hộ cho mình nhưng Midge đã đi ra ngoài rồi. - Cư xử đường hoàng đấy - mụ nói vọng lại - Đừng có làm trò sau khi tôi đi. Tường ở đây có mắt đấy. Brinkerhoff ngồi xuống và lắng nghe tiếng gót giầy của mụ vang xa dần ngoài hành lang. Ít nhất thì Midge sẽ không nồi ra điều này. Mụ không phải là không có điểm yếu. Midge cũng từng vài lần lả lơi khi đấm lưng cho Brinkerhoff. Tâm trí anh ta lại quay trở về với Carmen, mường tượng ra tấm thân mềm mại, cặp đùi rám nắng của cô, và… cảnh cô lắc mình trong điệu nhảy Saniuan rực lửa. Anh ta mỉm cười. Có thể mình sẽ ghé qua ăn một bữa nhẹ khi làm việc xong. Brinkerhoff mở trang dữ liệu đầu tiên. CRYPTO- SẢN PHẨM/GIÁ THÀNH. Thật nhẹ nhõm. Midge đúng là đã đưa thức ăn đến tận miệng anh ta và viết báo cáo của Crypto là trò dễ ợt. Về mặt chuyên môn, anh ta phải đọc báo cáo thống kê về mọi thứ, nhưng số liệu duy nhất mà giám đốc luôn hỏi là MCD - chi phí trung bình cho việc giải mã. MCD cho biết phí tổn để TRANSLTR gỉải một mật mã. Nếu con số là dưới 1.000 đôla thì Fontaine không lo ngại. Một ngàn đôla. Brinkerhoff cười thầm.Tiền thuế của dân! Khi anh bắt đầu xem xét đống tài liệu và kiểm tra các MCD hàng ngày, những hình ảnh về Carmen với nước da bánh mật và thân hình bốc lửa cũng bẳt đầu hiện lên trong đầu anh. Ba mươi giây sau, anh ta hầu như đã hoàn thành công việc. Các dữ liệu của Crypto luôn hoàn hảo như mọi khi. Nhưng đúng lúc định lật sang trang báo cáo tiếp theo thì anh ta nhìn thấy. Ở phía cuối của bảng, MCD cuối cùng bị lệch cột. Con số lớn đến mức nó chiếm cả cột tiếp theo và làm cho trang dữ liệu hỗn độn cả lên. Brinkerhoff choáng váng nhìn chằm chằm vào con số: 999.999.999 ư? Anh há hốc miệng. Một tỷ đô la? Hình ảnh của Carmen đã biến mất. Một mật mã giá một tỷ đô la cơ à? Brinkefhoff ngồi đờ ra có đến một phút. Hoảng quá, anh lao ra phía hành lang. - Midge! Quay lại ngay! Chương 44 Phil Chartrukian hậm hực đứng trong phòng An ninh hệ thống. Những lời nói của Strathmore vẫn còn vang vang trong đầu anh ta: "Về ngay! Đây là lệnh của tôi!". Anh ta đá cái thùng rác và chửi thề trong phòng thí nghiệm vắng lặng". - Chẩn đoán cơ đấy, lũ đần độn! Không biết là phó giám đốc tắt bộ lọc Gauntlet từ khi nào nhỉ!? Những nhân viên an ninh hệ thống được trả lương hậu để bảo vệ hệ thống máy vi tính ở NSA, và Chartrukian biết rằng công việc này chỉ có hai yêu cầu đối với những người thực hiện nó: cực kỳ giỏi và cực kỳ hoang tưởng. - Quỷ tha ma bắt! - anh càu nhàu - Đây không phải là điều hoang tưởng! Cái máy chủ khốn kiếp đã đọc đến 18 tiếng rồi! Chắc chắn là có virus. Chartrukian có thể cảm thấy điều đó. Anh đã hơi nghi ngờ những gì đang diễn ra: có thể Strathmore đã phạm phải sai lầm khi bỏ qua Gauntlet, và bây giờ ông ta đang cố gắng che đậy sai lầm bằng cách bịa ra một câu chuyện chết tiệt về một cuộc chẩn đoán nào đó. TRANSLTR không phải là mối bận tâm duy nhất của Chartrukian khiến anh có thể nổi đoá như vậy. Bởi vì cỗ máy giải mã này không tồn tại một mình… Dù các chuyên gia giải mật mã tin rằng Gauntlet được thiết kể ra chỉ để bảo vệ những sản phẩm đã được giải mã thì các nhân viên an ninh hệ thống vẫn biết rõ được một sự thật là những máy quét Gauntlet còn phục vụ cho một thế lực khác cao hơn, đó là ngân hàng dữ liệu chính của NSA. Lịch sử đằng sau việc xây dựng ngân hàng dữ liệu này luôn cuốn hút Chartrukian. Vào cuối năm 1970, mặc dù Bộ Quốc phòng đã có nhiều nỗ lực nhằm giữ riêng mạng Internet trong tay mình, nhưng vì mạng này quá hữu dụng cho nên người ngoài bắt đầu dòm ngó. Đầu tiên là các trường đại học. Không lâu sau đó, các doanh nghiệp kinh doanh cũng vào cuộc. Khi những cổng mạng được mở ra, người dân lao vào khai thác mạng này. Vào đầu những năm 90, mạng "Internet" một thời được chính phủ bảo vệ đã trở thành một bãi rác thải ngồn ngộn những thư rác và tranh ảnh khiêu dâm. Sau nhiều vụ thâm nhập máy tính ở Cục tình báo Hải quân gây thiệt hại lớn, dù không được công bố, người ta ngày càng thấy rõ rằng các bí mật của chính phủ không còn được an toàn ở những máy vi tính kết nối với mạng Internet nữa. Tổng thống cùng với Bộ Quốc Phòng đã thông qua một sắc lệnh thành lập một mạng mới, hoàn toàn bảo mật để làm đường dây liên lạc giữa chính phủ với các cơ quan tình báo Mỹ nhằm thay thế cho mạng Internet đã không còn đảm bảo. Tất cả những dữ liệu nhạy cảm được lưu giữ tại một nơi có tính an toàn cao - một ngân hàng dữ liệu mới được thiết lập của NSA - pháo đài bảo vệ dữ liệu Fort Knox của tình báo Mỹ nhằm ngăn ngừa các vụ trộm cắp các bí mật của chính phủ từ máy vi tính. Hàng triệu hình ảnh, băng ghi âm, tài liệu và băng hình vào loại tối mật đã được số hoá và được chuyển đến những kho khổng lồ, còn bản gốc thì bị xoá. Ngân hàng dữ liệu được bảo vệ bằng một rơ-le điện ba tầng và một hệ thống dự phòng kỹ thuật số nhiều lớp. Ngân hàng cũng được đặt sâu dưới đất 65 mét nhẳm tránh từ trường và các vụ nổ có thể xảy ra. Tại ngân hàng dữ liệu, mọi hoạt động diễn ra trong phòng điều khiển đều được coi là tối mật và được bảo vệ ở mức cao nhất. Chưa bao giờ các bí mật quốc gia lại được bảo vệ an toàn như thế. Ngân hàng dữ liệu bất khả xâm phạm này giờ đây là nơi lưu giữ những bản thiết kể các loại vũ khí tối tân, các danh sách bảo vệ nhân chứng, mật danh của các trinh thám trên chiến trường, những bản phân tích và kế hoạch chi tiết cho các hoạt động bí mật. Danh sách này dài vô kể. Dường như không một hoạt động ăn cắp nào có thể làm phương hại đến ngành tình báo Mỹ. Tất nhiên, những quan chức của NSA cũng nhận ra rằng những dữ liệu được cất giữ sẽ chỉ có giá trị nếu như chúng có thể sử dụng được. Nhiệm vụ thực sự của ngân hàng dữ liệu không phải là giấu biến những dữ liệu mật đi mà là cho phép những người thích hợp được sử dụng chúng. Tất cả các thông tin lưu trữ đều có một mức độ bảo mật riêng. Tuỳ vào mức độ cần bảo mật của dữ liệu mà các quan chức chính phủ được sử dụng theo nhiệm vụ của họ. Một sĩ quan chỉ huy tàu ngầm có thể quay số đăng nhập và kiểm tra những hình ảnh gần đây nhất chụp từ vệ tinh về các hải cảng ở Nga, nhưng ông ta sẽ không thể tiếp cận được với các kế hoạch về nhiệm vụ chống ma tuý ở Nam Mỹ. Các phân tích viên của CIA có thể tiếp cận và sử dụng những thông tin về lai lịch của những tên sát nhân nổi tiếng nhưng họ không tiếp cận với các mật mã được lưu về tổng thống. Tất nhiên, các nhân viên an ninh hệ thống không có quyền sử dụng thông tin trong ngân hàng dữ liệu, nhưng họ phải chịu trách nhiệm bảo vệ an toàn cho chúng. Cũng giống như tất cả các ngân hàng dữ liệu lớn khác - từ các công ty bảo hiểm cho đến các trường đại học - ngân hàng dữ liệu của NSA thường xuyên đứng trước nguy cơ bị các tin tặc tấn công nhằm đánh cắp những bí mật bên trong. Nhưng các lập trình viên bảo mật của NSA thuộc vào hàng giỏi nhất thế giới và chưa từng có ai có thể thâm nhập vào ngân hàng của NSA - và bản thân NSA cũng chẳng có lý do gì để nghĩ đến khả năng có ai đó sẽ có thể làm được việc này. Trong phòng An ninh hệ thống, Chartrukian đang vã mồ hôi xem xét xem có nên bỏ đi hay không. Rắc rối với máy TRANSLTR cũng có nghĩa là đã có rắc rối xảy ra với ngán hàng dữ liệu. Sự bất cẩn của Strathmore đã gây nên sự hoang mang lớn. Mọi người đều biết rằng TRANSLTR và ngân hàng dữ liệu chính của NSA có sự gắn kết chặt chẽ. Mỗi lần có một mật mã mới được giải ra, Crypto sẽ gửi mật mã đó qua 450 thước cáp quang đến ngân hàng dữ liệu của NSA để bảo mật. Kho dữ liệu chắc chắn này của NSA có một vài cổng vào giới hạn - và TRANSLTR nằm trong số ít các điểm ấy. Máy quét Gauntlet có nhiệm vụ là pháo đài bảo vệ bất khả xâm phạm. Và Strathmore lại phớt lờ nỏ đi. Chartrukian có thể nghe rõ tim mình đang đập thình thịch. TRANSLTR đã bị nghẽn 18 tiếng đồng hồ rồi! Việc TRANSLTR bị nhiễm virus và hoạt động không theo chương trình trong hệ thống của NSA đã trở nên quá rõ ràng. - Mình phải báo cáo việc này ngay! - anh thốt lên thành lời. ' Trong tình huống như thế này, Chartrukian biết rằng chỉ có một người mình nên gọi: đó là quan chức an ninh hệ thống cao cấp của NSA, một chuyên viên máy tính, người nặng 400 pound và dễ nổi nóng, và là người đã thiết kế Gauntlet. Biệt hiệu của ông ta là Jabba. Ông ta là một á thần ở NSA - thét lác dọc hành lang, dập tắt các tường lửa ảo, chửi rủa những người kém thông minh, không đủ sức thực hiện nhiệm vụ và cả những người thiếu hiểu biết. Chartrukian hiểu ngay khi Jabba biết được rằng Strathmore đã phớt lờ máy quét Gauntlet, ông ta sẽ phát điên lên mất. Tệ thật, anh nghĩ, có việc để làm rồi đây. Anh vồ lấy điện thoại và quay số máy cầm tay của Jabba. David Becker lang thang trên phố Avenida del Cid và cố gắng sắp xếp lại những ý nghĩ trong đầu mình. Những cái bóng im lặng đang nhảy múa trên những viên đá cuội dưới chân anh. Hơi men rượu Vodka vẫn còn trong anh. Không thể tập trung suy nghĩ. Tâm trí anh lại quay trở về với Susan. Tự hỏi không biết cô đã nhận được tin nhắn qua điện thoại chưa. Ở phía trườc, một chiếc xe buýt Seville Transit phanh rít lên trước bến đỗ. Becker ngước nhìn lên. Các cánh cửa xe mở ra, nhưng không có ai xuống xe cả. Động cơ diesel của chiếc xe lại gầm lên và bắt đầu hoạt động, nhưng ngay khi chiếc xe bắt đầu chuyển bánh, có ba thanh thiếu niên chạy ra từ trong một quán bar và đuổi theo xe, gào thét và vẫy tay. Chiếc xe đi chậm lại, ba người này đuổi kịp và vội vã lên xe. Ở phía sau họ khoảng 30 thước, Becker nhìn theo với vẻ ngờ vực ánh mắt anh đột nhiên nhìn thấy một điều mà anh không thể tin được. Một sự việc hiếm thấy. Mình đang gặp ảo giác. Nhưng khi những cánh cửa xe mở ra, và những đứa trẻ đứng quanh cửa lên xuống, Becker lại nhìn thấy sự việc này. Lần này thì anh chắc chắn là thật. Rõ ràng là dưới ánh sáng mờ mờ của đèn đường nơi góc phố, anh đã nhìn thấy cô gái ấy. Những người khách đã leo lên xe, và động cơ xe lại khởi động chuyển bánh. Becker chạy thật nhanh, son môi màu đen, ánh mắt hoang dại và mái tóc đỏ… Với ba màu riêng biệt: đỏ, trắng và xanh. Ngay khi chiếc xe buýt bắt đầu chuyển bánh, Becker lao xuống đường phố trong làn khói đầy khí carbon dioxyt. - Đợi đã nào! - anh gọi và đuổi theo xe. Đôi giày da thuộc mềm của Becker lướt nhanh trên vỉa hè. Mặc dù vậy, sự linh hoạt thường có ở anh lúc này không còn nữa; anh bị mất thăng bằng. Não bộ của anh không kiểm soát được đôi chân. Anh thầm nguyền rủa người phục vụ quầy rượu và cảm giác chuếnh choáng này. Chiếc xe buýt chạy bằng động cơ đời cũ, và may mắn cho Becker là thời gian sang số đầu tiên của chiếc xe khá lâu và nặng nhọc. Khoảng cách giữa anh và chiếc xe đã được thu hẹp dần. Anh cần phải bắt kịp chiếc xe trước khi nó sang số! Cặp ống bô của xe xả ra một đám khói dày đặc khi người lái xe chuẩn bị sang số hai. Becker cố gắng gia tăng tốc độ. Khi anh chạy đến ngang với thanh chắn an toàn phía sau của xe, Becker nhoài người về bên phải, chạy đến sát chiếc xe. Anh trông thấy các cửa sau của chiếc xe - và giống như tất cả các xe của hãng Seville, các cửa này đều được mở rộng: một kiểu điều hoà rẻ tiền. Becker tập trung nhìn vào phía các cánh cửa mở và không chú ý đến cảm giác nóng bỏng ở chân mình. Lốp xe chạy ngay bên cạnh anh, cao bằng vai anh và rít lên mỗi lúc một lớn. Anh nhào mình về phía cửa xe, nhưng bị trượt tay nắm và gần như mất thăng bằng. Anh cố lao mình mạnh hơn nữa. Ở phía dưới gầm xe, các khớp ly hợp kêu lạo xạo khi người lái xe chuẩn bị sang số. Anh ta đang sang số! Không kịp mất rồi! Nhưng khi các khớp nối động cơ bắt đầu tách rời để chuyển sang số lớn hơn thì chiếc xe bỗng nhiên dừng lại nhẹ nhàng. Becker bị lao lên theo đà dừng. Ngay khi các đầu ngón tay của anh đang cuộn tròn quanh tay nắm cửa xe thì các khớp động cơ lại nối với nhau. Vai của Becker gần như bị rời ra khi chiếc xe đi tiếp, hất anh lên sàn xe. David Becker nằm bẹp ngay bên trong ô cửa của xe. Vỉa hè lúc này lao vụt đi ở phía dưới, cách anh có vài inch. Anh đã tỉnh hẳn cơn say. Chân và vai đau nhừ. Chới với, anh đứng dậy, cố gắng giữ thăng bằng và leo vào bên trong chiếc xe đã đông người. Trong đám đông kia, cách đó vài ghế ngoi là ba thứ màu tớc nổi bật: đỏ, trắng, và xanh. Tìm thấy rồi! Tâm trí Becker giờ chỉ còn hình ảnh của chiếc nhẫn, chiếc máy bay Learjet 60 đang đợi sẵn phía cuối của những hình ảnh ấy là Susan. Khi Becker đến gần chỗ cô gái ngồi và đang phân vân không biết nên nói gì thì chiếc xe đi vào vùng ánh sáng của một ngọn đèn đường. Khuôn mặt của cô gái trong khoảnh khắc hiện lên. Becker lặng người. Mặt của người này cồ râu rậm. Đấy không phải là một cô gái, mà là một gã thanh niên. Môi trên của gã có đính một cái khuyên bạc, gã mặc áo khoác ngoài bằng da màu đen và không mặc áo sơ mi. - Muốn gì hả? - gã khàn giọng hỏi, giọng New York. Sững sờ, Becker nhìn vào đám hành khách trên xe buýt. Tất cả bọn họ đều ăn mặc kiểu Punk. Ít nhất một nửa trong số họ đều có mái tóc đỏ, trắng và xanh. - Anh kia! - Người lái xe hét lên. Becker quá choáng váng đến mức chẳng nghe thấy ông ta gọi. - Này anh kia! - người tài xế rít lên - Ngồi xuống đi! Becker đờ đẫn quay mặt về phía gương mặt đang giận dữ kia trong gương chiếu hậu. Nhưng ông ta đợi đã quá lâu rồi. Điên tiết, người tài xế dậm mạnh phanh xe. Becker bị hất tung người lên. Anh định ngồi vào ghế nhưng không kịp. Ngay lập tức, anh bị hất văng người lên trên không rồi ngã sóng xoài ra sàn xe cứng nhắc. Trên đường phố Avenida del Cid, một người bước ra từ bóng râm. Hắn ta chỉnh lại cặp kính gọng kim loại và theo chiếc xe đã rời bến. David Becker đã trốn thoát, nhưng sẽ không trốn được lâu. Trong số tất cả những xe buýt ở Seville, Becker đã lên chiếc xe tồi tàn số 27. Xe số 27 chỉ có một điểm đến. Chương 46 Phil Chartrukian dập mạnh ống nghe xuống. Máy của Jabba báo bận; và báo tín hiệu chờ. Các cuộc gọi chờ là một mánh lới quảng cáo do ATKT đưa ra để tăng lợi nhuận bằng cách kết nối tất cả mọi cuộc gọi; dòng nhẳn đơn giản "Tôi đang bận với một đường dây khác, tôi sẽ gọi lại cho bạn sau" mang lại cho các công ty điện thoại hàng triệu đôla mỗi năm. Việc Jabba từ chối các cuộc gọi chờ là cách ông ta phản đối trong im lặng yêu cầu của NSA đề nghị ông luôn mang bên mình chiếc điện thoại di động đề phòng trường hợp khẩn cấp… Chartrukian quay lại và nhìn về phía Crypto vắng lặng. Tiếng máy phát điện ở phía dưới mỗi lúc một lớn hơn. Anh cảm thấy thời gian dường như trôi nhanh quá. Anh biết mình có lệnh phải đi về, nhưng ngoài tiếng ồn dưới tầng nhà Crypto, trong đầu anh còn văng lên phương châm hành động của nhân viên an ninh hệ thống: Hành động trước, giải trình sau. Trong thế giới bảo mật vi tính đầy biến động này, chỉ cần một giây chậm chễ cũng can hệ đến việc bảo vệ được các bí mật của mạng vi tính hoặc để các bí mật ấy bị xâm phạm. Hiếm khi người ta có thời gian giải thích cho một phương cách phòng vệ trước khi thực hiện phương cách ấy. Các nhân viên an ninh hệ thống được trả lương hậu hĩnh nhờ, chuyên môn nghiệp vụ và bản năng nghề nghiệp này của họ. Hành động trước, giải trình sau. Chartrukian đã biết mình phải làm gì. Anh cũng đã biết là khi mọi chuyện đã kết thúc, hoặc là anh sẽ là một người hùng của NSA, hoặc là anh sẽ gia nhập vào đội quân thất nghiệp. Cỗ máy giải mã vĩ đại này đã nhiễm virus rồi - về điều này, anh chắc chắn. Và trong hoàn cảnh này, chỉ có một cách khả thi. Đó là tắt nó đi. Chartrukian cũng biết là chỉ có hai phương án để tắt TRANSLTR đi. Phương án thứ nhất là tắt hết bị cuối ở phòng ngài chỉ huy đi. Nhưng phòng này đã bị khoá mất rồi, có vẻ không khả thi lắm. Còn cách thứ hai là dùng công tắc tắt - mở bằng tay ở tầng ngầm phía dưới tầng Crypto. Chartrukian nuốt nước miếng một cách khó khăn. Anh ghét tầng hầm. Anh mới xuống đó có một lần vào thởi gian thực tập ở đây. Nó giống như một thế giới hoàn toàn khác với hằng hà sa số những mê cung lối đi, những ống dẫn khí Freon và nằm ở độ cao chóng mặt: Hơn 40 mét thẳng xuống các máy phát điện ở phía dưới. Đấy là nơi không hề muốn tới, và cũng không muốn đối mặt với Strathmore. Nhưng công việc là công việc. Ngày mai họ sẽ phải cảm ơn mình, anh vẫn phân vân không dám chắc làm thế có đúng không. Hít một hơi thật sâu, Chartrukian mở chiếc tủ dùng khoá kim loại của người chỉ huy. Trên giá để các bộ phận vi tính chưa lắp ráp, ở đằng sau một bộ truyền thông và thiết bị kiểm tra mạng nội bộ (LAN) có giấu một cái chén của nam sinh trường Stanford. Anh không đụng đến chiếc chén này mà với vào phía trong và lôi ra một chiếc chìa khoá Medeco. - Hay ho thật - anh làu bàu - Quan chức bảo mật hệ thống mà không cần biết đến bảo mật. Chương 47 - Một mật mã một triệu đô la á? - Midge cười khi đi cùng Brinkerhoff quay trở lại hành lang - - Hay đấy chứ nhỉ? - Tôi thề với bà đấy! - anh nói. Mụ nhìn anh ngờ vực. - Anh đừng có mà lấy cớ để lừa lột quần áo tôi ra đấy? - Ôi! Midge, Tôi không bao giờ làm vậy cả! - Anh nói một cách nghiêm túc. - Thôi, tôi tin rồi, Chad. Đừng nói nữa. Nửa phút sau đó, Midge đã ngồi lên ghế của Brinkerhoff và đọc bản báo cáo Crypto. - Thấy chưa - anh nói, nhoài về phía bà ta và chỉ vào con số đáng ngờ - Số tiền chi phí cho giải mã này? Một triệu đôla đấy! Midge cười tủm tỉm. - Có vẻ con số này hơi cao nhỉ? - Ừ đúng rồi - Brinkerhoff rên rỉ - Chỉ hơi cao thôi. - Có vẻ như là một phép chia cho 0 thì phải. - Cái gì cơ?  - Phép chia cho 0 - bà ta nói và rà soát lại phần còn lại của trang dữ liệu - Số tiền chi phí cho việc giải mã được tính theo kiểu phân số - các mật mã đã được giải ra chia cho tổng… - Thì tất nhiên là thế - Brinkerhoff gật đầu một cách vô thức và cố gắng không nhìn vào giữa hai đùi của Midge. - Khi mẫu số bằng không - Midge giảng giải - thương số là vô cực. Các máy vi tính rất kỵ vô cực, cho nên chúng đánh bằng một dãy các số chín - Mụ chỉ vào một cột khác - Anh thấy chưa? - Vâng, rồi - Brinkerhoff nhìn vào tờ giấy một lần nữa. - Đây là dữ liệu thô sản phẩm của ngày hôm nay. Hãy xem số mã được giải. Brinkerhoff cẩn thận nhìn theo ngón tay của mụ đặt vào cột số: SỐ MÃ ĐƯỢC GIẢI = O Midge gõ gõ vào con số. - Đúng như là tôi nghi ngờ. Mẫu số là 0. Brinkerhoff nhíu mày. - Thế có nghĩa là mọi việc vẫn ổn cả à? Mụ nhún vai: - Như thế chỉ có nghĩa là chúng ta đã chưa giải được mật mã nào trong ngày hôm nay cả. TRANSLTR có lẽ đang trong thời gian tạm nghỉ. "Tạm nghỉ" - Brinkerhoff nhìn với vẻ ngờ vực. Anh ta đã ở bên cạnh giám đốc đủ lâu để biết là "'tạm nghỉ" không nằm trong vốn từ ưa thích của ông ta - đặc biệt là với TRANSLTR. Fontaine đã chi 2 tỷ đô la cho cỗ máy giải mã vĩ đại này, và ông ta tất nhiên muốn được trả công xứng đáng với số tiền đã bỏ ra. Mỗi một giây phút TRANSLTR tạm ngừng hoạt động là tiền của ông ta đang bị phung phí. - À, nhưng Midge ơi. - Brinkerhoff nói - TRANSLTR không có quãng tạm nghỉ nào cả. Nó hoạt động suốt ngày đêm mà. Bà biết điều đó chứ. Bà ta nhún vai. - Có thể Strathmore đêm qua không ở lại chuẩn bị cho máy chạy vào cuối tuần cũng nên. Ông ta chắc biết Fontaine đi vắng nên chuồn đi câu cá rồi. - Thôi nào, Midge - Brinkerhoff nhìn mụ với ánh mắt phẫn nộ - Để ông ta yên. Việc Midge Milken không thích Trevor Strathmore là hoàn toàn rõ ràng. Strathmore từng cố gắng thực hiện một hành động vận động quân sự xảo quyệt nhẳm viết lại chương trình Skipjack, nhưng ông ta đã thất bại. Mặc dù Strathmore đã có ý định liều lĩnh như thế, NSA vẫn đối xử không tệ với ông ta. Phía EFF đã nắm được phần lợi thế. Fontaine đã mất đi sự tín nhiệm của Quốc hội, và tệ hại nhất là nhiều hoạt động nặc danh của NSA đã không còn được giữ bí mật. Bỗng nhiên có rất nhiều người nội trợ ở Minnesota than phiền với America Online and Prodigy - một tổ chức cung cấp dịch vụ mạng là NSA có thể đã lén đọc thư điện tử của họ - vì NSA đã từng chê bai một công thức bí mật về cách làm khoai lang tẩm đường. Sai lầm ngớ ngắn của Strathmore đã khiến NSA phải trả giá, và Midge thấy mình cũng phải chịu trách nhiệm - không phải vì đáng ra bà ta phải biết trước ngài chỉ huy sẽ phải chịu hậu quả; mà vì một hành động trái phép đã được thực hiện sau lưng giám đốc Fontaine, và Midge lại được trả lương để ngăn chặn điều đó. Chính thái độ thờ ơ, không can thiệp của Fontaine khiến ông ta dễ bị nghi ngờ và vì thế làm Midge lo lắng. Nhưng ông giám đốc cũng đủ khôn ngoan và kinh nghiệm để trọng dụng nhân tài và đó cũng chính là cách mà ông ta trọng dụng Trevor Strathmore. - Midge, bà biết rõ là Strathmore không phải là ngưởi bê trễ công việc mà? - Brinkerhoff nói - Ông ta điều hành TRANSLTR cực kỳ cần mẫn đấy. Midge gật đầu. Từ trong đáy lòng, mụ cũng biết là buộc tội Strathmore trốn tránh công việc là vô lý. Ông ta cũng tỏ ra rất cần mẫn như bọn họ - cống hiến hết mình. Ông ta chịu đựng tất cả mọi tai hoạ trên thế gian này như một nỗi thống khổ của bản thân. Kế hoạch Skipjack của NSA chính là phát kiến của Strathmore - một nỗ lực lớn lao nhằm thay đổi thế giới. Nhưng chẳng may, cũng giống như bao cuộc thập tự chinh thần thánh khác, chiến dịch này của ông đã kết thúc trên cây thập giá. - Được rồi - mụ đồng ý - Có vẻ tôi hơi khắt khe với ông ta một chút. - Hơi thôi à - Brinkerhoff nhíu mày lại - Strathmore có cả một đống file dữ liệu dài hàng dặm. Ông ta chắc chắn không có ý định cho TRANSLTR nghỉ cả đợt cuối tuần đâu. - Được rồi, được rồi - Midge thở dài - Là lỗi của tôi - Mụ nhíu mày và bối rối không hiểu vì sao TRANSLTR cả ngày rồi mà không giải được một mật mã nào. - Để tôi kiểm tra thật tỉ mỉ mọi thứ xem sao? - mụ nói, và bắt đầu xem lại bản báo cáo. Mụ xác định vị trí các dữ liệu cần tìm và xem xét các con số. Sau một lúc, mụ gật đầu - Anh đúng rồi, Chad ạ. TRANSLTR vẫn hoạt động bình thường. Những số liệu thậm chí vẫn còn lưu lại trong máy. Từ nửa đêm hôm qua, cái máy đã chạy với công suất nửa triệu kilowat- giờ. - Thế con số đó mang đến cho chúng ta những gì? Midge lúng túng: - Tôi cũng không biết. Lạ thật đấy. - Bà có muốn xem lại dữ liệu không? Mụ chằm chằm nhìn Brinkerhoff với vẻ không bẳng lòng. Có hai điều không bao giờ nên hỏi Midge. Một trong hai điều ấy là về dữ liệu của mụ ta. Brinkerhoff đợi chờ trong khi Midge xem xét các con số. - Hừ - Cuối cùng mụ lắm bẩm - Thống kê của ngày hôm qua có vẻ ổn: 237 mật mã được giải. MCD là 874 đôla. Thời gian trung bình để giải một mật mã là khoảng hơn sáu phút. Các nguyên liệu tiêu dùng ở mức trung bình. Mật mã cuối cùng được đưa vào TRANSLTR - Mụ dừng lại. - Cái gì thế? - Vui thật. Mụ nói - File dữ liệu cuối cùng trong hàng dữ liệu của ngày hôm qua chạy vào lúc 11:37 đêm. - Thì sao? - Thế thì, TRANSLTR cứ sáu phút giải một mật mã hoặc hơn thế. File dữ liệu cuối cùng của ngày hôm ấy thường thường chạy gần với thời điểm nửa đêm hơn. Chắc chắn file lần này không như vậy. - Midge bỗng nhiên dừng lại và thở gấp. Brinkerhoff giật mình. - Cái gì cơ? Midge dán mắt nhìn vào những gì đọc được mà không thể tin nổi. - File này, file mà được đưa vào TRANSLTR đêm qua ấy?  - Ừ, sao? Nó vẫn chưa được giải mã. Thời gian được đưa vào máy của nó là 23:37:08 - nhưng nó không nhập thời gian giải mã - Midge vò chiếc khăn mùi xoa - Cả hôm qua hoặc hôm nay! Brinkerhoff nhún vai. - Biết đâu bọn họ đang chạy một chương trình chẩn đoán khó? Midge lắc đầu. - Mười tám tiếng đồng hồ đằng đẵng ư - Mụ dừng lại - Không phải đâu. Ngoài ra, dữ liệu hàng còn cho biết rẳng đó là một file từ bên ngoài. Chúng ta nên gọi cho Strathmorre thôi. - Gọi về nhà - Brinkerhoff nuốt khan - Vào đêm thứ Bảy như thế này à? - Không - Midge nói - Nếu đúng như tôi biết về Strathmore, thì ông ta là người giỏi trong lĩnh vực này. Tôi đánh cuộc là ông ta ở đây. Tôi linh cảm thế. – Những linh tính của Midge cũng là điều thứ hai mà không ai nên nghi ngờ - Nào - mụ nói và đứng dậy - Chúng ta hãy thử xem liệu tôi có đúng không? *** Brinkerhoff đi theo Midge đến phòng làm việc của mụ. Đến nơi, mụ ngồi xuống và bắt đầu gõ bàn phím của Anh Cả giống như một nghệ sỹ đánh đàn ống tài ba. Brinkerhoff dán mắt vào các màn hình video quay cận cảnh trên tường, tất cả các màn hình đều bị đóng khung với cùng dấu niêm phong của NSA. - Bà định nhúng mũi vào Crypto à? - Anh lo lắng hỏi mụ. - Không - Midge trả lời. - Giá mà tôi làm được thế, nhưng Crypto hoạt động kín. Không ghi hình, không ghi âm, chẳng gì cả. Ngoài mệnh lệnh của Strathmore. Tất cả những gì tôi có là số liệu thống kê tiếp cận và cỗ máy TRANSLTR về cơ bản. May mà chúng ta còn có được bấy nhiêu đấy. Strathmore muốn rằng tất cả về Crypto đều được biệt lập, nhưng Fontaine kiên quyết bảo vệ những nguyên tắc cơ bản. Brinkerhoff lúng túng nhìn. - Crypto không có ghi hình à? - Để làm gì - mụ hỏi mà vẫn nhìn vào màn hình - Không lẽ anh và Carmen muốn làm chuyện vụng trộm? Brinkerhoff lầu bầu trong mệng. Midge gõ thêm một vài phím khác. - Tôi đang kéo khối thang máy trước cửa phòng Strathmore lên - Mụ xem xét màn hình một lúc và sau đó gõ nhẹ đốt tay lên bàn. - Ông ta đang ở đây - Mụ nói một cách đơn giản - Ông ta đang ở ngay trong Crypto vào lúc này. Hãy nhìn này. Hãy nói về những tiếng đồng hồ vừa qua - Ông ta đi vào sáng sớm ngày hôm qua, và từ lúc đó, cái thang máy của ông ta vẫn không hề nhúc nhích.Tôi không thấy thẻ từ của ông ta ở cửa chính. Do đó, chắc chắn ông ta đang ở đây. Brinkerhoff thở phào nhẹ nhõm. - Vậy thì, nếu Strathmore đang ở đó tức là mọi chuyện vẫn ổn cả à, đúng không? Midge đăm chiêu một lúc. - Có lẽ vậy - cuối cùng mụ quả quyết- Có lẽ thôi à? Chúng ta nên gọi ông ta và kiểm tra lại thật kỹ càng. Brinkerhoff rên rỉ: - Midge à, ông ta là phó giám đốc đấy. Tôi chắc chắn là ông ta có thể kiểm soát tình hình mà. Chúng ta không cần phải lo bò trắng răng. - Ồ thôi nào, Chad! Đừng có trẻ con thế. Chúng ta chỉ là đang làm việc của mình thôi mà. Chúng ta phát hiện thấy sự bất bình thường trong bảng thống kê và chúng ta đang bám theo nó. Hơn nữa - mụ nói thêm - Tôi muốn nhầc nhở Strathmore rằng anh Cả luôn dõi theo ông ta. Và muốn ông ta phải thật thận trọng trước khi dự định làm gì liều lĩnh và nguy hiểm để bảo vệ thế giới này. Midge nhấc ống nghe lên và quay số. Brinkerhoff lo lắng: - Bà thực sự cho là quấy rầy ông ta à? - Không phải tôi sẽ quấy rầy ông ta - Midge nói và quăng ống nghe về phía Brinkerhoff - Mà là anh. Chương 48 - Gì cơ… - Midge nói lắp bắp với vẻ ngờ vực - Strathmore bảo là dữ liệu của chúng ta là sai à? Brinkerhoff gật đầu và gác máy. - Strathmore phủ nhận là TRANSLTR chỉ giải mã một tệp mật mã trong suốt 18 tiếng đồng hồ à? - Ông ta tỏ ra khá bình thản với mọi việc - Brinkerhoff tươi cười và thấy hài lòng vì mình là người đã nghe máy - Ông ta đảm bảo với tôi là TRANSLTR vẫn làm việc bình thường. Ông ta cũng nói là cái máy vẫn cứ sáu phút giải xong một mật mã như chúng ta đã nói và cám ơn tôi vì đã kiểm tra giúp ông ta. - Ông ta nói dối đấy - Midge ngắt lời - Tôi quản lý những con số thống kê Crypto này hai năm rồi. Chưa bao giờ sai cả. - Thì điều gì cũng có thể xảy ra mà - anh nói vu vơ. Ánh mắt bà ta có vẻ không bằng lòng. - Tôi đã chạy thử tất cả các dữ liệu hai lần rồi đấy. - Thì bà cũng biết người ta nói gì về máy vi tính rồi đấy. Một khi đã sai là sai có hệ thống. Midge xoay người lại mặt đối mặt với anh. - Không phải trò đùa đâu, Chad ạ! Phó giám đốc nói dối một cách trắng trợn. Và tôi muốn biết lý do! Brinkerhoff đột nhiên ước gì mình đã không gọi bà ta quay lại. Cú điện của Strathmore đã gợi lên tính hiếu thắng trong mụ. Kể từ vụ Skipjack, bất cứ khi nào Midge linh cảm rằng có một điều đáng ngờ nào đó đang diễn ra, mụ sẽ chuyển từ nửa đùa nửa thật thành rất nghiêm túc. Không có gì có thể ngăn cản mụ tìm ra căn nguyên của sự việc. - Midge à, rất có thể dữ liệu của chúng ta sai mà - Brinkerhoff nói quả quyết - Ý tôi là làm sao tưởng tưởng nổi một tệp tin được xử lý suốt mười tám tiếng đồng hồ cơ chứ, chưa từng có. Thôi đi về đi. Muộn rồi đấy. Mụ nhìn anh với ánh mắt ngạo mạn và ném bản báo cáo lên bàn. - Tôi tin vào dữ liệu. Linh tính mách tôi bảo rằng dữ liệu là đúng. Brinkerhofí cau mày. Thậm chí cả giám đốc cũng không còn nghi ngờ linh tính của bà ta nữa - Bà ta có một thói quen kỳ lạ luôn cho mình là đúng. - Có chuyện gì rồi - mụ khẳng định - Và tôi định tìm hiểu xem nó là cái gì. Becker cố nhấc mình khỏi sàn xe buýt và ngồi sụp xuống một ghế còn trống. - Hay đấy! - Một thằng bé với thứ tóc ba màu nhếch mép cười. Becker nheo mắt vì sáng quá. Đó chính là đứa trẻ mà anh đã đuổi theo lên đến tận xe buýt. Anh buồn bã nhìn những mái tóc lẫn lộn màu đỏ, trắng và xanh. - Tóc kiểu gì đấy - Becker lẩm bẩm và nhìn sang cả những người khác. - Tất cả đều… - Đỏ, trắng, và xanh hả - Thằng bé hỏi ướm. Becker gật đầu và cố gắng không nhìn vào lỗ xuyên đã bị nhiễm trừng nơi môi trên của thằng bé. - Của Judas Taboo đấy - thằng bé trả lời thành thật. Becker nhìn nó với vẻ bối rối. Thằng bé nhổ bọt xuống lối đi, rõ ràng tỏ ra khinh bỉ sự quê mùa của Becker. Judas Taboo ư? Ca sĩ nhạc Punk vĩ đại nhất kể từ thời Sid Vicious? Anh ấy chém bay đầu mình vào ngày này cách đây đúng một năm à? Hôm nay là ngày giỗ của anh ấy. Becker lơ đãng gật đầu, rõ ràng anh đã mất phương hướng. - Judas đã nhuộm tóc như thế này vào ngày anh ấy ra đi - Thằng bé lại nhổ nước bọt - Mọi người hâm mộ đều nhuộm tóc màu đỏ, trắng và xanh ngày hôm nay để tưởng nhớ anh ấy. Một lúc lâu. Becker không nói gì. Thật chậm rãi, như thế đã bị tiêm thuốc an thần, anh quay lại và nhìn thẳng về phía trước. Anh nhìn đám người trên xe buýt. Tất cả đều là những người ăn mặc kiểu Punk. Hầu hết đều nhìn anh chẳm chằm. Hôm nay, tất cả trong bọn họ đều để màu tóc đỏ, trắng và xanh. Becker đứng dậy và ấn công tắc báo dừng trên thành xe. Đã đến lúc phải xuống. Anh ấn công tắc một lần nữa. Vẫn chẳng thấy gì. Anh ấn thêm lần thứ ba, xe vẫn chạy. - Người ta đã ngắt điện ở công tắc báo dừng trên chuyến xe 27 - Thằng bé lại nhổ nước bọt - Bởi thế, anh không xuống xe được đâu. Becker quay lại. - Ý cậu là tôi không thể xuống xe ở đây được à? Thằng bé cười to. - Không xuống được, cho đến bến cuối. Năm phút sau, chiếc xe đi vào một con đường nông thôn Tây Ban Nha tối tăm. Becker quay xuống chỗ thằng bé ngồi sau anh. - Có phải xe chuẩn bị dừng lại không? Thằng bé gật đầu: - Vài dặm nữa thôi. - Thi chúng ta đang đến đâu đây? Thằng bé bỗng nhiên bật cười to: - Anh không biết mình đang đi đâu à? Becker nhún vai. Thằng bé bắt đầu cười như điên. - Ôi, trời ạ! Anh sẽ thích chỗ đó cho mà xem. Chương 50 Cách thân máy TRANSLTR có vài thước, Phil Chartrukian đứng trên một tấm biển có ghi dòng chữ đặt ở sàn Crypto, TẦNG NGẦM CRYPTO KHÔNG PHẬN SỰ MIỄN VÀO Anh ta biết là mình không có phận sự. Anh ta quan sát thật nhanh phòng làm việc của Strathmore. Rèm cửa vẫn được vén lên. Chartrulcan đã trông thấy Susan Fletcher đi vào nhà vệ sinh, cho nên anh ta biết là cô sẽ không gây khó khăn gì cho mình. Người mà anh ta lo ngại là Hale. Anh ta liếc nhìn vào Node 3 và tự hỏi không biết chuyên viên mật mã này có trong đó không. - Mẹ kiếp! - anh ta càu nhàu. Dưới chân anh ta, đường nét chiếc cửa sập ở trong tầng nhà hiện lên khá rõ ràng. Chartrukian sờ vào chiếc chìa khoá vừa lấy từ trong phòng bảo mật hệ thống. Anh quỳ xuống, ấn chìa khoá vào ổ và xoay. Chốt khoá khẽ kêu lách cách. Sau đó, anh mở then cửa tai hồng bên ngoài cửa, quay đầu lại kiểm tra một lần nữa rồi ngồi xổm xuống và kéo cửa. Ván cửa rất nhỏ, chỉ dài khoảng 3 foot và rộng chừng ấy nhưng rất nặng. Cuối cùng, khi đã mở được cửa ra, anh khựng lại. Một luồng khí nóng ập thẳng vào mặt anh. Luồng khí này mang theo khí freon buốt giá, cuốn thẳng ra ngoài theo cánh cửa mở máy phát điện hiện ra phía dưới trong thứ ánh sáng đỏ. Tiếng ồn nhỏ của nó lúc này trở thành tiếng nổ ầm vang. Chartrukian đứng dậy và nhìn sâu xuống bên dưới cánh cửa mở. Trông có vẻ giống như lối đi xuống địa ngục hơn là lối vào dành cho nhân viên phục vụ đến chỗ máy vi tính. Một chiếc thang nhỏ, hẹp dẫn xuống dưới phía xa mấy cầu thang, nhưng tất cả những gì mà anh ta trông thấy được là một màn mù sương màu đỏ cuộn xoáy. *** Greg Hale đứng đằng sau một tấm kính ở Node 3. Hắn dõi theo Phil Chartrukian tụt từ trên thang xuống tầng hầm. Từ nơi Hale đứng nhìn lên, đầu của Chartrukian trông giống như lìa khỏi cổ và ở lại phía trên tầng Crypto. Sau đó, dần dần, cái đầu cũng chìm dần vào đám hơi cuồn cuộn. "Hành động dũng cảm chưa!" - Hale thì thào. Hắn biết Chartrukian đang đi đến đâu. Tìm kiếm nơi tắt TRANSLTR khẩn cấp bằng tay là một hành động đúng theo logic nếu như anh ta cho rằng chiếc máy đã bị nhiễm virus. Thật không may nếu điều đó được được thực hiện thì sau 10 phút các nhân viên an ninh hệ thống sẽ kéo đến kín đặc Crypto. Sẽ hiện các cờ hiệu báo động ở tổng đài chính. Một cuộc tổng kiểm tra bảo mật hệ thống ở Crypto là cái mà Hale không thể đương đầu nổi. Hale rời Node 3 và tiến về phía cửa sập. Nhất định phải ngăn Chartrukian lại. Chương 51 Jabba trông giống như một con nòng nọc khổng lồ. Đúng như đặc tính của sinh vật mà ông ta được đặt tên hiệu, ông ta bị hói đầu. Với vai trò là một thiên thần bảo vệ cho tất cả các hệ thống máy tính của NSA, Jabba đến tất cả các phòng ban thúc ép, ra lệnh và liên tục khẳng định nguyên tắc hành động của mình: "Phòng ngừa là biện pháp hữu hiệu nhất". Chưa bao giờ có một máy tính nào rủa NSA bị nhiễm virus dưới thời của Jabba; và ông ta quyết giữ vững thành tích này. Nhà của Jabba là một trạm làm việc cũ được nâng cấp, tầng ngầm của NSA, ngân hàng dữ liệu tuyệt mật. Đây chính là nơi mà nếu virus có thể xâm nhập thì hậu quả sẽ khủng khiếp, và đây cũng chính là nơi mà Jabba dành phần lớn thời gian của mình. Tuy thế, vào lúc này, Jabba lại đang nghỉ ngơi và thưởng thức xúc xích bò và heo rắc thêm tiêu ở khu hậu cần phục vụ thâu đêm của NSA. Ông ta đang định ăn xuất thứ ba thì chuông điện thoại phòng làm việc reo. - Đi nghe đã vậy - Ông nói, ho sặc sụa khi đang nuốt một miệng đầy xúc xích. - Jabba à? - một giọng phụ nữ nhỏ nhẹ vang lên - Tôi, Midge đây. - Ôi nữ hoàng dữ liệu của tôi! - Jabba thốt lên đầy tình cảm. Ông luôn dành cho Midge Milken một tình cảm dịu dàng. Mụ là người sắc sảo và cũng là người đàn bà duy nhất Jabba từng gặp tán tỉnh với ông. - Cô thế nào, khoẻ không? - Tôi bình thường, không có gì đặc biệt. Jabba lau miệng. - Cô đang ở cơ quan à? - Vâng! - Cô có muốn ăn xúc xích với tôi không? - Tôi muốn lắm, Jabba ạ, nhưng mà tôi đang làm việc. - Thật hả - Ông cười khúc khích. - Cô có phiền không nếu tôi cùng cô làm việc? - Ôi, ông bậy bạ quá. - Nếu cô không muốn… - Có chứ, may mà gặp ông - mụ nói - Tôi cần một số lời khuyên của ông. Jabba nuốt một miếng xúc xích khá to. - Cứ nói đi. - Có khi chẳng làm sao đâu - Midge nói - Nhưng bản thống kê Crypto của tôi có gì lạ lắm. Tôi hy vọng là ông có thể giải quyết khúc mắc này cho tôi. - Thế cô thấy gì? - Ông nhớp một ngụm nước. - Tôi có một bản báo cáo nói rằng TRANSLTR đã chạy giải mã một file trong vòng 18 tiếng mà vẫn chưa giải xong. Jabba phun hết cả xúc xích lên chiếc bánh trên bàn ăn. - Cô bảo sao cơ? - Ông có ý kiến gì không? Ông dùng khăn ăn phe phẩy lên bàn. - Thế nó là bản báo cáo về cái gì? - Báo cáo về sản xuất. Phân tích chi phí cơ bản thôi. - Midge nhanh chóng giải trình những gì mà mụ và Brinkerhoff đã phát hiện được. - Cô đã gọi cho Strathmore chưa? - Rồi. Ông ta nói là mọi thứ ở Crypto vẫn đều ốn cả. Ông ta còn nói là TRANSLTR vẫn hoạt động với tốc độ tối đa. Và ông ta còn cho rằng dữ liệu của chúng tôi là sai. Jabba nhăn cái trán củ hành của mình lại. - Như thế thì có chuyện gì đâu? Bản báo cáo của cô không đúng. Midge im lặng, không trả lời. Jabba hiểu ý của mụ. Ông nghiêm nghị hỏi. - Cô cho là bản báo cáo của cô không sai à? - Vâng! - Thế tức là cô cho rằng nghĩ là Strathmore nói dối? - Không phải thế - Midge nói một cách xã giao, vì mụ biết chưa có gì chắc chắn. - Chỉ vì thống kê của tôi chưa bao giờ sai. Tôi sẽ xem xét lại vậy. - Ồ! - Jabba nói - Tôi không muốn là người đầu tiên nói điều này với cô nhưng thực sự là dữ liệu của cô có vấn đề đấy. - Ông nghĩ thế thật à? - Tôi cá cả sự nghiệp của mình đấy - Jabba ngoạm cả một miếng xúc xích ướt to và nhồm nhoàm nói - File dữ liệu dài nhất cũng chỉ ở bên trong TRANSLTR được ba tiếng đồng hồ. Thời gian ấy bao gồm cả chẩn đoán, khảo sát ngoại biên và mọi thứ. Thứ duy nhất có thể giữ nó lại trong 18 tiếng chắc chắn liên quan đến virus. Không còn thứ gì có thể làm được điều này. - Liên quan đến virus à?  - Ừ một thứ gì đó thuộc chu kỳ dư. Nó xâm nhập vào bộ máy xử lý vi tính tạo nên một vòng luân chu, và về cơ bản làm hệ thống tê liệt không hoạt động được. - À. - Midge đánh bạo nói - Strathmore đã ở Crypto 36 tiếng liên tục Liệu ông ta có gặp virus không nhỉ? Jabba cười phá lên. - Strathmore đã ở đó 36 tiếng rồi cơ à? Tội nghiệp quá. Vợ ông ta có lẽ sẽ không cho ông ta về nhà nữa đâu. Tôi nghe nói bà ấy đã đá vào mông ông ta rồi đó. Midge nghĩ ngợi một lúc. Bà ta đã nghe kế chuyện đó và cứ tưởng mình bị hoang tưởng. - Midge à - Jabba thở nặng nhọc và uống một ngụm lớn - Nếu như mấy thứ đồ chơi của Strathmore nhiễm virus, ông ta sẽ gọi cho tôi ngay. Strathmore là người nhanh nhạy, nhưng ông ta chẳng biết cái quái gì về virus cả. TRANSLTR là tất cả những gì ông ta có. Nếu phát hiện được bất cứ dấu hiệu rắc rối nào, ông ta sẽ ấn vào nút báo động ở quanh đấy thôi, khi đó đã có tôi mà! - Jabba mút một thanh Mozzarella dài - Hơn nữa, chẳng có kẽ hở nào khiến cho TRANSLTR có thể nhiễm virus cả. Gauntlet là bộ máy lọc tốt nhất mà tôi từng chế tạo ra. Không gì có thể đi qua được nó đâu. Im lặng một lúc lâu, Midge thở dài. - Còn gì nữa không? - À, dữ liệu của cô có vấn đề. - Ông vừa nói thế đấy nhé. - Thật sự là thế. Bà ta cau mày. - Ông vẫn không nghe phong thanh được chuyện gì à? Không nghe được bất cứ điều gì à? Jabba cười cay lớn. - Midge… nghe này. Vụ bê bối Skipjack. Chính Strathmore đã gây ra. Nhưng mà thôi đi, vụ đó qua rồi mà. Đường dây bên kia im lặng thật lâu, và Jabba biết mình đã hơi quá. - Xin lỗi cô Midge. Tôi biết cô đã cực kỳ giận dữ với vụ đó. Strathmore có lỗi. Tôi biết cô nghĩ gì về ông ta mà. - Việc lần này không có dính dáng gì đến vụ Skipjack cả - Bà ta cả quyết. - Ừ chắc chắn rồi - Jabba nghĩ - Nghe nhé, Midge. Tôi không có cảm tình riêng gì với ông ta cả. Ý tôi là ông ta là một người viết mật mã. Tất cả những người viết mật mã về cơ bản là những kẻ tự phụ. Mà họ cũng rất quan trọng đấy. Mỗi file dữ liệu của họ có thể cứu nguy cho cả thế giới. - Ý ông là sao? Jabba thở dài: - Ý tôi nói là Strathmore cũng giống như những chuyên gia mật mã khác. Nhưng tôi còn muốn nói thêm nữa là ông ta còn yêu quý TRANSLTR hơn cả vợ ông ta. Nếu có rắc rối nào, nhất định ông ta đã gọi cho tôi rồi. Midge im lặng một lúc khá lâu. Cuối cùng, mụ buông một tiếng thở dài miễn cưỡng. - Tức là ông cũng cho rằng dữ liệu của tôi là sai? Jabba mỉm cười. - Thôi nào đừng có lo lắng không cần thiết nữa? Mụ bật cười. - Chú ý này. Midge. Hãy gửi một tin nhắn vào máy tôi đi. Thứ hai tôi sẽ kiểm tra máy của cô thật tỉ mỉ. Trong khi chờ đợi hãy chuồn khỏi đấy đi. Bây giờ là đêm thứ Bảy đấy. Hãy đi nằm hoặc là làm gì đó thư giãn đi. Mụ thở dài. - Tôi đang gắng đây, Jabba. Tin tôi đi, tôi sẽ cố mà. Chương 52Câu lạc bộ Embrujo - nghĩa là "Thầy phủ thuỷ" trong tiếng Anh - nằm trong một khu ngoại ô ở cuối tuyến xe buýt số 27. Trông giống một pháo đài hơn là một câu lạc bộ khiêu vũ, toà nhà này được bao quanh tứ phía bởi những bức tường thành có gắn rất nhiều mảnh chai bia vỡ - một hệ thống bảo vệ thô sơ ngăn không cho bất cứ ai xâm phạm bất hợp pháp mà không để lại một phần cơ thể tươi nguyên nào đó. Trong suốt chuyến đi, Becker chắc mẩm rằng mình đã thất bại. Đến lúc gọi cho Strathmore thông báo về tin tức tồi tệ kia - cuộc tìm kiếm đã vô vọng. Anh đã cố gắng hết sức mình, bây giờ đến lúc quay về nhà. Nhưng giờ đây, khi nhìn vào đoàn người đang chen lấn xô đẩy qua lối vào của câu lạc bộ, Becker không dám chắc là lương tâm mình cho phép anh bỏ cuộc. Anh chưa bao giờ thấy đám đông ăn vận kiểu Punk lớn thế này, những mái tóc ba màu đỏ, trắng và xanh có ở khắp mọi nơi. Becker thở dài, cân nhắc lựa chọn của mình. Anh nhìn kỹ đám đông và nhún vai. Cô ta còn có thể ở đâu vào một đêm như thế này đây? Thầm nguyền rủa vận đen của mình, Becker nhảy xuống xe. Lối đi vào Câu lạc bộ Embrujo là một hành lang đá chật hẹp. Khi Becker tiến vào, anh nhận thấy mình ngay lập tức bị cuốn vào lớp sóng người cuồng nhiệt đang hướng vào. - Tránh ra nào, anh bạn! - Một giọng người chói tai nói với anh và thúc khuỷu tay vào sườn anh. - Cà vạt đẹp đấy. Có ai đó giật mạnh cà vạt của Becker. - Anh muốn làm tình không - Một cô bé tuổi thiếu niên nhìn anh trân trối một cách vô hồn. Bóng tối của hành lang dẫn đến một phòng lát xi măng nồng nặc mùi rượi và mùi người. Một cảnh tượng kỳ quái hiện ra - một hang động lớn với hàng trăm người cử động giống hệt nhau. Họ nhào lên, sụp xuống, tay ấn chặt vào mạng sườn, đầu lắc lư giống như những chiếc bóng đèn vô hồn gắn trên xương sống. Những kẻ cuồng dại lao mình khỏi một cái bệ và nhào vào biển cánh tay người. Những thân người được chuyền qua chuyền lại giống như những quả bóng chuyền bãi biển. Trên đầu, những chiếc đèn nhấp nháy đung đưa khiến toàn cảnh giống như một bộ phim câm thời xưa. Ở bức tường phía xa, những chiếc loa thùng to bằng những chiếc xe tải mi ni đập mạnh đến mức mà ngay cả những người nhảy cuồng nhiệt nhất cũng không thể đến gần hơn 13 mét. Becker bịt tai lại và dò tìm trong đám đông. Nhưng đâu đâu anh cũng chỉ thấy một màu tóc đỏ, trắng và xanh. Những thân người gần sát nhau đến nỗi anh không thể nhìn rõ họ đang mặc quần áo gì. Anh cũng không nhìn thấy bất cứ dấu hiệu nào của lá cờ Anh Quốc. Rõ ràng là anh không bao giờ có thể hoà vào đám đông mà không chen lấn xô đẩy. Gần đấy, có ai bắt đầu nôn mửa. Hay thật. Becker lầm bầm. Anh đi khỏi đám đông và tiến xuống một hành lang phun sơn. Hành lang này sau đó trở thành một đường hầm chật hẹp có gương soi rồi dẫn đến một sận trời bày nhiều bàn ghế. Trong sân có nhiều người ăn vận kiểu Punk. Đối với Becker, nó giống như lối vào xứ sở hạnh phúc trong tưởng tượng - một bầu trời mùa hè hiện ra trên đau anh và tiếng nhạc mờ dần đi. Becker phớt lờ đi những ánh nhìn tò mò xung quanh và anh tiến vào. Anh nới lỏng cà-vạt và thả mình xuống một chiếc ghế ở một cái bàn trống gần nhất. Dường như cả thế kỷ đã trôi qua từ sau gọi lúc sáng sớm của Strathmore. Sau khi gạt những chai bia rỗng ở trên bàn, Becker nằm gối đầu lên tay. Vài phút thôi, anh nghĩ. Cách đó năm dặm, người đàn ông đeo kính gọng thép đang ngồi trong một chiếc taxi Fiat đi dọc theo con đường dẫn đến vùng nông thôn. - Đến Embrujo! - Gã càu nhàu, nhắc nhở người lái xe về điểm đến. Người tài xế gật đầu, liếc nhìn vị khách mới đầy khó hiểu qua gương chiếu hậu. - Embrujo - anh ta lẩm bẩm - Đêm nào cũng một lũ người kỳ quặc.

Dan Brown

PHÁO ĐÀI SỐ

Chương 53 & 54 & 55 & 56

Tokugen Numataka nằm trần truồng trên chiếc bàn xoa bóp ở phòng làm việc trên tầng thượng. Cô gái chuyên xoa bóp riêng cho ông ta đang mát-xa phần cổ bị đau cho ông. Cô chà xát lòng bàn tay vào vùng thịt giữa hai bả vai, từ từ nắn bóp xuống tới vừng có khăn che ở mông. Tay cô trườn xuống dưới thấp hơn… dưới chiếc khăn tắm. Numataka tỏ ra dửng dưng. Tâm trí của ông ta đang ở chỗ khác ông ta đang đợi điện thoại đổ chuông. Cho đến lúc này nó vẫn không có tín hiệu gì. Có tiếng gõ cửa. - Mời vào - Numataka làu bàu. Cô gái vội kéo tay ra khỏi phía dưới tấm khăn. Người trực tổng đài tiến vào và cúi người. - Thưa ngài chủ tịch! - Nói đi! - Numataka ra lệnh. Người trực tổng đài cúi người lần thứ hai. - Tôi muốn nói về việc trao đổi điện thoại. Cú gọi từ nước có mã 1 - Hoa Kỳ. Numataka gật đầu. Đây là tin tốt lành. Cú gọi từ Mỹ. Ông mỉm cười. Chính xác là như thế. - Ở nơi nào bên Mỹ - Ông hỏi. - Họ đang tìm kiếm, thưa ngài. - Tốt lắm. Hãy cho tôi biết khi họ có thêm thông tin mới. Người trực tổng đài cúi đầu chào và xin phép đi ra. Numataka cảm thấy gân cốt mình được thư giãn. Nước có mã số 1. Thực sự đây là một tin tốt lành. Chương 54 Tại tầng Crypto. Susan Fletcher lòng như lửa đốt, cô đi lại trong nhà vệ sinh, vừa đi vừa đếm từng số từ một đến năm mươi. Đầu cô đang căng ra. Chỉ một lúc nữa thôi, cô tự nhủ. Hale chính là North Dakota? Susan tự hỏi không biết Hale định làm gì. Liệu hắn có tiết lộ mật khẩu không? Liệu hắn có tham lam và đem bán thuật toán đó không? Susan không thể đợi chờ thêm một phút nào nữa. Đã đến lúc cô phải báo cáo việc này với Strathmore. Cô thận trọng mở cửa và nhìn vào bức tường phản chiếu ở phía xa Crypto. Không có cách nào biết được liệu Hale có đang theo dõi không. Cô phải nhanh chóng đến văn phòng của Strathmore. Nhưng không được vội vã quá, tất nhiên là thế - cô không thể để cho Hale nghi ngờ là cô đã biết hắn là ai. Cô tiến đến cửa và đang đưa tay định kéo cửa thì cô nghe thấy âm thanh gì đó. Tiếng nói. Tiếng nói của nhiều người. Những giọng nói phát ra từ đường ống thông gió gần cánh cửa. Cô bỏ tay ra khỏi cửa và tiến về phía ống thông gió. Những lời nói vọng lên hoà lẫn trong tiếng kêu rền ùng ục của máy phát điện phía dưới. Cuộc đối thoại nghe như phát ra từ phía lối đi ở tầng ngầm. Một giọng nói the thé và giận dữ. Hình như là giọng của Phil Chartrukian. - Anh không tin tôi à? Người có giọng nói thuyết phục lên tiếng. - Máy bị nhiễm virus! Sau đó người có giọng nói chói tai kia gào lên. - Chúng ta cần phải gọi cho Jabba! Rồi có tiếng tranh cãi. - Buông tôi ra! Sau đó, bỗng có tiếng gào lên kinh sợ như tiếng của một con vật giãy chết. Chắc chắn đó là tiếng gào của một người. Bên ống thông gió, Susan lạnh người đi vì sợ hãi. Tiếng gào tắt ngấm đột ngột cũng như khi nó xuất hiện. Tiếp đó chỉ còn lại sự yên lặng đến ghê sợ. Một lát sau, ánh đèn trong nhà vệ sinh dằn dần tắt ngấm giống như trong một màn kịch rùng rợn rẻ tiền. Đèn sau đó sáng loé lên rồi tắt hẳn. Susan Fletcher nhận ra mình đang đứng trong bóng tối mịt mùng. Chương 55 - Ông đang ngồi trên ghế của tôi đấy, ông bạn. Becker ngầng đầu lên. - Không ai nói tiếng Tây Ban Nha ở cái đất nước chết tiện này hay sao? Một thằng nhóc thấp bé, mặt đầy mụn với cái đầu cạo trọc đang trừng trừng nhìn anh. Một nửa da đầu nó nhuộm đỏ, nửa còn lại màu tía. Trông nó giống như một quả trứng Phục Sinh. - Tôi nói là ông đang ngồi trên ghế của tôi đấy, đồ chết giẫm. - Tôi mới nghe thấy giọng cậu lần đầu đấy - Becker nói và đứng dậy. Anh không có hứng thú đánh nhau lúc này. Đã đến lúc phải đi rồi. - Ông để mấy cái chai của tôi đâu rồi? - Thằng bé gầm gừ. Trên mũi nó có một cái ghim. Becker chỉ vào đống vỏ chai bia anh để dưới sàn. - Hết sạch rồi còn gì. - Đống chai kia là của tôi! - Tôi xin lỗi - Becker nói và quay lại định đi. Thằng bé chặn đường anh. - Hãy nhặt chúng lên ngay! Becker hấp háy mắt khó chịu. - Cậu đang đùa phải không? Anh cao hơn thằng bé hẳn một foot và nặng hơn nó đến 50 pound. - Trông tôi có giống như là đang đùa không? Becker im lặng. - Hãy nhặt lên ngay! - Thằng bé gào lên. Becker cố gắng bước đi, nhưng thằng bé vẫn chặn đường anh: - Mẹ kiếp, tôi nói là anh nhặt chúng lên cơ mà! Những người đã ngà ngà say ở các bàn gần đó bắt đầu chú ý đến cuộc ẩu đả. - Cậu bé, cậu không muốn nói thế chứ? - Becker điểm đạm nói. - Tôi cảnh cáo ông đấy! - Thằng bé giận dữ - Đây là bàn của tôi! Đêm nào tôi cũng đến đây. Bây giờ ông hãy nhặt chúng lên đi! Becker đã chịu hết nổi. Lẽ ra anh đã ở Smokys với Susan rồi sao? Thế mà anh lại đang ở Tây Ban Nha và cãi nhau với một thằng nhóc con dở hơi! Bất ngờ, Becker kẹp chặt thằng oắt con vào nách, nhấc nó lên và đặt nó ngồi phịch lên bàn. - Nghe này, thằng ranh con vắt nước mũi chưa sạch. Mày có cút ngay đi không thì bảo, nếu không tao sẽ giật cái ghim kia ra khỏi mũi mày và ghim chặt cái mồm mày lại đấy. Thằng bé tái mặt lại. Becker ghìm người nó một lúc rồi lỏng tay ra. Anh cúi xuống, nhặt những cái chai lên và để chúng lại trên bàn trong khi mắt vẫn nhìn chằm chằm vào thằng bé đang xanh mặt sợ hãi. - Mày nói cái gì? - Anh hỏi. Thằng bé câm như hến. - Xong rồi nhé! Becker nói. Thằng bé này là một bản tuyên truyền di động về sinh đẻ có kế hoạch. - Đồ quỷ tha ma bắt! - Thằng bé gào lên, nó đã biết những người bạn của nó đang cười nó - Đồ con lừa ngu ngốc! Becker chẳng phản ứng gì. Trong những điều thằng bé đã nói, có một điều khiến anh để ý. "Đêm nào tôi cũng đến đây". Becker tự hỏi liệu thằng bé có giúp gì được anh không. - Xin lỗi - Becker dịu giọng - Tôi chưa biết tên cậu. - Hai Máu (Two-Tone) - thằng bé rít lên cứ như thể nó đang thi hành án tử hình vậy. - Hai Máu à - Becker mơ màng nghĩ. - Để tôi đoán xem nhé… có phải vì màu tóc của cậu không nhỉ? - Không, mẹ kiếp. Tên tôi là Sherlock. - Ồ cái tên hay đấy. Cậu tự đặt tên cho mình hả? Thực ra, thằng bé huyệnh hoang: - Tôi đang định xin cấp bằng sáng chế cho cái tên này đấy. Becker chữa lại. - Ý cậu là đăng ký độc quyền nó? Thằng bé có vẻ bối rối. - Người ta đăng ký thương hiệu cho một cái tên chứ không xin cấp bằng sáng chế đâu! - Becker nói. - Gì chả thế! - Thằng bé gào lên chán nản. Những gã mê nhạc rock ngấm thuốc và say rượu ở các bàn gần đó đã bắt đầu lên cơn cuồng loạn. Hai Máu đứng lên và cười nhếch mép với Becker. - Ông muốn cái quái gì ở tôi? Becker trầm ngâm một lúc. Chú mày hãy gội đầu cho sạch, ăn nói cho tử tế và hãy klếm cho mình một việc làm. Becker nghĩ có vẻ như thế là quá nhiều trong lần gặp đầu tiên: - Tôi muốn biết một số thông tin - anh nói. - Mẹ kiếp. - Tôi đang tìm một người. - Tôi sẽ chẳng thấy ai cả. - Chưa từng thấy ai chứ! - Becker chữa lại, anh ra dấu cho một cô bồi bàn đi ngang qua. Anh gọi hai cốc bia Aguila và đấy một cốc về phía Hai Máu. Thằng bé có vẻ ngạc nhiên. Nó tợp một ngụm bia và nhìn Becker với ánh mắt cảnh giác. - Ông đang định chộp tôi đấy à?  Becker mỉm cười. - Tôi đang tìm kiếm một cô gái. Hai Máu cười ré lên. - Ông cứ làm như không ai biết tìm gái để làm gì ấy! Becker cau mặt. - Tôi không phải tìm để làm việc ấy. - Tôi chỉ muốn nói chuyện với cô ấy. Có thể cậu sẽ giúp tôi tìm được cô ấy. Hai Máu đặt cốc bia xuống. - Ông là cớm à? Becker lắc đầu. Thằng bé nheo mắt lại. - Trông ông giống cớm lắm. - Chú bé này, tôi từ Maryland đến. Nếu là cớm, thì hình như tôi không có quyền hạn ở địa phận này, cậu có nghĩ thế không? Câu hỏi này có vẻ khiến thằng bé bối rối. - Tên tôi là David Becker - Becker mỉm cười và đưa tay qua bàn về phía thằng bé. Thằng bé lùi lại tỏ vẻ ghê tởm. - Tránh xa ra, đồ đồng tính. Becker thu tay về. Thàng bé nhếch mép cười. - Tôi sẽ giúp ông, nhưng ông phải trả thù lao đấy. Becker hỏi luôn. - Bao nhiêu? - 100 đô. Becker nhíu mày. - Tôi chỉ có tiền pêzơta. - Gì cũng được! Vậy thoả thuận là 100 pêzơta nhé. Rõ ràng là Hai Máu không sành về hoán đổi ngoại tệ; 100 pêzơta chỉ đáng giá khoảng 87 xu. - Được - Becker nói, gõ chai bia xuống bàn. Lần đầu tiên thằng bé mỉm cười. - Cứ thế nhé. - Rồi - Becker tiếp tục với giọng trầm tĩnh. - Tôi sẽ tả dáng người của cô gái mà tôi đang tìm, có thể cô ta đang ở đâu đó quanh đây thôi. Cô ấy có tóc màu đỏ, trắng và xanh. Hai Máu khịt khịt mũi. - Hôm nay là ngày mất của Judas Taboo. Ai chả để màu tóc đó. - Cô ấy còn mặc một chiếc áo phông có cờ Anh Quốc và một bên tai có đeo hoa tai hình đầu lâu. Một ánh mắt nhận ra thoáng hiện trên khuôn mặt của Hai Máu. Becker trông thấy điều này và anh tràn lên một niềm hy vọng. Nhưng một lát sau, Hai Máu bỗng tỏ ra lạnh lùng. Nó ném cái chai xuống và túm áo Becker. - Con bé đấy là của thằng Eduardo, đồ ngu ạ! Tôi cho ông biết điều này! Nếu ông chạm đến nó, thằng đó sẽ giết ông đấy! Chương 56Midge Milken tức giận đi qua phòng làm việc của mình và vào phòng họp. Ngoài chiếc bàn bằng gỗ gụ cao 1,5 mét khảm lôgô của NSA màu đỏ sẫm anh đào và màu óc chó, phòng họp còn có ba bức tranh màu nước của Marion Pike, một cây dương xỉ Boston, một bàn bằng cẩm thạch, và tất nhiên là một máy làm lạnh hiệu Sparklett. Midge rót một cốc nước và hy vọng khi uống nó có thể xoa dịu thần kinh của mình. Vừa uống, mụ vừa nhìn ra ngoài qua cửa sổ. Ánh trăng xuyên qua cửa chớp và đùa nghịch trên bàn. Mụ luôn cho rằng chọn phòng này làm văn phòng giám đốc thì đẹp hơn phòng làm việc hiện tại của Fontaine. Phòng họp trông sang một dãy kiến trúc khá ấn tượng và quy mô của NSA - bao gồm khu mái vòm Crypto, một hòn đảo công nghệ cao nằm tách biệt toà nhà chính trên ba cánh đồng nhiều cây chứ không trông xuống khu đỗ xe như phòng làm việc của ngài Fontaine. Được xây dựng một cách cố ý ở đằng sau vòm che tự nhiên của cánh rừng gỗ thích nhỏ nhắn, Crypto rất khó bị phát hiện ở góc nhìn từ các cửa sổ của NSA, nhưng tầm nhìn từ dãy phòng dành cho giám đốc thì lại khá hoàn hảo.Theo Midge, phòng họp dường như là cao điểm khống chễ hoàn hảo cho một ông vua cai trị lãnh địa của mình. Mụ ta đã một lần đề nghị Fontaine thay đổi phòng làm việc nhưng ngài giám đốc chỉ đáp lại rằng, "Không thể đặt ở đằng sau được", Fontaine không muốn mình đứng sau bất cứ điều gì. Midge kéo các tấm mành che ra và nhìn về phía những ngọn đồi. Mụ thở dài buồn bã và đưa mắt nhìn về nơi Crypto ngự trị. Midge luôn cảm thấy rất thoải mái khi trông thấy mái vòm Crypto một cột mốc dẫn đường nối bật bất chấp thời gian. Nhưng đêm nay, khi nhìn về phía đó, cảm giác ấy không còn nữa. Thay vào đó, mụ ta thấy mình như đang nhìn vào chỗ hư không. Khi dí sát mặt vào kính, mụ cảm thấy một nỗi sợ hãi hoang dại. Bên dưới chẳng có gì ngoài một màu đen thăm thẳm. Crypto toàn bộ biến mất!

Dan Brown

PHÁO ĐÀI SỐ

Chương 57 & 58 & 59 & 60

Khu vệ sinh của Crypto không có cửa sổ, và bóng tối mịt mùng bao trùm lấy Susan Fletcher. Cô đứng chết lặng một lúc và cố gắng thoát khỏi nỗi ám ảnh, một nỗi sợ hãi mà cô cảm nhận thật rõ ràng đang lớn dần lên trong cô. Tiếng kêu ghê rợn phát ra từ ống thông gió dường như đang lẩn quất quanh cô. Cho dù cô đã cố gắng kìm nén nỗi khiếp đảm đang lớn dần lên nhưng nỗi sợ hãi vẫn cứ lớn lên trong cô và rồi thắng thế. Hoảng sợ, Susan dò dẫm lung tung để tìm cửa ra vào nhưng cô đã mất phương hướng trong bóng tối, hai tay cô quờ quạng đằng trước và cố gắng định hình căn phòng. Cô đá trúng một thùng đựng rác và lại va vào một bức tường. Mò mẫm đi theo bức tường, cô bò về phía lối ra và lần mò được tay nắm cửa. Cô kéo cửa ra và ngã sõng xoài trên nền nhà. Ở đó lần thứ hai cô cảm thấy toàn thân ớn lạnh. Crypto không có gì khác so với lúc trước đó. TRANSLTR là một bóng đen xám xịt trước thứ ánh sáng tờ mờ của buổi sớm chiếu vào qua mái vòm. Phía trên, tất cả đèn đều tắt ngấm. Ngay cả những phím điện tử trên cửa cũng không còn sáng. Khi mắt của Susan đã thích nghi với bóng tối, thứ ánh sáng duy nhất mà cô nhìn thấy là ánh sáng rọi qua cửa chớp - một tia sáng đỏ yếu ớt từ phía dưới rọi lên. Cô đi về phía có ánh sáng đó. Phảng phất trong không khí là mùi khí Ozon. Khi cô đến chỗ cửa chớp, cô nhìn vào khe cửa. Các ống dẫn khí freon vẫn xả hơi mù cuộn xoáy lẫn trong làn ánh sáng đỏ, và từ tiếng ồn vang vọng của các máy phát điện, Susan biết rằng Crypto vẫn đang hoạt động nhờ nguồn điện dự phòng. Qua màn mù sương. Susan đã nhận ra Strathmore đang đứng ở bục phía dưới. Ông đang dựa người vào rào chắn và nhìn chằm chằm vào ống thông kêu ầm ì sâu thẳm của TRANSLTR. - Thưa sếp! Không có tiếng trả lời. Susan thả lỏng người trên chiếc thang. Luồng khí nóng từ phía dưới xộc thẳng vào dưới váy của cô. Bậc thang trở nên trơn tuột vì hơi nước đọng lại. Cô đi xuống chỗ chân thang. Strathmore không quay lại. Ông vẫn nhìn xuống bằng ánh mắt vô cảm, như thể bị thôi miên. Susan đi theo hướng nhìn của ông trên lan can cầu thang. Một lát sau, cô chẳng còn nhìn thấy gì ngoài hơi nước mịt mù. Bất chợt cô nhìn xuống và thấy cảnh tượng ở toà nhà sáu tầng bên dưới. Cảnh tượng xuất hiện rất nhanh trong màn hơi nước cuồn cuộn bốc lên. 30 mét phía dưới, Phil Chartrukian nằm sõng xoài trên gờ thép sắc cạnh của máy phát điện chính. Cơ thể cháy đen. Chính cú ngã này của anh đã làm máy phát điện chính bị chập mạch. Nhưng điều khiến Susan thấy ớn lạnh nhất không phải từ Chartrukian mà từ một người khác ở lưng chừng cầu thang, người này đang ẩn mình trong bóng tối. Dáng người vạm vỡ đó không thể lẫn vào đâu được. Đó chính là Greg Hale. Chương 58 Thằng nhóc mê nhạc rock ấy hét vào mặt Becker: - Megan là của bạn tôi, Eduardo? Ông hãy tránh xa con bé đó ra? - Con bé ấy đang ở đâu - Becker không giữ nổi bình tĩnh. - Mẹ kiếp? - Có việc khẩn cấp! - Becker gắt lên. Anh túm lấy tay áo thằng bé - Con bé đang cầm một chiếc nhẫn của tôi, tôi muốn chuộc lại! Với số tiền lớn! Hai Máu khựng lại rồi bỗng nổi khùng. - Ông bảo cái thứ bằng vàng xấu xí ấy là của ông ư? Becker mở to mắt. - Mày đã nhìn thấy cái nhẫn rồi à? Hai Máu lặng lẽ gật đầu. - Nó ở đâu - Becker gặng hỏi. - Không biết - Hai Máu cười thầm - Megan đã mang nó lên đây và định cầm đồ. - Con bé định bán cái nhẫn ư? - Ông đừng lo, con bé không bán được cái nhẫn đâu. Khiếu thẩm mỹ của ông quá tồi. - Mày chắc không ai thèm mua nó chứ? - Ông đang đùa tôi đấy à? 400 đô cho cái nhẫn ư? Tôi bảo nó là tôi trả 50 thôi nhưng nó muốn nhiều hơn. Để nó mua một vé máy bay dự trữ. Becker cảm giác như máu đang chảy ròng ròng trên mặt anh. - Vé máy bay đi đâu? - Mẹ kiếp, Connecticut - Hai Máu cáu gắt - Thằng Eddie đang điên lên. - Connecticut ư? - Đúng, mẹ kiếp. Nó về biệt thự của bố mẹ nó ở ngoại ô. Nó ghét cái gia đình nó đang sống cùng ở Tây Ban Nha. Bởi ba anh em thằng người Nam Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha toàn bắt nạt nó. Becker cảm thấy như có cái gì đang chặn trong cổ họng. - Bao giờ con bé đi? Hai Máu ngước mắt nhìn. - Bao giờ ư? - Thằng nhóc cười phá lên. - Giờ thì con bé ấy đi xa rồi. Ra sân bay cách đây hàng tiếng đồng hồ. Chỗ tốt nhất để bán cái nhẫn mà -toàn khách giàu, mẹ kiếp! Cầm được tiền là nó biến luôn. Một cơn buồn nôn sực lên trong bụng Becker. Đây có phải một trò đùa ngu ngốc? Anh đứng lặng một hồi lâu. - Họ con bé là gì? Hai Máu ngẫm nghĩ rồi nhún vai tỏ ý không biết. - Con bé bay chuyến nào? - Becker hỏi tiếp. - Nó nói cái gì đấy liên quan đến Roach Coach. - Roach Coach? Phải rồi. Seville-mắt-đỏ cuối tuần, Madrid, La Guardia. Người ta gọi nó thế. Bọn học sinh hay đi chuyến ấy vì rẻ tiền. Chắc chúng nó lại ngồi đằng sau để hít cần sa. Được Becker lầm bầm, đưa tay vuốt tóc. - Mấy giờ bay? - Đúng 2 giờ sáng, đêm thứ Bảy nào cũng có. Giờ đây nó đang lơ lửng giữa Đại Tây Dương rồi. Becker liếc nhìn đồng hồ. Đồng hồ chỉ 1h45" sáng. Anh quay sang Hai Máu, vẻ bối rối. - Mày bảo đó là chuyễn 2h sáng, đúng không? Thằng nhóc gật đầu cười. - Đúng là ông già lẩm cẩm. Becker tức giận chỉ vào đồng hồ. - Nhưng bây giờ mới 2h kém. Hai Máu liếc đồng hồ, vẻ lúng túng. - Ừ thì tôi nhầm - thằng nhóc cười - Tôi thường không đến chốn ầm ĩ này trước 4 giờ sáng! - Có cách nào đến sân bay nhanh nhất? - Becker cáu gắt. - Taxi ngay ngoài cửa - Hai Máu thản nhiên đáp. Becker rút vội tờ 1000 peseta và giúi vào tay Hai Máu. - Cảm ơn nhé! Thằng nhóc nói với theo: - Nếu ông gặp Megan, cho tôi gửi lời hỏi thăm nhé! Nhưng Becker đã đi mất. Hai Máu thở dài rồi quay lại sàn nhảy. Thằng nhóc say quá nên không để ý có một người đàn ông đeo kính gọng sắt đang theo dõi nó. Ở bên ngoài. Becker chạy khắp bãi đậu xe để tìm chiếc taxi. Không có chiếc nào. Anh chạy đến chỗ gã bảo kê to con và gọi Taxi. Gã bảo kê lắc đầu. - Sớm quá. Sớm quá à? Becker nguyền rủa. 2h sáng rồi. - Gọi cho tôi một xe! Gã rút bộ đàm ra, nói vài câu rồi tắt máy. - Veinte minutos - gã nói với Becker. - 20 phút ư? - Becker gặng hỏi. - Thế còn xe buýt thì sao? Gã bảo kê nhún vai. - 45 phút. Becker giơ nắm đấm; - Tuyệt thật! Bỗng có tiếng kêu của một động cơ nhỏ khiến Becker quay đầu lại Nghe như tiếng xích kêu. Một thằng nhóc to con cùng bồ của nó cưỡi trên một chiếc chiếc mô tô Vespa 250 cũ lượn vào bãi xe. Chiếc váy ngắn cũn cỡn của cô ta bị gió tốc ngược lên. Cô ta có vẻ không để ý tới điều đó. Becker lao tới. Không tin nổi mình phải làm thế này, anh nghĩ thầm. Mình ghét lái xe mô tô. Anh hét to với tên lái xe: - Tôi sẽ cho cậu 10 nghìn peseta, cậu đưa tôi đến sân bay nhé? Thằng nhóc lờ đi và rú ga. - 20 nghìn! - Becker buông lời - Tôi cần phải đi đến sân bay! Thằng nhóc ngước nhìn. - Scusi? (1) Nó là người Ý. - Aeroporto! Per favore. Sulla Vespa! Venti mille pesete! (2) Thằng nhóc người Ý đưa mắt nhìn chiếc xe nhỏ thó nhếch nhác của mình rồi cười. - Venti mille pesete? La Vespa. (3) - 50 nghìn! - Becker trả giá. Số tiền này tương đương với khoảng 400 đô la. Thằng nhóc người Ý cười vẻ nghi ngờ. - Tiền đâu? Becker rút trong túi ra 5 tờ 10 nghìn peseta rồi giơ ra. Thằng nhóc nhìn số tiền rồi đưa mắt về phía bạn gái nó. Con bé giật lấy số tiền rồi đút và trong áo. - Cảm ơn! Thằng nhóc hoan hỉ. Nó tung chìa khoá của chiếc Vespa cho Becker rồi kéo tay bạn gái, chúng vừa cười vừa chạy vào trong toà nhà. Becker hét lên. - Đợi đã! Tôi muốn cậu chở tôi đi! Chú thích: (1) (2) (3) Tiếng Ý (Người dịch). Chương 59 Susan với tay về phía chỉ huy Strathmore, ông giúp cô trèo lên thang vào Crypto. Hình ảnh Phil Chartruklan nằm xõng xoài bên cỗ máy cứ ám ảnh trong tâm trí cô. Ý nghĩ Hale vẫn đang lẩn trốn trong Crypto làm cô hoảng sợ. Hale đã đẩy ngã Chartrukian. Rõ ràng điều này là sự thật. Susan loạng choạng đi quá bóng TRANSLTR, về phía cửa chính của Crypto - cái cửa mà cô đã đi qua hàng giờ trước đó. Cú đấm mạnh của cô vào bàn phím giờ tối om, cũng không giúp cô lay chuyển được cánh cửa khổng lồ. Cô bị nhốt ở trong, Crypto giờ đây như nhà tù. Cả toà nhà trông giống một vệ tinh nhân tạo, cách khu trung tâm của NSA 109 yard, chỉ có thể xâm nhập vào qua cửa chính. Vì Crypto dùng đường điện riêng nên có lẽ tổng đài không biết rằng ở đây đang có biến cố. Đường điện chính đã bị cắt - Strathmore nói rồi đi đến bên Susan - Chúng ta… còn nguồn dự trữ. Nguồn điện dự phòng ở Crypto được thiết kế ưu tiên trước hết cho TRANSLTR và hệ thống làm mát của máy trước khi cung cấp điện cho các hệ thống khác, trong đó có hệ thống chiếu sáng và cửa ra vào. Như vậy việc thiễu điện sẽ không ảnh hưởng đến TRANSLTR khi máy đang chạy chương trình quan trọng. Điều đó cũng có nghĩa là TRANSLTR sẽ không hoạt động nếu không có hệ thống làm mát bằng freon; vì nếu không có hệ thống làm mát, hơi nóng toả ra từ 3 triệu bộ xử lý sẽ làm giảm độ chính xác của máy, thậm chí còn làm cháy các con chíp silicon và dẫn đến hiện tượng phát hoả phóng xạ. Đó là viễn cảnh không một ai dám nghĩ tới. Susan phải cố gắng hết sức giữ bình tĩnh. Suy nghĩ của cô bị choán hết bởi hình ảnh nhân viên An ninh mạng nằm trên hệ thống máy phát điện. Cô lại đập mạnh vào bàn phím. Vẫn không có phản ứng. "Dừng vận hành", cô yêu cầu. Nếu TRANSLTR ngừng tìm kiếm mật khẩu của Pháo Đài Số thì nó sẽ làm ngắt tất cả các mạch điện trong máy và giải phóng đủ điện năng dự trữ để kích hoạt lại hệ thống cửa. - Dễ thôi Susan! - Strathmore nói và đặt cánh tay vững vàng, điểm tĩnh của mình lên vai Susan. Cánh tay vững chãi của ngài chỉ huy đã kéo Susan ra khỏi nỗi sợ hãi. Cô bỗng nhớ ra tại sao cô đi tìm ông. Cô nhắc lại: "Ngài chỉ huy! Greg Hale chính là North Dakota!" Một khoảnh khắc im lặng dường như vô tận trong bóng tối kéo đến. Giọng ông bối rối và bàng hoàng: - Cô nói cái gì? - Hale… - Susan thì thầm - Anh ta chính là North Dakota.  Lại một hồi im lặng, Strathmore suy nghĩ về những lời Susan vừa nói. - Phần mềm tìm địa chỉ à? - Ông có vẻ bối rối. - Nó chỉ rõ hắn là Hale? - Máy dò chưa có câu trả lời. Hale đã huỷ lệnh! Susan tiếp tục giải thích cho Strathmore biết Hale đã dừng lệnh tìm kiếm như thế nào và cô đã tìm được thư điện tử của Tankado trong hộp thư điện tử của Hale ra sao. Im lặng một hồi lâu. Strathmore lắc đầu không tin vào tai mình nữa. - Không lẽ nào Hale lại là đồng bọn của Tankado! Thật vô lý? Tankado không bao giờ tin Hale cả. - Thưa sếp! Susan nói tiếp - Trước đây Hale đã từng dìm chúng ta một lần - vụ Skipjack. Tankado tin tưởng anh ta. Strathmore dường như không nói được lời nào. - Hãy huỷ lệnh chạy TRANSLTR - Susan van xin Strathmore. - Chúng ta đã bắt được North Dakota. Hãy gọi bộ phận an ninh của toà nhà. Ra khỏi đây thôi. Strathmore giơ tay ngắt lời rồi suy nghĩ. Susan nhìn về phía cửa ra đầy vẻ lo lắng. Lối thoát khỏi nơi này ở ngay đằng sau TRANSLATR, thế nhưng để ánh sáng le lói ấy loé ra từ bức tường gạch tăm tối kia chẳng khác nào làm cho lửa loé lên từ tảng băng. - Thôi nào, gọi bảo vệ đi, sếp! Hãy huỷ lệnh của TRANSLTR! Để chúng ta thoát ra ngoài! Strathmore đột nhiên tìm ra cách hành động. - Theo tôi - Ông bảo Susan. Nói rồi ông sải bước tiến về phía cửa lật. - Thưa sếp! Hale rất nguy hiểm! Hắn… Nhưng Strathmore đã biến mất trong bóng tối. Susan vội vã rảo bước theo bóng ông. Ngài chỉ huy chạy quanh TRANSLTR đến lỗ hổng trên sàn. Ông ghé mắt nhìn sát vào lỗ xả hơi đang tạo thành xoáy. Rồi ông lặng lẽ nhìn quanh toàn khu Crypto đang chìm trong bóng tối. Sau đó, ông cúi người xuống và ráng hết sức kéo cánh cửa nặng trình trịch kia. Cửa quay được một góc nhỏ. Nhưng khi ngài chỉ huy bỏ tay ra, nó đóng sầm lại, dập tắt mọi hy vọng. Một lần nữa Crypto chìm trong bóng tối không một tiếng động. Hình như North Dakota cũng bị nhốt ở trong này. Strathmore quỳ xuống. Ông cố xoay cái chốt cửa nhưng nó đã trở về vị trí cũ. Tầng hầm đã bị bịt kín. Cả ngài chỉ huy và Susan đều không nghe thấy tiếng bước chân đi rất nhẹ ở phía Node 3. Chương 60Hành lang dẫn Hai Máu đi từ sân trong vào sàn nhảy được treo kín gương. Nó dừng lại trước gương để chỉnh lại cái ghim trên mũi, bỗng nó linh cảm có bóng người lờ mờ đi theo sau mình. Lập tức quay đầu lại nhưng đã quá muộn với nó. Hai cánh tay cứng như đá kẹp chặt và ghì đầu nó vào gương. Thằng nhóc cố gắng xoay người lại. - Eduardo? Này, phải chú mày không? Hai Máu cảm thấy có một cánh tay lướt qua ví của nó trước khi bóng đen kia đè mạnh vào lưng nó. - Eddie? - thằng nhóc gào to - Đừng đùa nữa! Vừa nãy có một gã đến tìm Megan. Bóng đen kẹp chặt lấy thằng nhóc. - Này, Eddie, thằng điên, bỏ ra ngay! - Thế nhưng khi Hai Máu nhìn vào trong gương, nó chợt nhận ra bóng đen đang ghì lấy nó không phải là bạn nó. Khuôn mặt rỗ và đầy sẹo. Đôi mắt chết chóc nhìn chòng chòng từ sau cặp kính râm. Gã nghiêng người về phía trước, ghé sát miệng vào tai Hai Máu. Một giọng nói xa lạ đầy tức tối cất lên. - Hắn đi đâu? - Câu chữ vang lên méo mó. Thằng nhóc cứng đờ người, tê liệt vì sợ hãi. - Hắn đi đâu - giọng nói ấy lại cất lên. - Thằng người Mỹ? - Sân… sân bay - Hai Máu lắp bắp. - Sân bay - Gã nhắc lại, cặp mắt tối sầm nhìn chằm chằm vào miệng Hai Máu trong gương. Hai Máu gật đầu. - Hắn có chiếc nhẫn không? Quá sợ hãi, Hai Máu lắc đầu. - Không. - Mày có nhìn thấy cái nhẫn không? Mày có nhìn thấy cái nhẫn không? Hai Máu ngập ngừng. Nên trả lời thế nào cho phải đây? - Có hay không - Giọng nói nghẹt tiếng ấy lại cất lên. Hai Máu gật đầu quả quyết, hy vọng sự thật thà của mình sẽ được tha. Nhưng không. Chỉ vài giây sau Hai Máu ngã sấp xuống sàn, cổ bị bẻ gẫy.

Dan Brown

PHÁO ĐÀI SỐ

Nguyên tác: Digital Fortress
Dịch giả: Chúc Linh

Chương 61 & 62 & 63 & 64

Jabba nằm ngửa dưới gầm chiếc máy tính lớn đã bị ông ta tháo vỏ để sửa chữa. Nửa người trên của ông ta thò ra ngoài, miệng ngậm đèn soi, tay cầm mỏ hàn và bụng đỡ một bản vẽ lớn, ông vừa gắn xong một bộ thiết bị trở kháng vào bảng mạch chủ bị lỗi thì chuông điện thoại reo. - Mẹ kiếp - Ông quờ tay mò lấy cái ống nghe nằm trên đống cáp - Jabba nghe đây. Ông bừng tỉnh. "Hai lần trong một đêm? Mọi người sẽ xì xào về chuyện này cho mà xem". - Crypto có sự cố rồi - Giọng người phụ nữ ở đầu dây bên kia căng thẳng. Jabba cau mày: - Chúng ta đã từng gặp phải chuyện tương tự. Nhớ không? - Đây là vấn đề liên quan đến điện. - Tôi không phải thợ điện. Hãy gọi bộ phận kỹ thuật. - Cả toà nhà chìm trong bóng tối. - Cô vẫn nhìn được đấy thôi. Về nhà đi - Nói rồi ông quay lại với đống biểu đồ của mình. - Tối đen như mực! - Bà ta hét lên. Jabba thở dài và đặt cái đèn soi xuống và nói: - Midge, thứ nhất, ở đó chúng ta có điện năng dự trữ không bao giờ bị mất điện hoàn toàn được. Thứ hai, ngay lúc này Strathmore nắm tình hình Crypto rõ hơn tôi. Tại sao không gọi cho ông ấy? - Bởi vì chính ông ta liên quan đến chuyện này. Ông ta đang che giấu điều gì đó. Jabba nheo mắt. - Midge thân yêu, tôi đang ngập đầu ngập cổ trong đống cáp ở đây. Nếu cô muốn hẹn hò, tôi sẽ bỏ ngay mọi thứ. Còn nếu không, cô phải gọi bộ phận kỹ thuật. - Jabba, đây là chuyện rất nghiêm trọng. Tôi cảm thấy điều đó. - Bà ta linh cảm thấy điều đó ư? Chuyện nghiêm trọng rồi đây, Jabba nghĩ, chắc Midge chỉ hoảng loạn một chút thôi. - Nếu Strathmore không lo lắng gì thì tôi đâu cần phải bận tâm. - Toàn bộ Crypto tối đen như mực, mẹ kiếp! - Thế thì có lẽ Strathmore đang mơ màng ngắm trăng. - Jabba! Tôi không đùa đâu! - Được rồi, được rồi - Jabba càu nhàu, ông chống khuỷu tay xuống sàn - Có lẽ một máy phát điện bị hết nhiên liệu. Xong việc ở đây tôi sẽ chạy qua Crypto ngay và… - Còn nguồn điện dự trữ thì sao - Midge gặng hỏi - Nếu một máy phát điện hỏng thì tại sao không dùng nguồn điện dự trữ? - Tôi không biết. Có thể Strathmore đang chạy TRANSLTR nên nguồn điện tạm thời bị khoá. - Thế sao không huỷ lệnh vận hành máy đi? Hay máy nhiễm virus. - Thôi đi Midge! - Jabba tức giận. Tôi đã nói rồi, làm gì có virus ở Crypto! Đừng có ngốc nghếch nữa. Phía đầu dây bên kia im lặng hồi lâu. - Ô kìa, Midge - Jabba xin lỗi - Để tôi giải thích - giọng ông kiềm chế lại - Thứ nhất, chúng ta đã có Gauntlet, không virus nào có thể xâm nhập được. Thứ hai, nếu mất điện, đó là chuyện liên quan đến phần cứng, virus không thể làm mất điện được, chúng chỉ tấn công phần mềm và dữ liệu thôi. Bất cứ cái gì xảy ra ở Crypto bây giờ đều không thể do virus. Im lặng. - Midge? Cô còn đó không? Midge đáp lại lạnh lùng. - Jabba, có vấn đề nên tôi phải tìm cách giải quyết. Tôi không đáng bị quát nạt vì điều đó. Khi tôi gọi để hỏi tại sao cả một khối trị giá hàng tỉ đô la kia lại chìm trong bóng tối, nghĩa là tôi mong muốn nhận được một lời giải thích hợp lý từ ông. - Vâng, thưa quí bà. - Chỉ cần nói có hay không. Có khả năng vấn đề Crypto gặp phải có liên quan đến virus hay không? - Midge… Tôi đã nói với cô rồi… - Có hay không. TRANSLTR có thể bị nhiễm virus không? - Midge hỏi lại. Jabba thở dài. - Không đâu, Midge. Hoàn toàn không thể. - Cảm ơn ông. Jabba cố cười thật lớn để làm dịu tâm trạng căng thẳng của Midge. - Trừ trường hợp em cho rằng Strathmore tự tạo ra virus và virus đó lọt qua được bộ lọc của chúng ta. Đầu dây bên kia im lặng sửng sốt. Khi Midge cất tiếng, giọng mụ có phần sợ sệt, bán tín bán nghi. - Strathmore có thể qua mặt được Gauntlet hay sao? Jabba thở dài: - Chỉ đùa thôi mà, Midge! Nhưng ông biết mọi chuyện đã quá muộn rồi Chương 62 Ngài chỉ huy và Susan đứng bên cửa lật đóng chặt và tính xem việc tiếp theo phải làm là gì. Vẫn còn xác của Phil Chartrukian dưới kia - Strathmore suy tính. - Nếu chúng ta kêu cứu, Crypto sẽ loạn ngay! - Thế thì phải làm gì - Susan gặng hỏi. Cô chỉ muốn rời khỏi nơi này ngay lập tức. Strathmore suy nghĩ một hồi rồi nói với Susan: - Đừng hỏi tôi tại sao mọi chuyện lại xảy ra như thế. - Ông nói rồi liếc xuống cánh cửa lật đang bị khoá chặt - Bù lại chúng ta đã tình cờ phát hiện ra và đã vô hiệu hoá North Dakota - Ông lắc đầu trong vô vọng. Ngài chỉ huy dường như vẫn còn choáng váng vì ý nghĩ Hale có dính líu vào kế hoạch của Tankado - Tôi đoán là Hale giấu mật khẩu đâu đây trong máy của anh ta - có lẽ anh ta còn một bản sao ở nhà. Dù sao đi nữa, giờ anh ta cũng đang bị nhốt..  - Thế thì tại sao không gọi bảo vệ vào bắt anh ta đi? - Chưa đến lúc, nếu nhân viên của phòng An ninh mạng để lộ thông tin về sự vận hành không có điểm dừng này của TRANSLTR, chúng ta sẽ gặp phải một loạt rắc rối mới. Tôi muốn xoá mọi dấu vết của Pháo Đài Số trước khi chúng ta mở cửa - Strathmore nói. Susan gật đầu miễn cưỡng. Chỉ còn cách này thôi. Cuối cùng khi bảo vệ kéo Hale ra khỏi tầng hầm và buộc tội anh ta gây ra cái chết của Chartrukian thì anh ta có thể đe doạ sẽ cho toàn thế giới biết về Pháo Đài Số. Nhưng nếu chúng bị xoá sạch thì Strathmore có thể phủ nhận hết. Một lệnh vận hành không có điểm dừng ư? Một thuật toán không thể phá vỡ ư? Nhưng điều đó thật điên rồ! Hale chưa bao giờ nghe đến định lý Bergofsky sao? - Đây chính là điều chúng ta cần làm - Strathmore bình tĩnh lên kế hoạch - Chúng ta xoá sạch mọi liên lạc giữa Hale và Tankado. Xoá sạch mọi file "qua mặt" Gauntlet của tôi, mọi phân tích về An ninh hệ thống của Chartrukian, mọi hồ sơ thông tin về Run-Monitor, tất cả mọi thứ. Pháo Đài Số biến sẽ mất. Nó chưa bao giờ tồn tại ở đây. Chúng ta sẽ chôn vùi mật khẩu của Hale và cầu Chúa cho David tìm bản sao mật khẩu của Tankado. David, Susan nghĩ. Cô cố đẩy anh ra khỏi tâm trí. Cô cần tập trung giải quyết vấn đề trước mắt. - Tôi sẽ lo chuyện ở phòng An ninh hệ thống - Strathmore nói - Dữ liệu của máy chủ, dữ liệu về hoạt động hoán chuyến, các công trình nghiên cứu. Cô lo chuyện Node 3. Xoá tất cả thư điện tử của Hale. Bất kì chứng cứ nào về mối quan hệ của hắn với Tankado, bất kỳ thông tin gì liên quan đến Pháo Đài Số. - Được! - Susan đáp lại, giọng rất tập trung - Tôi sẽ xoá toàn bộ ổ cứng của Hale. Định dạng lại mọi thứ. - Không! - Strathmore phản ứng gay gắt - Đừng làm thế. Rất có khả năng Hale có bản sao mã khoá trong đó. Tôi muốn có nó. Susan há hốc mồm kinh ngạc. - Ngài muốn có mã khoá? Tôi tưởng điều duy nhất chúng ta phải làm bây giờ là phá huỷ tất cả các mật khẩu chứ! - Đúng thế. Nhưng tôi muốn có một bản sao. Tôi muốn huỷ cái file chết tiệt này và tìm hiểu chương trình của Tankado. Susan cũng tò mò về chương trình đó như Strathmore nhưng bản năng mách bảo cô rằng việc giải mã thuật toán Pháo Đài Số là không nên. Cho dù việc đó hấp dẫn đến mức nào. Giờ đây, chương trình chết đó đã bị khoá an toàn trong hàng rào. - Sếp chúng ta chỉ nên… - Tôi muốn có mã khoá! - ông ta nhắc lại. Susan buộc phải tuân lệnh, kể từ khi nghe nói đến Pháo Đài Số, cô đã cảm thấy mình bị thôi thúc bởi một sự tò mò khoa học để tìm hiểu làm thế nào mà Tankado viết được chương trình này. Sự tồn tại của nó phủ nhận tất cả những quy tắc cơ bản của toán mật mã. Susan đưa mắt nhìn ngài chỉ huy. - Ông sẽ xoá sạch thuật toán đó ngay khi chúng ta nhìn thấy nó chứ? - Không còn một dấu vết.  Susan cau mày lại. Cô biết rằng việc tìm ra mã khoá của Hale không thể làm trong chớp mắt được. Định vị được một mã khoá ngẫu nhiên trên một trong số các ổ cứng của Node 3 giống như mò kim đáy bể. Các công cụ tìm kiếm của máy tính chỉ hiệu quả khi bạn biết bạn đang tìm cái gì; mật khẩu này lại là một mật khẩu ngẫu nhiên. Nhưng may mắn thay, vì Crypto đã từng gặp và phải xử lý rất nhiều tài liệu ngẫu nhiên như vậy, Susan và một số người khác đã xây dựng một quy trình xử lý phức tạp gọi là công cụ tìm kiếm không theo lối mòn. Công cụ tìm kiếm này buộc máy tính phải rà lại tất cả các chuỗi kí tự trong ổ cứng, so sánh mỗi chuỗi với một đại từ điển, và đánh dấu vào bất kỳ chuỗi kí tự nào không có nghĩa hoặc ngẫu nhiên. Việc chọn lọc liên tục các tham số quả là một việc làm đánh đố, nhưng không phải là không thực hiện được. Susan biết cô chính là lựa chọn hợp lý để tìm ra mật khẩu. Cô thở dài, hy vọng sẽ không phải hối hếc vì điều đó. - Nếu mọi chuyện suôn sẻ, tôi sẽ chỉ mất khoảng nửa giờ. - Thế thì làm ngay đi thôi - Strathmore nói, ông đặt tay lên vai cô và đưa cô qua chỗ tối để lên Node 3. Trước mắt họ, một bầu trời đầy sao bao toà nhà. Lúc này, Susan lại băn khoăn trong đầu, liệu David có thấy được những vì sao này ở Seville hay không. Khi cả hai tiến đến cửa kính lớn của Node 3, Strathmore nín thở, bàn phím ở Node 3 không sáng, cửa không hoạt động. - Mẹ kiếp - Ông nguyền rủa - Làm gì có điện. Tôi quên mất. Strathmore kiểm tra tất cả các cửa kéo. Ông đặt lòng bàn tay lên: cửa kính rồi dựa vào thành cửa, cố kéo cánh trượt ra. Hai tay ông đẫm mồ hôi và bị trượt ra. Ông lau tay vào quần rồi thử lại. Lần này, cửa hé ra được một chút. Susan, thấy có tiến triển, đến cạnh Strathmore và cả hai người cùng đẩy. Cửa trượt ra được khoảng 2,5cm. Cả hai cùng đẩy nhưng áp lực quá lớn nên cửa bị sập lại. - Đợi đã! - Susan nói, chuyển tư thế đứng về phía đối diện với Strathmore. - Được rồi, bây giờ thử lại. Họ cố hết sức. Cửa lại tiếp tục mở được khoảng 2,5cm. Một luồng sáng xanh yếu ớt hiện ra từ bên trong Node 3; hệ thống máy tính vẫn đang hoạt động; chúng được tính toán kỹ càng để hỗ trợ cho TRANSLTR và vẫn đang nhận điện năng dự trữ. Susan bấm ngón chân đi giày Ferragamo xuống sàn và đẩy mạnh hơn. Cửa bắt đầu dịch chuyển. Strathmore chuyển tư thế để lấy đà tốt hơn. Tập trung hai lòng bàn tay vào cửa trượt bên trái, ông đẩy ngược trở lại. Susan đẩy cửa trượt bên phải về phía ngược lại. Từ từ, khó nhọc, cửa bắt đầu tách ra. Bây giờ hai cánh cửa đã cách nhau chừng 30cm. - Đừng bỏ cuộc - Strathmore vừa nói vừa thở dốc sau cú đẩy mạnh - Chỉ cần chút xíu nữa. Susan đổi tư thế, đặt lưng vào giữa chỗ tách nhau của 2 cánh cửa. Cô lại tiếp tục đẩy, lần này góc đứng tốt hơn. Cửa đẩy lại đập vào cô. Trước khi Strathmore kịp chặn cô lại, Susan đã lọt cả thân hình mảnh mai vào giữa khe hở. Strathmore không đồng ý cho cô làm như vậy nhưng Susan kiên quyết. Cô muốn thoát khỏi Crypto nhưng vì Strathmore, cô quyết định không đi đâu cho đến khi tìm ra được mã khoá của Hale. Cô đặt cả người vào giữa khe hở và dùng hết sức lực để đẩy nó ra. Cửa có xu hướng đẩy ngược trở lại thì đột nhiên Susan mất tư thế đứng. Cửa đập lại vào người cô. Strathmore cố hết sức để ghì nó lại nhưng lực đẩy quá lớn. Ngay trước khi cửa đóng sập lại thì Susan kịp len qua và ngã vềphía bên kia. Ngài chỉ huy cố hết sức để đấy cửa hé ra một chút. Ông ghé sát mặt vào khe cửa và hỏi: - Lạy chúa tôi, cô vẫn ổn chứ, Susan? Susan đứng dậy phủi sạch người: - Tôi không sao. Cô nhìn quanh. Node 3 không một bóng người, chỉ có ánh sáng duy nhất phát ra từ phía máy chủ. Bóng sáng xanh mờ mờ tạo cho nơi đây một không khí ma quái. Cô quay về phía Strathmore ở khe cửa. Mặt ông trông xanh xao, ốm yeu trong ánh sáng xanh ấy. - Susan - Ông gọi - Cho tôi 20 phút để xoá sạch các file trong phòng An ninh hệ thống. Khi tất cả mọi dấu vết đã biến mất, tôi sẽ quay về hệ thống máy của tôi và huỷ lệnh hoạt động của TRANSLTR. - Ông nên làm như vậy - Susan nói rồi đưa mắt nhìn về phía cửa kính đồ sộ. Cô biết rằng cô sẽ bị giam trong Node 3 cho đến khi TRANSLTR ngừng chạy. Strathmore thả cánh cửa ra và chúng sập kín lại như cũ. Susan nhìn qua cửa kính, dõi theo bóng ngài chỉ huy khuất dần trong bóng tối của Crypto. Chương 63 Chiếc xe vespa mà Becker mới mua lăn bánh khó nhọc trên con đường dẫn đến sân bay Sevilla. Các khớp ngón tay của anh trắng bệch, rã rời suốt đoạn đường. Kim đồng hồ của anh chỉ quá số 2 giờ sáng một chút theo giờ địa phương. Khi anh đến sảnh đợi chính ở sân bay, anh phi xe lên hè và lao ra khỏi xe trong khi nó vẫn đang rồ ga. Chiếc xe trượt loảng xoảng trên vỉa hè, tiếng ga vẫn kêu cho đến khi dừng hẳn. Becker va mạnh vào miếng cao su khi đi qua cửa quay. Lần duy nhất trong đời, anh tự thề. Sảnh đợi vắng tanh và sáng trưng. Nếu không có người quét dọn đang đi lau sàn thì nơi này hoàn toàn không một bóng người. Phía bên kia phòng đợi, một nhân viên bán vé đang cất biển bán vé của hãng hàng không Iberia. Anh cảm thấy đây là một điều xấu. Anh chạy tới: - Tôi muốn bay sang Mỹ? Người phụ nữ Ardaluxia quyến rũ đằng sau quầy thu ngân nhìn lên và mỉm cười đay vẻ hối tiếc. - Ông vừa lỡ mất chuyến bay. Câu nói của cô bán vé lơ lửng hồi lâu trên không trung. Mình đã lỡ mất chuyến bay. Hai vai Becker sụp xuống. - Còn chỗ trống nào trên chuyến bay không? - Còn rất nhiều. - Người phụ nữ trả lời - Hầu hết các chỗ đều bỏ trống. Nhưng chuyến 8 giờ sáng ngày mai cũng có. - Tôi muốn biết một người bạn của tôi có bay chuyến vừa rồi không. Cô ấy mua vé dự trữ. - Xin lỗi ngài. Đêm nay có một vài hành khách đi vé dự trữ nhưng theo điều khoản về giữ bí mật của chúng tôi thì… - Người phụ nữ cau mày trả lời. - Chuyện này rất quan trọng - Becker cố thuyết phục - Tôi chỉ cần biết người bạn của tôi có đi hay không thôi. Tất cả chỉ có thế. Người phụ nữ gật đầu tỏ vẻ cảm thông. - Anh cãi nhau với bạn gái à? Becker suy nghĩ một hồi rồi cười ngượng ngùng. - Cô thấy rõ điều đó mà! Cô bán vé nháy mắt thông cảm với Becker. - Tên cô ấy là gì? - Megan - anh buồn bã trả lời. Người bán vé mỉm cười. - Bạn gái anh có họ không? Becker thở dài nặng nhọc. - Có chứ, nhưng tôi không biết - Sự thực thì chuyện rất rắc rối. Cô vừa nói máy bay gần như trống. Hay là cô có thể… - Nếu không có họ thì tôi không thể…. - Thực ra - Becker ngắt lời, anh chợt nảy ra một ý và hỏi - Cô đã bao giờ làm việc suốt đêm chưa? Người phụ nữ gật đầu. - Tôi đã từng làm việc từ 7 giờ tối đến 7giờ sáng. - Thế thì có thể cô nhìn thấy cô ấy. Cô ấy còn rất trẻ. Chỉ khoảng 15 hoặc 16 tuổi gì đó. Tóc cô ấy… Trước khi thốt ra những lời còn lại Becker mới nhận ra sai lầm của mình. Mắt người bán vé nheo lại. - Người yêu của anh mới 15 tuổi ư? - Không! Becker thốt lên. - Ý tôi là… Mẹ kiếp. Cô có thể giúp tôi được không, việc này rất quan trọng. - Xin lỗi anh - người phụ nữ lạnh lùng đáp. - Sự thực không phải như cô tưởng đâu. Liệu cô có thể… - Xin chào anh - người phụ nữ kẻo mạnh lưới sắt xuống quầy thu ngân và đi mất vào phòng trong. Becker rên rỉ và ngước mắt lên trời. Được lắm, David. Được lắm. Anh đưa mắt nhìn quanh phòng chờ. Chẳng còn gì. Chắc hẳn cô bé đã bán chiếc nhẫn đã lên máy bay. Anh chạy vội về phía người bảo vệ. Anh gọi với qua bức tường đệm và hỏi: - Ông có nhìn thấy một cô bé ở đây không? Ông lão đưa tay tắt máy. - Sao? - Một cô bé - Becker nhắc lại - Mái tóc màu đỏ, trắng và xanh. Ông bảo vệ cười vang: - Cô ta xấu thế ư? - Ông lắc đầu và quay lại tiếp tục làm việc. David Becker đứng lặng giữa phòng đợi sân bay hoang vắng không một bóng người. Buổi tối hôm nay đúng là một tấn hài kịch, toàn những sai lầm. Lời nói của Strathmore lại vang lên trong đầu anh: Đừng gọi điện cho tôi đến khi nào anh tìm được chiếc nhẫn. Một sự suy sụp hoàn toàn bao phủ lấy con người anh. Nếu Megan đã bán chiếc nhẫn, không cách gì biết được ai đang giữ chiếc nhẫn ấy. Becker nhắm mắt lại và cố gắng tập trung suy nghĩ. Mình phải làm gì bây giờ? Anh cân nhắc một lát. Trước hết, cần phải nghỉ ngơi sau chuyến đi dài và mệt mỏi. Chương 64Susan đứng đó một mình trong Node 3. Node 3 được bao phủ bởi sự yên ắng và một thứ ánh sáng xanh mờ ảo. Nhiệm vụ hiện tại của cô rất đơn giản: Truy cập vào máy của Hale, tìm mã khoá rồi sau đó xoá sạch mọi liên lạc của hắn với Tankado. Và như thế sẽ không còn dấu vết của Pháo Đài Số ở bất kỳ đâu. Nỗi lo sợ ban đầu của Susan về việc lấy mật khẩu và giải mã Pháo Đài Số lại quấy rầy tâm trí cô. Thật khó tin kết cục lại đơn giản như thế; cô và những đồng sự ở Crypto thật may mắn. North Dakota đột nhiên xuất hiện một cách thần kỳ ngay trước mắt họ và rồi bị nhốt. Vấn đề duy nhất còn lại là David; anh phải tìm ra được mật khẩu còn lại. Susan hy vọng công việc của anh tiến triển tốt đẹp. Đi sâu hơn vào Node 3, Susan cố gắng không suy nghĩ lung tung. Thật kỳ lạ, cảm giác bồn chồn lo lắng lại xuất hiện khi bước tới một nơi đã quá quen thuộc với cô. Mọi thứ ở nơi này trở nên thật lạ lẫm nhưng còn có một điều gì đó khác thường hơn. Susan chợt ngần ngừ và quay lại, nhìn về cánh cửa không hoạt động. Không có lối thoát 20 phút, cô nghĩ thầm. Khi đến máy của Hale, cô bỗng cảm thấy có mùi gì đó rất kỳ lạ nhất định đây không phải mùi quen thuộc của Node 3. Cô băn khoăn tự hỏi không biết có phải máy khử ion bị hỏng không. Nhưng thứ mùi thơm này cũng hơi quen quen, gợi cho Susan một cảm giác ớn lạnh và đầy lo lắng. Cô hình dung ra cảnh Hale bị nhốt ở phía dưới trong lò hơi khổng lồ. Liệu anh ta có đốt cái gì dưới đó không nhỉ? Cô đến gằn của thông gió và ngửi thử. Nhưng mùi không phải từ dưới ấy bay lên. Susan liếc về phía cửa lưới mắt cáo của ngăn bếp nhỏ. Cô chợt nhận ra mùi hương đó. Nó chính là nước hoa Cologne và… mùi mồ hôi. Bản năng mách bảo, cô chùn lại, định thần trước những gì cô nhìn thấy Sau lớp lưới mắt cáo kia là một cặp mắt đang chằm chằm nhìn cô Trong giây lát, sự thật kinh hoàng làm cô choáng váng. Greg Hale không hề bị nhốt dưới tầng hầm- hắn đang ở đây, ngay trong Node 3! Hắn đã kịp trốn lên trước khi Strathmore đóng cửa sập. Hắn đủ khoẻ để có thể tự mình mở mọi cánh cửa. Susan từng nghe nói sự kinh hãi có thể khiến người ta đờ ra… nhưng ngay lúc này cô biết điều đó hoàn toàn không đúng. Trong khi đang suy nghĩ để hiểu ra mọi chuyện thì cô cũng có thể đồng thời phản ứng được. Cô lùi về phía sau trong bóng tối với một ý nghĩ duy nhất trong đầu: trốn thoát. Tiếng đổ vỡ loảng xoảng vang lên đằng sau cô. Hale đã lặng lẽ ngồi trên lò sưởi tự bao giờ, hai chân duỗi dài như hai phiến gỗ nặng trịch. Cánh cửa bị giật tung khỏi bản lề. Hắn nhảy vào phòng và hùng hổ sải bước về phía Susan. Susan giật vội cây đèn bàn đằng sau, định ngáng chân Hale khi hắn tiến gần về phía cô. Nhưng cô thấy hắn nhảy qua nhẹ như không. Hale đang nhanh chóng tiến lại gần cô. Khi cánh tay phải của hắn vòng qua eo cô từ phía sau, Susan cảm thấy như bị kẹp bởi một thanh sắt. Cô thở hắt ra trong đau đớn. Bắp tay hắn co lại ghì chặt lấy lồng ngực cô. Susan kháng cự và bắt đầu giãy giụa điên cuồng. Khuỷu tay cô đập mạnh vào xương sụn ở mũi Hale. Hắn buông cô ra, hai tay ôm lấy mũi. Hắn quỳ gối xuống, bàn tay khum lại che hết khuôn mặt. - Cái đồ… - Hắn hét lên trong đau đớn. Susan lao về phía thanh chắn cửa, cầu nguyện trong vô vọng rằng đúng lúc này Strathmore sẽ khôi phục lại được nguồn điện và cửa sẽ bật mở. Nhưng không, cô va mạnh vào cửa kính. Hale lết lại gần cô, mũi hắn bê bết máu. Tức khắc, hai bàn tay hắn lại ghì lấy cô, một tay đè chặt lên ngực trái còn tay kia tóm vào hông. Hắn giật mạnh cô ra khỏi cửa. Susan hét lên, bàn tay giơ lên cố gắng chặn hắn lại nhưng vô ích. Hắn kéo cô về phía sau, khoá thắt lưng của hắn chọc vào xương sống cô, không thể tin nổi hắn lại khoẻ đến thế. Hắn kéo lê Susan trên thảm khiến giầy bị tuột ra khỏi chân cô. Chỉ cần một động tác, Hale nhấc bổng cô lên và ném mạnh cô xuống sàn ngay cạnh máy tính của hắn. Lưng của Susan bị đập đột ngột xuống sàn, váy cô bị kéo xô lên đến tận hông. Khuy áo trên cùng bị bật hmg, lồng ngực phập phồng trong ánh sáng xanh le lói. Susan ngước mắt nhìn Hale chòng chọc trong nỗi sợ hãi vì bị hắn ngồi đè lên người. Cô không giải mã nổi cái nhìn trong ánh mắt hắn. Ánh mắt ấy như một nỗi sợ hãi. Hay một cơn tức giận? Cặp mắt của hắn dán chặt vào người Susan. Một nỗi sợ hãi, hoảng loạn mới lại ập đến với cô. Hale ngồi xuống, dận mạnh xuống hông Susan, nhìn cồ chằm chằm với ánh mắt băng giá. Tất cả những ngón đòn Susan từng được học để tự vệ loé lên trong đầu cô. Cố gắng chống cự, nhưng cơ thể cô không thể nào nhúc nhích nổi. Toàn thân của cô đã bị hắn làm cho tê liệt. Susan nhắm mắt. - Ôi Chúa ơi. Không!

Dan Brown

PHÁO ĐÀI SỐ

Chương 65 & 66 & 67 & 68 & 69 & 70

Brinkerhoff tiến đến phòng làm việc của Midge. - Không ai có thể qua mặt được Gauntlet. Điều đó là không thể! - Sai rồi - Midge phản bác. - Tôi vừa nói chuyện với Jabba. Ông ấy nói năm ngoái ông ấy đã lắp đặt một thiết bị chuyển mạch. Ánh mắt người trợ lý đầy vẻ nghi ngờ. - Tôi chưa từng nghe nói đến điều đó. - Không ai biết. Đó là bí mật. - Midge - Brinkerhoff phản đối - Jabba tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc an ninh! Ông ấy sẽ không bao giờ lắp vào một thiết bị chuyển mạch để qua mặt… - Strathmore buộc ông ta làm điều đó - Midge ngắt lời. Brinkerhoff có thể hiểu được hầu hết những ý nghĩ trong đầu bà ta. - Anh còn nhớ năm ngoái không? - Midge hỏi - Khi Strathmore đang theo dõi nhóm khủng bố chống lại Xê-mít ở Califomia đó không? Brinkerhoff gật đầu. Vụ đó được coi là một trong những việc làm táo bạo của Strathmore vào năm ngoái. Dùng TRANSLTR để giải một mật mã bị chặn, Strathmore đã lật tẩy âm mưu đánh bom một trường Do Thái ở Los Angeles. Ông ta đã giải mã được thông điệp của bọn khủng bố chỉ 12 phút trước khi quả bom phát nổ, và chỉ bằng một vài cuộc gọi nhanh, ông đã cứu được 300 em học sinh. - Nghe này - Midge hạ thấp giọng - Jabba nói Strathmore bắt đầu giải mã thông điệp đó 6 giờ đồng hồ trưởc khi quả bom phát nổ. Brinkerhoff há hốc miệng hỏi lại: - Thế… lại sao ông ta phải đợi… - Bởi vì ông ta không thể chuyển file cho TRANSLTR giải mã. Ông ta đã cố, nhưng Gauntlet từ chối lệnh. Mật mã đó được viết bằng một thuật toán chìa khoá công khai nào đó mà máy lọc chưa gặp bao giờ. Jabba đã phải mất gần 6 tiếng để điều chỉnh các máy lọc. Brinkerhoff sững người khi nghe Midge nói ra điều này: - Strathmore giận dữ. Ông ta đã bắt Jabba phải lắp đặt một thiết bị chuyển mạch vòng qua Gauntlet đề phòng trường hợp tương tự xảy ra - Midge nói thêm. - Chúa ơi! - Brinkerhoff kêu lên - Sao tôi không hề biết gì hết? Ý bà là gì? - Tôi nghĩ hôm nay Strathmore đã dùng thiết bị chuyển mạch đó để xử lý một file bị Gauntlet từ chối. - Vậy ư? Đây chính là mục đích sử dụng cái thiết bị chuyển mạch ấy, đúng không? Midge lắc đầu. - Không đúng nếu file đang bị nghi ngờ là một virus? Brinkerhoff dựng người. - Virus? Không ai nói gì về virus cả! - Đó là cách giải thích duy nhất - Midge tiếp lời. Jabba nói virus là lý do duy nhất khiến cho TRANSLTR vận hành lâu đến vậy, cho nên… - Đợi đã! - Brinkerhoff làm ra vẻ bình thản - Strathmore nói mọi thứ đều ổn cả.- - Ông ta nói dối. Brinkerhoff hoang mang. - Ý bà là Strathmore cố ý đưa virus vào TRANSLTR? - Không - Midge phản bác - Tôi không nghĩ ông ta biết cái file đó chính là virus. Tôi cho rằng ông ta đã bị lừa. Brinkerhoff không nói thêm được lời nào. Nhất định Midge Milken thật sự sai lầm rồi. - Cách giải thích này rất có lý - Midge quả quyết. - Nó lý giải tất cả những gì ông ta làm ở trong đó suốt đêm. - Tự cấy virus vào máy tính của mình ư? - Không! Cố gắng che giấu sai lầm của mình. Và bây giờ ông ta không thể huỷ lệnh vận hành TRANSLTR và lấy lại nguồn điện dự trữ bởi vì virus đã làm tất cả các bộ xử lý bị khoá! - Midge tức giận nói. Mắt Brinkerhoff mở thao láo. Trước kia Midge đã nhiều lần bị lú lẫn, nhưng chưa lần nào như thế này. Anh cố gắng trấn tĩnh Midge. - Có vẻ như Jabba không hề lo lắng. - Jabba là đồ ngu xuẩn - Midge rít lên. Brinkerhoff vẻ mặt đầy kinh ngạc. Chưa có ai dám gọi Jabba là đồ ngu xuẩn- đồ con lợn thì có chứ đồ ngu xuẩn thì chưa bao giờ. - Bà tin vào linh cảm phụ nữ hơn cả trình độ của Jabba về lập trình chống xâm nhập hay sao? Midge nhìn Brinkerhoff đầy tức giận. Brinkerhoff giơ tay đầu hàng. - Thôi được rồi. Tôi rút lại lời vừa nói - Không cân nhắc, Brinkerhoff đã biết về khả năng linh cảm tai hoạ phi thường của Midge. - Midge - anh ta hạ giọng - Tôi biết bà căm ghét Strathmore nhưng… - Vấn đề không liên quan gì đến Strathmore! - Midge được đà lấn tới - Điều đầu tiên chúng ta cần làm là xác nhận xem Strathmore có qua mặt Gauntlet hay không. Sau đó chúng ta sẽ gọi điện cho ngài giám đốc. - Được lắm - Brinkerhoff kêu lên. - Tôi sẽ gọi Strathmore và yêu cầu ông ta gửi cho chúng ta bản báo cáo đã được ký xác nhận. - Không - Midge đáp lại, lờ đi giọng chế nhạo của Brinkerhofí. - Ngày hôm nay Strathmore đã lừa dối chúng ta một lần - Midge đưa mắt nhìn lên, tìm kiếm ánh mắt của Brinkerhoff. - Anh có chìa khoá văn phòng của Fontaine không? - Đương nhiên là có. Tôi là trợ lý riêng của ông ấy mà. - Tôi cần chìa khoá đó. Brinkerhoff nghiêm mắt nhìn đầy vẻ hoài nghi. - Midge, tôi không thể để bà vào văn phòng của ngài Fontaine được. - Anh phải làm điều đó! - Miđge lên giọng yêu cầu. Bà ta quay lại và gõ gõ vào bàn phím máy chủ. - Tôi ra lệnh tìm đanh sách các tệp tin đợi giải mã bằng TRANSLTR. Nếu Strathmore điều khiển thủ công để qua mặt Gauntlet thì điều đó sẽ được hiển thị trong bản in. - Điều đó thì có liên quan gì đến phòng làm việc của ngài Fontaine? Midge quay người lại lườm Brinkerhoff. - Danh sách các hoạt động lần lượt của TRANSLTR chỉ in được ở máy in của ngài Fontaine thôi. Anh biết rõ điều đó! - Đó là vì nó đã được phân loại, Midge! - Đây là trường hợp khẩn cấp. Tôi cần xem danh sách đó. Brinkerhoff đặt tay lên hai vai Midge. - Midge, bình tĩnh nào. Bà biết thừa tôi không thể… Midge bực tức quay người trở lại phía bàn phím. - Tôi đang ra lệnh in danh sách đó. Tôi sẽ chỉ đi vào, lấy bản in rồi đi ra. Đưa chìa khoá đây cho tôi! - Midge…. Midge gõ lệnh xong rồi quay lại với Brinkerhoff. - Bản báo cáo chỉ in trong có 30 giây. Chúng ta thoả thuận. Anh đưa cho tôi chìa khoá. Nếu thực sự Strathmore đã qua mặt Gauntlet, chúng ta sẽ gọi ngay bảo vệ. Còn nếu tôi sai, tôi sẽ ra đi, và anh có thể làm gì thì làm - Mụ ta ném cái nhìn đầy thù hằn về phía Brinkerhoff và giơ tay ra chờ chìa khoá. Mụ ta nói - Tôi đang đợi đây. Brinkerhoff rên rỉ, hối hận vì mình đã gọi Midge quay trở lại để kiểm tra bản báo cáo Crypto. Anh ta đưa mắt nhìn cánh tay đang chìa ra trước mặt. Bà đang nói đến thông tin đã được phân loại trong máy chủ của ngài giám đốc. Thế bà không nghĩ ngộ nhỡ chúng ta bị bắt quả tang thì sao? - Ngài giám đốc đang ở Nam Mỹ. - Tôi xin lỗi. Tôi không thể - Brinkerhoff khoanh tay đi ra ngoài. Midge lườm theo, đôi mắt như muốn bốc cháy. - Ô không, anh có thể chứ - mụ ta lẩm bẩm. Nói rồi mụ quay lại với máy chủ và mở các file ghi hình ra xem. Midge sẽ bình tĩnh lại, Brinkerhoff vừa ngồi xuống bàn vừa tự nhủ và kiểm tra cẩn thận nốt phần còn lại của bản cáo cáo. Anh ta không thể nào đưa chìa khoá phòng giám đốc cho Midge khi mụ ta đang trong cơn điên được. Anh ta vừa mới bắt đầu công việc kiểm tra lỗi của COMSEC thì suy nghĩ bị cắt ngang bởi tiếng giọng nói vẳng ra từ phòng bên kia. Brinkerhoff ngừng tay và đi ra phía cửa. Cả dãy nhà chính chìm trong bóng tối - ngoại trừ một tia sáng xám đục, yếu ớt lọt ra từ phía cửa phòng mở hé của Midge. Anh ta lắng tai nghe. Giọng nói lại tiếp tục vang lên. Tiếng một vài người gọi to "Midge?" Không ai trả lời. Anh ta rảo bước xuyên qua bóng tối đi về nơi làm việc của Midge. Giọng nói nghe hơi quen quen. Brinkerhoff đẩy cửa vào. Căn phòng trống rỗng. Ghế của Midge trống không. Âm thanh vọng ra từ phía trên. Brinkerhoff nhìn lên máy ghi hình và trong giây lát thấy lạnh buốt xương sống. Tất cả 12 màn hình đều chiếu cùng một hình ảnh - giống như một điệu múa ba lê đã được dàn dựng sẵn. Brinkerhoff lùi dần về phía ghế ngồi của Midge, vừa quan sát vừa hoảng sợ. - Thế nào? - giọng nói cất lên ngay đằng sau. Brinkerhoff quay phắt người lại và cố nhìn vào bóng tối. Midge đang đứng trong góc khuất phía bên kia khu vực lễ tân của dãy nhà chính đối diện với cửa đôi của phòng giám đốc. Bàn tay mụ ta chìa thẳng ra. - Chìa khoá, Chad! - mụ hỏi Brinkerhoff. Brinkerhoff phát hoảng. Anh quay lại phía máy chủ, cố gắng ngắt những hình ảnh trên máy phát nhưng vô hiệu. Hình ảnh của anh ta có trên tất cả các màn hình, đang rên rỉ trong hoan lạc, tay mơn trớn hai bầu vú của Carmen Huerta. Chương 66 Becker đi qua phòng chờ của sân bay về phía dãy nhà vệ sinh nhưng chỉ nhìn thấy cánh cửa có khắc ở ngoài dòng chữ CABALLEROS (1) bị chặn bởi một cái tháp màu da cam và chiếc xe vệ sinh chất đầy chất tẩy rửa và giẻ lau sàn. Anh đưa mắt nhìn cánh cửa bên cạnh. DAMAS(2). Anh tiến lại gần và gõ mạnh vào cửa. - Có ai không? - anh gọi rồi hé mở cánh cửa phòng nữ - Cho phép tôi? Không có tiếng trả lời. Im lặng. Và anh bước vào. Phòng vệ sinh, vuông vắn như phòng làm việc, và đúng kiểu Tây Ban Nha, gạch lát màu trắng, bóng đèn sáng rực ngay trên đầu. Như mọi nhà vệ sinh khác, ở đây cũng có một bồn cầu và một bồn tiểu. Liệu những bồn tiểu trong phòng vệ sinh nữ có được người ta dùng đến hay không, không quan trọng - lắp cả hai bồn vào cùng một phòng góp phần làm giảm giá thành (người ta tiết kiệm được một phòng). Becker quan sát phòng vệ sinh vẻ ghê tởm. Căn phòng bẩn thỉu, dơ dáy. Bồn rửa bị tắc, nước bên trong nâu vàng, đục ngầu. Giấy chùi bẩn thỉu vung vãi khắp nơi. Dưới sàn ngập nước. Chiếc máy làm khô tay treo trên tường đã cũ kl, rỉ hoen, đay dấu vân tay và hơi ngả màu xanh lục. Becker đi đến trước gương và thở dài. Cặp mắt thường ngày luôn tinh anh, đêm nay không còn được như vậy nữa. Mình đã chạy đi chạy lại khắp nơi bao nhiêu lâu rồi nhỉ? Anh tự nhủ. Bài toán đã vuột khỏi tay anh. Quên hẳn thói quen của một giáo sư, anh hất chiếc cà vạt được thắt kiểu Windsor lên vai rồi quay lại bồn tiểu phía sau. Vừa đứng anh vừa băn khoăn tự hỏi không biết Susan đã về nhà chưa. Cô ấy có thể đi đâu được nhỉ? Chẳng lẽ cô ấy đi Stone Manor mà không có mình đi cùng ư? - Này! - Giọng của một phụ nữ phía sau anh vang lên giận giữ. Becker khựng người lại. - Tôi… Tôi đang… - Anh lắp bắp, vội vàng kéo khoá quần - Tôi xin lỗi… Tôi…. Becker quay người lại, đối diện với cô gái vừa bước vào. Cô gái còn trẻ, thuộc lớp người thời thượng, trông như vừa bước ra khỏi tờ tạp chí tuổi mười bảy. Cô ta mặc một chiếc quần kẻ sọc ô vuông, kín đáo và một chiếc áo cánh màu trắng, không có tay. Trên tay cô cầm một chiếc khăn len thô màu đỏ hiệu L. L. Bean. Mái tóc vàng của cô được chải sấy rất cẩn thận. - Tôi xin lỗi! - Becker cài lại thắt lưng. - Phòng nam bị… dù sao thì. Tôi đi ngay đây. - Mẹ kiếp! Đồ đở hơi! Becker giả bộ kinh ngạc. Những lời báng bổ, tục tĩu chui ra từ đôi môi cô gái có vẻ không hợp- như thể rác rưởi chui ra từ chiếc bình sạch sẽ, tao nhã. Nhưng khi Becker chăm chú quan sát cô ta, anh nhận thấy cô gái ấy không phải tao nhã và sạch sẽ như anh nghĩ lúc đầu. Đôi mắt cô ta sưng húp và đỏ ngầu, tay trái thì bị sưng tấy. Bên dưới vết tấy đỏ trên cánh tay, da thịt cô gái tái nhợt. Lạy chúa, Becker nghĩ thầm. Tiêm chích ma tuý chăng. Ai mà biết được? - Ra khỏi đây! - cô ta quát hét lên - Đi ra ngay! Trong giây lát, Becker bỗng quên đi tất cả, quên chiếc nhẫn, quên Cơ quan An ninh Quốc gia, tất cả mọi thứ. Tâm trí anh giờ đây chỉ tập trung vào cô gái trẻ kia. Có lẽ bố mẹ cô ta gửi cô ta sang đây với một khoá học dự bị nào đó và một thẻ VISA - còn cô ta ở đây, kết liễu cuộc đời bằng cách một mình trong phòng tắm giữa đêm khuya đế hút hít ma tuý. - Cô không sao chứ - Anh vừa hỏi vừa lùi lại đằng sau về phía cửa. - Tôi không làm sao hết - Giọng cô ta đầy vẻ ngạo mạn - Ông đi được rồi đấy! Becker quay người lại để đi. Anh nhìn cánh tay cô gái lần cuối với ánh mắt đầy vẻ thương hại. David, mày chẳng giúp gì được đâu. Để mặc cô ta - Anh ta nghĩ. - Đi ngay! - cô gái gào lên. Becker gật đầu. Anh vừa đi vừa nở nụ cười thương hại. - Hãy cẩn trọng. Chú thích: (1) Dành cho nam - tiếng Tây Ban Nha (Người dịch) (2) Dành cho nữ - tiếng Tây Ban Nha (Người dịch) Chương 67 - Susan? - Hale thở hổn hển, mặt cúi sát mặt cô. Anh ta ngồi, một chân kẹp bên sườn cô còn cả người đè lên cơ thể cô Xương cụt của anh ta chọc mạnh vào xương mu xuyên qua lớp vải mỏng khiến cô đau đớn. Mũi Hale nhỏ máu lên khắp người cô Susan cảm thấy buồn nôn trong cổ họng. Hai tay anh ta đè mạnh lên ngực cô. Susan vô cảm. Anh ta đang chạm vào cơ thể mình. Một lát sau Susan mới nhận ra Hale đang cài lại khuy áo ngực cho cô: - Susan! - Hale hốn hển, giọng gần như tắc thở - Cô phải đưa tôi ra khỏi đây. Susan đang trong tình trạng mê man, choáng váng. Cô không còn có cảm giác gì nữa. - Susan, cô phải giúp tôi! Strathmore đã giết Chartrukian! Tôi đã tìm thấy! Phải một hồi lâu sau những lời Hale nói mới lọt vào đầu Susan. Strathmore giết Chartrukian ư? Rõ ràng Hale không hề biết Susan đã nhìn thấy anh ta ở dưới tầng hầm. - Strathmore biết tôi đã nhìn thấy ông ta! - Hale khạc nhổ - Rồi ông ta cũng sẽ giết tôi! Nếu như Susan không bị nghẹt thở vì sợ hãi thì cô đã cười vào mặt anh ta rồi. Cô nhận rõ đòn tâm lý chia cắt-và-chinh phục của anh ta, một cựu lính thuỷ. Bịa đặt, dựng chuyện khiến cho quân của đối phương tự chia rẽ, mâu thuẫn với nhau. - Đó là sự thật! - Hắn gào lên - Chúng ta phải thoát khỏi đây! Tôi nghĩ cả hai chúng ta đều đang gặp nguy hiểm! Cô không hề tin những lời Hale nói, dù chỉ một từ. Đôi chân cơ bắp của Hale bị chuột rút, hắn gập người xuống, khẽ di chuyển cơ thể. Hale mở mồm, định nói điều gì đó nhưng không kịp. Khi người Hale nhấc lên, Susan cảm thấy vòng kìm kẹp đã lùi xuống phía chân cô. Trước khi cô kịp nhận thấy chuyện gì đã xảy ra, phản xạ bản năng đã thình lình khiến Susan co chân đạp mạnh vào háng Hale. Cô cảm nhận thấy đầu gối mình đập mạnh vào hạ bộ của Hale. Hale rên rỉ trong đau đớn và từ từ đổ gục. Anh ta gập người xuống một bên và cuộn tròn người lại đồng thời ôm lấy chỗ vừa bị Susan thúc phải. Susan xoay người thoát khỏi cái tấm thân bị thịt của Hale. Cô khập khiễng đi về phía cửa dù biết rằng mình không bao giờ đủ sức để đẩy cửa ra ngoài. Quyết định trong giây lát, Susan cúi xuống, tì người vào sau bàn họp và ấn mạnh chân xuống thảm. May thay, chiếc bàn có chân. Cô dồn hết sức lực đẩy bàn về phía bức tường kính hình vòng cung. Chân bàn phát huy tác dụng và chiếc bàn chuyển động dễ dàng. Đấy được nửa đường, cô gắng hết sức chạy nước rút. Cách bức tường kính chừng 16 mét, Susan gồng hết sức đẩy chiếc bàn và thả tay ra. Cô nhảy sang một bên rồi nhắm nghiền mắt lại. Sau tiếng kính đổ vỡ loảng xoảng, bức tường bị phá tung thành từng mảnh kính nhỏ. Lần đầu tiên kể từ khi xây dựng, mọi âm thanh của Crypto lọt được vào Node 3. Susan ngước nhìn lên. Qua lỗ hổng lởm chởm toàn thuỷ tinh sắc nhọn, cô nhìn thấy chiếc bàn. Nó vẫn đang trượt. Chiếc bàn xoay tròn một vòng rộng, trượt trên sàn nhà trung tâm Crypto và cuối cùng biến mất trong bóng tối. Susan dậm gót giày Ferragamo dưới chân, liếc nhìn Greg Hale đang quằn quại trên sàn và cô lao qua đống kính thuỷ tinh vỡ vụn, nhảy sang sàn Crypto. Chương 68 - Thế này chẳng phải dễ hơn sao - Midge nhếch mép khinh bỉ khi Brinkerhoff đưa cho mụ ta chìa khoá phòng làm việc của Fontaine. Brinkerhoff chán nản, quy xuống. - Tôi sẽ xoá đoạn phim hay trước khi ra về. Trừ khi anh và vợ anh muốn giữ nó để đưa vào bộ sưu tập riêng - Midge hứa. - Chỉ được lấy bản in chết tiệt đó thôi. Sau đó đi ra ngay! - Brinkerhoff giận dữ đáp lại. - Vâng, thưa ngài! - Midge chọc tức bằng thứ giọng đặc chất Puerto Rico. Mụ nháy mắt và đi thẳng về phía dãy nhà dẫn đến phòng của ngài Fontaine. Phòng làm việc riêng của Leland Fontaine trông chẳng có gì khác biệt so với những phòng còn lại trong khu nhà giám đốc. Ở đây không có tranh ảnh, không có ghế đệm, không cây cảnh, không có cả đồng hồ cổ. Không gian phòng của ông giám đốc được tố chức hợp lý và hiệu quả. Chiếc bàn kính và chiếc ghế da màu đen của ông được đặt ngay trước khung cửa sổ khổng lồ trông như một bức tranh. Ba chiếc tủ đựng tài liệu được dựng trong góc ngay cạnh một bàn nhỏ trên đãt một bình đựng cà phê ép của Pháp. Trăng đã lên cao quá nóc toà Fort Meade. Ánh trăng dịu nhẹ xuyên qua ô cửa sổ làm nổi bật nét bình dị của cách bài trí và nội thất phòng ông giám đốc. "Mình đang làm cái quái gì ở đây thế nhỉ?", Brinkerhoff băn khoăn tự nhủ. Midge bước lại gần máy in và chộp lấy danh sách. Mụ liếc mắt trong bóng tối. - Tôi không đọc được dữ liệu! - Midge phàn nàn. - Bật điện lên đi. - Bà ra ngoài rồi đọc. Nào đi thôi. Nhưng rõ ràng Midge đang cố tình giễu cợt. Mụ đùa giỡn với Brinkerhoff, mụ tiến về phía cửa sổ và nghiêng nghiêng bản in để đọc cho rõ. - Midge…. Mụ ta vẫn cứ đọc. Brinkerhoff tức giận đi về phía cửa ra vào. - Midge… đi thôi. Đây là khu vực riêng của ngài giám đốc. - Nó chỉ ở đâu đấy quanh đây thôi! - Mụ lẩm bẩm cầm bản in ngó ngó xem xem. - Strathmore đã qua mặt Gauntlet. Tôi biết mà - Midge tiến gần hơn về phía cửa sổ. Brinkerhoff bắt đầu toát mồ hôi. Còn Midge thì vẫn cứ đọc. Một vài phút sau mụ ta há hốc miệng nói: - Tôi biết ngay mà! Strathmore đã làm điều đó! Chính ông ta đã làm! Đồ ngu! - Mụ giơ tờ giấy lên, lắc lắc - Ông ta đã qua mặt Gauntlet! Nhìn xem! Brinkerhoff điếng người, lặng đi một hồi rồi sau đó chạy nhanh vào trong phòng ngài giám đốc đến bên cửa sổ nơi Midge đang đứng Midge chỉ vào cuối danh sách. Brinkerhoff nghi ngờ và đọc. - Cái này là…? Nội dung tờ giấy vừa in là danh sách của 36 file cuối cùng đã qua TRANSLTR để xử lý. Sau mỗi file đều có mã kiểm tra của Gauntlet gồm 4 số. Tuy nhiên file cuối cùng trên trang giấy không hề có mã kiểm tra - chỉ ghi mỗi dòng chữ. VẬN HÀNH THỦ CÔNG. Chúa ơi, Brinkerhoff ngẫm nghĩ. Midge lại cáu kỉnh. - Đúng là đồ ngu! - Midge sôi lên, giọng lắp bắp - Nhìn đây này? Gauntlet từ chối file 2 lần! Chuỗi kí tự tuần hoàn! Nhưng rồi ông ta vẫn qua mặt! Ông ta đang nghĩ cái quái gì thế? Brinkerhoff khuỵu gối. Anh ta băn khoăn không hiểu tại sao Midge luôn đúng. Cả hai người đều không để ý đến một bóng người chiếu từ đâu lại hiện trên cửa sổ bên cạnh họ. Một vóc dáng khổng lồ đang đứng ngay ở cửa ra vào phòng làm việc của Fontaine. - Sao? - Brinkerhoff hụt hơi - Bà cho rằng chúng ta bị virus ư? Midge thở dài: - Còn bị gì được nữa đây. - Bị gì thì cũng không phải việc của bà! - Giọng nói ồm ồm vang lên phía sau họ. Midge lùi lại phía sau và bị đập đầu vào cửa sổ. Brinkerhoff lật ngược chiếc ghế giám đốc và xoay lại về phía giọng nói kia. Ngay lập tức anh ta nhận ra bóng đen ấy. - Ngài giám đốc - Brinkerhoff thốt lên. Anh ta bước đến gần và đưa tay ra - Chào mừng ngài đã trở về nhà, thưa ngài. Người đàn ông có vóc dáng to lớn lờ đi hành động vừa rồi của Midge và Brinkerhoff. - Tôi… Tôi tưởng… - Brinkerhoff lắp bắp, rụt tay lại - Tôi tưởng ông đang ở Nam Mỹ. Leland Fontaine nhìn chòng chọc vào người trợ lý của mình với ánh mắt như dao: - Đúng thế… và giờ tôi đã trở về. Chương 69 - Này ông! Becker đã đi qua phòng chờ và tiến về phía bốt điện thoại tự động. Anh dừng bước và quay lại. Đằng sau anh chính là cô gái anh vừa bất ngờ gặp trong phòng vệ sinh. Cô gái vẫy tay ra hiệu cho anh đợi. - Thưa ông, đợi đã! Còn gì nữa đây? Becker rên rỉ. Cô ta muốn đòi tiền phạt vì tội xâm phạm quyền riêng tư của người khác ư? Cô gái kéo chiếc khăn len về phía anh. Khi chạy tới nơi, cô gái nở một nụ cười thật tươi. - Xin lỗi vì đã lớn tiếng với ông ở trong kia. Chỉ vì lúc đó ông làm tôi giật mình. - Không sao - Becker giọng chắc chắn, có phần hơi bối rối. - Tôi đã vào nhầm chỗ. - Điều tôi sắp nói có vẻ hơi điên rồ - cô gái cất lời, hấp háy cặp mắt đỏ ngầu - Nhưng nếu ông có chút tiền, có thể cho tôi vay được không, thưa ông? Becker chăm chú nhìn cô gái vẻ nghi ngờ. - Cô cần tiền làm gì - anh gặng hỏi. - Tôi không định cho cô tiền để cô mua ma tuý, nếu đó là thứ cô đang yêu cầu. - Tôi đang tìm cách trở về nhà. - Cô gái tóc vàng giải thích - Ông có giúp tôi được không? - Cô lỡ mất chuyến bay à? Cô gái gật đầu. - Tôi làm mất vé. Người ta không cho tôi lên máy bay. Bọn hàng không chết tiệt. Tôi không còn tiền để mua chiếc vé khác. - Cha mẹ cô ở đâu - Becker hỏi - Cô có liên lạc được với họ không? - Không. Tôi đã thử. Tôi nghĩ họ đang đi nghỉ cuối tuần trên một du thuyền nào đó. Becker đưa mắt nhìn trang phục đắt tiền cô gái đang mặc trên người. - Cô không có thẻ tín dụng à? - Có, nhưng bố tôi đã khoá thẻ rồi. Ông ấy nghĩ tôi bị nghiện. - Cô có nghiện không - Becker hỏi, mặt thần ra, mắt nhìn xuống cánh tay sưng đỏ của cô gái. Cô gái nhìn lại anh chằm chằm, giận giữ. - Tất nhiên là không! Cô ta chợt nổi cáu với Becker nhưng có vẻ không muốn làm hại anh. Anh chợt có cảm giác mình đang bị lừa phỉnh. - Thôi đi! - Cô gái nói - Trông ông có vẻ giàu có. Chẳng lẽ lại không thể cho tôi vay chút tiền đế đi về nhà hay sao? Tôi sẽ gửi trả lại ông sau. Becker tưởng tượng ra cảnh tiền của anh đưa cho cô ta sẽ bị nướng hết vào tay một kẻ buôn bán ma tuý nào đó ở Triana. - Thứ nhất - anh nói - Tôi không phải gã giàu có. Tôi chỉ là giáo viên. Nhưng tôi sẽ cho cô biết tôi sẽ làm gì bây giờ… Tôi sẽ không để cô lừa tôi, đó là điều tôi sẽ làm. Tại sao không để tôi trả tiền mua vé cho cô? Cô gái tóc vàng nhìn anh chằm chằm, có vẻ bị sốc. - Ông sẽ làm thế ư? - Cô ta lẩm bẩm, đôi mắt mở to đầy hy vọng - Ông sẽ mua vé cho tôi về nhà ư, ôi Chúa ơi, cảm ơn ông! Becker không nói được gì nữa. Rõ ràng vừa rồi anh đã đánh giá nhầm. Cô gái vòng tay quanh người anh. - Mùa hè vừa qua thật kinh khủng - giọng cô bé tức tối, chực oà khóc - Ôi, cảm ơn ông! Tôi cần phải thoát khỏi nơi này! Becker miễn cưỡng đáp lại cái ôm ghì chặt của cô bé. Cô gái buông anh ra, anh đưa mắt nhìn cánh tay cô. Cô nhìn theo ánh mắt anh vào chỗ sưng tấy màu hơi ngả xanh. - Mùi khó ngửi phải không? Becker gật đầu. - Tôi tưởng cô bảo không bị nghiện cơ mà. Cô gái cười lớn. - Đó là dấu ấn nhiệm màu! Tôi kì mạnh để cố xoá cái dấu đó đi. Mực này bẩn lắm. Becker xem ra gần gũi hơn. Dưới ánh đèn huỳnh quang, anh có thể nhìn thấy lờ mờ phía dưới chỗ tấy đỏ trên cánh tay cô gái, một vài nét mờ mờ của dòng chữ gì đó được viết nguệch ngoạc trên da. - Nhưng… nhưng còn mắt của cô - Becker cất tiếng, giọng anh trở nên lầm lì. - Cả hai mắt của cô đều đỏ. Tại sao vậy? Cô gái lại cười lớn. - Tôi vừa khóc. Tôi đã kể với ông rồi mà, tôi lỡ mất chuyến bay. Becker nhìn lại dòng chữ trên tay cô gái. Cô gái cau mày, vẻ bối rối. - Tiếc thật, nhưng mà ông vẫn đọc được dòng chữ này chứ? Becker cúi xuống gần hơn. Anh vẫn đọc được dòng chữ đó. Bức thông điệp rõ như ban ngày. Khi anh đọc đến 4 chữ mờ mờ kí ức về 12 giờ đồng hồ vừa qua chợt loé lên. David Becker nhớ lại lúc anh ở trong khách sạn Alfonso XllI. Gã người Đức béo phì một tay che cánh tay còn lại của hắn, phát âm tiếng Anh bập bẹ: XÉO ĐI ĐỒ KHỐN. - Ông không sao đấy chứ - cô gái hỏi, đưa mắt nhìn Becker. Becker không rời mắt khỏi cánh tay cô gái. Anh hoa mắt choáng váng. Bốn chữ lốm đốm, nhem nhuốc trên da cô gái cũng mang một thông điệp tương tự. XÉO ĐI ĐỒ KHỐN. Cô gái tóc vàng lại nhìn xuống, vẻ bối rối. - Bạn tôi đã viết mấy chữ đó đấy… rõ là ngốc, phải không?  Becker không nói được lời nào. XÉO ĐI ĐỒ KHỐN. Anh không thể tin nổi. Gã người Đức đã không chửi anh, gã chỉ cố gắng kệu cứu mà thôi. Becker rời mắt khỏi cô gái. Dưới ánh sáng huỳnh quang của phòng chờ, anh có thể nhìn thắy vết mờ mờ màu đỏ và xanh trên mái tóc vàng của cô gái. - Cô… cô.. - Becker lẩm bẩm, nhìn vào đôi tai chưa bấm lỗ khuyên của cô rồi hỏi - Cô có đeo khuyên tai không? Cô gái nhìn anh vẻ lạ lùng, ngạc nhiên. Cô gái lôi từ trong túi ra, một vật nhỏ rồi giơ lên. Becker nhìn chằm chằm vào mặt dây chuyền hình đầu lâu lủng lẳng trên tay cô. - Kẹp vào tai ư - Anh lẩm bẩm. - Quái thật, đúng rồi - cô gái đáp lại. - Tôi sợ những vật nhọn. Chương 70 David Becker đứng lặng người giữa không gian hoang vắng, sự tĩnh lặng của phòng đợi nhà ga, làm hai chân anh như muốn khuỵ xuống. Anh nhìn cô gái đang đứng trước mắt anh và ngay lúc này anh hiểu cuộc kiếm tìm vất vả bấy lâu đã kết thúc. Hoá ra cô gái đã gội đầu và thay đổi trang phục - có lẽ cô hy vọng làm thế vận may sẽ đến với cô và cô sẽ bán được chiếc nhẫn - thế nhưng cuối cùng cô vẫn không thể đáp được chuyến bay đi New York. Becker cố tỏ vẻ bình tĩnh, lạnh lùng. Chuyến công tác đầy phiêu lưu của anh đã đến lúc kết thúc. Anh đưa mắt nhìn ngón tay cô gái. Mười ngón tay trống trơn. Anh liếc nhìn chiếc túi len cô cầm trên tay. Chiếc nhẫn ở trong đây rồi, anh nghĩ thầm. Chắc chắn nó đang ở trong đó! Becker mỉm cười, vừa đủ để lộ rõ sự phấn khích của mình. - Điều tôi sắp nói nghe có vẻ điên rồ - anh lên tiếng - Nhưng tôi nghĩ cô đang có một thứ mà tôi cần. - Ồ! - Megan bỗng ngập ngừng nửa tin nửa ngờ. Becker thò tay vào túi rút ví ra. - Dĩ nhiên tôi sẵn sàng trả tiền cho cô để đổi lấy món đồ ấy - Anh cúi xuống và bắt đầu lục tìm đống tiền lẻ trong ví. Nhìn Becker đếm tiền, Megan bỗng cảm thấy nghẹt thở, hơi lo lắng và giật mình, rõ ràng cô ta đang hiểu nhầm ý định của anh. Ánh mắt đầy vẻ sợ hãi, cô liếc nhìn về phía cánh cửa xoay… áng chừng khoảng cách từ chỗ cô đứng đến đó. Khoảng 45 mét. Tôi sẽ cho cô đủ tiền để mua vé máy bay về nhà nếu… - Đừng nói nữa - Megan thốt lên, và cô cố nở một nụ cười gượng ép..Tôi biết thứ mà ông đang cần là gì rồi - Cô cúi xuống và thò tay vào chiếc túi len. Becker đầy hy vọng. Đúng là cô ấy có nó! Anh tự nhủ. Cô ấy có chiếc nhẫn! Anh không hiểu làm thế nào mà cô gái ấy lại biết được nó là thứ anh đang cần, nhưng điều đó không quan trọng, lúc này anh đã quá mệt mỏi và không còn sức để bận tâm tới chuyện đó nữa. Xương thịt anh rã rời. Anh bắt đầu tưởng tượng ra viễn cảnh lúc anh cầm chiếc nhẫn đưa tới trước mặt ngài phó giám đốc NSA với nét mặt rạng rỡ, tươi cười. Rồi sau đó anh sẽ cùng Susan nằm trên một chiếc giường vòm lớn ở biệt thự Stone và bù đắp cho những giờ phút cả hai vừa đánh mất. Cuối cùng cô gái cũng thấy thứ mà cô loay hoay tìm mãi từ nãy tới giờ - đó chính là hộp xịt hơi cay dùng để tự vệ - một loại vũ khí tấn công an toàn, không ảnh hưởng đến môi trường, làm bằng hỗn hợp ớt cay và hồ tiêu rất hiệu nghiệm. Nhanh như sóc, cô gái chạy một vòng quanh Becker và xịt thẳng hơi cay vào mắt anh. Rồi cô giật nhanh lấy cái túi và lao nhanh ra cửa. Khi cô ngoái lại thì Becker đã nằm trên sàn, hai tay ôm mặt quằn quại trong đau đớn.  

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#maikhiem