phao dai so4-27

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tiếng bíp của cánh cửa vào trung tâm Crypto kéo Susan về với thực tại. Cánh cửa đã mở hoàn toàn và sẽ đóng lại trong 5 giây nữa sau khi đã quay đủ 360o. Susan cố lấy lại thăng bằng và bước qua cửa. Một chiếc máy tính ghi lại việc cô đã bước vào. Dù đã làm việc ở Crypto được 3 năm ngay từ ngày nó bắt đầu đi vào hoạt động, cô vẫn bị choáng ngợp bới sự bề thế của nó. Chính tâm của Crypto là một gian phòng khồng lồ hình tròn có chiều cao tương đương với toàn bộ khu nhà năm tầng. Đỉnh vòm nhà trong suốt cao tới 120 feet. Vòm nhà làm bằng nhựa Plexiglas được bọc ngoài bằng tấm lưới polycarbonate - một loại lưới bảo vệ chịu được áp lực lên tới 2000 tấn. Qua những tấm kính lọc sáng, ánh nắng mặt trời trông như những viền đăng ten tưyệt đẹp dát trên các bức tường. Hệ thống chống ion hoá cực mạnh của vòm nhà làm những hạt bụi nhỏ li ti bị hút lên theo những đường xoắn trôn ốc. Nằm giữa sàn nhà, là một cỗ máy mà để chứa nó người ta đã phải xây cái vòm này trông như đầu một quả ngư lôi khồng lồ. Lớp vỏ đen bóng của nó vươn cao tới 7 mét, chưa kể phần thiết kế chìm dưới sàn nhà không thể nhìn thấy được. Với vỏ ngoài mềm mại và hình dáng cong cong, trông nó hơi giống một con cá heo to lớn đang tung mình khỏi mặt đại dương giá lạnh thì đột nhiên bị đông cứng. Đó chính là cỗ máy TRANSLTR, chiếc máy tính đặc biệt nhất và cũng là đắt tiền nhất trên thế giới - một cỗ máy mà NSA đã thề thốt với thế giới bên ngoài rằng nó không bao giờ tồn tại. Giống như một táng băng, 90 phần trăm khối lượng và sức mạnh của cỗ máy được ẩn chứa bên dưới sàn nhà. Bí mật của nó được bao bọc trong một toà tháp sứ cao tới 6 tầng chạy thẳng từ sàn nhà xuống - một kết cấu trông như quả rocket khổng lồ được bao quanh bằng một mê cung những lối đi nhỏ hẹp quanh co, những đường dây cáp, trong tiếng rít của hơi nước thoát ra từ hệ thống tản nhiệt dùng khí freon. Máy phát điện đặt bên dưới cỗ máy chỉ phát ra những âm thanh nhỏ, trầm và làm không gian bên trong Crypto luôn luôn tĩnh lặng đến rợn người. Sự ra đời của TRANSLTR, cũng như các thành tựu công nghệ vĩ đại khác, xuất phát từ yêu cầu thực tế. Trong những năm 80 của thế kỷ XX, một cuộc cánh mạng to lớn trong ngành viễn thông đã diễn ra và có khả năng thay đổi hoàn toàn thế giới tình báo - sự bùng nổ của Internet. Cụ thể hơn, đó chính là sự xuất hiện của thư điện tử. Bọn tội phạm, khủng bố, và các gián điệp ngày càng lo ngại hơn về khá năng những cuộc điện thoại của mình bị nghe lén và ngay lập tức đã chộp lấy loại phương tiện liên lạc toàn cầu này. Thư điện tử có độ bao mật ngang với thư tín thường và tốc độ truyền phát nhanh như điện thoại. Do các tín hiệu được truyền đi theo các đường ống cáp quang ngầm dưới đất chứ không phải theo các sóng trên không trung, chúng sẽ không bao giờ bị lấy cắp, hay ít nhất là người ta cũng nghĩ thế. Trên thực tế, việc đánh cắp thông tin từ những bức thư điện tử truyền đi trên Internet chỉ là trò trẻ con đối với các chuyên gia công nghệ của NSA. Mạng Internet thật ra không phải là một phát minh về máy tính dùng cho mục đích gia đình như nhiều người vẫn nghĩ. Ba thập kỷ trước, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã tạo ra nó - một mạng lưới máy tính khổng lồ được thiết kế đề đảm bảo việc liên lạc bí mật của chính phủ nếu chiến tranh hạt nhân nổ ra. Nhân viên của NSA chính là những chuyên gia Internet lõi đời. Những kẻ làm việc phi pháp dùng thư điện tử để liên lạc nhanh chóng hiểu ra những thông tin bí mật của chúng không được an toàn cho lắm. Cùng với sự giúp đỡ của các hacker đầy kinh nghiệm của NSA, FBI, DEA, IRS và các cơ quan quyền lực khác của Hoa Kỳ đã thực hiện thành công nhiều vụ bắt giữ và ngăn chặn kịp thời các âm mưu phạm tội. Tất nhiên khi những người sử dụng máy tính trên toàn thế giới phát hiện ra rằng chính phủ Hoa Kỳ có thể dễ dàng can thiệp vào việc trao đổi thư điện tử của họ, một làn sóng phản đối dữ dội đã nổi lên. Có những người chỉ dùng thư điện tử vào mục đích giải trí - kết bạn chẳng hạn - cũng cảm thấy sự riêng tư của họ bị đe doạ. Trên toàn cầu, các nhà lập trình chuyên nghiệp bắt đầu tìm cách làm thư điện tử trở nên bí mật hơn. Và họ đã không mất nhiều thời gian để tìm ra một phương pháp - chìa khoá mật mã đã ra đời. Chìa khoá mật mã công cộng là một phát kiến đơn giàn nhưng đầy tính trí tuệ. Đó chính là những phần mềm dùng cho máy tính gia đình, dễ sử dụng, có nhiệm vụ xáo trộn các chữ cái trong một bức thư điện tử thành một đoạn những ký tự sao cho người khác nhìn vào không thể đọc được. Người sử dụng chỉ cần viết một bức thư và cho chương trình xử lý. Sản phẩm đầu ra sẽ là một tập hợp những ký tự tưởng chừng được sắp xếp một cách ngẫu nhiên, hoàn toàn vô nghĩa - nói cách khác, nó đã trở thành một đoạn mã. Bất cứ ai lấy trộm được bức thư này cũng chi thấy trên màn hình hiện ra những dòng ký tự chẳng có ý nghĩa gì. Chỉ có một cách duy nhất để người nhận đọc được bức thư đã mã hoá là nhập vào "chìa khoá mật mã" - một tập hợp các chữ cái có chức năng giống các con số trong mã PIN của máy rút tiền tự động ATM. Các chìa khoá mật mã thường khá dài và phức tạp, chúng mang đầy đủ các thông tin cần thiết để giúp thuật toán mã hoá hiểu được các phép toán cần thực hiện để tái tạo lại bức thư gốc. Bây giờ. người dùng đã có thể tự tin gửi đi bức thư điện tử của mình. Kể cả người khác lấy cắp được bức thư thì họ cũng không thể đọc được thông tin bên trong nếu không có mật mã. Ngay lập tức NSA nhận ra mối đe doạ từ những phần mềm như thế này. Những đoạn mã họ phải giải được không còn là những con số được thay thế một cách đơn giản, có thể giải quyết chỉ với bút chì và giấy trắng được nữa. Chúng bây giờ đã là những hàm số phức tạp được máy tính tạo ra với những quy luật hỗn độn và các dòng ký tự, ký hiệu dài lê thê nhằm biến các lá thư thành những chuỗi ký tự ngẫu nhiên tưởng như không có cách nào khôi phục được. Thời gian đầu, những chìa khoá mật mã vẫn đủ ngắn để máy tính của NSA "đoán" được. Nếu chìa khoá có 10 con số, một chiếc máy tính đã được lập trình sẽ thử tất cả các khả năng từ 0000000000 tới 9999999999. Sớm hay muộn thì dãy số đó cũng sẽ được tìm ra. Phương pháp đoán thử - và - lỗi này còn được gọi là "tấn công bằng vũ lực" Dù mất thời gian song về mặt lý thuyết nó đảm bảo sẽ có hiệu quả. Khi mà thế giới đã phát triển hoàn thiện công nghệ bẻ khoá bằng phương pháp đoán thử này rồi thì các đoạn mã chìa khoá ngày càng trở nên dài hơn. Thời gian máy tính cần để đoán được chìa khoá tăng dần từ hàng tuần lên hàng tháng và cuối cùng là hàng năm trời. Tới những năm 90, các chìa khoá mật mã đã dài quá 50 ký tự và sử dụng toàn bộ bảng mẫu tự ASCII có 256 ký tự gồm các chữ cái, con số và ký hiệu. Tồng số các khả năng máy tính phải thử lên tới khoảng 10120 - tức 10 và 120 số 0 đằng sau. Trên thực tế, việc đoán trúng đoạn mã mong muốn chẳng khác gì tìm đúng một hạt cát giữa bãi biển dài 3 dặm. Người ta đã tính toán rằng để đoán thành công một chìa khoá chuẩn có dung lượng 64 bit, chiếc máy tính nhanh nhất của NSA = chiếc máy tối mật mang tên Cray/Josephson II- phải chạy trong 90 năm liên tục. Với tốc độ này. khi đã được bẻ khoá rồi thì nội dung bức thư cũng đã chẳng còn giá trị gì nữa. Trước tình hình hết sức u ám của các hoạt động tình báo. NSA đã ra một chỉ thị và được Tổng thống Hoa Kỳ phê chuẩn. Dưới sự hỗ trợ tài chính của ngân sách liên bang và được quyền làm tất cả những gì cần thiết để giải quyết vấn đề, NSA bắt tay vào thực hiện một điều không tưởng: thiết kế một cỗ máy giải mã toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Mặc dù vấp phải sự phản đối của nhiều kỹ sư cho rằng một cỗ máy như vậy là không thể chế tạo được, NSA vẫn tiến hành công việc với phương châm của mình: Không gì là không thể. Điều không thể chỉ làm mất thời gian hơn thôi. Sau 5 năm làm việc với nửa triệu giờ công và ngân sách tiêu tốn trị giá 1,9 tỉ đô la, một lần nữa. NSA chứng minh được phương châm của mình là đúng. Cái cuối cùng trong tập hợp 3 triệu bộ vi xử lý nhỏ bằng con tem đã được gắn vào vị trí trong một lớp vỏ sứ. TRANSLTR đã ra đời. Mặc dù cơ chế hoạt động bí mật bên trong TRANSLTR là sản phẩm của nhiều bộ óc và không một mình người nào hiểu rõ được nó, nguyên tắc cơ bản của cỗ máy thì thật đơn giản: Nhiều người cùng làm thì công việc sẽ nhẹ nhàng. Cả ba triệu bộ vi xử lý của cỗ máy cùng làm việc song song, kết quả của chúng được cộng dồn dần với một tốc độ chóng mặt để thử qua tất cả các tổ hợp gặp phải. Người ta hi vọng rằng kể cả những chìa khoá mật mã khổng lồ tới mức không tưởng nhất cũng phải chịu thua sự kiên trì của TRANSLTR. Kiệt tác điện tử trị giá hàng tỉ đô la này sử dụng sức mạnh của việc xử lý song song cùng với một số tiến bộ tối mật để phân tích văn bản gốc nhằm đoán ra chìa khoá mật mã và bẻ khoá bức thông điệp. Sức mạnh của nó không chỉ nằm ở con số khổng lồ các bộ vi xử lý mà còn ở những tiến bộ mới mẻ trong ngành máy tính lượng tử - một công nghệ đang phát triển cho phép thông tin được lưu trữ dưới dạng cơ khí lượng tứ chứ không chỉ ở dạng dữ liệu nhị phân. Khoảnh khắc được mong đợi đã tới, đó là vào một buổi sáng thứ 5 của tháng 10. Một ngày bão tố: Bài kiểm tra sát hạch đầu tiên. Dù chưa ai dám chắc cỗ máy sẽ xử lý nhanh tới mức nào, song tất cả các kỹ sư chế tạo đều nhất trí: nếu tất cả các bộ vi xử lý cùng hoạt động song song; TRANSLTR sẽ trở nên cực kỳ mạnh mẽ. Vấn đề là mạnh mẽ tới mức nào. Mọi người đã có câu trả lời chỉ sau 12 phút. Tất cả lặng đi sững sờ khi chiếc máy in bắt đầu bắt đầu hoạt động và cho ra bức thông điệp hoàn chỉnh - chìa khoá mật mã đã được phá. TRANSLTR đã đoán thành công đoạn mã dài 64 ký tự trong vòng chưa tới 10 phút, nhanh gấp gần 1 triệu lần cỗ máy hiện đại nhất của NSA 2 thập kỷ trước. Dưới sự chỉ đạo của phó tổng giám đốc điều hành, Trevor J. Strathmore - người được nhân viên dưới quyền gọi là "Ngài chỉ huy", Phòng sản xuất của NSA đã thành công rực rỡ. TRANSLTR là một thành tựu vĩ đại. Tuy nhiên, để giữ bí mật về thành công này, ngài chỉ huy ngay lập tức để "rò rỉ" thông tin ra ngoài rằng dự án đã hoàn toàn thất bại. Bây giờ tất cả các hoạt động của trung tâm Crypto là để cố gắng gỡ gạc lại 2 tỉ đô la đã phung phí. Chỉ có những nhân vật có vai vế trong NSA mới được biết sự thật: mỗi ngày TRANSLTR bẻ khoá hàng trăm bức thông điệp. Với tin đồn rằng các đoạn mã do máy tính tạo ra là không thể bị phá vỡ, kể cả tồ chức quyền lực nhất là NSA cũng phải bó tay - dòng thông tin bí mật từ bên ngoài đổ vào NSA ngày càng lớn. Những trùm buôn ma tuý, bọn khủng bố, bọn tham ô - tất cả những kẻ luôn luôn lo sợ cuộc nói chuyện qua điện thoại của mình có thể bị nghe lén - đều đổ xô vào sử dụng thư điện tử có mã hoá - công cụ liên lạc tức thì toàn cầu. Họ tưởng không bao giờ còn phải lo tới chuyện đối mặt với bồi thẩm đoàn, không bao giờ phải nghe lại giọng nói bị ghi lén của mình - bằng chứng của những cuộc đàm thoại bị thu lại bằng vệ tinh của NSA. Hoạt động tình báo chưa bao giờ dễ dàng đến thế. Những đoạn mã hoàn toàn vô nghĩa thu được, được nhân viên NSA nhập vào và TRANSLTR cho ra những đoạn văn bản hoàn toàn đọc được chỉ trong ít phút sau. Không còn điều gì là bí mật nữa. Để làm mọi người tin chắc hơn rằng mình đã thất bại, NSA phản đối một cách dữ dội sự ra đời của bất kỳ phần mềm mã hoá bằng máy tính mới nào. Lý do NSA đưa ra là những phần mềm này làm tê liệt các hoạt động của họ và khiến các nhà chức trách không thể bắt và truy tố những tên tội phạm. Các nhóm hoạt động nhân quyền hết sức vui mừng, tuyên bố rằng dù sao đi nữa NSA cũng không được phép xâm phạm thư tín của họ. Báo chí vẫn đưa tin đều đều về các phần mềm mã hoá. NSA đã thất bại - theo đúng cách mà họ mong muốn. Toàn bộ thế giới điện tử đã mắc lừa… hay ít ra thì cũng có vẻ như vậy. "Mọi người đâu cả rồi nhỉ" - Susan vừa tự hỏi vừa bước trên sàn nhà trung tâm Crypto lúc này không một bóng người. Có việc khẩn cấp mà thế này đây. Mặc dù hầu hết các phòng ban của NSA đều có đầy đủ nhân viên làm việc suốt 7 ngày trong tuần, song thứ Bảy thường vẫn là một ngày im ắng ở Crypto. Những nhà toán học mật mã vốn là những người cặm cụi làm việc tới mức căng thẳng, do đó có một luật bất thành văn là họ sẽ được nghỉ mọi thứ Bảy chỉ trừ trong trường hợp khẩn cấp. Đối với NSA, các chuyên gia bẻ khoá mật mã chính là những của quý mà họ không dám mạo hiểm đánh mất. Khi Susan đi ngang qua sàn nhà, bóng dáng to lớn của TRANSLTR hiện ra ở bên phải cô. Ngày hôm nay, tiếng động phát ra từ máy phát điện nằm 8 tầng bên dưới vang lên một cách kỳ lạ như báo trước điềm gì không may. Chưa bao giờ Susan thích ở lại Crypto sau giờ làm việc. Cảm giác khi đó giống như bị nhốt trong một cái lồng với những con quái vật quý hiếm tới từ tương lai. Cô mảo bước qua phía phòng ngài chỉ huy. Nằm trên đỉnh một hệ thống những cầu thang nhỏ ở phía sau Crypto, phòng làm việc có tường bằng kính của ngài Strathmore có biệt danh là "chậu cá" vì hình dáng của nó mỗi khi những tấm rèm được kéo lên. Vừa bước đi ken két trên cầu thang, cô vừa nhìn lên tấm cửa dày bằng gỗ sồi của căn phòng. Trên cánh cửa có hình con dấu của NSA - một con đại bàng trọc đầu dữ tợn quắp lấy chiếc chìa khoá kiểu ngày xưa. Ngòi đằng sau cánh cửa ấy là một trong những người đàn ông vĩ đại nhất mà cô từng biết. Năm nay đã 56 tuổi, chỉ huy Strathmore đối với Susan cũng giống như một người cha vậy. Ông là người đã tuyển dụng cô, và cũng là người đã khiến NSA trở thành mái nhà của cô. Mười năm trước, khi Susan gia nhập NSA, Strathmore còn là giám đốc Phòng phát triển Crypto - nơi đào tạo những chuyên gia mật mã nam. Mặc dù Strathmore chưa bao giờ dung thứ sự lạm dụng với bất cứ ai, ông đặc biệt quan tâm tới sự an toàn của nhân viên nữ duy nhất của mình. Khi bị hỏi về sự thiên vị này, ông chỉ trả lời đơn giản bằng một sự thật: Susan Fletcher chính là nhân viên tài năng nhất mà ông từng có, và ông không muốn để bất cứ ai quấy rối cô. Vậy mà có lần một gã chuyên gia đã dại dột thử đùa với quyết tâm của ngài chỉ huy. Một buổi sáng khi cô mới đi làm chưa được một năm, tình cờ Susan có việc phải ghé qua phòng của những anh chàng chuyên gia mật mã trẻ để lấy một số giấy tờ. Khi đi ra cô chợt nhìn thấy tấm ảnh của mình dán trên bảng tin cơ quan. Cô lập tức tái mặt đi vì xấu hổ. Bức ảnh chụp cô nằm trên giường thật khêu gợi với độc một chiếc quần lót. Khi mọi chuyện được làm rõ, hoá ra một anh chàng chuyên gia đã scan lại một tấm ảnh trên cuốn tạp chí dành cho người lớn và dùng phần mềm đồ hoạ cắt dán phần đầu của Susan lên thân người của một cô gái nào đó. Kỹ thuật ghép ảnh của anh này quả là tuyệt đỉnh. Không may cho anh chàng đó, ngài chỉ huy Strathmore không hề thấy trò đùa này có gì là đáng cười. Hai giờ sau, một thông báo được truyền ra: "NHÂN VIÊN CARL AUSTIN BỊ BUỘC THÔI VIỆC VÌ ĐÃ CÓ HÀNH VI XẤU". Kể từ đó trở đi, không còn ai dám chòng ghẹo gì cô nữa; Susan Fletcher đã trở thành cô gái vàng của ngài chỉ huy Strathmore. Nhưng Ngài Strathmore không chỉ được những chuyên gia mật mã trẻ tuổi dưới quyền kính trọng; trước đó, ông đã từng được cấp trên để ý tới nhờ việc đề xuất những hoạt động tình báo chưa từng có ai thực hiện nhưng lại rất hiệu quả. Khi được cất nhắc, ngài Trevor Strathmore lại được biết tới với khả năng phân tích ngắn gọn đầy sức thuyết phục của mình trong những tình huống rắc rối. Dường như ông có một khả năng phi thường để vượt qua những vấn đề phức tạp về đạo đức xung quanh các quyết định khó khăn của NSA và hành động hết sức quyết đoán vì đại cục. Không ai có thể nghi ngờ lòng yêu nước của ngài Strathmore. Đối với các đồng nghiệp, ông luôn được coi là một công dân trung thành với Tổ quốc và có tài nhìn xa trông rộng… một con người đứng đắn giữa thế giới đầy rẫy những lọc lừa. Trong những năm kể từ khi Susan gia nhập NSA, ngài Strathmore đã thăng cấp nhanh chóng từ giám đốc Phòng phát triển Crypto lên vị trí cao thứ nhì của toàn NSA. Giờ đây trong NSA chỉ có một người duy nhất đứng trên Ngài chỉ huy Strathmore - Giám đốc Leland Fontaine, vị chúa tể huyền thoại của Puzzle Palace - người chưa ai từng gặp, ít ai từng nghe nói tới, nhưng tất cả mọi người đều nể sợ. Rất ít khi ông này và ngài Strathmore gặp gỡ trực tiếp. Và cuộc gặp mặt của họ, nếu xảy ra, giống như khi những người khổng lồ chạm trán nhau. Ông Fontaine là một người khổng lồ trong những người khổng lồ, nhưng ngài Strathmore có vẻ như không lưu tâm tới điều đó. Ông nêu những ý kiến của mình và tranh luận với giám đốc bằng tất cả sự cẩn trọng của một võ sỹ quyền anh đang say sưa chiến đấu. Thậm chí tới Tổng thống Hoa Kỳ cũng không dám thách thức ông Fontaine theo cái cách mà ngài Strathmore đã thách thức. Để làm được điều này, một người phải có khả năng ""trơ" với các đe doạ chính trị; hay trong trường hợp của ngài Strathmore: thái độ lãnh đạm với chính trị. Susan đã tới đầu cầu thang. Cô chưa kịp gõ thì bộ khoá điện tử trên cánh cửa phòng ngài Strathmore đã kêu lên rì rì. Cửa bật mở, ngài chỉ huy vẫy tay gọi cô vào. - Cám ơn cô đã đến, Susan. Tôi nợ cô một lần nhé. - Không sao đâu ạ! - Cô cười và ngồi xuống đối diện bàn của ông. Ngài Strathmore là một người đàn ông có dáng cao, khá to béo. Những đường nét bên ngoài có thể khiến người ta không thể ngờ rằng ông luôn đòi hỏi hiệu quả làm việc và vươn tới sự hoàn thiện. Đôi mắt xám của ông cho thấy sự tự tin và cẩn trọng có được từ kinh nghiệm làm việc, nhưng hôm nay sao trông chúng dại đi và thật bất ổn. - Nhìn sếp mệt mỏi quá - Susan nói. - Ừ, không thể tệ hơn được - Ngài Strathmore thở dài. Câu ấy đáng lẽ phải để mình nói mới đúng chứ, cô nghĩ thầm. Chưa bao giờ Susan thấy ngài Strathmore trong tình trạng tồi tệ đến thế. Mái tóc mỏng màu xám của ông rối bù; mồ hôi trên trán ông vẫn nhỏ thành từng giọt mặc dù phòng đang chạy máy lạnh. Bộ comple của ông nhàu nát như vừa bị dùng làm bộ đồ ngủ vậy. Ông ngồi sau một chiếc bàn hiện đại với hai ngăn kéo bàn phím và một màn hình máy tính. Căn phòng trông như một bãi chiến trường với những tờ giấy in từ máy tính ra vứt bừa bãi. - Tuần này vất vả vậy sao, thưa sếp? - cô hỏi. Ngài Strathmore nhún vai. - Cũng bình thuullg thôi. EFF lúc nào cũng vây quanh tôi với hàng đống giấy tờ về quyền riêng tư công dân. Susan lặng lẽ cười. EFF, Quỹ Mặt trận Điện tử (Electronics Frontier Foundation), là một liên minh toàn cầu của những người sử dụng máy tính. Họ đã lập nên một liên minh đòi quyền tự do công dân hết sức mạnh mẽ nhằm ủng hộ quyền tự do ngôn luận trên mạng Internet và tuyên truyền những người khác về tình hình thực tế và những mối đe doạ khi sống trong một thế giới điện tử. Tổ chức này liên tục vận động chống lại cái mà họ gọi là "khả năng nghe trộm thông tin trong một chế độ chuyên chế của các cơ quan chính phủ" - đặc biệt là NSA. Thực sự EFF là một cái gai cần nhổ trong mắt ngài Strathmore. - Có vẻ cũng giống như thường lệ thôi mà - cô nói - Vậy cái vụ "cực kỳ khẩn cấp" mà sếp khiến tôi phải rời khỏi bồn tắm để tới đây là gì thế? Ngài Strathmore im lặng, lơ đãng xoa xoa cái đế tròn của chiếc máy tính được gắn trên bàn làm việc. Hồi lâu, ông nhìn thẳng vào Susan và hỏi: - Thời gian lâu nhất mà cô đã từng thấy TRANSLTR cần để bẻ khoá mật mã là bao nhiêu? Câu trả lời hoàn toàn làm Susan bất ngờ. Nó có vẻ chẳng có nghĩa lý gì cả. Chẳng lẽ vì nó mà cô được gọi tới đây sao? - Ồ - Cô ngập ngừng - Cách đây mấy tháng bên COMINT đã chuyển cho chúng ta một đoạn mã mà phải mất khoảng một giờ mới phá được. Nhưng đoạn mã đó dài tới mức hài hước - khoảng 10 nghìn bit gì đó. Ngài Strathmore lẩm bẩm. - Một giờ à? Thế còn một số khảo sát biên mà chúng ta đã thực hiện thì sao? Susan nhún vai. - À, nếu sếp tính cả quá trình khảo sát thì rõ màng là lâu hơn rồi. - Lâu hơn là bao nhiêu? Susan không thể tưởng tượng được Strathmore đang muốn đề cập tới vấn đề gì. - Ồ, thưa ngài, tháng 3 năm ngoái tôi phải giải quyết một chìa khoá dài một triệu bit có phân đoạn. Dù nó gồm hàm lặp sai quy tắc, các cơ chế làm việc có nhiều lỗi song TRANSLTR vẫn phá được. - Trong bao lâu? - Ba giờ đồng hồ. Ngài Strathmore nhướng mày. - Ba giờ? Lâu thế cơ à? Susan cau mặt hơi tự ái. Đã 3 năm nay, công việc của cô là tinh chỉnh cỗ máy bí mật nhất trên thế giới này; hầu hết các chương trình giúp TRANSLTR chạy nhanh tới như thế là do công của cô. Và trên thực tế thì chẳng mấy khi có đoạn mã dài một triệu bit xuất hiện. - Thôi được - ngài Strathmore nói - Vậy là kể cả trong điều kiện khó khăn nhất, thời gian một đoạn mã trụ lại trong TRANSLTR tối đa là 3 giờ? Susan gật đầu. - Vâng, có thể xê dịch đôi chút. Ngài Strathmore ngừng lại như thể sợ điều sắp nói ra sẽ làm ông phải hối tiếc. Cuối cùng ông nhìn lên. - TRANSLTR đã gặp phải thứ gì đó… - ông không nói nữa. Susan chờ đợi. - Lâu hơn 3 giờ ư? Ngài Strathmore gật đầu. Cô nhìn có vẻ không quan tâm lắm. - Một khảo sát mới à? Lại từ Phòng An ninh hệ thống phải không ạ? Ngài Strathmore lắc đầu: - Đó là một file từ bên ngoài. Susan đợi ngài chỉ huy nói tiễp câu chốt của một câu chuyện cười nhưng ông chẳng nói gì hết. - Một file từ bên ngoài à? Ngài có đùa không đấy? - Đùa được thì đã tốt. TRANSLTR bắt đầu xử lý nó từ khoảng 11h rưỡi đêm qua mà đến giờ vẫn chưa phá được..  Susan như cứng lưỡi lại. Cô hết nhìn đồng hồ đeo tay rồi lại nhìn lên ngài Strathmore. - Vẫn chưa phá được à? Hơn 15 giờ đồng hồ rồi? Strathmore vươn người về phía trước xoay màn hình lại phía Susan. Trên nền màn hình chỉ có một màu đen ngòm trừ ô chữ nhỏ màu vàng nhấp nháy ở giữa. THỜI GIAN XỬ LÝ: 15:09:33 CHÌA KHOÁ CẦN TÌM:… Susan nhìn vào sửng sốt. Rõ ràng TRANSLTR đã làm việc liên tục hơn 15 giờ đồng hồ chỉ với một đoạn mã này. Cô biết chiêc máy tính có thể thử 30 triệu khoá trong vòng 1 giây - tức là 1 trăm tỷ mỗi giờ. Nếu TRANSLTR vẫn đang làm việc, có nghĩa là chìa khoá mật mã phải hết sức khổng lồ - dài tới hơn 10 tỷ số. Thật điên rồ. - Không thể như thế được! - cô hét lên - - Sếp đã kiếm tra xem có lỗi không chưa? Hay TRANSLTR gặp trục trặc gì đó khi vận hành? - Mọi điều kiện vẫn bình thường. - Nhưng thế thì đoạn mã quá lớn…! Ngài Strathmore lắc đầu. - Một thuật toán thương mại chuẩn thôi. Chắc là 64 bit. Không hiểu chuyện gì đang xảy ra, Susan nhìn qua cửa sổ xuống cỗ máy TRANSLTR bên dưới. Với kinh nghiệm của mình, cô biết rằng nó có thể giải quyết một đoạn mã 64 bit trong chưa đầy 10 phút. - Phải tìm cách giải thích hiện tượng này thôi! Ngài Strathmore gật đầu. - Có rồi đấy. Nhưng chắc không làm cô ưng ý đâu. Nhìn Susan có vẻ bực bội. - TRANSLTR bị hỏng? - TRANSLTR vẫn bình thường. - Hay nó dính virus? Ngài Strathmore vẫn lắc đầu. - Không phải virus đâu. Hãy nghe tôi đây này. Susan vẫn chưả hết sửng sốt. Chưa bao giờ TRANSLTR mất quá một giờ để giải quyết một đoạn mã. Thường thì đoạn văn bản sẽ được bẻ khoá hoàn chỉnh và đưa tới máy in của ngài Strathmore chỉ sau vài phút. Cô liếc nhìn về phía chiếc máy in tốc độ cao phía sau bàn ông. Chẳng có gì ở đó cả. - Susan… - Ngài Strathmore khẽ nói - Điều này chắc là đầu tiên sẽ khó chấp nhận, nhưng cứ lắng nghe tôi một chút nhé - ông cắn môi - Đoạn mã mà TRANSLTR đang cố giải ấy, nó chỉ có một không hai. Nó không giống với bất kỳ đoạn mã nào chúng ta từng gặp trước đây - ông ngập ngừng, dường như không thể nói được những từ định nói. - Đoạn mã này là không thể phá vỡ…  Susan nhìn ông chăm chú và gần như cười phá lên. Không thế phá vỡ? KHÔNG THỂ nghĩa là sao? Trên đời này không có đoạn mã nào là không thể phá vỡ - có những đoạn có thể mất nhiều thời gian hơn, nhưng tất cả đều có thể phá được. Lý thuyết toán học đã chứng minh sớm hay muộn thì TRANSLTR cũng sẽ đoán trúng chìa khoá cần tìm. - Sếp nói gì cơ ạ? - Đoạn mã này là không thể phá được - Ông nhắc lại rõ ràng. "Không thể phá được?" Susan không thế tin được những từ như thế vừa được phát ngôn từ một người đã có 27 năm kinh nghiệm phân tích mật mã. - Không thể phá được ư, thưa sếp - cô nói vẻ bực bội - Thế còn Nguyên lý Bergofsky thì sao? Ngay từ khi mới đi làm Susan đã được học về Nguyên lý Bergofsky. Đây là nền tảng của công nghệ đoán thử - và - lỗi. Nó đồng thởi cũng là động lực để ngài Strathmore chế tạo TRANSLTR. Nguyên lý này phát biểu rõ ràng rằng nếu một máy tính thử đủ số lượng chìa khoá có khả năng thì đảm bảo là về mặt toán học, nó sẽ tìm được chìa khoá cần tìm. Sự an toàn của một mật mã không phải ở chỗ người ta không tìm được chìa khoá của nó mà là hầu hết mọi người không có đủ thời gian và thiết bị để thử tất cả các khả năng. Ngài Strathmore lắc đầu: - Nhưng đoạn mã này thì khác. - Khác à? - Susan nhìn ngài chỉ huy đầy vẻ ngờ vực. Về mặt toán học, không thế tồn tại một đoạn mã không thế phá vỡ mà! Ông ấy biết điều đó! Ngài Strathmore đưa tay lau mồ hôi trên đầu. - Đây là sản phẩm của một thuật toán mã hoá hoàn toàn mới - một thuật toán mà chúng ta chưa thấy bao giờ. Bây giờ Susan nhìn có vẻ còn hoang mang hơn nữa. Các thuật toán mã hoá chỉ là các công thức toán học, các phương pháp biến một đoạn văn bản thành một đoạn mã. Ngày nào các nhà toán học và các lập trình viên cũng tạo ra những thuật toán mới. Số lượng chúng trên thị trường có tới hàng trăm loại: PGP, Diffie-Hellman, ZIP, IDEA, El Gamal. Công việc của TRANSLTR là bẻ khoá chúng hàng ngày, không có vấn đề gì cả. Đối với TRANSLTR tất cả các đoạn mã đều như nhau, bất kể chúng được viết bằng thuật toán nào. - Tôi không hiểu - cô phân trần. - Chúng ta không nói tới việc thiết kế đối chiếu một số hàm phức tạp, chúng ta nói về thử - và - lỗi. Tất cả các loại thuật toán PGP, Lucifer, DSA-không có vấn đề gì. Thuật toán cứ việc sản xuất ra những chìa khoá mà chúng nghĩ là an toàn, còn nhiệm vụ của TRANSLTR là kiên trì đoán cho tới khi ra thì thôi. Ngài Strathmore trả lời với vẻ bình tĩnh của một ông thầy nhiều kinh nghiệm. - Đúng rồi, Susan, TRANSLTR luôn tìm được chìa khoá - kể cả nó có lớn đến mấy đi nữa - ông ngừng một khoảnh khắc.. - Chỉ trừ khi… Susan rất muốn chen vào, nhưng rõ ràng ngài Strathmore đang chuẩn bị nói một điều gì đó hết sức kinh khủng. Trừ khi gì? - Trừ khi cỗ máy không biết khi nào đoạn mã đã được phá. Susan choáng váng, suýt ngã khỏi ghế. - Cái gì? - Trừ khi máy tính đã đoán đúng chìa khoá song nó vẫn tiếp tục hoạt động bởi không biết rằng mình đã đoán đúng. - Nhìn ngài Strathmore thật thê thảm. - Tôi nghĩ thuật toán này đã tạo ra một văn bản gốc tuần hoàn. Susan há hốc miệng. Ý tưởng về văn bản gốc luân hồi lần đầu tiên xuất hiện trong một nghiên cứu rất khó hiểu thực hiện năm 1987 bởi một nhà toán học người Hungary tên là Josef Harne. Do các máy tính sử đụng phương pháp đoán thử - và - lỗi để phá mã bằng cách phân tích các đoạn văn bản gốc để tìm ra những tố hợp từ có nghĩa, Hame đã đề xuất một thuật toán mã hoá mà ngoài việc mã hoá còn có nhiệm vụ gắn đoạn văn bản gốc đã được bẻ khoá vào một biến số thời gian. Trên lý thuyết, vòng tuần hoàn bất tận này đảm bảo máy tính tấn công sẽ không thể nhận ra các tổ hợp từ có nghĩa và do đó sẽ không biết được khi nào nó đã tìm đúng chìa khoá. Ý tướng này phần nào cũng giống với việc chinh phục sao Hoả - có thể thực hiện về mặt lý thuyết nhưng còn vượt xa khả năng con người trong hiện tại. - Sếp lấy thứ này ở đâu vậy? - cô hỏi. Ngài chỉ huy chậm rãi trả lời. - Một lập trình viên bên ngoài đã viết nó. - Cái gì cơ - Susan lại ngồi phịch xuống ghế của mình. - Chúng ta đã có những lập trình viên giỏi nhất thế giới làm việc dưới kia rồi. Tất cả chúng ta cùng làm việc và chưa có ai tiếp cận được phương pháp viết một đoạn văn bản gốc tuần hoàn cả. - Có phải ngài định nói có một gã vớ vẩn nào đó với một chiếc máy tính đã tìm ra cách viết không? Ngài Strathmore hạ giọng, nhằm cố gắng làm cô bình tĩnh trở lại: - Tôi không định coi người này là vớ vẩn đâu. Susan như không lắng nghe ông. Cô vẫn tin rằng phải có vấn đề gì đó đã xảy ra: máy móc bị trục trặc, một con virus, hay bất cứ thứ gì trừ một đoạn mã không thế phá vỡ. Ngài Strathmore nghiêm nghị nhìn cô. - Đoạn mã này được viết nên bởi một trong những tài năng mật mã thông minh nhất mọi thời đại. Chưa bao giờ Susan hoang mang đến thế; tất cả những tài năng mật mã hoá thông minh nhất mọi thời đại đã và đang làm việc trong cơ quan cô, và cô rõ ràng là chưa bao giờ nghe nói tới một thuật toán nào như thế này. - Ai vậy? - cô hỏi ngài chỉ huy. - Tôi chắc là cô đoán được mà - Ngài Strathmore nói. - Anh ta, không thích NSA lắm đâu. - Ồ thế thì cũng ít thôi! - cô nói vẻ châm biếm. - Anh ta đã từng làm việc cho dự án TRANSLTR. Chính tôi đã phải sa thải anh ta vì vi phạm nguyên tắc làm việc và gần như gây ra một cơn ác mộng cho ngành tình báo. Khuôn mặt Susan trở nên vô cảm trong một tích tắc trước khi trắng bệch đi. - Lạy Chúa tôi… Ngài Strathmore gật đầu. - Suốt ngày anh ta khoe khoang về công trình của mình nhằm tìm ra một thuật toán khống chế được phương pháp đoán thử - và - lỗi. - Như… Nhưng mà… - Susan lắp bắp không nên lời. - Tôi nghĩ hắn chỉ khoác lác thôi. Hắn làm được thật ư? - Anh ta đã làm được. Anh ta chính là người viết nên những đoạn mã mãi mãi không thể bị phá vỡ. Susan lặng đi một lúc. - Nhưng… thế nghĩa là… Ngài Strathmore nhìn thẳng vào mắt cô lạnh lùng. - Đúng thế. Chính Ensei Tankado đã vô hiệu hoá TRANSLTR. Dù không sống trong thời gian của Thế chiến II, song Ensei Tankado vẫn nghiên cứu kỹ lưỡng về nó, nhất là sự kiện đỉnh điểm, quả bom nguyên tử được ném xuống khiến 100.000 người ở nước anh ta bị chết thiêu chỉ trong giây lát. 8h 15 phút sáng ngày 6 tháng 8 năm 1945 ở Hiroshima là thời điểm của một hành động tàn sát dã man. Một sự phô trương sức mạnh vô đạo lý của một đất nước trước đó đã giành thắng lợi trong cuộc chiến. Tankado chấp nhận tất cả những điều đó. Nhưng điều anh ta không thể chịu đựng được là quả bom đã làm cho anh ta không bao giờ được nhìn thấy khuôn mặt thân mẫu của mình. Bà đã chết khi sinh hạ anh ta do những biến chứng của sự nhiễm xạ mà bà phải hứng chịu nhiều năm trước đó. Năm 1945, trước khi Ensei được sinh ra, mẹ anh ta, cũng giống như nhiều người bạn khác, đã tình nguyện tới Hiroshima làm việc trong các trung tâm hạt nhân. Chính tại nơi đây bà đã trở thành một trong những hibakusha - những người bị nhiễm xạ. 19 năm sau đó, khi nằm trong phòng đẻ và bị băng huyết ở tuổi 36, bà biết rằng mình đã sắp tới lúc tận mạng. Nhưng có một điều bà không biết là cái chết còn gieo cho bà một nỗi thống khổ cuối cùng nữa - đứa con duy nhất của bà đã bị dị tật ngay từ khi sinh ra. Cha anh ta thậm chí còn chưa bao giờ nhìn mặt Ensei. Suýt phát điên vì mất vợ và tủi thẹn khi được y tá thông báo rằng con trai mình bị dị tật, khó sống qua đêm đó, ông bỏ đi khỏi bệnh viện và không bao giờ quay lại. Ensei Tankado đã được nuôi dạy trong một gia đình đỡ đầu. Hàng đêm, chú bé Tankado lại nhìn xuống những ngón tay bị xoắn vào nhau của mình đang nắm chặt con búp bê hình Bồ đề bạt ma và thề rằng sau này sẽ trả thù - trả thù lại đất nước đã cướp đi mẹ anh ta và làm bố anh ta phải tủi hổ đến mức bỏ rơi anh ta. Nhưng anh ta không biết rằng định mệnh đã can thiệp vào cuộc đời mình. Tháng 2 năm Ensei được 12 tuổi, một công ty sản xuất máy tính ở Tokyo gọi điện cho gia đình đỡ đầu anh ta và hỏi xem liệu đứa bé què quặt của họ có thế tham gia chương trình thử nghiệm một loại bàn phím mà công ty đã phát triển dành cho trẻ em tàn tật hay không. Gia đình đỡ đầu anh ta đã đồng ý. Dù chưa nhìn thấy máy tính bao giờ, song dường như bản năng đã mách bảo Ensei Tankado biết cách sử dụng nó. Chiếc máy tính đã mở ra một thế giới mới lạ mà anh ta chưa từng biết tới. Và nó đã gắn chặt cuộc đời anh ta. Khi lớn lên, anh ta đi dạy, kiếm tiền, và cuối cùng giành được học bổng của Đại học Doshisha. Không lâu sau Ensei Tankado đã trở nên nổi tiếng toàn Tokyo là một thiên tài trong bộ dạng tàn tật. Sau này, Tankado được đọc các tài liệu về trận Trân Châu Cảng và những tội ác chiến tranh của Nhật Bản. Lòng căm hờn đối với nước Mỹ của anh dần phai mờ, anh ta trở thành một tín đồ Phật giáo sùng đạo. Anh ta quên đi lời thề trả thù thủa thơ ấu; tha thứ là cách duy nhất để được siêu thoát. Năm 20 tuổi, Ensei Tankado trở thành một hình mẫu lý tưởng của các chuyên viên lập trình. Hãng IBM cấp cho anh ta một tấm visa và một vị trí làm việc ở Texas. Lập tức Tankado đã nắm lấy cơ hội. Ba năm sau anh ta đã rời bỏ IBM, đến sống ở New York và tự viết phần mềm. Anh đã vẽ ra một hướng đi mới cho việc mã hoá bằng khoá công khai. Cũng chính anh đưa ra các thuật toán giải mã và trở nên phát tài. Giống như đối với nhiều bậc thầy về thuật toán mật mã khác, đối với Tankado, NSA là một nỗi khao khát không thể cưỡng lại. Thật trớ trêu đây lại chính là cơ quan đầu não của chính đất nước anh đã từng một thời căm ghét đến tận xương tuỷ. Anh ta quyết định đến phỏng vấn và mọi nỗi nghi ngờ đều tan biến ngay khi anh gặp chỉ huy Strathmore. Họ bộc bạch với nhau về thân thế của Tankado, về sự dị ứng của anh ta với chính phủ Mỹ, về những dự tính cho tương lai của anh. Tankado phải tham dự một bài thi về đồ thị đơn và trải qua năm tuần trắc nghiệm tâm lý hết sức căng thẳng và đã vượt qua tất cả. Lòng căm thù Mỹ trong anh từ lâu đã trở thành sự tận tâm đối với Đức Phật. Bốn tháng sau đó, Ensei Tankado bắt đầu làm việc tại phòng mật mã Cơ quan An ninh Quốc gia. *** Dù đồng lương cũng ra tấm ra món, nhưng ngày ngày Tankado vẫn đi làm trên chiếc xe đạp cà tàng, và một mình ngốn cho hết hộp cơm mang theo, thay vì ăn sườn và súp khoai tây tại nhà ăn với mọi người. Những nhân viên mật mã khác tôn sùng anh ta. Trong con mắt họ, Tankado là lập trình viên xuất sắc nhất trên đời. Tử tế, chân thành trầm tĩnh,Tankado là một chuẩn mực đạo đức. Đối với Tankado sự toàn vẹn về tinh thần luôn là một điều rất quan trọng. Cũng chính vì thế, việc anh bị sa thải và sau đó bị trục xuất khỏi NSA đã từng là một cú sốc đối với mọi người. Giống như tất cả những nhân viên khác của phòng mật mã, Tankado hiểu rằng nếu dự án TRANSLTR thành công thì nó sẽ chỉ được sử dụng để giải mã thư điện tử nếu Bộ Tư pháp phê duyệt. Điều này cũng giống như FBI cần giấy phép của toà án liên bang để lắp đặt hệ thống nghe trộm điện thoại. TRANSLTR sẽ được cài đặt một phần mềm yêu cầu sử dụng các mật mã, được qui định theo thoả thuận giữa Cục Dự trữ Liên bang và Bộ Tư pháp, để giải mã các tệp tin. Chương trình này sẽ ngăn chặn việc NSA nghe lén các cuộc nói chuyện riêng tư của những công dân luôn sống và làm việc theo pháp luật trên toàn cầu. Tuy nhiên, khi bắt tay vào lập trình, các nhân viên lập trình TRANSLTR đã được thông báo rằng có một sự thay đối trong kế hoạch. Do sức ép thời gian của công việc chống khủng bố của NSA, TRANSLTR trở thành một thiết bị mã hoá nội bộ và chỉ duy nhất NSA điều tiết hoạt động của nó. Việc này làm Ensei Tankado tức đến phát điên lên. Như thế, có nghĩa là NSA có thể mở bất kì một lá thư nào và sau đó đóng lại mà không ai phát hiện được. Như thế cũng giống như việc gắn một thiết bị nghe trộm vào mọi chiếc máy điện thoại trên thế giới. Strathmore cố gắng hết sức thuyết phục Tankado tin rằng TRANSLTR là một thiết bị không vi phạm pháp luật, nhưng điều này chẳng ích gì, Tankado vẫn kiên quyết rằng đó là một sự vi phạm nhân quyền trắng trợn. Tankado bỏ việc ngay lập tức. Anh ta đã vi phạm qui tắc bảo mật của NSA khi cố gắng liên lạc với EFF trong vòng vài giờ sau khi bỏ việc. Tankado dự định gây sốc cả thế giới bằng thông tin về sự tồn tại của một hành động vi phạm nhân quyền trắng trợn của một chính. NSA không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải ngăn chặn anh ta. Việc Tankado bị bắt giữ và trục xuất được thông báo liên tục trên các phương tiện trực tuyến, thực sự là một sự lăng mạ công khai. Trái với mong muốn của Strathmore, các chuyên gia xử lý tình huống của NSA vì lo ngại Tankado sẽ làm lộ bí mật về sự tồn tại của TRANSLTR đã tung nhiều tin đồn xấu nhằm phá huỷ uy tín và danh tiếng của Tankado. Ensei Tankado bị cô lập với giới lập trình trên toàn cầu - không ai tin một lập trình viên quèn đang bị buộc tội làm gián điệp, nhất là khi anh ta đang ra sức mua lại sự tự do cho mình bằng cách rêu rao về một chiếc máy bẻ khoá mật mã bí mật của chính phủ Mỹ. Điều kì quặc nhất là dường như Tankado hiểu rằng đó là một phần trong trò chơi tình báo này. Anh không hề tỏ ra giận dữ, mà đầy quyết tâm. Khi bị nhân viên an ninh giải đi, Tankado nói những lời cuối cùng với Strathmore với sự bình ớnh đến ớn lạnh. - Tất cả chúng ta đều có quyền giữ bí mật. Một ngày nào đó tôi sẽ khiến chúng ta có thể có quyền đó.   Chương 7 Susan cảm thấy đầu óc đang quay cuồng, Ensei Tankado đã viết một chương trình phần mềm tạo ra các mật mã không thể bẻ khoá được. Cô không thể tin điều này là có thật.. - Pháo Đài Số - Strathmore lên tiếng. - Đó là cái tên anh ta đặt cho nó. Đây là một vũ khí chống tình báo tối ưu. Nếu chương trình của anh ta được tung ra thị trường, thì chỉ cần có được nối mạng là một học sinh lớp 3 có thể gửi những mật mã mà NSA không thể giải mã được. Và mạng lưới tình báo của chúng ta sẽ bị bóp chết. Nhưng điều mà Susan đang nghĩ lại không phải là những hệ luỵ mang tính chính trị của Pháo Đài Số. Cô vẫn đang cố vắt óc để lý giải sự tồn tại của nó. Cả đời làm công việc giải mã các mật mã, cô hoàn toàn phủ nhận sự tồn tại của một mật mã tối ưu. Nguyên tắc Bergofsky đã chỉ ra rằng: mọi mật mã đều có thể giải mã được! Cô thấy mình như một người theo thuyết vô thần đang chuẩn bị đối mặt với Chúa. - Nếu mật mã này bị lộ ra - cô thì thào - thì ngành giải mã sẽ trở thành một ngành khoa học chết. Strathmore gật đầu. - Đó chỉ là vấn đề phụ thôi. - Chúng ta có thể mua Tankado được không? Tôi biết anh ta căm ghét chúng ta, nhưng tại sao chúng ta không trả cho anh ta vài triệu đô la? Thuyết phục anh ta không phổ biến nó? Strathmore cười váng lên. - Vài triệu đô la? Cô có biết nó giá trị như thế nào không? Không một chính phủ nào trên thế giới này lại không sẵn sàng trả cả núi đô la để sở hữu nó. Cô có cho rằng chúng ta có thể báo cáo với Tổng thống rằng mình vẫn có thể can thiệp vào các bức điện tín của bọn khủng bố trong khi không thể xem các giao diện nữa ư, Nó không chỉ liên quan đến NSA mà còn liên quan đến toàn bộ giới tình báo. Thiết bị này có ích cho bất kì ai có nó và FBI, DEA, CIA, tất cả bọn họ sẽ như những kẻ mù dở. Các chuyến tàu vận chuyển ma tuý sẽ không thể bị phát hiện được, các công ty lớn có thể chuyển tiền mà không cần biên bản, giấy tờ và có thể tự xoá bỏ hệ thống lưu trữ dữ liệu IRS đi, các cuộc trao đổi của bọn khủng bố trở nên bí mật tuyệt đối - Mọi thứ sẽ bị đảo lộn. - EFF sẽ tha hồ mà tồ chức biếu tình - Susan nói, mặt tái nhợt. - EFF không hề biết một tí gì về cái chúng ta đang làm ở đây. - Strathmore phẫn nộ - Họ sẽ phải thay đổi thái độ nếu họ biết rằng sở dĩ chúng ta đã chặn được bao nhiêu cuộc tấn công của bọn khủng bố là do có thể giải được các mật mã. Susan đồng ý, nhưng cô biết EFF sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi được tầm quan trọng của TRANSLTR. TRANSLTR đã giúp chặn đứng được hàng chục vụ tấn công, nhưng đây là thông tin mật, và không bao giờ được phép tiết lộ ra ngoài. Lý do rất đơn giản là: Chính phủ không biết sẽ phải làm gì trước sự kích động của công chúng nếu sự thật bị tiết lộ; không một ai biết rằng công chúng sẽ phản ứng ra sao khi biết trong năm vừa qua, ở ngay trên đất nước Hoa Kỳ, đã có hai cuộc trao đối bí mật về vũ khí hạt nhân của các nhóm khủng bố. Tuy nhiên, các cuộc tấn công bằng vũ khí hạt nhân không phải là mối hiểm hoạ duy nhất. Chỉ riêng trong tháng trước, TRANSLTR đã ngăn chặn được một trong những cuộc tấn công được coi là tinh vi nhất của bọn khủng bố trong lịch sử của NSA. Một tổ chức chống chính phủ đã lập ra một kế hoạch có mật mã là Sherwood Forest. Với ý đồ "phân chia lại tài sản", kế hoạch này đã nhắm vào Sở Giao dịch Chứng khoán New York. Trong vòng hơn sáu ngày, các thành viên của nhóm này đã đặt hai mươi bảy ngòi nổ hẹn giờ trong các toà nhà bao quanh Sở Giao dịch.Việc phát nổ đồng thời cả hai mươi bảy ngòi nổ được cài đặt một cách cẩn thận này sẽ tạo ra một từ trường mạnh đến nỗi có thể phá hỏng tất cả các thiết bị từ tính của Sở Giao dịch Chứng khoán - như ổ cứng máy vi tính, hàng loạt các ngân hàng lưu trữ dữ liệu không truy xuất, băng từ, thậm chí cả đĩa mềm. Hồ sơ về mọi tồ chức, cá nhân sẽ bị phá huỷ vĩnh viễn. Do việc định giờ chính xác rất quan trọng đối với việc phát nỏ hàng loạt các thiết bị này, các ngòi nổ đã được kết nối với nhau trên Internet qua các đường dây điện thoại. Trong thời gian hai ngày chờ nổ, đồng hồ tính giờ bên trong sẽ liên tục nhận được các dòng dữ liệu đồng hồá đã được mật mã. NSA đã phát hiện các loạt xung dữ liệu, một điều bất bình thường của mạng lưới, nhưng lại lơ là coi chúng chỉ là những câu viết sai ngữ pháp vô nghĩa, vô hại. Nhưng sau khi TRANSLTR giải mã được các xung dữ liệu, các chuyên gia phân tích ngay lập tức đã phát hiện ra chuỗi dữ liệu này chính là thời gian chờ nồ. Các ngòi nổ được phát hiện và tháo bỏ chỉ đúng ba tiếng đồng hồ trước khi Sở Giao dịch nghỉ. Susan biết rằng nếu không có TRANSLTR thì NSA đành phải bó tay trước chủ nghĩa khủng bố cao cấp thời đại số hoá. Cô đưa mắt nhìn chiếc màn hình chủ. Vẫn là con số chỉ ra hơn mười lăm tiếng đồng hồ. Thậm chí nếu ngay bây giờ tệp tin của Tankado được giải mã thì NSA vẫn sụp đổ ngay tức thì, trung tâm Crypto chỉ có thể giải mã hai mật mã trong một ngày. Thậm chí với tốc độ hiện giờ là 150 mật mã một ngày thì đã tồn đọng cả núi các tệp dữ liệu cần được giải mã. - Tháng trước Tankado có gọi cho tôi - Strathmore nói, cắt ngang dòng suy nghĩ của Susan. Susan ngẩng đầu lên, hỏi lại: - Tankado gọi cho ngài? - Để cảnh báo tôi - Strathmore gật đầu. - Cảnh báo ngài? Anh ta căm ghét ngài cơ mà. - Anh ta gọi để thông báo cho tôi biết anh ta đang hoàn thiện một thuật toán về những mật mã không thể bẻ khoá được. Nhưng tôi đã không tin. - Nhưng tại sao anh ta lại nói điều đó với ngài? - Susan gặng hỏi. - Anh ta muốn ngài mua nó à? - Không, mà là tống tiền. Mọi thứ đột nhiên trở nên rối tinh rối mù đối với Susan. - Tất nhiên rồi - Susan nói giọng đầy ngạc nhiên. - Anh ta muốn ngài xoá tên anh ta đi mà. - Không phải thế! - Strathmore nhăn mặt. - Tankado muốn TRANSLTR. - TRANSLTR? - Đúng thế. Anh ta ra lệnh cho tôi phải công khai thông báo cho cả thế giới biết rằng chúng ta đang sở hữu TRANSLTR. Anh ta nói rằng nếu chúng ta thừa nhận rằng việc có khả năng đọc được tất cả e-mail của bất kì ai, anh ta sẽ phá huỷ Pháo Đài Số. Nhìn vẻ mặt hồ nghi của Susan, Strathmore nhún vai nói "Đằng nào thì cũng đã quá muộn. Anh ta đã tung một phiên bản thử nghiệm của Pháo Đài Số lên mạng và bất kì ai cũng có thể tải nó xuống. Mặt Susan bỗng trở nên trắng bệch. - Anh ta làm cái quái gì thế! - Để gây sốc thôi. Chẳng có gì phải lo lắng cả. Phiên bản anh ta tung lên đã được mã hoá. Ai cũng có thể tải xuống, nhưng không ai có thể mở được nó. Quả là tinh vi hết sức. Mật mã gốc của Pháo Đài Số đã được mã hoá và không ai có thể giải mã được. Với vẻ mặt đầy kinh ngạc, Susan thốt lên: - Đúng rồi! Vì thế mà ai cũng có một phiên bản, nhưng không ai có thể mở được! - Chính xác. Tankado đang thả mồi đấy. - Ngài đã từng nhìn thấy thuật toán đó chưa? Nét mặt của vị chỉ huy trông đầy sự lo lắng: - Chưa, tôi chả nói là nó bị mã hoá là gì. Susan kinh ngạc, "Nhưng mình đã có TRANSLTR, tại sao không giải mã nó". Nhưng vẻ mặt của Strathmore đã khiến Susan nhận ra rằng các quy tắc đã bị xáo trộn. - Ôi, chúa ơi! - Cô kêu lên, dường như đã hiểu vấn đề - Pháo Đài Số được mã hoá bởi chính nó sao? - Cô đã hiểu ra rồi đấy. Đối với Susan điều này đúng là ngoài sức tưởng tượng. Công thức của Pháo Đài Số đã được mã hoá bằng chính Pháo Đài Số. Tankado đã tung lên trên mạng một công thức toán học vô giá, nhưng phần viết của nó lại được mã hoá để không ai đọc được Và nó phải sử dụng chính bản thân nó mới có thế đọc được. - Đó là nguyên lý an toàn của Biggleman - Susan lắp bắp. Strathmore gật đầu. Nguyên lý an toàn của Biggleman là một kịch bản mang tính giả thuyết về mặt mã, theo đó một chương trình bảo mật lập ra một cơ chế bảo mật tuyệt đối. Để giữ bí mật, người ta lập ra một cái két an toàn để giấu cơ chế đổi. Tankado cũng làm như thế với Pháo Đài Số. Anh ta đã bảo vệ cái két của mình bằng cách mã hoá nó theo công thức được cất giữ trong chính cái két ấy. - Và tệp tin TRANSLTR đang giải mã là… - Tôi đã tải nó xuống từ trang Web của Takado giống như tất cả mọi người. NSA bây giờ vô cùng tự hào là người sở hữu thuật toán Pháo Đài Số. Chúng ta chỉ không thể mở được thôi. Susan lấy làm kinh ngạc trước sự tài tình của Ensei Tankado. Anh ta đã chứng minh cho NSA thấy thuật toán đó là không thể bẻ khoá được mà vẫn không cần tiết lộ nó. Strathmore đưa cho cô một mẩu báo. Đó là một bài giới thiệu sách dịch từ tạp chí Nikkei Shimbun, một kiểu Nhật báo Phố Wall xuất bản bằng tiếng Nhật. Nói rằng lập trình viên người Nhật Bản Ensei Tankado đã hoàn thiện một công thức toán học mà anh ta tưyên bố là có thế viết được các mật mã không thể hoá giải. Thuật toán đó có tên là Pháo Đài Số và ai cũng có thể xem ở trên mạng. Lập trình viên này sẽ bán đấu giá nó cho người trả tiền cao nhất. Bài báo đó còn nói mặc dù giới tin học Nhật bản rất quan tâm, nhưng những công ty phần mềm Hoa Kỳ đã nghe nói đến Pháo Đài Số thì chỉ coi lời tuyên bố của Tankado là một trò bịp bợm, giống như chuyện biến chì thành vàng. Họ nói rằng công thức này chỉ là một trò lừa bịp vớ vẩn. - Bán đấu giá? - Susan ngẩng đầu hỏi. Strathmore gật đầu. - Ngay bây giờ, mọi công ty phần mềm Nhật bản đều đã tải phiên bản mã hoá của Pháo Đài Số và đang cố gắng bẻ khoá nó. Cứ mỗi giây họ thất bại, thì giá của nó càng lên cao. - Ngớ ngẩn! - Susan phản đối - Tất cả những file đã mã hoá này sẽ không giải mã được trừ phi có TRANSLTR. Pháo Đài Số có thể sẽ chỉ là một thuật toán công khai không hơn không kém mà thôi, và không một công ty nào trong số họ có thể bẻ khoá được. - Đó là một mánh quảng cáo rất thông minh - Strathmore lên tiếng. - Hãy nghĩ tới điều này - trong khi tất cả các hãng kính chắn đạn đều chắn được đạn, nhưng nếu có một công ty thách anh bắn đạn xuyên qua sản phẩm kính của họ, vẫn có rất nhiều người muốn thử đấy. - Và người Nhật thực sự tin rằng Pháo Đài Số là khác biệt xa? Tốt hơn bất cứ thuật toán nào có trên thị trường? - Mọi người có thể xa lánh Tankado, nhưng ai cũng biết rằng anh ta là một thiên tài. Thực ra mà nói, anh ta là bá chủ trong giới tin tặc. Nếu anh ta nói thuật toán đó không thể bẻ khoá được thì nó hẳn là không bẻ khoá được. - Ít nhất là cho đến khi công chúng biết. - À, ừ - Strathmore đăm chiêu - - Ít nhất là vào lúc này. - Điều đó có nghĩa gì chứ? Strathmore thở dài: - Hai mươi năm trước, không một ai dám nghĩ là chúng ta sẽ giải được các mã chuỗi mười hai bit. Nhưng công nghệ không ngừng tiến bộ. Các nhà sản xuất phần mềm đã cho rằng một lúc nào đó, các thiết bị điện tử như TRANSLTR sẽ xuất hiện. Công nghệ sẽ phát triển theo cấp số nhân, và kết quả là những thuật toán công khai sẽ mất tính bảo mật. Sẽ cần phải có những thuật toán tốt hơn để phù hợp với các thiết bị máy tính trong tương lai. - Đó là Pháo Đài Số? - Chính xác… Một thuật toán có khả năng chống lại phương pháp giải mã kiểu cưỡng bức thì sẽ không bao giờ trở nên lỗi thời, cho dù thiết bị giải mã có tinh vi đến đâu đi nữa. Và trong nháy mắt, nó sẽ trở thành một chuẩn mực trên toàn thế giới. Susan hít một hơi dài, thì thầm: - Chúa phù hộ chúng ta. Có thể làm được gì không? Strathmore lắc đầu. - Tankado đã cho chúng ta một cơ hội. Anh ta đã nói rõ. Dù sao như thế cũng rất mạo hiểm; nếu bị phát hiện, thì chẳng khác là tự thừa nhận mình lo sợ về thuật toán của anh ta. Như thế nghĩa là chúng ta tự thú với công chúng rằng mình đang sở hữu TRANSLTR, và rằng Pháo Đài Số vẫn là bất khả xâm phạm. - Ta còn bao nhiêu thời gian? Strathmore nhăn nhó: - Tankado định trưa mai sẽ thông báo người trả giá cao nhất. Susan thấy cố họng nghẹn lại. - Sau đó thì sao? - Theo kế hoạch anh ta sẽ trao cho người trả tiền cao nhất chìa khoá giải mã. - Chìa khoá giải mã? - Đây là một phần trong âm mưu của anh ta. Sau khi mọi người đã có thuật toán này, Tankado sẽ bán đấu giá chìa khoá giải mã. - Đúng rồi - Susan kêu lên. Thật là hoàn hảo. Đơn giản và gọn nhẹ. Tankado đã mã hoá Pháo Đài Số và chỉ duy nhất anh ta mới có chìa khoá để mở. Cô cảm thấy khó có thể tìm thấy một chìa khoá giải mã gồm 64 kí tự, điều đó có thế đặt dấu chấm hết cho khả năng xem trộm thư điện tử của ngành tình báo Hoa Kỳ. Nó đang ở một nơi nào đó, có thể là một tờ giấy nhét trong túi quần của Tankado chăng? Susan đột nhiên cảm thấy choáng váng đầu óc khi nghĩ tới kế hoạch này. Tankado có thể sẽ trao chìa khoá giải mã cho người trả tiền cao nhất, và công ty đó sẽ mở được Pháo Đài Số. Sau đó có thể họ sẽ gắn thuật toán này vào một loại mạch điện tử siêu nhỏ, và trong vòng năm năm, bất kì chiếc máy vi tính nào cũng có thể được cài sẵn mạch điện tử Pháo Đài Số.. Xưa nay không một nhà sản xuất vì lợi nhuận nào nghĩ đến việc tạo ra một loại mạch điện tử mã hoá bởi vì các thuật toán mã hoá thông thường nhanh chóng trở nên lỗi thời. Nhưng Pháo Đài Số sẽ không bao giờ lỗi thời; với chức năng xoá văn bản liên tục, không một nỗ lực từ bên ngoài nào có thể tìm ra mật mã đúng. Một chuẩn mực mới về kỹ thuật mã số hoá. Mọi mật mã đều là bất khả xâm phạm. Từ bây giờ và mãi mãi về sau. Giám đốc ngân hàng, kẻ môi giới, bọn khủng bố, gián điệp. Mỗi một ngành có một thuật toán riêng. Hỗn loạn. - Sự lựa chọn ở đây là gì? - Susan thăm dò. Cô biết chắc rằng trong những lúc nguy kịch thì cần phải có những biện pháp liều lĩnh thậm chí ở NSA. - Chúng ta không thể thủ tiêu anh ta, nếu đó là cái mà cô định hỏi. Đó chính là cái mà Susan định hỏi. Trong suốt thời gian làm việc tại NSA, cô đã nghe đồn về những mối quan hệ ngầm của NSA với những sát thủ chuyên nghiệp nhất trên thế giới. Những gã này được thuê đế làm những công việc đen tối trong giới tình báo. Strathmore lắc đầu. - Tankado quá thông minh nên chúng ta không thể làm như thế. Susan cảm thấy bớt căng thẳng một cách kỳ lạ. - Anh ta đã phòng bị? - Không hẳn là thế. - Hay là đi trốn? Strathmore nhún vai. - Tankado đã rời Nhật Bản. Anh ta định kiểm tra cuộc đấu thầu qua điện thoại. Nhưng chúng ta biết anh ta đang ở đâu. - Và ngài không định có động tĩnh gì sao? - Không. Anh ta đã mua bảo hiểm. Tankado đã đưa bản copy của chìa khoá giải mã cho một người thứ ba nặc danh…trong trường hợp có chuyện gì xảy ra. Đương nhiên là Susan cảm thấy hết sức kinh ngạc. Một thiên thần hộ mệnh. - Và tôi cho rằng nếu có chuyện gì xảy ra với Tankado, thì kẻ bí ẩn đó sẽ bán chìa khoá giải mã? - Còn tồi tệ hơn thế. Nếu ai đó giết Tankado, thì người đó công khai hoá chìa khoá. Susan có vẻ lúng túng. - Cộng sự của anh ta sẽ công bố chìa khoá giải mã? Strathmore gật đầu: - Tung nó lên mạng, trên báo, trên các bảng quảng cáo. Nói nôm na là đem cho không. Susan trợn mắt kinh ngạc: - Tải miễn phí ư? - Chính xác. Tankado đã nói rằng nếu anh ta chết, anh ta sẽ không cần tiền - tại sao không ban cho thế giới này một món quà vĩnh biệt nho nhỏ chứ! Cả hai im lặng một hồi lâu. Susan thở sâu cứ như là chuẩn bị đón nhận một sự thật khủng khiếp. Ensei Tankado đã phát minh ra một thuật toán không thể giải mã được. Anh ta giữ chúng ta làm con tin. Bỗng nhiên cô đứng bật dậy, quả quyết: - Chúng ta phải liên lạc với Tankado! Phải có cách nào đó để thuyết phục anh ta không bán chìa khoá giải mã! Chúng ta có thể trả cho anh gấp ba lần số tiền của người trả cao nhất! Chúng ta có thể trả lại thanh danh cho anh ta! Bất cứ điều gì! - Quá muộn - Strathmore lên tiếng. Hít một hơi thở sâu, ông nói - Sáng nay người ta đã phát hiện Ensei Tankado chết ở Seville, Tây Ban Nha. Chiếc máy bay Learjet 60 hạ cánh xuống dải đường băng nóng như thiêu đốt. Bên ngoài cửa sổ, khung cảnh hoang vu của vùng chiêm trũng Extremadura, Tây Ban Nha hiện ra mờ mờ, ảo ảo.. - Thưa ông Becker - một giọng nói vang lên - Chúng ta đến nơi! Becker đứng dậy, vươn vai. Sau khi mở ngăn đựng đồ, anh sực nhớ ra là mình không có hành lý. Anh đã chẳng có thời gian để chuẩn bị hành lý. Nhưng chẳng sao cả - họ đã hứa với anh là chuyến đi này rất gọn nhẹ, đến rồi đi ngay. Khi động cơ tiếp đất, chiếc máy bay đậu khuất bóng mặt trời dưới tán râm của rừng cây đối diện với cảng chính. Một lúc sau, viên phi công xuất hiện và đập cửa. Becker ném bình nước man việt quất cuối cùng ra sau, đặt chiếc cốc lên quầy bar ẩm ướt, rồi giũ tung chiếc áo choàng. Viên phi công lôi từ chiếc áo bay ra một chiếc phong bì dày cộp. - Tôi được lệnh đưa cho ông cái này - Anh ta đưa nó cho Becker. Bên ngoài phong bì là dòng chữ viết nguệch ngoạc bằng mực xanh: "HÃY GIỮ SỐ TIỀN NÀY" Becker giở một tập giấy bạc đo đỏ dày cộp. - Cái này là…? - Tiền địa phương - Viên phi công tỏ ra hiểu biết. - Tôi biết nó là cái gì - Becker lắp bắp. "Nhưng thế này là… quá nhiều. Tất cả những gì ta cần chỉ là vé taxi mà thôi" Becker tự nghĩ trong đầu. - Ở đây làm gì có cái gì đáng giá hàng nghìn đôla cơ chứ! - Đó là nhiệm vụ của tôi, thưa ngài - Viên phi công quay người và quay lại cabin. Cánh cửa đóng sập lại sau lưng anh. Becker hết nhìn trân trối vào chiếc máy bay rồi lại nhìn xuống xấp tiền trên tay anh. Sau một hồi đứng trong khu rừng hoang vắng, anh nhét chiếc phong bì vào túi áo ngực, vắt áo khoác lên vai, và đi khỏi đường băng. Một khởi đầu lạ lùng. Becker cố gắng xua đuổi ý nghĩ ấy ra khỏi đầu. Với một chút may mắn, anh có thể kịp quay về để đi Stone Manor với Susan. Đến rồi đi ngay, anh tự nhủ. Đến rồi đi ngay. Anh không biết phải làm gì hơn. Chương 9 Kỹ thuật viên an ninh hệ thống Phil Chartrukian chỉ định vào Crypto một phút để lấy tờ giấy phân công công việc mà hôm kia anh bỏ quên. Nhưng mọi chuyện không đơn giản chỉ có thế. Sau khi băng qua Crypto, vào phòng An ninh - Hệ thống, đột nhiên anh phát hiện có một điều gì đó không ổn. Không có ai điều khiển thiết bị đầu cuối, thiết bị thực hiện chức năng giám sát liên tục sự vận hành của TRANSLTR và bộ kiểm tra đã tắt. Chartrukian gọi to: - Xin chào, có ai ở đây không? Không có tiếng trả lời. Căn phòng sạch bóng cứ như là chưa có ai đặt chân đến trong nhiều tiếng đồng hồ. Mặc dù mới chỉ hai mươi ba tuổi và là lính mới trong kíp nhân viên An ninh - Hệ thống, nhưng Chartrukian được đào tạo khá bài bản, và anh biết được kỷ luật của phòng thí nghiệm. Phải luôn có một nhân viên An ninh hệ thống trực ở Crypto, đặc biệt là vào thứ Bảy khi tất cả các mật mã viên đều nghỉ. Không một phút chần chừ, anh khởi động bộ kiểm tra và ngước nhìn bảng phân công trực trên tường. - Ai trực hôm nay - Anh gào to lên trong khi liếc nhìn danh sách nhân viên. Theo kế hoạch thì Seidenberg, một nhân viên trẻ mới vào nghề lẽ ra đã phải bắt đầu ca trực đúp từ nửa đêm hôm kia. Chartrukian đảo mắt nhìn quanh căn phòng trống rỗng. cau có: - Hắn ở nơi chết dẫm nào không biết? Trong khi nhìn bộ điều khiến khởi động, Chartrukian tự hỏi không biết Strathmore có biết là không có ai trực không. Lúc vào đây anh đã nhận thấy cửa rèm phòng làm việc của Strathmore đã đóng, điều đó có nghĩa là sếp đã ra ngoài - một điều không phải là không bình thường cho một ngày thứ Bảy: mặc dù cho phép các mật mã viên nghỉ ngày thứ Bảy, nhưng Strathmore dường như làm việc cả 365 ngày trong năm. Nhưng Chartrukian biết chắc chắn là nếu Strathmore phát hiện thấy không có ai trực ở phòng An ninh - Hệ thống thì anh chàng mới vào nghề đó sẽ bị mất việc. Chartrukian nhìn chằm chằm vào chiec điện thoại, băn khoăn không biết có nên gọi tên kỹ thuật viên trẻ tuổi đó và giúp anh ta hay không. Có một nguyên tắc ngầm giữa các nhân viên an ninh hệ thống là họ phải tương trợ lẫn nhau. Ở Crypto, nhân viên an ninh hệ thống đều là những công dân hạng hai. Các nhân viên mật mã luôn luôn là người đứng đầu trong số những người giàu có, nhân viên an ninh hệ thống được cảm thông chỉ bởi vì họ phải giữ cho đống đồ chơi này hoạt động liên tục. Chartrukian quyết định nhấc chiếc điện thoại lên. Nhưng chiếc ống nghe chưa kịp chạm tới tai anh. Anh lập tức dừng lại ngay, nhìn như chọc thủng bộ điều khiển đang ở đúng tầm nhìn. Anh từ từ đặt máy điện thoại xuống, và há hốc mồm nhìn chằm chằm vào nó… Suốt tám tháng làm nhân viên an ninh hệ thống, Phil Chartrukian chưa bao giờ nhìn thấy Bộ điều khiển chính của TRANSLTR hiển thị bất kì một cái gì khác ngoài hai con số không, chỉ giờ. Hôm nay là lần đầu tiên: THỜI GIAN SỬ DỤNG: 15:17:21 - Mười lăm giờ mười bảy phút ư? - Anh cảm thấy nghẹt thở. - Không thể nào! Vừa khởi động lại màn hình, anh vừa cầu chúa cho đó chỉ là lỗi màn hình hỏng. Nhưng sau khi khởi động lại xong thì những cơn số ấy lại hiện ra như cũ… Chartrukian rùng mình. Nhân viên an ninh hệ thống của Crypto chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là giữ TRANSLTR "sạch"- không bị nhiễm virus. Chartrukian biết rằng việc TRANSLTR đã vận hành mười lăm tiếng đồng hồ sẽ đồng nghĩa với việc nó đã bị nhiễm virus. Ai đó đã để quên một file bị nhiễm virus ở trong TRANSLTR và nó đang phá huỷ các chương trình. Ngay lập tức, anh quên cả mục đích ban đầu của mình; việc không có ai trực phòng thí nghiệm hay bộ điều khiến đã ngắt bây giờ không còn là điều quan trọng nữa. Không chần chừ anh tập trung ngay vào vấn đề chính - TRANSLTR. Ngay lập tức anh tra tìm danh sách các file đã lưu vào TRANSLTR trong vòng bốn mươi tám tiếng vừa qua. Liếc nhìn danh sách các file anh tự hỏi, chẳng lẽ có một tệp tin bị nhiễm virus đã thâm nhập vào ư? Chẳng lẽ bộ lọc an toàn bỏ sót một cái gì? Để đề phòng virus, tất cả các file thâm nhập vào TRANSLTR đều phải đi qua Gauntlet một loạt các cổng nối mạch, bộ lọc gói tin, và các chương trình diệt virus. Các file chứa các chương trình "lạ" sẽ bị bộ lọc Gauntlet loại ra ngay lập tức. Chúng phải được các nhân viên an ninh hệ thống kiểm tra. Đôi khi bộ lọc Gauntlet từ chối những file hoàn toàn vô hại vì những file này chứa những chương trình mà nó chưa bao giờ gặp. Trong trường hợp đó, các nhân viên an ninh hệ thống phải tự kiểm tra hết sức cẩn thận, và chỉ khi khẳng định được file đó hoàn toàn sạch thì họ mới đưa nó qua bộ lọc Gauntlet, rồi chuyển vào TRANSLTR… Virus vi tính cũng phong phú chẳng kém gì vi khuẩn. Cũng giống như những người anh em sống trên cơ thể con người, virus vi tính chỉ có một mục đích duy nhất là bám chặt vào hệ thống máy chủ và sinh sôi nảy nở. Ở đây, máy chủ chính là TRANSLTR. Chartrukian cảm thấy rất ngạc nhiên vì từ trước đến nay NSA chưa bao giờ bị nhiễm virus. Tuy Gauntlet là một người lính gác tốt, nhưng NSA là bộ phận cuối cùng, nhận hằng hà sa số thông tin điện tử từ tất cả các hệ thống trên thế giới. Việc nhận hàng núi dữ liệu như vậy cũng giống như việc quan hệ giới tính bừa bãi hay không cẩn trọng, không sớm thì muộn cũng sẽ bị nhiễm phải một cái gì đó. Chartrukian đã kiểm tra xong danh sách các file hiển thị trước mặt. Anh cảm thấy lúng túng hơn bao giờ hết. Tất cả các file đều được kiểm tra, và thiết bị loại - Gauntlet không phát hiện được điều gì bất thường. Điều này có nghĩa là file trong TRANSLTR hoàn toàn sạch. "Thế thì tại sao nó chạy lâu vậy" - anh gào lên trong căn phòng vắng lặng. Chartrukian vã mồ hôi. Anh băn khoăn không biết, có nên quấy rầy Strathmore vì chuyện này hay không. - Diệt virus - Chartrukian nói một cách kiên quyết, cố gắng trấn tĩnh lại - Mình nên diệt virus. Chartrukian biết thế nào Strathmore cũng yêu cầu diệt virus trước tiên. Liếc nhanh cả Crypto trống hơ trống hoác, Chartrukian quyết định làm ngay. Anh tải phần mềm diệt virus và cho chạy. Phải mất mười lăm phút phần mềm này mới chạy xong. - Sạch lại đi bé yêu - anh thì thầm - Sạch sành sanh, bé yêu nhé. Hãy nói với anh là bé không sao cả. Nhưng Chartrukian cảm nhận thấy có một cái gì đó không phải là "không sao". Bản năng nói với anh rằng có một cái gì đó bất thường đang xâm nhập vào bên trong con quái vật giải mã khổng lồ này. - Ensei Tankado chết rồi ư? - Susan cảm thấy buồn nôn - Ngài đã thủ tiêu anh ta ư? Tôi tưởng ngài đã nói rằng… - Chúng ta không hại anh ta - Strathmore an ủi - Anh ta chết vì một cơn đau tim. COMINT đã gọi điện cho tôi sáng sớm hôm nay. Máy vi tính của họ đã phát hiện tên Tankado trong quyển sổ nhật kí cảnh sát thông qua Interpol. - Đau tim? - Susan nghi ngờ - Anh ta mới ba mươi tuổi. - Ba mươi hai - Strathmore sửa lại - Anh ta bị suy tim bẩm sinh. - Tôi chưa hề nghe nói đến điều đó. - Hãy chú ý đến sức khỏe của anh ta khi ở NSA, chứ không phải là những điều anh ta khoe khoang, khoác lác. Susan cảm thấy khó có thể chấp nhận được sự tình cờ khéo sắp đặt này. "Một quả tim suy yếu có thế giết chết anh ta - chỉ đơn giản vậy thôi sao?" Thật là tiện lợi. Strathmore nhún vai. - Yếu tim… cộng với cái nắng khắc nghiệt của Tây Ban Nha, sự căng thẳng của việc gửi thư tống tiền NSA… Susan im lặng giây lát. Dù là do nguyên nhân gì đi chăng nữa thì cô vẫn cảm thấy dằn vặt trước cái chết của một nhân viên mật mã tài ba như thế. Giọng nói trang nghiêm của Strathmore cắt ngang dòng suy nghĩ của cô. - Tuy nhiên trong cái rủi có cái may: Tankado đã đi du lịch một mình. Có nhiều khả năng cộng sự của anh ta vẫn chưa phát hiện ra cái chết của Tankado. Các quan chức Tây Ban Nha cho biết họ sẽ cố che giấu thông tin này càng lâu càng tốt. Chúng ta biết được tin đó là nhờ COMINT rất thạo tin - Strathmore dịu mắt lại - Chúng ta phải tìm ra người cộng sự trước khi anh ta phát hiện ra cái chết của Tankado. Đó là lí do tôi cho gọi cô. Tôi cần sự giúp đỡ của cô. Susan thấy khá bối rối. Đối với cô thì cái chết đúng lúc của Ensei Tankado đã giải quyết hết vấn đề của họ. - Thưa sếp - cô phản đối - Nếu các nhà chức trách nói anh ta chết vì bệnh tim thì chúng ta làm gì còn trở ngại nào. Cộng sự của anh ta sẽ biết chúng ta không có trách nhiệm trong vụ này. - Không có trách nhiệm ư?- Strathmore trợn mắt kinh ngạc - Một người đã gửi thư tống tiền tới NSA và vài ngày sau anh ta chết, thế mà cô bảo chúng ta không có trách nhiệm? Tôi cá với cô cả trăm triệu đô la là người bạn bí ẩn của anh ta sẽ không nghĩ như thế đâu. Bất cứ chuyện gì xảy ra thì chúng ta có chạy đằng trời cũng không thoát tội được. Rất có khả năng đó là một vụ đầu độc, một cuộc khám nghiệm tử thi giả, hay bất cứ thứ gì - Strathmore ngập ngừng - Thế cô còn nhớ lúc đầu cô đã phản ứng như thế nào khi tôi thông báo về cái chết của Tankado không: "Tôi đã nghĩ NSA thủ tiêu anh ta". - Chính xác. Nếu NSA có thế đặt năm chiếc vệ tinh Rhyolite trong quỹ đạo quanh khu vực Trung Đông, tôi nghĩ việc giả định chúng ta đã mua chuộc mấy viên cảnh sát Tây Ban Nha là điều không thể tránh khỏi.  Susan thở hắt ra. Ensei Tankado đã chết. Người ta sẽ đồ tội cho NSA. - Liệu ngài có kịp tìm ra người cộng sự đó không? - Chắc là được. Chúng ta đang có một manh mối thuận lợi. Tankado đã rất nhiều lần công khai về việc phối hợp với một cộng sự. Tôi nghĩ anh ta hi vọng thông tin đó sẽ làm các hãng phần mềm từ bỏ ý định hãm hại anh ta hay cố gắng đánh cắp chìa khoá giải mã. Anh ta doạ rằng chỉ cần một ai đó chơi xấu, thì người cộng sự sẽ công khai chìa khoá giải mã, và tất cả các hãng phần mềm bỗng nhiên sẽ phải cạnh tranh với một phần mềm miễn phí. - Thông minh! - Susan gật gù công nhận. Strathmore tiếp tục nói. - Đã nhiều lần phát biểu trước công chúng. Tankado đã nhắc đến tên của người cộng sự đó. Anh ta gọi gã là North Dakota. - North Dakota? Rõ ràng đó là một kiểu bí danh. - Đúng thế, nhưng để cho chắc ăn, tôi đã điều tra trên mạng với từ khoá là North Dakota. Tôi đã nghĩ là sẽ chẳng tìm được cái gì ra hồn. Nhưng cuối cùng tôi đã tìm thấy địa chỉ thư điện tử - Strathmore ngập ngừng - Tất nhiên cứ cho đó không phải là gã North Dakota mà chúng ta đang tìm kiếm, nhưng tôi đã kiểm tra địa chỉ thư điện tử này chỉ để cho chắc mà thôi. Cô có biết tôi đã ngạc nhiên như thế nào khi thấy địa chỉ đó chứa đầy các lá thư điện tử từ Ensei Tankado không? - Strathmore nhướng mày - Và tất cả những tin nhắn đó đều ám chỉ đến Pháo Đài Số và những kế hoạch tống tiền NSA của Ensei Tankado. Susan nghi ngờ nhìn Strathmore. Cô thực sự thấy ngạc nhiên khi thấy một người chỉ huy tài giỏi như thế mà lại dễ bị rơi vào tròng đến vậy. - Thưa sếp - cô phản đối - Tankado chắc chắn biết rằng NSA có thể đọc trộm thư điện tử trên mạng; anh ta sẽ không bao giờ sử dụng thư điện tử để gửi những thông tin bí mật. Đó là một cái bẫy. Ensei Tankado đã cố tình để ông tìm ra North Dakota. Anh ta biết thế nào ông cũng điều tra trên mạng nên bất kì thông tin nào gửi đi, anh ta đều muốn ông tìm thấy. Rõ ràng anh ta muốn đánh lạc hướng.. - Khá lắm - Strathmore độp lại - ngoại trừ một vài thứ. Tôi đã không thể tìm được thứ gì khi sử dụng từ khoá North Dakota, nên tôi đã ngắt các kí tự tìm kiếm ra. Địa chỉ thư điện tử mà tôi ớm thấy có tên hơi khác một chút, đó là - NDAKOTA. Susan lắc đầu. - Cách hoán đổi vị trí các ký tự là một thao tác thông thường. Tankado biết thế nào ông cũng thử hoán đổi vị trí các kí tự cho đến khi nào vỡ vạc ra một điều gì đó. NDAKOTA là một cái tên quá dễ phát hiện. - Cũng có thể - Strathmore nói, rồi viết nguệch ngoạc mấy chữ lên một mẩu giấy đưa cho Susan - Nhưng cô hãy nhìn cái này đã. Susan đọc mảnh giấy và chợt hiểu được người chỉ huy này đang nghĩ gì. Trên mảnh giấy có ghi địa chỉ thư điện tử của North Dakota. [email protected]. Chính ba chữ ARA của địa chỉ này đã làm Susan chú ý tới. ARA là chữ viết tắt của những người viết thư nặc danh, một máy chủ nặc danh nối tiếng. Các nhà cung cấp nặc danh không xa lạ với những người sử dụng Internet muốn giấu tên truy cập. Để nhận tiền dịch vụ, những công ty này bảo vệ bí mật của những người gửi thư điện tử, với tư cách là người trung gian. Điều này cũng giống như là các hòm thư lưu ký ở bưu điện - người ta có thể gửi và nhận thư mà không cần tiết lộ tên và địa chỉ thật của mình. Công ty đó sẽ nhận các lá thư điện tử ghi sẵn bí danh và gửi thẳng vào điạ chỉ thư điện tử thật của khách hàng. Công ty chuyển tiếp thư điện tử bắt buộc phải tuân theo hợp đồng không được tiết lộ tên và địa chỉ thật của người sử dụng. - Đó không phải là bằng chứng - Strathmore công nhận - Nhưng rất đáng ngờ. Susan gật đầu, thấy thuyết phục hơn. - Vì vậy mà ngài liên tục nói rằng Tankado không để ý đến việc có ai đó tìm kiếm tên North Dakota vì đã được ARA bảo vệ tên và địa chỉ. - Chính xác! Susan suy nghĩ một lát rồi nói: - ARA chủ yếu phục vụ các địa chỉ thư điện tử của Mỹ. Ngài cho là North Dakota có thể đang quanh quẩn ở đâu đó? Strathmore nhún vai: - Có thể lắm chứ. Với một người cộng sự người Mỹ, Tankado có thể giữ hai chiếc chìa khoá giải mã ở hai vùng khác nhau. Đó có thể là một hành động thông minh. Susan suy ngẫm. Cô nghi ngờ không biết liệu Tankado có giao chiếc chìa khoá cho bất kì ai hay không. nếu như đó không phải là bạn thân của anh ta. Và theo như cô biết thì Ensei Tankado không có nhiều bạn ở Mỹ. - North Dakota - Susan đăm chiêu, bộ óc chuyên gia mật mã của cô nghiền ngẫm về tất cả ý nghĩa có thể của bí danh này - Lá thư anh ta gửi cho Tankado sẽ như thế nào nhỉ? - Làm sao tôi biết được. COMINT chỉ tìm thấy những lá thư mà Tankado đã gửi đi. Tại thời điểm này tất cả những gì chúng ta chẳng biết gì về North Dakota, ngoại trử đó là một địa chỉ nặc danh. Susan suy nghĩ một lát rồi nói. - Có khả năng là một cái bẫy không? Strathmore nhíu mày. - Như thế nào? - Tankado có thể sẽ gửi một lá thư ma đến một địa chỉ thư điện tử chết với hi vọng là chúng ta sẽ đọc trộm nó. Chúng ta sẽ nghĩ là anh ta đã được bảo vệ, và sẽ không bao giờ mạo hiểm chia sẻ chiếc chìa khoá giải mã. Anh ta có thể hành động một mình. Strathmore mỉm cười công nhận. - Một ý tưởng tinh quái, ngoại trừ một điều. Anh ta sẽ không sử dụng bất kì một account gia đình hay công việc nào cả. Anh ta sẽ ghé qua Trường Đại học Doshisha và đăng nhập vào máy tính chủ. Dường như anh ta có một địa chỉ thư điện tử bí mật ở đó. Đó là một địa chỉ được giấu rất kĩ và tôi chỉ tình cờ phát hiện ra mà thôi - Strathmore ngập ngừng - Vì vậy… nếu Tankado muốn chúng ta đọc trộm thư của anh ta, tại sao anh ta lại sử dụng địa chỉ thư điện tử bí mật đó để gửi thư? Sau một hồi suy ngẫm, Susan lên tiếng: - Có thể anh ta đã sử dụng một địa chỉ thư điện tử bí mật vì vậy ngài sẽ không nghi ngờ về âm mưu này? Có thể Tankado chỉ giấu địa chỉ này với ý đồ để ngài có thể tìm ra và nghĩ rằng đó là do may mắn? Điều đó sẽ làm anh ta tin tưởng hơn về lá thư của mình.  Strathmore cười mỉm: - Lẽ ra cô phải là một trinh thám. Đó là một ý tưởng thông minh. Nhưng thật không may, mọi lá thư Tankado gửi đi đều được trả lời. Tankado viết thư và cộng sự của anh ta trả lời. Susan nhăn mặt. - Cũng đúng. Vì vậy mà ngài nói rằng North Dakota là có thật? - Tôi sợ là thế. Và chúng ta phải tìm ra anh ta. Và bí mật. Nếu anh ta nghe phong phanh biết ý định của chúng ta, mọi thứ sẽ hỏng bét. Bây giờ Susan biết chính xác tại sao Strathmore che gọi cô đến. - Để tôi đoán xem - Ngài muốn tôi đọc trộm dữ liệu mật của ARA và tìm ra tên thật của North Dakota? Strathmore cười gượng. - Cô Fletcher, cô luôn đi guốc trong bụng tôi. Về khả năng dò tìm Internet, không ai có thể sánh với Susan Fletcher. Năm ngoái, một thượng sĩ của Nhà Trắng đã nhận liên tục nhận được những lá thư đe doạ nặc danh. NSA được giao nhiệm vụ phải tìm ra kẻ chủ mưu. Mặc dù NSA thừa sức yêu cầu công ty cung cấp dịch vụ thư điện tử tiết lộ tên của người sử dụng, nhưng nó đã chọn một giải pháp tinh vi hơn - đó là "phần mềm tự dò tìm". Thực ra phần mềm này đã tạo ra một dấu hiệu chỉ đường được nguỵ trang dưới dạng thư điện tử. Cô có thể gửi thư này đến địa chỉ ma, và công ty cung cấp dịch vụ thư điện tử, theo đúng hợp đồng đã kí, sẽ gửi nó đến địa chỉ thật của người sử dụng. Ngay lập tức chương trình này sẽ lưu lại địa chỉ trên mạng của người gửi và gửi nó về NSA. Tiếp đến chương trình này sẽ tự phân huỷ mà không để lại một dấu vết nào. Từ đó trở đi, đối với NSA, những kẻ gửi thư nặc danh chỉ là muỗi. - Cô có thể tìm ra anh ta không - Strathmore hỏi. - Chắc chắn. Tại sao mãi đến bây giờ ngài mới gọi cho tôi? - Thực ra thì… - Strathmore cau mày - Tôi đã không hề có ý định gọi cho cô. Tôi không muốn bất kì ai dính vào cái mớ thòng lọng này. Tôi đã thử gửi phiên bản dò tìm của cô, nhưng vì cô đã sử dụng thứ ngôn ngữ quái quỉ gì đó nên tôi không thể vận hành nó được. Nó liên tục gửi về những dữ liệu vô nghĩa. Cuối cùng tôi đành phải ngậm đắng nuốt cay và lôi cô vào cuộc. Susan cười khúc khích. Strathmore là một lập trình viên mật mã tài giỏi, nhưng ông ta rất hạn chế về các công việc liên quan đến thuật toán, ông ta không thể nào đánh bại nổi các chương trình được bảo vệ vô cùng kĩ lưỡng. Hơn thế nữa, Susan đã viết phần mềm dò tìm của cô bằng một ngôn ngữ lập trình mới, được tạo ra từ hai ngôn ngữ khác, mà cô gọi là LIMBO. Cô hiểu rằng Strathmore đã gặp phải vấn đề khó khăn. - Tôi sẽ lo chuyện đó! - Cô vừa cười vừa đi về phòng - Tôi sẽ tìm bằng ra thì thôi.  - Mất khoảng bao lâu? Susan ngập ngừng: - À… điều đó phụ thuộc vào tốc độ chuyển thư nhanh hay chậm của ARA. Nếu như anh ta đang ở đây, ở chính bang này và sử dụng AOL hay Compuserve, tôi sẽ đọc trộm được thẻ tín dụng và tìm được địa chỉ thanh toán của anh ta trong vòng một tiếng đồng hồ. Nếu anh ta đang ở một trường đại học hay một công ty nào đó, sẽ mất nhiều thời gian hơn - Cô cười gượng - Sau đó, phần còn lại là do ngài giải quyết, thưa ngài Strathmore. Susan biết rõ "phần còn lại" sẽ là một đội đột kích của NSA, cắt điện nhà gã đó và đột nhập vào nhà qua cửa so với những khẩu súng to đùng. Có thể cả đội sẽ cho rằng mình đang chuẩn bị khám xét một hang ổ ma tuý. Chắc chắn ngài Strathmore sẽ đàng hoàng sải bước trên đám sỏi để nhặt chiếc chìa khoá gồm sáu mươi tư kí tự. Sau đó, ông sẽ phá huỷ nó. Pháo Đài Số sẽ bị huỷ bỏ hoàn toàn, vĩnh viễn. - Cần phải rất cẩn trọng! - Strathmore căn dặn - Nếu North Dakota biết là đang bị chúng tra truy tìm, hẳn anh ta sẽ lo sợ, và đội quân của chúng ta sẽ không thể kịp tới đó trước khi anh ta biến mất cùng với chìa khoá giải mã.  - Chạy và phân huỷ - cô quả quyết.- Ngay sau khi tìm ra địa chỉ thư điện tử của anh ta, nó sẽ tự phân huỷ. Anh ta sẽ không bao giờ biết là chúng ta đã lần ra địa chỉ. Người chỉ huy gật đầu vẻ mệt mỏi. - Cảm ơn. Susan mỉm cười dịu dàng. Cô luôn cảm thấy ngạc nhiên về khả năng giữ bình tĩnh của ngài Strathmore những lúc đối mặt với nguy hiểm. Cô tin rằng khả năng đó chính là thế mạnh đã giúp ông nắm giữ chức phó giám đốc NSA.. Khi Susan tiến ra cửa, cô cúi xuống nhìn TRANSLTR một hồi lâu. Sự tồn tại của một thuật toán không thể giải mã được là điều mà cô vẫn đang vắt óc để lý giải. Cô cầu chúa giúp mình tìm ra North Dakota. - Nhanh lên - Strathmore giục - và cô sẽ có mặt ở dãy núi Smoky Mountain trước hoàng hôn. Susan thấy cứng đờ cả người. Cô chưa bao giờ tiết lộ với Strathmore về chuyến đi này. - Có phải NSA đã cài máy nghe lén điện thoại của tôi - Susan mấp máy. Strathmore mỉm cười hối lỗi. - Sáng nay David đã kể cho tôi về chuyến đi này. Susan cảm thấy vô cùng lúng túng. - Sáng nay ngài đã nói chuyện với David? - Đương nhiên - Strathmore dường như rất lúng túng trước phản ứng của Susan - Tôi đã phải chỉ dẫn cho anh ta rất tận tình. - Chỉ dẫn cho anh ấy? - Cô kêu lên - Về cái gì kia chứ? - Về chuyến đi của anh ấy. Tôi đã cử David tới Tây Ban Nha. Chương 11 "Tây Ban Nha. Tôi đã cử David tới Tây Ban Nha". Những lời của vị chỉ huy cứ nhảy múa trong đầu Susan. - David đang ở Tây Ban Nha? - Susan nói vẻ đầy hoài nghi - Ngài đã cử anh ấy đến Tây Ban Nha - Đột nhiên cô chuyển giọng giận dữ - Tại sao chứ? Strathmore sững người. Rõ ràng ông không hề quen với việc bị người khác la ó, ngay cả đó là nhân viên mật mã đắc lực nhất. Ông bối rối đưa mắt nhìn Susan. Cô xù lông cứ như con hồ mẹ đang bảo vệ đứa con bé nhỏ của mình. - Susan à! Cô đã nói chuyện với anh ấy rồi, đúng không? David đã giải thích rồi chứ? Cô bị sốc đến nỗi không để ý đến những gì Strathmore nói. Tây Ban Nha? Đó là lý do tại sao David lại trì hoãn chuyến đi đến Stone Manor của hai người? - Sáng nay tôi đã gửi đến cậu ta một chiếc ô tô. Anh chàng nói rằng sẽ gọi cho cô trước khi đi. Tôi rất tiếc. Tôi tưởng… - Tại sao ngài lại cử David đến Tây Ban Nha? Strathmore ngập ngừng, nhìn thẳng Susan nói. - Để lấy một chiếc chìa khoá giải mã khác.  - Chiếc chìa khoá khác nào cơ? - Phiên bản của Tankado.  Susan cảm thấy thật sự lúng tứng. - Ngài đang nói về cái gì vậy? Strathmore thở dài: - Tankado chắc chắn đã giữ một phiên bán của chìa khoá giải mã khi anh ta chết. Tôi chắc như đinh đóng cột rằng anh ta không muốn để nó trôi nổi ở một nhà xác ở xứ Seville.  - Vì vậy ngài đã cử David Becker - Susan đã vượt qua cơn sốc. Mọi thứ đều vô nghĩa - David thậm chí không làm việc cho ngài cơ mà! Strathmore giật mình. Từ trước đến nay không một ai dám nói bằng cái giọng như thế với phó giám đốc của NSA. - Susan! - ông nói trong khi cố gắng trấn tĩnh - Đó chính là mấu chốt vấn đề. Tôi cần! Susan chợt trở nên dữ dằn. - Ông đã có hai mươi nghìn nhân viên sẵn sàng làm theo mệnh lệnh của ông. Ai cho phép ông cử chồng chưa cưới của tôi? - Tôi cần một thường dân làm giao liên, một ai đó hoàn toàn không dính líu đến chính quyền. Nếu tôi chọn các cách thông thường, thì có người sẽ chộp được tin này.  - Và David Becker là người dân thường duy nhất mà ông biết? - Không! David Becker không phải là người dân thường duy nhất mà tôi biết. Nhưng 6 giờ sáng nay, mọi thứ diễn ra nhanh như chớp! David biết tiếng Tây Ban Nha, cậu ta vô cùng thông minh, Tôi tin tưởng và đã ban cho anh chàng một đặc ân! - Một đặc ân… - Susan lắp bắp - Cử anh ấy đi Tây Ban Nha là một ân huệ hay sao? - Đúng thế! Tôi sẽ trả anh ta mười nghìn đô la chỉ cho một ngày làm việc. Anh ta sẽ lấy tất cả đồ đạc của Tankado và bay về nhà. Đó là một đặc ân! Susan im lặng và chợt hiểu ra tất cả. Đó là vì tiền. Cô nhớ lại 5 tháng trước đây, vào cái đêm mà hiệu trưởng Trường Đại học Georgetown đã đề nghị thăng chức cho David, giữ ghế chủ nhiệm khoa ngôn ngữ. Hiệu trưởng đã cảnh báo anh là anh sẽ bị giảm giờ lên lớp và sẽ phải làm nhiều công việc giấy tờ hơn, nhưng không được tăng lương. Susan đã muốn gào to lên, David, đừng làm điều đó. Anh sẽ chẳng sung sướng gì đâu! Chúng ta có nhiều tiền - do ai làm ra cũng thế cả thôi mà! Nhưng cô không có quyền. Cuối cùng, cô đành phải chấp nhận quyết định của anh. Đêm đó, trước khi chìm vào giấc ngủ, cô đã cố gắng bắt mình phải mừng cho anh, nhưng vẫn có một cái gì đó không ngừng mách bảo cô rằng đó sẽ là một tai hoạ. Cô đã đúng - không tin nổi là linh cảm của mình lại đúng đến mức này. - Ông đã trả cho anh ấy mười nghìn đô la. Đó là một cái bẫy bẩn thỉu! Bây giờ đến lượt Strathmore nổi giận đùng đùng. - Bẫy à? Đó không phải là một cái bẫy chết tiệt nào hết! Thậm chí tôi đã không nói với anh ta về số tiền đó. Tôi đã yêu cầu anh ta làm cho tôi một việc dưới danh nghĩa cá nhân. Anh ta đã đồng ý đi. - Tất nhiên là anh ta đồng ý? Ông là sếp của tôi! Ông là phó giám đốc của NSA! Làm sao anh ấy dám từ chối cơ chứ? - Cô nói đúng! - Strathmore ngắt lời - Đó là lí do tại sao tôi gọi anh ta. Tôi không có nhiều lựa chọn. - Giám đốc có biết ông cử một người dân thường đi hay không? - Susan! - Strathmore cố tỏ ra kiên nhẫn - Giám đốc không liên quan đến vụ này. Ông ta không biết gì hết. Susan nhìn Strathmore kinh ngạc, không thể nào tin được. Dường như cô không còn hiểu nổi con người này nữa. Ông ta đã gửi chồng chưa cưới của cô - một giáo viên, đi làm nhiệm vụ của NSA và không thông báo với giám đốc về cuộc khủng hoảng lớn nhất trong lịch sử NSA. - Ngài Leland Fontaine không được thông báo? Strathmore không thể chịu được nữa, hét lên: - Nghe này, Susan! Tôi gọi cô đến đây là vì tôi cần một đồng minh, chứ không phải một điều tra viên. Tôi đang sống cảnh địa ngục trần gian đây. Đêm qua, tôi đã tải file của Tankado và ngồi hàng giờ ở đây, bên chiếc máy in, cầu nguyện TRANSLTR có thể giải mã được. Sáng sớm nay, tôi đã dẹp lòng tự ái và gọi điện cho giám đốc - nói cho cô biết tôi rất muốn nói ra chuyện này. Xin chào ngài giám đốc. Tôi xin lỗi vì đã đánh thức ngài. Tại sao tôi lại gọi điện à? Tôi vừa mới phát hiện ra rằng TRANSLTR đã lỗi thời rồi. Chỉ có một thuật toán thôi mà toàn bộ ê kíp ăn lương cao ngất ngưởng tại Crypto không thể lập trình nổi! - Strathmore đập mạnh tay xuống bàn. Susan đứng im bất động. Mười năm nay, cô đã từng thấy Strathmore mất bình tĩnh một vài lần, nhưng chưa bao giờ ông nổi giận với cô. Mười giây trôi qua, cả hai không nói với nhau một lời nào. Strathmore ngồi xuống và Susan có thể nghe thấy ông cố nén thở bình thường trở lại. Cuối cùng ông nói, giọng đã bình tĩnh trở lại. - Thật không may - Strathmore nói chậm rãi - Giám đốc đang tham dự một cuộc họp với Tổng thống của Columbia ở Nam Phi. Bởi vì ông ấy không thể làm được điều gì từ bên đó, cho nên tôi chỉ có hai giải pháp - thứ nhất, yêu cầu giám đốc rút ngắn thời gian ở bên đó và sớm quay về - thứ hai, tự mình giải quyết. Cả hai im lặng một hồi lâu. Rốt cuộc, Strathmore ngầng lên và ánh mắt mệt mỏi của ông chạm phải ánh mắt Susan. Ngay lập tức ông hạ giọng. - Xin lỗi Susan. Tôi kiệt sức mất. Cơn ác mộng này đang biến thành sự thật. Tôi biết cô buồn về chuyện của David. Tôi không định nói với cô chuyện ấy theo kiểu này. Tôi tưởng cô đã biết rồi. Susan cảm thấy vô cùng ân hận. - Tôi đã phản ứng quá dữ dội. Xin lỗi ngài. David quả là một sự lựa chọn tốt. Strathmore lơ đãng gật đầu. - Tối nay anh ta sẽ quay về. Susan nghĩ đến những thứ mà vị chỉ huy này đang phải trải qua - áp lực của việc giám sát TRANSLTR, làm việc, rồi họp hành liên tục không có thì giờ nghỉ ngơi. Người ta đồn rằng người vợ chung sống đã ba mươi năm cũng đang định bỏ ông mà đi. Bây giờ lại thêm chuyện Pháo Đài Số - hiểm hoạ đáng sợ đối với ngành tình báo trong lịch sử của NSA. Ấy vậy mà người đàn ông khốn khổ này đang phải đơn thương độc mã gánh chịu. Chẳng trách lúc nào ông ta cũng có vẻ như sáp nồ tung ra vậy. - Trong những trường hợp thế này - Susan lên tiếng - Tôi nghĩ có lẽ ngài nên gọi cho giám đốc.  Strathmore lắc đầu, một giọt mồ hôi nhỏ xuống bàn. - Tôi sẽ không thông báo cho giám đốc về một cuộc khủng hoảng mà ông ta không làm gì được. Để tránh làm hại đến sự an toàn của ông giám đốc hay làm rò rỉ thông tin này.  Susan biết rằng ngài chỉ huy đã đúng. Ngay cả trong những giờ phút khó khăn như thế này, Strathmore vẫn giữ được tỉnh táo. - Ngài đã nghĩ tới việc gọi điện cho Tồng thống chưa? Strathmore gật đầu. - Có. Tôi vừa quyết định không làm điều đó. Susan hiểu. Cấc quan chức hàng đầu của NSA có quyền giải quyết các trường hợp tình báo được xác nhận là khấn cấp mà không phải thông báo cho cơ quan hành pháp. NSA là tồ chức tình báo duy nhất của Mỹ được hưởng quyền miễn hoàn toàn tất cả các hình thức giải trình trách nhiệm trước Toà án Liên bang. Strathmore thường tận dụng đặc quyền này để tự mình giải quyết các công việc. - Thưa sếp! Việc này quá phức tạp và không thể giải quyết một mình. Ngài cần phải tìm ai đó để cùng giải quyết. - Susan, sự tồn tại của Pháo Đài Số liên quan mật thiết đến tương lai của NSA. Tôi không hề có ý định báo cáo với Tổng thống khi giám đốc đi vắng. Chúng ta đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng, và tôi sẽ tự giải quyết - ông trầm ngâm đưa mắt nhìn cô - Tôi là phó giám đốc ở đây - Một nụ cười mệt mỏi hiện lên khuôn mặt ông - Và ngoài ra, tôi không phải đơn thương độc mã. Tôi đã có cô - Susan Fletcher - làm hậu thuẫn. Vào giây phút đó. Susan chợt thấy vô cùng kính trọng Strathmore. Mười năm qua, dù thuận lợi hay khó khăn, ông luôn là người chỉ đường vạch lối cho cô. Vững vàng, kiên định, trước sau như một. Sự tận tuy của ông làm cô thấy kinh ngạc - lòng trung thành không gì lay chuyển đối với những nguyên tắc, đối với Tổ quốc và lý tưởng. Dù chuyện gì xảy ra, chỉ huy Trevor Strathmore luôn là ngọn đuốc soi đường trong một thế giới đầy rẫy những quyết định dường như không thể. - Cô đứng về phía tôi, đúng không?  Susan mỉm cười: - Vâng, thưa ngài. Một trăm phần trăm. - Tốt. Bây giờ chúng ta tiếp tục công việc được chứ? Đây không phải là lần đầu David Becker đi dự tang lễ và chứng kiến xác chết, nhưng lần này có một cái gì đó khiến anh cảm thấy vô cùng khó chịu. Đây không phải là một xác chết được vận bộ đồ sang trọng, sạch sẽ nằm yên nghỉ trong chiếc quan tài bọc lụa. Cơ thể này trần truồng, nằm chềnh ềnh trên chiếc bàn nhôm. Anh ta chết mà không nhắm mắt. Thay vì đó, cặp mắt nhìn thẳng lên sàn nhà lộ vẻ tiếc nuối và kinh hoàng. - Tư trang của anh ta đâu - Becker hỏi bằng tiếng Tây Ban Nha khá sõi. - Kia kìa - viên trung uy hé môi trả lời, để lộ ra hàm răng vàng khè. Anh ta chỉ đống quần áo và những tư trang cá nhân khác. - Tất cả đây sao? - Đúng thế! Becker hỏi xin một cái thùng giấy. Viên trung uý vội vã đi tìm. Đó là tối thứ Bảy, và nhà xác Seville đã sắp tới giờ đóng cửa. Viên trung uý trẻ được lệnh trực tiếp của giám đốc phòng xác dẫn đường cho Becker - dường như vị khách người Mỹ này là người rất có vai vế. Becker đưa mắt nhìn đống quần áo. Có một hộ chiếu, một cái ví một cặp kính mắc vào chiếc giầy. Còn có thêm một miếng vải len thô mà người bảo vệ đã lấy từ khách sạn nơi người đàn ông này đã ở. Becker được hướng dẫn khá rõ ràng, cụ thể: Không sờ vào bất kì cái gì. Không đọc một cái gì. Chỉ mang tất cả chúng về Mỹ. Mọi thứ. Không được để sót một thứ gì. Becker quan sát đống quần áo, cau mày nhăn nhó. NSA định làm gì với đống rác rưởi này chứ? Viên trung uý trẻ tuổi mang lại về một chiếc hộp nhỏ, và Becker nhanh chóng nhét quần áo vào trong. Anh ta chọc vào chân tử thi và hỏi: - Quienes? Gã này là ai? - Không biết. - Trông giống người Trung Quốc. Người Nhật chứ, Becker nghĩ. - Tội nghiệp gã. Đau tim à? Becker gật đầu lơ đãng. - Tôi thấy họ nói vậy - Viên trung uý thở dài, lắc đầu đầy vẻ cảm thông - Nắng ở Seville rất khắc nghiệt. Ngày mai khi đi ra ngoài, anh hãy cẩn thận nhé! - Cảm ơn! Nhưng tôi sẽ về nhà luôn. - Anh vừa mới đến cơ mà - Viên trung uý vô cùng ngạc nhiên. - Tôi biết, nhưng người đàn ông mua vé máy bay cho tôi đang chờ những vật này. Viên trung uý dường như thấy bị xúc phạm theo đúng kiểu người Tây Ban Nha. - Ý anh là anh sẽ không chiêm ngưỡng Seville sao? - Năm ngoái tôi đã đến đây rồi. Quả là một thành phố xinh đẹp. Tôi rất thích ở lại. - Vậy anh đã thăm La Girilda chưa? Becker gật đầu. Thực ra anh chưa bao giờ đặt chân lên toà tháp của người Marốc cổ xưa này, nhưng anh đã nhìn thấy nó. - Thế còn Alcazar? Becker vừa gật đầu vừa nhớ lại buổi tối anh được thưởng thức điệu nhạc Flamenco của Pacode Lucia ở sân, dưới ánh sao hiền dịu ở một pháo đài được xây từ thế kỷ XIX. Anh ước giá mà đã gặp Susan từ ngày ấy. - Và tất nhiên cả Christopher Columbus nữa cũng ở đó! - anh thanh niên tươi cười - Ông ấy được chôn cất tại nhà thờ của chúng tôi. Becker ngửng lên. - Thật không? Tôi tưởng người ta lưu giữ thi hài của Columbus ở Cộng hoà Domini chứ? - Chúa ơi! Đồn nhảm đấy! Thi hài của Columbus hiện đang được lưu giữ ở đây, trên đất nước Tây Ban Nha xinh đẹp này. Tôi tưởng anh nói anh đã đi học đại học. Becker nhún vai. - Chắc tôi đã để lỡ giờ giảng đó. - Nhà thờ Tây Ban Nha rất tự hào được bảo quản thi hài của ông ấy. Nhà thờ Tây Ban Nha. Berker biết ở Tây Ban Nha chỉ có một kiểu nhà thờ duy nhất - đó là nhà thờ của người theo đạo Thiên chúa giáo La mã. Nhà thờ Thiên chúa giáo La mã ở đây thậm chí còn hùng mạnh hơn cả ở thành phố Vantican. - Tất nhiên chúng tôi không được vinh dự bảo quản - viên trung uý nói thêm - Chỉ một phần thôi. Becker ngừng xếp đồ, nhìn chằm chằm viên trung uý. Chỉ một phần thôi sao? Anh cố nhịn cười. - Chỉ một phần thôi sao? Người sĩ quan gật đầu đầy vẻ tự hào. - Vâng. Khi nhà thờ lưu giữ thi hài của một người vĩ đại như thế, họ tấn phong ông là thánh và chia sẻ thi hài đó cho các nhà thờ khác vì vậy mà ai cũng có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp đặc biệt của những nhà thờ này. - Và ở đây các anh có… - Becker cố nén cười. - Ô! Đó là một phần rất quan trọng! Không giống như việc chúng tôi có một giẻ xương sườn hay một đốt ngón tay như những nhà thờ khác ở Galicia. Anh nên ở lại đây để chiêm ngưỡng. Becker gật đầu cho phải phép. - Có thể trên đường về tôi sẽ ghé qua. - Tiếc quá - Viên trung uý thở dài. Đến tận bình minh nhà thờ mới mở cửa. - Thế thì lần khác vậy - Becker mỉm cười, nhấc chiếc hộp lên. - Có lẽ tôi nên đi. Máy bay đang chờ tôi - Nói xong, anh đưa mắt nhìn căn phòng lần cuối. - Anh có muốn tôi đưa đến sân bay không? Tôi có xe môtô Guzzi ở ngoài cửa. - Ồ không cảm ơn. Tôi sẽ đi ta-xi. Becker đã từng lái xe môtô một lần khi anh còn là sinh viên, và suýt chết. Từ đó trở đi, anh không có ý định đi môtô thêm một lan nào nữa, bất kể do ai cầm lái. - Cho dù anh nói gì đi chăng nữa - viên trung uý vừa nói vừa bước về phía cửa ra vào - Tôi cũng phải tắt đèn. Becker vòng tay ôm chiếc thùng giấy. Mình đã có hết mọi thứ chưa nhỉ? Anh nhìn lần cuối vào xác chết đang nằm trên bàn. Dưới ánh đèn huỳnh quang, một thân hình trần như nhộng, không một mảnh vải che thân lồ lộ trước mắt anh. Đôi tay biến dạng đã thu hút ánh mắt của Becker. Anh cúi xuống nhìn nó chằm chằm. Viên trung uý tắt đèn, căn phòng chìm vào bóng tối. - Khoan đã!  - Bật đèn lên! - Becker ra lệnh. Đèn nhấp nháy rồi sáng trở lại. Becker đặt chiếc hộp xuống sàn và tiến lại gần xác chết. Anh cúi xuống và nhìn không chớp mắt vào cánh tay trái của người đàn ông xấu số. Viên trung uý nhìn theo Becker, nhận xét: - Rất xấu, đúng không? Nhưng cái mà Becker chú ý đến không phải là việc cánh tay bị biến dạng. Anh đã phát hiện ra một thứ khác. Quay sang viên trung uý, anh nói: - Có chắc là mọi thứ đều ở trong hộp chứ? Người trung uý gật đầu. - Vâng. Đúng thế. Becker chống tay vào hông. Một lát sau anh nhặt chiếc hộp lên, mang nó quay lại, và đặt phịch xuống đất. Rất cẩn thận anh giũ tung đống quần áo ra. Sau đó anh dốc ngược đôi giày xuống rồi bóp nó như thể là đang cố gắng vất bỏ một hòn sỏi trong giầy ra. Sau khi làm xong lần thứ hai, anh bước lại chỗ viên trung uý, cau mày: - Có chuyện gì chăng? - Đúng thế - Becker nói. - Chúng ta đã để sót một thứ gì đó… Chương 13 Tokugen Numataka đang ở văn phòng sang trọng của mình trên tầng cao nhất của một toà nhà chọc trời ở Tokyo. Tất cả nhân viên và đối thủ cạnh tranh đều biết rõ ông ta, một sakuta same - một con cá mập nguy hiểm. Trong vòng ba thập kỷ qua, ông ta luôn vượt trội so với tất cả các đối thủ cạnh tranh ở Nhật Bản; và bây giờ sắp trở thành một người khổng lồ trên thị trường thế giới. Ông ta đang hoàn tất cuộc làm ăn lớn nhất trong đời - một cuộc làm ăn có thể tạo dựng tương lai cho Tập đoàn Numatech trở thành một Microsoft của tương lai. Mạch máu của ông sôi lên như có thuốc kích thích. Thương trường là chiến trường - Và chiến trường thì luôn sôi động. Mặc dù ba hôm trước, Tokugen Numataka nghi ngờ về cuộc gọi đó, nhưng hôm nay ông biết đó chính là sự thật. Tự dưng ông ta được món hời trên trời rơi xuống. Chúa đã chọn ông ta. *** - Tôi có một phiên bản chìa khoá giải mã của Pháo Đài Số - Một giọng Mỹ - Ông có muốn mua không? Numataka suýt bật cười thành tiếng. Ông ta biết đó là một âm mưu. Tập đoàn Numatech đã bỏ ra một khoản tiền khồng lồ để có được thuật toán mới của Ensei Tankado, và bây giờ một đối thủ cạnh tranh với Numatech đang giở trò, hòng biết được số tiền mà Numatech trả cho cuộc đấu giá này. - Anh có chìa khoá giải mã - Numataka giả vờ quan tâm. - Tôi có. Tôi là North Dakota. Numataka nén cười. Ai mà chẳng biết North Dakota. Tankado đã nhiều lần tiết lộ với cánh báo chí về một cộng sự bí mật. Tankado quả là rất khôn ngoan khi có một người cộng sự, bởi vì ngay cả ở Nhật Bản, giới kinh doanh cũng sẵn sàng giở đủ mọi trò đê tiện. Ensei Tankado không thể an toàn. Chỉ cần một hành động thái quá của một hãng phần mềm đang khao khát có chìa khoá giải mã, ngay lập tức nó sẽ được công khai, và không một hãng phần mềm nào trên thế giới không bị tổn thất. Numataka hít một hơi thuốc xì gà Umani và định chơi xỏ lại. - Anh đang muốn bán chiếc chìa khoá giải mã? Thú vị đây. Thế Ensei Tankado có ý kiến gì không? - Lòng trung thành của tôi không dành cho ngài Tankado. Ông ấy thật là ngốc vì đã tin tưởng tôi. Chiếc chìa khoá giải mã này đáng giá gấp hàng trăm lần cái giá mà tôi được trả để giữ nó cho ông ta. - Tôi rất tiếc - Numataka nói - Chỉ riêng chiếc chìa khoá giải mã của anh thì chẳng có nghĩa lý gì với tôi. Khi phát hiện ra hành động của anh, Tankado chỉ việc công bố phiên bản mà anh ta giữ, và nó sẽ tràn ngập trên thị trường. - Ông sẽ nhận được cả hai chiếc - giọng nói đầu dây bên kia lên tiếng - Của Tankado và cả của tôi..  Numataka bịt ống nghe và cười phá lên. Ông ta không thể không hỏi: - Anh muốn bao nhiêu cho cả hai chiếc chìa khoá? - Hai mươi triệu đôla Mỹ.  Hai mươi triệu đôla Mỹ. Gần bằng cái giá mà Numataka đã đưa ra trong cuộc đấu giá. - Hai mươi triệu? - Ông ta giả vờ thở kinh ngạc - Điên rồ!" - Tôi đã trông thấy thuật toán đó. Tôi cá là nó đáng giá như thế. Mẹ kiếp, Numataka nghĩ. Nó đáng giá gấp mười lần số tiền đó ấy chứ. - Nhưng thật không may - Ông ta nói giọng mệt mỏi vì trò đùa này - Cả tôi và anh cùng biet là ngài Tankado sẽ không bao giờ tán thành việc này. Hãy nghĩ đến những hậu quả nếu vụ việc này được đưa ra pháp luật. Người gọi ngập ngừng: - Thế nếu ngài Tankado không còn sống nữa? Numataka suýt cười phá lên, nhưng lại gật đầu đầy quyết đoán: - Nếu Tankado không còn sống nữa - Numataka suy nghĩ - Thì tôi và anh sẽ có một cuộc mua bán. - Tôi sẽ liên lạc lại! - giọng nói lên tiếng, rồi máy bị cúp. Becker cúi nhìn xác chết. Thậm chí nhiều giờ sau khi chết, gương mặt của một người châu Á này vẫn hằn các vệt hồng hồng do bị cháy nắng. Các phần khác đều tái nhợt, xám xịt, trử một phần vết thâm tím trên ngực anh ta. Có lẽ là CPR (phương pháp hồi sức cho tim), Becker ngẫm nghĩ. Đáng tiếc là không có tác dụng. Anh lại tiếp tục nghiên cứu đôi bàn tay tử thi. Lần đầu tiên anh gặp đôi bàn tay thế này. Mỗi bàn tay chỉ gồm ba ngón xẹo và vặn xoắn. Tuy nhiên, sự dị dạng này không phải là cái mà Becker để mắt tới. - Hừm, tôi sẽ… - Tử góc bên kia vườn, viên trung uý làu bàu - Anh ta là người Nhật đấy, không phải người Trung Quốc đâu.  Becker ngẩng đầu lên. Anh ta đang cầm hộ chiếu của người đã chết. - Tốt hơn là anh không nên xem nó - Becker yêu cầu. Đừng, đừng đọc bất cứ thử gì. - Ensei Tankado… sinh tháng Một… - Làm ơn đi mà - Becker lịch sự nói - Hãy để nó lại chỗ cũ. Viên sĩ quan nhìn chằm chằm vào quyển hộ chiếu một hồi rồi ném nó về đống quần áo. - Gã này có chiếc visa loại 3. Anh ta có lẽ đã ở đây hàng năm trời rồi. Becker lấy bút chọc vào tay nạn nhân. - Có thể anh ta đã sống ở đây. - Không. Tuần trước anh ta mới đến đây. - Có thể anh ta đang chuẩn bị chuyến đến đây - Becker sẵng giọng. - Vâng, có thể lắm. Tuần đầu bận rộn nên say nắng rồi đau tim. Khổ thật.  Becker phớt lờ lời nói của viên sĩ quan và quan sát kỹ bàn tay. - Anh có cho rằng anh ta đã không đeo bất kì một loại trang sức nào khi chết không? Viên sĩ quan ngấng đầu thảng thốt. - Trang sức ư? - Đúng thế. Hãy nhìn đây! Viên sĩ quan tiến lại gần. Da tay trái của Tankado chứng tỏ rằng anh ta đã bị cháy nắng, mọi chỗ trừ một vòng thịt nhỏ quanh ngón út. Becker chỉ vào vòng thịt tái nhợt. - Hãy nhìn này. Tại sao chỗ này không bị cháy nắng? Có vẻ như là anh ta đã đeo một chiếc nhẫn. Viên sĩ quan tỏ vẻ vô cùng ngạc nhiên. - Một chiếc nhẫn ư? - Đột nhiên anh ta lúng tứng. Sau một hồi nghiên cứu ngón tay của tử thi, anh ta thẽ thọt thốt lên - Lạy Chúa! Câu chuyện này có thật sao? Becker đột nhiên thấy rất nôn nao. - Anh vừa nói cái gì? Viên sĩ quan lắc đầu. - Lẽ ra tôi phải nói từ trước… nhưng tôi tưởng gã đó chỉ là một gã gàn gàn dở dở. - Gã nào - Becker nghiêm mặt. - Gã đã gọi điện trong trường hợp rất khẩn cấp. Một khách du lịch người Canada nào đó. Luôn mồm nhắc đến chiếc nhẫn. Lão nói tiếng Tây Ban Nha dở kinh khủng. - Ông ta nói rằng ngài Tankado có đeo một chiếc nhẫn? Viên trung uý gật đầu, lôi từ túi áo ra một điếu Ducado, nhìn thấy biển cấm hút thuốc lá, anh ta do dự rồi cuối cùng vẫn châm lửa. - Lẽ ra tôi nên nói một điều gì đó, nhưng thằng cha đó điên rồ không chịu được. Becker nhăn mặt. Những lời nói của Strathmore vang vọng trong tai anh: "Tôi muốn tất cả mọi thứ Ensei Tankado mang theo bên mình. Tất cả. Không để sót bất kì một cái gì, thậm chí là một mẩu giấy thừa bé tẹo". - Chiếc nhẫn bây giờ ở đâu? - Becker hỏi. Viên sĩ quan thả một hơi thuốc: - Đó là một câu chuyện dài.  Có một điều gì đó mách bảo Becker rằng đây không phải là một tin tốt lành. - Dù gì anh cũng phải kể cho tôi. Chương 15 Susan Fletcher ngồi trước máy ở Node 3. Node 3 là một phòng kín, cách âm, khuất sau tầng một, nơi các nhân viên mật mã làm việc. Một lớp kính dày hai inch với một mặt cong cho phép các nhân viên mật mã có được bức tranh toàn cảnh đại sảng trung tâm Crypto, đồng thời ngăn không cho ai nhìn từ ngoài vào trong phòng. Ở phía cuối Node 3 đặt mười hai chiếc máy vi tính được đặt quây thành hình tròn. Mục đích là để khuyến khích các nhân viên mật mã trao đối ý kiến, và để nhắc rằng họ là một phần của một êkíp lớn - giống như là các hiệp sĩ giải mã ngồi Bàn Tròn. Vậy mà, mỉa mai thay, ngay trong Node3 vẫn có những điều được coi là bí mật. Được mệnh danh là cái cũi. Node 3 không giống với tất cả các phòng khác của Crypto, được thiết kế để đem lại cảm giác khoan khoái giống như ở nhà, những chiếc thảm trải nhà sang trọng, hệ thống âm thanh công nghệ cao, chiếc tủ lạnh chất đầy đồ ăn, thức uống, một gian bếp nhỏ, sân bóng rổ Nerf. Lãnh đạo NSA am hiểu rất tường tận về Crypto, đừng có bao giờ đổ vài tỷ đô la vào một chiếc máy vi tính giải mã nếu không dụ được những người thông minh nhất trong những người thông minh theo dõi và sử dụng nó. Nhón chân trên đôi giày Salvatore Ferragamo đế bằng, Susan rón rén đặt chân lên những tấm thảm dày cộp để bước ra ngoài. Nhưng viên chức nhà nước được hưởng lương cao đều được khuyến khích không nên khoa trương sự giàu có của mình. Điều này chẳng bao giờ làm Susan phải bận tâm - cô luôn cảm thấy hài lòng với căn hộ nhỏ bé, chiếc ô tô hiệu Volvo và chiếc tủ quần áo khiêm nhường. Nhưng giày dép lại là một vấn đề khác. Thậm chí hồi còn là sinh viên, cô sẵn sàng mua những đôi đắt nhất chỉ đơn giản chỉ vì cô thích chúng. Chân đau thì chẳng thế mơ leo lên được đến trời, dì cô đã từng nói thế. Và một khi đã đến được nơi cần đễn, chúng ta thực sự được mãn nguyện. Susan cho phép mình nghỉ một lúc rồi lại lao vào công việc. Cô tìm phần mềm dò tìm và chuẩn bị định dạng nó, mắt liếc nhìn địa chỉ e-mail mà Strathmore đã đưa. [email protected] Người đàn ông tự xưng là North Dakota có một địa chỉ thư điện tử nặc danh, nhưng Susan chắc chắn nó sẽ nhanh chóng không còn là nặc danh nữa. Phần mềm dò tìm sẽ xâm nhập vào ARA, gửi đến North Dakota, rồi sau đó sẽ gửi lại những thông tin liên quan đến địa chỉ Internet thật của anh ta. Nếu như mọi thứ suôn sẻ, phần mềm sẽ nhanh chóng xác định được vị trí của North Dakota, và Strathmore sẽ có thể lấy được chìa khoá giải mã. Khi David tìm ra phiên bản của Tankado thì cả hai chiếc chìa khoá có thể sẽ đều bị phá huỷ, quả bom hẹn giờ của Tankado sẽ trở nên vô dụng như một khối thuốc nổ không có ngòi. Susan kiểm tra hai lần địa chỉ hiện ra trước mặt cô và nhập thông tin vào phần kiểm tra dữ liệu đúng. Cô thích thú cười thầm khi thấy Strathmore không thể tự gửi phần mềm dò tìm này được. Rõ ràng là ông ta đã gửi đi hai lần, nhưng cả hai lần đều nhận được địa chỉ e-mail của Tankado chứ không phải của North Dakota. Đó là một sai lầm rất dễ hiểu; có thể Strathmore đã thay đổi trường dữ liệu, vì vậy phần mềm dò tìm đã tìm không đúng account cần tìm. Susan nhập xong thông tin một lát thì chiếc máy vi tính kêu lên một tiếng bíp. PHẦN MÊM DÒ TÌM ĐÃ ĐƯỢC GỬI. Bây giờ thì chỉ việc ngồi chờ. Susan bỗng nhiên thở dài, cô thấy có lỗi vì đã phản ứng quá mạnh đối với chỉ huy của mình. Nếu có một ai đó đủ năng lực để một mình giải quyết vấn đề, thì người đó không thể là ai khác ngoài Trevor Strathmore. Ông thực sự là một thiên tài trong việc thu phục những người thách thức mình. Sáu tháng trước, khi EFF khui ra vụ một tàu ngầm mà NSA dùng để cài máy nghe trộm vào hệ thống đường dây điện thoại dưới nước, Strathmore đã khôn ngoan tung thông tin rằng chiếc tàu ngầm đó thực ra đang chở chất thải độc hại phi pháp. Ngay lập tức, EFF và các nhà bảo vệ đại dương đã mất nhiều thời gian tranh luận xem thông tin nào là đúng đến nỗi cuối cùng các phương tiện thông tin đại chúng trở nên mệt mỏi và bỏ qua toàn bộ vụ việc. Trước bất kỳ hành động nào, Strathmore đều lên kế hoạch kĩ lưỡng, tỉ mỉ. Cũng giống những nhân viên khác của NSA, Strathmore đã sử dụng một phần mềm do NSA xây dựng, được gọi là BrainStorm- một phần mềm chương trình máy tính có khả năng nêu ra tất cả các khả năng diễn biến của sự việc nhằm bảo mật sự tồn tại của TRASTLR. BrainStorm là tên một thử nghiệm tình báo nhân tạo mà các tác giả của nó đã dựa trên nguyên lý nhân quả. Lúc đầu nó được chế tạo để phục vụ cho các cuộc vận động chính trị như là một phương pháp tạo ra các mô hình xử lý thông tin trong "một môi trường chính trị cụ thể". Được nạp một khối lượng dữ liệu khổng lồ, chương trình này đã tạo ra một môi trường ảo - một mô hình giả thuyết về sự tương tác giữa các biến cố chính trị, bao gồm các nhân vật chính trị lỗi lạc, nhân viên của họ, những mối quan hệ cá nhân với nhau, những vấn đề nóng bỏng, những động cơ cá nhân được tính toán dựa trên những tiêu chí khác nhau như giới tính, tính cách, sắc tộc, tiền bạc và quyền lực. Sau đó người sử dụng có thể nhập một sự kiện mang tính giả thuyết vào và BrainStorm sẽ dự đoán những ảnh hưởng của sự kiện đó đối với môi trường này. Là một thiết bị TFM (Time-Line, Flowchart, Mapping) nó là một công cụ hữu ích để vạch ra những chiễn lược phức tạp và dự đoán những điểm yếu của chiến lược đó. Và đó chính là lý do tại sao chỉ huy Strathmore thường xuyên sử dụng BrainStorm. Susan cho rằng bên trong máy tính của Strathmore có thể có những kế hoạch có khả năng làm biến đổi cả thế giới. Mình đã không phải với ông ấy, Susan tự nhủ. Tiếng mở cửa Node 3 làm cô giật mình. Strathmore thình lình xuất hiện. - Susan! David vừa gọi điện về. Đã có một manh mối. - Một chiếc nhẫn ư? - Susan hoài nghi. - Tankado bị mất một chiếc nhẫn? Đúng thế. May mà David đã tìm thấy. Màn kịch đã kết thúc. - Nhưng ông đang tìm chìa khoá giải mã chứ có tìm đồ trang sức đâu. - Tôi biết, nhưng cũng thế cả thôi mà. Susan lúng túng. Đó là một câu chuyện dài. Susan đưa tay chỉ màn hình vi tính và nói: - Vẫn chưa đâu vào đâu cả! Strathmore thở dài, đi tới đi lui. - Như chúng ta biết một số người đã chứng kiến cái chết của Tankado. Theo lời viên trung uý phụ trách nhà xác, sáng nay một du khách người Canada đã hốt hoảng gọi cảnh sát và báo rằng một người Nhật Bản đang bị cơn đau tim hành hạ trong công viên. Khi viên trung uý ấy đến thì Tankado đã chết, vị du khách Canada vẫn còn ở đó, anh ta đã gọi các nhân viên y tế. Trong khi các nhân viên y tế đưa xác Tankado đi anh ta đã cố gắng yêu cầu vị du khách tường thuật lại toàn bộ sự việc. Điều duy nhất ông già Canada đó có thể làm là bập bẹ nói về một chiếc nhẫn mà Tankado đã đem cho trước khi chết. Susan đưa mắt nhìn một cách đầy nghi ngờ. - Tankado đã đem cho chiếc nhẫn? - Đúng thế. Rõ ràng là khi anh ta dúi nó vào tay gã này, anh ta đã năn nỉ hắn cầm lấy. Có vẻ như người Canada này đã kịp quan sát chiếc nhẫn - Strathmore đột nhiên dừng lại, quay đầu về Susan - Ông ta nói rằng trên chiếc nhẫn có khắc một kiểu chữ nào đó. - Chữ ư? - Đúng thế, và còn cho biết đó không phải là tiếng Anh. - Strathmore nhướng mày chờ phản ứng của Susan. - Hay là tiếng Nhật? Strathmore lắc đầu: - Lúc đầu tôi cũng nghĩ thế. Nhưng ông ta nói rằng không thể đánh vần được những chữ cái đó. Ông ta không thể nhầm chữ Nhật với các con chữ Latinh. Ông ta còn thấy những hình chạm khắc đó giống mèo cào cơ… Susan cười phá lên. - Thưa sếp, ngài không thực sự cho rằng… Strathmore ngắt lời cô: - Susan, mọi chuyện đã rõ như ban ngày. Tankado đã khắc chìa khoá Pháo Đài Số lên chiếc nhẫn. Vàng là thứ kim loại tốt. Bất kể khi ngủ, tắm hay ăn, thì chiếc chìa khoá giải mã luôn ở bên anh ta, sẵn sàng cho giây phút đem ra công bố. Susan dường như vẫn còn hoài nghi. - Trên ngón tay? Lộ liễu như thế kia à? - Tại sao không? Tây Ban Nha không phải là thế giới của các chuyên gia giải mã. Không một ai biết những chữ đó hàm ẩn điều gì. Hơn thế nữa, nếu chiếc chìa khoá đó là một bit 64 chữ cái thì thậm chí giữa ban ngày cũng chẳng ai nhớ được tất cả sáu mươi tư kí tự như thế. - Và Tankado đã đưa chiếc nhẫn đó cho một người hoàn toàn xa lạ trước khi chết - Susan thắc mắc - Tại sao chứ? Strathmore nheo mắt: - Theo cô thì tại sao nào? Chỉ một tích tắc Susan đã hiểu ra vấn đề. Mắt cô mở to. Strathmore gật đầu. - Tankado cố gắng vứt nó đi. Anh ta biết mình sắp chết và có thể cho rằng chúng ta có trách nhiệm trong việc này. Thời điểm của cái chết giống như trời định. Anh ta có thể cho rằng chúng ta đã truy tìm anh ta, một người đang bị rối loạn tim chỉ chờ ngày chết, để đầu độc hay làm gì đó tương tự. Điều duy nhất anh ta biết chắc chắn là nếu tìm được North Dakota, chúng ta sẽ thủ tiêu anh ta. Susan cảm thấy ớn lạnh. - Đương nhiên - cô thì thầm. - Tankado nghĩ rằng biện pháp tự vệ của anh ta đã bị chúng ta vô hiệu hoá, thì đương nhiên là anh ta sẽ bị tiêu diệt. Bây giờ Susan đã rõ tất cả. Thời điểm xảy ra bệnh đau tim có vẻ có lợi cho NSA đến nỗi Tankado cho rằng NSA dính líu trong vụ này. Mục đích cuối cùng của anh ta là trả thù. Ensei đã đem cho chiếc nhẫn để công bố chìa khoá giải mã. Và hiện giờ một du khách Canada lại đang nắm giữ trong tay thuật toán giải mã vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Susan hít một hơi thở dài và hỏi tiếp. - Vậy bây giờ du khách Canada đó ở đâu? Strathmore nhăn mặt. - Vấn đề chính là ở chỗ đó. - Viên trung uý không biết ông ta ở chỗ nào à? - Không. Lời khai của du khách đó khó tin đến mức anh ta cho rằng đó là đo ông ta bị sốc hoặc là do tuổi già. Vì vậy anh ta đã lấy xe máy chở ông ta về khách sạn. Nhưng ông già đó không biết ngồi sau xe máy, kết quả là chưa đi đầy 1 mét, ông ta đã bị ngã vỡ đầu và gẫy tay. - Cái gì cơ! - Susan cảm thấy ngạt thở. - Viên trung uý muốn đưa ông ta đến bệnh viện, nhưng ông ta đã rất tức giận - nói rằng phải quay về Canada và nhất định không leo lên xe máy lần nào nữa. Vì vậy tất cả những gì mà viên cảnh sát có thể làm là dìu ông ta đến một trạm xá gần đó và để cấp cứu ông ta ở đó.  Susan cau mày. - Tôi cho rằng chúng ta không cần hỏi David đang đi đến đâu. Chương 17 David Becker bước vào toà nhà Plaza de Espana nóng như thiêu như đốt. Đằng sau anh là toà thị chính thành phố cố kính El Ayuntamiento với những vòm mái màu xanh dương và trắng ẩn sau những rặng cây, toạ lạc trên vùng đất rộng ba héc ta. Những chóp mái kiểu Ảrập và mặt tiền được chạm trố tinh vi khiến cho toà nhà trông giống như một lâu đài hơn là một văn phòng làm việc. Mặc dù ở đây đã xảy ra những vụ bạo động, hoả hoạn, treo cố tự vẫn, nhưng khách du lịch vẫn đến vùng đất này vì những cuốn hướng dẫn du lịch luôn so sánh nó với một trung tâm quân sự trong phim Lawrence xứ Ảrập. (Hãng phim Columbia Pictures làm phim tại Tây Ban Nha vì chi phí rẻ hơn nhiều lần so với ở Ai Cập. Và những ảnh hưởng của phong cách Bắc Phi trong lối kiến trúc ở Seville cũng đủ sức thuyết phục mọi khán giả xem phim là họ đang chiêm ngưỡng Cairo.) Becker chỉnh đồng hồ theo thời gian địa phương: 9:10 tối, giờ này vẫn được dân địa phương coi là buổi chiều. Một người Tây Ban Nha chính gốc không bao giờ dùng bữa tối trước khi mặt trời lặn, mà ông mặt trời lười nhác ở vùng Andalusia thì chỉ khuất núi sau mười giờ tối. Mặc cho không khí nóng bức của buổi chiều tà, Becker vẫn rảo bước nhanh qua công viên. Sáng ngày hôm đó, mệnh lệnh của ngài Strathmore trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Yêu cầu của ông ta rất rõ ràng: tìm tay người Canada, lấy chiếc nhẫn. Làm bất cứ điều gì, chỉ cần lấy được chiếc nhẫn. Becker tự hỏi có gì quan trọng ở chiếc nhẫn có khắc chữ đó chứ. Nhưng Becker không hỏi. NSA, anh tự nghĩ, nghĩa là không được hỏi gì hết. Ở phía bên kia của toà nhà Avenida Isabela Catolica, phòng khám chữa bệnh hiện rõ trong ánh hoàng hôn. Trên nóc nhà phấp phới lá cờ chữ thập đỏ trong hình tròn trắng. Nhân viên cảnh sát Guardia đã đưa tay người Canada đến đây vài tiếng trước, cổ tay bị gẫy, đầu bị vỡ. Không còn nghi ngờ gì nữa, nạn nhân đã được sơ cứu và đưa vào đây. Becker hy vọng bệnh viện sẽ cung cấp thông tin về một khách sạn địa phương hay một số điện thoại nào đó nơi tìm thấy người đàn ông này. Với chút xíu may mắn, Becker nghĩ mình có thể tìm thấy tay người Canada, lấy chiếc nhẫn và trở về nhà mà không chút rắc rối nào cả. Ngài Strathmore nói với Becker: "Dùng mười nghìn đô tiền mặt để mua chiếc nhẫn đó, nếu cần thiết. Tôi sẽ hoàn trả lại anh sau". "Điều đó không cần thiết" Becker nói. Anh định sẽ trả lại tiền. Anh đến Tây Ban Nha không phải vì tiền, mà là vì Susan. Ngài Trevor Strathmore là người thầy, người giám hộ của Susan. Susan nợ ông ta rất nhiều, những gì Becker có thể làm chỉ là một chuyến đi kéo dài một ngày. Thật không may, mọi thứ vào sáng nay đã không hoàn toàn như kế hoạch của Becker. Anh hy vọng sẽ gọi cho Susan từ máy bay và giải thích mọi thứ. Becker đã cố gọi cho Susan ba lần. Trước tiên từ bốt điện thoại nhỏ gần ngay trạm điện thoại của sân bay nhưng nó đã bị hỏng. Một lần từ nhà xác. Nhưng Susan không nhấc máy. David băn khoăn không biết cô đã đi đâu. Anh chỉ nghe thấy tiếng máy trả lời tự động, nhưng anh không để lại lời nhắn gì cả. Những gì anh muốn nói không thể như tin nhắn cho chiếc máy trả lời tự động được. Khi ra đến đường, anh đến trạm điện thoại gần lối vào công viên. Anh bước vào, vồ lấy ống nghe, cắm thẻ điện thoại vào gọi. Một khoảng khá lâu đợi máy kết nối. David nghe thấy tiếng chuông đổ. Thôi nào, nhấc máy đi.. Sau năm hồi chuông đổ - Xin chào! Đây là số điện thoại của Susan Fletcher. Xin lỗi tôi không có nhà, nếu bạn để lại tên… Becker nghe tin nhắn và tự hỏi, cô ấy đi đâu nhỉ? Lúc này nhất định Susan đang rất lo lắng. Liệu cô ấy đến Stone Manor mà không có anh không? Sau đó có một tiếng bíp. - Chào em, David đây! - Anh dừng lại, không biết phải nói gì. Điều anh ghét nhất ở máy trả lời tự động là nếu dừng lại để nghĩ thì nó sẽ cắt cuộc gọi ngay. - Xin lỗi vì anh đã không gọi cho em.  Anh thốt ra vừa kịp lúc. Không biết có nên nói cho cô ấy biết chuyện gì đang xảy ra hay không? Nhưng anh nghĩ tốt hơn hết là gọi cho ngài Strathmore. Ông ấy sẽ giải thích cho Susan. Tự nhiên trái tim anh thót lên, "Thật là ngu xuẩn" "Anh yêu em" David nói nhanh và cúp máy. Becker đợi xe đến Avenida Borbolla. Anh nghĩ chắc Susan sẽ nghĩ đến điều tồi tệ nhất. Cung cách này không giống anh chút nào. Không gọi điện như đã hứa. Becker bước trên đại lộ bốn làn đường và tự nhủ "Tiếp tục hay thoái lui?". Anh chợt thấy lo lắng khi thấy một người đàn ông đeo kính gọng kim loại đang quan sát suốt dọc đường phố. Đứng sau tấm cửa sổ kính rộng rãi của một căn phòng tại cao ốc của mình ở Tokyo, Numataka rít một hơi xì gà và mỉm cười. Ông ta không thể tin nối mình lại may mắn đến thế. Ông ta đã nói chuyện với tên người Mỹ, nếu mọi chuyện theo đúng kế hoạch Ensei Tankado đã bị trừ khử, và ông ta sẽ có bản sao mật khẩu. Thật nực cười, Numataka tự nghĩ, là mình lại có được mật khẩu của Ensei Tankado. Tokugen Numataka gặp Tankado nhiều năm về trước. Một lập trình viên trẻ tuổi mới ra trường đã đến tìm việc tại công ty Numatech Corp. Numataka đã từ chối người đó. Không có gì nghi ngờ là Tankado rất thông minh, nhưng vào thởi gian đó, có nhiều sự lựa chọn khác nữa. Mặc dù nước Nhật đang phát triển, nhưng Numataka lại được đào tạo trong một ngôi trường kiểu cũ, ông ta sống theo luật menboko - trọng danh dự và thể diện. Ông ta không thể chấp nhận bất cứ điều gì không hoàn hảo. Nếu ông ta thuê một kẻ tàn tật, điều này là không thể chấp nhận được ở công ty của ông ta. Cho nên ông ta vứt ngay sơ yếu lý lịch của Tankado mà không thèm xem qua. Numataka kiểm tra đồng hồ một lần nữa. Đáng ra tên người Mỹ, North Dakota, đã phải gọi cho ông ta rồi. Numataka cảm thấy hơi bồn chồn. Hy vọng không có điều gì xấu xảy ra. Nếu mật khẩu hoạt động như lời đảm bảo thì họ có thể bẻ khoá một chương trình đang được săn lùng nhất hiện nay trong kỷ nguyên máy tính, một chương trình mã hoá không thể giải mã được. Numataka có thể giữ chương trình mã hoá này trong con chíp đóng dấu VSLI chống giả mạo và rao bán rộng rãi cho cho các nhà sản xuất máy tính, chính phủ các nước, các ngành công nghiệp, và có lẽ cả thị trường đen… thị trường của bọn khủng bố. Numataka mỉm cười. Như thường lệ, ông ta lại được hưởng sự may mắn do thần Shichigosan ban tặng. Công ty Numatech Corp sẽ kiểm soát bản sao duy nhất của Pháo Đài Số. Hai mươi triệu đô la là một khoản tiền lớn, nhưng nếu đem so với chương trình mã hoá này thì đó quả là vụ trộm béo bở nhất trong thế kỷ. Chương 19 - Nếu như cũng có ai đó đang tìm kiếm chiếc nhẫn thì sao? - Susan tự hỏi và bỗng nhiên cảm thấy lo lắng. - Có thể David đang gặp nguy hiểm. Ngài Strathmore lắc đầu: - Không ai biết rằng chiếc nhẫn đó tồn tại. Vì thế mà tôi đã cử David đi. Tôi muốn làm như vậy. Những kẻ quan tâm sẽ chẳng buồn theo đuôi một thầy giáo đâu. - Anh ấy là một giáo sư - Susan chữa lại, nhưng lại cảm thấy hối tiếc Giáo sư David cũng chẳng là gì đối với ngài chỉ huy, và ông ta nghĩ dù sao thì cô cũng làm tốt hơn một thầy giáo - Thưa sếp! - Susan nói - nhỡ có ai biết được là sáng nay ngài chỉ dẫn cho David bằng điện thoại trên ô tô thì sao? - Cơ hội ngàn năm có một. - Ngài Strathmore cắt ngang lởi cô, giọng ông làm cô yên lòng - Bất cứ kẻ nghe trộm nào trong những tình huống cụ thể sẽ phải biết mình sẽ phải lắng nghe cái gì - Ông đặt bàn tay của mình lên vai cô và nói - Tôi không bao giờ cử David đi nếu có nguy hiểm - Ông cười với cô. - Hãy tin tôi. Nếu có bất cứ dấu hiệu nguy hiểm nào, tôi sẽ cử một chuyên gia đi hỗ trợ. Những lời nói của ông bị ngắt quãng do tiếng ai đó đập mạnh vào Node 3. Susan và Strathmore cùng quay lại. Nhân viên Phil Chartrukian đang in mặt mình trên tấm kính đối diện và đang đụng rất mạnh vào tấm cửa, khuôn mặt căng thẳng và anh ta đang cố nói qua cửa kính. Nhưng họ không thể nghe thấy anh ta đang cố nói gì qua tấm cửa kính cách âm. Trông anh ta kinh hoàng như vừa nhìn thấy ma. - Chartrukian đang làm cái quái gì ở đây vậy nhỉ? - Strathmore lẩm bẩm - Anh ta có phải trực hôm nay đâu cơ chứ? - Hình như anh ta có van để rồi - Susan nói. - Có thế anh ta đã nhìn thấy màn hình vi tính đang chạy bên kia. - Quái quỷ thật! - Strathmore rít lên - Tôi đã nói những nhân viên an ninh hệ thống phải trực không được đến đây cơ mà. Susan không hề thấy ngạc nhiên. Hoãn lịch làm việc của nhân viên là điều bất thường, nhưng ngài Strathmore muốn được ở một mình trong toà nhà này. Điều ông lo sợ là những nhân viên này sẽ hoảng sợ và tiết lộ thông tin về Pháo Đài Số. - Tốt hơn hết là chúng ta nên dừng TRANSLTR - Susan nói. - Chúng ta chỉnh lại màn hình chạy và nói cho Phil biết cái gì đang xảy ra. Strathmore xem xét điều Susan nói, nhưng ông lắc đầu. - Không được máy TRANSLTR đã chạy được 15 tiếng rồi. Tôi muốn nó chạy giải mã trong 24 tiếng, để đảm bảo thật chắc chắn. Điều này tác động đến Susan. Pháo Đài Số lần đầu tiên sử dụng chức năng giải mã văn bản gốc tuần hoàn. Biết đâu Tankado bỏ qua điều gì đó, có thể máy TRANSLTR sẽ bẻ khoá được trong vòng 24 tiếng. Tuy nhiên Susan vẫn nghi ngờ khả năng đó. - TRANSLTR vẫn đang chạy - Strathmore quyết định - Tôi cần biết chắc chắn rằng mật mã đó là không thể giải mã được. Chartrukian vẫn tiếp tục dộng vào cánh cửa. - Thật chả ra làm sao cả - Strathmore rên rỉ - Giúp tôi nhé. Ngài chỉ huy hít một hơi thật sâu, sau đó vươn tay ấn nút. Đĩa áp suất trên cánh cửa hoạt động va đẩy cánh cửa mở ra. Chartrukian lập tức bị ngã ngay xuống phòng. - Thưa ngài,… Tôi xin lỗi vì làm phiền, nhưng màn hình chạy… Tôi đã cho chạy phần mềm chống virus và… - Phil, Phil, Phil…- Strathmore đặt tay lên vai anh ta và nói từ tốn - Bình tĩnh, có chuyện gì vậy? Nghe giọng nói bĩnh tĩnh ấy, không ai có thể nghĩ là thế giới như đang sụp đổ quanh ông. Ông đứng sang một bên và đưa Chartrukian đến bên cửa kính Node 3. Chàng nhân viên miễn cưỡng bước tới, giống như một con chó đã được rèn luyện kỹ và biết điều gì là tốt hơn cho mình. Cái nhìn kinh ngạc trên khuôn mặt của Chartrukian cho thấy rõ ràng anh ta chưa bao giờ thấy cái gì bên trong căn phòng đó cả. Dường như nỗi sợ hãi của anh biến mất trong giấy lát. Anh quan sát bên trong căn phòng, đường dẫn riêng, những chiếc đi văng, giá sách, đèn chiếu sáng. Khi ánh mắt bắt gặp nữ hoàng của Crypto, Susan Fletcher, anh vội nhìn sang chỗ khác. Susan như đang đe doạ anh. Cô làm việc theo một cách khác. Trước vẻ đẹp của cô, những lời nói của anh trở nên vụng về lắp bắp. Bầu không khí quanh cô càng khiến anh cảm thấy choáng ngợp. - Có vấn đề gì vậy, Phil? - Strathmore hỏi rồi mở tủ lạnh - Uống chút gì nhé! - Không, à - không, thưa ngài - Anh cảm thấy lưỡi mình như cứng lại, không biết ngài chỉ huy có hoan ngênh sự xuất hiện của mình không - Thưa ngài,… Tôi nghĩ máy TRANSLTR có vấn đề. Strathmore đóng tủ lạnh và nhìn Chartrukian không mảy may ngạc nhiên. - Ý của anh là màn hình chạy…? - Vâng, thưa ngài. Nó đã chạy được 16 tiếng rồi. Tôi chắc không nhìn lầm, thưa ngài - Chartrukian rất ngạc nhiên - Vâng, thưa ngài, 16 tiếng. Nhưng không chỉ có vậy. Tôi đã cho chạy phần mềm chống virus. Nhưng có một điều hết sức kỳ lạ đang diễn ra. - Thế sao - Strathmore không có vẻ quan tâm - Điều kỳ lạ gì vậy? Susan nhìn ông và thực sự ngưỡng mộ vẻ bình tĩnh của ngài chỉ huy. Chartrukian bắt đầu run. - TRANSLTR đang giải mã cái gì đó rất siêu việt mà bộ lọc chưa bao giờ gặp phải. Tôi e rằng máy TRANSLTR bị nhiễm một loại virus gì đó. - Virus - Strathmore cười thầm và hơi cúi xuống - Phil, tôi đánh giá cao sự quan tâm của anh. Thật đấy. Nhưng cô Fletcher và tôi đang thử một phương pháp mới, một phần mềm hết sức ưu việt. Đáng ra tôi phải nói cho anh biết điều đó, nhưng hôm nay có phải phiên trực của anh đâu. Chàng nhân viên đã chống đỡ hết sức tài tình. - Tôi đổi ca làm với một đồng nghiệp mới. Tôi làm ca cuối tuần của anh ấy. Strathmore nheo mắt lại. - Thật vô ý, tôi đã nói với anh ta tối qua rồi mà. Anh ta không cần phải đến ngày hôm nay. Và anh ta cũng không nói gì về chuyện đổi ca làm cả. Chartrukian cảm thấy cổ họng anh như tắc lại. Một bầu không khí căng thẳng bao trùm. Cuối cùng Strathmore thở dài và nói. - Có vẻ như có chuyện nhầm lẫn ở đây - Ông đặt tay lên vai chàng trai trẻ và đẩy anh về phía cửa - Nhưng một tin tốt là anh không phải ở đây nữa. Cô Fletcher và tôi sẽ ở đây cả ngày. Chúng tôi sẽ trực chiến ở đây. Và anh hãy tận hưởng ngày nghỉ cuối tuần của mình đi. Chartrukian cảm thấy miễn cưỡng. - Thưa sếp, tôi nghĩ là chúng ta nên kiểm tra…. - Phil! - Strathmore nhắc lại vẻ nghiêm nghị - TRANSLTR vẫn hoạt động tốt. Nếu phần mềm của anh thấy có gì lạ, là do chúng tôi đã cài vào trong đó. Bây giờ thì đừng bận tâm nữa… Strathmore bước lại, và Chartrukian hiểu rằng đã hết thời gian dành cho anh. - Một phương pháp mới, quái quỷ! - Chartrukian lẩm bẩm khi bước vào phòng An ninh hệ thống - Loại phương pháp nào mà làm cho bộ xử lý trị giá ba triệu đô la hoạt động suốt 16 tiếng đồng hồ. Chartrukian băn khoăn không biết có nên báo cho lãnh đạo phòng An ninh hệ thống hay không. - Những kẻ viết mật mã chết tiệt! - Anh nghĩ - Họ chẳng hiểu an ninh là cái quái gì cả. Lời thề của Chartrukian khi anh gia nhập lực lượng An ninh hệ thống đã trỗi dậy trong anh. Anh đã thề dùng hết kiến thức chuyên môn, kỹ năng và bản năng tự nhiên của mình để bảo vệ khoản đầu tư trị giá nhiều tỷ đô la cho trung tâm NSA. "Phải vận dụng giác quan!" - Chartrukian bướng bỉnh nghĩ. Ta không cần quan tâm xem chương trình quái nào đang được vận hành! Chartrukian quay lại phòng chỉ huy và bật toàn bộ hệ thống phần mềm xử lý của TRANSLTR. - Thưa sếp. hệ thống của chúng ta có vấn đề - Anh lầm bầm - Ngài không tin vào bản năng sao? Tôi sẽ chỉ cho ngài thấy! La clinica de salud Publia giống như một trường tiểu học hơn là một bệnh viện. Đó là một ngôi nhà một tầng dài lợp ngói, với những ô cửa sổ to và một chiếc xích đu phủ đầy bụi ở đằng sau. Becker bước lên bậc tam cấp. Phía trong toà nhà rất tối và ồn ào. Phòng đợi có dãy ghễ gấp bằng kim loại chạy dọc theo hành lang. Một biển chỉ dẫn trên giá ghi OFICINA với một mũi tên chỉ xuống phía hội trường. Becker đi bộ dọc theo hành lang tối mờ mờ trông như một cảnh rùng rợn trên bộ phim của Hollywood. Không khí bốc mùi khó chịu như mùi nhà vệ sinh. Ánh sang yếu ớt hắt lại từ phía đằng xa cho thấy trong khoảng cách 15 đến 20 mét nữa chẳng có gì ngoài những cái bóng câm lặng. Một phụ nữ đang bị chảy máu… một cặp đang khóc… một bé gái đang cầu nguyện… Becker bước đến cuối căn phòng. Cánh cửa phía tay trái anh hơi hé mở, anh đẩy cửa bước vào. Căn phòng trống trơn, duy chỉ có một bà già tiều tuỵ trần truồng trên chiếc bô vệ sinh dành cho bệnh nhân. Thật tuyệt nhỉ! - Becker rít lên. Anh đóng cửa lại - Văn phòng ở nơi quỷ tha ma bắt nào đây? Xung quanh góc tối nhỏ trong phòng, anh nghe thấy có tiếng nói. Anh đi theo âm thanh đó và đến bên một cánh cửa kính mờ, hình như có tiếng cãi nhau phía bên trong. Becker miễn cưỡng đẩy cánh cửa bước vào. Chính là văn phòng. Cực kỳ hỗn độn. Đúng những gì anh tưởng tượng. Có khoảng mười người đang xô đẩy, quát tháo nhau. Người Tây Ban Nha không được nổi tiếng về hiệu quả làm việc cho lắm, nhưng Becker sẵn sàng đợi ở đây cả đêm để lấy thông tin về người Canada kia. Duy nhất chỉ có một nữ thư ký phía sau bàn đang làm việc. Cô ta đang cố sức đối phó với những bệnh nhân hết sức cáu kỉnh. Becker đứng ở phía cửa một lúc và nảy ra một ý. Có cách hay hơn. - Tôi chịu hết nổi rồi! - một ông già hét lên. Đám đông dãn ra khi ông ta lao ra khỏi phòng. Becker vội chạy theo ông ta và hỏi: - Ở đây có điện thoại không ạ? Ông già chỉ tay về phía vào cánh cửa đôi mà không thèm quay lại nhìn và biến mất sau một góc quanh. Becker bước đến và đẩy cửa bước vào. Căn phòng trước mặt anh thật rộng lớn - một phòng tập thể dục cũ Sàn nhà màu xanh nhạt loang lổ dưới ánh sáng huỳnh quang yếu ớt. Một cái lưới tròn để chơi bóng rổ được gắn trên tường. La liệt khắp phòng là những chiếc giường bệnh cũ kỹ. Ở góc xa của căn phòng, ngay dưới bảng ghi tỷ số, có một máy điện thoại trả tiền xu đã cũ. Becker hy vọng nó còn hoạt động được. Vừa đi ngang qua sàn nhà, anh vừa lần tìm tiền xu trong túi áo Chỉ còn thấy 75 pesetas loại đồng xu cinco-duros, tiền thừa khi đi taxi, thế cũng đủ cho hai cuộc điện thoại nội hạt. Anh mỉm cười lịch sự với cô y tá ở đó và bước đến chỗ máy điện thoại. Chụp lấy ống nghe, Becker quay số trợ giúp danh bạ. Ba mươi giây sau anh đã có số điện thoại văn phòng chính của bệnh viện. Ở đâu cũng vậy, các nhân viên văn phòng luôn có một thói quen. Đó là cứ chuông reo thì phải trả lời điện thoại. Dù cho có bao nhiêu khách hàng đang chờ đợi đi chăng nữa thì người thư ký vẫn cứ dừng công việc lại và nhấc máy trả lời. Becker bấm sáu con số. Ngay lúc đó anh đã nối máy với văn phòng bệnh viện. Không nghi ngờ gì nữa, chỉ có duy nhất một người Canada bị gẫy cố tay và chấn thương não nhập viện ngày hôm nay, cho nên thông tin về người này rất dễ tìm thấy. Becker biết rằng văn phòng không muốn cung cấp tên và địa điểm của nạn nhân cho người lạ, nhưng anh đã có cách. Chuông điện thoại bắt đầu đổ. Becker đoán chỉ reo khoảng năm chuông, nhưng chuông reo những 19 lần. - Đây là trạm y tế công cộng - cô thư ký cáu giận nói. Becker nói bằng giọng người Mỹ gốc Pháp nặng. - Tôi là David Becker. Tôi ở đại sứ quán Canada. Một công dân của chúng tôi đã được cứu chữa trong bệnh viện ngày hôm nay. Tôi muốn biết thông tin về anh ta để đại sứ quán có thể trả chi phí. - Được thôi! - Cô thư ký trả lời - Tôi sẽ gửi đến đại sứ quán vào thứ hai. - Thựrc ra - Becker nhấn mạnh - Điều này rất quan trọng, tôi muốn có ngay lập tức. - Không thể được! - cô thư ký ngắt lời. - Chúng tôi đang rất bận. Becker càng tỏ vẻ trịnh trọng. - Đây là một vấn đề rất cấp bách. Một người đàn ông bị gãy cổ tay và chấn thương đầu. Anh ta được cứu chữa sáng nay. Vậy thông tin của anh ta phải ở ngay phía trên cùng. Becker nói giọng Tây Ban Nha, đủ rõ để đạt được yêu cầu của mình, nhưng cũng đủ gây bực tức. "Bị chọc tức, cô thư ký sẽ bỏ qua quy định để cung cấp thông tin cho xong chuyện", anh nghĩ. Nhưng không, cô thư ký chửi thề tên Bắc Mỹ tự cao tự đại và ném phịch ống nghe xuống. Becker nhăn mặt và bỏ ống nghe xuống bước ra ngoài. Viễn cảnh phải chờ đợi suốt nhiều giờ trong căn phòng ấy khiến anh thấy hơi nản. Kim đồng hồ vẫn đang quay. Và tay người Canada kia có thể đang ở bất cứ nơi đâu. Có thế hắn đã quyết định quay trở về Canada. Cũng có thể hắn đã bán chiếc nhẫn. Becker không có thời gian để chờ đợi hơn nữa. Anh quyết định nhấc máy và quay số một lần nữa. Anh áp chặt ống nghe vào tai và dựa lưng vào tường. Chuông bắt đầu đổ. Becker nhìn ra phía ngoài phòng. Một chuông…hai chuông…ba… Bỗng nhiên một niềm phấn khích trào dâng trong anh. Becker quay lại và đặt mạnh ống nghe xuống máy. Sau đó anh quay trở ra và nhìn chằm chằm vào căn phòng yên ắng đó. Trong phòng, trên chiếc giường ngay trước mặt anh là một ông già cổ tay băng trắng toát đang nẳm trên những chiếc gối cũ kỹ. Chương 21 Giọng tên người Mỹ trên đường dây riêng của Tokungen Numataka nghe có vẻ rất tức giận. - Ông Numataka, tôi chỉ có một phút thôi. - Tồt, tôi tin anh có cả hai mật khẩu chứ. - Có một chút chậm trễ - Tên người Mỹ trả lời. - Không thể được! - Numataka rít lên. - Anh đã nói chậm nhất là hết ngày hôm nay sẽ có cơ mà! - Nhưng có một điểm sơ hở vào phút cuối. - Tankado đã chết chưa? - Hắn chết rồi! - tên người Mỹ trả lời. - Người của tôi đã giết Tankado, nhưng hắn lại không lấy được mật khẩu. Trước khi chết Tankado đã cho một khách du lịch mật khẩu đó. - Khốn nạn! - Numataka gầm lên. - Thế mày đã hứa thế nào về… - Bình tĩnh đã nào! - Tên người Mỹ nói. - Ông sẽ có hàng ngay. Tôi đảm bảo như vậy. Ngay khi mật khẩu còn lại được tìm thấy thì Pháo Đài Số sẽ thuộc về ông. - Nhưng mật khẩu đó có thế bị sao chép? - Bất cứ ai ngửi thấy mật khẩu đó đều bị tiêu diệt. Một lúc im lặng trôi qua. Cuối cùng Numataka nói: - Mật khẩu đó đang ở đâu? - Tất cả những gì ông cần biết là nó sẽ được tìm thấy. - Làm sao anh có thể biết chắc chắn như vậy. - Bởi vì tôi không phải là người duy nhất đang tìm nó. Tình báo Mỹ đã đánh hơi thấy mã khoá này. Vì nhiều lý do họ phải ngăn chặn việc phát tán Pháo Đài Số. Họ đã cử một tên đi tìm mã khoá. Tên hắn là David Becker. - Làm thế nào mà anh biết được điều đó? - Câu hỏi không thích hợp rồi thưa ông. Numataka ngừng lại một chút. - Nếu tên Becker tìm được mã khoá đó? - Người của tôi sẽ lấy mã khoá từ hắn. - Và sau đó? - Ông không cần phải quan tâm - Tên người Mỹ lạnh lùng nói - Khi nào Becker tìm được, anh ta sẽ được mã khoá trọng thưởng. David Becker bước đến và nhìn chăm chú nhìn ông già đang ngủ trên giường. Cổ tay phải của ông ta quấn đầy băng. Ông ta khoảng 60 hay 70 tuổi gì đó. Mái tóc bạc phơ của ông ta được chải gọn gàng sang một bên. Ở giữa trán có một vết khâu bầm tím kéo dài xuống gần mắt phải.. Một vụ va chạm nhẹ ư? Becker nghĩ thầm, nhớ lại lời kể của viên tnmg uý, và kiểm tra những ngón tay của ông ta. Không hề có chiếc nhẫn vàng nào cả. Anh chạm nhẹ vào cánh tay của ông già không cử động. - Thưa ông! - Xin lỗi cho tôi hỏi…? Becker thử lại một lần nữa, nói to hơn. - Thưa ông! Ông già cựa mình. - Mấy giờ rồi? Ông ta từ từ mở mắt và nhìn Becker. Rõ ràng ông ta tức giận vì bị làm phiền. - Anh muốn gì? Đúng rồi, Becker nghĩ, một người Canada nói tiếng Pháp! Anh mỉm cười với ông già. - Tôi có thể phiền ông vài phút không ạ? Mặc đù tiếng Pháp của anh rất hoàn hảo, nhưng anh nói bằng thứ tiếng mà anh cho là ông ta không giỏi lắm, tiếng Anh. Thuyết phục một người lạ cho mượn một chiếc nhẫn vàng thì phải khôn khéo một chút! Becker có thể làm bất cứ điều gì có thể. Sự im lặng bao trùm khá lâu trước khi ông già lấy lại được tỉnh táo ông ta quan sát xung quanh và dùng những ngón tay dài vuốt bộ ria mép bạc phơ. Cuối cùng ông ta lên tiếng, đó là thứ tiếng Anh giọng mũi the thé. - Anh muốn gì? - Thưa ngài! - Becker nói thật to như đang nói chuyện với người điếc - Tôi muốn hỏi ngài vài câu. Ông già ngạc nhiên trừng trừng nhìn David. - Anh có bị làm sao không đấy? Becker tức giận, tiếng Anh của ông già không chê vào đâu được. Ngay lập tức anh vứt bỏ vẻ mặt trịnh thượng. - Tôi xin lỗi vì làm phiền ngài, nhưng hôm nay ngài có tình cờ có mặt tại Plaza de Espana không? Ông già nheo mắt lại. - Anh là người của Hội đồng thành phố hả? - Không ạ, thực ra tôi…. - Hay từ văn phòng du lịch? - Không, tôi…. - Này, tôi biết vì sao anh đến đây đấy! - Ông già gượng ngồi dậy. - Tôi không dễ bị hăm doạ đâu! Tôi đã nói rồi, tôi đã nói hàng nghìn lần - Pierre Cloucharde luôn viết về cuộc đời này theo đúng cái cách mà ông ta sống ở đời. Mấy quyển sách hướng dẫn du lịch tạp nham của các anh thì thế nào cũng được. Nhưng tờ Montreal Times không phải để cho thuê! Tôi từ chối! - Tôi xin lỗi, thưa ngài. Tôi không dám coi thường… - Đồ rác rưởi! Tôi hiểu lắm chứ! - Ông già hươ hươ bàn tay xương xẩu về phía Becker, miệng nói oang oang - Anh không phải là người đầu tiên! Moulin Rouge, bọn chúng cũng làm thế ở lâu đài Brown, cả Golfigno ở Lagos cũng thế! Nhưng cái gì đã được đăng trên báo chí? Sự thật! Đó là món Wellington kinh tởm tôi chưa bao giờ ăn. Đường hầm bẩn thỉu nhất mà tôi được nhìn thấy! Và bãi biển đầy đá lởm chởm nhất mà tôi đã từng bước chân tới! Bạn đọc của tôi không thể cần sự thật! Các bệnh nhân ở các giường gần đó bắt đầu ngồi dậy để xem cái gì đang diễn ra. Becker nhìn xung quanh sợ một cô y tá nào đó có thế xuất hiện. Anh không hề muốn bị người ta tống cổ ra khỏi chỗ này chút nào. Cloucharde tiếp tục la hét ầm ĩ. - Điều tồi tệ nhất là nhân viên cảnh sát ở đây! Hắn bắt tôi trèo lên chiếc xe máy của hắn! Anh nhìn xem tôi có còn ra người nữa không? - Ông ta cố giơ bên cổ tay bị thương lên. - Bây giờ thì ai viết các bài cho tôi đây? - Thưa ngài, tôi… - Đi đây đi đó suốt 43 năm trời tôi chưa bao giờ cảm thấy khó chịu như bây giờ! Nhìn chỗ quái quỷ này xem! Anh có biết là chuyên đề tôi phụ trách rất… - Thưa ông! - Becker giơ cả hai tay làm dấu tạm ngừng - Tôi không quan tâm đến chuyên đề báo của ông; tôi là nhân viên Lãnh sự Canada. Tôi đến đây để giúp ông. Bỗng nhiên cả căn phòng trở nên im lặng. Ông già nhìn người thanh niên lạ mặt đầy ngờ vực. Becker nói khẽ. - Tôi đến đây để xem có giúp gì được không. Chẳng hạn như lấy cho ông một chút Valium. Sau một lúc im lặng, người Canada nói. - Lãnh sự quán? - Giọng của ông ta trở nên mềm mỏng hơn. Becker gật đầu. - Vậy ra anh không đến đây vì bài báo của tôi? - Không, thưa ngài. Dường như cơn giận dữ bỗng bùng lên trong con người Pierre Cloucharde. Nhưng ông từ từ nằm xuống đống gối. Trông cực kỳ đau khổ. - Tôi tưởng anh là nhân viên Hội đồng thành phố… định thuyết phục tôi đến… - Đầy vẻ thất vọng, ông ta ngước nhìn lên - Nếu không phải vì bài báo của tôi thì tại sao anh lại đến đây? Một câu hỏi hay, Becker nghĩ thầm và lại mơ tưởng về Smoky Mountains. - Chỉ là một cuộc viếng thăm ngoại giao thân mật thôi. - Anh nói dối. Ông già ngạc nhiên: - Một cuộc viếng thăm ngoại giao? - Đúng vậy thưa ngài, tôi chắc rằng ngài hiểu vấn đề ở đây. Chính phủ Canada làm hết sức mình để bảo vệ công dân của mình không phải chịu bất cứ phiền toái nào ở những quốc gia, à, nên dùng từ gì nhỉ, những quốc gia không được phát triển cho lắm. Cặp môi mỏng dính của Cloucharde hé mở trông giống như một điệu cười mỉm. - Nhưng mà… rất thú vị. - Ông là một công dân Canada đúng không? - Tất nhiên rồi. Tôi thật ngốc. Hãy tha lỗi cho tôi. Những người ở vị trí như tôi thường được đối xử một cách… tôi nghĩ là anh hiểu. - Vâng, thưa ngài, tôi hiểu. Đó là cái giá phải trả cho sự nổi tiếng. - Đúng vậy - Cloucharde thở dài. Ông là một kẻ tử vì đạo bất đắc dĩ nay buộc phải tha thứ cho số đông. - Anh có tin nổi rằng một nơi ghê tởm như thế này lại có ở trên đời không - Ông đưa mắt nhìn xung quanh. - Thật là một sự báng bổ. Thế mà người ta định để tôi ở đây suốt đêm nay đấy. Becker nhìn xung quanh. - Tôi hiểu. Ở đây thật kinh khủng. Rất tiếc tôi đã không thể đến sớm hơn. Cloucharde có vẻ bối rối. - Tôi không nghĩ là anh sẽ tới. Becker thay đổi chủ đề. - Hình như ông bị một vết toạc rất lớn ở đầu. Có đau lắm không? - Không, không đau lắm. Sáng nay tôi đã uống thuốc rồi - Đúng là làm phúc phải tội. Cổ tay tôi đau quá. Tên cảnh sát ngu xuẩn! Bắt một người ở tuổi tôi ngồi xe môtô. Không thể thông cảm được" - Tôi có thể giúp gì cho ông không? Cloucharde nghĩ một lúc, có vẻ hài lòng vì được quan tâm. - Ô! thực ra… - ông nghẹo đầu sang phải rồi sang trái - Tôi có thể dùng chiếc gối khác được không? - Không thành vấn đề - Becker lấy một chiếc gối ở giường gần đó và giúp ông già cảm thấy thoải mái hơn. Ông già rất vừa ý. - Tốt hơn rồi… Cảm ơn! Becker nói: - Pas du tout. (tiếng Pháp - Có gì đâu ạ) - Ah! - Ông già mỉm cười thân thiện: - Vậy ra anh biết nói ngôn ngữ của thế giới văn minh. - Chỉ chút ít thôi ạ - Becker cười ngượng. - Không vấn đề gì. - Cloucharde nói - Chuyên mục của tôi nói về nước Mỹ, tôi nói tiếng Anh tốt lắm đấy. - Tôi biết - Becker cười nói. Anh ngồi xuống mép giường của ông già. - Bây giờ, nếu mấy câu hỏi của tôi không làm phiền ông, thưa ông Cloucharde, tại sao một người như ông lại đến một nơi như thế này? Ở Seville có những bệnh viện tốt hơn nhiều. Cloucharde bực mình. - Tên cảnh sát đó… Hắn kéo tôi lên xe máy rồi bỏ mặc tôi máu me như thế trên đường y như một con vật vậy. Tôi phải tự lết đến đây. - Anh ta không đưa ngài đến một bệnh viện tốt hơn sao? - Trên chiếc xe khủng khiếp đó à? Không, cảm ơn. - Vậy sáng nay điều gì đã xảy ra vậy? - Tôi kể hết cho viên trung uý rồi. - Tôi vừa nói với anh ta và… - Tôi hy vọng anh sẽ kỷ luật hắn! - Ông già cắt ngang. Becker gật đầu. - Theo những điều luật nghiêm khắc nhất. Cơ quan của tôi sẽ xem xét vấn đề này. - Tôi cũng hy vọng là như vậy. - Monsieur Cloucharde - Becker mỉm cười và lấy một chiếc bút trong túi áo của anh ra. - Tôi sẽ gửi một kiến nghị lên thành phố. Ông giúp tôi chứ? Một người như ông sẽ là một nhân chứng tốt. Cloucharde trông như chết đuối vớ được cọc khi thấy có người định ghi lại lời nói của mình. Ông ta ngồi dậy. - Tại sao, ồ… tất nhiên rồi. Tôi rất lấy làm vinh dự. Becker lấy ra một cuốn số ghi chép nhỏ và bắt đầu. - Được rồi, bắt đầu từ sáng nay. Xin ông kể về vụ tai nạn. Ông ta thở dài. - Đó là một chuyện buồn. Có một người châu Á đáng thương bị ngã quỵ xuống. Tôi cố giúp anh ta, nhưng không kịp. - Ông đã sơ cứu tim cho anh ta? Cloucharde trông ngượng ngùng. - Tôi e rằng tôi không biết cách. Tôi đã gọi xe cấp cứu. Becker nhớ đến vết thương trên ngực của Tankado. - Có phải các nhân viên y tế đã ép tim anh ta? - Lạy chúa, không phải vậy - Cloucharae cười to - Không có lý do gì để cứu một con ngựa chết. Người đàn ông đó đã chết trước khi xe cấp cứu đến. Họ kiểm tra mạch đập và chở ông ta đi, bỏ lại tôi với tên cảnh sát kinh khủng đó. Thật kỳ lạ. Becker nghĩ, và anh băn khoăn không hiểu vết bầm đó từ đâu ra. Anh gạt nó ra khỏi đầu và tập trung vào vào vấn đề chính. - Thế còn chiếc nhẫn? - Anh nói với giọng lãnh đạm hết sức có thể. Cloucharde ngạc nhiên. - Viên trung uý nói với ông về chiếc nhẫn? - Đúng anh ta có nói. Cloucharde thực sự ngạc nhiên. - Thật sao? Tôi nghĩ hắn ta không tin câu chuyện của tôi. Hắn quá lỗ mãng, có thể hắn cho rằng tôi nói dối. Nhưng chuyện đó có thật. Tôi xin cam đoan như vậy. - Chiếc nhẫn bây giờ ở đâu? - Becker nhấn mạnh. Cloucharde dường như không nghe thấy. Ông ta đờ đẫn nhìn vào khoảng không. - Một vật trông rất lạ, những chữ viết trên đó không giống bất cứ ngôn ngữ nào mà tôi đã từng biết. - Có thể là tiếng Nhật - Becker phỏng đoán. - Hoàn toàn không phải. - Vậy ông nhìn thấy dòng chữ đó? - Lạy chúa, đúng thế! Khi tôi quỳ xuống định giúp anh ta, anh ta cứ dúi bàn tay vào người tôi. Anh ta muốn cho tôi chiếc nhẫn đó. Thật khủng khiếp, đôi bàn tay của anh ta bị dị dạng. - Và ông đã lấy chiếc nhẫn đó? Cloucharde mở to mắt. - Gì? Tên trung uý đó nói với anh như thế sao? Rằng tôi lấy chiếc nhẫn? Becker hơi bối rối. Cloucharde quát to: - Tôi biết là hắn ta không hiểu tôi nói gì mà! Lại tai nọ xọ tai kia. Tôi nói với anh ta rằng người Nhật đó đã đưa chiếc nhẫn, nhưng tôi không nhận. Tôi không muốn lấy bất cứ thứ gì của một người đang hấp hối. Chúa ơi, chỉ ý nghĩ đó thôi… Becker bắt đầu thấy căng thẳng. - Vậy ông đã không lấy chiếc nhẫn đó? - Lạy chúa, không! Becker thấy bụng đau nhói. - Vậy thì ai đã lấy chiếc nhẫn? Cloucharde bực bội nhìn Becker. - Tên người Đức! Tên người Đức đã lấy chiếc nhẫn. Tên người Đức ở trong công viên! Tôi đã nói với cảnh sát về hắn! Tôi từ chối chiếc nhẫn nhưng tên phát xít đó lại lấy. Becker viết vào cuốn sổ. Trò chơi đã kết thúc. Có một vấn đề ở đây - Vậy tên người Đức đã lấy chiếc nhẫn đó? - Đúng vậy! - Ông ta đã đi đâu? - Tôi không biết. Tôi chạy đi báo cảnh sát. Khi tôi trở lại hắn đã đi mất. - Ông có biết hắn là ai không? - Một khách du lịch. - Ông có chắc không? - Cả đời tôi nghiên cứu về du lịch mà - Cloucharde ngắt lời. - Nhìn thoáng qua là tôi biết ngay. Hắn và bạn gái hắn đang đi dạo trong công viên. Becker càng thấy bối rối hơn. - Bạn gái sao? Có một người đi cùng tên người Đức đó? Cloucharde gật đầu. - Một cô gái gọi, tóc đỏ tuyệt đẹp, lạy Chúa! Rất xinh đẹp. - Gái gọi - Becker sửng sốt - Tức là gái điếm à? Cloucharde nhăn mặt. - Đúng, nếu anh thích cái từ thô tục đó. - Nhưng… viên trung uý kia không nói gì về… - Ồ tất nhiên là không rồi! Tôi không nhắc đến cô gái đó. Cloucharde xua tay. - Họ không phải là tội phạm… Thật vô lý nếu họ bị coi như những tên trộm" Becker vẫn chưa hết bàng hoàng. - Có ai ở đó nữa không? - Không, chỉ có ba chúng tôi thôi. Trời rất nóng. - Và ông cho rằng cô gái đó là gái điếm? - Đúng vậy. Không một phụ nữ nào đẹp như vậy lại đồng ý cặp với tên đó, trừ khi cô ta được trả cao! Chúa ơi! Hắn trông quá béo! Một tên người Đức mồm rộng, béo phì và đáng ghét - Cloucharde nhăn mặt lại khi ông thay đổi tư thế. Nhưng ông nén cơn đau và tiếp tục nói - Tên người Đức đó trông giống như một con thú, nặng ít nhất 135 kg. Hắn ghì cô gái đáng thương như thế sợ cô ta chạy mất. Tôi không đổ lỗi cho cô gái. Ý của tôi là, hắn vòng tay ôm chặt cô ta, cứ như thể hắn bao cô ta cả tưần với giá 300 đô la. Chính hắn là kẻ đáng phải chết chứ không phải là người châu Á đáng thương kia - Cloucharde hít lấy hơi, và Becker liền hỏi: - Ông có biết tên của hắn không? Cloucharde nghĩ một lúc rồi lắc đầu. - Tôi không biết - Ông ta lại nhăn mặt vì đau và nằm lại xuống gối. Becker thở dài. Chiếc nhẫn vừa bốc hơi trước mắt anh. Ngài Strathmore hẳn sẽ không vui khi biết tin này. Cloucharde vỗ nhẹ vào trán. Sự nhiệt tình của ông đã hết. Trông ông rất mệt mỏi. Becker cố gắng theo cách khác. - Ông Cloucharde, tôi muốn biết về tên người Đức và cô gái đó. Theo ông thì họ ở đâu? Cloucharde nhắm mắt lại, không còn chút sức lực nào, hơi thở yếu dần. - Bất cứ điều gì - Becker nhấn mạnh - Tên của cô gái? Nhưng chỉ có sự im lặng kéo dài. Cloucharde day nhẹ thái dương bên phải. Trông ông thực sự kiệt sức. - À,… không, tôi không chắc… - Giọng ông ta phều phào. Becker cúi xuống phía ông. - Ông ổn chứ? Cloucharde hơi gật đầu. - Ổn thôi…chỉ một chút… có lẽ do phấn khích quá… - ông nói. - Hãy nghỉ đi ông Cloucharde - Becker hối thúc. - Điều này rất quan trọng. Cloucharde nhăn mặt. - Tôi không biết… cô gái đó… tên kia gọi cô ta là… - ông nhắm mắt lại và rên rỉ. - Tên cô ta là gì? - Tôi không nhớ nổi… - Cloucharde uể oải. - Hãy nghĩ xem? - Becker thúc giục. - Quan trọng lắm đấy. Tài liệu của lãnh sự quán càng đầy đủ càng tốt. Tôi cần dẫn chứng câu chuyện của ông bằng những câu nói của các nhân chứng khác. Bất cứ thông tin nào của ông cũng giúp tôi tìm ra họ…. Nhưng Cloucharde không nghe thấy gì hết. Ông ta đang dùng khăn chấm nhẹ lên trán của mình. - Tôi xin lỗi… có lẽ ngày mai…. Trông ông như đang buồn nôn. - Ông Cloucharde, điều này rất quan trọng. Nếu ông nhớ được ngay bây giờ thì rất tốt - Becker đột nhiên nhận thấy minh đang nói quá to. Mọi người ở các giường gần đó vẫn đang quan sát cả hai người. Ở phía góc xa, cô y tá xuất hiện, bước qua cửa và sải bước đến chỗ họ. - Bất cứ điều gì… - Becker nhấn mạnh. - Tên người Đức gọi cô gái là… Becker lắc nhẹ ông già, cố gắng làm cho ông ta tỉnh lại. Đôi mắt của Cloucharde loé sáng một chút. - Tên cô gái… Ở lại với anh, fella… Dew… Cloucharde lại nhắm mắt. Cô y tá đã đến, trông rất giận dữ. - Dew - Becker lắc cánh tay ông già. Ông ta rên rỉ. - Hắn gọi cô gái là… - Cloucharde lẩm bẩm, rất khó nghe rõ. Cô y tá chỉ còn hơn 3 mét nữa là đến nơi, và đang giận dữ réo gọi Becker bằng tiếng Tây Ban Nha. Becker không nghe thấy gì cả. Mắt của anh còn đang nhìn chằm chằm vào môi của ông già. Anh lắc ông ta một lần cuối khi cô y tá túm lấy anh. Cô y tá nắm lấy vai Becker. Cô kéo anh ra ngay khi đôi môi của ông già hé mở. Một từ thoát ra khỏi miệng của ông già, nhưng không hẳn được phát âm. Đó là một tiếng thở dài. Giống như hồi tưởng xa xăm… - Dewdrop… Tiếng la rầy kéo Becker đi ra. Dewdrop? Becker nghĩ. Cái tên quái quỷ gì thế nhỉ? Anh tránh khỏi cô y tá và quay xuống hỏi Cloucharde một lần cuối. - Dewdrop? Ông có chắc không? Nhưng Pierre Cloucharde đã lịm đi. Susan ngồi một mình trong Node 3 sang trọng. Vừa uống trà chanh vừa nhìn màn hình chờ đợi. Là một chuyên gia cao cấp về mật mã, Susan được bố trí một căn phòng ở vị trí đẹp nhất. Nó ở phía sau dãy vi tính, đối diện với Crypto. Từ căn phòng này, cộ có thể quan sát toàn bộ Node 3. Không những thế cô có thể nhìn thấy phía bên kia của tấm kính quan sát một chiều, TRANSLTR ngay giữa trung tâm của Crypto. Susan nhìn đồng hồ. Cô đã đợi được một tiếng. Trung tâm kiểm tra thư tín nặc danh (American Remailers Anomymous) rõ ràng đã kiểm tra thư từ của Dakota. Cô thở dài nặng nhọc. Mặc dù đã cố quên cuộc nói chuyện với David sáng nay, nhưng những lời nói vẫn cứ hiện ra trong đầu cô. Cô biết mình đã quá khắt khe với anh. Mong rằng anh sẽ không sao khi ở Tây Ban Nha. Những ý nghĩ của cô bị ngắt quãng bởi một tiếng động lớn phía cửa kính. Nhân viên mật mã Greg Hale đang đứng ở ngưỡng cửa. Cao to lực lưỡng, tóc vàng dầy, Greg Hale có chiếc cằm chẻ sâu. Anh ta thích diện quá mức, luôn phô trương những bắp thịt. Đồng nghiệp đặt cho anh biệt danh là "Halite"- một chất muối khoáng. Hale cứ nghĩ rằng biệt danh này là một chất quý hiếm, tương xứng với trí thông minh và cơ thể cường tráng của mình. Chỉ khi tra tên đó trong bách khoa toàn thư, anh mới phát hiện ra rằng nó chỉ là chất muối cặn còn lại khi nước biển rút đi. Giống như các nhân viên mật mã khác. Hale cố mức lương cao. Tuy nhiên, anh ta không thể giữ kín thu nhập của mình. Anh ta lái chiếc xe Lotus mui trần, với một dàn âm thanh chói tai. Trông anh ta giống như một tay chơi ngông, và chiếc ô tô của anh ta đầy vẻ phô trương với hệ thống vi tính định vị toàn cầu, cửa xe khoá điều khiển bằng tiếng nói, máy làm nhiễu năm điểm sóng ra đa, và một máy fax, điện thoại di động để không bao giờ bị mất liên lạc. Một đĩa đọc MEGABYTE hảo hạng được đặt trong khung có ánh nê-ông tím. Greg Hale được Tập đoàn hàng hải Mỹ cứu thoát khỏi một tuổi thơ đầy tội phạm. Năm ba tuổi anh ta học vi tính. Anh ta là một trong những lập trình viên giỏi nhất của Cục Hàng hải, trên con đường sự nghiệp quân sự đầy vinh quang của mình. Nhưng hai ngày trước khi hoàn thành chuyến công tác ba ngày của mình, tương lai của anh ta bỗng nhiên thay đổi. Hale chẳng may giết chết một đồng nghiệp ở Cục Hàng hải trong cơn say. Môn võ tự vệ của Hàn Quốc, Taekwondo, đã không thể giúp anh ta tự bào chữa. Và nhanh chóng, Hale bị đuổi khỏi ngành. Sau một thời gian ngồi bóc lịch trong nhà tù, Hale bắt đầu tìm kiếm công việc ở các công ty tư nhân với tư cách là một lập trình viên. Bị tai tiếng do vụ tai nạn ở Cục Hàng hải, Hale luôn phải thuyết phục các ông chủ bằng một tháng làm việc không lương để chứng tỏ tài năng. Không thiếu người thuê anh ta và ngay khi họ thấy anh ta có thể làm việc với cái máy tính, họ đã không bao giờ để anh ta đi mất. Khi trình độ vi tính của mình đã nâng cao, Hale bắt đầu kết nối toàn cầu qua mạng Internet. Anh ta lập ra trào lưu mới của những người say mê mạng máy tính cùng với những người bạn qua thư điện tử trên khắp thế giới, đăng tải những tuần thư điện tử vớ vẩn hoặc các nhóm chát chít ở châu âu. Anh ta đã bị hai ông chủ đuổi việc do lợi dụng công việc để đăng tải những hình ảnh khiêu dâm cho bạn bè mình. - Cô đang làm gì ở đây vậy? - Hale hỏi, dừng ở ngưỡng cửa và nhìn chằm chằm Susan. Rõ ràng anh ta không muốn gặp ai ở Node 3 ngày hôm nay. Susan cố gắng tỏ vẻ bình thường. - Hôm nay là thứ 7, Greg. Tôi cũng muốn hỏi anh câu đó! Nhưng Susan thừa biết Hale làm gì ở đây vào ngày này. Anh ta là kẻ nghiện vi tính nặng. Mặc dù là thứ bảy nhưng anh ta vẫn đến Crypto để sử dụng mạng vi tính siêu việt ở đây đế chạy thử những chương trình mới của mình. - Để ngắt một số đường dây và kiểm tra hòm thư mà thôi - Hale nói - Đó không phải là những gì cô đang làm đấy chứ? - À tôi thì không - Susan trả lời. Hale nhướn lông mày ngạc nhiên. - Không có gì phải xấu hổ cả. Trong Node 3 không ai giữ bí mật chuyện gì đúng không nào? Một người vì mọi người, mọi người vì một người. Susan nhấp một ngụm trà và không chú ý đến Hale nữa. Hale nhún vai và đi về phía tử đồ uống. Tủ đồ uống bao giờ cũng là điểm dừng chân đầu tiên của anh ta. Khi Hale đi ngang qua phòng, anh ta nuốt nước bọt và nhìn chằm chằm vào cặp chân của Susan đang duỗi dài dưới gầm bàn. Susan không thèm nhìn lên, co chân lại và tiếp tục làm việc. Hale cười khẩy. Susan đã quen với việc bị Hale cố tình đụng chạm. Cô quá kiêu hãnh nên không phàn nàn với Strathmore về Hale. Tốt nhất là không nên để ý đến anh ta. Hale đến tử đồ uống, mở mạnh tấm cửa mắt cáo. Anh ta với hộp đậu phụ, ngoạm một miếng rồi đứng dựa vào cái lò sưởi, kéo thẳng chiếc quần Bellvience màu xám bị chùng và chiếc áo sơ mi được hồ cứng. - Cô ở đây lâu không? - Cả đêm. - Susan nói. - Hmm… - Halite vừa nhai vừa nói - Một ngày thứ Bảy tuyệt đẹp ở đây chỉ có hai chúng ta. - Ba chúng ta - Susan chữa lại - Ngài Strathmore đang ở trên gác. Anh nên biến đi trước khi ông ta nhìn thấy. Hale nhún vai. - Ông ấy không bận tâm khi cô ở đây sao? Chắc hẳn ông ấy cũng thích cô đến đây thế này rồi. Susan cố gắng im lặng. Hale cười khục khục và bỏ bịch đậu phụ xuống. Sau đó anh ta lấy một hộp dầu ô-liu, và tợp vài hụm. Anh ta là một người rất chăm lo cho sức khoẻ, và cho rằng dầu ô-liu sẽ rửa sạch ruột. Khi nào không thuyết phục các nhân viên khác uống nước cà rốt thì anh ta lại thao thao về tác dụng của vitamin. Hale đặt hộp dầu ô-liu xuống và ngồi xuống bên chiếc vi tính của mình đối diện với Susan. Mặc dù cách xa, nhưng Susan vẫn có thể ngửi thấy mùi nước hoa Cologne của anh ta. Cô nhăn mũi. - Mùi nước hoa Cologne cũng thơm đấy nhỉ, Greg. Anh dùng hết cả lọ đấy à? Hale nhổm lên khỏi chỗ và nói: - Chỉ dành cho riêng em thôi, em yêu. Khi anh ta ngồi xuống chỗ của mình đợi máy tính khởi động. Susan chợt có một ý nghĩ. Nếu như Hale truy cập vào màn hình chạy của TRANSLTR thì sao? Không có lý do hợp lý nào khiến anh ta làm như vậy, tuy nhiên Susan biết rằng anh ta sẽ không bao giờ tin một câu chuyện ngớ ngẩn về một mật mã làm cho TRANSLTR xử lý trong 16 tiếng. Hale có thể muốn biết sự thật, và Susan không có ý định cho anh ta biết. Cô không tin Greg Hale. Anh ta không phải là nhân viên của NSA. Cô đã phản đối việc thuê anh ta ngay từ đầu, nhưng NSA không có lựa chọn nào khác. Anh ta là một món nợ mà NSA phải gánh sau một phi vụ. Dự án Skipjack đã thất bại. Bốn năm trước đây, trong một nỗ lực nhằm tạo ra một tiêu chuẩn mã hoá chung, đơn giản, Quốc hội đã thuê những nhà toán học giỏi nhất trong nước, những người làm tại NSA, viết một siêu thuật toán. Kể hoạch này sẽ được sử dụng cho Quốc hội trong việc thông qua một điều luật về một thuật toán chuẩn trong nước, do vậy các tập đoàn sẽ không phải chịu những rắc rối do sử dụng cac thuật toán khác nhau. Tất nhiên khi yêu cầu NSA giúp một tay trong kế hoạch phát triển tiêu chuẩn mã hoá chung là một yêu cầu như thể yêu cầu một người tự xây chiếc quan tài cho mình vậy. TRANSLTR lúc đó chưa ra đời, và một tiêu chuẩn mã hoá chỉ giúp đẩy mạnh việc sử dụng mã hoá, điều này sẽ làm cho công việc khó khăn của NSA lại càng khó khăn hơn. EFF hiểu rõ sự mâu thuẫn quyền lợi này và loan tin NSA sẽ tạo ra một thuật toán kém chất lượng, có thể bị giải mã một cách dễ dàng. Để đối phó với tình huống này, Quốc hội tuyên bố rằng khi nào NSA tạo ra thuật toán, thì công thức đó sẽ được những nhà toán học trên thế giới kiểm tra chất lượng. Một cách miễn cưỡng, nhóm giải mã của NSA, do ngài Strathmore lãnh đạo, đã tạo ra một thuật toán và họ đặt tên là Skipjack. Skipjack được đưa cho Quốc hội thông qua. Các nhà toán học trên khắp thế giới kiểm tra Skipjack và đã hoàn toàn bị chinh phục. Họ kết luận đó là một thuật toán không thể bẻ khoá, và nó có thể tạo ra một tiêu chuẩn mã hoá siêu việt. Nhưng chỉ ba ngày trước khi Quốc hội bỏ phiếu thông qua, thì một lập trình viên trẻ tại phòng thí nghiệm Bell, Greg Hale đã gây sốc cho toàn thế giới khi thông báo rằng anh ta đã tìm ra lỗ hổng cổng hậu của thuật toán đó. Lỗ hổng này bao gồm một vài dòng mã lệnh hết sức tinh xảo mà Strathmore đã cài vào trong thuật toán đó. Và phải nói thêm rằng, không một ai ngoại trừ Greg Hale phát hiện ra nó. Và trong lời thú nhận của mình, Strathmore đã nói rằng bất cứ mật mã nào viết bằng chương trình Skipjack đều bị bẻ khoá thông qua một mật khẩu bí mật chỉ có NSA biết. Strathmore sắp biến tiêu chuẩn mã hoá quốc gia trở thành một phương tiện tình báo lớn nhất trong lịch sử NSA; NSA cũng nắm giữ mật khẩu của các mã hoá khác trên nước Mỹ. Những người hiểu biết về máy tính đều cảm thấy bị xúc phạm. EFF coi NSA là kẻ trục lợi, chế nhạo sự khờ khạo của Quốc hội và tuyên bố NSA là mối đe doạ lớn nhất cho một thế glới tự do sau kỷ nguyên Hit-le. Dự án tiêu chuẩn mã hoá bị phá sản. Một điều ngạc nhiên là chỉ hai ngày sau đó. NSA đã thuê Greg Hale. Strathmore thấy để anh ta làm việc cho NSA thì tốt hơn để anh ta ở ngoài và tìm cách phá hoại nó. Strathmore phải đối mặt với vụ xì căng đan. Ông đã bảo vệ cho hành động của mình. Một cách đầy thuyết phục trước Quốc hội. Ông tranh luận rằng chính yêu cầu đòi quyền riêng tư của người dân sẽ chống lại chính họ. Ông khăng khăng rằng dân chúng cần một ai đó đứng ra bảo vệ họ; và dân chúng cần NSA bẻ khoá mật mã nhằm duy trì hoà bình. Những nhóm chống đối như EFF lại nghĩ khác, và họ tiếp tục phản đối từ đó đến nay. Chương 24 David Becker đứng trong buồng điện thoại ven đường La Clinica de Salud Publica; anh vừa bị tống ra khỏi bệnh viện vì đã làm phiền bệnh nhân số 104, ông Cloucharde. Mọi chuyện dường như phức tạp hơn rất nhiều so với suy đoán của anh. Yêu cầu nhỏ của ngài Strathmore, tìm vài vật dụng cá nhân, nay đã biến thành cuộc truy lùng một chiếc nhẫn kỳ quái. Anh vừa gọi cho ngài Strathmore và thông báo cho ông biết về vị khách du lịch người Đức. Tin tức của anh khiến ông ta có vẻ không vui. Sau khi yêu cầu anh kể chi tiết sự việc, Strathmore im lặng một lúc lâu. - David! - Strathmore cuối cùng cũng nói, rất nghiêm trọng Tìm chiếc nhẫn là vấn đề an ninh quốc gia. Tôi giao nhiệm vụ này cho anh. Đừng làm tôi thất vọng. Và David nghe tiếng cúp máy. David đứng trong buồng điện thoại và thở dài. Anh bắt đầu lật tìm những trang vàng trong cuốn danh bạ điện thoại Guia Telefonica tả tơi. - Chẳng đi đến đâu cả - Anh lẩm bẩm một mình - Ở đó chỉ có ba số điện thoại của "dịch vụ bạn đồng hành", và anh cũng không có nhiều thông tin lắm. Tất cả những gì anh biết là bạn gái của tên người Đức đó có mái tóc đỏ, màu tóc thuộc loại hiếm ở Tây Ban Nha. Ông Cloucharde mê sảng đã gọi tên cô gái là Dewdrop. Becker rùng mình - Dewdrop? Nghe giống như tên một con bò hơn là một cô gái đẹp. Đây không phải là tên của người theo đạo thiên chúa. Cloucharde chắc đã nghe nhầm. Becker quay số đầu tiên. - Cơ quan dịch vụ xã hội Sevilla… - một giọng phụ nữ nhẹ nhàng cất lên. Becker nói tiếng Tây Ban Nha với giọng Đức nặng. - Chào, có nói được tiếng Đức không? - Không. Nhưng tôi nói được tiếng Anh - Có tiếng đáp lại. Becker giả vờ nói tiếng Anh một cách khó khăn: - Cảm ơn, không biết cô có thể giúp tôi được không? - Chúng tôi rất sẵn lòng - Người phụ nữ nói chậm nhằm giúp đỡ khách hàng của mình. - Có lẽ anh cần một người bạn đồng hành? - Vâng, đúng vậy. Hôm nay anh trai tôi Klaus có một cô gái rất đẹp Tóc đỏ. Tôi cũng muốn một cô như vậy vào ngày mai, làm ơn! - Anh trai anh đã đến đây - Giọng cô gái đột nhiên trở nên sôi nổi, như thể họ đã là bạn từ lâu. - Vâng, anh ta rất béo, cô có nhớ anh ta không? Không à? Anh nói là anh ta đến đây hôm nay? Becker nghe thấy tiếng cô gái đang kiểm tra sổ sách. Có thể không có tên Klaus, nhưng Becker biết rằng khách hàng ít để lại tên thật của mình. - Hmm, xin lỗi! - Cô gái nói. - Tôi không thấy anh ta đến đây. Thế tên cô gái mà anh trai anh đi cùng là gì? - Tóc đỏ. - Becker có né tránh câu hỏi. - Tóc đỏ - Cô gái nhắc lại. Ngừng một chút - Đây là Cơ quan dịch vụ xã hội Sevilla. Ông có chắc là anh trai ông đã đến đây? - Chắc chắn. - Senor, chúng tôi không có ai tóc đỏ cả, Chúng tôi chỉ có vẻ đẹp Andalusian thuần khiết thôi. - Tóc đỏ - Becker nhắc lại, cảm thấy thật ngu xuẩn. - Tôi xin lỗi, chúng tôi không có ai tóc đỏ cả. Nhưng nếu ông… - Tên cô ta là Dewdrop - Becker thốt ra, cảm thấy ngu xuẩn hơn. Cái tên buồn cười này chẳng có nghĩa gì với cô gái cả. Cô ta xin lỗi và nói rằng Becker đang nhầm lẫn cô ấy với một dịch vụ khác. Cô gái lịch sự cúp máy. Cuộc gọi một. Becker nhăn mặt và quay số tiếp theo. Đường được nối ngay lập tức: - Xin chào Hội những cô gái Tây Ban Nha, tôi có thể giúp gì cho ngài? Becker diễn lại vở kịch. Một người Đức sẵn sàng trả nhiều đô la cho một cô gái tóc đỏ, người đã đi cùng với anh trai mình ngày hôm nay. Lần này, giọng trả lời là một giọng Đức lịch sự, nhưng cũng không tìm thấy ai tóc đỏ cả. - Keine Rotkopfe, tôi xin lỗi - Người phụ nữ cúp máy. Cuộc gọi hai. Becker nhìn xuống danh bạ điện thoại. Chỉ còn một số điện thoại cuối cùng. Cái phao cứu tinh cuối cùng đây. Anh bấm số. - Escortes Belen - giọng đàn ông trơn tru trả lời. Một lần nữa Becker kể lại câu chuyện bịa của mình. - Si, si senor. Tôi tên là Senor Roldan. Tôi rất vui được giúp ngài. Chúng tôi có hai cô gái tóc đỏ. Những cô gái xinh đẹp. Tim Becker đập rộn lên. - Rất đẹp - Anh hỏi lại bằng giọng Đức. - Tóc đỏ? - Vâng, thế tên anh trai ông là gì - Tôi sẽ nói cho anh biết ai là người bạn đồng hành của anh ấy trong ngày hôm nay. Và ngày mai tôi có thể sẽ cử cô ấy đến chỗ anh. - Klaus Schmidt - Becker thốt ra cái tên mà anh nhớ có trong một quyển sách cũ. Sau một lúc. - Thưa ngài, chúng tôi không thấy có tên Klaus Schmidt trong danh sách đăng ký, nhưng có lẽ anh trai ngài muốn giữ bí mật, vì có một bà vợ ở nhà chăng? - Anh ta cười một cách vô duyên. - Đúng vậy, Klaus đã lập gia đình. Nhưng anh ấy béo quá. Vợ anh ta không ngủ với anh ta nữa - Becker nháy mắt với bóng của mình trong tấm kính trước mặt. Nhỡ bây giờ Susan nghe thấy câu này thì sao? Anh nghĩ, "Dù có béo và cô đơn, mình vẫn muốn ngủ với cô ấy. Dù phải trả thật nhiều tiền. Becker đã tạo một ấn tượng quá mạnh, nhưng anh đã đi quá xa. Gái điếm là bất hợp pháp ở Tây Ban Nha. Và Senor Roldan là một người cẩn thận. Anh ta đã bị một nhân viên điều tra thẩm tra về những khách du lịch quá nhiều ham muốn. Tôi muốn ngủ với cô ta. Roldan biết đây là một vụ sắp đặt. Nếu anh nói có, anh có thể bị phạt rất nặng, và phải cung cấp những cô gái thông minh nhất cho những tên cảnh sát miễn phí cho những ngày cuối tuần. Khi Roldan trả lời. Giọng của anh không còn thân thiện nữa. - Thưa ngài, đây là Escortes Belen. Tôi có thể hỏi là ai đang gọi vậy? - Aah… Sigmund Schimidt - Becker nói yều ớt. - Làm thế nào ngài có số điện thoại của chúng tôi? - La Guia Telefonica, những trang vàng. - Vâng thưa ngài, bởi vì chúng tôi là dịch vụ bạn đồng hành. - Đúng tôi cần một người bạn đồng hành - Becker cảm thấy có điều gì không ổn. - Thưa ngài, Escortes Belen là một dịch vụ cung cấp bạn đồng hành cho các thương gia, cùng đi ăn trưa, ăn tối. Đó là lý do vì sao chúng tôi có trong danh bạ điện thoại. Công việc của chúng tôi là hợp pháp. Cái ngài muốn tìm đó là một gái điếm - Từ đó được anh ta nói với vẻ kinh tởm. - Nhưng anh trai tôi… - Thưa ngài, nếu anh trai ngài hôn một cô gái trong công viên, thì cô gái đó không phải là người của chúng tôi. Chúng tôi có những quy định nghiêm ngặt về quan hệ giữa khách và người đồng hành. - Nhưng…. - Ngài đã nhầm chúng tôi với công ty nào khác rồi. Chúng tôi chỉ có hai cô gái tóc đỏ, Inmaculada và Rocio, không ai trong số họ cho phép đàn ông ngủ với họ dù vì tiền. Đó là làm điếm, và việc này là bất hợp pháp ở Tây Ban Nha. Chúc ngài một buổi tối tốt lành. - Nhưng…. Cúp máy. Becker chửi thề và ném cuốn danh bạ về chỗ cũ. Cuộc gọi thứ ba. Anh chắc chắn rằng Cloucharde đã nói tên người Đức thuê cô gái đó trong suốt những ngày nghỉ cuối tuần. Becker bước ra khỏi bốt điện thoại ở khu nối giữa đường Calle Salado và Averủda Asuncion. Mặc dù xe cộ nườm nượp, nhưng mùi hương cam ngọt ngào của Serville vẫn bao quanh anh. Giờ là hoàng hôn, thời điểm lãng mạn nhất. Anh lại nghĩ đến Susan. Những lời trở lại trong tâm trí anh. Hãy tìm chiếc nhẫn. Becker đau khổ ngồi xuống chiếc ghế băng và cân nhắc hành động tiếp theo. Làm gì tiếp theo đây? Trong bệnh viện Clinica de Salud Publica, giờ vào thăm đã hết. Ánh sáng trong phòng tập thể dục đã tắt. Pierre Cloucharde đang ngủ. Ông không nhìn thấy một bóng người đang cúi xuống phía ông. Chiếc kim tiêm loé sáng trong bóng tối. Sau đó nó được cắm vào tĩnh mạch ngay trên cổ tay của ông. Mũi tiêm dưới da chứa 30 cc chất lỏng được ăn cắp trong xe thuốc của người trông coi. Một cách thô bạo, một ngón tay cái ấn đầu kim xuống và tiêm chất lỏng màu xanh vào ven của người bệnh. Cloucharde chi tỉnh dậy sau đó vài giây, nhưng không thể hét lên đau đớn đang bịt chặt miệng ông. Ông đã bị mắc bẫy trên chính giường bệnh của mình, bị trói chặt bởi một sức nặng dường như không thể chống cự được. Ông cảm thấy một luồng lửa đang thiêu đốt dọc cánh tay. Cơn đau tột cùng đang lan truyền khắp cánh tay, ngực, rồi giống như hàng triệu mảnh thuỷ tinh đang ghim vào não ông. Cloucharde nhìn thấy một ánh sáng loé lên… và sau đó tối đen. Người khách đến thăm nới lỏng tay, qua bóng tối, nhìn soi mói vào tên ông ghi trên bệnh án treo ở đầu giường. Sau đó hắn nhẹ nhàng chuồn đi. Trên đường phố, có một người đàn ông đeo kính gọng kim loại với một thiết bị nhỏ gắn vào dây lưng. Một vật hình chữ nhật to bằng chiếc thẻ tín dụng. Đó là một một cìiếc máy tính Monocle mới nhất do Hải quân Mỹ chế tạo để giúp các kỹ thuật viên kiểm tra điện áp của ắc qui trong những khu vực nhỏ chật trong tàu ngầm. Chiếc máy đắt tiền này được gắn một modem siêu nhỏ và những công nghệ siêu nhỏ tiên tiến nhất. Còn gồm có một màn hình tinh thể lỏng trong suốt, được gắn trên mắt trái của người sử dụng. Chiếc máy Monocle cho thấy một thời đại hoàn toàn mới của máy tính cá nhân. Người sử dụng có thể xem số liệu trong khi vẫn liên lạc với môi trường xung quanh. Mặc dù vậy hoạt động của máy Monocle không phải là màn hình thu nhỏ, mà là hệ thống nhập dữ liệu của máy. Người sử dụng có thể nhập dữ liệu thông qua bộ phận tiếp xúc siêu nhỏ được gắn ở đầu ngón tay. Người sử dụng ấn ngón tay vào bộ phận tiếp xúc theo kiểu liên lạc bằng điện đài trong thế chiến thứ nhất. Máy tính sẽ dịch những tín hiệu tốc ký đó sang tiếng Anh. Kẻ giết người ấn một nút nhỏ, cặp kính của hắn lập loè. Tay của hắn cử động khéo léo bên cạnh sườn. Hắn bắt đầu ấn những đầu ngón tay khác nhau rất nhanh. Thông điệp xuất hiện trước mắt hắn. MỤC TIÊU: P. CLOUCHARDE -THANH TOÁN XONG Hắn cười thầm. Chuyển những thông báo về các vụ giết người là công việc của hắn. Nhưng việc nêu tên nạn nhân…đối với gã đàn ông đeo kính gọng kim loại này, thì lại là một thú tao nhã. Ngón tay của hắn lại loé sáng lên lần nữa. Modem siêu nhỏ được kích hoạt. TIN NHẮN ĐÃ ĐƯỢC GỬI Chương 26 Ngồi trên một chiếc ghế băng trước cổng bệnh viện công cộng, Becker băn khoăn không biết phải làm gì bây giờ. Các cuộc gọi của anh đến các trung tâm cung cấp bạn đồng hành chẳng đem lại kết quả gì. Còn ngài chỉ huy có vẻ không hài lòng trong cuộc nói chuyện vừa rồi, không tin tưởng các máy điện thoại công cộng, đã yêu cầu anh không gọi lại cho đến khi nào tìm thấy chiếc nhẫn. Becker định đến gặp cảnh sát địa phương nhờ giúp đỡ, có thể họ sẽ có các báo cáo về một gái điếm tóc đỏ. Nhưng ngài Strathmore đã đưa ra một quy định hết sức nghiêm ngặt. - Anh không được để mình bị phát hiện. Không ai được biết về sự tồn tại của chiếc nhẫn. Becker lưỡng lự không biết có nên lang thang đến khu nghiện ngập Triana để tìm cô gái lạ mặt đó không. Hay có nên kiểm tra tất cả các khách sạn để tìm tên người Đức phì nộn đó không. Cách nào cũng chỉ tốn thời gian vô ích mà thôi. Các câu nói của Strathmore lại vang lên tâm trí anh: "Đây là vấn đề an ninh quốc gia… anh phải tìm bằng được chiếc nhẫn". Từ sâu thẳm trong lòng anh cảm thấy mình đang thiếu một cái gì đó một thứ rất quan trọng - nhưng anh không thể gọi tên nó một cách chính xác. Mình là giảng viên, chứ không phải một điệp viên ngầm! Và anh tự hỏi tại sao Strathmore không cử một người chuyên nghiệp. Becker đứng dậy thơ thẩn đi dọc phố Calle Delicas nghĩ xem mình nên làm gì. Những viên đá rải đường hiện ra lờ mờ dưới mắt anh. Màn đêm đang buông xuống. Dewdrop. Cái tên này có gì thật kỳ lạ. Dewdrop. Giọng nói trơn tuột của gã Senor Roldan ở Escortes Belen cứ vang lên trong tâm trí anh: "Chúng tôi có haì cô gải tóc đỏ… Hai cô tóc đỏ, lnmaculada và Rocio… Rocio… Rocio…". Becker dừng lại, tìm ra rồi. Mình là một chuyên gia ngôn ngữ cơ mà! Anh không thể tin nổi mình lại bỏ sót chi tiết đó. Rocio là một cái tên con gái phổ biến nhất ở Tây Ban Nha. Nghĩa là một cô gái thiên chúa giáo thuần khiết, trinh tiết, với vẻ đẹp tự nhiên. Theo nghĩa rộng của từ thuần khiết đều bắt nguồn từ nghĩa đen của tên - Drop of Dew! (Giọt sương Mai) Giọng ông già người Canada vang vọng bên tai Becker. "Dewdrop". Rocio đã dịch tên mình sang thứ tiếng mà cả hai cùng biết, tiếng Anh. Quá phấn khích, Becker chạy vội đi tìm bốt điện thoại. Gã đàn ông đeo kính gọng kim loại bên qua đường biến mất. Chương 27 Trên sàn nhà Crypto, bóng nắng trải dài và mờ dần. Phía trên đầu hệ thống chleu sáng tự động dần dần sáng lên vẫn ở chỗ của mình, Susan im lặng chờ đợi tin từ phần mềm tìm địa chỉ. Không ngờ lại mất nhiều thời gian thế này. Cô suy nghĩ miên man - nhớ David và mong Greg Hale ra về. Mặc dù Hale không gây tiếng động, ơn chúa anh ta chỉ im lặng, mê mải công việc đang làm. Susan chẳng cần biết anh ta đang làm gì, miễn là không truy cập màn hình chạy Run Monitor. Rõ ràng là anh ta đã không làm thế. "16 tiếng" có thể gây ra một tiếng kêu kinh ngạc. Susan đang nhấm nháp tách trà thứ ba thì có chuyện xảy ra - cuối cùng máy tính của cô kêu một tiếng bíp. Tim cô đập nhanh hơn. Một biểu tượng lá thư hiện ra trên màn hình thông báo cô có thư, Susan vội liếc nhìn Hale. Anh ta vẫn chúi mũi vào công việc. Cô hít sâu và kích đúp vào biểu tượng lá thư. - North Dakota… - Cô thì thầm - Để xem ngươi là ai? Trong thư chỉ có một dòng chữ duy nhất. Susan đọc đi đọc lại lần nữa. ĂN TỐI TẠI NHÀ HÀNG ALFREDO? 8PM? Đi ngang qua phòng, Hale cố giấu một nụ cười. Susan kiểm tra tên người gửi. Từ… [email protected] Susan rất tức giận nhưng cô cố kìm nén. Cô xoá bức thư. - Ấn tượng đấy, Greg ạ! - Họ làm món gỏi cá ngừ tuyệt lắm - Hale mỉm cười - Cô thấy thế nào? Sau đó chúng ta có thể… - Quên giấc mơ ấy đi, Greg. - Thật hợm hĩnh - Hale thở dài và quay trở về chỗ của mình. Đó là lần thứ 89 với Susan Fletcher. Người phụ nữ thông minh của Crypto luôn cuốn hút anh ta. Hale thường tưởng tượng cảnh mình ghì chặt Susan vào vỏ TRANSLTR và cả hai cùng ân ái ngay trên nền gạch đen của toà nhà. Nhưng Susan chẳng bao giờ thèm ngó ngàng gì tới anh ta. Trong suy nghĩ của Hale, điều tồi tệ hơn cả là cô ta đang yêu một giảng viên đại học, suốt ngày cắm mũi vào cuốn sách. Thật đáng tiếc là Susan không đem nguồn gen quý của mình kết hợp với những người thông minh khác - đặc biệt là với Greg. Chúng ta sẽ có những đứa con hoàn hảo. Anh ta nghĩ thầm. - Cô đang làm gì vậy - Hale hỏi, đang cố tiếp cận theo cách khác. Suran không trả lời. - Liệu tôi có hy vọng nào không Susan? - Hale đứng dậy và tiến về phía Susan. Susan thấy rằng sự tò mò của Hale có thể gây ra nhưng vẫn đề nghiêm trọng trong lúc này. Cô quyết định nhanh chóng. - Một cách giải mã mới đây - Cô bắt chước cách nói dối của ngài chỉ huy. Hale dừng lại. - Cách giải mã - Anh ta nghi ngờ - Cô dùng cả ngày thứ bảy chỉ để chạy thử chương trình giải mã mới thay vì đi chơi với chàng giáo sư của cô? - Tên là gì chả được! - Susan lườm anh ta - Anh không có việc gì khác để làm à? - Cô đang đuổi tôi sao - Hale bĩu môi. - Thực ra là đúng như thế. - Thôi nào, Sue, tôi buồn đấy! Susan Fletcher nheo mắt lại. Cô ghét bị gọi là Sue. Cô không ghét cái tên đó. Nhưng chỉ có Hale là người duy nhất gọi cô như vậy. - Tại sao tôi lại không giúp cô nhỉ - Hale đề nghị. Bỗng nhiên anh ta lại đi về phía cô. - Tôi giỏi về giải mã lắm đấy. Hơn nữa tôi rất tò mò, cách giải mã nào có thể bắt một nhân viên tài giỏi như Susan Fletcher đi làm vào thứ bảy đây? Susan lo cuống lên. Cô nhìn xuống chương trình đang chạy trên màn hình. Cô biết không thể để Hale nhìn thấy được. Anh ta sẽ hỏi hết câu này đến câu khác. - Vừa xong rồi, Greg! - Susan nói. Nhưng Hale vẫn bước tới. Cô biết mình cần phải hành động ngay. Chỉ còn vài bước chân nữa thôi. Cô đứng dậy chắn ngay trước thân hình lực lưỡng của Hale. Mùi nước hoa Cologne của anh ta càng ngào ngạt. Cô nhìn thẳng vào mắt anh ta. - Tôi nói không! Hale nghển cổ, rõ ràng ngạc nhiên vì cô tỏ ra bí mật. Anh ta tinh nghịch bước tới. Greg Hale không chuẩn bị cho điều gì có thể xảy ra tiếp theo. Với vẻ mặt nghiêm nghị, cô ấn ngón tay trỏ vào bộ ngực cứng như thép của Hale, ngăn không cho anh ta bước đến. Hale ngớ người ra, dừng lại và quay trở về chỗ của mình. Rõ ràng Susan Fletcher rất nghiêm túc, cô ấy chưa bao giờ chạm vào anh ta. Thế này không giống tưởng tượng của Hale về sự gần gũi giữa hai người; nhưng đây có thể là điểm mở đầu. Anh ta nhìn cô một lúc lâu không khỏi kinh ngạc, rồi quay trở về chỗ của mình và ngồi xuống, có một điều rất rõ ràng: Susan Fletcher đang làm một điều gì đó rất quan trọng, chứ không phải là cách giải mã quái quỷ gì đó.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#maikhiem