Pháp Hội Quốc Tế ở Bắc Kinh

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tôi biết tâm tình của chư vị, và tôi cũng nhớ chư vị. Nhưng tôi có thể nói cho chư vị biết điều này: chỉ cần chư vị chuyên cần tu luyện chính mình, lúc nào tôi đều ở bên cạnh chư vị. Rất nhiều học viên tu luyện rất tốt, tôi cũng biết điều đó. Rất nhiều học viên sắp đạt khai ngộ rồi.

Trong thời gian vừa qua, tôi có giảng cho nhiều học viên thế này. Tôi nói rằng: Không dễ gì đắc được Pháp này. Có lẽ một số người cũng có cảm nghiệm thế này "Tôi cũng có nghe về Ðại Pháp, hoặc là bạn tôi đã bảo cho tôi biết, cho nên tình cờ tôi thấy quyển sách này," hay là "Tôi có đọc tin tức về Ðại Pháp trong báo, thì tôi đến và sau đó đã đi vào con đường tu luyện Ðại Pháp." Kỳ thực chư vị đừng xem đó là chuyện đơn giản, và có thể chư vị nghĩ rằng: từ bề ngoài dường như được cái Pháp này là rất dễ dàng. Ðó là vì rất hiếm khi một vị Thần hay là một vị Giác Giả hiện ra và bảo chư vị thọ Pháp. Ða số đều là loại hình thức của người thường, và chư vị biết được Pháp cũng trong hoàn cảnh rất bình thường. Nhưng tôi nói cho chư vị biết, chư vị vì để được cái Pháp này, thì cực kỳ khó khăn. Có lẽ những gian khổ mà chư vị phải chịu đựng trong phần nửa trước của cuộc đời chư vị đều là để cho chư vị được cái Pháp này, điều này là chư vị biết; còn có những cái chư vị không biết, có lẽ trong mấy đời trước của chư vị hay cả một thời gian còn lâu hơn thế nữa, chư vị đã chịu đựng và trải qua gian khổ để được cái Pháp này . Cũng có người đã phải trải qua vô vàn gian khổ chỉ là để được cái Pháp này, điều này là chư vị không biết. Tương lai sau khi chư vị Viên Mãn, chư vị sẽ biết, cũng sẽ nhìn thấy, quả thật là không dễ dàng gì. Cái Pháp này tất cả chư vị đã biết khá rõ ràng rồi, tại sao chư vị có thể tu luyện như vậy? Chính là bởi vì các chư vị đã biết cái Pháp này không phải là Pháp bình thường. Thời quá khứ trong Phật Giáo, Phật Thích Ca Mâu Ni đã chứng ngộ được rất nhiều điều, ông cũng lưu lại rất nhiều điều cho con người. Tuy nhiên, con người ở trong quá trình kế thừa những thứ mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã lưu lại cho con người, thì dần dần đã làm mất rất nhiều, vả lại những điều được ghi chép trong kinh sách cũng có người đang sửa đổi, đang biến đổi. Viết cùng một sự kiện mà ghi chép trong các loại ấn bản của kinh sách Phật Giáo đều là không giống nhau, đây cũng là một trong những yếu tố mà khiến cho những thứ của Phật Thích Ca Mâu Ni đã đi vào Mạt Pháp. Đương nhiên còn có các nguyên nhân khác nữa mà khiến cho nó đi vào thời kỳ Mạt Pháp.

Cái xã hội này ngày nay đã khá phức tạp, thì càng khiến cho con người không thể tu luyện được. Tôi nói rằng tôi truyền bộ Pháp này là Pháp rất lớn, một ít học viên có thể đã cảm nhận được như thế. Ở trên lịch sử không có ai đem cái lý chân chánh của Pháp của vũ trụ mà chỉ dạy cho con người, vả lại cũng không nói cho con người tu luyện bằng cách nào, làm thế nào để tu lên trên. Đương nhiên, Thích Ca Mâu Ni là Phật, lời ông giảng ra là có mang theo Phật tính. Nhưng tôi nói cho chư vị biết, Phật Thích Ca Mâu Ni xác thực không có đem Pháp căn bản của vũ trụ mà giảng cho con người, cho nên trong những năm cuối Phật Thích Ca Mâu Ni nói rằng 'Tôi không giảng Pháp nào cả', cuối cùng còn bảo các đệ tử 'lấy Giới làm Thầy.' Tại sao như vậy chứ? Chính là bởi vì Phật Thích Ca Mâu Ni đã biết được rằng cuối cùng hiện tượng gì sẽ xuất hiện trong thời kỳ Mạt Pháp, Pháp mà ông truyền sẽ bị làm cho rối loạn. Ông bảo các đệ tử 'chỉ cần chiếu theo các Giới mà ta đã giảng để tu, thì các con có thể đạt đến tiêu chuẩn của người tu luyện, thì có thể viên mãn được', vì thế những gì ông thực sự lưu lại cho con người là các Giới.

Đương nhiên, Thích Ca Mâu Ni lại là Phật, lời của ông giảng có mang theo Phật tính, cho nên những lời mà ông giảng ra đó, chư vị không thể nói rằng đó không phải là Pháp. Nhưng đó không phải là Đại Pháp căn bản của vũ trụ, không phải là lý tối cao của Trời. Điều tôi lưu lại cho mọi người hôm nay lại là cái Pháp mà bao gồm tất cả, bắt đầu từ tầng thứ của người thường, và có thể nói rằng thẳng một mạch đến cảnh giới cao nhất trong vũ trụ. Chẳng qua người thường không thể nhìn thấy được điều đó ở bề ngoài của quyển sách "Chuyển Pháp Luân" này, bởi vì người không muốn tu luyện đọc qua sách một lần thì xong xuôi rồi. Cách nghĩ của họ sau khi đọc xong một lần là "Ðây là một quyển sách dạy người ta như thế nào làm một người tốt." Đọc lần thứ nhất đều là cái cảm giác này. Khi chư vị bắt đầu tu luyện, có lẽ chư vị cũng cảm giác như thế. Nhưng khi chư vị đọc sách lần thứ hai, chư vị phát hiện đó lại không phải là sự việc như vậy. Vấn đề mà nêu ra trong tư tưởng khi đọc xong sách lần thứ nhất, khi đọc lần thứ hai đều có thể giải quyết được, đồng thời chư vị phát hiện rằng đây không phải là một quyển sách của người thường, mặc dù chư vị không thể kết luận là gì. Nhưng khi chư vị tiếp tục đọc sách lần thứ ba, chư vị phát hiện rằng đó là một quyển sách chân chánh dạy về tu luyện. Nếu chư vị có thể đọc sách lần thứ tư, lần thứ năm, quyển sách này sẽ trợ giúp chư vị trong suốt cuộc đời, chư vị sẽ không muốn bỏ xuống.

Tại sao lại như thế? Bởi vì tôi đã từng giảng, dùng đạo lý của người thường để chỉ đạo chư vị tu luyện đến cảnh giới của Phật là không thể được. Nhưng nội hàm của quyển sách này to lớn phi thường, cùng một câu ở tầng thứ khác nhau, trong cảnh giới khác nhau chư vị sẽ có cảm nhận khác nhau, lý giải khác nhau, mà thông thường ở trong sách của người thường chư vị tuyệt đối sẽ không có loại cảm nhận này, bởi vì có rất nhiều bí ẩn và kỳ diệu ở trong. Tôi không có hiển thị thần thông nào cho chư vị, thậm chí khi tôi trị bệnh cho người ta đều là vì để phù hợp với tình huống lúc đó của khí công mà làm, nếu không tôi cũng không trị bệnh cho người ta. Chư vị muốn tu luyện để khiến cho cải biến thân thể của chư vị, khiến cho chư vị tu xuất ra tất cả thần thông của Phật Pháp, khiến cho tầng thứ của chư vị không ngừng đề cao, bao gồm tất cả những gì đạt được khi chư vị Viên Mãn sau này, tôi đều dung hợp tất cả ở trong cái Pháp này rồi. Chỉ cần chư vị học Pháp thì thân thể của chư vị đang biến đổi, chỉ cần chư vị đọc sách thì tư tưởng của chư vị đang thăng hoa, chỉ cần chư vị tu luyện chính mình thì có thể ở trong cảnh giới khác nhau đạt đến các trạng thái khác nhau của trong các cảnh giới khác nhau, nếu chư vị có thể đọc sách được đến cuối cùng, như vậy ở dưới sự chỉ đạo của quyển sách này thì chư vị có thể đạt Viên Mãn được. Quyển sách này có tác dụng như thế, nhưng người thường lại không thể nhìn thấy được nội hàm uyên bác rộng lớn của quyển sách này.

Đương nhiên ở đây còn có một vấn đề nữa, những người đang ngồi đây mà đã được Pháp, người mà đang tu luyện ở trong Ðại Pháp đều biết rằng, các chư vị mà ở trong quá trình tu luyện đã thể nghiệm và giác ngộ được, ở cảnh giới khác nhau, trong tầng thứ khác nhau cũng đã cảm nhận được nội hàm của tầng thứ khác nhau của cái Pháp này, cho nên tôi vừa mới nói rằng cái Pháp này không phải là Pháp bình thường, mà là đặc tính của vũ trụ, tôi đã đem những thứ căn bản nhất của vũ trụ truyền cho con người. Đương nhiên cái sự tình này làm được rất là to lớn, tôi đã liên tục nói nhấn mạnh rằng đó là Ðại Pháp, Đại Pháp, nhưng có thể có người cảm thấy rằng nội dung mà tôi giảng rất nhiều, nên gọi Pháp đó là Ðại Pháp, kỳ thực là không phải thế, tôi nói rằng hàm nghĩa của cái Đại Pháp này là cao và thâm sâu.

Học viên tu luyện ở trong cảnh giới rất cao sẽ thấy được một loại cảnh tượng, sẽ phát hiện rằng không chỉ là con người đang học Pháp, sinh mệnh của trong cảnh giới rất cao cũng đều đang học Pháp, cái Pháp này quả thực quá to lớn. Tất cả chư vị đang ngồi đây đều là có duyên phần, chư vị mới đắc được cái Pháp này. Tôi còn nhắc lại câu này: không phải là mỗi một người đều nghe được cái Pháp này. Các chư vị luyện tập các bài công pháp trong công viên lớn như vậy, kẻ qua người lại, có người cũng không nhìn thấy được, có người đã đến mà họ nghe không lọt, cho nên họ không đạt được gì cả, không phải nói rằng ai ai cũng đều có thể đắc được. Có người đọc qua sách một lần thì cho là tốt, có người đọc rồi thì không chấp nhận nổi, con người chính là khác nhau, nhưng cũng có nguyên nhân ở bên trong điều này. Tôi đã giảng vừa rồi, bởi vì quyển sách này không phải là sách của người thường. Tôi cũng giảng như vậy ở nước Mỹ: tại vì sao cái Ðại Pháp này có thể chỉ đạo con người tu luyện đến trong cảnh giới rất cao chứ? Bởi vì cái Pháp này ở tầng thứ rất thấp mà xem thì mỗi một câu giảng đều là đạo lý, nhưng nếu chư vị có thể nhìn thấy được tình huống thực sự của Pháp này, thì sẽ phát hiện mỗi một chữ đều là hình tượng của Phật. Nếu chư vị có thể tu được đến rất cao, Thiên Mục của chư vị cũng có thể nhìn thấy đến rất cao, thì chư vị sẽ phát hiện một cái hiện tượng: ở phía sau của mỗi một chữ đều là hiển hiện của vô số các vị Phật của các tầng thứ khác nhau ngồi xếp hàng từng tầng tầng lớp lớp, mọi người hãy suy nghĩ, đây có nội hàm cao biết bao nhiêu? Tại vì sao một câu ở trong cảnh giới khác nhau có biến hoá khác nhau của trạng thái, và ở trong tầng thứ khác nhau tất cả các lý của cái Pháp này đều biến đổi rồi? Chính là như vậy. Vì thế chư vị không nên đem quyển sách này xem như là một quyển sách của người thường, nhất định phải trân quý quyển sách này.

Trong quá khứ, khi nhắc đến Phật con người sẽ sinh lòng kính ngưỡng vô hạn, ở trong trạng thái đẹp đẽ đặc thù phi thường thì họ mới nhắc đến Phật, Bồ Tát và La Hán. Nhưng con người ngày nay nhắc đến Phật thì tuỳ miệng[1] mà nói ra, rất là thiếu suy nghĩ, hầu như rất bình thường, đây là nhân loại không còn tin vào thần linh mà đưa đến điểm này. Bởi vì con người không được tùy tiện nói đến Phật, đây là một đại sự đối với sự tôn kính Phật hay không tôn kính. Nhưng con người của hiện nay tùy tiện dùng tên Phật mà nói đùa, thậm chí từ sự ăn uống cũng phỉ báng Phật, có rất nhiều tên của món ăn đều là đang phỉ báng Phật, nào là "Thức ăn của La Hán" chứ, "Phật nhảy qua tường" những chữ tên món ăn này đều đem lên cả, đều là đang lăng mạ Phật, phỉ báng Phật, thậm chí những nhà hàng chay này có một số chủ là các cư sĩ, hòa thượng. Họ hầu như đã không biết là đang lăng mạ Phật. Tại sao các người xuất gia đã không thể tu luyện được chứ? Họ đã không biết tu như thế nào, nhưng có thể họ vẫn cho rằng "dùng danh từ 'Thức Ăn của La Hán' có gì không tốt" chứ. Mọi người hãy suy nghĩ, vị La Hán đó, họ không có chấp trước vào tất cả hình sắc mùi vị của thế gian, mà món ăn "Thức ăn của La Hán" đó thì toàn đủ sắc vị. Chư vị đứng ở trong cảnh giới đó nhìn thử cái vấn đề này, chẳng phải cũng bằng như đang lăng mạ họ sao? Nói đến "Phật nhảy qua khỏi tường", ý rằng Phật một khi ngửi thấy mùi vị cái món ăn ngon của nhân gian này đều nhảy qua tường để lấy, đây chẳng phải là lăng mạ Phật sao? Phật lại chấp trước vào thức ăn của con người sao? Tôi chỉ là nói về cái hiện tượng này của ngày nay thôi, kỳ thực rất nhiều điều đã là vô cùng bất kính đối với Phật, đã đến trình độ nào đó nữa chứ! Khi nhắc đến Phật thì con người hoàn toàn không có chánh niệm, thậm chí còn dám trực tiếp lăng mạ Phật, trong tác phẩm văn chương nghệ thuật cũng đang ác độc ngụy hoá Phật, đã đến cái tình trạng này rồi. Mọi người hãy suy nghĩ, xã hội nhân loại đã trở thành gì rồi? Tôi nói cho chư vị biết, quyển sách này, cái Ðại Pháp này là do chính tôi truyền, tôi muốn làm ngay chánh lại tất cả những điều không chân chánh, trong Pháp bao hàm các Pháp lý của Phật, Ðạo, Thần ở các cảnh giới của vô số tầng, cho nên mọi người nhất định phải trân quý quyển sách này, đừng có tùy tiện liệng chỗ này chỗ kia, hay bỏ một nơi nào đó. Khi truyền Pháp ở thời kỳ đầu, tôi không giảng cái vấn đề này, có người còn ngồi trên quyển sách trong khi nghe giảng, lúc đó chư vị không biết thì cũng không trách chư vị. Bây giờ chư vị đã tu luyện lên trên rồi, đều hiểu rõ cái Pháp này là gì rồi, cho nên hôm nay tôi mới giảng cái vấn đề này, nói cho mọi người biết phải chú ý những sự tình này.

Còn có một vấn đề, tôi cũng giảng sơ qua cho chư vị. Chúng ta có rất nhiều người tu luyện được rất khá, chính họ cũng biết rằng dường như họ tu luyện được rất khá, nhưng có đôi lúc vẫn phản ảnh ra một số vấn đề ở trong đầu, tư tưởng phản ảnh ra một số những thứ chấp trước trong người thường, các loại biểu hiện của tình cảm. Có một số học viên rất lo âu: "Mình thực ra tu được như thế nào?" Tôi nói cho mọi người biết, nếu như chư vị biết chư vị là một người tu luyện, chư vị cũng đang chiếu theo tiêu chuẩn của tu luyện mà yêu cầu chính mình, trong tư tưởng của chư vị khi thực sự xuất hiện loại trạng thái này, chư vị không cần phải lo âu về nó. Tại vì sao chứ? Bởi vì tu luyện ở trong xã hội người thường, nếu chư vị buông bỏ toàn bộ những thứ của người thường và nghiệp lực, như vậy tôi nói cho chư vị biết, chư vị không thể trú ngụ ở trong người thường được nữa dù chỉ một ngày, chư vị cũng sẽ không chịu nổi các loại tư tưởng mà người thường phản ảnh ra trong tư tưởng, bởi vì mỗi một lời, mỗi một hành động, mỗi một ý niệm của người thường đều là có mang theo mục đích, mà loại mục đích này thường thường đều là vì ích kỷ, cho nên chư vị không chịu nổi. Chư vị đã không có những thứ này thì sẽ nhìn thấy trong người khác, mỗi khi chư vị hễ tiếp xúc với người thường, chư vị tất nhiên sẽ không chịu nổi. Chư vị sẽ cảm thấy mỗi một lời và mỗi một hành động của con người đều có mang theo chấp trước rất mạnh, thì chư vị không thể tu luyện được ở trong người thường, chư vị cũng không thể ở với họ, chư vị cũng không thể làm việc được nữa, cho nên tôi dần dần loại bỏ những thứ của con người ở bên ngoài cho chư vị, một mạch đến khi chư vị sắp đến Viên Mãn thì mới có thể loại bỏ toàn bộ.

Thế thì, chút ít mà vẫn chưa được loại bỏ đi, là để cho chư vị sống ở trong người thường mà tu luyện giữa người thường, khi chư vị nhận thức những điều này của chính mình là những thứ không tốt thì chư vị đã là tiến bộ rồi, chư vị có thể chống lại nó thì chính là chư vị đang tu luyện chính mình. Nhưng có những thứ mà có lẽ chư vị không loại bỏ hoàn toàn ngay lập tức được, bởi vì đó là những thứ mà phải tốn thời gian rất lâu dài mới loại bỏ đi được trong tu luyện, mọi người phải phân biệt rõ những điều này. Ngày mà chư vị Viên Mãn, những thứ này sẽ loại bỏ đi toàn bộ.

Hơn nữa, tôi nói cho mọi người biết, tu luyện thật là rất gian khổ. Bởi vì các chư vị tu luyện ở trong người thường, khi buông bỏ tâm chấp trước ở trong lợi ích và tình cảm thì các chư vị sẽ thể hội được. Các đệ tử mới khi chưa tiến vào cái trạng thái này thì vẫn không cảm nhận được những trở lực to lớn như vậy. Bởi vì con người chính là có nghiệp lực, và các yếu tố do nghiệp lực tạo thành đều đang cản trở con người tu luyện. Nó thể hiện ra như là các thử thách trong công việc, chư vị cảm thấy không hài lòng với công việc làm của chư vị, mâu thuẫn giữa người với người, hay là biểu hiện ra thân thể không thoải mái. Khi các phiền phức này đến thường thường là rất đột nhiên, rất mạnh mẽ. Ðôi khi mặc dù chư vị biết rằng chính mình đang tu luyện, nhưng bỏ đi trái tim chấp trước đó cũng rất khó khăn. Điểm này tôi cũng biết. Nhưng rốt cùng các chư vị ở trong tu luyện thì chư vị vẫn phải vượt qua. Tự nguyện hay không tự nguyện, chư vị đều phải trải qua những sự tình như vậy, không ngừng mà mài luyện chư vị, cho đến cuối cùng chư vị phải buông bỏ nó đi.

Còn có một cái vấn đề, tôi cho mọi người biết: người mà nghe Pháp, người mà đắc được Pháp, có lẽ là những người có duyên phận. Pháp mà tôi giảng hôm nay cho các chư vị xác thực là rất cao, những gì lưu lại cho chư vị cũng là rất cao, các chư vị tu được cũng rất nhanh, đặc biệt là những người đắc Pháp ở thời kỳ gần đây, có cảm giác là những người đến sau này không những theo kịp mà còn đảm trách vai trò hướng đạo hiện nay. Tôi có cảm tưởng khi tôi đến thăm Mỹ Quốc lần này: các học viên người Hoa ở nước ngoài, nào là tiến sĩ, thạc sĩ, cựu trí thức, giáo sư và những nhà nghiên cứu từ Trung Hoa Lục Ðịa hay là Đài Loan, các đệ tử này vượt qua các tầng thứ của họ rất nhanh. Đương nhiên, không phải tôi nói rằng họ tốt là vì họ có học thức cao, mà chính là vì căn cơ của họ tốt. Bởi vì họ đắc Pháp về sau này, nhưng một mai sau khi đắc được Pháp, tôi phát hiện rằng thông thường họ không có quá trình nhận thức từ từ. Trong quá khứ, rất nhiều người đều có một cái quá trình nhận thức, từ từ thăng hoa lên trên. Tuy nhiên, đa số trong các học viên này không trải qua cái quá trình này, họ bắt đầu tu luyện ngay sau khi đắc Pháp, không những họ hiểu Pháp nhanh mà lại còn dung hợp vào Pháp ngay tức thì. Ðây không phải nói là vì kiến thức người thường của họ cao bao nhiêu mà tạo thành. Ðiều quan trọng là cái vấn đề căn cơ. Tất nhiên đối với những người đắc Pháp, yếu tố về duyên phận cũng có tác dụng.

Pháp mà tôi giảng, đã được truyền ra một cách có hệ thống, căn bản toàn bộ đã được giảng ra cho chư vị, hoàn toàn truyền ra hết thì đều lưu lại cho chư vị rồi, vả lại những điều đã giảng ở tầng thứ cao nhất thì cũng rất là cao. Thế thì, giả thử nếu tôi giảng Pháp lại một lần nữa, hay giảng Pháp này lập đi lập lại nhiều lần, thì sẽ khởi nên tác dụng can nhiễu, bởi vì không thể nào giảng mỗi một chữ đồng dạng trong các bài giảng của tôi mà không khác biệt nhau một chút nào cả. Thế thì những điều mà lưu lại có thể sẽ can nhiễu với bộ Pháp mà đã quy định ra cho chư vị rồi. Vì thế, tôi không thể giảng Pháp một cách có hệ thống thêm một lần nữa. Nếu như không xuất hiện tình huống đặc thù, sau này điều mà tôi giảng nữa đều là một số vấn đề thuộc về các rắc rối mà xã hội nhân loại đang đối diện và một số sự việc của tương lai, đây đều là những sự tình của con người. Tuy nhiên những điều của tu luyện trong cái thời kỳ này đã giảng toàn bộ căn bản ra hết rồi. Tất cả đã được viết ra trong sách "Chuyển Pháp Luân" đã khá là cao, khá là cao rồi. Như vậy ở thời kỳ sau này, một số những điều tôi lại giảng ra, trong tương lai cũng cần chỉnh lý thành văn tự. Nhưng tôi cho mọi người biết: chân chính khiến cho mọi người có thể tu luyện được chính là "Chuyển Pháp Luân". Tuy rằng cũng có nhiều sách hơn nữa được xuất bản, các sách này chỉ phụ trợ cho "Chuyển Pháp Luân". Vì thế, khi chư vị tu luyện, nhất định phải giữ vững theo quyển sách "Chuyển Pháp Luân" này mà tu.

Các học viên của chúng ta biết rất ít khái niệm cụ thể về "Phật", và cũng thiếu hiểu biết về Phật, bởi vì những năm này tôi chỉ là truyền Pháp, rất ít khi giảng về tình huống của Phật ở trong cảnh giới khác nhau với Phật, Ðạo, Thần và các tình huống của vũ trụ. Không có giảng là bởi vì cái Pháp mà tôi truyền vô cùng to lớn, bất cứ những thứ cụ thể nào đều không thể bỏ vào được, cũng không xứng đáng để mà bỏ vào, cho nên rất nhiều học viên hiểu rất ít về vấn đề này, biết rất ít về Phật và biết rất ít về chúng sinh ở các tầng thứ khác nhau từ trên xuống dưới. Họ biết rất ít về Phật, về Bồ Tát, hay biết về cảnh giới của Phật và biết về thế giới của Phật. Kỳ thực thật sự mà đem đời sống cụ thể của Phật giảng ra, các chư vị sẽ dùng tư tưởng của con người để lý giải, đó là bất kính đối với Phật. Trong tương lai, rất nhiều học viên ở trong tu luyện đều sẽ nhìn thấy được, và chính các chư vị sẽ bổ túc đầy đủ cái phần này.

Cái vũ trụ này khá phức tạp, vả lại phức tạp đến trình độ mà cả chư Phật, Thần, Ðạo đều kinh ngạc than thở, không chỉ riêng con người thôi, mà nhận thức của con người về cái vũ trụ này chỉ là ở trên một mặt của tầng thứ. Tôi đã từng giảng trước đây, vật chất bề ngoài mặt mà nhân loại có thể nhận thức được, nhìn thấy được các lạp tử lớn nhất chính là tinh cầu, hệ Ngân Hà; các lạp tử nhỏ nhất mà dùng máy móc để có thể biết được thì còn có phân tử, nguyên tử, hạt nhân nguyên tử, trung tử, điện tử, quark, trung vi tử, hướng xuống nhỏ nữa thì không biết. Nhưng so với vật chất bản nguyên của con người, vật chất bản nguyên mà cấu tạo thành sinh mệnh thì sự cách xa sai biệt nhau không biết là xa biết bao nhiêu nữa. Ngay cả [những gì con người biết được] kích thước có thu nhỏ lại vô số hằng trăm triệu lần, thu nhỏ vô số hằng trăm triệu của vô số hằng trăm triệu lần vẫn không thể đi đến tận cùng, vật chất là vi quan đến loại trình độ đó. Nhưng vật chất càng vi quan thì toàn thể thể tích càng to lớn. Chư vị không thể đơn giản nhìn chỉ một cái lạp tử mà thôi. Một cái lạp tử của nó chỉ là một điểm của cái thể tích đó của nó, nhưng nó lại là một cái chỉnh thể. Như vậy lạp tử của vật chất càng vi quan chừng nào, cái toàn diện của chỉnh thể của nó có thể càng to lớn hơn; lạp tử cấu tạo thành vật chất mà càng to lớn, như vậy toàn diện tầng thứ của nó cũng không nhất định là càng to lớn. Nhân loại chỉ nhận thức được cái không gian này mà do phân tử kết hợp tạo thành, tuy thế họ hài lòng với những gì họ đạt được, lại dùng định nghiã của các loại khoa học thực chứng mà hạn chế chính mình, rồi đột phá nó không nổi nữa. Ví như chư vị nói rằng không khí, nước, sắt thép, gỗ, kể cả thân thể con người, tất cả không gian mà chư vị sinh sống đều là do các phân tử cấu tạo thành. Giống như là chư vị sinh sống ở trong cái biển của một cái cảnh giới phân tử này, giống như ở trong mặt của một bức tranh lập thể do các phân tử kết hợp tạo thành. Phi thuyền vũ trụ dẫu bay được cao đến đâu, thì nó cũng không thể bay ra khỏi cái không gian mà do phân tử cấu tạo thành; máy điện toán dẫu có phát triển đến đâu, cũng không thể sánh bằng bộ não của con người. Đương nhiên không phải là xã hội nhân loại không có đột phá một chút nào, nhân loại đã nhận thức được phân tử, nguyên tử, quark, thậm chí cả trung vi tử, nhưng khoa học nhìn thấy được chỉ là một điểm tồn tại của lạp tử, chứ không có nhìn thấy được toàn diện của các lạp tử khác nhau tồn tại, nếu như nhìn thấy được cái toàn diện đó, như vậy thì con người đã nhìn thấy được cảnh tượng tồn tại thực sự của các không gian khác của vũ trụ. Vả lại cái nguyên tử đó, nó không chỉ là một cái lạp tử mà nhân loại nhìn thấy được, vậy bản thân của các lạp tử, nếu như có thể phóng đại nó lên mà nhìn, phóng đại đến mức to lớn như một cái tinh cầu nhỏ, thì có thể nhìn thấy được các sinh mệnh, vật chất, nước, thực vật, và tất cả hình thức vật chất tồn tại trên vật thể mà do các nguyên tử kết hợp thành. Nhưng nhân loại không đột phá được một điểm này.

Kỳ thực con người là đang sinh sống ở giữa hai cái lạp tử, kết hợp thành tất cả là phân tử, lạp tử lớn nhất mà chúng ta dùng cặp mắt nhìn thấy được đó chính là tinh cầu, con người sinh tồn ở giữa lạp tử phân tử và tinh cầu. Đương nhiên tôi hôm nay không giảng điều này, các khoa học gia cũng không nhận thức được, nhân loại vẫn chưa nghĩ ra rằng tinh cầu cũng là cái lạp tử. Vả lại vô số tinh cầu kết hợp thành thì là lạp tử càng lớn hơn nữa, đó chính là từng cái hệ Ngân Hà, nhưng hệ thống hành tinh lại kết hợp thành phạm vi vũ trụ lớn hơn nữa, đó vẫn chưa phải là lạp tử lớn nhất. Đương nhiên cái khái niệm mà tôi giảng có thể ngay tức thì đẩy sự suy nghĩ của chư vị đến rất cao. Nếu như thân thể của chư vị mà to lớn bằng như thân thể mà kết hợp tạo thành bởi cái tầng lạp tử của các tinh cầu, khi chư vị nhìn thử xuống quả địa cầu này, thì nó có phải cũng giống như một phân tử hay không? Dùng nhận thức của nhân loại đối với vật chất mà nhìn, kỳ thực các tinh cầu xác thực là một tầng lớp của lạp tử. Ðây là từ trên hồng quan[2] mà giảng.

Con người thường nói lên Thiên-đàng, Thiên-đàng là ở đâu? Nơi nào là 'trên'[3]? Ở trong cái vũ trụ này không có khái niệm về 'trên' 'dưới'[4], 'trái' 'phải', 'phía trước' 'phía sau'. Hướng đi lên có thể là 'trên', còn hướng đi xuống không phải là 'trên' à? Cái vũ trụ này là tròn trịa, quả địa cầu hầu như là nằm ở trung tâm. Bên trái của nó là 'trên', phía bên phải của nó cũng là 'trên'; bên dưới là 'trên', đầu đỉnh cũng là 'trên'. Vậy thì đây phải nói ra một cái thiên cơ[5], tôi vừa mới giảng qua, lạp tử càng ở vi quan thì toàn diện tầng thứ của nó lại rất to lớn, kỳ thực khi một sinh mệnh có thể lùi lại đến trong chỗ vi quan hơn, thì đã vào một nơi to lớn hơn, lên cao hơn, thì đã ở trên thiên-đàng rồi, bởi vì lạp tử càng vi quan, thì tầng thứ càng cao. Ðây là một loại nhận thức của khái niệm rất là rộng lớn. Tôi vừa mới giảng qua về phương pháp nhận thức của vũ trụ, đây mới chỉ là đã giảng một chút cho các chư vị, về một loại phương pháp nhận thức của không gian. Còn có các thứ phức tạp hơn nữa. Đương nhiên, sau này các chư vị khai ngộ càng nhiều trong tương lai thì tự mình sẽ nhận thức được.

Không thể đem những thứ cụ thể trên Trời mà lưu lại quá nhiều cho con người. Kỳ thực khoa học thực chứng của nhân loại nếu như có phát triển đến khá cao hoặc là càng vượt qua cảnh giới của nhân loại rồi, vậy thì đối với nhân loại là càng nguy hiểm hơn. Bởi vì con người tuyệt đối không thể thông qua các phương thức khoa học kỹ thuật mà đạt đến cảnh giới của Phật. Ðiều này tuyệt đối không cho phép. Bởi vì con người có thất tình lục dục[6] các loại tâm ràng buộc chấp trước, nào là tâm tranh đấu, nào là tâm ghen ghét, nào là sắc dục, những thứ này nếu mang lên thiên đàng thì không thể nào được, như vậy thì cuộc đấu với chư Phật và Bồ Tát sẽ khởi lên, thực sự là đại loạn vũ trụ sắp xảy ra rồi. Con người vĩnh viễn đều không thể để cho mang cái tâm người thường của họ mà khiến cho khoa học kỹ thuật đạt đến cảnh giới của Phật, cho nên khoa học kỹ thuật của con người chẳng qua chỉ là thể theo tiên thiên định sẵn mà đang phát triển. Nếu như nó phát triển được rất cao, như vậy bản thân khoa học kỹ thuật của nhân loại với con người, sẽ lâm vào cảnh nguy hiểm bị hủy diệt như nhau, đây là cảnh tượng mà tôi nhìn thấy.

Kế tiếp tôi lại giảng về cái không gian này. Tôi vừa mới nói loại hình thức không gian này là một cái phương pháp nhận thức của khái niệm thôi. Phật Thích Ca Mâu Ni lúc đó cũng đã từng giảng sự nhận thức về phạm vi nhất định của vũ trụ, ví dụ như ông đã giảng về tình huống cụ thể của nhân loại với bên trong Tam Giới và ngoài phạm vi nhất định của Tam Giới, như nói về núi Tu Di, ông cũng đã giảng về hình thức tồn tại của núi Tu Di. Bốn mặt của núi Tu Di có 4 đại Châu, có 2 tầng Trời to lớn. Kỳ thực lời của Phật Thích Ca Mâu Ni giảng mà truyền đến Trung Quốc, lời Trung Quốc phiên dịch thành hoặc là trong quá trình lưu truyền ở Ấn Ðộ đều là có sai. Phật Thích Ca Mâu Ni giảng 'hai đại tầng Trời' của cái núi Tu Di này, thì hoàn toàn không phải là hai đại tầng Trời, mà là khái niệm của hai cái vũ trụ, là tiểu vũ trụ và nhận thức của vũ trụ ở tầng thứ nhì.

Làm thế nào nhận thức được vũ trụ của tầng thứ nhì chứ? Cái vũ trụ mà nhân loại nhận thức này là rất nhiều hệ Ngân Hà kết hợp thành, đây vẫn là giảng từ khiá cạnh mà con người có thể nhận thức được sự kết cấu của tầng không gian này, đây chính là vũ trụ mà chúng tôi thông thường nói. Chính là cái vũ trụ này, nhân loại chúng ta vĩnh viễn cũng không nhìn thấy được biên giới của nó. Như vậy cái vũ trụ này, nó không phải là một cái vũ trụ duy nhất trong thiên thể, ở trong thiên thể bao la cũng không phải là một tầng lạp tử lớn nhất, còn có vô số vũ trụ to lớn như vậy, đã cấu tạo thành vũ trụ có phạm vi càng to lớn hơn, cũng là có cái vỏ ngoài, nó cũng chỉ là cấu kết tạo thành một tầng lạp tử to lớn hơn mà thôi. Cái vũ trụ này cực kỳ to lớn, con người không thể tưởng tượng ra nổi. Nhưng đối với chư Thần mà nói, đó vẫn là một phần nhỏ nhỏ của một tầng lạp tử mà thôi. Nhưng ở tầm nhìn của chư Phật to lớn hơn mà nói, nó nhỏ đến độ thật sự là không đáng kể gì cả. Trong cảnh giới khác nhau, cách suy nghĩ, lối tư duy, khái niệm đều sẽ phát sinh biến hóa.

Tôi vừa mới giảng về cái núi Tu Di đó, mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã chứng thực và ngộ đến, nó ở phía Bắc của cái hệ Ngân Hà này và Thái Dương hệ mà nhân loại chúng ta đang sinh tồn. Như vậy cái khái niệm về phía "Bắc" này cũng khó mà diễn tả, bởi vì ở trong vũ trụ nó không có cái khái niệm này, quả địa cầu vẫn đang xoay chuyển. Theo lời của Phật Thích Ca Mâu Ni nói, thì chúng tôi nói như vậy để cho mọi người dễ hiểu cái khái niệm này. Nếu không, tôi nói như thế này là nó ở nơi đây, ngày mai nó lại xoay chuyển qua bên kia. Thể theo lời Phật Thích Ca Mâu Ni giảng là ở phía Bắc, thì chúng ta nói nó ở phía Bắc. Cái núi Tu Di này cao bao nhiêu chứ? Núi Tu Di đã vượt ra khỏi hệ Ngân Hà, đã vượt ra khỏi phạm vi của cái vũ trụ này mà tôi vừa giảng qua, rất nhiều rất nhiều tinh hệ cấu tạo thành cái phạm vi này. Mọi người hãy suy nghĩ, gồm các tinh hệ mà con số đếm không xuể thì to lớn tới chừng nào? Giữa tinh hệ và tinh hệ còn có khoảng cách nhất định. Núi Tu Di đã vượt ra khỏi cái vũ trụ này, nằm ở trung tâm của vũ trụ tầng thứ nhì, cái núi đó to lớn như thế. Kỳ thực núi Tu Di là một dãy núi to lớn kết hợp lại bởi 3 cái núi, mà đối ứng với 3 cái núi này chính là Phật A Di Ðà, Quan Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát. Phật A Di Ðà là vị Phật ở vị trí thứ nhất của một cảnh giới này.

Ðiều mà Phật Thích Ca Mâu Ni chứng ngộ đến là vượt ra khỏi rất xa những gì con người hiểu biết về ông. Phật Thích Ca Mâu Ni đã kể rất nhiều câu chuyện của trên Trời và những câu chuyện về đời trước của ông, nhưng không nói ra tất cả về thân thế thật sự của chính ông, đặc biệt là sự việc sau khi nhập Niết Bàn thì càng không có người nào biết được.

Mọi người đều biết rằng, mỗi một vị Phật đều có một cái thế giới của chính mình. Phật A Di Ðà có Thế-Giới Cực Lạc; Thế-Giới Lưu Ly là do Phật Dược Sư chủ trì; còn có Liên Hoa Thế-Giới này, Mỹ Hảo Thế-Giới này, Giê-su, Nguyên Thủy Thiên Tôn cũng đều có Thế-Giới của họ. Ở trong phạm vi của hệ Ngân Hà nơi nhân loại sống, cái Thế-Giới thiên quốc như vậy đối ứng qua có hơn cả trăm. Phật cũng rất nhiều, chư Phật mà đạt đến cảnh giới Như Lai, Phật Thích Ca Mâu Ni giảng rằng con số nhiều như hạt cát trong sông Hằng vậy. Mỗi một vị Phật Như Lai đều chủ trì một cái thiên quốc, chư vị hãy suy nghĩ cái vũ trụ này nó to lớn chừng nào? Như vậy Phật Thích Ca Mâu Ni khi từ trong một cái tầng thứ cuối cùng mà xuống đây là ở vũ trụ tầng thứ sáu. Ðây là một con số rất to, vũ trụ tầng thứ sáu, chứ không phải thiên [quốc] thứ sáu. Ông ở nơi đó có một Thế-giới, gọi là Đại-Phạm Thế-Giới. Sau này Phật Thích Ca Mâu Ni đã đến xã hội người thường để cứu độ người, sau khi khai ngộ và truyền pháp được 49 năm, ông không có trở về, bởi vì căn cứ vào sức lực của ông, căn cứ vào tầng thứ cao như vậy của ông, Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ có thể cứu độ được Phó Nguyên Thần, vả lại cũng không thể khiến cho người tu luyện mà tu luyện đến rất cao chỉ trong một đời người.

Mọi người đều biết, những vị Phật đó đều có Thế-giới của chính mình, ai đã từng nghe nói rằng Phật Thích Ca Mâu Ni có Thế-giới của chính mình chứ? Không có ai nói cả. Nói rằng Phật Thích Ca Mâu Ni thì ở trong Thế-Giới Ta-Bà, Thế-Giới Ta-Bà là ở nơi đâu? Chính là Tam Giới, chính là Tam Giới này, bao gồm cả con người. Thế-giới của Phật đó làm thế nào lại là thế giới của con người chứ? Không có ai nghĩ đến cái vấn đề này. Trên thực tế Phật Thích Ca Mâu Ni lúc bình thường ông luôn luôn ở Ðại-Phạm Thiên, bởi vì ông từ Ðại-Phạm Thế-Giới đến, ông đem cho cái tầng thiên đàng đó đặt cho một cái tên gọi là Ðại-Phạm Thiên. Ðại-Phạm Thiên là ở trên thiên đàng cao nhất trong thế giới Vô Sắc, cũng là ở trong Tam Giới. Tại sao ông ở nơi này, không đi chứ? Trước khi Ðại Pháp bắt đầu được truyền ra, ông còn trông nom các tín đồ của Phật, trong hơn 2500 năm qua, kỳ thực là ông đang chờ cho Ðại Pháp bắt đầu truyền ra. Như vậy bởi vì một tầng thứ cuối cùng mà Phật Thích Ca Mâu Ni đến là từ Ðại-Phạm Thế-giới, nhưng ông sẽ không lưu lại ở nơi đó. Bởi vì ông đã đặt nền tảng văn hóa để cho Ðại Pháp truyền ra trong thời này, và ở trong người thường đã chịu đựng rất nhiều cực khổ, sau khi đồng hoá với Đại Pháp ông sẽ trở về trong một cảnh giới cao hơn. Ðây là tình huống chân thực của Phật Thích Ca Mâu Ni mà tôi giảng cho các chư vị.

Rất nhiều người luôn hỏi tôi rằng: "Sư Phụ, ngài là ai?" Nói về câu chuyện của tôi, kỳ thực là một câu chuyện rất rất dài. Tôi đã hạ xuống từng tầng tầng vũ trụ lớp này đến lớp khác của các thiên thể khác nhau, chuyển sinh[7] từng tầng tầng một, ở trong thế gian con người đã phân chia thân thể mà chuyển sinh, trong một cuộc đời đều có rất nhiều "tôi", phức tạp đến độ bắt đầu từ đâu cũng khó nói. Tôi có thể cho các chư vị biết một cách hết sức đơn giản rằng, tôi nhìn thấy là, tôi ở ngoài tất cả vũ trụ của các thiên thể, mà tất cả chư Thần, Phật và tất cả chúng sinh đều ở bên trong.

Trong vũ trụ có tồn tại vấn đề của Thành, Trụ, Hoại, đây là qui luật tồn tại của vũ trụ. Tuổi của vũ trụ đã quá lớn rồi, ở trong quá trình của cái vũ trụ này, tuổi của chư Phật, Ðạo và Thần, mà sinh sản ra trong thời kỳ đầu, đều đã quá lớn rồi, sống đều giống như có chút nhàm chán rồi. Thời gian kéo dài quá lâu, có lẽ khiến cho chư Thần quên đi lịch sử. Thậm chí họ đã từng là thế nào họ cũng quên rồi. Tầng thứ của họ càng cao, thời gian của họ càng chậm, phạm vi và thể tích của họ thì càng to lớn hơn. Ở trong cảnh giới càng cao hơn, khái niệm về Thành, Trụ, Hoại là kéo dài tràn trề, thậm chí làm một sinh mệnh chư vị hoàn toàn không cần phải nghĩ tới, nó lớn như thế. Thế thì, vị Phật Chủ mà ở bên ngoài tất cả thời gian và phạm vi vũ trụ, cho rằng chúng sinh là ý nghĩa cho sự tồn tại của vũ trụ. Do vì trong vũ trụ đã từng xuất hiện rất nhiều rất nhiều kiếp nạn của các tầng thứ khác nhau, ngoại trừ cảnh giới cao nhất, không có một sinh mệnh nào biết được vũ trụ nguyên thủy nhất là giống cái gì nữa. Sau khi cái mới hơn thay thế rồi, tất cả những gì của quá khứ đều không tồn tại nữa, nhưng nếu chúng sinh của bên trong vũ trụ mà được lưu giữ lại, giải quyết cái vấn đề này thì rất khó.

Khi vũ trụ bắt đầu sinh ra, thì có rất nhiều rất nhiều chư Thần đã nhìn thấy vấn đề của vũ trụ sẽ xuất hiện ở thời kỳ Mạt Kiếp. Các chư Thần đó lo lắng vô cùng, muốn tự cứu mình. Nhưng, nếu như họ không có đầy đủ uy đức cao như thế, thì họ cũng không thể xoay chuyển cái sự kiện này, vả lại sẽ không quay trở về được. Từng tầng tầng một đều muốn làm sự việc này, thì trên lịch sử có rất nhiều chư Thần đã xuống đây.

Nhưng quá khứ có một cái lý tồn tại trong vũ trụ, chính là một tầng này không thể biết được một tầng cao hơn có sinh mệnh hay không, một tầng cao hơn tầng đó cũng không biết là một tầng cao hơn nữa có sinh mệnh hay không. Chư Thần của mỗi một tầng chỉ biết được chính mình là cao nhất, cho nên Giê-su của phương Tây nói rằng phụ thân của ông, Gia-Hoà-Hoa[8] là Chủ. Gia-Hoà-Hoa là Chủ mà đã tạo ra nhân chủng[9] Do Thái, là đấng sáng tạo của nhân chủng Do Thái, chính là nói rằng ông là vị cao nhất của nhân chủng Do Thái da trắng với các sinh mệnh của các tầng thứ khác nhau ở phía dưới. Nhưng, trong các thể hệ khác còn có các Chủ tạo ra các nhân chủng khác, vả lại còn có chư Thần và chúng sinh ở các tầng thứ cao hơn, cao hơn và cao hơn nữa, những điều này chỉ là chư Thần của tầng thấp và con người thế gian không biết mà thôi. Thần cũng chỉ là biết được cái lý của Phật ở cái tầng thứ này của chính mình. Khi họ nhìn thấy được kết quả cuối cùng, tất cả chư Thần đều muốn biện pháp giải quyết những hậu quả đáng sợ trong giai đoạn cuối cùng Thành Trụ Hoại Diệt của vũ trụ, họ hạ thế tới tấp, rất nhiều rất nhiều chư Thần như thế đã đến rồi. Có chư Thần đã chịu đựng tất cả gian khổ trong một tầng vũ trụ của họ, từ đầu cho đến cuối, với hy vọng rằng họ sẽ tạo được uy đức lớn như vậy, hoàn thành được sự việc cứu độ. Nhưng các vị đó đều phải đối diện cùng một vấn đề, họ không phải là cao nhất, mà ở cảnh giới cao hơn, cao hơn nữa nếu như đã xẩy ra vấn đề rồi, thì cảnh giới mà họ vốn đang ở cũng đã ở trong kiếp nạn rồi. Vậy thì rất nhiều các chư Thần mà đã xuống đây cũng sẽ bị hủy diệt, không đạt được gì cả, như vậy chư Thần mà đã xuống đây đều giải quyết không nổi cái kết thúc cuối cùng này, vả lại cũng không thể quay trở về nữa. Trên thực chất tất cả đều phát sinh như vậy. Trong việc cứu độ và hướng lên trên Chính Pháp, sau khi họ đồng hóa với Pháp, tôi đều đem rất nhiều các vị đến như vậy, đưa đi trở về.

Mọi người đều biết rằng, cái vấn đề mà tôi giảng hôm nay là khá cao rồi. Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng giảng một câu: tương lai biết bao nhiêu bao nhiêu năm sau này lúc đó Phật Di Lặc sẽ đến. Tôi đã đến ở cái thời gian này, nhưng tôi không phải ở cái tầng thứ của Phật Di Lặc.

Tôi còn muốn nói cho mọi người biết một cái thiên cơ rất cao. Cái sự tình này tôi đã từng giảng qua trước đây, Phật trên thiên đàng, ví dụ như là Như Lai, Bồ Tát mà chư vị biết, kỳ thực đều không phải là một vị, đại khái mười năm hoặc không vượt quá mười năm thì phải hoán đổi một vị. Phật A-Di-Ðà của hiện tại cũng không phải là vị Phật A-Di-Đà đầu tiên; Quan Âm Bồ Tát cũng không phải là Quan Âm Bồ Tát lúc ban đầu. Tại sao chứ? Bởi vì nhân loại trong Tam Giới quá phức tạp, các vị này lại cách Tam Giới quá gần, những thứ không tốt của trần gian có thể trực tiếp can nhiễu đến họ. Bởi vì các vị Phật, các vị Bồ Tát cứu độ con người, thì con người càng có thể can nhiễu với Phật, Bồ Tát, nếu như họ phải cứu độ con người trường kỳ, thì họ sẽ bị rơi xuống, cho nên cái không gian này của chúng ta đại khái là khoảng mười năm thì họ phải hoán đổi một vị, nhưng thời gian trong một số Thế-giới đã qua đi rất lâu rồi. Thời gian của không gian cụ thể ở bên trong các không gian càng lớn hơn nữa ngược lại là rất nhanh, có mười năm ở một số không gian đã trôi qua rồi, thì là thời gian trên mười ngàn năm của một số không gian khác, vì thế ở trong trạng thái như vậy, Phật, Bồ Tát không thể lưu lại quá lâu. Trên Trời có một qui định, ở trong tầng thứ nhất định, bất kể là vị Thần nào, đã đến lúc nhất định đều phải hoán đổi, mục đích là để bảo vệ họ, không để cho họ rơi xuống.

Trước kia ở trong một số ghi chép của thế gian con người, cũng có ghi chép như vậy, chỉ là con người không biết là chuyện như thế nào. Mọi người đều biết rằng có một Quan Âm Bồ Tát đấy, trên lịch sử thì có ghi chép khác nhau. Như là có Quan Âm Bồ Tát ở Nam Hải, con gái của vua Diệu Trang đã tu thành Quan Âm Bồ Tát, còn có Song Mã Ðồng Tử của Ấn Ðộ đã tu thành Quan Thế Âm Bồ Tát, vân..vân., đều là thật cả, chẳng qua chỉ là không phải cùng một sinh mệnh. "Quan Âm Bồ Tát" là hình tượng nguyên thủy của một vị Giác Giả trang nghiêm, đẹp đẽ đặc biệt[10], đại từ bi, và danh hiệu từ bi không biến đổi. Khi mỗi một lần có một vị Quan Âm Bồ Tát tu lên cao rồi, thì bà phải bắt đầu tuyển chọn từ quả đất một bà thừa kế tiếp tục cho chính mình trong tương lai, và giúp người đó tu thành đạt và từ bi giống y hệt như chính bà, cũng đạt đến tầng thứ cao như vậy, cũng có uy đức lớn như vậy, cũng có thể chịu đựng gian khổ lớn lao như vậy, và cũng có năng lực thành đạt to lớn như vậy. Khi người đó đạt đến Viên Mãn, thì bà sẽ cứu độ người đó và để cho người đó thừa kế bà. Mỗi vị Phật, Ðạo, Thần đều là như thế. Trong quá khứ đây là một cái thiên cơ trong những thiên cơ bí mật nhất, hôm nay đã giảng ra cho chư vị rồi.

Tại sao tôi giảng ra cho chư vị chứ? Bởi vì tôi cần giảng một cái vấn đề. Từ khi Phật Thích Ca Mâu Ni nói đến danh hiệu Phật Di Lặc, hơn hai ngàn năm trôi qua, trong suốt thời gian này cũng không ai biết được bao nhiêu vị Phật Di Lặc đã đến và đi! Bố Ðại[11] Hòa Thượng là một vị trong các vị đó, đây chính là tại sao Di Lặc và Bố Ðại Hòa Thượng là cùng như một vị. Nhưng hình tượng của Phật Di Lặc thì không giống như của Bố Ðại Hòa Thượng mà bụng to, luôn luôn cười, đó chỉ là hình tượng con người của vị ấy khi ở thế gian mà thôi. Phật là rất thần thánh trang nghiêm, đa số đều là khá trẻ trung, rất là đẹp đẽ, bởi vì càng hướng lên cao thì càng tốt đẹp hơn. Vị Phật A-Di-Ðà thật sự đó thì trông giống như khoảng hai mươi tuổi, Quan Âm Bồ Tát thì khoảng mười bẩy, mười tám tuổi, và Ðại-Thế-Chí Bồ Tát thì khoảng mười lăm, mười sáu tuổi. Bởi vì khái niệm của con người thì cho rằng một người chững chạc ổn định là khoảng bốn mươi tuổi mà, đã đến cái tuổi mà không bị mê hoặc nữa, cho nên hình tượng của họ đã được tạo dựng ra thành như thế. Nhưng ở trên Trời, tư tưởng của vị Thần là do trí tuệ và cảnh giới của tầng thứ quyết định, từ bi và trí tuệ của Thần không phải là do tuổi tác mà quyết định, người thường luôn luôn là dùng nhận thức của người thường.

Thế thì, Phật Di-Lặc trong đời này, cũng chính là vị Phật Di-Lặc cuối cùng khi tôi bắt đầu truyền Pháp, kỳ thực là nữ tính tu thành, nhưng hình tượng của Di-Lặc lại là nam tính. Kỳ thực ngôn ngữ của Ấn Ðộ cổ xưa lúc đó phát âm hai chữ "Di-Lặc" thì rất là không đúng, phiên dịch thành Hán ngữ thì lại càng không đúng nữa, có phát âm là "Di-Lai", có phát âm là "Di-Lặc", còn có các phát âm khác nữa, trong tương lai sẽ cho các chư vị biết phát âm chuẩn xác[12]. Khi Phật Di Lặc của thời kỳ này sắp sửa kết thúc sự việc của ông, đúng là khi tôi bắt đầu xuất hiện ra công chúng, nhưng tôi không phải là ở cái tầng thứ này của ông ta. Các chư Thần trong các thiên thể đều biết rằng tôi đến đây với Phật Pháp và hình tượng của Phật, để cứu độ chúng sinh của các Thế-Giới, họ cũng nhận định rằng Di-Lặc đã đến rồi, Phật Di Lặc cũng có truyền lại cho tôi những gì vị ấy đã thừa truyền. Nhưng chư Thần đều không biết được trên căn bản tôi từ đâu đến, chỉ biết là cái vị mà hạ thế để cứu độ con người đã đến rồi, đồng thời họ đều thúc giục tôi ở trong chùa, nhưng tôi không có đến ở trong chùa. Tại sao tôi không làm theo cách ấy? Bởi vì tôi muốn làm những việc to lớn hơn, có sứ mệnh to lớn hơn. Vả lại con người của hiện nay đã không tin Phật nữa, tăng nhân của các chùa và các cư sĩ thì quá ít. So với tổng số của nhân loại thì thực tại những người tin tưởng đi chùa quá ít, ở thời Mạt Pháp những người không tin Phật thì quá nhiều. Ở trong chùa thì không thể nào cứu độ con người thế gian trên diện rộng, không thể khiến cho càng nhiều người hơn nữa được đắc Pháp. Một khi vào trong chùa, thì những người tin các tôn giáo khác lại càng không đắc được Pháp. Tôi đã nhìn thấy tình huống này, cho nên tôi không có xuất gia[13], thì ở trong xã hội người thường mà truyền Đại Pháp.

Đương nhiên bên trong này có một vấn đề, cũng là một vấn đề mà rất nhiều hòa thượng nghĩ không thông, người ta biết rằng, điều tôi giảng là các lý của Phật, là Phật Pháp, nhưng không phải là Pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni giảng. Kỳ thực , giả thử như không phải là tôi, mà là một người khác xuống để cứu độ con người, vị ấy cũng sẽ không lập lại những lời mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng; lại hoán đổi một người khác cũng sẽ không giảng những gì mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng giảng qua. Tất cả đều giảng Phật Pháp, nhưng điều họ giảng đều là lý của Pháp mà chính vị Phật ấy chứng ngộ, có phải là như vậy hay không? Hòa-thượng ngày nay không buông bỏ xuống được cái nghi hoặc lớn nhất rằng, họ nhìn nhận Phật Thích Ca Mâu Ni là vị duy nhất giảng Phật Pháp, Phật Pháp duy nhất của vũ trụ, họ không biết rằng đó là một bộ phận nhỏ của trong Phật Pháp, là Phật Thích Ca Mâu Ni giảng ra cái phần mà ông chứng ngộ đến, thậm chí Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không giảng ra toàn bộ của Pháp mà chính mình biết, chỉ lưu lại cho con người cái phần mà ông bảo con người nên biết mà thôi. Kỳ thực, Phật Thích Ca Mâu Ni cũng chưa từng giảng qua Pháp của sáu vị Phật đã từng giảng. Huống chi, điều tôi giảng lần này là đặc tính của toàn bộ vũ trụ, căn bản của tất cả các Pháp bao gồm Pháp của Phật, Pháp của Thần, Pháp của Ðạo.

Nếu như Tam Giới và nhân loại vì Chính Pháp mà khởi được tác dụng nên có, nhân loại tương lai sẽ có vô lượng phúc đức. Khi tôi đến, tất cả những gì tôi cần đã được tạo ra ở trong cảnh giới rất cao, và thông qua đầu thai phàm tục sinh ra mà đến trên thế gian, uy đức của tôi lại làm chủ tể[14] siêu vượt lên trên tất cả các cảnh giới. Nói rằng tôi đã đến đây rồi, tôi với chúng sinh trong Tam Giới đã không biết có biết bao nhiêu tầng lạp tử ngăn cách ra rồi. Tôi có nhân tố bản nguyên nhất mà tạo nên sự tồn tại của vũ trụ, nhưng tôi không ở trong đó. Tôi là nguồn gốc mà cấu tạo thành tất cả trí tuệ của vũ trụ, nhưng tôi không cần gì cả. Nhưng chúng sinh là do vật chất trong các tầng thứ vũ trụ khác nhau cấu tạo thành. Nói rằng tôi không đến nơi đây, tôi không ở trong cảnh giới của con người nhưng lại biểu hiện ở thế gian con người. Ðây là nói đơn giản khái quát. Trong tương lai khi đúng lúc tôi sẽ cho con người biết sự kiện này, nhưng nhiều hơn thì không được, bởi vì bảo cho con người biết đã rất là nhiều rồi, chẳng qua là trong tương lai, sau bao nhiêu năm nữa nhân loại vẫn sẽ xem tất cả những gì đang xảy ra hôm nay là chuyện thần thoại.

Mọi người đều biết, chính phủ Trung Quốc sợ nhất một sự việc, chính là sợ người dân thiết lập các tổ chức như là Ý-Hòa Đoàn gì gì đó, tạo phản này, sợ nhất bị tước đoạt quyền lực. Tôi đã liên tục nhấn mạnh rằng chúng ta tuyệt đối không liên can vào chính trị, tuyệt đối không can thiệp vào chính trị, tuyệt đối không tham dự chính trị. Nếu như Lý Hồng Chí mà tham dự chính trị, điều mà truyền hôm nay chính là tà Pháp, chư vị phải ghi nhớ những lời tôi giảng. Ở trên lịch sử tôi Lý Hồng Chí làm thế nào truyền cái Pháp này, bảo các chư vị làm sao làm sự kiện này, chư vị trong bao nhiêu thế hệ tương lai đều phải chiếu theo mà học, tuyệt đối không để cho Pháp này đi sai lệch. Tôi lưu lại hình thức cho chư vị, trong tương lai con người sau này thì cứ như thế mà làm. Mọi người đều biết, chúng ta quản lý lơi lỏng, không đụng đến tiền bạc, không có danh hiệu hay chức vị. Người tu luyện hễ đụng đến tiền thì phức tạp rồi, danh lợi là chướng ngại to lớn nhất trong sự tu luyện của con người.

Đương nhiên chư vị ở trong xã hội người thường, chư vị có thể duy trì đời sống của chư vị. Chư vị đi làm việc có tiền, chư vị đi làm viên chức của người thường, làm kinh doanh như người thường, những điều này đều không ảnh hưởng sự tu của chư vị, đây chính là hình thức tu luyện mà tôi truyền cho chư vị. Trong hình thức tu luyện không thể cho quan chức làm, Phật Pháp không thể dùng để kiếm tiền, bất cứ trạm phụ đạo nào đều không thể tồn trữ tiền bạc. Đây là hình thức tu luyện quyết định rồi. Pháp vĩ đại như thế truyền ra cho con người, tuyệt không phải là 3 hay 5 năm náo nhiệt, tôi biết rằng trong tương lai sẽ có nhiều người hơn nữa đắc Pháp, sẽ có rất nhiều rất nhiều người đắc Pháp, con số này là khá lớn. Vả lại cái Pháp này không phải chỉ thuộc về nhân loại, không phải chỉ thuộc về Trung Quốc, mà toàn thế giới cho đến càng nhiều sinh mệnh hơn đều đang đắc Pháp. Ðây là một bộ Pháp của vũ trụ, vì thế mọi người nhất định phải biết trân quý cái Pháp này.

Trước đây chư vị không biết là gì, nhất là khi tôi bắt đầu truyền cái Pháp này trong giai đoạn khởi đầu là truyền qua hình thức Khí Công, bởi vì con người phải có một quá trình để nhận thức Pháp, đột nhiên giảng Pháp cao như thế thì không được. Như vậy tôi muốn cho mọi người biết, tại vì sao ở trên lịch sử ngày nay xuất hiện Khí Công? Chính là vì để tôi truyền bộ Pháp này hôm nay mà trải đường[15]. Các thầy Khí Công bản thân không biết tại vì sao, mà thầy Khí Công giả mạo lại càng không biết, những bọn giả mạo đó vẫn đang làm rối loạn ở trên xã hội. Vả lại các thầy Khí Công chân chánh mà trải đường đó, họ trên căn bản đều hoàn tất sứ mạng rồi, một số biết là họ đã được lệnh ngừng làm vào thời điểm này. Nếu như họ còn truyền Khí Công, Khí Công không truyền rộng rãi ở trên xã hội, vậy thì tôi hôm nay giảng Pháp cao như thế ngay lập tức thì rất khó khiến cho con người hiểu rõ ràng, đây chính là tại vì sao phải xuất hiện Khí Công. Cho nên tôi nói rằng hiện nay tất cả những ai còn đang gây rối loạn cho Ðại Pháp, bọn họ đều sẽ không tốt đẹp, bọn họ trên thực chất đã ở trong địa ngục rồi, chỉ là cuộc đời trên quả địa cầu của bọn họ vẫn chưa kết thúc mà thôi.

Quá trình lưu truyền Ðại Pháp đã trải qua rất nhiều thử thách và gian nan, là tương đối không dễ dàng gì, đây là chân chính, tất nhiên sẽ gặp phải can nhiễu. Bởi vì một khi chân chính xuất hiện, tất cả những gì không chân chính với không đủ chân chính đều bị động chạm rồi. Khi điều gì được truyền giảng và tất cả đều êm xuôi thì nhất định là đã phù hợp với những thứ của tà ma, vì thế không có rắc rối. Không có chánh niệm chánh hành ở trong ma nạn, thì không có tham chiếu và cũng không có uy đức của họ để lưu lại cho thế nhân. Trong tương lai chúng ta đụng phải khó khăn hoạn nạn nào, chư vị đều phải nhận thức chính xác.

Cái vũ trụ này là cho phép yêu ma tồn tại, tại vì sao cho phép nó tồn tại chứ? Tôi giảng một cái đạo lý: tương sinh tương khắc là cái lý của tầng thấp của vũ trụ, đặc biệt là trong Tam Giới. Tại sao lý tương sinh tương khắc tồn tại? Ở tầng thứ trung gian của khái niệm nhất định của vũ trụ, tồn tại hai loại vật chất, hai loại vật chất này đi xuống phân hóa nữa thì biến thành hai loại vật chất khác nhau, bởi vì càng đi xuống thì càng không tốt đẹp, càng đi lên thì càng tốt đẹp, càng đi xuống càng phân hoá, sự sai biệt càng lớn. Thế thì, khi hai loại vật chất khác nhau này lại tiến xuống các phần thấp hơn của vũ trụ, thì càng biểu hiện ra sự sai biệt và không giống của chúng, càng đi xuống hơn thì sự sai biệt càng lớn. Như vậy lại đi xuống hơn nữa thì càng biểu hiện ra tính đối lập của hai loại vật chất khác nhau. Như vậy càng tiến xuống hơn nữa, thì đối lập của chúng đặc biệt hiện rõ, thì đây đã xuất hiện đạo lý tương sinh tương khắc. Càng xuống phía dưới nữa lại sinh ra học thuyết Âm Dương của Thái Cực. Càng xuống dưới nữa, đặc biệt là khi đã đến cái bước của nhân loại này, lý tương sinh tương khắc lại càng hiện rõ. Đến trong cảnh giới của Phật, thực tế Phật là gì? Phật-Đà là vị bảo vệ của vũ trụ. Phật Như Lai họ là Pháp Vương của Thế-giới của họ. Quản lý của họ không phải là áp dụng phương cách nào, mà là dùng từ bi và uy đức của họ. Chúng sinh của họ cũng đều phù hợp với tiêu chuẩn của cái thế-giới đó của họ, tốt đẹp phi thường. Như vậy trong cái cảnh giới này, trong lý tương sinh tương khắc và đối ứng với Phật (Pháp Vương) thì là Ma Vương.

Nói về Ma Vương, mọi người cũng biết về Mật Tông chứ? Tôi đã liên tục giảng rằng Mật Tông không thể lưu truyền ở trong xã hội người thường được, chỉ có thể tu một cách bí mật. Tại sao chứ? Bởi vì Mật Tông không chỉ tu Chính-Giác[16] mà cũng tu cả Ma Vương, vừa tu Phật (Pháp Vương) lại vừa tu Ma Vương. Ở trên xã hội nếu như truyền những điều này, các chư vị hãy nghĩ xem: sẽ tạo thành hậu quả gì ở trên xã hội đây, cái vấn đề là ở chỗ đó. Cho nên tôi đã từng giảng rằng Mật Tông nó không thể truyền ở trên xã hội được, chỉ có thể tu ở trong chùa. Phàm là những thứ truyền ở trên xã hội đều là giả mạo, đang lừa gạt người ta. Tương sinh tương khắc đã đến bước này của người thường, như vậy có người thì có quỷ, dù sao chính là tồn tại như thế, các lý đối ứng nhau như vậy là cùng tồn tại. Nhưng, chính bởi vì nó có loại tính đối lập này, có cái đạo lý tương sinh tương khắc tồn tại, thì nó cũng đã mang đến một loại trạng thái của xã hội người thường, thì bao gồm cả trạng thái tôi truyền Pháp hôm nay, có người tin và có người không tin, trong thế gian con người, có người tốt cũng có người xấu, có người vì công chúng, có người vì tư tâm, có người lòng khoáng đạt, có người lòng hẹp hòi. Vừa Nghịch vừa Chính thì là loại quan hệ đối ứng như vậy, tất cả các biểu hiện này chính là trạng thái của xã hội con người.

Trong xã hội người thường biểu hiện của bất cứ sự tình nào cũng là như vậy. Nếu chư vị muốn làm thành một sự kiện tốt, chư vị phải phá vỡ khổ nạn to lớn tương ứng hoặc can nhiễu gì đó, chư vị mới có thể làm thành sự kiện đó, đây chính là tính chế ước tạo ra từ cái lý tương sinh tương khắc. Chính bởi vì có cái lý này tồn tại, có ma tính can nhiễu, chư vị đạt được những thứ gì như vậy thì mới không dễ dàng gì, chư vị phải hoàn thành công tác mới phải nỗ lực. Trải qua nỗ lực này, phấn đấu này, đã khắc phục rất nhiều khó khăn chư vị đạt được nó, chư vị mới biết trân quý nó, chư vị mới cảm thấy vui sướng, không dễ dàng đạt được chư vị mới cảm thấy quý báu, chỉ lúc ấy chư vị mới có vui sướng sau khi đạt được thắng lợi. Nếu như không có cái lý tương sinh tương khắc này, không có yêu ma can nhiễu, chư vị làm cái gì đều có thể hễ làm thì thành, không có ma tính tồn tại, chư vị sẽ không trân quý những gì chư vị đạt được, chư vị sẽ không cảm thấy quý báu, chư vị sẽ không có vui sướng sau thắng lợi. Mọi người hãy suy nghĩ: chư vị sẽ cảm thấy cuộc sống vô vị, cuộc sống không có ý nghĩa. Hễ làm thì làm thành công, làm cái gì thì đều không có ý nghiã nữa. Con người sẽ cảm thấy cuộc sống vô nghĩa, không mùi vị. Vì thế mà, chư vị đừng nhìn rằng ở trong khó khăn khổ nạn mà cảm thấy nó không tốt, nó sẽ khởi lên một cái tác dụng như vậy.

Tại vì sao có người hỏi tôi: "Thưa Sư Phụ, tại vì sao Thầy không thanh lý hết yêu ma đi?" Tôi thanh lý hết cả yêu ma, thì chư vị hôm nay không tu luyện nổi. Không ai sẽ khảo nghiệm chư vị để rốt cùng xem đối với bộ Pháp này chư vị còn kiên định hay không kiên định được, không có yêu ma can nhiễu, thì chư vị có những tâm không buông bỏ đi được, không có yêu ma can nhiễu, thì chư vị tiêu trừ nghiệp không nổi, chính là cái đạo lý này. Người và vật, các sinh mệnh bản thân cũng đều tồn tại hai loại đặc tính, con người chính là do Phật tính và ma tính đồng thời cấu tạo thành. Chư vị ở trong Phật tính mà tu luyện chính là loại bỏ đi ma tính của chư vị, con người khi buông thả chính mình không có bất cứ đạo đức nào để ước thúc[17], chính là khi ma tính đang đại phát tác. Khi con người đang xúc động, la hét điên cuồng, nóng nảy, chính là ma tính đang phát tiết mạnh mẽ. Hiện nay, hằng chục ngàn yêu ma đang ở thế gian, ở trong từng cái lãnh vực của xã hội đều có lôi kéo con người phát ma tính. Tác phẩm mỹ thuật này, tác phẩm văn nghệ này, tác phẩm văn học này, tùy ý, không có chính niệm phát huy, giống như là điên cuồng vậy, và yêu quỷ có cái gì không giống chứ? Ðàn ông giữ tóc rất dài rất kỳ quái, nam không nam, nữ không nữ, nói là nghệ thuật gia gì đó, hình tượng của nhạc sĩ, kỳ thực đều là ma tính lôi kéo xuống tâm lý biến thái.

Người có đạo đức gò bó, đó mới là Phật tính. Tu Phật là gì? Chính là phải loại bỏ đi ma tính của chư vị, đều đồng hóa thành Phật tính. Tôi vừa mới giảng những thứ rất cao, thậm chí rất là cụ thể rồi. Tôi chỉ giảng nhiều như vậy thôi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#faefeaw