Pháp Hội tại Thụy Sỉ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

V: Sau khi Ðức Thích Ca Mâu Ni, Lão Tử và Chúa Jêsus, còn bao nhiêu người đã tu luyện đạt đến Quả Vị Phật Như Lai thưa Thầy?

Thầy: Nói chung thì rất nhiều. Sau Ðức Thích Ca Mâu Ni nhiều người đã tu đắc Ðạo; họ đã tu thành công trong Phật Giáo. Cũng có một số trong nhóm đệ tử sau này của Chúa Jêsus và các hòa thượng đã tu luyện thành công. Tất nhiện bên Trung Quốc cũng có rất nhiều môn tu luyện [khác]. Bởi vì môn tu luyện không bị giới hạn về địa thế, thời cổ xưa cũng có người trong xã hội Tây Phương tu luyện và cũng có một số tu thành. Họ không tu thành qua tôn giáo. Nhưng trong thời gian gần đây cũng có một số đạt viên mãn. Trong xã hội hiện nay thì hầu như là không có ai cả.

V: Trong Chuyển Pháp Luân [Tập hai] có giảng rằng mặt trăng là do con người thời cổ xưa tạo ra. Thưa Thầy có thể giảng thêm về thời ấy với nguyên nhân và mục đích gì mà họ tạo ra mặt trăng?

Thầy: Mọi người ở đây đang cười, bởi vì câu hỏi này cách quá xa với mục đích giảng Pháp của tôi. Chư vị muốn tìm hiểu và để cho sự tưởng tượng của chư vị chạy hoang. Và khi chư vị để cho sự tưởng tượng của chư vị chạy hoang, tư tưởng của chư vị sẽ không còn trong sạch và tỉnh lặng nữa. Thay vì nên gạt bỏ đi những điều mà chư vị bị dính mắt ràng buộc nơi người thường, chư vị lại hỏi tôi về những điều này và còn trộn lẩn những điều này với Pháp. Ðây chính là điều mà tôi lo lắng về tất cả chư vị. Phải để tâm tu luyện. Tất nhiên, tôi có thể trả lời bởi vì câu hỏi đã nêu lên rồi.

Trong quá khứ tình hình không giống như là khoa học ngày nay. Cho nên nhân loại của các giai đoạn khác tất nhiên là phát triển thể theo các giai đoạn ấy. Trong một giai đoạn con người đã nhận thức rằng bóng tối ban đêm bất lợi cho nên họ, cho nên họ tạo ra một mặt trăng ở trên đó để mang ánh sáng cho quả địa cầu vào ban đêm. Ðiều này không có liên hệ gì đến tu luyện cả. Không phải là tôi không muốn giảng cho chư vị về điều này; mà là những gì tôi giảng sẽ vật chất hóa những điều đó, cũng như những gì tôi giảng sẽ trở thành Pháp. Cho nên đừng tùy tiện hỏi tôi về những sự quan tâm của con người.

Vấn: Thưa vận tốc của tư tưởng nhanh hơn vận tốc của ánh sáng phải không?

Thầy: Chắc chắn là thế. Vận tốc của tư tưởng con người khá nhanh. Khi tầng thứ của chư vị đề cao lên chư vị sẽ xuyên qua mỗi một không gian trong các tầng thứ phía dưới của chư vị. Hãy cẫn thận mà nghe điều mà tôi đang giảng đây: Khi tầng thứ của chư vị cao hơn, khi Công lực của chư vị xuyên qua bất cứ không gian nào trong các tầng thứ phía dưới của chư vị, thì [Công lực] của chư vị không bị sự khống chế của thời gian của các không gian đó. Công lực là do ý niệm chỉ đạo. Bởi vì chư vị sống trong môi trường này, vận tốc bước đi của chư vị, vận tốc của xe hơi của chư vị v..v, bất cứ điều gì cũng đều bị thời gian của không gian này giới hạn. Ý niệm mà con người phát ra thì nhanh trong không gian nhân loại đây. Nếu là một người tu luyện, thì người này vượt qua sự giới hạn [khống chế] của không gian này và ý niệm của họ nhanh vô cùng. Trong lúc ấy, chúng ta cũng có thể nói rằng Công lực của một người và tất cả công năng mà thân thể mà họ mang trong người là do tư tưởng của họ điều khiển. Cho nên đó là nói rằng, khi ý niệm của họ khởi lên thì Công lực của họ đã đến rồi, họ cường mạnh đến như thế. Tôi đã giảng rằng nếu công năng của những ai trong chư vị mà đã tu luyện đến cảnh giới rất cao mà không bị khóa lại, kỳ thực thì chư vị có thể đảo lộn trời đất chỉ trong một tích tắc. Cho nên trước khi một người khai Ngộ, tuyệt đối người này bị giới hạn trong khi đang tu luyện trên trái đất, tuyệt đối không cho phép. Còn những người có công năng nhỏ bé thì được, bởi vì không gian này được các chư thần của không gian này trông coi và các chư thần đó có thể khống chế tất cả cho nên không ai có thể lay động thiên đàng hay làm đảo lộn trái đất được. Nhưng nếu công năng của một người mà cao hơn thì sẽ không được phép. Sư Phụ cũng phải trong coi sự việc này.

V: Trong vũ trụ của chúng ta đây, thưa vật chất nào có vận tốc nhanh nhất?

Thầy: Chư vị đang thắc mắc về khoa học. Giảng cho chư vị thì là thỏa mãn cái tâm tò mò của chư vị, cũng như là giúp cho chư vị khởi thêm tâm ràng buộc chấp chước. Tuy thế nếu tôi không giảng cho chư vị, nhưng chư vị cũng đã nêu lên thắc mắc rồi.

Còn về vận tốc trong không gian này mà con người thời nay đã biết, vận tốc này có năng lượng lớn hơn năng lượng mà con người chưa khám phá ra và cũng không thể sử dụng được. Quan niệm của cái gì to và nhỏ nhất phát xuất từ sự hiểu biết của nhân loại; là sự hiểu biết nằm trong phạm vi của không gian và khối trường không gian của nhân loại. Kích thước mà con người hiểu không có trong vũ trụ này. Cho nên trong vũ trụ, mà chư cho là: cái gì nhanh là còn tùy thuộc vào tầng thứ. Ví dụ, tốc độ mà một vị thần ở tầng thứ rất cao nói thì cũng vẫn nhanh hơn vận tốc của tư tưởng của chư vị, đến cả lúc vị thần ấy nói rất chậm. Lời mà tôi đang giảng đây và những gì tôi vừa giảng qua về vấn đề chư vị bị ràng buộc chấp chước vừa mới xảy ra, tuy nhiên trong một không gian đặc định nào đó, kỳ thực thì đã xảy ra cả hàng trăm năm rồi. Sự khác biệt to như thế. Vũ trụ bao la vô cùng. Sự khác biệt trong các thời gian trường đã tạo ra các chiều không gian phức tạp của vũ trụ.

Kỳ thực thì không bị thời gian giới hạn thì nhanh nhất. Tuy nhiên nhân loại vĩnh viễn không bao giờ thật sự hiểu được ý nghĩa thật sự của câu này. Quan niệm của chư vị, "vật chất loại nào có vận tốc nhanh nhất" chỉ là một khái niệm và chỉ là hiểu biết của nhân loại. Thời gian không cố định, đến cả không gian này của chúng ta. Cũng như chư vị biết, trong sách Chuyển Pháp Luân tôi có giảng rằng nhìn thấy một vì sao nào đó thì phải đến 150 ngàn năm ánh sáng mới thấy được. Thật ra, tôi chỉ giảng thể theo khả năng hiểu biết của nhân loại căn cứ vào khoa học hiện đại mà thôi. Sự thật thì không phải như thế. Tại sao không phải? Hãy suy nghĩ xem: Trong các không gian khác nhau có các thời gian khác nhau. Trong khoảng cách trải rộng của trái đất của chúng ta thì có một thời gian trường và tất cả đều nằm bên trong phạm vi ranh giới của thời gian này. Vừa khi một vệ tinh nhân tạo bay vượt qua khỏi tầng khí quyển của chúng ta, thì sẽ tiến nhập vào một không gian trường khác rồi, hoàn toàn khác hẳn với không gian trường của trái đất. Cho nên khi vệ tinh nhân tạo này bay qua các tinh cầu khác, các tinh cầu đó cũng có thời gian trường nó. Thiên thể càng to, thời gian và vận tốc trong đó càng khác biệt nhiều hơn nữa.

Có nghĩa là phải mất đến 150 ngàn năm ánh sáng thì chúng ta mới nhìn thấy được những gì xảy ra trong hệ Ngân Hà [của chúng ta]. Kỳ thực thì để tôi giảng cho chư vị, có thể là chỉ trong hai hay ba năm thôi chư vị có thể thấy được. Tại sao? Bởi vì vận tốc của ánh sáng cũng bị thời gian hạn chế. Khi ánh sáng xuyên qua các thời gian trường khác nhau, thì vận tốc "soa, soa, soa," một cái tức thì trở thành nhanh hay chậm. Khi ánh sáng xuyên qua trái đất của chúng ta, thì ánh sáng này phải phù hợp với thời gian trường của trái đất và trở nên rất chậm. Dùng khối trường thời gian mà con người ở trên trái đất có thể nhận thức được, thì không có cách nào để ước định được thời gian trong vũ trụ. Sự hiểu biết của nhân loại về chân lý, vật chất, sinh mệnh, vũ trụ, và nhiều điều [khác] lẫn cả phát triển của nhân loại cũng sai.

V: Thưa, các Giác Giả của Phật Gia giảng về ánh sáng của vũ trụ này thế nào?

Thầy: Ánh sáng có gì mà quan trọng thế?! Có nhiều loại ánh sáng, và ánh sáng khác nhau tại các tầng thứ khác nhau. Như thế nào và mục tiêu mà ánh sáng phát ra cũng khác nhau. Ðừng dùng tư tưởng con người để suy nghĩ về những gì cao hơn con người. Tôi giảng rằng nếu chư vị muốn tu luyện, chư vị cần phải đọc sách thêm và học Pháp thật nhiều. Những gì chư vị chưa ngộ được và những gì chư vị chưa hiểu, trong tương lai sẽ hiển hiện ra trong Pháp. Hãy suy nghĩ xem: Tôi giảng rằng mỗi một vật gì cũng có năng lượng, đến cả phân tử cũng có năng lượng. Con người không cảm nhận được năng lượng của phân tử bởi vì con người cũng được cấu kết bằng phân tử. Ðó là tại sao họ không thể cảm nhận được năng lượng ấy. Những gì có năng lượng thì có ánh sáng và năng lực. Ðừng dùng việc bé mà xé ra to hay quan trọng hóa bất cứ điều gì. Một khi uy đức của đệ tử Ðại Pháp thể hiện ra, thì sẽ là huy hoàng và rực rỡ.

V: Chúng tôi có thể ấn hành các kinh văn của Sư Phụ trên báo chí để hồng Pháp không? Mặc khác, tôi lo rằng người thường có thể hiểu lầm ý nghĩa của các bài kinh văn này?

Thầy: Họ sẽ hiểu lầm. Cho nên tốt hơn là không nên làm. Tại sao? Ðể tôi giảng cho chư vị biết: Cách tốt nhất để chúng ta hồng Pháp là chư vị tập các bài công pháp chung nhóm với nhau. Chúng ta chỉ nói rằng chúng ta không muốn bỏ lại những ai có cơ duyên [thọ Pháp]. Khi tôi nói về việc hồng Pháp, tôi không đòi hỏi toàn thể nhân loại đến để thọ Pháp, đây không phải là ý này. Tôi nói về việc giúp người có cơ duyên đến để thọ Pháp. Hôm nay tôi cũng phải giảng rõ cho chư vị: Phương pháp hồng Pháp mà chúng ta dùng là chư vị tập các bài công pháp ngoài trời. Một cách khác nữa là để sách Ðại Pháp bán ở các nhà sách trong xã hội. Pháp Thân của tôi sẽ hướng dẫn người có cơ duyên đến mua sách, và khi họ đọc họ sẽ đến để học. Thêm vào đó, chúng ta tập các bài công pháp ngoài trời, cho nên các Pháp Thân của tôi sẽ an bài cho họ đến các nơi luyện Công để cho họ thọ Pháp. Qua một bối cảnh tổng hợp kỳ lạ họ sẽ được dẫn đến để học các bài công pháp, hay là họ sẽ gặp các học viên chúng ta. Chúng tôi an bài như thế.

Chư vị muốn nhiều người hơn nữa biết về Ðại Pháp và chư vị dùng rất nhiều phương cách. Ðây là ý định tốt của các học viên, tôi cũng thấy như thế, chư vị làm khá lắm. Nhưng tất cả đều là tự nguyện, việc của cá nhân, vì thế tôi không chấp thuận hay phản đối chi cả. Tuy nhiên trong Pháp, cách thức hồng Pháp mà tôi để lại cho Ðại Pháp là cách này: Chúng ta tập các bài công pháp chung nhóm với nhau, tổ chức các buổi Pháp hội, và để sách bán ở các nhà sách. Những người có cơ duyên sẽ đến để mua sách, và họ sẽ muốn tu luyện sau khi đọc sách. Sau đó họ sẽ tự tìm chúng ta và học; cách thức là như thế. Tất nhiên, đôi khi học viên tự mình đăng các quảng cáo trong các tờ báo để cho mọi người biết. Ðây cũng là cách để giúp cho nhiều người thọ Pháp. Tôi không phản đối cách này, bởi vì cách này giúp cho những người có cơ duyên chú ý. Tôi chỉ nói rằng hình thức tốt nhất mà tôi để lại cho chư vị để hồng Pháp là tập các bài công pháp chung nhóm với nhau và tổ chức các Pháp hội.

V: Hồng Pháp là một phần tu luyện của tôi, tuy nhiên Sư Phụ giảng rằng hồng Pháp không có liên hệ với đạt Viên Mãn.

Thầy: Hồng Pháp và đạt Viên Mãn tất nhiên là hai danh từ và khái niệm khác nhau. Tuy nhiên có một điểm cần phải giảng là: Những ai làm việc hồng Pháp, nếu chư vị xem việc hồng Pháp là một công việc, mặc dù chư vị thường làm việc nhọc nhằn và nổ lực rất nhiều, nếu chư vị không thường đọc sách và chư vị không có thì giờ để tập các bài công pháp, làm theo cách này chắc chắn là sẽ rời xa Pháp. Nói một cách khác, chư vị cũng không thống nhất việc tu luyện với việc làm [hồng Pháp] của chư vị. Kỳ thực thì khi chư vị bị dính mắt vào việc làm này và chư vị cũng không suy nghĩ rằng những trở ngại mà chư vị gặp là có liên hệ đến tâm tính của chư vị hay không, hay là cách thức mà chư vị làm việc có thể theo Pháp hay không, có thể theo tiêu chuẫn của người tu luyện hay không. Nếu chư vị không tìm bên trong chính mình theo tư cách này, nếu chư vị không suy xét như thế này, thì công việc làm của chư vị cũng chỉ là việc làm của người bình thường, và chư vị cũng chỉ là một người thường đang làm việc cho Ðại Pháp. Chư vị cũng chưa cư xử thể theo tiêu chuẫn của người tu luyện. Tu luyện cần phải hợp nhất với việc làm [hồng Pháp]. Khi chư vị gặp trở ngại trong công việc, chư vị phải luôn luôn suy xét tâm tính của chư vị và tự mình suy xét chính mình. Khi chư vị gặp trở ngại gì, hãy tìm trong chính cá nhân mình và nghĩ: "Tại sao sự việc lại xảy ra thế này? Tôi đã làm gì sai? Có phải là ý định của tôi sai? Hay là điều gì khác sai?" Tức là, bất cứ lúc nào, chư vị cũng phải đòi hỏi từ cá nhân mình và suy xét cá nhân mình thể theo tiêu chuẫn của người tu luyện. Chư vị đang chân chánh tu luyện, khi chư vị tự xem mình là người tu luyện và đừng để một chút tư tưởng cá nhân khởi lên, thì có phải là chư vị hợp nhất đồng hóa với Pháp không? Còn về Viên Mãn, đó là còn tùy vào trình độ tu luyện và sự tu luyện của chư vị có đạt đến tầng cấp đó không. Mặc dù một người có thể tu luyện mỗi ngày, đạt Viên Mãn hay không là còn tùy vào người ấy có thể đạt đến tầng thứ của Viên Mãn hay không.

V: Tôi đọc sách Chuyển Pháp Luân mỗi ngày, tuy nhiên có phần về 'Khoa Chúc Do', 'Nhịn Ăn', 'Thu Khí' và 'Hái Khí', tôi nghĩ rằng hiểu ý nghĩa thông thường là đủ rồi.

Thầy: Tôi sẽ giảng cho chư vị, mặc dù tôi dùng các đề tài này như là ví dụ, điều mà tôi giảng không chỉ hạn chế ở đó thôi. Ðiều mà tôi giảng là các nguyên lý của Pháp! Hàm nghĩa là vô kể, bao la, vô tận. Vũ trụ to lớn thế nào, thì Pháp cũng không ít hơn. Tôi chỉ dùng lời nói trần tục nhất của nhân loại, dùng ngôn ngữ giản dị nhất, và dùng hình thức thấp nhất của nhân loại đây để giảng Pháp này. Mục đích là giúp cho chư vị hiểu và ngộ được hàm nghĩa bao la vô tận của Pháp. Vì thế đừng nên đọc sách theo cách chọn lựa. Chư vị phải đọc Pháp từ đầu đến cuối không bỏ ra một phần nào. Phải chú ý điều này. Liên tục đọc sách có ích lợi rất nhiều cho sự tu luyện của chư vị. Pháp là liên tục, cho nên chư vị không thể đọc sách theo cách chọn lựa như thế.

V: Thưa có phải tất cả những gì trong phạm vi môi trường của người tu luyện là do Sư Phụ biến hóa ra?

Thầy: Môi trường chung quanh không phải là được biến hóa ra. Tất cả những gì xảy ra chung quanh chư vị trong quá trình tu luyện của chư vị là kết quả từ nghiệp lực do chính chư vị đã gây ra trước khi sinh ra, tức là sự vai trả nghiệp của chư vị lẫn cả các điều tưởng thưởng từ những điều thiện của quá khứ của chư vị. Tất cả là kết quả từ hành động thiện và ác của chư vị mà ra. Tôi dùng đó để giúp chư vị tu luyện. Những điều này không phải là do tôi biến hóa ra. Khi chư vị trải qua một khổ nạn, sự thật là chư vị đang trả nghiệp, chắc chắn là thế. Những gì mà phần đông các học viên đã thấy trong giấc mơ hay là trong khi họ đang tập công pháp thiền định cũng không phải hoàn toàn được biến hóa ra. Phần đông là sự thật thể hiện ra, chỉ có là chư vị không thấy rõ ràng thôi.

V: Thưa, Sư Phụ có thể cho một số đệ tử sắp Viên Mãn biết một vài điều về sự tu luyện của Sư Phụ không?

Thầy: Chư vị sẽ biết tất cả sau khi chư vị Viên Mãn. Tôi cũng có ý định là chia xẽ quá trình kinh nghiệm của tôi với chư vị. Nhưng với tình hình hiện nay, dường như là không thể được. Tại sao không được? Ðó là vì trong tương lai, con người không được phép biết sự hiện hữu của tôi. Cho nên tôi không muốn để lại câu chuyện [cá nhân] của tôi cho con người [đời sau]. Còn về phần chư vị, một khi chư vị Viên Mãn chư vị sẽ biết. Ðến lúc đó, ngôn ngữ cũng không đủ để diễn tả sự vĩ đại của Sư Phụ của chư vị! (Vỗ tay)

Ðiều quan tâm chính yếu của tôi không phải chỉ là chư vị, thôi, mà là tất cả sinh mệnh. Tôi đã trao truyền gần hết tất cả những gì của tôi cho tất cả sinh mệnh. Tất nhiên, hình thức trao lại không phải là điều gì mà chư vị hiểu được, như là [trao] không còn gì hết. Tôi cũng thường giảng rằng tôi đã phối hợp vào trong Pháp tất cả những gì mà có thể giúp chư vị tu luyện và giúp chư vị thăng hoa, và tất cả những gì chư vị có thể đạt được qua tu luyện. Mặc dù chư vị ở trong các cảnh giới khác nhau, không một ai trong chư vị có thể thật sự hiểu được sự vĩ đại của lời tôi giảng. Chư vị sẽ đạt được tất cả miễn là chư vị tu luyện. Nhưng chư vị có biết rằng bao nhiêu điều của tôi đã được phối hợp vào những gì mà chư vị sẽ đạt được không? (Vỗ tay) Tất nhiên, tôi không muốn giảng về những điều có liên hệ đến tôi. Tôi chỉ muốn cho chư vị biết rằng chư vị phải trân quý sứ mạng này, sứ mạng mà Sư Phụ của chư vị đang thực hiện! Chư vị phải tu luyện giỏi. Ðừng bỏ lở cơ hội này.

V: Khi nào người Tây Phương chúng tôi có thể dịch Ðại Pháp?

Thầy: Chuyển Pháp Luân sắp xong rồi. Bản dịch tiếng Pháp sắp được gửi đi để ấn hành và bản dịch tiếng Anh thì xong rồi. Bản dịch tiếng Ðức hiện nay thì được đặt trong các nhà sách; hình như là nhiều nhà sách có bán. Còn về các bản dịch cho các ngôn ngữ khác, như là Ý và Spanish hình như đang được dịch ra, và bản dịch tiếng Nga thì xong rồi. Ðây là nói về các ngôn ngữ Tây Phương. Cũng có một số người đang dịch sách sang các ngôn ngữ khác. Kỳ thực thì theo cá nhân tôi, tôi rất lo về vấn đề này. Thường thường nguyên nhân là vì hoàn cảnh chưa đúng lúc trong người khía cạnh. Thêm nữa lại có quấy nhiễu từ nhiều khía cạnh mà chư vị không để ý đến. Cho nên sự việc cứ kéo dài mãi.

V: Tu luyện tâm tính là điều quan trọng nhất, tại sao trong sách Sư Phụ vẫn còn giảng về tầng thứ tu luyện và giảng về thần thông?

Thầy: Các học viên mới có nhiều câu hỏi. Ít nhất là nên đọc sách trước khi hỏi! Sự tu luyện và công năng của một vị Phật không tách rời nhau. Cho nên tôi chỉ giảng về những điều này trong khía cạnh thông thường trong hàm nghĩa chân lý và nguyên lý của Pháp để giúp cho chư vị hiểu. Phần còn lại tôi cho một ví dụ để giúp người tu luyện hiểu, nguyên nhân là thế. Không phải là tôi bảo: chư vị đừng truy cầu những điều này, nhưng tôi lại giảng những điều này cho chư vị. Những điều này không thể tách rời ra khỏi sự tu luyện Phật Pháp. Những gì chư vị truy cầu và chân lý của Pháp mà chư vị cần phải hiểu là hai điều hoàn toàn khác nhau; thần thông là hiểu hiện của một khía cạnh khác của Phật Pháp. Chư vị không có khả năng thấy được sự phi thường của sức mạnh của Phật Pháp thần thông là vì chư vị đọc sách với tư tưởng của con người thường. Chư vị chỉ đọc điều gì chư vị thích. Chư vị không đọc và lại còn không chấp nhận những gì tư tưởng con người của chư vị không hiểu được. Ðó chính là nguyên nhân tại sao chư vị không thăng tiến.

V: Thưa tại sao đồng tình luyến ái được xem là trái luân lý?

Thầy: Hãy suy nghĩ xem: Ðồng tình luyến ái có phải là tư cách của một con người không? Thiên đàng tạo người nam và người nữ. Mục đích để làm gì? Là để sinh sôi ra các thế hệ tương lai. Một người nam với một người nam hay là một người nữ với một người nữ, không cần phải suy nghĩ nhiều cũng đủ biết là đúng hay sai. Khi một việc nhỏ xảy ra không đúng, thì cho là một người làm xấu. Khi việc quan trọng xảy ra không đúng, thì đó là trường hợp mà con người không còn duy trì đạo đức của nhân loại nữa, vì thế họ không xứng đáng được làm người.

Ðể tôi giảng cho chư vị biết tại sao xã hội ngày nay đã trở nên thế này: Ðó là vì không có Pháp chân chánh để kiểm soát nhân loại. Ðại Pháp này được giảng đúng vào lúc mà môi trường hỗn loạn nhất, giai đoạn mà tôn giáo không thể cứu độ con người, và trong tình huống mà các chư Thần không còn quan tâm đến con người nữa. Pháp là tối cao. Trong giai đoạn tốt đẹp nhất thì không cần giảng Pháp vĩ đại thế này. Chỉ có trong gian đoạn bại hoại nhất, huyền năng của Pháp mới biểu hiện ra. Tuy thế cũng có các nguyên nhân khác.

Vấn: Thưa tại sao người đồng tình luyến ái được xem là người xấu

Thầy: Ðể tôi giảng cho chư vị, giả như tôi không giảng Pháp này hôm nay, việc đầu tiên là các chư Thần làm là hủy diệt những người đồng tình luyến ái. Không phải tôi hủy diệt họ, mà là các chư Thần. Chư vị biết rằng người đồng tình luyến ái đã được hợp thức là vì đồng tình luyến ái đã có từ văn hóa Hy Lạp cổ xưa. Có một hiện tượng giống như thế trong văn hóa Hy Lạp cổ xưa. Và chư vị có biết rằng tại sao văn hóa Hy Lạp cổ xưa không còn tồn tại không? Tại sao người Hy Lạp cổ cưa không còn nữa? Tại vì họ đã trở nên đồi bại đến mức độ đó, cho nên họ đã bị hủy diệt.

Khi các chư Thần tạo ra con người, các ngài chỉ định tiêu chuẫn cho tư cách và cách sống của nhân loại. Khi nhân loại vượt ra ngoài ranh giới đó, thì họ không còn được xem là nhân loại nữa, mặc dù hình dáng bên ngoài vẫn còn nhìn là con người. Cho nên chư Thần không chấp nhận sự hiện hữu của họ và sẽ hủy diệt họ. Chư vị có biết tại sao chiến tranh, các bệnh dịch, tai họa từ thiên nhiên và nhân tạo xảy ra trên thế giới này không? Ðó chính là vì nhân loại có nghiệp và những sự việc này xảy ra là để [cho nhân loại] trả nghiệp. Bất kể là trong giai đoạn nào trong tương lai, dù có tốt đẹp như thế nào đi nữa, thi cũng vẫn có chiến tranh xảy ra, các bệnh dịch, và các tai họa từ thiên nhiên hay từ nhân tạo xảy ra trên quả địa cầu. Ðây là cách để giúp con người tiêu nghiệp. Một số người phạm tội lỗi có thể trả nghiệp bằng cách mất đi mạng sống hay phải trải qua đau khổ, sau đó họ sẽ không còn nghiệp nữa sau khi họ đầu thai trở lại. Kỳ thực thì sinh mệnh của họ không có mất đi và họ sẽ đầu thai trở lại. Tuy nhiên một số người có quá nhiều nghiệp, trong trường hợp này, nhân tố cơ bản của sự hiện hữa của họ sẽ không còn nữa và bị hủy diệt. Những người đồng tình luyến ái không những chỉ vi phạm tiêu chuẫn mà chư thần chỉ định cho nhân loại, mà họ còn gây thiệt hại cho tiêu chuẫn đạo dức của xã hội nhân loại. Nhất là ấn tượng mà họ tạo ra cho các trẽ em, khiến cho xã hội tương lai trở thành một cái gì quỷ quái. Vấn đề là như thế. Tuy nhiên hình thức hủy diệt này không phải là chấm dứt sau khi bị hủy diệt. Người ấy phải đối diện với sự hủy diệt của từng lớp, lớp này đến lớp kia với một tốc độ dường như khá nhanh với chúng ta, trên thực tế thì chậm vô cùng trong thời gian trường đó. Lần này đến lần khác, ngày ấy bị hủy diệt một cách vô cùng đau đớn. Thật là kinh hãi. Một người phải sống theo tư cách cao thượng, phải sống trong vinh dự như một con người. Không nên chìm đấm trong ma tính và muốn làm gì thì làm.

V: Tôi muốn đạt Quả Vị. Mục tiêu của tôi là đạt Quả La Hán. Tôi chưa nổ lực giúp những người có cơ duyên với tôi và tôi cũng chưa nổ lực hồng Pháp. Tôi có sai không?

Thầy: Chư vị sai. Ðây là tư tưởng trần tục ở tầng bên ngoài của chư vị thể hiện ra. Chư vị có biết rằng tôi đã an bài chu đáo cho mỗi một chư vị những điều tốt không, là chư vị nên tu luyện đến đâu, mức độ khả năng chư vị chịu đựng thế nào, số lượng đức của chư vị có bao nhiêu, và tầng thứ cơ bản vật chất của chư vị thế nào? Chư vị muốn tự cá nhân mình an bài con đường tu luyện của chư vị, điều này không được và cũng không ai chấp nhận. Tại sao chư vị muốn [đạt đến] tầng thứ La Hán thôi? Bởi vì hiện giờ chư vị chỉ có thể hiểu Pháp đến mức độ này thôi. Chư vị có nhiều tâm ràng buộc chấp chước mà chư vị không muốn buông bỏ. Có thể nói rằng chư vị suy nghĩ như thế này bởi vì chư vị chỉ có thể hiểu Pháp đến mức độ này thôi. Trong tương lai, khi chư vị hiểu Pháp ở tầng thứ cao hơn, khi chư vị đọc sách Ðại Pháp nhiều lần, chắc chắn là tư tưởng của chư vị sẽ thay đổi. Chư vị sẽ cảm thấy rằng chư vị không nên hỏi câu này, và đến lúc đó chư vị sẽ cảm thấy hổ thẹn. Bây giờ tôi chỉ có thể nói với chư vị rằng đó là thể hiện [của tầng thứ] của chư vị, cho nên tôi không trách chư vị, nhưng tư cách của chư vị không đúng. Nếu chư vị không khắc khe với cá nhân chư vị, thì các tâm ràng buộc chấp chước mà chư vị không muốn buông bỏ sẽ cản trở chư vị kiên trì thăng tiến.

Vấn: Lúc khởi đầu tu luyện tôi rất châm chú và kiên trì. Nhưng gần đây đột nhiên tôi cảm thấy nghi ngờ Ðại Pháp. Lần này đến lần khác tôi cứ phạm lỗi này và không vượt qua các thử thách. Ðây có phải là nghiệp tư tưởng hay là ma quấy nhiểu?

Thầy: Tại sao tôi bảo chư vị phản bổn qui chân [tìm lại cội nguồn và trở về chân thật]? Mục đích trở về cội nguồn là gì? Ðó là để tìm lại bản chất chân thật của chư vị. Nhân loại có nhiều tâm ràng buộc chấp chước, khái niệm đủ loại, xúc cảm và dục vọng đủ loại. Tất cả các tư tưởng này ở trong đầu của chư vị, tuy thế các tư tưởng này không phải là của chư vị. Tôi đã giảng rằng cửa [Ðại Pháp] mở rộng và chỉ có cái tâm của chư vị là quan trọng. Chỉ tùy vào cái tâm của con người là có muốn tu luyện hay không, còn ôm giữ ý tưởng và mong muốn quay trở về cội nguồn và tìm lại bản chất chân thật của mình hay không. Cho nên tôi giảng với chư vị rằng tất cả những gì quấy nhiểu đến tư tưởng của chư vị có thể không phải là chư vị. Còn về những ai không buông bỏ được lợi ích nơi người thường, hay những ai không phân biệt được tư tưởng nào là của mình hay không phải của mình, và những ai xem tư tưởng đó là của chính mình, chắc chắn là chúng tôi không lo cho được. Tại sao? Tại vì những người này đã chấp nhận các tư tưởng xấu này là chính họ, cho nên chúng tôi không thể ban những điều của [trường phái của] chúng tôi cho người có tư tưởng xấu.

Vấn: Trong sách Chuyển Pháp Luân có giảng rằng các vị Ðại Giác tạo dựng ra vũ trụ căn cứ vào đặc tính của các ngài.

Thầy: Ðể tôi giảng cho chư vị, rất nhiều người đã đọc sách [và ngẫm nghĩ về] phần này. Phần này là nói về những gì đã xảy ra trong nhiều cảnh giới trong vũ trụ bao la, gồm có tất cả các vũ trụ trong đó. Vũ trụ bao la rộng lớn. Ðiều mà tôi giảng không phải là toàn bộ vũ trụ. Các vị Ðại Giác tại các tầng thứ khác nhau của vũ trụ đã ngộ được các chân lý khác nhau của vũ trụ của Ðại Pháp, và đến cả các vị Ðại Giác cùng ở trong một tầng thứ [điều mà các ngài] ngộ được cũng khác biệt nhau. Khi một số vũ trụ với diện tích khác nhau trong vũ trụ bao la bắt đầu có dấu hiệu suy đồi, các vị Ðại Giác mà đã khai ngộ đến một tầng thứ cao và đã ngộ được Pháp chân chánh sẽ tạo dựng lại một vũ trụ mới ở tầng thứ đó. Ðây không phải là giảng về vũ trụ to lớn hơn, cái vũ trụ mà bao gồm vô số tầng lớp vũ trụ [trong đó].

Vấn: Trong bài kinh văn 'Ðối thoại với Thời Gian' có giảng về một vị Thần. Chúng tôi hiểu sao về khái niệm của một vị Thần và sự khác biệt giữa một vị Phật hay Ðạo như thế nào? Liên hệ như thế nào với các vị Thần cổ xưa?

Thầy: Tất cả các vị nào trong vũ trụ mà có công năng vượt qua người thường đều là Thần. Trong vi lạp, vậy mà các sinh mệnh to lớn tràn ngập trong không khí là vô số các chư thần vô hình, ý là như thế. Có các chư Thần trong các cảnh giới khác nhau và đủ loại Thần. Có phải các vị Phật là Thần không? Có phải các vị Ðạo là Thần không? Tổng cộng lại thì các ngài được gọi là Thần. Chỉ có điều là họ có cách tu luyện và hình dáng riêng. Hơn nữa họ khai triển đặc tính đặc biệt riêng của họ. Cho nên vị này được gọi là Ðạo, vị kia được gọi là Phật, và vị khác được gọi là Thần. Tất cả những gì trong vũ trụ đều có tư tưởng và sinh mệnh. Thì chư vị có thể gọi các ngài là Thần không? Sự thay đổi xảy ra trong tất cả vật chất của một không gian là do thời gian trong không gian đó phân định. Thì có thể nói rằng thời gian không phải là một vị Thần? Thời gian biết hết tư tưởng của tất cả sinh mệnh nằm trong phạm vi khống chế của thời gian. Nếu thời gian muốn nói, thì có thể nói; nếu thời gian muốn hiện ra như một hình người, thì cũng hiện ra được. Có thể nói rằng đây là một vị thần không? Nhân loại tưởng rằng thời gian chỉ mà một khái niệm. Mặt trời lên và xuống, con người ghi chép một vài điểm và đặt con số trên đồng hồ, và cho đó là thời gian. Cùng với mặt trời lên xuống, thời gian được diễn tả như thế trong xã hội người thường. Nhưng tôi giảng cho chư vị rằng, đến cả mặt trời lên, mặt trời xuống, và trái đất xoay quanh mặt trời cũng do thời gian này phân định và xắp đặt không sai lệch.

Vấn: Tôi nhất định là phải đạt Viên Mãn. Khi Thầy không còn giảng Pháp nữa, thì Pháp Thân của Thầy vẫn còn bảo hộ tôi không?

Thầy: Kỳ thực tôi đã ngừng giảng Pháp rồi. Giai đoạn tôi giảng Pháp theo hệ thống đã qua rồi. Bây giời tôi chỉ đến đây dự Pháp Hội và trả lời các thắc mắc cho chư vị trong khi tôi ở đây. Các phụ đạo viên của trung tâm phụ đạo luôn luôn mong rằng tôi giảng thêm về những điều cao thâm và giảng thêm một chút nữa. Trước đây việc giảng Pháp của tôi là quan trọng nhất; bây giờ thì sự tu luyện và sự thăng tiến của chư vị là quan trọng nhất. Làm sao mà không có các Pháp Thân bảo hộ chư vị? Khi Pháp Thân của tôi không còn bảo hộ chư vị nữa thì chư vị đã đạt Viên Mãn.

Vấn: Một số học viên mới vừa thọ Pháp thật sự muốn nghe các băng thu âm và xem các băng thu hình của các bài Thầy giảng Pháp ở Bắc Mỹ trước năm 1998. Thưa có được không?

Thầy: Hiện nay có một quyển sách có các bài giảng Pháp của tôi khi tôi vừa đến Mỹ Quốc. Ðọc sách sẽ giúp chư vị lĩnh hội được Pháp rất nhiều. Một mặt khác thì băng thu hình có thể là không có liên quan trực tiếp đến chư vị, bởi vì trong giai đoạn đó tôi chỉ giảng về các tình huống đặc biệt của các học viên tại đó. Trong khi đó thì các quyển sách [giảng Pháp của tôi] thì thích hợp cho mọi người hơn, bởi vì đã được chỉnh xong. Hơn nữa, có thể chư vị thấy rằng từ các băng thu hình có điều gì rất lạ trong lúc tôi giảng Pháp. Trong khi tôi đang giảng, giảng, giảng, đột nhiên tôi đổi đề tài và bắt qua đề tài khác. Có lẽ tất cả chư vị cũng đã cảm nhận điều này. Tại sao? Bởi vì khi tôi giảng, tôi phát hiện rằng các học viên đã hiểu đề tài đó rồi. Trước khi tôi giảng họ đã hiểu rồi. Tôi chưa giảng xong mà họ cũng đã hiểu rồi. Cho nên tôi ngừng giảng về đề tài đó và chuyển sang đề tài khác. Bởi vì điều này xảy ra rất thường trong các băng thu hình của tôi, trong rất nhiều đề tài [mà tôi đã giảng], xem các băng thu hình có thể là không bằng đọc sách. Ðọc sách là tốt hơn cho chư vị, ý tôi giảng là thế. Ðọc sách và xem các băng thu hình sẽ gây can nhiễu [đến chư vị]. Cho nên vừa khi các sách giảng Pháp trong các vùng được ấn hành xong, thì tất cả các băng thu âm và thu hình cần phải bị xóa đi, đó là để bảo vệ Ðại Pháp. Ðiều mà con người không buông bỏ được là xúc cảm.

Vấn: Vợ tôi và tôi tập luyện Ðại Pháp. Mới vài tháng đây, lần lượt cả hai chúng tôi mơ thấy một con chim thật to tuyệt đẹp. Sau đó con chim nhập vào thân thể của tôi rồi biến mất, trong khi đó vợ tôi nghe tiếng chim kêu. Thưa điều này là dấu hiệu gì?

Thầy: Ðó chỉ là một con chim. Trong bao nhiêu kiếp luân hồn của chư vị, đến cả một vị thần hạ thế từ một tầng thứ rất cao cũng có thể đầu thai thành một con người trong một đời và đầu thai thành một con thú trong một đời khác. Trong thế giới nhân loại là như thế. Ðiều đầu tiên mà chư vị thấy trong giai đoạn đầu của sự tu luyện của chư vị có thể là hình thức nguyên thủy hay là hình tượng của chính chư vị vừa mới qua. Có thể là hình tượng con người, con thú, cái vật này vật kia. Chim trên thiên đàng cũng là Thần.

Vấn: Thưa, người tu luyện có thể uống thuốc bổ không?

Thầy: Chư vị chưa đọc sách [Pháp], chắc chắn là chư vị chưa đọc sách. Mọi người hãy suy nghĩ: Thân thể của một người tu luyện không thể phát triển Công lực được nếu họ bị bệnh. Tức là, thân thể nhơ nhớp của chư vị không phù hợp với [tiêu chuẩn] của tu luyện. Khi chư vị tu luyện, thân thể của chư vị cần phải được thanh lọc đến điểm hoàn toàn trong sạch, và chỉ đến lúc ấy thì thân thể này mới bắt đầu phát triển Công lực được. Cho nên tôi đã giảng rằng chúng tôi không trị bệnh; nhưng tôi sẽ thanh lọc thân thể cho những người tu luyện chân chánh, và thân thể loại này không có bệnh. Chúng ta phải đạt được loại thân thể này trong cảnh giới của một vị Phật. Uống thuốc bổ có đạt được điều này không? Chắc chắn là không. Tại sao chư vị uống? Không phải là mùi vị thuốc này ngon hay là đáng giá để mà thữ xem hương vị thế nào. Chúng tôi thanh lọc thân thể của chư vị càng trong sạch hơn trong quá trình tu luyện, để dần dần thân thể này có thể đạt đến trạng thái tự nhiên nhất và tốt nhất. Ðó là điều mà uống thuốc không đạt được. Nếu chư vị uống thuốc hay uống thuốc bổ, thì có phải là chư vị không tin tưởng vào sự tu luyện không? Giản dị là chư vị không xem cá nhân mình là một người tu luyện. Ðó có phải là nguyên nhân không? Nếu chư vị không tự xem cá nhân mình là một người tu luyện, làm sao chúng tôi [...]? Có hợp lý không? Dù cho là thuốc Bắc hay là thuốc Tây, tất cả cũng là thuốc, chắc chắn là như thế. Mục đích của chư vị giản dị là muốn có một thân thể khoẻ mạnh, nhưng những gì chư vị đạt trong sự tu luyện là vượt xa điều này. Tôi giảng sự liên hệ là như thế. Cho nên chư vị suy nghĩ xem là phải làm sao?

Vấn: Chúng tôi là đệ tử đến từ Trung Quốc. Năm người khác không thể đi được vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Có phải là ma quấy nhiễu mạnh quá hay là Thầy đã an bài cho họ không đi được phải không?

Thầy: Tôi không muốn cho năm người trong chư vị đến đây. Tại sao? Cũng như tôi vừa giảng qua, việc giảng Pháp của tôi là quan trọng nhất, nhưng hiện nay thì sự tu luyện và sự thăng tiến của chư vị là quan trọng nhất. Hoàn toàn để tâm vào tu luyện, liên tục tu luyện và tu luyện vững vàng, đây là điều then chốt. Với tâm của chư vị không vững, muốn tìm tôi, mong muốn nghe tôi giảng Pháp, đi tìm tôi khắp nơi ... điều đó hoàn toàn không mang lợi ích gì cho chư vị, không một chút lợi ích nào cả. Khi Pháp Hội được tổ chức ở Singapore, rất nhiều học viên từ Trung Quốc muốn đi. Sau đó tôi bảo với Hội Ðại Pháp Phật Học rằng "Chư vị nên cho mọi người biết: Bảo các trung tâm phụ đạo, mỗi một vùng thông báo cho các học viên, không được đi khắp nơi, bởi vì không có ích lợi gì cả." Khởi đầu trong giai đoạn này, các Pháp Thân an bài từng bước một cho sự tu luyện của chư vị; tuy nhiên chư vị đã làm gián đoạn quá trình này. Thời gian đó là dành cho chư vị tu luyện, đáng lẽ ra là một số tâm ràng buộc chấp chước của chư vị nhờ đó mà đã được buông bỏ rồi, và trong một khía cạnh nào đó đáng lẽ ra chư vị phải thăng tiến nhưng lại bị gián đoạn. Ðó là nguyên nhân. Tất cả các tâm ràng buộc chấp chước cản trở những gì chư vị không thể làm, đừng xem đó là ma quấy nhiễu.

Vấn: Chồng tôi chưa bao giờ tập luyện, mặc dù anh ấy đã đọc sách Chuyển Pháp Luân một lần và đã xem băng thu hình Sư Phụ giảng Pháp. Tuy thế Thiên Mục của anh ấy khai mở rồi và còn có thể nhìn phóng xạ.

Thầy: Ðó là vì vị này có cơ duyên. Căn cơ của vị ấy khá tốt cho nên vừa khi đọc sách là Thiên Mục khai mở. Còn về có học hay có tu luyện [Ðại Pháp] hay không, ai sống trong xã hội phức tạp này cũng đều trở nên phức tạp vô cùng. Trước khi mỗi một người trong chư vị tại đây, trong khán giả, đến thế giới nhân loại, trong quá khứ đã có tạo nhiều mầm móng để chư vị được thọ Pháp hôm nay, [mầm móng ấy đã có tận trong tâm và linh hồn của chư vị. Rất nhiều lần tôi đã tìm và tìm ra chư vị trong xã hội nhân loại và đã đánh dấu chư vị. Tất cả những điều này đóng một vai trò quan trọng, vậy mà cũng không giúp giảm bớt các tâm ràng buộc chấp chước nơi người thường của chư vị. Và cũng không giúp chư vị cảm tưởng giống như trước đây khi chư vị vừa thọ Pháp: "Ô, tôi đã chờ đợi bao nhiêu năm. Tôi đến chỉ để thọ Pháp." Rất nhiều người không còn cảm tưởng như thế nữa, kết quả là có lúc thì tu có lúc không và không còn kiên trì nữa. Một số người, có cơ duyên và đã thọ Pháp, cũng không buông bỏ được các tâm chấp chước ràng buộc của họ. Có đủ loại tình huống. Một khi cơ duyên này chấm dứt, thì không còn nữa.

Vần: Thưa Sư Phụ, khi giảng về dấu hiệu chữ Vạn, Sư Phụ giảng rằng "Một vị Phật mà tầng thứ cao hơn Phật Như Lai có hai dấu hiện chữ Vạn." Có phải là Sư Phụ giảng về chiều cao của trụ Công của một người mà cao gắp hai Phật Như Lai không?

Thầy: Tôi giảng về tâm tính và uy đức của một người. Công lực chỉ là một biểu hiện của tâm tính và uy đức. Cũng có thể hiểu đó là trụ công của một người. Nhưng phải là trụ công sau khi họ đạt Viên Mãn. Phải nói rằng chiều cao trụ công của một người sau khi đạt Viên Mãn phải được tăng lên gấp đôi như trụ công của vị Phật Như Lai. Còn trụ công phát triển trong quá trình tu luyện thì không tính; chưa được tính là vì những bộ phận khác của chư vị chưa đạt Viên Mãn; cho nên đó cũng chỉ là hình thức hiện hữu của năng lượng mà thôi. Tuy thế trong khi tu luyện từ một quan điểm đặc định nào đó thì, trụ công đại biểu tầng thứ và tâm tính của chư vị.

Vấn: Trong Pháp Hội ở Singapore, khi các đệ tử vỗ tay, Sư Phụ thường chấp tay theo thế Heshi làm dấu hiệu chấp nhận. Nhưng khi giảng Pháp trước đây Sư Phụ chỉ dùng một tay để ra dấu chấp nhận. Hàm nghĩa xâu xa là gì?

Thầy: Ðối với các đệ tử của tôi, tôi chỉ ra dấu với một tay thôi. Nhưng có một điều là: Khi tôi nhìn thấy cái tâm trong sạch của mọi người và chư vị kiên trì và liên tục thăng tiến, kỳ thực tôi rất vui mừng, cho nên tôi dùng dấu hiệu với cả hai tay. Dưới trường hợp thông thường, một vị Sư Phụ ra dấu với các đệ tử với một tay thôi.

Vấn: Tôi nghe nói rằng khi một người đọc thuộc lòng sách Chuyển Pháp Luân, Chủ Nguyên Thần của vị ấy sẽ vĩnh viễn mang theo Ðại Pháp, không kể là vị ấy có đạt Viên Mãn hay không.

Thầy: Ai mà chỉ muốn thuộc lòng Pháp mà không đạt Viên Mãn? Tại sao chư vị thuộc lòng sách này? Có phải là để đạt Viên Mãn không? Ðọc thuộc lòng sách Chuyển Pháp Luân giúp cho chư vị thăng tiến, bởi vì phần vi tế (cực nhỏ) của thân thể của chư vị và phần con người ở bên ngoài cùng đều thuộc lòng chung với nhau. Tuy nhiên bất kể chư vị thuộc lòng thế nào, cho đến cả những người mà thuộc lòng thật giỏi, đến một gian đoạn nào đó đột nhiên chư vị không còn đọc thuộc lòng được nữa. Tại sao? Ðó là vì phần chánh của chư vị, phần mà đã thuộc lòng Pháp, sẽ tách rời khỏi chư vị sau khi đã phù hợp với tiêu chuẫn. Ðột nhiên chư vị sẽ cảm thấy: "Ô, làm sao tôi không thể thuộc lòng được nữa?' Ðó là vì phần của chư vị, phần đã thành đạt được tách ra rồi, cho nên phần của con người bên ngoài của chư vị không còn thuộc lòng toàn bộ quyển sách nữa, vì phần này của chư vị đã quên rồi. Một số người quên nhiều, một số người quên ít. Trạng thái này sẽ xảy ra.

Nhiều người trong chư vị cũng đã kinh nghiệm một tình huống có lúc nghe rõ, có lúc Thiên Mục thấy rõ. Lúc nào mà một người có thể thấy rõ hay nhìn thấy rõ nhất? Ðó là lúc mà người này tu luyện thật giỏi trong giai đoạn đặc định nào đó, lúc mà chưa được tách rời ra và người ấy sắp sửa phù hợp với tiêu chuẫn. Người này có thể thấy rõ, tai nghe rõ, thân thể cũng rất nhạy cảm. Một khi đã được tách rời ra, người ấy phát hiện rằng trạng thái đó đã biến m61t rồi cho nên suy nghĩ, "Vì tôi bị rơi xuống [tầng thứ] phải không? Làm sao mà tất cả không còn tốt nữa?' Không phải là chư vị bị rơi xuống; mà là vì phần đã tu luyện xong rồi của chư vị đã bị tách rời ra rồi, và phần còn lại là phần chưa tu luyện xong, phần này phải tiếp tục tu luyện. Cho nên có lúc chư vị rất nhạy cảm. Ðiều này xảy ra như thế. Tình huống này chỉ xảy ra trong khi tập luyện Ðại Pháp.

Vấn: Thưa có phải là khi tu luyện lên các tầng thứ cao hơn thì không ngũ nhiều nữa phải không?

Thầy: Không phải thế. Tình huống này có liên quan đến các hạt tử bên trong tư tưởng của chư vị được cải biến và được nâng cao; nhưng nó chỉ xảy ra lúc nào đó thôi. Vật chất mà tôi vừa giảng qua cũng bao gồm yếu tố này. Ở tầng bên ngoài chư vị sẽ trở về trạng thái bình thường khi phần mà tu luyện thành của chư vị được tách rời ra khỏi chư vị. Ðây là điều mà chư vị sẽ kinh nghiệm cho đến khi chư vị đạt Viên Mãn. Tất cả là để cho chư vị sống như con người bình thường. Tuy thế phần phàm tục của chư vị càng ngày càng yếu hơn. Và nếu chư vị thể theo tiêu chuẩn cao, có lẽ chư vị sẽ giữ vững càng ngày càng tốt hơn nơi người thường. Cách thức là như thế.

Vấn: Thời gian [hiện tại] là khẩn trương, vậy mà tôi cũng vẫn chưa ngồi bàn tọa theo thế kiết già được. Làm sao tôi có thể khá hơn?

Thầy: Ðừng nao núng. Không ai nói rằng không còn đủ thời gian nữa. Tôi chưa bao giờ nói gì về vấn đề không còn thời gian nữa. Tôi bảo chư vị phải tu luyện nhanh chóng, và chư vị phải chú tâm tu luyện. Tuy nhiên chư vị phải biết rằng, chư vị cần phải nghiêm khắc với chính mình, ý của tôi là thế. Dù sao đi nữa, những ai hoàn toàn không thể ngồi thế xếp bằng thì rất ít. Có một số người, Chủ Nguyên Thần của họ ở trên thiên đàng không mang hình dáng con người nhưng lại mang hình dáng của các vị Thần khác, các vị này không ngồi xếp bằng theo thế hoa sen. Có lẽ là có liên hệ đến yếu tố này. Nhưng bởi vì chư vị có một thân thể con người, nhục thể này hiện nay, tôi tin rằng tất cả chư vị có thể ngồi xếp bằng lại được, chỉ trừ một số người vô cùng đặc biệt. Ðể kể cho chư vị một chuyện vui. Những ai ngồi tại đây, kỳ thực rất nhiều người đã tu luyện khá lắm rồi. Các vị Bồ Tát trên thiên đàng đang che miệng và cười những ai không ngồi xếp bằng được, họ nói "nhìn xem những người tu luyện kia vẫn chưa ngồi xếp bằng được."

Vấn: Thưa Thầy làm ơn có thể giảng về khái niệm của tâm ràng buộc chấp chước được không?

Thầy: Nguyên nhân gì mà con người không thấy được chân lý của vũ trụ? Tại sao không gian này nằm trong mê ão? Ðể tôi giảng cho mọi người: Nơi người thường, những gì chư vị thấy và những gì chư vị gặp trong chiều không gian của xã hội người thường, cùng với kiến thức học hỏi nơi người thường, tất cả đều hạn chế và giam giữ chư vị lại. Khi thu thập được kiến thức trong không gian này, khi chư vị càng hiểu rõ tất cả những gì trong không gian này, và dần dần chư vị càng chú ý hơn nữa, kỳ thực thì chư vị đang bị khóa lại càng nhiều hơn nữa. Trên thực tế, những gì chư vị cho là chân lý trong không gian người thường đây có thể là sai và trái ngược. Vì thế chư vị sẽ không thấy được chân lý của vũ trụ nếu chư vị không buông bỏ đi những kiến thức học hỏi được từ xã hội người thường. Nhất là những gì mà nhân loại không thể buông bỏ được, vì mục đích tồn tại, vì bảo vệ chính mình, vì muốn đạt thêm lợi ích cá nhân, tôi gọi tất cả là ràng buộc chấp chước. Ràng buộc chấp chước này không khác chi là một cái ống khóa to lớn cứng chắc, nó khóa chư vị vào bên trong. Chư vị phải mở [đập phá] tất cả cái khóa này trong khi thăng tiến trên con đường [tu luyện] của chư vị. Nếu không thì những cái khóa này sẽ khóa chư vị vào bên trong và làm cho chư vị [chìm trong] mê ão, và chư vị sẽ không thể thấy được chân lý. Thêm nữa nếu chư vị không đập phá đi những cái ống khóa này trên con đường tu luyện mà đưa chư vị quay trở về nơi nguyên thủy của chư vị và tìm lại bổn lai của chính mình, chư vị sẽ không tiếp tục thăng tiến được. Khảo nghiệm là thế. Tất cả những gì chư vị bị ràng buộc chấp chước vào là chướng ngại cho chư vị. Các khảo nghiệm mà chư vị gặp trong quá trình tu luyện kỳ thực chính là khổ nạn của chư vị. Mục đích mà tôi dùng các khảo nghiệm này là để mở [đập phá đi] những cái khóa ràng buộc chấp chước này của chư vị, giúp chư vị thấy được chân lý và giúp cho tâm tưởng của chư vị đề cao lên.

Vấn: Thưa, buông bỏ tất cả tâm ràng buộc chấp chước được hiểu như thế nào?

Thầy: Ðó chỉ là buông bỏ các tâm ràng buộc chấp chước đủ loại mà chư vị không thể buông bỏ được trong không gian người thường đây, bởi vì cách mà chúng ta tu luyện hôm nay khác với tất cả môn tu luyện khác trong quá khứ. Tôi biết rất nhiều người sẽ đến học và có một hiện tượng xã hội sẽ xảy ra. Trong tương lai sẽ còn nhiều người hơn nữa đến để học. Hiện tượng xã hội này xuất hiện, đại quần chúng sẽ tu luyện, sẽ mang ảnh hưởng to lớn trong xã hội. Nếu tất cả mọi người tu luyện mà công năng không bị khóa lại và mọi người tùy tiện dùng thần thông khắp nơi, toàn bộ xã hội sẽ biến đổi. Thay vì là một xã hội nhân loại nó lại trở thành xã hội thần thánh mất rồi. Không thể xảy ra được. Bởi vì xã hội nhân loại là phải theo cách như thế này, chúng ta dùng môi trường này và tu luyện trong đó. Không những chúng ta không gây xáo trộn cho môi trường này, đồng thời chúng ta còn phải phù hợp với môi trường này trong khi chúng ta tu luyện. Ðó là vì, nếu chư vị không phù hợp với môi trường này thì không có cách nào chư vị tu luyện được. Cách mà chúng tôi dùng hôm nay là như thế. Hiện nay có cả hơn 100 triệu người tu luyện Ðại Pháp. Nếu tất cả mọi người ở nhà trở thành tu sĩ Cơ Ðốc Giáo hay là các hòa thượng trong Phật Giáo, thì không được. Rất nhiều người trong tương lai sẽ đến tu luyện. Xã hội này sẽ ra sao? Ai sẽ nuôi chư vị nếu tất cả mọi người đều đến để tu luyện? Không thể được. Cho nên chúng ta phải phù hợp tối đa với xã hội người thường đây. Chúng ta dùng hình thức xã hội người thường này để tu luyện, cho nên chúng ta phải phù hợp.

Tất cả chư vị cần phải có việc làm, phải có một môi trường, đến cả gia đình cũng có, và có nhiều thân nhân trong xã hội người thường đây. Trên mọi mặt, tất cả là phản ảnh khả năng của chúng ta phù hợp với cách sống của xã hội người thường. Ðồng thời họ tạo cơ hội tốt cho chúng ta tu luyện và còn tạo cho chúng ta một môi trường để tu luyện, bởi vì chư vị tu luyện nơi người thường. Như thế, vì chúng ta đang tu luyện nơi người thường, chúng ta phải phù hợp tối đa với cách sống của xã hội người thường về mặt vật chất hay của cải. Tuy nhiên có một điểm cần đề ra là: Chư vị không giống như người thường. Bởi vì chư vị là người tu luyện, tâm và tư tưởng của chư vị không bị dính mắt vào những điều này. Chư vị có thể có rất nhiều tiền, có gia đình, có của cải, có rất nhiều [thứ khác]. Tuy nhiên chư vị không được ràng buộc chấp chước vào những thứ này. Ðây là cách chư vị tu luyện.

Hoàn toàn xả bỏ những gì mà chúng tôi đang giảng đây không có nghĩa là chư vị phải bỏ đi tất cả vật chất thì mới được tính là xả bỏ. Trái lại, nếu chư vị buông bỏ được tất cả vật chất nhưng trong tâm và tư tưởng chư vị chưa bỏ được, nếu chư vị vẫn còn ngần ngại không buông bỏ được, nếu chư vị không thể tách rời chúng ra, hay là nếu chư vị vẫn còn thường nghĩ đến và đôi lúc còn để cho những điều này ảnh hưởng đến sự tu luyện của chư vị, thì tôi nói rằng đây không phải là xả bỏ, mà là bị ép buộc phải xả bỏ. Hình thức là, trên bề mặt phải xem nhẹ của cải vật chất này đi. Tôi cũng nhận thấy, nguyên nhân thật sự mà một người có thể thăng tiến qua tu luyện là vì cái tâm và tư tưởng người thường của họ cải biến. Chỉ khi nào cái tâm và cảnh giới tư tưởng của người này đạt đến tiêu chuẫn [đặc định], thì người này mới thật sự thăng tiến trong tu luyện. Chúng ta xem nhẹ của cải vật chất. Bất kể là chư vị có của cải vật chất hay không; điều chủ yếu là chư vị có thể buông bỏ được các tâm ràng buộc chấp chước không và chư vị có thăng tiến được không, đây là điều then chốt nhất. Hơn nữa, cách thức của toàn bộ quá trình tu luyện đã được an bài cho chư vị tu luyện nơi người thường, giúp cho chư vị kiên trì thăng tiến và không để cho Công lực của chư vị lùi lại. Tất cả mọi sự an bài, trong mọi mặt, đều phù hợp với hình thức tu luyện mà chúng ta dùng hôm nay. Cho nên khi tôi bắt đầu giảng Pháp vào những năm trước đây, các chư Thần cho rằng đây là 'Pháp với Uy Ðức Vô Biên'. Họ nhận thấy Pháp này quá tốt.

Vấn: Thưa, cách thức hồng Pháp có nên sữa đổi để phù hợp với người Tây Phương không?

Thầy: Tốt lắm, người tu luyện đã thọ Pháp có nguyện vọng này và tìm cách làm sao hồng Pháp để giúp cho nhiều người hơn nữa đến học. Bất kể là Tây Phương hay Ðông Phương, bất kể chư vị hồng Pháp thế nào, cũng khó cho những ai không có cơ duyên đến học Pháp. Ai là người có "cơ duyên"? Tôi đã từng giảng về cơ duyên trước đây. Vậy thì làm sao tìm ra những người có cơ duyên? Như là chư vị quảng cáo trong tờ báo, tìm "Ai có cơ duyên?"; thì không được. Tuy nhiên có một điểm mọi người cần phải rõ là, có lẽ tất cả học viên chúng ta hiểu trong tâm rằng có một số người khi chư vị nhắc đến danh từ "Pháp Luân Công" hay 'Chuyển Pháp Luân' thì họ lập tức muốn học. Có thể những người này có cơ duyên. Một số người dù chư vị có nói với họ bao nhiêu đi nữa tâm của họ cũng không dao động, có thể là những người này không có cơ duyên.

Cho nên hồng Pháp thế nào và cách thức hồng Pháp, kù thực cách tốt nhất là các học viên chúng ta tập các bài công pháp tại các nơi công cộng để cho những người có cơ duyên tìm đến. Một cách khác nữa là để sách Ðại Pháp của chúng ta ở các nhà sách của các chủng tộc và quốc gia khác nhau. Tôi có vô số Pháp Thân có thể lập tức tìm ra người có cơ duyên và tìm ra người đáng được thọ Pháp. Nếu chúng ta để sách trong nhà sách và các học viên chúng ta tập các bài công pháp tại các công viên, Pháp Thân của tôi có thể tìm những người có cơ duyên và khiến cho họ đến để tìm học Pháp này. Một số khó khăn sẽ xuất hiện nếu môi trường này không có. Nhưng bất kể là cách nào, một người có cơ duyên sẽ tìm ra quyến sách [Pháp] này và khi vừa đọc sách thì nghĩ rằng quá tốt. Bởi vì người này có cơ duyên, chắc chắn họ sẽ nghĩ rằng tốt và sẽ tìm; vì chúng ta có người tập ở ngoài công viên người này sẽ tìm chúng ta lập tức. Từ khi tôi mới vừa bắt đầu giảng Pháp này, nhiều người đã thọ Pháp theo cách này. Vậy mà cũng có người nghe từ các học viên của chúng ta. Họ nghĩ rằng Pháp quá tốt và bảo gia đình của họ đến học. Nếu họ không nghĩ rằng Pháp này tốt, chắc chắn là họ không bảo thân nhân của họ đến để bị lừa dối. Chính vì cá nhân họ cảm thấy Pháp này tốt cho nên họ bảo thân nhân của họ đến học. Sau đó thân nhân của họ lại cảm thấy rằng Pháp này cũng tốt, họ bèn nói với bạn bè và thân nhân của họ đến học. Mọi người được ảnh hưởng rất nhiều khi chính các học viên chia xẽ cảm tưởng căn cứ vào kinh nghiệm cá nhân của họ. Họ không bao giờ lừa dối thân nhân của họ hay bạn bè; cho nên bạn bè của họ tin. Vì nếu những người này cũng tin thì họ sẽ đến học và chính cá nhân họ cũng có kinh nghiệm riêng của họ. Ðại Pháp phổ truyền ra như thế.

Vậy mà cũng có một số ít người đến thọ Pháp sau khi tìm thấy các tài liệu [về Ðại Pháp] mà các học viên đăng trên báo hay tạp chí. Hôm qua tôi đã giảng rằng tôi không phản đối thọ Pháp theo cách này. Tuy nhiên rắc rối gì có thể xảy ra với sự việc này? Không phải là chỉ có những người xuất sắc đến, mà chính cả những người với căn cơ kém cũng đến. Cho nên những người này sẽ đến với mưu cầu và đủ loại tâm thái khác nhau, và đó là tại sao một số người tập luyện một thời gian ngắn và bỏ đi. Có lẽ là những người này thuộc vào nhóm có căn cơ kém. Có thể là họ không muốn thọ Pháp hay là họ không nên được thọ Pháp. Thông thường là trường hợp này. Rất tốt là các học viên viết bài kinh nghiệm và đăng trên báo. Tôi không phản đối điều này, chung qui là giúp cho người có cơ duyên đến [để thọ Pháp], người xuất sắc cũng sẽ tìm xem trong báo và đến. Ðó là tại sau cách này cũng hữu hiệu. Nhưng có hai phương cách chánh là: Một là chúng ta để sách trong các nhà sách và chúng ta có nơi tập luyện, để cho Pháp Thân của tôi có thể mang những người này đến tìm chúng ta; một cách khác là qua các Pháp Hội và qua các chia xẽ kinh nghiệm của các học viên với thân nhân. Ðiểm chánh là với hai phương cách này nhiều người hơn nữa sẽ đến, căn cơ của họ cũng cao. Còn về các phương thức khác, không kể Ðông Phương hay Tây Phương, tôi nghĩ rằng là nên giữ hai phương thức này làm chánh yếu. Trong các vùng, trong giai đoạn khởi đầu, người đến học chưa hiểu rõ Pháp Luân Công là gì, cho nên chúng ta phải giới thiệu cho họ biết bằng cách đăng các bài giới thiệu trong báo chí hay các tập san, v..v. Tất nhiên phương thức này cũng là cách để phổ biến Pháp, chắc chắn là như thế.

Vấn: Thưa, tôi là người Tây Phương. Khi Thầy phải trải qua một khảo nghiệm, Thầy phải chịu đựng hay là không quan tâm đến nó?

Thầy: 'Khi Thầy...' Ðó là chư vị nói về tôi phải không? Có một điều tôi muốn nói với mọi người rằng. Ðây là một câu hỏi rất hay. Tôi nghĩ rằng đã đến lúc mà phải sáng tõ điểm này cho mọi người.

Tôi có thể giảng điều này cho chư vị hôm nay, không kể bao nhiêu người tu luyện Ðại Pháp hay là bao nhiêu học viên, bao nhiêu đệ tử tôi có, tất cả chư vị là người tu luyện. Không trừ ra một ai. Chư vị đang tu luyện. Không kể chư vị tu luyện giỏi hay kém, kiên trì hay không, tầng thứ của chư vị cao hay không, tất cả mọi người phải tự mình nghiêm khắc với chính mình trong khi tu luyện và phải tự xem mình là người tu luyện. Tuy nhiên, tôi không phải đến đây để tu luyện. Chư vị cần phải hiểu rõ điểm này. Tôi không có đau khổ, tôi cũng không có những yếu tố tu luyện giống như chư vị. Có một điểm tôi muốn đề ra: Tôi nhận chư vị là đệ tử, cho nên tôi cứu độ chư vị, tôi cứu độ chư vị và tôi chuyển hóa chư vị. Cho nên từ quan điểm này, chư vị có thể thấy rằng tôi khác với chư vị. Chư vị phải xem những trở ngại mà chư vị gặp là tu luyện, khẳn định là để cho chư vị tu luyện. Nhưng nếu trở ngại mà xảy ra cho tôi, thì sẽ gián đoạn và gây thiệt hại cho Pháp. Tại sao thế? Vũ trụ này là cơ bản. Mục đích của tôi làm việc này là Chính Pháp. Tất cả sinh mệnh của vũ trụ không còn phù hợp với Pháp nữa, cho nên Pháp phải chỉnh lại tất cả. Ðiều mà tôi thường giảng với chư vị là sự việc mà hàng ngàn năm cũng chưa gặp được. Ðể giảng Ðại Pháp cho toàn vũ trụ trong thế giới nhân loại, [thì phải dùng] một loại Pháp mà đến cả chư Thần cũng không được biết trước, sự việc mà chưa bao giờ xảy ra từ khai thiên lập địa.

Qua bao nhiêu thời đại lịch sữ tất cả sinh mệnh không còn tinh khiết nữa, tất cả đều bị sai lệch. Nếu tiếp tục thế này trong một thời gian lâu, thì đến cả nền tảng cơ bản của Chân-Thiện-Nhẫn cũng sẽ bị sai lệch. Kinh hãi vô cùng. Nhưng tôi quý tất cả sinh mệnh trong vũ trụ. Tôi muốn duy trì tất cả sinh mệnh nguyên thủy càng nhiều càng tốt và không để cho quá trình hủy diệt này xảy ra. Với ý nguyện này mà tôi xuống đến đây. (Vỗ tay) Từ khi tôi đến đây, tôi đến với một tư cách là tôi mang với tôi tất cả những gì cơ bản nhất, kỳ diệu nhất, và từ khởi điểm của thời gian, là hoàn hảo nhất. Chư vị biết rằng Pháp Luân xoay chuyển. Pháp Luân mà chư vị nhìn thấy đó chỉ là hình thức bề mặt thiển cận của Pháp Luân; cũng có khía cạnh bề mặt của Pháp Luân. Pháp Luân cũng có một bề mặt mà chư vị không nhìn thấy được. Pháp Luân xoay chuyển không ngừng và có một bộ khí cơ chỉnh sửa tự động, mang lại tất cả những gì cơ bản nhất và mang lại trạng thái tốt nhất. Từ tầng thứ vi quan cho đến tầng thứ bề mặt bên ngoài, tất cả vật chất và tất cả sinh mệnh là như thế, tất cả đều xoay chuyển và đang vận động. Tôi cải tạo lại và thu hồi lại tất cả. Thêm vào đó, sẽ liên tục đưọc bồi bổ và hài hòa lại. Ðối với tôi thì không có vấn đề tu luyện. Ðang làm việc này, điều mà tôi cần giải quyết là sự cản trở của thế lực củ, mà đã hình hành sau khi tất cả sinh mệnh trong vũ trụ không còn tinh khiết nữa. Ðồng thời, điều khó khăn cho tôi là số nghiệp lực mà tất cả sinh mệnh đã tạo ra trong xã hội của người thường. Tôi thường giảng rằng tôi biết tại sao Chúa Jêsu bị con người đóng đinh trên thập tự giá, tại sao Ðức Thích Ca Mâu Ni phải chọn Niết Bàn và tại sao Lão Tữ phải vội vàng rời khỏi nơi đây để lại chỉ một quyển sách với năm ngàn lời trong đó. Giả như một người đến thế giới này và luân hồi bao nhiêu đời; chư vị không hiểu được bao nhiêu đời và bao nhiên lần chư vị đã sống qua. Tuy nhiên trong mỗi một cuộc đời chư vị đã thiếu người khác rất nhiều nợ và làm bao nhiều điều xấu. Một số người thì đến từ các tầng thứ khác nhau và đã luân hồi đến trái đất này. Họ từ trong các không gian của tầng thứ cao, vì làm điều xấu ác mà rơi xuống từng bước một. Tại sao họ không thể ở lại trong các không gian đó? Là vì ở nơi đó họ lại làm những điều xấu ác và rơi xuống thấp hơn nữa; họ lại làm điều xấu ác nữa và lại rơi xuống càng thấp hơn nữa. Cho nên ở trên thiên đàng mà làm điều xấu ác gây ra nợ thì phải thiếu chư Thần.

Chư Thần trên thiên đàng không cho phép nhân loại trở về thiên đàng! Không có một vị Sư Phụ giảng dạy chư vị, không có một vị Sư Phụ bảo hộ chư vị, chư vị vĩnh viễn không bao giờ được trở về dù khả năng của chư vị như thế nào. Sau khi rơi xuống đến quả địa cầu này, vĩnh viễn chư vị không thể trở về nếu chư vị không có Sư Phụ bảo hộ, một vị mà chân chánh cứu độ con người. Ðó là vì, mặc dù nếu chư vị có thể thật sự trả hết nghiệp của thế giới con người, chư vị cũng vẫn không thể trả hết những gì chư vị thiếu trên thiên đàng. Chúa Jêsu muốn cứu độ người và nhân từ vĩ đại, cho nên ngài không quan tâm đến những điều đó. Ngài lại phải tháo gở ra những mối gút nghiệp khó gở ra, nghiệp mà buộc chặt vào người của họ. Tuy thế trong vũ trụ này có một cái lý là: "Không mất thì không được; được thì phải mất; thiếu thì phải trả." Tuyệt đối là như thế, là một cái lý tuyệt đối và vĩnh viễn không thay đổi. Do đó, nếu một người được khoan hồng, thì ai trả nợ của họ đây? Cho nên tất cả nợ đương nhiên là phải trút lên Chúa Jêsu: Ngài tháo gở ra cho họ thì ngài phải thay thế họ mà chịu." Tất cả các mối gút nợ đó không thể tháo gở ra hết, tất cả nợ và những gì mà những người được cứu độ không thể hoàn trả lại được, cho nên tất cả nợ nghiệp này đã buộc chặt vào Chúa Jêsu vì ngài ở trên quả địa cầu. Nghiệp lực từ tất cả tầng thứ; tức là không những chỉ những nghiệp lực mà đã tạo ra nơi nhân loại đây. Rốt cuộc là đã tạo ra đến mức độ nào? Ngài càng cứu độ bao nhiêu người thì ngài phải gánh chịu bấy nhiêu mối gút nghiệp lực đó. Ngài không còn cách nào đã thoát ly được, hay là có năng lực để mà làm những điều này. Các mối gút nghiệp cũng không thể gở ra được. Cho nên cuối cùng, Chúa Jêsu cứu độ những người đó, nhưng chính thân thể con người của ngài thì không thể thoát ly được; vì thế Chúa Jêsu không còn cách nào hơn là bỏ đi thân thể của ngài để hoàn trả nợ nghiệp cho họ. Rất nhiều nghiệp của các sinh mệnh lẩn cả bao nhiêu câm hờn trút lên Chúa Jêsu. "Ðược, ta sẽ trả nghiệp chư bất cứ tín đồ nào." Ngài đã bị đóng đinh trên thập tự giá và chết một cách đau đớn. Tất cả mối gút [của nghiệp mà ngài gánh chịu] buộc vào nhục thể của ngài, và khi nhục thể của ngài chết đi, tất cả được giải thoát. Chúa Jêsu được giải thoát khi lúc thân thể của ngài trút rời ra. Ðó là tại sao Chúa Jêsu phải bị đóng đinh trên thập tự giá và tại sao con người nói rằng Chúa Jêsu đã chịu đau khổ cho con người. Nguyên nhân là thế.

Tất cả chư vị đã nhận thấy rằng nhiều người đến để học Pháp này. Trong tương lai sẽ có nhiều người hơn nữa. Chư vị biết rằng, để cho chư vị tu luyện, vị Sư Phụ cần phải giải quyết những sự việc này. Tuy nhiên tôi khác với các vị kia, dù là Chúa Jêsu hay Ðức Thích Ca Mâu Ni, xét cho cùng họ cũng chỉ là các vị Giác Giả trên diện hẹp. Tôi không ở trong phạm vi của vũ trụ, cho nên tôi có thể giải quyết tất cả rắc rối cho các sinh mệnh đủ loại trong các tầng thiên thể khác nhau của vũ trụ. Tôi đã giảng rằng cứu độ chúng sinh không phải là mục đích thật sự của tôi, mà là cứu các sinh mệnh của một tầng, họ là một tầng thứ sinh mệnh mà tôi muốn cứu độ. Trên thực tế, chính cá nhân tôi thì không có khổ nạn nào cả; tôi không tu luyện. Rắc rối mà tôi phải đương đầu thì ít khi biểu hiện trên tầng bề mặt của người thường đây, và những rắc rối mà biểu hiện nơi đây đa số thì chư vị không biết được. Nguyên nhân mà tôi không vướng vào rắc rối này là vì tôi không ở trong phạm vi này. Tôi không giống như họ mà không thể gỡ rối tự thoát được. Tôi có thể gỡ rối tự thoát được, nhưng khó khăn thì to lớn vô cùng, là một điều mà không ai trong chư vị có thể tưởng tượng nổi. Tôi có thể vứt đi tất cả những gì thuộc về của tôi, đó là tại sao tôi có thể giải quyết tất cả. (Vỗ tay)

Hơn nữa, để tôi nhấn mạnh thêm về một điều liên hệ đến câu hỏi vừa qua. Thường có một số học viên cận bên tôi, và trong mỗi một vùng có một số người phụ trách, phụ đạo viên trung tâm hay các nhân viên phụ trách. Chư vị cần phải rõ một điều: Tất cả những gì chư vị gặp là liên hệ đến vấn đề chư vị giải quyết khổ nạn ra sao. Tuy thế chư vị cũng không thể đại diện Sư Phụ được. Khi nói đến sự việc mà chư vị biết tôi có liên hệ đến, từ quan điểm của tôi mà chư vị suy xét. Ðây là điều mà chư vị đã sao lãng trước đây. Rắc rối mà xảy ra cho tôi là phá hoại Pháp này. Cho nên hoàn toàn khác xa với chư vị phải trải qua khổ nạn. Sư Phụ của chư vị, tôi không tu luyện và cũng không phải trải khảo nghiệm, khẳn định là thế. [Nếu phải làm như thế] kỳ thực là sẽ phá hoại Pháp và phá hoại vũ trụ, cho nên không thể so sánh được. Chư vị phải hiểu rõ điều này. Khi tôi giải quyết rắc rối, tôi xem chúng là quỷ quái thật sự, nhưng chư vị thì không thể! Tất cả những gì chư vị phải đối diện là có quan hệ trực tiếp đến sự tu luyện của chư vị. Cho nên chư vị luôn luôn cần phải xem đó là tu luyện và tìm bên trong chính chư vị nguyên nhân [gì xảy ra thế này]. Những điều này tuyệt đối là khác hẳn.

V: Thưa, dường như đối với người Âu Châu đạt được thanh tỉnh là rất khó. Tại sao?

Thầy: Kỳ thực thì người Á Châu hay Âu Châu cũng đều giống nhau. Người mà có thể đạt được thanh tỉnh trong khi tu luyện trong xã hội người thường thì đã đạt đến một tầng thứ cao rồi. Bởi vì chư vị có công việc làm trong xã hội người thường và chư vị phải phù hợp với sự việc của người thường trong mọi khía cạnh, cho nên khi chư vị ngồi đây, chư vị cũng không muốn suy nghĩ điều gì, nhưng những sự việc ấy lại ảnh hưởng tâm lý của chư vị đến mức độ mà chư vị cứ liên tục nghĩ đến. Ðó là tại sao chư vị không thể thanh tỉnh được. Trong quá trình tu luyện chúng ta không ngừng tự mình thăng tiên và buông bỏ các tâm ràng buộc chấp chước. Dần dần khi các tâm ràng buộc chấp chước ít đi, càng ngày tự nhiên chư vị sẽ trở nên thanh tỉnh hơn. Ðây là phản ảnh của tầng thứ của chư vị. Ðòi hỏi chư vị ngay từ lúc ban đầu đạt đến thanh tỉnh thì không thực tế. Cũng không có một môn tu luyện nào có thể đạt được điều này, chỉ trừ những người có trường hợp rất đặc biệt; những người này thì phần con người của họ rất yếu và phần kia của họ rất mạnh. Họ ở trong một trạng thái bán khai ngộ và không khai ngộ. Những người này rất đặc biệt cho nên họ có thể đạt đến tầng thứ thanh tỉnh đặc định nào đó, là vì phần "thần" của họ khởi tác dụng, chứ không phải phần con người của họ. Ngoài những trường hợp này ra, người khác không thể chỉ một ngày mà đạt đến một tầng thứ mà có thể thanh tỉnh được. Vì thế đối với các chủng tộc khác nhau không có gì khác cả, người Âu Châu và người Á Châu đều như nhau.

Ðừng nao núng nếu chư vị chưa thể thanh tỉnh được. Miễn là thân thể chư vị thoải mái và không bị căn thẳng khi chư vị tập các bài công pháp, chỉ cố gắng kiềm chế đừng cho tư tưởng của chư chạy quanh. Nếu chư vị không ngừng suy nghĩ, thì cứ để yên như thế, xem các tư tưởng đang chạy quanh đó là một người khác: "Cứ suy nghĩ đi. Tôi quan sát.' Ðó cũng là một cách. Ít nhất chư vị phân biệt được rõ ràng là không phải chính chư vị [đang suy nghĩ], đây là điều chủ yếu. Hay chư vị có thể kiềm chế đừng suy nghĩ, trong trường hợp này chư vị làm được điều mà người tu luyện có khả năng làm. Sau khi thân thể thoải mái, người tu luyện tiến nhập vào trạng thái chuyển hóa và tinh luyện. Nhưng nếu tâm chư vị không yên tỉnh và không đạt đến trạng thái chuyển hóa và tinh luyện nhất thì sao? Chư vị cũng biết rằng sự tu luyện của chúng ta bắt đầu từ tầng thứ vi quan, cho nên phần vi quan của chúng ta là thanh tỉnh. Bắt đầu từ tầng ấy, phần trong tầng đó càng ngày càng trở nên thanh tỉnh hơn và tu luyện khá hơn, phần ở tầng bên ngoài sẽ bị kiềm chế và trở thành yếu hơn. Phần ở tầng bên ngoài lại càng xấu hơn [lúc trước nữa], nhưng lại yếu hơn. Sự liên hệ là thế. Phần đông chư vị đã tu luyện khá lâu và nhận thấy rằng tâm của chư vị vẫn còn tư tưởng xấu. Chư vị có thể kiềm chế chúng nếu chư vị quyết tâm. Mặc dù các tư tưởng đó càng ngày càng xấu hơn, càng nổi thêm lên nữa, kỳ thực thì chúng đang bị yếu dần rồi, đã bị mất gốc rễ rồi.

Vấn: Tôi là người Tây Phương, chúng tôi biết thế nào là đúng và phải sống như thế nào? Chúng tôi có nên theo cái lý tự nhiên không?

Thầy: Tôi sẽ giảng cho chư vị ý của tôi. Dưới các tình huống khác nhau tôi đã giảng rằng, để sự việc xảy ra thuận theo cái lẽ tự nhiên. Nhưng tôi chưa giảng cho chư vị về thể theo cái lẽ tự nhiên từ tất cả các phương diện khác. Chư vị làm việc trong sở làm, người lãnh đạo trả lương cho chư vị. Nếu chư vị làm việc không lanh lẹ, chư vị để cho sự việc xảy ra một cách tự nhiên, và chư vị không làm việc chuyên cần, thì chư vị có xứng đáng được trả lương không. Trong bất cứ nơi nào chúng ta cũng phải là người tốt. Tôi giảng rằng "để cho sự việc xảy ra tự nhiên" là nên áp dụng tùy theo hoàn cảnh. Trong sự tu luyện chúng ta thể theo lẽ tự nhiên của sự việc, tuy nhiên chúng ta cũng vẫn phải nổ lực kiềm chế phần xấu của chúng ta, và cũng cần phải kiên trì tu luyện, không thể theo tiêu chuẫn thì không được gọi là 'để cho sự việc xảy ra tự nhiên'. Trên thực tế đây là cách mà tất cả chư vị đã và đang tu luyện. Chúng ta biết rõ rằng khi tu luyện chúng ta phải tích cực tu luyện bản thân, và trong đời sống hằng ngày chúng ta cần phải phù hợp tối đa với cách sống của xã hội người thường. Cho nên đối với công việc làm nơi người thường và đối với sự tu luyện, chư vị phải tách rời chúng ra, khẳn định là chư vị phải biết sự khác biệt giữa hai điều này. Làm việc là làm việc, tu luyện là tu luyện. Nhưng có một điểm là: Bởi vì chư vị là người tu luyện, tiêu chuẩn cao mà chư vị thể theo có phản ảnh vào việc làm của chư vị, trong xã hội, ở nhà, và trong tất cả các môi trường xã hội khác. Nói một cách khác, bất cứ nơi nào chư vị cũng phải là người tốt, người khác sẽ cho rằng chư vị là người tốt. Sự liên hệ là đây. Quan niệm để cho sự việc thể theo lẽ tự nhiên không giống như người ta nói trong quá khứ, là một người không quan tâm bất cứ việc gì chỉ ngồi đó như thể là đã rời xa thế tục này rồi; người mà làm như thế được xem là 'để cho sự việc xảy ra một cách tự nhiên.' Không phải là cách đó, quan niệm này hoàn toàn không phải thế.

Nếu chư vị gặp khó khăn nào, tôi nghĩ rằng là người tu luyện trước hết chư vị phải tự xét mình: "Có phải là chính cá nhân tôi trong một khía cạnh nào đó đã không làm tốt?' Nếu mỗi một người trong chư vị không làm được điều này, chư vị không thăng tiến được. Cho nên khi chư vị gặp rắc rối nào, chư vị luôn phải tự xét cá nhân mình trước hết: "Có phải là vì tôi đã làm điều gì không đúng?" Tôi thường giảng một cái lý: Tất cả những gì trong vũ trụ là hài hòa; nếu cá nhân chư vị làm điều gì sai, thì sẽ tạo ra một cái chỗ xoắn, nghịch lại với mọi người, và tất cả những gì chung quanh chư vị dường như đão lộn. Liên hệ cá nhân với người khác trở nên căn thẳng. Ðến điểm này, nhìn vào trong chính cá nhân chư vị để tìm nguyên nhân [tại sao] và sửa đổi thiếu sót của mình. Chư vị sẽ phát hiện rằng tất cả trở nên hài hoà và đúng trở lại. Tôi không nghĩ rằng chúng ta nên tranh cải với người khác về bất cứ việc gì. Nếu rắc rối thật sự xảy ra cho chư vị và hình như là có ai đó bất công với chư vị, tôi nghĩ rằng có thể là vì chư vị, một người tu luyện, đã thiếu người ta từ tiền kiếp. Nhẫn nhịn và bỏ qua đi. Ðến cả một người thường cũng biết rằng sau khi hai người cãi vã với nhau sau đó họ không vui; va chạm xảy ra, khó khăn giữa hai người xảy ra. Khi xích mích tiếp tục xảy ra một thời gian lâu thì khó mà giải quyết, cuối cùng họ trở thành kẽ thù nhau. Nhưng chúng ta có thể nhẫn nhịn được, bỏ qua được, và có thể lùi bước lại. Bên Trung Quốc có một câu nói rằng: Lùi một bước sẽ thấy trời cao biển rộng.' Nếu chư vị khăn khăn và đẩy tới, kỳ thực thì chư vị sẽ thấy rằng không có lối thoát. Nhưng lùi đi một bước, không còn dính mắt vào đó và xã bỏ đi, chư vị sẽ phát hiện rằng trời cao biển rộng thật sự, một thế giới hoàn toàn mới. Ðó là cách như thế. Người tu luyện là phải như thế. Nếu chư vị cải vã và xung đột như người thường và cũng xung đột như người ta, thì tôi nói chúng ta không khác chi người thường cả. Có phải như thế không? Thật sự đúng như thế.

Vấn: Làm sao chúng tôi có thể biết tầng thứ của chúng tôi?

Thầy: Từ khía cạnh chủ quan mà giảng, khó mà tôi cho chư vị biết tầng thứ của chư vị lúc khởi đầu. Ðể cho một người dung hòa trong Pháp vĩ đại này....tôi sẽ diễn giải với một ví dụ: Giống như khi một bỏ một miếng gỗ hay một hạt mùng cưa vào trong lò nấu kim loại đang nóng: lập tức chư vị không nhìn thấy nữa. Khi chư vị dung hòa với Pháp vĩ đại thế này, nghiệp của thân thể, nghiệp tư tưởng và tất cả những điều khác của chư vị lập tức sẽ biến mất. Giả như toàn bộ cứ thể theo cách này mà làm, thì cũng bằng như là chư vị không tu luyện và cũng bằng như tôi cải tạo lại sự sống cho chư vị; như thế thì không được tính là chư vị đã tu luyện. Vì thế chúng tôi không thể làm theo cách này được. Chúng tôi cần phải để cho chư vị tự mình tu luyện và tự mình thay đổi. Pháp này là vĩ đại. Trong quá trình tu luyện, miễn là chư vị tự xem cá nhân mình là người tu luyện, kiên trì và tu luyện vững vàng, tiếp tục đọc sách, chư vị sẽ liên tục thăng tiến và đề cao. Thêm vào phương cách phụ trợ của chúng ta là tập các bài công pháp, thì tốc độ đề cao sẽ rất nhanh. Ðây là cách tu luyện nhanh nhất.

Nếu từ lúc ban đầu mà tôi cho phép chư vị biết được tầng thứ của chư vị, chư vị không giữ vững được: 'Ô, tôi đặc biệt thế à! Tôi tu luyện đến mức này rồi à.' Giả như tôi cho phép chư vị biết được những sự cải biến thật sự chung quanh thân thể chư vị, hãy suy nghĩ xem: Vì chư vị vẫn còn vướng vào chữ tình, vướng vào dục vọng và còn vướng vào nhiều tâm ràng buộc chấp chước đủ loại của con người, có phải là tâm của chư vị bị dao động không? Tôi không thể cho phép chư vị biết được sớm như thế, bởi vì tư tưởng của người thường của chư vị còn mạnh lắm. Chính vì tôi muốn bảo đảm cho chư vị liên tục thăng tiến ở một tốc độ nhanh nhất trong sự tu luyện của chư vị. Người thượng cấp nghe Ðạo, qua giác ngộ vị ấy sẽ đạt Viên Mãn; thật đáng khâm phục. Hơn nữa cách này rất nhanh, kỳ thực là nhanh nhất.

Chúng ta có một số đệ tử ở trong trường hợp đặc biệt, cho nên một số phải tu luyện trong trạng thái công năng khóa lại và một số thì tu luyện trong trạng thái khóa lại phân nữa. Họ có thể nhìn thấy, một số có thể nhìn thấy khá rõ ràng và biết tất cả; đây là những trường hợp ngoại lệ. Phần đông thì mọi người tu luyện với công năng bị khóa lại hết. Chỉ chú tâm đọc sách và tu luyện, chư vị sẽ liên tục tự mình thăng tiến và liên tục ngộ ra được các bí mật thiên cơ. Luật lệ và nguyên lý của Pháp mang cho chư vị lòng tin tưởng mạnh hơn. Tất nhiên, con người trong xã hội ngày nay đã bị lúng xâu vào trong mê ão bởi vì đủ loại gọi là 'thực tế' giả của xã hội con người, bị ràng buộc chấp chước vào đó; rất khó mà tự thoát ly; giữa Pháp và ràng buộc chấp chước về lợi ích cá nhân họ vùng vẫy để lựa chọn. Có người chẳng thà bỏ Pháp chứ không buông bỏ được các tâm ràng buộc chấp chước của cá nhân mình. Những điều này khó mà suy xét, bởi vì xã hội ngày nay đã tiến đến bước này rồi, con người không còn biết rõ bản tính tiên thiên của họ và cũng không còn duy trì tiêu chuẫn làm người nữa.

Ðã đồi bại đến thế này, tuy nhiên cũng là một môi trường tốt nhất cho chúng ta tu luyện. Có phải là môi trường khó khăn hơn, thì có thể tạo ra nhiều người tu luyện đạt đến hoàn mỹ không? Cái lý là thế. Vài năm trước đây bên Trung Quốc có nhiều thầy Khí Công xuất hiện. Người thường hâm mộ họ: "Ô, xuất sắc, một vị thầy Khí Công vĩ đại, thầy rất có khả năng." Bởi vì họ trị bệnh cho người khác cho nên người ta tặng cho quà lẫn cả tiền. Tâm truy cầu vật chất trở nên mạnh hơn, vì thế nhiều người bị rơi xuống và cũng mất cả Công. Hoàn toàn họ không còn gì nữa cả, Sư Phụ của họ cũng không còn trông nom họ nữa. Tại sao? Trong quá khứ tu luyện là tu luyện trong môi trường mà người thường không được biết. Tu luyện trong núi, trong môi trường mà người khác không biết được, trong tu viện, hay tu luyện qua các hình thức tôn giáo khác, họ không phải đối diện với thực tế và đối diện với tranh đấu của xã hội người thường, họ cũng không kinh nghiệm được cái hố nhuộm [xã hội] to lớn này. Giả như nếu họ liên hệ với xã hội, tức thì họ sẽ bị nhiễm nhơ bởi xã hội phức tạp này và họ sẽ cầu danh cầu lợi cũng như người thường; trở thành người thường, bởi vì phương pháp tu luyện của họ không còn tác dụng nơi người thường. Trái lại, chúng ta tu luyện bên trong cái hố nhuộm [xã hội] to lớn này và những gì chúng ta phải đối diện là những điều đó. Có phải là chư vị phi thường, nếu chư vị có thể vượt qua khỏi nơi này không?! Chư vị biết rằng tại sao chư vị có thể tu luyện đạt đến một tầng thứ cao không? Yếu tố quan trọng nhất để bảo đảm cho chư vị tu luyện đạt đến các tầng thứ cao, sự kiện là vì nơi đây đã quá đồi bại rồi. Nếu chư vị có thể vượt qua khỏi nơi này, dù cho chư vị chỉ có một ý nguyện nhỏ trong tâm của chư vị là muốn tu luyện hôm nay, chư vị cũng là phi thường rồi, bởi vì trong một môi trường như thế này, một môi trường đầy đau khổ, mà chư vị vẫn còn ý nguyện muốn tu.

Ðau khổ mà có thể thấy được bên ngoài thì không đáng kể. Ðiều mà thực sự cay đắng là cái đau khổ xảy ra khi chư vị đang tách rời ra và thoát ly khỏi ràng buộc chấp chước [của cá nhân mình], đó là lúc đau khổ nhất. Cho nên môi trường phức tạp nơi đây cung cấp điều kiện tốt nhất cho chư vị, giúp chư vị tu luyện lên các tầng thứ cao. Trái lại, thì Ðại Pháp biểu lộ ra chỉ trong các hoàn cảnh nguy nghịch nhất. Trong môi trường xã hội hưng thịnh thì không cần đến Ðại Pháp này; trong môi trường hưng thịnh thì cũng không cần đến Chính Pháp; chỉ cần Pháp của Chúa Jêsu và Pháp ở tầng thứ Như Lai của Ðức Thích Ca Mâu Ni trong thế giới thì cũng đủ rồi. Nhưng tại sao các tôn giáo hiện nay đã tiến nhập vào thời kỳ mạt Pháp, đến giai đoạn mà họ không còn cứu độ người được nữa? Con người còn dám nguyền rủa Phật, đến cả tượng Chúa Jêsu mà cũng dám đạp dẫm lên và tiểu tiện trên đó. Trong giai đoạn này con người không thể học được Pháp [của Như Lai] hay là dùng Pháp Như Lai mà cứu họ được.

V: Tôi thật lòng muốn tu luyện, nhưng làm sao tôi có thể ngừng không nghi ngờ Ðại Pháp nữa?

Thầy: Ðiều tôi giảng rằng mọi người trong xã hội con người thu thập rất nhiều, nhiều khái niệm trong tâm của họ sau khi sinh ra và "kiến thức" thu thập được là từ một cái gọi là "thực tế" giả của xã hội người thường, khiến cho họ càng lúng vào trong mê ão tại nơi đây. Bao nhiêu khái niệm và quan niệm dính cứng đủ loại đã thành hình trong tâm của chư vị chính là tất cả yếu tố ngăn chận không cho chư vị thọ Pháp. Có phải sự nghi ngờ khởi lên từ trong tâm của chư vị là vì chư vị đo lường Pháp với những gì chư vị học hỏi từ cái "thực tế" của người thường không? Có phải là sự nghi ngờ bọc phát từ đó không? Bảo đảm [là thế]. Nói một cách khác, chư vị dùng khái niệm hình thành từ kiến thức và ý tưởng của con người thường mà đo lường Pháp. Có phải người thường ở trong tầng thứ thấp nhất không? Có phải người thường bị lạc trong mê ão không? Thì những gì mà họ có, có thể so với chân lý của vũ trụ không? Không. Hơn nữa, Ðại Pháp này của chúng tôi được truyền ra ở tầng thứ thấp nhất, qua tư cách của người thường dùng ngôn ngữ của người thường, hình thức diễn đạt thấp nhất mà truyền. Cho nên [Ðại Pháp] dường như là [diễn đạt] ở bề ngoài thôi. Tuy nhiên miễn là chư vị liên tục học Pháp thì chư vị sẽ phát hiện sự cao thâm [của Ðại Pháp]. Chư vị càng học Pháp, thì Pháp càng thâm sâu không đo lường được và vô tận. Kiến thức của người thường, trái lại thì không bao gồm yếu tố cao thâm này. Chư vị nhầm lẫn to lớn nếu chư vị xem cái tâm không tin tưởng và nghi ngờ của chư vị là tư tưởng của chư vị. Ðó là những khái niệm hình thành sau khi chư vị sinh ra nơi người thường đây. Chư vị xem các khái niệm này là chính cá nhân chư vị, tuy nhiên chúng không phải là chư vị.

Vấn: Thiên Nhãn của tôi đã khai mở trước khi tôi bắt đầu tu luyện. Tôi đã dùng nghề bói toán để sinh sống. Tôi có nên bỏ nghề này không?

Thầy: Nếu chư vị không tu luyện và vẫn còn là người thường, tôi không phản đối. Tôi giảng Pháp cho người tu luyện để giúp họ tu luyện. Không phải tôi muốn tìm người đến học Ðại Pháp. Nếu chư vị nghĩ rằng chư vị có thể tu thì cứ tu; nếu không thì đừng tu. Có lẽ trong xã hội con người trong tương lai cũng còn các môn tu luyện thế gian tiểu đạo như là bói toán, Fengshui, và cũng vẫn còn một số phương thức trị bệnh; có thể sẽ còn tồn tại. Vào thời cỗ xưa trên toàn thế giới các phương thức này cũng đã có rồi. Nhưng trong thời gian tới đây, những gì chư vị, một người tu luyện, thấy được sẽ là các cảnh giới cao hơn và cao hơn nữa, sức mạnh của lời nói của chư vị sẽ to hơn và to hơn nữa. Rắc rối sẽ xảy ra khi chư vị bói toán cho người ta. Ðôi lúc sự việc trong thế giới con người không cố định; có thể là không xảy ra như thế nào đó. Nhưng nếu họ tin vào những gì chư vị nói và thật sự tin tưởng, thì sự việc sẽ xảy ra như thế. Một khi chư vị có năng lượng, có thể là lời của chư vị khiến cho một yếu tố không cố định trở thành cố định, kết quả đáng lẽ là không nên xảy ra mà lại xảy ra. Những gì chư vị thấy được không phải là tình hình thật sự; còn có quan hệ nhân duyên trong đó nữa. Tuy thế chư vị cố định nói lại khi chư vị bói toán cho người ta. Trong trường hợp này, có thể là chư vị đã làm một việc xấu rồi. Và chư vị lại tạo thêm một loại nghiệp nữa trong sự tu luyện của chư vị. Thử thách và đau khổ đang ở trước mặt chư vị đây, mỗi một cái chư vị đều phải vượt qua tất cả. Cái khảo nghiệm mà chư vị đã tạo thêm ra đó, chư vị sẽ không thể vượt qua nỗi. Nếu chư vị làm một việc gì mà gây ảnh hưởng to lớn hay là gây ra một hậu quả nghiêm trọng, chư vị sẽ không vượt qua nỗi cái khảo nghiệm này và cũng không tu luyện được. Vì thế người tu luyện phải chú trọng việc tu khẩu. Vậy mà chư vị làm hỏng không thể theo tiêu chuẫn. Nếu chư vị trực tiếp nói ra những gì chư vị thấy, thì chư vị tiết lộ thiên cơ, chư vị tùy tiện và vô trách nhiệm tiết lộ thiên cơ cho người thường. Làm như thế thì sao được? Lại càng không được chấp nhận.

Thêm vào đó, để tôi nói cho chư vị biết hầu hết những người bói toán đều có các yếu tố bên ngoài trợ giúp, cộng thêm vào yếu tố cá nhân của họ; là điều rất là kinh sợ. Ðối với con người, kỳ thực thì điều đó rất là kinh sợ! Trong trường hợp này thì không có cách nào mà tu luyện được. Tôi chỉ giảng cho chư vị nguyên lý của sự việc mà thôi, người thường làm việc này thì tôi không phản đối. Nếu chư vị muốn tu luyện, thì tôi phải giảng cho chư vị biết và tôi cũng phải có trách nhiệm với chư vị. Nếu chư vị làm [bói toán] thì chỉ mang đến thiệt hại cho chư vị mà thôi. Giảng như thế, khẳn định là chư vị nghĩ rằng, "Làm sao tôi sinh sống đây?" Tôi chỉ đơn thuần giảng Ðạo, giảng Pháp cho người tu luyện. Nếu chư vị có thể tu thì tu; tôi chỉ giảng cách này thôi. Tôi phải có trách nhiệm với chư vị. Mặt khác, bảo đảm là chư vị, đệ tử Ðại Pháp, phải có việc làm để sinh sống, đó là cách phải như thế.

Vấn: Làm sao tôi có thể buông bỏ được cái tâm sợ hãi của tôi?

Thầy: Cái tâm sợ hãi cũng là một ràng buộc chấp chước. Ðây là ý chí của chư vị có mạnh hay không. Chư vị phải vượt qua. Một số người cho rằng, "Mỗi khi tôi tập các bài công pháp là tôi buồn ngũ." Ðó cũng là điều mà chư vị phải vượt qua với ý chí của chư vị. Mặc dù đây không phải là yêu ma, nhưng nó cũng có một tác dụng yêu ma cho người tu luyện. Nếu chư vị không chiến thắng nó sẽ ảnh hưởng chư vị.

Vấn: Tôi chưa bao giờ cảm thấy Pháp Luân xoay chuyển trong bụng dưới của tôi.

Thầy: Không phải ai cũng cảm thấy được. Một số người rất nhạy cảm, vừa khi năng lượng di động thì họ cảm thấy rồi: "Ô, làm sao mà mạnh thế?" Một số thì vẫn không cảm thấy chi cả mặc dù động đất đang xảy ra trong bụng của họ. Ðiều kiện thân thể của mỗi người khác nhau. Ðừng phán đoán tầng thứ của một người cao như thế nào thể theo cảm giác của họ. Chắc chắn là chư vị không được thể theo cảm tưởng mà phán đoán sự việc.

Vấn: Thưa Thiên Nhãn của tôi sẽ khai mở phải không?

Thầy: Chư vị đang truy cầu nó phải không? Nếu đến cả khi chư vị tu luyện Viên mãn mà cũng chưa khai mở thì tôi nói là có vấn đề. Ý chư vị hỏi rằng, "Trong quá trình tu luyện Thiên Nhãn sẽ khai mở phải không?" Nếu chư vị truy cầu, nếu chư vị có tư tưởng như thế, dù chỉ một chút thôi chư vị cũng không được phép thấy. Và đến khi chư vị có khả năng thấy được, thì chư vị cũng không được phép thấy bởi vì cái tâm ràng buộc chấp chước này phải buông bỏ đi. Cho nên chư vị phải buông bỏ đi cái tâm ràng buộc chấp chước này và cũng đừng quan tâm đến. Lúc ấy thì xem sau.

Học viên người da trắng khác với học viên người Á Châu bởi vì nguồn gốc văn hóa của Ðông phương, nhất là Trung Quốc thì xâu sắc hơn. Không những Trung Quốc có một văn hóa từ năm đến sáu ngàn năm [lịch sữ], mà còn có văn hóa tiền sử của kỳ vừa qua lưu lại. Vì thế từ trong cốt lõi và từ trong mỗi một tế bào đều có yếu tố văn hóa thâm thúy ấy. Tuy thế văn hóa trong xã hội của người da trắng thì chỉ có hai ngàn năm thôi, cho nên truyền thuyết không được bền vững; khi truyền thuyết phai đi hầu như là có thể thấy được. Mặt khác, thì người Trung Hoa khác biệt như thế nào? Khi chư vị nói với họ nguyên nhân tại sao, họ [người Trung Hoa] cũng vẫn còn suy nghĩ, "Ô, thì ra thế, nhưng tại sao tại sao như thế?" Khi chư vị giảng cho họ biết tại sao của tại sao, họ cũng vẫn còn nghĩ, "Ô, thì đó là tại sao của tại sao? Vì thế mà chư vị cần phải giảng rõ cho họ cho đến tận cùng, trước khi chư vị có thể hoàn toàn khai mởi cái tâm của họ. Ðó là tại sao nhiều người học viên da trắng của chúng ta không cố ý mà có thể thấy được khi vừa mới bắt đầu tu luyện, đó là nguyên nhân. Họ [học viên người da trắng] bị các thứ thiển cận bên ngoài trong xã hội người thường bao lại rất ít. Ðó chỉ là lý thuyết mà thôi, lý thuyết của người thường mà đã bao họ lại. Vừa khi các lý thuyết này bị phá vở đi, thì không có gì ở nơi người thường đây mà có thể bao họ lại được. Ý là như thế. Tất nhiên, không phải lúc nào cũng thế. Hiểu biết liên tục và hiểu biết dựa trên lý trí là hai điều khác nhau. Nếu một người có thể chân chánh học Pháp và tâm của họ hấp thụ được Pháp, chân chánh hiểu được Pháp qua tu luyện, thì sự khác biệt này là khác với sự hiểu biết lúc ban đầu; họ sẽ [đột phá] vượt qua và hiểu Pháp một cách có lý trí.

Vấn: Thưa, chúng tôi hồng Pháp cho các hòa thượng và ni cô như thế nào?

Thầy: Tôi cũng thường suy nghĩ về các hòa thượng và ni cô. Vài năm vừa qua tôi cũng đặc biệt chú ý đến họ. Không kể là Ðức Thích Ca Mâu Ni hay Chúa Jêsus, đây là những vị đại giác giả đã sáng lập môn tu luyện mà đệ tử của các ngài còn duy trì. Chung qui họ cũng là đệ tử của Phật Gia, tôi đang suy nghĩ về họ. Nhưng thời kỳ mạt Pháp đã tiến đến giai đoạn này, kỳ thực thì người tu luyện trong các tôn giáo không nhiều, người mà chân chánh muốn tu luyện. Tôi phát hiện vấn đề thế này: Nhiều hòa thượng và ni cô sùng bái tôn giáo thay vì sùng bái chư Thần và Phật. Tâm của họ không chú trọng vào tu luyện mà chỉ muốn duy trì nghi lễ tôn giáo, và cái tâm ràng buộc chấp chước này đã tạo ra một chướng ngại nghiêm trọng cho họ. Hơn nữa, một số còn nghĩ rằng, ngoài hình thức tôn giáo thì không còn Phật Phát nữa, chỉ còn có tà pháp và tiểu đạo. Ðây là một trong những yếu tố nghiêm trọng cản trở họ thọ Pháp. Tuy thế cũng còn một số suy nghĩ cặn kẽ và thật sự lý trí mà suy xét sự việc, nhóm này là đặc biệt. Sau khi họ đọc sách của tôi, sau khi đọc xong họ hiểu đó là gì, bởi vì ai cũng có Phật tính. Tác dụng cũng như điện: Khi hai giòng điện cực giao với nhau, "Bam!" thì nối liền nhau. Nếu họ không có Phật tính, thì sự giao kết này không xảy ra, cũng không có tia sáng loé lên, điện cũng không đi xuyên qua được. Vì thế một số hòa thượng và ni cô thì khác; tôi nghĩ rằng họ là những người rất đặc biệt, họ biết rằng mục đích mà họ rời khỏi thế tục này là vì tu luyện. Mặt khác, một số thì tâm không chính. Tất nhiên, tôi sẽ không giảng thêm nữa về những điều này trong tôn giáo; tôi chỉ tình cờ mà giảng thế thôi. Chư vị có thể nói với họ nếu chư vị đã từng là tín đồ, bạn bè hay thân nhân của họ. Nếu họ muốn tu thì họ sẽ tu; nếu họ không muốn tu, thì để yên. Kỳ thực thì chúng ta không nên kéo người vào "Ðến tu luyện đi, thật là đáng tiếc nếu quý vị không tu! Quý vị phải đến đây [tu luyện] với tôi!" Liên hệ cá nhân không thể thay đổi tâm con người. Tự chính cái tâm của họ phải dao động [thì mới được].

Vấn: Thưa, các hòa thượng mà đã chân chánh tu luyện trong chùa thì phải làm sao? Họ có nên trở về thế tục hay không?

Thầy: Chắc chắn là họ không cần trở về thế tục. Tại sao không? Vấn đề "chỉ tu luyện trong một đường lối" mà tôi giảng, chủ yếu liên hệ đến Pháp mà chúng ta tu luyện ngày nay. Trong quá khứ, ở phía sau mỗi một chữ trong kinh Phật đều có hình tượng của các vị Phật. Hiện nay khi chư vị mở các kinh sách ra chư vị không còn thấy các ngài nữa; đến cả phía sau danh hiệu của Ðức Thích Ca Mâu Ni và Chúa Jêsus cũng không còn hình tượng của các ngài nữa. Tức là các kinh sách này không còn sức mạnh để cứu độ con người nữa, mà những sách đó đơn thuần chỉ là giấy trắng mực đen mà thôi. Thêm nữa, thi hành nghi lễ tôn giáo chỉ là một hình thức tôn giáo, tôi xem đó là việc của người thường. Kỳ thực thì rất nhiều hòa thượng đã xem những nghi thức này là một công việc, họ nghĩ rằng họ đang đi làm và được lãnh lương. Các hòa thượng ở Trung Hoa Lục Ðịa được xếp vào thành từ phần và từ khu, và thể theo đó mà họ lãnh lương. Tôi còn nghe rằng có đến cả nha vụ nữa. Họ sữa đổi lời giảng nguyên thủy của Ðức Thích Ca Mâu Ni. Con người đâu có biết rằng họ [các hòa thượng này] đã phá hoại Pháp mà Ðức Thích Ca Mâu Ni đã từng giảng và truyền. Hôm nay sự việc đã tiến đến giai đoạn thế này, tất nhiên Ðức Thích Ca Mâu Ni không còn bảo hộ ai nữa cả, tất cả đã trở nên như thế này hôm nay. Vì thế mà tôi xem đó chỉ là một công việc. Không kể là họ tụng kinh hay thi hành nghi lễ tôn giáo, không có tác dụng chi cả. Miễn là họ tu luyện trong Ðại Pháp, họ không phải quan tâm gì đến nghi lễ. Cũng như tôi đã giảng, chánh Ðạo không có hình thức. Không một hình thức của người thường nào là xứng với Pháp vĩ đại thế này. Cho nên chúng tôi không có quản lý và chúng tôi chỉ suy xét cái tâm của con người. Nếu chư vị tu luyện, tôi sẽ bảo hộ chư vị. Và sự bảo hộ này là vô hình đối với người thường, cho nên không cần phải qua hình thức nào của xã hội người thường. Bởi vì chúng tôi không có nghi thức, tôi xem tất cả những sự việc thực thi nơi người thường là công việc; tôi chỉ nhìn theo cách ấy thôi. Nếu chư vị là một hòa thượng và muốn thi hành nghi lễ tôn giáo, chư vị có thể làm, điều kiện là chư vị phải biết rằng chư vị đang tu luyện Ðại Pháp. Chư vị cần phải cố gắng kiên trì mà vượt lên, chỉ thể theo cách ấy [là được rồi]. Các tôn giáo khác cũng phải thể theo như thế.

Vấn: Thưa, giữ "tâm trong sạch và trong trắng" có nghĩa là buông bỏ tất cả các tâm ràng buộc chấp chước và tất cả những gì mà một người dính mắt vào phải không?

Thầy: Cũng giống như là một người thật sự đạt đến trạng thái mà tâm trong sạch và trong trắng. Chư vị đang tu luyện bắt đầu từ tầng thứ của người thường; nếu chư vị lập tức đạt được điều này, thì chư vị sẽ trở thành một vị Phật ngay lập tức; vì thế mà không được. Ðể đạt đến cảnh giới của một vị Phật, chư vị phải trải qua một quá trình tu luyện và phải có một nền tảng trí tuệ cao thâm. Tức là chư vị liên tục tu luyện, liên tục lĩnh hội Pháp thâm xâu, và liên tục tự mình thăng tiến lên; dần dần thì sẽ đạt được. Nếu đòi hỏi chư vị thật sự đạt đến tầng thứ nào đó ngay lập tức, có lẽ là chư vị sẽ sợ mà không muốn tu luyện nữa; đó là vì tư tưởng của chư vị chưa đạt đến tầng thứ cao như thế bởi vì chư vị vừa mới bắt đầu tu luyện từ tầng thứ của người thường. Cho nên dần dần và tự nhiên thì sẽ đạt được mà không cần phải bỏ ra nhiều nổ lực. Miễn là chư vị tu luyện và đọc sách [Ðại Pháp] chư vị sẽ đạt được. Nguyên lý của Pháp sẽ giải quyến tất cả khó khăn của chư vị; cưởng ép thì không được. Cưởng ép chính là hành động cố ý. Chỉ hành xử như một người tu luyện, chư vị phải rõ vấn đề này. Mọi người phải tu luyện trái tim và cái tâm của chính mình và phải cố gắng đừng làm việc xấu. Ðây không phải là hành động cố ý; mà gọi là trở về bản tính nguyên thủy và bẩm sinh của chư vị.

Vấn: Thầy giảng khoa học là một tôn giáo, vậy mà tôi cũng vẫn phải nghiên cứu khoa học trong việc làm của tôi cho tốt. Ðây luôn là một việc tương phản.

Thầy: Tôi đã giảng rằng khoa học là một tôn giáo và tôi cũng từng giảng điều này rất căn kẽ. Tại sao khoa học là tôn giáo và tại sao khoa học là một tôn giáo bao hàm toàn diện? Ðó là vì khoa học không chú trọng đức và bởi vì khoa học không nhìn thấy được sự hiện hữu của chư Thần, cho nên khoa học không nhận thức được rằng con người phải bị trừng phạt khi làm việc xấu ác và làm việc thiện được tưởng thưởng. Khoa học dùng lý thuyết của khoa học để phủ nhận và công kích bất cứ ai cho rằng: làm việc thiện được tưởng thưởng giàu sang, rằng làm việc xấu ác bị trừng phạt, rằng chư Thần hiện hữu. Ðến tôn giáo chính thống khoa học cũng công kích. Khoa học phá hoại đạo đức con người. Không có đạo đức để duy trì, con người dám làm bất cứ mọi điều xấu ác. Chỉ cần thể theo điểm này thôi, chư vị cũng có thể nói rằng khoa học là chân chính hay tà ác đây? Có phải là khoa học đang dãm trách một vai trò tà ác không? Ngày nay tại sao đạo đức con người lại đồi bại đến mức này? Chính là vì con người không còn duy trì lòng tin chân chính nữa. Kỳ thực, nhất là người Tây Phương, những gì chư vị tin tưởng không phải là tôn giáo, mà là khoa học của chư vị. Hãy suy nghĩ xâu xa trong tâm của chư vị: Ðiều mà chư vị tin tưởng nhất chính là khoa học; những gì khác đối với chư vị là phụ thuộc. Khoa học là trên hết. Tôi chỉ điểm ra điều này với chư vị bởi vì đây là một chướng ngại trong sự tu luyện của chư vị.

Nói rằng trong quá khứ Nhà Thờ Công Giáo La Mã không chấp nhận với quan niệm rằng nhân loại tiến hóa từ khỉ ra. Họ tin rằng Thượng Ðế dùng đất sét mà tạo ra nhân loại. Tôi nghe nói rằng hiện nay người ta lại cho rằng Nhà Thờ Công Giáo La Mã công khai lừa dối nhân loại, rằng nhân loại tiến hóa từ khỉ. Có phải là họ phủ nhận Thượng Ðế của họ không? Cái khoa học này mạnh đến độ mà ngày nay ai cũng tin cả. Tôi có thể diễn giải rõ ràng tất cả sự việc về nhân loại, từ việc lớn cho đến việc nhỏ; tôi có thể diễn giải tất cả sự việc về sự tiến hóa của nhân loại, từ cổ chí kim. Tuy nhiên tôi không bàn đến bởi vì tất cả là sự việc của người thường. Tôi chỉ giảng về những điều có liên quan đến sự tu luyện của chư vị. Căn bản hiểu biết của khoa học hầu hết là sai, bao gồm trong đó là căn bản hiểu biết về vật chất, về vũ trụ lẫn cả về sinh mệnh [cũng sai]. Khoa học hiện đại cho rằng cái lỗ trống trong bầu khí quyển phía trên nước Úc là một lỗ thủng trong lớp khí Ozon hiện ra trên trời bên phía trên Nam Cực, là do những chất khí tỏa ra từ [các nhà máy] kỹ nghệ, các chất flouro-carbon dùng trong máy lạnh và các chất khí thừa bãi; những chất này là chất mà đã gây thiệt hại cho lớp khí Ozon. Kỳ thực tôi muốn giảng cho chư vị biết: Tất cả mọi thứ trong vũ trụ đều là sinh mệnh, tất cả đều có sự sống. Cái khối khí to lớn mà chư vị không thể nhìn thấy được là từng lớp từng lớp từng lớp, chư vị không thể đếm được [vô kể]. Tất cả đều có sinh mệnh, tất cả đều là Thần. Kỹ nghệ mà khoa học hiện đại mang đến đã phá hoại nghiêm trọng môi trường sống của nhân loại. Hoàn toàn đây là sự thật. Không phải là những chất khí phát tỏa ra phá hoại mà tạo ra cái lỗ thủng trong bầu khí quyển phía trên Nam Cực. Nhân loại không thể phá hoại được các sinh mệnh ở cao tầng. Tại sao cái lỗ thủng này không xuất hiện ở Âu Châu, một vùng phát triển nhất về kỹ nghệ? Tại sao lại phải ở Nam Cực, một nơi không có người ở? Ðó là vì các chư Thần nhìn thấy quá nhiều chất khí thừa bải và những chất khí độc ở trên trái đất, cho nên các ngài mở một cái cửa sỗ để cho các chất khí thừa bải thoát ra và sau đó thì các ngài đống lại. Không giống một chút gì mà khoa học hiện đại đã đoán ra cả.

Hiện nay, sự phát triển của nhân loại đã đạt đến một mức độ mà khoa học khống chế tất cả mọi lĩnh vực. Vì thế mà hiện nay nhân loại không thể thoát ly khỏi khoa học được, bởi vì khoa học đã trở thành thực tế của sự phát triển xã hội nhân loại. Nếu chư vị không phù hợp với khoa học thì không được. Chúng ta thì phải hành động phù hợp tối đa với người thường. Cho nên cứ làm việc nghiên cứu về khoa học cho tốt. Ðây không phải là lỗi của chư vị. Ðây cũng không phải là điều mà một cá nhân, một người, hay một quốc gia có thể thoát ly vượt ra khỏi được. Bởi vì đó là một công việc làm, chư vị phải làm tốt, hoàn tất trách nhiệm của chư vị và làm việc cho giỏi là đủ rồi. Ðừng suy nghĩ rằng chư vị đang làm gì đó gì đó bởi vị khoa học. Trên thực tế, khoa học đã xâm chiếm tất cả mọi lĩnh vực của nhân loại. Hầu hết tất cả những gì của nhân loại đều hiện hữu vì khoa học, cho nên không nên ngừng lại tất cả bởi vì [khoa học]. Là người tu luyện, tôi chỉ muốn chư vị hiểu cái nguyên lý này. Tôi không bảo chư vị phải rời ra khỏi cái thực tế mà đã cùm xích xã hội nhân loại. Không phải là tôi bảo chư vị bỏ công việc làm của chư vị.

Tôi đã giảng rằng khoa học là một tôn giáo và là một tôn giáo hoàn hảo. Khoa học hướng dẩn chư vị trước tiên là nhận thức sự việc qua ý thức vật chất, khiến cho tâm linh của chư vị tin tưởng vào khoa học. Trái lại, tôn giáo chân chính trước tiên thì hướng dẩn chư vị lĩnh hội các nguyên lý, dần dần chư vị thật sự ý thức được sự việc trong tâm của chư vị. Sự hiểu biết của chư vị phát triển từ cái không cho đến cái có. Cuối cùng qua ý thức vật chất mà chư vị có thể hiểu được, và sau đó chư vị quay trở về thế giới thiên đàng của chư vị sau khi Viên Mãn. Quá trình là như thế. Khoa học thì đão ngược quá trình này. Khoa học bắt đầu từ vật chất, mà vật chất này điều khiển niềm tin của con người. Trái lại tôn giáo thì bắt đầu từ trí tuệ tâm linh, mà chính cái trí tuệ này xúc tiến biến đổi vật chất. Bởi vì khoa học đã trở thành thực tế của xã hội [nhân loại], tôi không phản đối khoa học, khoa học là một cái gì mà sự tồn tại của nhân loại đã tùy thuộc vào. Tôi chỉ giảng về tình hình thật sự của khoa học hiện đại mà thôi.

Vấn: Thưa Sư Phụ làm ơn có thể giảng về nhân quả và tâm thiện được không?

Thầy: Bởi vì chư vị nói đến thiện, tôi cần phải cải biến tư tưởng của chư vị. Ðể tôi giảng cho chư vị thiện là gì. Con người trong xã hội người thường nghĩ rằng nếu họ sống sung sướng không bị tai họa hay không bị khổ nạn, nếu mỗi một ngày vui vẽ và không lo lắng chi, và nếu họ không bị thiếu tiền và có tất cả những gì họ cần, thì Thượng Ðế [Thần linh] là thiện từ với họ và kỳ thực là tốt với họ. Ðể tôi giảng cho chư vị biết Thượng Ðế [Thần linh] không phải như thế đâu. Giã như Ngài thật sự là như thế, thì Ngài không tốt với con người. Ðó là vì cái lý của nhân loại là hoàn toàn đão ngược. Chư vị biết rằng con người sống trong thế giới này thì cũng phải có liên hệ xã hội, vì thế mà họ sẽ tạo nghiệp. Chúa Jêsus giảng rằng con người có tội lỗi. Bởi vì họ có tội lỗi cho nên họ bị rơi xuống không gian của người thường đây. Họ tạo nghiệp trong không gian này và phạm tội từ đời này đến đời sau. Muốn sống thoải mái, chư vị không muốn trả nghiệp của chư vị sao? Nếu chư vị không trả nghiệp của chư vị và chư vị cứ tiếp tục tạo thêm trong đời này, thì trong đời sau chư vị sẽ không có được một thân người đâu, có thể chư vị lại tái sinh thành một cái gì còn tệ hơn nữa. Và nếu chư vị tạo thêm nghiệp nữa thì chư vị chỉ có rơi xuống địa ngục mà thôi. Nếu chư vị rơi xuống nữa thì chư vị sẽ bị hủy diệt. Thế thì từ quan điểm của cái lý này, chư vị nói xem, Thượng Ðế [Thần linh] phải xử lý thế nào cho là tốt với chư vị đây? Nhân quả là thế.

Còn nhận thức của tôi về thiện chân chính là gì? Nếu một người thật sự là người tốt, thì họ sẽ gặp rất nhiều khổ nạn trong đời này. Mục tiêu là để cho họ trả nợ nghiệp của họ qua các khổ nạn này, để cho họ dùng đời này với cái thân thể người và mau chóng trả tất cả nợ nghiệp kia. Sau khi tất cả nợ đã trả xong thì họ có thể trở về thế giới thiên đàng để vĩnh viễn hưởng hạnh phúc. Cho nên họ phải chịu khổ nơi người thường đây. Suy nghĩ xem: Thiện chân chính là gì? Quan điểm của Phật hoàn toàn khác với quan điểm của nhân loại. Người thường nghĩ rằng Phật hay Thần, các ngài thiện từ với con người là các ngài để cho con người hưởng giàu sang nơi người thường. Con người than phiền với trời và đất mỗi khi họ chịu khổ, "Ô, Thượng Ðế [Thần linh], tại sao các ngài bỏ rơi tôi? Tôi là một linh hồn lạc lối!" Ðể cho chư vị trả nghiệp, thì chính là Thượng Ðế [Thần linh] đang bảo hộ chư vị để cho chư vị có thể quay trở về. Kỳ diệu biết bao khi được quay trở về nơi mà không còn sinh, không còn diệt, không còn bị rơi xuống nữa. Ðó là thiện chân chính. Chư vị biết rằng chư vị đang tu luyện; thì tại sao tôi không bớt đi tất cả đau khổ cho chư vị? Không cần chư vị phải trải qua khổ nạn nữa, đơn thuần tôi cứ mang chư vị lên trên đó là xong, có đúng không? thế thì thiện biết bao! Nhưng không thể được! Chính cá nhân chư vị phải hoàn trả lại những gì chư vị thiếu. Nhanh lên và trả đi! Nhanh lên và trả đi, chỉ có cách này thì tôi mới có thể cứu độ chư vị nhanh hơn. Có phải cái lý là thế không? Từ một quan điểm khác mà tôi giảng về thiện và thiện là gì. Pháp đang được giảng cho chư vị, chứ không phải giảng cho người thường. Ðừng bao giờ quên điều này. Người thường là vĩnh viễn lạc lối trong mê ão. Họ không được phép biết được các nguyên lý này. Nhân loại là nhân loại, trong khi đó chư vị học viên là học viên. Người tu luyện và người thường sẽ hoàn toàn khác biệt nhau.

Còn một điểm nữa tôi có thể giảng cho chư vị: Không có gì trong thế giới này là ngẫu nhiên, các chư Thần đang quan sát. Trong không gian này, một số [chư Thần] thì an bài việc tái sinh, một số thì trách nhiệm sự ổn định của xã hội, một số thì an bài các guồng máy xã hội, một số thì điều khiển sự ổn định của quả địa cầu, một số đảm trách về không khí và các phân tử của không khí đủ loại và một số thì kiểm soát các chư Thần khác nhau đang hành sự trên quả địa cầu. Trong không gian này có các chư Thần đủ loại. Làm sao mà họ không giám thị các sự việc này? Các sự việc trong xã hội người thường đây có thể nào lại xảy ra thể theo ước muốn của con người? Hoàn toàn là không được.

Vấn: Về nguyên lý tương sinh và tương khắc, sự thật có phải là ở các tầng thứ cao, một trong hai loại vật chất này thì gần với Chân-Thiện-Nhẫn hơn phải không?

Thầy: Không nên hiểu như thế. Toàn vũ trụ là được cấu kết thành từ Chân-Thiện-Nhẫn. Ðể tôi giảng như thế này: Hai loại vật chất [mà chư vị bàn đến] là được cấu kết trong vũ trụ bằng Chân-Thiện-Nhẫn. Nếu trong vũ trụ này mà chỉ có phần dương thôi, thì đáng tiếc vô cùng cho các sinh mệnh. Họ sẽ không có vui cũng không có đau đớn, cuộc sống của họ sẽ buồn chán đi. Chính vì đau khổ và đau đớn, mà con người biết quý trọng yêu mến và hạnh phúc khi họ có; chỉ qua cách này thì họ mới cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa. Vì thế mà có phần dương tồn tại trong vũ trụ. Sự tồn tại của phần âm cũng đã được an bài cho nhân loại, phần này có thể loại trừ nghiệp cho nhân loại.

Vấn: Bởi vì tôi giải quyết vấn đề tận gốc rễ, tôi cảm thấy máu của tôi xôi lên khi vừa nghe ai đó nói về bảo vệ Ðại Pháp. Thưa Sư Phụ, trạng thái này có đúng không?

Thầy: Không, không đúng. Không đúng. Mọi người phải chú ý điểm này! Vừa qua tôi giảng về phần âm và dương. Khi phần âm hạ xuống đến tầng thứ ở đây, thì nó trở thành phần xấu; trong khi phần dương hạ xuống đến tầng thứ ở đây thì trở thành phần thiện. Vì thế mà tôi giảng với chư vị rằng trong xã hội con người tuyệt đối chúng ta không được hành động như người thường. Chúng ta luôn phải để phần thiện của chúng ta điều khiển. Ðức Thích Ca Mâu Ni giảng rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Kỳ thực thì, để tôi giảng cho chư vị biết, tất cả chúng sinh đồng thời cũng có ma tính tồn tại. Ðó là ma tính và Phật tính cùng tồn tại trong mỗi một sinh mệnh. Trong tình huống mà một người giận dữ, hay hung bạo, hay mất lý trí, đó là ma tính của họ đang khởi tác dụng. Trong tình huống mà một người có lý trí, tử tế và thiện từ, thì đó là Phật tính của họ đang khởi tác dụng. Hai cá tính khác nhau này biểu hiện dưới các tình huống khác nhau. Vì thế chúng ta phải luôn luôn dùng phần thiện của chúng ta. Cách đây không lâu, khi đài truyền hình tuyên truyền báo cáo không có bằng chứng gì về chúng ta và chúng ta đến gặp họ, mọi người [các học viên] nói chuyện với họ một cách lý trí và với ý nguyện tốt. Lúc ấy có rất nhiều học viên đến, tuy nhiên một đám đông người đến không hẳn là một việc không hay xảy ra. Thái độ và cách tiếp xúc có thể là tốt [thiện] hay xấu. Nhưng các học viên lại giải thích một cách hợp lý và hoàn toàn tử tế; không can thiệp vào việc chính trị quốc gia, cũng không gây thiệt hại đất đai công cộng. Mọi người đều cư xử như người tu luyện và giải thích với lý lẽ. Những người [ở trong đài truyền hình] cảm động vì họ chưa bao giờ gặp người như thế này. Nhưng trái lại, tại sao công kích lại xảy ra trong xã hội con người? Người thường thì đi biểu tình và phản đối khi muốn chứng minh quan điểm cá nhân hay cải lý với ai. Họ công kích la lối lên và còn dùng vũ khí nữa. Ðó là vì con người có phần ma tính và những người này là người thường. Ðây chúng ta là người tu luyện, chúng ta phải dùng phần thiện, không dùng phần xấu của chúng ta. Người thường dùng cả hai, phần thiện lẫn phần xấu; người thường dùng cả hai, lý lẽ và công kích. Họ chữi lên và đã kích khi tranh cải mà bị thua. Người thường có cả hai, phần thiện và phần xấu.

Vấn: Thầy giảng rằng khi vũ trụ được thanh lý [dẹp sạch], thì có người hành tinh mà đã trốn vào quả địa cầu này. Có phải là họ hiện hữu qua hình thức phù thể hay là qua các hình thức khác?

Thầy: Trước hết để tôi giảng người hành tinh là gì. Chư vị biết rằng quả địa cầu trong vũ trụ này không phải chỉ là một tinh cầu duy nhất có các sinh mệnh, và quả địa cầu này cũng không tồn tại chỉ một lần. Tôi giảng rằng tại vị trí của quả địa cầu này trước đây, đã từng có các quả địa cầu khác tồn tại. Các quả địa cầu trước đó đã bị hủy bỏ rồi. Một số bị nổ tung ra; đã xảy ra rất nhiều lần, một con số khá to. Giai đoạn cuối cùng của quả địa cầu đều trải qua giai đoạn mà sinh mệnh [trong đó] trở nên đồi bại nhất và vật chất [trong đó] ô uế nhất, cho nên không thể giữ quả địa cầu được nữa. Quả địa cầu bị hủy bỏ bởi vì toàn thể quả địa cầu đã trở thành một trái banh nghiệp. Ðó là vì khi các sinh mệnh tái sinh, thì tái sinh thành đất, đá, cây cối hay là vật chất, không kể là các sinh mệnh đó tái sinh thành cái gì, chính sinh mệnh ấy cũng vẫn còn mang theo nghiệp. Quả địa cầu sẽ trở thành một trái banh nghiệp khi nghiệp tràn ngập khắp nơi, vì thế đến lúc đó thì quả địa cầu phải bị hủy diệt. Nhưng cũng còn có một số người trên quả địa cầu khá tốt, và đây là một số ít đặc biệt hay là rất ít, chỉ vài người thôi, họ được mang qua và cho vào tinh cầu khác trong Tam Giới. Tuy thế theo thời gian vô số lần quả địa cầu này đã bị thay đổi [với cái khác], mỗi lần cũng vẫn còn có người sống sót lại. Vì thế các sinh mệnh còn lại dần dần sinh sôi nẩy nở, theo thời gian con số tăng lên. Mỗi một lần như thế thì các chư Thần cải tạo lại nhân loại với hình dáng khác, cho nên sự khác biệt rất xa, cũng có một số được tạo ra trên các hành tinh khác. Họ là những người hành tinh này.

Họ là kỷ niệm của lịch sử, được đặc tại nơi đó như một dấu vết của một trang lịch sử lưu lại. Họ chỉ đống một vai trò nhỏ thôi. Họ được lưu lại từ thời cuối của quả địa cầu vào thời đó, họ mang theo kỹ nghệ của thời đó vào các tinh cầu khác; cho nên khởi điểm của họ thì tiến bộ hơn. Kỳ này, qua một giai đoạn lâu dài, kiến thức về vũ trụ mà họ thu thập được vượt xa con người trên quả địa cầu hiện nay. Thân thể của họ có thể tiến nhập vào các không gian khác và còn có thể chỉnh sửa lại theo hình thức của các không gian mà họ đến, họ đã phát triển đến trạng thái như thế. Những gì mà họ dùng để bay qua bay về, các phi thuyền mà nhân loại gọi là đĩa bay, cũng có thể tiến nhập vào các không gian khác và bay vào các thời gian-không gian khác. Nếu họ di chuyển trong một thời gian-không gian nhanh, nhưng sau khi lưu lại nơi ấy một thời gian ngắn, họ cũng vẫn phải di chuyển với một khoảng cách rất xa. Cho nên đối với nhân loại tốc độ này không thể tưởng tượng được. Nhiên liệu họ dùng không giống một chút gì như loại vật chất mà kỹ thuật, lý thuyết hay quan niệm của khoa học hiện đại nhận thức ra được.

Theo thời gian, những người hành tinh này đã liên tục phát triển và biến thái. Cho nên trong vũ trụ này, kỳ thực cũng có quan hệ xã hội bất bình thường với những loại sinh mệnh này. Tham lam và dâm ô đã tạo ra cái gì như là chiến tranh ở các tinh tú, kỳ thực đã xảy ra nơi họ ở. Họ chưa đe dọa nhân loại bởi vì nhân loại không có khả năng đe dọa họ; cho nên họ chưa tấn công nhân loại. Giã như chư vị mà đe dọa họ thì họ đã tấn công nhân loại rồi. Mặc dù người hành tinh chưa tấn công nhân loại, nhưng họ biết rằng thân thể người là hoàn hảo nhất. Vì thế mà họ mơ và muốn chiếm lấy thân người này. Với khoa học họ xâm nhập vào trong mọi lĩnh vực của nhân loại, khiến cho nhân loại kiên quyết tin tưởng vào khoa học và tùy thuộc vào khoa học. Khi tư tưởng và sự hiện hữu của nhân loại hoàn toàn phù hợp với tư tưởng và sự hiện hữu của họ, thì họ chỉ cần thay thế linh hồn của nhân loại và nhân loại sẽ trở thành họ, cuối cùng họ thay thế nhân loại.

Câu chuyện này rất dài. Người hành tinh đã tiến nhập vào đây toàn diện rất đông từ khi Cách Mạng Kỹ Nghệ bắt đầu ở Tây Phương. Trước đó họ cũng đã tiến nhập vào rồi, nhưng họ chưa khống chế con người. Trên toàn diện rất đông họ tiến nhập vào từ khi xã hội người da trắng trở thành xã hội kỹ nghệ. Họ sửa soạn toàn bộ và theo hệ thống sắp xếp để chiếm quả địa cầu. Chính họ [những người hành tinh này] đã tạo ra khoa học cho nhân loại. Vì thế mà người hành tinh đã thiết lập khoa học. Mục đích của họ là hợp nhất nhân loại và đơn giản hóa tư tưởng của nhân loại đến mức độ mà đồng dạng như máy móc. Họ còn hợp nhất kiến thức của nhân loại để cho họ dễ điều khiển và thay thế nhân loại trong tương lai. Thêm nữa, họ còn chọn một số sắc dân làm tiền phong cho tương lai của họ, toàn diện khống chế nhân loại. Nhật Bản là tiền phong qua kỹ nghệ. Mỹ Quốc là tiền phong trong việc phá vở tất cả văn hóa cỗ xưa trên quả địa cầu; văn hóa mà cỗ xưa và cỗ kín nhất của các quốc gia mà chưa thay đổi. Toàn thế giới bị ảnh hưởng bởi văn hóa hiện đại của Mỹ. Anh Quốc là tiền phong về sản xuất máy móc trong giai đoạn ban đầu, Ý là tiền phong về hỗn hợp chủng tộc. Cách mà người hành tinh khiến cho nhân loại tách rời xa thượng đế là hỗn hợp các chủng tộc với nhau, khiến cho nhân loại mất đi cội rể, giống như một cái cây mà con người ghép như ngày nay. Nam Mỹ, Central Americans, Mễ Tây Cơ và một số dân ở Ðông Nam Á, tất cả là các chủng tội đã bị hỗn hợp nhau. Không có gì qua mắt được chư Thần. Bằng cách chuẩn bị qui mô người hành tinh kế hoạch chiếm lấy nhân loại.

Những ai biết dùng máy điện toán thì đã bị họ ghi sổ. Tất nhiên, các học viên chúng ta không bị rắc rối này. Hễ chư vị thọ Pháp, thì tôi thanh lý cái lớp thân thể của chư vị mà đã bị họ chiếm lấy. Họ đã [chiếm] hình thành một lớp cơ thể của họ trong thân thể con người. Thật kinh hãi vô cùng! Tất cả những gì con người học từ tiểu học cho đến đại học, là khoa học mà họ mang đến, hiện nay tất cả những gì mà nhân loại dùng thì cũng là sản phẩm của cái khoa học đó lan tràn khắp nơi đây. Tại sao nhân loại có thể sáng tạo ra máy điện toán và phát triển kỹ thuật với một tốc độ nhanh chóng như thế? Ðó là do cái lớp thân thể mà người hành tinh tạo ra [lớp mà họ đã gắn vào trong thân thể con người] để khống chế con người. Chính vì cái hệ thống kỹ thuật và khoa học của họ đã được gắn hình thành vào trong thân thể con người mà đã khống chế tư tưởng của con người hành động [thể theo mệnh lệnh của họ]. Hiện nay, điều quá kỳ lạ là máy điện toán phát triển đến như thế; nhưng đây không phải là kỹ thuật của nhân loại. Nhân loại sẽ bị bọn người hành tinh này thay chỗ nếu cứ tiếp tục mãi thế này lâu hơn nữa. Mọi người suy nghĩ xem: Dù sao thì người hành tinh cũng là sinh mệnh trong Tam Giới nơi người thường đây. Có nhiều nguyên nhân khác mà tại sao họ dám làm sự việc này. Ðiều này xảy ra bởi vì Pháp của vũ trụ đã sai lệch rồi và chư Thần không còn bảo hộ sự việc nữa; cho nên cũng có liên hệ với các sinh mệnh ở cao tầng nữa. Nếu cần chỉnh sửa lại thì phải bắt đầu từ các tầng thứ cao [hơn]. Bởi vì các vị ở cao tầng nghĩ rằng nhân loại không còn tốt nữa, đạo đức của nhân loại đã trở nên đồi bại và tất cả sai lệch hết cả rồi. Cho nên các ngài nghĩ rằng nhân loại cần được thay đổi, thế nào thì nhân loại cũng sẽ bị hủy diệt. Chư Phật nhân từ với con người bởi vì các vị Phật Như Lai và các vị Bồ Tát là gần với con người nhất, các ngài là những vị Phật thấp nhất. Khi các chư Phật, ở nhiều tầng thứ cao hơn tầng thứ của các vị Phật ở tầng thứ đó, quay lại mà nhìn, thì Phật Như Lai cũng chỉ là người thường thôi. Cho nên đối với các ngài nhân loại là "gì" đây? Nhân loại không là gì cả. Khi các ngài nhìn thấy nhân loại không còn tốt nữa, các ngài chỉ hủy diệt nhân loại và bắt đầu trở lại. Các ngài suy nghĩ như thế. Ðối với các ngài, nhân từ không phải là nhân từ với con người mà là nhân từ với các chư Phật. Và khi các chư Thần ở các tầng thứ cao hơn nữa quay lại và nhìn, đối với các ngài nhân loại không là gì cả và cũng không đáng là vi sinh vật nữa. Chư vị có hiểu được khái niệm này không? Một số người còn cho rằng, "Thưa, Thầy phải cứu độ chúng con thế này thế kia." Tôi trã lời rằng, "Như thế chư vị nghĩ rằng, nếu một vị Phật không cứu độ chư vị, ngài sẽ đau khổ giống như ngài dích mắt vào việc cứu độ chư vị sao? Không phải thế đâu. Vì lòng nhân từ mà chư Phật cứu độ con người và cứu độ chư vị. Con người muốn chọn lựa, muốn được cứu độ thế này thế kia, muốn tu luyện cách này cách kia; họ nói mà họ không biết họ nói chi cả.

Ðây là tình huống liên quan đến người hành tinh. Người hành tinh bị quét lên trên đó và họ phát hiện ra sự việc đào thải, cho nên vài năm vừa qua, họ, một số đông lắm chạy xuống đây. Tuy thế họ không biết sự việc mà tôi đang làm đã được an bài có hệ thống, cho nên bất kể chỗ nào họ chạy trốn, họ cũng không thể thoát được. Họ phải đền bù tất cả những điều xấu mà họ đã gây ra, chắc chắn là thế. Nguyên lý của vũ trụ tuyệt đối rất công bằng với bất cứ sinh mệnh nào; cho nên họ phải đền bù tất cả những gì họ đã gây ra. Còn về sinh mệnh của họ phải xử lý ra sao, trong tương lai thì người hành tinh không còn tồn tại nữa. Nếu trong nhóm người hành tinh này thật sự có người tốt, thì họ sẽ được tái sinh thành vào những [dạng] sinh mệnh khác. Còn sinh mệnh nào xấu thì sẽ bị hủy diệt. Cho nên tất cả những gì một sinh mệnh làm đó là chỉ định vị trí tương lai của chính cá nhân mình. Ðiều này cũng áp dụng cho toàn thể nhân loại. Bất kể điều gì một người làm cũng là chỉ định vị trí của người ấy.

Còn về hiện nay, hầu hết những người hành tinh vì sinh tồn mà chạy trốn đến đây. Họ đã biết rằng trong giai đoạn cuối cùng khó mà họ chạy thoát, vì thế có một số người hành tinh đã thành hôn với người ở quả địa cầu. Tuy nhiên không phải là họ thành hôn chánh thức, bởi vì không ai thành hôn với họ cả. Họ bắt ép một người nữ ở vùng quê và để lại con của họ. Cũng có một số thì đang trốn tránh nơi người thường. Họ không trốn được dù cho họ trốn cách nào. Công to lớn từ tầng vi quan đang tiến đến đây. Không kể đó là thép, sắt, gỗ, thân thể con người, nước, đá, không khí, cây cối, thú vật, vật chất v..v, từ tầng thứ vi quan của tất cả công đang tiến ra bề mặt. Nói xem, họ chạy thoát đi đâu? Công tràn ngặp mọi nơi và đang hướng ra phía bề mặt. Cho nên họ thấy rằng không còn nơi nào để lẩn tránh hay trốn nữa. Làm sao họ tồn tại đây? Kỳ thực thì họ không phải là phù thể; nhưng một số người hành tinh có mang hình dáng con người, họ đi trên đường phố. Chư vị không biết họ là ai đâu. Một số thì trốn không ra ngoài. Tuy nhiên con số này thì nhỏ, rất nhỏ. Trong quá khứ thì họ còn trốn được, và đĩa bay của họ có thể bay lên và xuyên qua không gian khác. Nhưng các không gian khác đã được thanh lý sạch hết rồi. Còn Công to lớn thì đang nhanh chóng tiến nhập đến đây, cho nên họ không thể trốn được nữa. Họ chỉ có thể trốn trong các hang động hay là trốn dưới đáy biển trong không gian này. Tuy vậy họ cũng không tiếp tục trốn được nữa. Dù sao đi nữa thì họ cũng phải đối diện với sự việc này. Trong sự việc này, tất cả sinh mệnh đang chỉ định vị trí của chính cá nhân mình.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#fawefa