phong su 2512

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

HỒI SINH TỘC NGƯỜI ĐAN LAI

PHẠM THANH KHƯƠNG

      Nghe phong thanh ở giữa vùng lõi rừng quốc gia Pù Mát phía Tây Nghệ An, còn có một tộc người ở thời đại “nháy chuột” mà vẫn “ngủ ngồi”, đẻ con xong mang ra “suối lạnh ngăn ngắt  tắm 3 lần”. Nếu đúng thế thì quả là một quá trình tiến hóa ... ngược với lịch sử tiến hóa của con người. Tôi và nhà thơ Đỗ Hoàng làm chuyến ngược 47 thác lên thượng nguồn sông Giăng, tìm về nơi sinh sống của tộc người này.

1. QUÁ TRÌNH TIẾN HÓA …NGƯỢC

* Từ Truyền Thuyết … Buồn …

Cho đến bây giờ ít ai biết được câu chuyện này có từ bao giờ và có từ thời kỳ nào, chỉ nghe truyền lại hình như vào cuối đời hậu Lê. Ngay người kể chuyện, già bản Lê Văn Khai, ở bản Búng, xã Môn Sơn, cái bản nằm sát chân núi, đầu nguồn sông Giăng cũng chỉ biết rằng, đã lâu lắm rồi, từ ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ bên bờ sông Giăng, thuộc huyện Thanh Chương, có một làng trù phú và giầu có. Thế rồi, một ngày kia, có chiếu vua ban, sức về làng. Trong chiếu vua bắt dân làng trong vòng mười ngày phải nộp cho triều đình một trăm cây nứa vàng và con thuyền liền chèo.

Nhận chiếu vua sức về, già làng cho tập trung già trẻ  trai gái, nam phụ lão ấu để bàn cách thực hiện ý chỉ. Sau khi nghe già làng đọc chiếu vua sức về, mọi người nhìn nhau ngơ ngác. Bao năm qua, trời cho mưa thuận gió hòa, đất thương người, cho mầu mỡ tốt tươi, con người biết tảo tần, lam lũ làm lụng, chịu thương chịu khó nên cuộc sống khá giả. Nhưng lấy đâu ra đủ vàng mà làm cả trăm cây nứa nộp vua. Và chiếc thuyền liền chèo nữa. Ngày đó chỉ có thuyền độc mộc. Tìm đâu cho được cái cây to tới vài ba chục người ôm để làm cho được chiếc thuyền như ý vua ban.

Những ánh mắt lo lắng nhìn già làng chờ đợi. Ý vua đã rõ, làm thì không thể được mà ở lại thì phạm tội khi quân, chắc cả làng sẽ bị chém đầu. Thế là cả làng ngay đêm hôm đó, bồng bế con cháu trốn. Cứ men theo bờ sông Giăng mà đi. Hiềm nỗi, đất nơi nào cũng đã có chủ. Hết vùng đất của người Kinh thì đến vùng đất người Thái. Cứ đi mãi, đi mãi, đi vào tận đầu nguồn sông Giăng mới dừng chân. Suốt dọc hành trình tìm đất ở, người già và trẻ em của làng bị đói, nước lũ, thú rừng, nước độc cũng đã chết vợi. Khi dừng chân, già làng nhìn lại, số dân làng cũng chỉ còn đếm trên đầu ngón tay.

Sức  đã kiệt, người đã vợi, dân làng tìm được chiếc hang liền lấy đó làm nhà. Những ngày đầu, để kiếm cái ăn, người còn khỏe vào rừng hái lượm hoa trái, quả cây, lá sung, búp ổi, đào củ măng, củ mài để dân làng sống qua ngày. Phương tiện canh tác không có, chỉ biết vào rừng săn bắt, hái lượm để tồn tại. Cứ thế, trải qua mấy trăm năm, sống tách biệt hoàn toàn với thế giới con người, dân làng quên dần tiếng nói, quên dần chữ viết, quên dần cách canh tác, quên tất cả các nét văn hóa và trở thành tộc người Đan Lai, trở lại cuộc sống thời hồng hoang nguyên sơ của tổ tiên loài người.

Khi gặp già làng Lê Văn Khai ở đầu bản Búng, đưa tay bắt. Bàn tay già làng dày rộp những chai. Tôi cố tình cầm tay già làng thật lâu rồi từ từ kéo trượt bàn tay tôi về phía đầu các ngón tay của già làng. Cả bàn tay già làng, từ cổ tay đến lòng bàn tay và các ngón, da tay đều phủ một lớp chai dày mờ mờ, xam xám vàng.

Ngoài truyền thuyết trên, tôi còn được nghe chính già  làng Lê Văn Khai kể cho nghe về một truyền thuyết khác. Ngày đó, cũng cách đây lâu lắm rồi, dân làng ở huyện Thanh Chương, Nghệ An, sống bên bờ con sông Giăng. Trong làng có hai dòng họ Nguyễn và Lê. Dòng họ Nguyễn có nhiều người học hành đỗ đạt làm quan trong triều. Dòng họ Lê ít học, chủ yếu chỉ biết cấy cầy làm ruộng. Thế rồi, do mâu thuẫn giữa hai dòng họ, dòng họ Nguyễn muốn đẩy dòng họ Lê ra khỏi vùng đất đang sinh sống. Lợi dụng vào vị trí làm quan, lại biết chữ, những người họ Nguyễn thảo ra một bản yêu cầu họ Lê phải làm trăm cây nứa vàng và chiếc thuyền liền chèo nộp cho vua trong vòng bẩy ngày. Do dòng họ Lê ít học, khi nhận được tờ giấy trên, nghĩ là ý chỉ của nhà vua và cũng không luận ra được cách  làm. Sợ phạm tội khi quân, phải chịu chết cả dòng họ. Dòng họ Lê đã lợi dụng đêm tối, rủ nhau trốn vào rừng sâu. Dựa vào rừng vào núi, săn bắt hái lượm để tồn tại, người họ Lê sống tách biệt với xã hội loài người mà đã trở thành một tộc người Đan Lai như hiện nay. Khi kể về “lịch sử” tộc người của mình, già làng Lê Văn Khai than thở: Chỉ vì người họ Lê ít được học quá mà nên thế này. 

Còn một truyền thuyết nữa về tộc người Đan Lai cũng đẫm … nước mắt mà những người dân vùng núi miền Tây Nghệ An kể lại. Rằng, cũng từ xưa xửa xừa xưa, ở một làng ven sông Giăng, có một làng rất trù phú, ruộng mật bờ xôi. Thế rồi, một năm nọ, trời làm trận đại hồng thủy. Cả làng người chết thành đống, xác người trôi dọc theo sông. Bầy quạ bay che kín cả trời. Đêm đêm, ngày ngày, tiếng kêu cứu, tiếng than khóc của oan hồn những người chết tức tưởi lúc nào cũng vảng vất nơi xó bếp góc nhà, nơi mảnh vườn ruộng lúa. Sau đận đại hồng thủy, dân làng lại bị trận đại dịch, số người chết như ngả rạ, đất làng thành bãi chôn người. Làng xóm tiêu điều, xơ xác. Trời không cho ở, đất không cho sống, mảnh đất làng trù phú như có ma ám, quỷ rình. Dân làng đùm úm kéo nhau đi tìm nơi đất mới. Cứ thế, dọc theo bờ sông Giăng dân làng lên mãi miền sơn cùng thủy tận sinh sống. Sống tách biệt với thế giới con người, các tập tục thói quen xưa dần mai một rồi trôi vào quên lãng. Cứ thế, dân làng trở thành một tộc người Đan Lai như ngày nay mà các nhà dân tộc học xếp trong nhóm dân tộc Thổ trong cộng đồng 54 dân tộc anh em Việt Nam.

Cũng có một truyền thuyết nữa cho rằng tộc người Đan Lai nguyên là quân sĩ của ông Hoàng Mười đi đánh giặc phía Nam. Do quân ít, thất trận, bị địch truy sát nên chạy vào rừng sâu, sống tách biệt quá lâu với xã hội mà thành. Dù truyền thuyết nào thì quá khứ lịch sử của tộc người Đan Lai cũng đẫm một nỗi buồn nhân kiếp. 

Đến “Không” … Bản Sắc.

Tổ  trưởng Tổ công tác Biên phòng bản Búng Đại úy Võ Văn Quỳnh khẳng định. Tộc người Đan Lai gần như không có một chút gì gọi là bản sắc riêng. Lý do tộc người Đan Lai không có bản sắc riêng được Võ Văn Quỳnh và anh em trong tổ công tác lý giải. Sau những ngày dài chạy trốn, sống cô lập hoàn toàn với thế giới con người, ngôn ngữ, tiếng nói cũng ít được sử dụng vì cả ngày phải vào rừng kiếm sống vì thế mà mai một dần. Những từ nào còn nhớ được thì do ngữ điệu khi phát âm của người dân xứ Nghệ cũng bị biến thể. Ngay như bây giờ, cả tộc người Đan Lai chỉ có hai dòng họ chính là Lê và La. Họ La cũng chính là do sự biến âm của từ Lê mà thành. Về sau, trong quá trình giao lưu, người Đan Lai “mượn” ngôn ngữ của người Thái, người Lào cộng thêm với chút từ ngữ của người Kinh khi xưa còn lại và những âm lóng của 3 dân tộc này thành ngôn ngữ của mình. Tiếng nói của người Đan Lai chính là sự pha tạp của cả ba dân tộc này. Ngay chữ viết, tộc người Đan Lai cũng không có chữ viết riêng. Do đời sống khó khăn, cộng vào đó, trong quá trình trốn chạy, người Đan Lai cố tình xóa dấu vết để nếu có quân binh đuổi theo thì cũng không phát hiện được ra họ. Anh em trong tổ công tác giải thích: Tên tộc người Đan Lai có nghĩa là đan xen và lai tạp.

Không những tiếng nói, chữ viết mà ngay các phong tục, lối sống của người Đan Lai cũng gần như không có nét riêng, nó cũng là sự pha tạp của người Thái, người Lào. Các phong tục như chôn cất, cúng giỗ người chết cũng không có. Khi đem người chết đi chôn, người Đan Lai chủ yếu cuốn chiếu. Nhà nào có chút “máu mặt” thì chặt cây nứa, cây dang hay cây tre rồi đem chẻ ra đan lại thành tấm phên, cuốn lại, bó chiếu ra bên ngoài. Bản ở bên này suối thì người chết phải được chôn bên kia suối. Huyệt chôn cũng chỉ đào rất nông rồi đưa người chết ra đó, thả xuống lỗ, san phẳng. Xong, nhặt hòn đá ném lên đó làm dấu. Việc ném hòn đá đánh dấu cũng là để người sống biết đó là “rừng ma” không vào. Ném hòn đá lên phần đất vừa san phẳng, người làng phải chạy thật nhanh để ra khỏi chỗ đó. Khi chạy về đến bản, nhà có người chết phải dỡ nhà để làm lại. Người Đan Lai cho rằng, người chết biến thành con ma. Chôn xong phải chạy để trốn ma. Chuyện dỡ nhà làm lại là để con ma không còn nhận ra nơi trước đây đã ở. Kiếp người ở đây cũng chỉ có thế. Khi chôn xuống đất, con cháu không còn cúng giỗ để tưởng nhớ tiền nhân. Phong tục này cũng được người Đan Lai “vay mượn” từ phong tục của người Thái mà có.

Ngồi nói chuyện với già làng, tôi và nhà thơ Đỗ Hoàng có nói già làng hát cho nghe một bài hát của tộc người Đan Lai. Già làng trầm ngâm một lúc rồi hát. Già cũng chỉ hát được đôi ba câu rồi thôi. Hỏi ra mới biết, đó là bài hát của người Lào và ngôn ngữ cũng là của người Lào. Già làng Lê Văn Khai cười: Già không nhớ được đâu. Già chỉ nhớ được có bấy nhiêu thôi. Hỏi thêm về lễ hội hay trang phục, già cũng chỉ nói đi nói lại một câu: Buồn lắm. Người Đan Lai không có đâu. Chỉ nghe dân tộc khác hát rồi mình hát theo, làm theo.

Khi nói chuyện với khách, già làng Lê Văn Khai rất hay thở dài. Tiếng thở dài cứ vuốt mãi về sau. Tiếng thở dài của cả tộc người đã qua mấy trăm năm khi dân làng đưa nhau vào nơi sơn thâm cùng cốc miền Tây Nghệ An để tồn tại. Tôi và nhà thơ Đỗ Hoàng gợi ý. Nếu Nhà nước có chủ trương đưa người Đan Lai tái định cư, không ở trong vùng lõi của rừng quốc gia Pù Mát thì già nghĩ thế nào? Già làng Lê Văn Khai nói “chắc như đinh”: Già và mọi người không chạy nữa đâu. Nghe già làng nói mới biết. Sự ám ảnh về chuyến “di làng” đầy đau khổ và tủi cực từ ngày xưa vẫn còn hằn sâu trong tâm trí của người Đan Lai. Cái quá trình đã làm cho người Đan Lai, từ người biết trồng cấy, văn minh trở lại kiếp người của thuở hồng hoang nguyên thủy, một quá trình tiến hóa ngược của con người đầy đau buồn và cơ cực.  

 2: NGƯỜI ĐAN LAI Ở BẢN BÚNG

Trong vùng lõi rừng quốc gia Pù  Mát hiện còn có 2 bản tộc người Đan Lai. Bản Búng có 87 hộ với 436 khẩu. Bản Cò Pạt có 76 hộ với 381 khẩu. Từ bản Cò Pạt lên đến bản Búng còn phải ngồi “nốc” gần 2 tiếng đồng hồ và vượt mươi mười lăm thác nữa mới đến. Cuộc sống của người Đan Lai ở đây hiện nay sống chủ yếu dựa vào nguồn tài trợ từ các dự án. Ngoài nguồn các dự án, người Đan Lai sống dựa vào rừng. Gần như, số phận người Đan Lai hoàn toàn phó thác cho tự nhiên. Một cuộc sống còn nặng dấu vết của sự sơ khai và hoang dã.  

* Những Tập Tục Có Một Không Hai.

Thực ra, khi vào đến tận cùng của vùng đất có người Đan Lai ở, sống cùng với người dân, tôi không thể tưởng tượng được cuộc sống của tộc người Đan Lai như hiện tại. Khi loài người chỉ cần cái nháy chuột, đã sống trong một “thế giới phẳng” mà vẫn còn một tộc người sống sơ khai và hoang dã đến thế.

Trước khi vào với tộc người Đan Lai tôi cũng có được nghe đôi ba chuyện như người Đan Lai ngủ ngồi, ngủ trên cây, khi sinh con đưa ra suối “ném” xuống nước ba lần. Thực ra, những câu chuyện trên chỉ là sự “tưởng tượng phong phú” của một vài người “vẽ” nên mà thôi.

Quả  thực, người Đan Lai có tục ngủ ngồi. Lý  giải cho tục ngủ ngồi này, trưởng bản Búng, Lê Văn Khai tình thực. Ngày xưa, lâu rồi, khi người Đan Lai bỏ trốn vào rừng, ở trong hang trong hốc. Rừng thì lạnh, sương thì nhiều, giường chiếu, áo quần, chăn màn không có. Để có thể ngủ được, người Đan Lai kiếm củi trong rừng về đốt lửa rồi ngồi quây tụ xung quanh cho đỡ lạnh. Vì nằm thì đá lạnh nên phải ngồi. Khi ngồi ngủ lâu, lưng mỏi, có một số người đã ngã, sấp mặt vào đống lửa. Để khắc phục tình trạng trên, người Đan Lai đã có “sáng kiến” khi ngủ, chặt cái chạc ba, mà cái này thì rất dễ kiếm được trong rừng, quanh nhà, chống dưới cằm để khi ngồi ngủ, nếu có ngã thì cũng không bị ngã vào đống lửa. Cũng bắt đầu từ đó, tục ngủ ngồi chống chạc ba dưới cằm trở thành tập tục trong đời sống của người Đan Lai. Ngay bây giờ, với những người già, tục ngủ ngồi, chống chạc ba dưới cằm vẫn còn được duy trì. Theo Đại úy Võ Văn Quỳnh, Tổ trưởng Tổ công tác Biên phòng tại bản Búng thì, vì quen với việc ngủ ngồi cả một đời người, nên bây giờ, nếu ngủ nằm như các dân tộc khác, người già không ngủ được. Và một điều nữa, nếu người già nằm ngủ, vì gầy yếu, xương khớp tiếp xúc trực tiếp với sàn, với gỗ, đau nên “đành” phải giữ tục xưa khi ngủ.

Những năm tháng trước đây, khi chưa có Bộ đội Biên phòng vào giúp, chuyện sinh đẻ của người Đan Lai cũng là một vấn đề. Khi sinh con, người Đan Lai đem ra suối tắm, như cách người các dân tộc khác vẫn làm, chỉ có cái khác là tắm trong nhà và tắm nước ấm. Tôi cũng có hỏi chị Lê Thị Duyên, người bản Búng chuyện này. Chị Duyên năm nay mới có 25 tuổi nhưng đã có 3 con. Chị Duyên lấy chồng từ khi 13 tuổi. Chị Duyên bảo. Thấy mấy đứa nó lấy chồng. Hôm đi thi, nó (ý nói chồng) đưa đi thi xong thì cưới. Khi hỏi. Có hay không chuyện khi sinh xong, người Đan Lai đem trẻ ra suối tắm? Chị Duyên trả lời rất hồn nhiên: Có chứ. Phải tắm chứ. Sống ở rừng, đứa nào khỏe thì sống. Đứa nào chết thì thôi. Con đẻ ra được mà. Tôi lại hỏi. Bây giờ, khi đẻ con, người Đan Lai còn làm thế không? Chị Duyên cười, trả lời gần như phản xạ tự nhiên, không cần nghĩ gì: Bộ đội Biên phòng bảo rồi. Không tắm suối nhưng vẫn tắm ở nhà. Thế tắm nước gì? Còn tắm nước suối không? Chị Duyên lại nói gần như không cần nghĩ. Tắm nước suối thôi.

Có vợ chồng La Văn Sinh cũng người bản Búng, ngồi đó. Vợ chồng La Văn Sinh năm nay cũng mới có 24 tuổi nhưng đã “kịp” có 2 con. Như để khẳng định việc chị Duyên nói, vợ chồng La Văn Sinh góp chuyện: Ở rừng, muốn sống được phải khỏe chứ. Nếu không khỏe thì cũng chết thôi. Lúc đó chết lại thành con ma, sợ lắm.

Lý  giải về việc này, Trần Đức Lưu, Thiếu tá, Bác sĩ của Tổ công tác Biên phòng cắm bản cho biết. Do sống quá lâu trong môi trường rừng núi, tách biệt với cộng đồng con người. Việc sống chết, bệnh tật đều hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên. Những tập tục trên như một sự chọn lọc của tự nhiên vậy. Để có thể tồn tại được trong môi trường cuộc sống khó khăn, đói khổ, người Đan Lai chỉ còn biết dựa vào chính khả năng đề kháng và thích nghi của mỗi cá thể trong cộng đồng. Rồi như một sự chia sẻ, anh Lưu bảo: Rất may, trong suốt bao năm qua, tộc người Đan Lai không có dịch bệnh. Nếu có dịch bệnh, chắc chả còn được số dân như hiện nay. Điều anh Lưu nói là hoàn toàn chính xác. Những năm tháng đã qua, nếu chẳng may tộc người Đan Lai chỉ cần “dính” một dịch bệnh nào đó, không biết điều gì đã xảy ra. 

* Chuyện “Thường Ngày” Ở Bản.

Sống trong rừng sâu, chỉ có núi và rừng, đất canh tác chủ yếu là đất nương cũng rất  ít. Hiện nay, cả bản Búng có 87 hộ 436 khẩu song diện tích đất canh tác cũng chỉ có chưa đầy 10ha. Cộng thêm vào những khó khăn về đất canh tác là giống lúa. Cũng trải qua hàng trăm năm nay, vẫn giống lúa cũ nên hiện tượng “lại giống”, năng xuất rất thấp. Nguồn lương thực chính của đồng bào là sắn. Ngô cũng chỉ trồng được rất ít. Khi vào nhà trưởng bản Lê Văn Khai, tôi thấy cũng chỉ có khoảng 15 đến 20 bắp ngô treo trên gác bếp để làm giống. Người Đan Lai cũng có trồng kê song cũng như ngô. Chủ yếu là trồng xem vào nương sắn nên năng xuất cũng rất thấp. Riêng khoai người Đan Lai không trồng. Việc canh tác của tộc người Đan Lai dựa 100% vào tự nhiên.

Tôi có hỏi trưởng bản Lê Văn Khai. Tại sao có đất lại không trồng ngô mà chủ yếu trồng sắn? Trưởng bản cười trần tình. Trồng cây sắn, lũ trẻ không ăn sống được. Trồng ngô, khi mới có bắp chúng đã bẻ về luộc ăn rồi. Ngay cây khoai cũng thế. Trước đây người Đan Lai cũng có trồng khoai nhưng khi cây khoai vừa mới lên, các gia đình đã hái ngọn, lá về ăn, nếu có được, củ mới chỉ bằng ngón tay, lũ trẻ đã bới lên ăn sống. Thế là cái đói cuốn hết cả giống khoai.

Đại úy Võ Văn Quỳnh, có kể. Ngày đầu tiên khi anh em vào cắm bản. Thổi đến ba lần cơm mới được ăn. Khi anh em thổi cơm, các cháu nhỏ trong bản kéo đến đứng quây bốn xung quanh. Thế là anh em nhường cho các cháu ăn trước. Thổi lần hai, thấy các cháu còn đói, anh em lại nhường cho các cháu ăn tiếp. Khi các cháu đã được ăn no, bỏ đi chơi, anh em mới thổi tiếp lần thứ ba để lấy cơm ăn. Mà cơm của tổ công tác cũng chỉ có rau rừng và cá khô.

Có  một chuyện mà khi nghe xong, lòng tôi cứ xót xa không nói nên lời. Câu chuyện thật buồn và thật khổ. Ngày đầu, khi anh em tổ công tác vào cắm bản. Quá trưa, có mấy người phụ nữ ôm một ôm to cành sung và cành ổi vào xin bát muối. Tưởng bà con xin làm gì nên anh em lấy ra bát muối to. Ai ngờ. Mấy người phụ nữ đó vặt lá sung, lá ổi chấm muối để ăn cho đỡ đói.

Khi tôi và nhà thơ Đỗ Hoàng ngồi nói chuyện với mấy thầy cô dạy ở điểm trường bản Búng thuộc Trường Tiểu học cơ sở 3 Môn Sơn. Thấy có cây sung to cỡ ba bốn người ôm không hết gốc. Nghĩ, cây sung to thế, gặp bão gió, lốc, lũ, chẳng may bị gãy, rơi đổ xuống lớp học thì nguy hiểm. Thày Phan Anh Thống, người có thâm niên lâu nhất dạy học ở đây bảo: Nguồn sống của người dân và trẻ con cũng như của các thầy cô giáo ở đây đấy. Tìm hiểu kỹ mới biết. Khi đói, thậm chí trong giờ ra chơi hay trước khi chào cờ, các cháu học sinh lại leo lên cây sung đó hái quả để ăn. Còn các thầy cô giáo, lấy lá để muối dưa thay cho rau xanh. Nghe chuyện, tôi vỡ ra, tại sao dọc bờ sông Giăng, có rất nhiều cây sung to, cỡ vài ba đến hàng trăm năm tuổi lá cứ xanh rờ rỡ. Những cây ổi mọc hoang dại hai bên bờ, trên sườn dốc ngay cạnh lối đi không có ai chặt gốc hay có cành cây gãy.

Khi ngồi trao đổi với anh em cán bộ Biên phòng trong tổ  công tác cắm bản. Tôi được biết thêm. Khoảng chục năm trước đây, có phong trào thu mua song, mây nên đời sống bà con có đỡ hơn. Bây giờ song, mây cũng đã vãn, người dân chủ yếu dựa vào nguồn thu hoạch từ măng. Khi chúng tôi vào bản, đang là mùa măng nứa rộ lên. Cả bản đi vào rừng lấy măng. Sáng, vợ chồng đưa nhau vào rừng đào măng đến lưng lửng chiều về. Mỗi ngày như thế, thu được khoảng 7 đến 8kg măng tươi. Sau khi chế biến còn được hơn 2kg măng khô. Mỗi cân măng khô, hiện thời giá bán được khoảng 40.000 đồng. Tôi có hỏi thời gian khai thác măng nứa. Mọi người nói cũng chỉ rộ lên được 1 đến 2 tuần là hết. Giống măng mọc nhanh nên khi cây măng cao là không thể khai thác được nữa. Lúc đó lấy về, măng rất đắng, không thể ăn được. Tiền kiếm được từ bán măng, người Đan Lai lại dồn hết vào mua rượu. Một đám cưới, người Đan Lai có thể kéo dài đến 20 ngày. Trong 20 ngày đó, thức ăn chủ yếu là trái cây và rau xanh và … uống rượu. Tục uống rượu “liền tù tì” vài ba ngày, thậm chí cả tuần, cả tháng của người Đan Lai cũng vì sống trong rừng, lạnh, uống rượu cho “nóng” người. Và nếu không uống rượu, người Đan Lai cũng chả có lấy cái gì để vui chơi giải trí cả.

Buổi tối, khi tôi và nhà thơ Đỗ Hoàng cùng anh em trong tổ công tác đang ngồi ăn cơm thì  có 2 người thanh niên ở bản Búng lên. Vừa nhìn thấy 2 thanh niên, Võ Văn Quỳnh đã nói ngay: Có  chuyện gì nói đi còn để giải quyết. Hai thanh niên nói tiếng dân tộc và lại nói nhỏ nên tôi không nghe được. Hỏi lại, anh Trần Đức Lưu. Anh Lưu “phiên dịch” lại. Một người là con, một người là cháu. Nói là mẹ, bà của họ uống rượu ba ngày hôm nay. Hiện giờ sắp chết. Tay chân co quắp lại rồi. Vừa bưng bát cơm, anh Lưu vội buông bát buông đũa. Khoác chiếc túi quân y lên vai. Tối đó tôi thức đợi cho đến khi Lưu từ bản về. Lưu nói lại. Ở bản, bà Lê Thị Minh, không có cái ăn, đói quá, uống rượu 3 ngày liên tục bị hạ đường huyết. Khi Lưu xuống đến bản, bà Minh đã dãn đồng tử, chân, tay co giật, bắt “chuồn chuồn”. Sau khi tiêm cho bà Minh mũi can xi, truyền huyết thanh bà Minh đã dần dần hồi tỉnh. Anh Lưu cho biết thêm. Ở bản Búng còn có trường hợp, uống rượu say, chửi con nhiều đến mức, căng cơ mặt, co kéo, dãn cơ, sái quai hàm cơ năng. Hoặc cũng uống rượu say, chả biết đứng nằm thế nào mà để cho ốc sên chui cả vào hậu môn. Ở với dân đã lâu, gặp những chuyện như trên cũng nhiều nên Trần Đức Lưu bảo: Chuyện thường ngày ở bản Búng mà anh.  

3: HỒI SINH MỘT TỘC NGƯỜI

Khi ngồi trao đổi với anh Nguyễn Ngọc Minh, Thượng tá,  Chính trị viên đồn Biên phòng Môn Sơn về tộc người Đan Lai. Anh Minh tâm sự: Từ tháng 12 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 280/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Bảo tồn và phát triển bền vững tộc người thiểu số Đan Lai hiện đang sinh sống tại vùng lõi Vườn Quốc gia Pù Mát, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An” rồi. Hiện nay các ban ngành của Nghệ An đã dốc sức vào thực hiện. Thực hiện được đề án của Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thì đây thực sự là một cuộc hồi sinh cho tộc người Đan Lai. Nhưng, để có được sự hồi sinh ấy cũng là cả một quá trình vất vả, đẫm mồ hôi, thậm chí đổ máu của người lính Biên phòng. 

* Hồi Sinh.

Theo Thượng tá Nguyễn Ngọc Minh, vào những năm 1960, trong khi làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới, đội tuần tra của đồn Công an nhân dân vũ trang Môn Sơn, nay là Bộ đội Biên phòng đã phát hiện có một tộc người “lạ” sống trong rừng sâu. Ngày đó, do khu vực rừng Pù Mát phỉ Vàng Pao còn lén lút hoạt động. Cộng vào đó, khu vực này cũng là nơi Mỹ - ngụy tung các toán gián điệp biệt kích để xâm nhập nên địa bàn giáp biên giới giữa hai nước Việt Nam và Lào tương đối phức tạp. Phần nữa, tộc người này cứ thấy bóng dáng bộ đội là lại tìm cách bỏ trốn. Họ vẫn nghĩ đó là quân binh của triều đình đi tìm bắt họ về trị tội vì thế mà việc tiếp cận được với dân là vô cùng khó khăn. Trong giai đoạn này, gần như trong cánh rừng Pù Mát nơi nào cũng có dấu chân của tộc người Đan Lai. Thượng tá Nguyễn Ngọc Minh còn cho biết: Ngay bây giờ, trong khu vực các khe Tò Tò, khe A, khe B (các khu vực này cách bản Búng gần 2 ngày đường) vẫn còn lưu lại dấu vết của tộc người Đan Lai. Rừng rậm, núi cao, khe sâu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới, chống gián điệp biệt kích, chống phỉ Vàng Pao xâm nhập luôn đòi hỏi cán bộ chiến sĩ đồn Môn Sơn phải căng sức ra mới có thể hoàn thành. Cũng chính vì thế mà đời sống của tộc người Đan Lai gặp rất nhiều khó khăn và thiếu thốn.

Cũng theo Thượng tá Nguyễn Ngọc Minh cho biết, khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới, cán bộ chiến sĩ đồn Biên phòng Môn Sơn đã tìm mọi cách để có thể tiếp cận được với tộc người Đan Lai. Cán bộ chiến sĩ đồn Biên phòng Môn Sơn đã lặn lội cùng ngủ hang, ngủ rừng, cùng ăn măng ăn sắn với đồng bào. Để có thể tiếp cận được với đồng bào, để đồng bào không “trốn chạy” khi thấy bóng dáng của người lính, cán bộ chiến sĩ của đồn đã phải “hóa thân” thành những “người” như Đan Lai. Cứ thế. Một ngày, hai ngày rồi ba ngày. Một tháng, hai tháng rồi ba tháng. Khi người Đan Lai thấy những “người” mặc sắc phục xanh trở nên quen thuộc, không định “bắt” mình để về trị tội thì lúc đó anh em mới tiếp xúc được với dân. Cũng chính nhờ có sự tiếp cận và quản lý của đồn Biên phòng Môn Sơn nên hiện nay, tộc người Đan Lai đã biết nói tiếng Kinh, các tập tục như ngủ ngồi, tắm cho trẻ sau sinh, trồng lúa nước cũng đã từng bước được khắc phục và phục hồi trở lại.

Có một câu chuyện mà cho đến bây giờ, không chỉ tộc người Đan Lai mà tất cả người dân ở xã Môn Sơn còn nhớ về sự hy sinh của người lính Biên phòng trong việc đưa tộc người Đan Lai trở lại với cộng đồng.

Để có bước hồi sinh đến với tộc người Đan Lai, máu của người lính Biên phòng đã đổ. Trong một chuyến lên với đồng bào, Thiếu úy Trần Hồng Thanh đã hy sinh. Năm 1996, lần đó, khi nghe tin dự báo thời tiết có chiều hướng xấu, thấy tộc người Đan Lai thường ở bên suối, nếu lũ về là gặp nguy hiểm, đồn Biên phòng Môn Sơn đã cử đội công tác lên cắm bản để bảo vệ an toàn tính mạng cho đồng bào. Đang trên đường đi, chẳng may lũ về sớm, Thiếu úy Trần Hồng Thanh đã bị lũ cuốn trôi, 3 ngày sau đồng đội mới tìm được xác anh. Rồi cũng một lần khác, khi triển khai đội công tác vào bản để nắm tình hình địa bàn, 2 chiến sĩ cũng đã hy sinh vì bị nước lũ cuốn trôi.

Sự  hy sinh của Thiếu úy Trần Hồng Thanh và người lính Biên phòng đã làm cho tộc người Đan Lai có cái nhìn mới về chính cuộc sống của mình, về sự hy sinh của người lính với chính sự tồn tại và phát triển của tộc người mình. Và cũng bắt đầu từ đó, tộc người Đan Lai mới tin vào những gì người lính làm, tin vào những điều người lính nói. Cũng bắt đầu từ đó, tộc người Đan Lai đã không còn dịch cư, không còn trốn chạy, không còn sống lang thang trong các khe núi, thung sâu. Một sự hồi sinh của cả tộc người Đan Lai bắt đầu.

* Những Nỗi Lo Còn Đó.

Khi trao đổi cùng Đại tá Trần Minh Công, Chủ nhiệm Chính trị Bộ đội Biên phòng Nghệ An về  các công việc để đưa tộc người Đan Lai hòa nhập trở lại với cộng đồng. Đại tá Trần Minh Công cho biết. Để bảo tồn và sớm đưa tộc người Đan Lai hòa nhập cộng đồng, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng Nghệ An đã xây dựng kế hoạch và báo cáo Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng. Được Bộ Tư lệnh chấp nhận và cho chủ trương chỉ đạo, Bộ chỉ huy Biên phòng Nghệ An đã lập 2 tổ công tác, mỗi tổ gồm 6 đồng chí lựa chọn những đồng chí có kinh nghiệm, dày dạn trong công tác, thạo việc làm ruộng, dựng nhà. Mỗi tổ còn có một đồng chí quân y giỏi chuyên môn để có thể trực tiếp giúp dân khám chữa bệnh và hướng dẫn dân biết giữ gìn vệ sinh trong ăn ở và sinh hoạt.

Muốn giữ dân, trước hết là phải lo cái ăn, dân không còn đói. Hiện nay, Bộ Tư lệnh Biên phòng hỗ trợ lương thực 1 năm cho các hộ tộc người Đan Lai. Theo chương trình, 6 tháng đầu sẽ hỗ trợ mỗi khẩu 7kg gạo để chống đói/tháng, còn 6 tháng sau hỗ trợ 3,5kg nhưng tình trạng đói trong dân vẫn chưa được khắc phục triệt để. Khi chúng tôi vào bản, được biết. Hiện tại số gạo hỗ trợ của Bộ Tư lệnh Biên phòng đã được trực tiếp các tổ công tác cắm bản cấp đến từng hộ song thói quen uống rượu vẫn chưa được khắc phục. Gạo cấp hỗ trợ chống đói, dân vẫn lấy đi đổi rượu để uống. Vì thế mà gạo cấp hỗ trợ chống đói mà dân vẫn đói hoàn đói.

Bên cạnh việc chống đói, các tổ công tác cắm bản cũng đã đưa giống lúa mới vào và trực tiếp làm, hướng dẫn cho dân biết cách sản xuất. Song hiện nay, tất cả vẫn chỉ do người lính làm. Có chuyện. Ngay trước cửa nhà ở của đội công tác có mấy vạt đất. Sau khi anh em trong tổ đã khai hoang làm thành ruộng lúa nước. Mạ đã gieo, đất đã cầy, bừa, chỉ còn mỗi việc cấy cây lúa xuống rồi bón phân, khơi nước vào ruộng dân cũng không chịu làm. Có mảnh ruộng, thấy đang làm đòng, nước cạn, ruộng khô nên bị nghẽn đòng không trổ được. Tôi hỏi anh em trong tổ công tác thì mới hay. Ruộng đó là của nhà phó bản Búng. Ruộng này từ cầy cấy, gieo mạ đều do anh em trong tổ công tác hướng dẫn và trực tiếp làm. Chỉ còn mỗi việc khơi nước vào ruộng nhưng phó bản cũng không làm. Buộc lòng anh em phải lên tận bản, “áp” xuống, dí cuốc tận tay thì lúc đó phó bản mới làm. Thói quen trông chờ vào các dự án của người dân là rất nặng nề.

Không những thói quen trông chờ vào dự án mà tình trạng người dân Đan Lai trong canh tác không hề biết bón phân hay chăm sóc. Cũng vì chỉ biết khai thác mà không được thường xuyên cung cấp các loại phân hữu cơ nên chất đất ở đây gần như bạc mầu đến mức hoang hóa trở lại. Xục tay xuống ruộng lúa, tôi chỉ thấy một lớp đất rất mỏng mềm mềm trên mặt còn phía dưới đất rất rắn. Cây lúa không thể nào cắm rễ xuống được. Lại còn có chuyện. Anh em trong tổ công tác cử người về dưới xuôi lấy giống lúa nhưng dân cứ nhất quyết trồng giống lúa cũ đã bị lại giống. Nếu cứ yêu cầu làm giống lúa mới là cả bản “dọa” sẽ bỏ đi. Thế là anh em lại đành phải làm để cho dân có “cái đối chứng” rồi làm theo. Tất nhiên, chuyện đưa giống lúa mới vào cũng đã có chuyện xảy ra. Ấy là khi phòng nông nghiệp huyện Con Cuông đưa giống lúa mới nhưng vì giống lúa đó không chịu được sâu rầy nên khi cây lúa lên cao thì bị sâu hại chết hết. Sau đận đó, dân cứ gieo giống lúa “xưa” cho chắc.

Không chỉ chuyện canh tác, tộc người Đan Lai hiện tại còn rất nặng tục tảo hôn. Con gái tộc người Đan Lai, 13 tuổi mà chưa lấy chồng coi như “ế”. Và đặc biệt, tộc người Đan Lai chỉ lấy người trong tộc người mình nên hôn nhân cận huyết thống đã và đang diễn ra tại đây. Theo tục người Đan Lai, chỉ cần khác họ là có thể lấy nhau. Thực ra, họ Lê và họ La cũng chỉ là từ một gốc mà ra. Cũng chính vì tình trạng này mà chuyện con anh trai lấy con em gái là thường. Vì hôn nhân cận huyết thống nên hầu như trẻ em ở tộc người Đan Lai thường yếu và thiểu năng trí tuệ. Khi chúng tôi trao đổi với các thầy cô giáo ở điểm trường tiểu học bản Búng thì mới biết. Do tình trạng hôn nhân cận huyết thống, khả năng tư duy cũng như lĩnh hội kiến thức của học sinh tộc người Đan Lai rất khó khăn. Khi tôi hỏi chị Lê Thị Duyên, người đã học hết lớp 5 rằng, bây giờ có thể đọc được báo không? Chị Duyên không trả lời, chỉ cười. Ngay các thày cô dạy ở đây cũng cho biết: Chỉ mong các cháu ở đây đọc được, đếm được, cộng trừ được đã là mừng lắm rồi. Do đời sống quá khó khăn nên sau khi học chỉ vài ba năm, hiện tượng mù chữ trở lại là phổ biến.

Hiện tại Chính phủ đã có chương trình tái định cư cho người Đan Lai về sau để bảo tồn và  ổn định cuộc sống. Nhưng số hộ đã được chuyển về 2 bản tái định cư vẫn tìm đường để trở lại vùng lõi rừng quốc gia Pù Mát. Việc dân tìm cách trở lại nơi ở cũ không phải chỉ do thói quen sinh hoạt và tập tục kéo dài bốn năm trăm năm nay mà do các dự án. Các hộ ở vùng lõi rừng quốc gia Pù Mát được hưởng lợi từ các dự án là tương đối nhiều. Chính các dự án đầu tư đã tạo cho tộc người Đan Lai tính toán thiệt hơn. Vì thế, khi tôi và nhà thơ Đỗ Hoàng nói chuyện tái định cư, già bản Lê Văn Khai nói chắc như dao chém đá: Ai đi thì đi chứ già không “chạy” nữa đâu.

Để  đưa dân hòa nhập về lại cộng đồng, các tổ công tác đã tìm nhiều biện pháp nhưng xem ra, đâu vẫn đóng đó. Trước mắt, để dân không đói, theo anh Trần Minh Công, Bộ chỉ huy Biên phòng Nghệ An có chủ trương sẽ cấp gạo từng bữa cho dân thông qua các tổ công tác cắm bản để khắc phục tình trạng, gạo hỗ trợ cho dân đem đổi lấy rượu uống. Khi lo xong cái ăn, sẽ tập trung mua sắm phương tiện cho dân sản xuất. Hiện tại, ngoài cái dao, cái cuốc, các phương tiện sản xuất khác không có. Khi dân biết canh tác trở lại, anh em sẽ tập trung cung cấp cây, con giống. Theo chỗ chúng tôi được biết. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có cấp cho mỗi bản Búng và Cò Pạt 5 con bò. Để có thể nhân rộng được đàn bò, anh em phải cho nuôi tập trung vì sợ phân theo hộ, khi đói lại “ăn” hết cả giống như cây khoai.

Song song với chuyện lo ăn, lo làm, anh Công cũng cho biết thêm là sẽ tập trung vận động các gia đình cho con theo học các lớp trên để tạo “nguồn” sau này cho các bản. Hiện tại, đã có một gia đình gửi con đi học trường thiếu sinh quân và một người đã được cử đi học ở trường lâm nghiệp. Anh Công nói hình ảnh: Đây sẽ là cái rễ để bám được vào đất rừng Pù Mát cho mai sau. 

* Thay Lời Kết.

Hiện nay, Nhà nước đã đầu tư 118 tỷ để mở đường đến bản Cò Pạt. Đây chính là “cơ hội” để tộc người Đan Lai hòa nhập với cộng đồng nhanh hơn. Vì hiện tại, muốn vào được đây, chỉ có con đường duy nhất là ngược 47 thác sông Giăng. Mà vào được đây cũng phải lựa khi thời tiết thuận lợi, còn nếu không, chuyện lũ cuốn trôi, thác lật phương tiện dễ như trở bàn tay. Khi trao đổi với Đại tá Nguyễn Văn Túy, Chính ủy Bộ đội Biên phòng Nghệ An về các chương trình hòa nhập cộng đồng cho tộc người Đan Lai. Anh Túy khẳng định: Khó khăn còn nhiều, vất vả còn nhiều, song được sự quan tâm của các ban ngành từ Trung ương đến địa phương, nhất là được sự quan tâm của Bộ Tư lệnh Biên phòng, việc bảo tồn tộc người Đan Lai sẽ nhất định thành công.

Vâng. Tôi rất mong như thế. Dẫu biết rằng, để hồi sinh một tộc người, để đưa một tộc người đã  “tự quên lãng” hàng mấy trăm năm như tộc người Đan Lai trở lại với cộng đồng là cả quá trình mà không những chỉ mồ hôi mà thậm chí máu của các anh sẽ còn phải đổ.

Cái giá của sự hồi sinh bao giờ cũng thật lớn./.

“ĐẠO VÀNG CHỨ” 

NHỮNG HỆ LỤY … BUỒN

LÙ PHÒ KHƯƠNG

      Mấy năm gần đây, cái gọi là “đạo Vàng Chứ” phát triển rất nhanh trên địa bàn các xã biên giới tỉnh Điện Biên. Đi kèm với truyền “đạo Vàng Chứ” là “vấn nạn” di cư tự do của đồng bào Mông. Hiện tại đã có 16/24 xã biên giới có “đạo Vàng Chứ” và có tới 17.793 người theo đạo này. Điều đáng lo ngại, cùng với hoạt động đạo và di cư tự do là tình trạng bỏ sản xuất, phá rừng, đốt nương, cô lập những người không theo đạo. Thậm chí những đối tượng theo đạo còn sử dụng vũ khí nóng đối với những người không theo đạo. Tình hình trên không chỉ làm cho các hộ người Mông nghèo càng thêm nghèo mà kéo theo các tệ nạn xã hội như buôn bán vận chuyển ma túy, nghiện hút, trộm cắp được “đất” phát triển. Các địa bàn có truyền “đạo Vàng Chứ” luôn là điểm nóng trên tuyến biên giới Điện Biên. 

1. VÀNG CHỨ LÀ AI?

Năm 2010, trên địa bàn biên giới của tỉnh Điện Biên có 24 xã  với 255 hộ/ 1412 khẩu chủ yếu là dân tộc Mông di cư từ các tỉnh Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Lai Châu…đến. Kèm theo hoạt động di cư tự do, là những hoạt động tuyên truyền đạo trái pháp luật. Tình trạng trên không chỉ làm gia tăng hộ đói nghèo luôn ở mức “kỷ lục” từ 60% đến trên 70% mà còn làm cho tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội có chiều hướng phức tạp. Mặc dù đói, khổ, nghèo nhưng người dân vẫn bỏ lao động sản xuất vào các ngày thứ 5, thứ 7 và chủ nhật để cầu nguyện. Bởi “Vàng Chứ” nói với họ rằng, nếu ai theo “Vàng Chứ”, chịu khó cầu nguyện thì sẽ được no ấm?

* Cái Gọi là “đạo Vàng Chứ”.

Để tìm hiểu về “đạo Vàng Chứ”, chúng tôi đã đến các bản người Mông trên tuyến biên giới. Qua tìm hiểu, một số người dân tộc Mông ở Điện Biên cho biết. Vàng Chứ là người trần mắt thịt, ở xa, rất xa. Nhưng khi được hỏi, ở xa là ở đâu thì gần như chỉ nhận được câu “Chư pâu” (Không biết). Vàng Chứ có giàu không? Lại chư pâu. Thế Vàng Chứ đã cho dân gì chưa? Vẫn lại câu nói cửa miệng: Chư pâu. Cũng có một số người chỉ tay lên trời. Ý nói, đó là nơi Vàng Chứ ở. Cũng có một số người Mông khác lại cho biết. Vàng Chứ là ông vua của người Mông được trời cử xuống. Ai theo Vàng Chứ thì sống, ai không theo Vàng Chứ thì chết. Hỏi một số người dân tộc Mông đang theo “đạo Vàng Chứ”: Vì sao không theo Vàng Chứ thì chết? Không ngần ngại, tất cả mọi người đều nói một ý rất giống nhau. Sắp tới sẽ có lũ lụt, sạt núi. Ai không theo sẽ bị mưa lũ cuốn đi. Ai theo thì được Vàng Chứ cứu giúp, tránh được thiên tai lũ lụt. Mọi người còn cho biết thêm. Ai có tiền hay vàng bạc cho Vàng Chứ vay, sau này Vàng Chứ sẽ trả gấp mười. Cứ theo đồng bào dân tộc Mông thì Vàng Chứ quả là người có sức mạnh siêu nhiên. Cái gì Vàng Chứ cũng biết, điều gì Vàng Chứ cũng làm được. Vàng Chứ có thể đoán định được cả sự thay đổi của tự nhiên, xã hội và tư duy. Đi theo Vàng Chứ, gửi gắm niềm tin vào Vàng Chứ sẽ có cuộc sống hạnh phúc đủ đầy. Hay nói một cách khác, Vàng Chứ là chúa của người Mông, một nhân vật siêu nhiên sẽ mang đến cho người Mông thoát đói nghèo, vất vả.

Để tìm hiểu thêm về Vàng Chứ, chúng tôi có tham khảo thêm một số tài liệu khác về “đạo Vàng Chứ”. Trong trang http://www.vi.wikipedia.org thì được biết, “đạo Vàng Chứ” là một thứ đạo do Vàng Pao, một tướng phỉ sau khi bị thất trận chạy sang Mỹ dựng nên nhằm mục đích chống cộng trên cơ sở đạo Tin lành. Sau khi tổ chức phỉ của Vàng Pao bị lực lượng cách mạng Lào tiêu diệt, Vàng Pao chạy sang Mỹ và ở đây, Vàng Pao đã dựng lên cái gọi là “đạo Vàng Chứ” để mê hoặc, lôi kéo những người Mông với dụng ý tập hợp lực lượng.

Cũng theo một nguồn thông tin khác, chúng tôi có được. Vàng Chứ xuất phát từ nguyên gốc có tên nghĩa trong tiếng Mông là Vương Chủ. Nghĩa là vua của người Mông. Vào năm 1978, đài phát thanh Châu Á  tự do, có đặt trung tâm phát sóng ở nước ngoài bắt đầu xuất hiện chương trình phát sóng tuyên truyền về “đạo Vàng Chứ”. Trong chương trình phát sóng, có đề cập đến việc ra đời của Vàng Chứ. Theo đài này, Vàng Chứ là con của đức chúa trời với người con gái Mông. Vì trái đất sắp đến ngày tận thế, xảy ra trận đại hồng thủy nên chúa trời đưa Vàng Chứ xuống trần gian để cứu giúp người Mông. Khi nào, trái đất xảy ra đại hồng thủy sẽ được Vàng Chứ cho đôi cánh bay lên trời thoát nạn. Đã có một thời gian, các bản người Mông theo “đạo Vàng Chứ” làm những “chiếc cánh” như cánh diều rồi “tập bay” là như thế.

* Những Tài Liệu của Vàng Chứ.

Khi chúng tôi vào xã Nà Hỳ, huyện Mường Nhé,  Điện Biên có được 3 tài liệu mà theo đồng bào Mông thì đó là “kinh thánh” của  “đạo Vàng Chứ”. Gồm: Quyển 1 là “Những lời nói của Vàng Chứ để cứu người”, in khổ 13x19cm, bìa nilon mầu nâu, dày 1470 trang. Quyển 2 là: “Nghe bài hát của chúa Giê su”, in khổ 10x14,5cm, quyển này phô tô, dày 164 trang. Và quyển thứ 3 là “Những người lắng nghe chúa Giê su hát thánh ca” cũng in khổ 10x14,5cm, dày 345 trang. Trong số các quyển sách chúng tôi có được, có quyển 2, quyển “Những bài hát của chúa Giê su” được phô tô là có ghi nguồn gốc từ La Mirada, CA. 90637, được in ở Korea (Hàn Quốc) từ năm 1996. Còn các cuốn khác đều không có nơi in, không nơi xuất bản, không năm phát hành, và không có ai chịu trách nhiệm về việc in ấn các tài liệu này. Có hỏi cũng chỉ được biết, do một số người theo “đạo Vàng Chứ” tự phong là “trưởng đạo” xuống Hà Nội mang về. Ngoài quyển phô tô chất lượng giấy không được tốt, còn các quyển khác, chất lượng giấy và chất lượng in rất tốt. Dẫu là quyển phô tô hay quyển in từ nước ngoài, tất cả các cuốn sách này đều in theo tiếng Mông hệ chữ la tinh mà nhiều người quen gọi là chữ Mông la tinh.

Để  đọc được các cuốn sách này, hầu hết những người các dân tộc khác không thể đọc được. Ngay một số người dân tộc Mông theo “đạo Vàng Chứ” cũng không biết đọc. Số người đọc được hầu hết là thanh niên. Họ học từ bao giờ cũng không ai biết chỉ đoán họ được học qua các buổi truyền đạo và học truyền nhau mà thôi. Có một số người chữ viết phổ thông không biết, nếu có biết thì phát âm và đánh vần, đọc cũng rất chậm nhưng có thể đọc gần như “thuộc làu” những quyển sách trên. Tất nhiên, ý nghĩa của những vấn đề viết và in trong đó, chỉ có người Mông hiểu, còn nếu dịch ra nghĩa tiếng phổ thông thì hầu như là “vô cùng khó khăn”, chỉ là hiểu ý ý của nó mà thôi. Ngay Thiếu tá Lầu A Tú, Chính trị viên phó đồn Biên phòng Nà Hỳ, cũng là người dân tộc Mông nhưng cũng không đọc được các tài liệu trên. Thiếu tá Lầu A Tú cho rằng, những chữ in trên tài liệu này là do phiên âm tiếng Mông sang chữ viết la tinh nên rất ít người biết được.

Chúng tôi nhờ Binh nhất Hờ A Nếnh, người dân tộc Mông ở xã Mường Pồn, huyện Điện Biên, hiện là chiến sĩ của đồn Biên phòng Nà  Hỳ đọc và dịch một số đoạn trong cuốn sách mà theo Nếnh đó là cuốn “Những người lắng nghe chúa Giê su hát thánh ca”. Bản thân Hờ A Nếnh cũng có một số từ đọc được song không hiểu nghĩa mà phải nhờ Thiếu tá Lầu A Tú, Chính trị viên phó của đồn dịch hộ. Có một số câu, số từ, cả Thiếu tá Lầu A Tú và Binh nhất Hờ A Nếnh phải trao đổi với nhau bằng tiếng Mông mới tìm ra được ý của câu đó, từ đó và đoạn đó. Theo lời đọc và dịch từ cuốn sách đó, chúng tôi ghi lại đại ý như sau: “Vàng Chứ là ngôi sao trên trời. Mặt trời, mặt trăng cho Vàng Chứ thức ăn. Chúa Giê su trên cao tất cả… Cả thế giới là của chúa Giê su. Chúa Giê su đi khắp nơi để chia sẻ với những nỗi khổ của người dân nghèo. Mọi lỗi lầm, sai trái sẽ được chúa Giê su bỏ qua. Rồi chúa Giê su lại đi cùng biển, cùng trời, cùng đất. Đến hẹn chúa Giê su lại về. Chúa gặp linh hồn của mọi người trên trời cao. Chúa Giê su sẽ cho mọi người có được ba bữa cơm gạo…”.

Sau khi Hờ A Nếnh đã đọc và dịch hộ một số tài liệu trên, chúng tôi tranh thủ hỏi Binh nhất Hờ A Nếnh về việc tại sao lại đọc được các chữ trên? Hờ A Nếnh đã học được từ đâu? Một chút ngần ngại rồi Hờ A Nếnh cười, bẽn lẽn bảo: Học ngày trước, khi ở quê. Theo chúng bạn đi xem cầu nguyện nên biết. Và có những câu, nghe mãi nên thuộc, kiểu như người ta học hát ấy. Không biết chữ nhưng vẫn có thể hát được.

Khi chúng tôi hỏi những người theo đạo về 28 tín  điều căn bản trong giáo lý của đạo Tin lành như: Thượng đế ba ngôi; Hội thánh; Nghi lễ Báp têm; Lễ tiệc thánh; Ngày Sa bát .v.v. Hầu như 100% số  người được hỏi đều không biết. Với họ, tất cả đều từ người rao giảng tự tạo ra. Và họ cũng không biết đó là gì và có cái gì phải tuân theo, làm theo.   

Như  vậy, “đạo Vàng Chứ” là không có thật, chỉ  là một thứ giáo lý mà những thế  lực thù địch dựng lên để lôi kéo và tập hợp nhân dân. Lợi dụng vào sự hiểu biết, nhận thức hạn chế và đời sống vật chất còn khó khăn của đồng bào Mông để lừa phỉnh, mê hoặc. “Đạo Vàng Chứ” thực ra là sự “cải biến”, “xuyên tạc” đạo Tin lành, lợi dụng vào đạo Tin lành “làm ra” thứ đạo của riêng mình. 

2. “ĐẠO VÀNG CHỨ” VÀ NHỮNG HỆ LỤY … BUỒN 

  NHÀ NGUYỆN VÀ NHỮNG GIÁO LÝ.

Có  một thực tế, đa số  những người theo “đạo Vàng Chứ” là  những người Mông di cư  từ nơi khác đến. Và  hình như, khi người Mông di cư  từ nơi khác đến thì “mang theo” đạo Vàng Chứ đi cùng. Còn những người chưa biết đến “đạo Vàng Chứ” thì khi di cư đến, “đạo Vàng Chứ” lại “đến” và xâm nhập. Hiện tại, trên 16 xã biên giới của Điện Biên, có tới 17.793 người theo đạo. Số người theo đạo được phân làm 4 nhánh khác nhau. Song dù chia ra nhiều nhánh khác nhau như thế song giáo lý mà mọi người cầu nguyện vẫn chỉ là các tài liệu mà theo mọi người cho biết đó là “kinh thánh” của Vàng Chứ?

* Nhà Nguyện.

Chọn ngày chủ nhật, chúng tôi vào bản Cà Là Pá, nơi tình hình truyền “đạo Vàng Chứ” đang nổi lên phức tạp. Chúng tôi gặp phải ngày trời mưa. Bây giờ tiết trời đang là cuối xuân. Quan sát hai bên đường, chúng tôi thấy, trên các sườn đồi thấp, có một số người Mông đang cuốc đất làm nương. Trên mảnh đất rộng chừng 2ha, có tới 175 hộ người Mông sinh sống. Trong số 175 hộ trên có tới 135 hộ di cư đến, chưa có hộ khẩu. Như vậy là tỷ lệ di cư tự do đến bản gấp hơn 4 lần dân số của bản. Nhìn toàn cảnh bản Cà Là Pá, các mái nhà san sát nhau, trông không khác gì cảnh lều quán dựng tạm ở các chợ trung tâm để bán hàng. 100% các nhà bốn xung quanh đều được che chắn bằng phên nứa thưng, mái lợp bằng tấm bạt màu xanh. Nhìn lên 4 hướng núi, tịnh không một bóng người làm nương hay tra hạt, gieo trồng mặc dù trời đang lất phất mưa, rất thuận lợi cho việc tra hạt, làm đất. Tất cả dân bản đều tập trung vào nhà ông Giàng Séo Chẩn để cầu nguyện.

Ông Giàng Séo Chẩn cũng không phải là người nguyên gốc ở  đây. Theo chính ông Chẩn cho biết. Ông sinh năm 1954. Trước đây gia đình ông ở bên xã Su Phìn, huyện Hoàng Su Phìn, Hà Giang. Ông Chẩn di cư từ Hà Giang sang bản này từ năm 2008. Ông cho biết. Ông di cư từ Hà Giang sang cũng là do những người đi giảng “đạo Vàng Chứ” bảo gia đình ông sang đây. Họ bảo, ở đây đất tốt, làm ăn dễ lắm.

Ông Chẩn cho biết. Ngôi nhà của ông có chiều dài 10m, chiều ngang 4m. Trong ngôi nhà bốn xung quanh vách là nứa đan, mái lợp bằng các phên nứa được phủ lớp bạt màu xanh. Ngôi nhà được chia làm ba ngăn. Hai đầu nhà, một để ngủ, một để nấu ăn rộng chừng 4 mét vuông một ngăn. Ngăn giữa là rộng nhất. Phía đầu nhà nấu ăn, chỗ chúng tôi ngồi, xoong, nồi, bát, đũa còn vứt lỏng chỏng. Chiếc kiềng sắt ba chân đen sì sì vẫn ở trên chỗ đất nền vũm xuống như lòng chiếc khay cùng dăm ba thanh củi cháy dở. Phía đầu nhà gia đình để ngủ, áp với vách ngăn giữa 2 gian làm bằng phên nứa được treo tấm phông vải xanh, có kê một chiếc bục cao chừng 1,2 mét rộng khoảng 0,35m. Từ dưới chân bục có một dây hoa bằng nhựa, loại hoa nhựa của Trung Quốc sản xuất bán rất nhiều ở các chợ đường biên. Phía trên mấy cây tre đan chéo làm xà nhà có gác mỗi bên 2 cái loa thùng, cỡ 30x30cm đã cũ. Tôi quan sát thấy các mép loa vải bọc đã sờn. Không biết do công suất hay do người ta cố ý để chỉ đủ nghe mà âm lượng chỉ như hai người nói chuyện.

Tranh thủ được vào cùng ngồi nghe giảng đạo, chúng tôi người thì ghi chép các số liệu, người tranh thủ chụp ảnh. Khi chúng tôi đưa máy ảnh định chụp người giảng đạo mới hay, chái nhà chiếu ánh sáng xuống nên không thể chụp được vì ngược sáng. Đứng lên cũng rất khó chụp được rõ nét người giảng vì phía sau là tấm phông màu xanh thẫm, lại bị cành hoa nhựa che khuất gần ½ khuôn mặt nên rất tối. Nhìn bằng mắt thường cũng rất khó nhận diện được người đang giảng đạo. Để chụp được ảnh người giảng đạo, chúng tôi đã phải sử dụng loại máy chuyên nghiệp nhưng vẫn không rõ nét, trông cứ mờ mờ, tôi tối.

Trong ngăn giữa nhà có tới cả trăm người, phân làm hai bên. Từ phía dưới nhìn lên chỗ có  người đứng giảng đạo. Bên phải là đàn bà, con gái, trẻ em. Bên trái là đàn ông và nam thanh niên. Những tấm gỗ xẻ được kê 2 đầu trên những đoạn gỗ để ngồi.

Khi hỏi, đang là mùa mưa, mùa gieo hạt mà bà con không đi nương lại đi cầu nguyện thế này? Mọi người nhìn chúng tôi như người “trời” rồi bảo. Có Vàng Chứ lo cho cái ăn cái mặc rồi. Chỉ phải đi cầu nguyện Vàng Chứ thôi. Những người này hầu hết là người di cư từ các nơi khác đến. Mọi người ngồi nghe rất chăm chú. Khi thấy chúng tôi vào cũng có đôi ba người ngoái cổ xuống nhìn rồi lại tập trung vào nghe người đứng sau bục giảng. Chỉ riêng các cháu nhỏ vẫn cứ tồng ngồng chạy nhảy bên ngoài và trong gian giảng đạo. Ngồi nghe giảng, có một vài chị vạch áo cho con bú. Cũng có vài ba cháu nhỏ ặt cổ ngủ trên địu sau lưng mẹ.

* Giáo Lý của “Đạo Vàng Chứ”.

Phải nói rằng, chúng tôi ngồi nghe nhưng gần như mù tịt, không hiểu được người phía trên đang rao giảng cái gì. Bởi người đó chỉ nói bằng tiếng Mông. Trên tay người đó cầm cuốn sách “Những lời nói của Vàng Chứ để cứu người”. Ông Giàng Séo Chẩn nói: Người đang giảng tên là Giàng A Phủ, 30 tuổi. Khi chúng tôi hỏi. Thế Giàng A Phủ trình độ văn hóa lớp mấy, có học qua trường lớp đào tạo nào về tôn giáo không? Ông Chẩn thật thà: Không biết. Thế Giàng A Phủ đang nói điều gì? Ông Chấn cười cười: Giàng A Phủ đang giảng “đạo Vàng Chứ” cho mọi người nghe. Ông ấy nói cái gì? Ông Chẩn lại cười cười bảo. Giàng A Phủ nói rằng, Vàng Chứ là vua của người Mông, được nhà trời cử xuống để chăm sóc người Mông. Vàng Chứ dặn mọi người không được ăn tiết canh, không được hút thuốc, ốm không cần đến bệnh viện mà chỉ cần Vàng Chứ cho uống nước của Vàng Chứ là khỏi. Để có ăn, chỉ cần cầu nguyện Vàng Chứ thì Vàng Chứ sẽ cho lúa, ngô, khoai ăn ngày 3 bữa, không cần làm. Để kiểm tra lại thông tin mà ông Chẩn vừa cung cấp, chúng tôi hỏi Phó Chủ tịch xã Leng Su Sìn, Lỳ Xè Chứ. Phó Chủ tịch xã Lỳ Xè Chứ gật gật đầu xác nhận.

Khi chúng tôi hỏi, đang có mưa, là dịp để làm  đất gieo hạt, cấy cầy mà sao mọi người lại tập trung ở đây cầu nguyện? Ông Giàng Séo Chẩn không nói gì, chỉ lặng lẽ nhìn chúng tôi. Chúng tôi lại hỏi. Ông bà cha mẹ sinh ra mình, khi chết không thờ cúng để nhớ ơn mà lại đem tháo dỡ bàn thờ gia tiên? Thấy ông Giàng Séo Chẩn không nói, anh Vừ Sáy Chư, người trước cũng có đôi ba lần đi nghe giảng đạo nhưng không theo bảo: Vàng Chứ bảo ông bà, cha mẹ chết rồi, linh hồn đã lên trên trời. Trên ấy đã có Vàng Chứ trông nom chăm sóc, không cần phải cúng nữa. Chỉ cần cầu nguyện Vàng Chứ là Vàng Chứ lo cho hết.

Hôm chúng tôi vào Nà Hỳ, được anh em cán bộ  đồn Biên phòng cho xem một đoạn băng quay một thanh niên người phương Tây đang thuyết giảng về chúa. Đoạn băng này theo anh em cán bộ của đồn Biên phòng Nà Hỳ cho biết. Anh em  có được là từ máy điện thoại di động của một thanh niên ở xã Nà Bủng. Phần một của đoạn băng trên là phóng sự ngắn nói về một thanh niên phương Tây, khi sinh ra bị khuyết tật, không có tay và chân. Phía chân bên trái chỉ có phần bàn. Bằng nghị lực của bản thân, người thanh niên này có thể làm được tất cả các việc từ đánh răng đến uống nước, thậm chí tắm, bơi, nghe, gọi điện thoại và sử dụng xe đi lại. Phần 2 của đoạn băng trên, người thanh niên này “đứng” trên bàn, dùng cơ hông di chuyển trên đó và nói chuyện về sự trợ giúp của chúa. Anh ta cho rằng, bản thân làm được các việc trên là nhờ có chúa. Tất nhiên là đoạn băng trên anh thanh niên nói bằng tiếng nước ngoài và đã được dịch ra tiếng Việt phổ thông. Trong băng trên có một số đoạn, qua lời phiên dịch, anh thanh niên có ý trách chúa tại sao lại sinh ra anh ta và để anh ta không được bình thường như người khác. Sau khi tự trách chúa, anh ta lại tự lý giải rằng, chúa có nói với anh ta đó là chúa muốn thử thách. Chúa nói cứ cầu nguyện chúa thành tâm thì chúa sẽ cho tất cả. Xâu chuỗi tất cả nội dung trong bài “thuyết giảng” của mình, anh ta kết luận. Hãy cầu chúa và tích cực siêng năng cầu chúa thì chúa sẽ cho tất cả, bù đắp tất cả mọi khiếm khuyết mà tạo hóa đã sinh ra.

Sau khi xem xong đoạn băng, nếu chỉ nhìn nhận ở  góc độ tâm linh thì quả là một con người mà có thể nói là sống được đã khó chứ chưa nói đến có thể làm  được tất cả các công việc sinh hoạt thường nhật một cách bình thường. Và điều không tưởng ấy có thể trở thành sự thật thì chắc phải nhờ có một sự giúp đỡ của thế giới siêu nhiên nào đó. Nhưng nếu xét trên góc độ bản năng sống của con người thì đây thực sự chỉ là một nỗ lực phi thường và sự cố gắng vượt bậc của cá thể người thanh niên đó. Lợi dụng vào nỗ lực của bản thân người thanh niên, người ta đã dựng lên một hình ảnh mang tính chất siêu phàm từ sự giúp đỡ của một thế lực siêu nhiên mà ở đây là chúa. Đoạn băng này được phát tán trong các buổi lễ rao giảng “đạo Vàng Chứ”. Những người rao giảng về “đạo Vàng Chứ” đã đánh đồng “đạo Vàng Chứ” với Tin lành, làm ảnh hưởng đến sự “thuần khiết” của đạo Tin lành, làm biến tướng giáo lý của đạo Tin lành.  

3. “ĐẠO VÀNG CHỨ” VÀ NHỮNG HỆ LỤY … BUỒN

NHỮNG HÀNH VI VÀ VIỆC LÀM CỦA “ĐẠO VÀNG CHỨ”.

“Đạo Vàng Chứ” xâm nhập vào đồng bào Mông, không những chỉ làm mất đi những nét văn hóa truyền thống mà còn đưa đến sự mất đoàn kết ngay trong tộc người này. Sự phân biệt giữa người theo đạo và người không theo đạo đã gây nên sự mất đoàn kết nặng nề ngay trong mỗi gia đình, mỗi bản của đồng bào Mông. Trong các bản theo đạo Vàng Chứ, một số chính sách của Đảng, Nhà nước hỗ trợ đối với đồng bào dân tộc không được triển khai thực hiện. Tình hình an ninh xã hội có chiều hướng phức tạp và luôn là điểm nóng về an ninh trật tự xã hội.

* Phá  Vỡ Truyền Thống Cộng Đồng…

Người Mông vốn có truyền thống cố kết cộng đồng rất cao. Dù người Mông ở đâu, nếu có chung họ là anh em. Chính sự đoàn kết ấy đã giúp người Mông vượt qua được bao thăng trầm vất vả, cơ cực cũng như đói khổ. Trong điều kiện canh tác phải nói là vất vả nhất trong số các dân tộc khác nhưng dù khó khăn đến đâu, dù vất vả đến đâu, người Mông cũng vượt qua và phát triển chính là dựa vào sự đùm bọc cưu mang của cả cộng đồng dân tộc. Nhưng từ khi có “đạo Vàng Chứ” xâm nhập, tính cố kết cộng đồng và sự đoàn kết thương yêu trong đồng bào dân tộc Mông bị chia rẽ, gây mất đoàn kết trầm trọng. Những sự chia rẽ ấy đều bắt nguồn từ những giáo lý và những quy định của “đạo Vàng Chứ” trói buộc.

Khi trao đổi với những người theo “đạo Vàng Chứ” chúng tôi được biết. Những người theo đạo Vàng Chứ đều phải nghỉ làm nương vào các ngày thứ 5, thứ bẩy và chủ nhật để đến “nhà nguyện” mà thực chất là một nhà dân cho mượn địa điểm để cho những người tự phong là “trưởng đạo” giảng đạo. Anh Vừ Sáy Chư, người của bản Cà Là Pá cho biết. Mỗi tuần đi đến các “nhà nguyện” như thế, nếu ai khá giả, có chút “của ăn của để gọi là” phải đóng góp 10 nghìn đồng. Nếu ai không có thì đóng 5 nghìn, 4 nghìn hoặc 2 nghìn cũng được. Nhưng dẫu ít hay nhiều đều phải đóng góp. Số tiền mà những người tự phong là “trưởng đạo” thu được từ những đóng góp đó để làm gì thì anh Vừ Sáy Chư cũng không biết. Theo anh Chư, hình như để cho những người này có tiền mua vé xe đi xuống Hà Nội, mua tài liệu về “đạo Vàng Chứ” thì phải. Và tất nhiên, số tiền thu được ấy chi tiêu, mua sắm hay làm gì gì thì không ai biết và không bao giờ được “kinh tế công khai”.

Khi được hỏi, nếu không theo đạo có được không? Ngay trưởng bản Cà Là Pá, Giàng A Hội lắc đầu ngán ngẩm bảo: Không theo đạo cũng được nhưng khổ lắm. Ai đã theo rồi mà nay không theo nữa, tự ý bỏ thì những người tự phong “trưởng đạo” bảo mọi người theo đạo trong bản không giúp đỡ cho nữa. Mượn cái cày, cái cuốc cũng không được đâu. Người Mông di cư từ nơi khác đến, có biết bao nhiêu khó khăn cần sự giúp đỡ của cộng đồng. Họ cô lập mình thì chẳng làm được gì đâu. Theo rồi là không thể bỏ được.

Anh Vừ Sáy Chư khi nghe trưởng bản Giàng A Hội nói thế cũng xác nhận và tâm sự: Không theo đã khổ  mà theo rồi bỏ thì còn khổ hơn. Không bỏ được đâu. Họ (ý nói những người tự phong trưởng đạo) xui mọi người không giúp đỡ, không cho mượn đất để trồng cây lúa, cây ngô, xua đuổi như con ma rừng, con cú, con cáo thì còn biết đi đâu. Nơi ở cũ đã bán rồi. Hết tiền rồi. Về làm sao được. Phải nghe theo thôi.

Ngừng ngắn rồi anh Vừ Sáy Chư thở dài, kể: Như  trưởng bản Giàng A Hội đấy. Vì trưởng bản không theo đạo. Có việc bàn với dân về mùa vụ  sản xuất, phổ biến chính sách đối với đồng bào dân tộc của Đảng, Nhà nước mà mọi người có nghe đâu. Bảo đến thì có đến nhưng không vào, chỉ đứng ngoài ngõ. Đến đó nói chuyện được mấy phút rồi người chạy đi nọ, người chạy đi kia, bỏ đi hết. Đấy là nói lợi cho họ đấy. Nếu mà nói đến đạo, họ bỏ đi ngay, thậm chí còn không đến nữa.

Đợi cho anh Vừ Sáy Chư nói xong, trưởng bản Giàng A Hội nhăn nhó: Mình là trưởng bản, mình không theo đạo, nói với người theo đạo “nó” không nghe mình nói lắm đâu. Mình bảo: Mùa không làm, nương không đi, bảo làm mà không làm thì không có cái ăn. Nó không nghe thì kệ nó thôi. Mình mà nói nhiều, cái nương nhà mình không lên cây, đến mùa nhà mình bỏ nương hoang à. Lúc đó lấy cái gì mà ăn.

Khảo sát tất cả các bản có người theo “đạo Vàng Chứ” và có người không theo “đạo vàng Chứ”, nghĩa là đan xem giữa đạo và không đạo trong tất cả các xã trên tuyến biên giới Điên Biên đều xảy ra tình trạng trên. Tình trạng bao vây cô lập những người không theo đạo của những người theo đạo là rất nặng nề và nghiêm trọng. Ngay bản thân Phó Chủ tịch xã Leng Su Sìn, Lỳ Xè Chừ cũng xác nhận hiện tượng trên. Những bản có sự đan xem giữa người theo “đạo Vàng Chứ” và không theo “đạo Vàng Chứ”, sự cố kết cộng đồng mang tính truyền thống của người Mông coi như bị phá vỡ hoàn toàn.

* … Đến Vi Phạm Pháp Luật.

Không những chỉ phá vỡ sự đoàn kết vốn là truyền thống của người Mông mà khi “đạo Vàng Chứ” xâm nhập vào còn lôi kéo và đưa dẫn nhiều người đi đến nghèo khổ và vi phạm pháp luật, trái với giáo lý của đạo Tin lành.

Khi gặp gỡ trao đổi với những người Mông di cư  từ nơi khác đến. Có rất nhiều người cho biết. Khi họ đang ở nơi cũ, những người đi giảng đạo đã nói với họ, ở nơi họ di cư đến, đất đai còn rất nhiều lại rất màu mỡ, làm ăn rất dễ. Nếu muốn no, đủ ăn thì đưa cả nhà đến đó. Vàng Chứ cũng lên đó rồi. Và vì thế mà họ nghe theo. Khi họ trót bán nhà, tài sản và vật dụng ở nơi ở cũ để đi lên đây mới biết. Đất hết, những chỗ làm được thì mọi người đã làm cả rồi. Thế là họ rơi vào tình trạng, đi tiếp thì không được mà quay về nơi cũ thì cũng không xong. Không còn con đường nào khác, họ buộc lòng phải nhờ vào bà con anh em cùng họ. Vì cùng mang họ người Mông, có một số gia đình đã nhượng, cho mượn đất nương để canh tác, giúp đỡ nhau lúc khó khăn chân nâng. Và khi đó, những người tự phong “trưởng đạo” đến bảo có được như thế là nhờ họ và đương nhiên lúc đó phải mang ơn họ đã cưu mang lúc khó khăn. Đồng bào Mông vốn xưa nay là người thật thà chất phác, giúp đỡ vô tư, không kể công nhưng lại là người rất nặng về sự trả ơn. Và khi nghe những người tự phong “trưởng đạo” nói thế, họ tin và càng luôn nghĩ mình mang ơn. Tin theo với đồng bào Mông cũng có nghĩa là hành động để trả ơn. Nhưng họ đâu có biết, chính những người đó đã lợi dụng vào lòng thật thà và mong ước chính đáng của họ mà đưa dẫn gia đình họ đến cơ cực vất vả và nghèo đói, dồn vào bước đường cùng. Đây cũng chính là nguyên nhân vì sao, rất nhiều chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm hỗ trợ, giúp đồng bào các dân tộc trong đó có đồng bào Mông thoát đói nghèo mà tỷ lệ đói nghèo trong đồng bào không giảm, thậm chí còn gia tăng. Và tại sao số hộ theo “đạo Vàng Chứ” lại phát triển nhanh trong những năm qua. Và tại sao hiện tượng di cư luôn gắn liền với hoạt động của “đạo Vàng Chứ”.

Không chỉ xúi giục các hộ người Mông di cư, gây mất  ổn định, nghèo đói mà bản thân những người tự phong là “trưởng đạo” còn tự  tự ý cho phép những người theo “đạo Vàng Chứ” quyền riêng, “quyền bất chấp quy định pháp luật”. Anh Giàng A Hội, trưởng bản Cà Là Pá cho biết thêm một thực trạng đáng lo ngại nữa: Đất đai là của nhà nước, không được mua bán. Nhưng những người theo “đạo Vàng Chứ” cứ mua đi bán lại bình thường. Pháp luật không cho chặt cây, phá rừng, nhưng họ vẫn cứ vào rừng chặt cây, làm nhà và đem bán. Ngay Nhà nước đầu tư cho tấm lợp, mái tôn, những người theo “đạo Vàng Chứ” đi nhận về rồi đem bán cho người khác. Họ tự ý làm, chỉ cần báo cho người của họ (ý nói các trưởng đạo) thôi. Ngay khai báo tạm tú tạm vắng, họ cũng không báo cho trưởng bản hay chính quyền, họ chỉ báo cho người của họ mà. Rồi cứ thế ở. Trưởng bản phát hiện, làm căng, họ sẽ quay phim, chụp ảnh, rồi làm đơn kiện gửi đi các nơi, cố tình gây ra điểm nóng.

Hành vi vi phạm pháp luật của số đối tượng quá  khích, sùng bái “đạo vàng Chứ” không chỉ ở  mức độ lừa dối, lôi kéo, cô lập mà đã có nơi chúng sử dụng súng quân dụng bắn người. Tháng 7 năm 2010, cụ Giàng Sè Páo, 91 tuổi là  bố của Phó Chủ tịch xã Nà Bủng, Giàng A Vừ. Cả nhà cụ Giàng Sè Páo không có ai theo đạo. Sau bao nhiêu lần vận động, lôi kéo, cô lập nhưng cụ Páo vẫn quyết không theo. Đi đâu cụ Páo cũng bảo: Theo đạo không được gì, chỉ thấy thiệt và “được” khổ thôi. Một số đối tượng theo “đạo Vàng Chứ” thấy cụ Páo hay lên trên trạm kiểm soát Biên phòng với anh em bộ đội chơi và hút thuốc lào. Một mặt, chúng cho rằng cụ là người của Biên phòng, phần nữa chúng cho cụ đi tuyên truyền chống lại “đạo Vàng Chứ”. Lợi dụng đêm tối, một số đối tượng theo đạo đã dùng súng CKC bắn chết cụ. Bắn chết cụ Páo xong, các đối tượng đã bỏ trốn khỏi địa bàn đến nay các cơ quan chức năng đã phát lệnh truy nã song vẫn chưa bắt được.

Điển hình nhất là việc Lý Trùng Tủa, Lý A Dế, Giàng A Sâu là những “trưởng đạo” và “thừa tác viên” tự phong của “đạo Vàng Chứ” ở khu vực xã Mường Mươn đã lôi kéo hơn 70 thanh niên Mông ở Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Nghệ An, trang bị dao, kiếm rồi đưa sang bên Poong Kẹo bên nước bạn Lào huấn luyện, tập võ. Bản thân Lý A Dế còn sử dụng trái phép khẩu AK47 với 29 viên đạn. Khi bị phát hiện, Lý A Dế đã định sử dụng lực lượng do hắn lôi kéo phá trụ sở Công an Mường Chà. Trước đó, khi có dự án xây dựng trường học cho con em người Mông, Lý A Dế cùng đồng bọn đã khống chế không cho dân được đóng góp gỗ, công để dựng trường. Khi cán bộ chiến sĩ đồn Biên phòng Mường Mươn giải thích, làm rõ cho đồng bào hiểu thì Lý A Dế lại xúi dục người Mông di cư đi các nơi khác với lý do nơi đó đất còn rộng và rất tốt, dễ làm ăn. Với những hành vi phi “giáo lý”, gây mất trật tự an ninh trong bản, xâm hại đến an ninh quốc gia, Công an Điện Biên đã phải ra lệnh bắt giữ Lý A Dế. Lý A Dế và đồng bọn đã bỏ trốn khỏi địa bàn. Lợi dụng vào quyết định trên, cố tình đổi trắng thay đen, gây dư luận nói xấu chế độ, chính sách của Đảng, nhà nước, các đối tượng khác đã vu cáo chính quyền cấp cơ sở ngăn cấm hoạt động tôn giáo.

Những hành vi và giáo lý của cái gọi là “đạo Vàng Chứ” hoàn toàn đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của nhân dân, vi phạm nghiêm trọng luật pháp và an ninh quốc gia. Với những hành vi và việc làm trên, có lẽ, không một tổ chức tôn giáo nào có thể chấp nhận mà kiên quyết loại bỏ và sẽ đưa thứ tôn giáo đó vào “tà giáo”  trong các giáo lý của mình.

4. “ĐẠO VÀNG CHỨ” VÀ NHỮNG HỆ LỤY … BUỒN. 

NƠI “THIÊN ĐƯỜNG”  CỦA ĐỒNG BÀO

Trong quá trình đi lấy tư  liệu để làm phóng sự  này, luôn thường trực trong đầu chúng tôi những câu hỏi: Tại sao biết theo “đạo Vàng Chứ” là khổ mà vẫn có hộ đồng bào theo? Để “giải thoát” đồng bào khỏi những trói buộc với “đạo Vàng Chứ” khi đã trót nghe theo thì phải làm gì? Đâu là khâu quyết định? Không lẽ …

* Tiếng Nói Từ Đồng Bào Dân Tộc.

“Đạo Vàng Chứ” đang là vấn đề gây búc xúc trong công tác quản lý an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cũng như triển khai các hoạt động xóa đói giảm nghèo trong đồng bào các dân tộc. Những người theo “đạo Vàng Chứ” không chỉ tuyên truyền, lôi kéo, cô lập, lừa dối làm các hộ dân tộc Mông di cư, gây ra sự biến động và phá vỡ kết cấu tổ chức ở cơ sở mà còn ngăn cản việc triển khai trong các hộ dân ở đây.

Những vấn đề này được thể hiện ngay trong tâm tư của rất nhiều người đã “chán đạo”,  “nhạt đạo” mà ngay trong một số người đang theo “đạo Vàng Chứ”. Anh Vừ Sáy Chư, người đã một thời theo “đạo Vàng Chứ” khẳng định: Theo “đạo Vàng Chứ” không được cái gì, chỉ “được” khổ hơn thôi. Không hơn gì người không theo đạo cả. Theo “đạo Vàng Chứ” còn phải đóng góp hằng tuần khi đi cầu nguyện, không được ăn tiết canh, không được thờ cúng ông bà. Đã thế, theo “đạo Vàng Chứ” lại đi làm trái với pháp luật, làm bừa, làm dối. Mình không theo nữa đâu. Nói rồi anh Vừ Sáy Chư liên hệ: Đấy. Mấy người theo đạo Vàng Chứ ở bản Cà Là Pá đấy. Nghe theo những người trưởng đạo, vào rừng chặt phá, tranh đất của nhau. Khi cán bộ đến giải quyết phải chạy trốn vào rừng. Sợ quá, phải mắc võng ngoài rừng ngủ. Nghe theo họ, làm theo họ thì phải chịu khổ thôi.

Cũng chung tâm sự như anh Vừ Sáy Chư, trưởng bản Cà Là Pá bộc bạch: Mình là trưởng bản, mình không theo đạo. Người theo đạo gây khó khăn với mình. Mấy năm rồi, do số người di cư đến đông, đất không có sản xuất. Tranh chấp đất rồi dẫn đến cãi cọ, thù ghét nhau, mất hết cả tình anh em. Vàng Chứ cứ nói, ai đi theo Vàng Chứ thì sẽ không bị ốm. Nhưng những người theo vẫn ốm. Vàng Chứ lại bảo. Ốm không cần đến bệnh viện, Vàng Chứ cho nước uống là khỏi. Có bao nhiêu người nghe theo. Cũng đến xin nước của Vàng Chứ uống mà có khỏi đâu. Đến lúc sắp chết thì vẫn phải đưa lên bệnh viện chữa đó thôi. Năm 2009, bản Cà Là Pá bị dịch lỵ, sốt phát ban (sởi) tới mấy trăm ca, chủ yếu là trẻ em. Lúc đó có thấy Vàng Chứ đâu, chỉ có mấy chú Bộ đội Biên phòng đến khám rồi cho thuốc uống, mới chữa khỏi.

Khi chúng tôi hỏi ông Sình Quán Pao, sinh năm 1957, ở  bản Huổi Dạo, xã Nà Bủng: Ông thấy theo “đạo Vàng Chứ” có lợi gì không? Ông Pao cười nhạt: Ôi. Không thấy được lợi gì đâu. Có theo cũng chả được gì. Vẫn đói, vẫn khổ. Nhà nước vẫn phải cho gạo, cho mái lợp. Mấy người nuôi được con trâu, con bò, bán đi mua được cái xe máy, mua được cái điện thoại. Mấy người trưởng đạo lại bảo, chúa cho đấy. Đi săn cả đêm, bắn được con thú, mấy người đấy cũng bảo, chúa cho đấy. Con trâu chóng lớn, con bò chóng to, họ cũng bảo chúa cho đấy. Chúa có đâu mà cho. Bà con mình làm ra chứ. Nói dối thế thì không phải người Mông mình rồi. Chúng tôi lại hỏi tiếp: Đang theo “đạo Vàng Chứ”, nay không theo nữa, họ bảo những người theo đạo không giúp cho mượn cái cày, cái cuốc. Rồi ra, họ gây khó khăn trong làm nương, trồng cấy, tranh chấp đất với ông thì làm sao? Ông Páo vỗ vỗ tay lên trán, kéo chiếc điếu ục vào lòng, mồi điếu thuốc lào, châm lửa kéo một hơi thật dài. Sau khi thư thả nhả hết khói, ông thủng thẳng nói: Cái đó thì có đấy. Không theo họ thì họ chèn ép nhiều lắm. Khó khăn họ không giúp đâu. Nhưng khó khăn đã có mấy chú ở đồn Biên phòng giúp rồi. Nếu khó quá, mình sẽ nói với xã chứ. Người Mông mình, cả đời, sáng thức dậy là chỉ biết tiếng khóc. Khổ nhiều rồi. Nay có Đảng, Nhà nước lo cho cái ăn, cái mặc, giúp mái lợp nhà, giúp trâu để nuôi. Vàng Chứ chỉ nói nhưng có làm được gì cho dân đâu. Mình phải nghe theo cái mình nhìn thấy chứ.

Hiện tại, ở xã Nà Bủng, Nà Hỳ, Leng Su Sìn, Chung Chải .v.v. có rất nhiều người ‘nhạt đạo”  song chưa dám bỏ để trở về truyền thống cũ của dân tộc mình. Trong các buổi cầu nguyện mọi người kháo nhau theo “đạo Vàng Chứ” chán lắm, chả được gì lại mất tiền. Tìm hiểu về hiện tượng trên, chúng tôi mới hay. Tuy chán, nhạt đạo song họ chưa dám bỏ vì hiện nay, ở những nơi có “đạo Vàng Chứ”, nhất là các bản, trưởng bản là trưởng đạo, khi có chính sách xét hộ đói nghèo để được hưởng trợ cấp của Nhà nước hay tiền tết, tiền cứu trợ thì những người trưởng đạo ở đó thường ép, khống chế không đưa những người ngoài đạo, bỏ đạo vào danh sách của bản gửi lên trên. Họ thường chỉ đưa danh sách các hộ theo đạo vào. Hầu như ở các bản như thế này, các trưởng bản là trưởng đạo đã lợi dụng dân chủ ở cơ sở để cô lập và khống chế số người chán đạo, muốn bỏ đạo và không theo đạo.         

* Để Có Một “Thiên  Đường” Cho Dân.

Xuất phát từ nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân, Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn giáo đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua ngày 18/6/2004 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/11/2004. Đặc biệt, ngày 4/2/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg về một số công tác đối với đạo Tin lành. Cũng nhận thấy những khó khăn trong đời sống của đồng bào dân tộc, Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều chính sách, đề án nhằm hỗ trợ xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, ổn định bền vững đời sống trong đồng bào các dân tộc. Đồng bào dân tộc trên các tuyến biên giới được thụ hưởng từ các chính sách này rất nhiều.

Tuy nhiên, Pháp lệnh của Quốc hội, các Nghị định của Chính phủ cũng như các chính sách khác nhằm hỗ  trợ giúp đồng bào xóa đói giảm nghèo, ổn  định đời sống bền vững thì trước hết cần có thái độ dứt khoát với cái gọi là “đạo Vàng Chứ” đang diễn ra ở các xã, bản ở đây. “Đạo Vàng Chứ” không phải là đạo hay một tôn giáo nào cả. “Đạo Vàng Chứ” chỉ là một thứ “tà đạo” đã xuyên tạc và làm thay đổi sự thuần khiết của đạo Tin lành. Lợi dụng vào đạo Tin lành đã được Nhà nước công nhận để truyền bá cái gọi là “đạo” mà thôi. Bởi, nếu bất cứ một người dân nào khi đã theo đạo, trở thành “con chiên” của chúa thì đều phải thụ lễ Báp têm và biết 28 tín điều căn bản cũng như các lời răn của chúa. Ở “đạo Vàng Chứ” không có một tín đồ nào biết về những điều rất cơ bản trên mà chủ yếu là do chính những người tự phong “trưởng đạo” “vẽ” nên theo chủ quan của họ.

Không những thế, có rất nhiều người chưa được  Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) hay Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) cấp chứng chỉ tư cách pháp nhân trong hoạt động truyền giáo mà đều tự phong. Trong quá trình truyền đạo, những người này đã lôi kéo, tập hợp lực lượng, có âm mưu chống phá cơ quan Nhà nước, ngăn cản người dân thực hiện nghĩa vụ công dân trong xây dựng trường học ở Mường Mươn như Lý A Dế; sử dụng súng quân dụng bắn chết người khi không theo sự lôi kéo của họ như trường hợp của cụ Giàng Xè Páo ở Nà Bủng. Hay như việc chống đối không nghe trưởng bản phổ biến các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước cũng như về thời vụ gieo trồng ở bản Cà Là Pá, Leng Su Sìn .v.v.

Chúng tôi có đem những vấn đề trên trao đổi với một số vị chức sắc của Tin lành. Khi nghe xong, mọi người đều cho rằng, những việc làm trên là trái với giáo lý. Những người theo Tin lành không làm chuyện như thế.

Trong Kinh thánh, chúa có dặn: Chúa ở khắp mọi nơi. Chúa trên đầu mọi người. Ở đâu kính chúa thì ở đó có chúa. Trong lời răn của chúa cũng đã nói: Bao giờ con chim đại bàng chui qua lỗ kim, thì khi đó, kẻ làm điều ác mới lên được thiên đàng. Đem những lời của chúa răn dạy soi vào giáo lý của “đạo Vàng Chứ”. Rõ ràng, giáo lý của “đạo Vàng Chứ” đi trái với những điều răn dạy trên.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 70 đã ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật…Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Ngay trong các Nghị định số 69/NĐ-CP ngày 21/3/1991 và Nghị định số 26/ NĐ- CP ngày 19/4/1999 và Pháp lệnh về Tín ngưỡng tôn giáo đều khẳng định: “Mọi hoạt động mê tín dị đoan được bài trừ, mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để phá hoại nền độc lập dân tộc, chống lại nhà nước xã hội xã hội chủ nghĩa, phá hoại chính sách đại đoàn kết toàn dân, làm hại đến nền văn hóa lành mạnh của dân tộc, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân đều bị xử lý theo pháp luật”.

* Lời Kết.

Khi chúng tôi rời Điện Biên, ai cũng canh cánh trong lòng về con số hộ đói nghèo trong đồng bào các dân tộc ở đây, nhất là trong đồng bào Mông, đặc biệt là trong số hộ di cư quá cao. Để có thể xóa đói giảm nghèo bền vững cho các hộ gia đình này là cả một quá trình dài và không kém phần vất vả.

Trong rất nhiều việc phải làm để đạt mục tiêu  đó, sẽ có một “thiên đường”  thực sự đến với đồng bào khi loại bỏ  được cái gọi là “đạo Vàng Chứ” ra khỏi  đời sống tinh thần cũng như đời sống sinh hoạt hàng ngày. “Đạo Vàng Chứ” đã và đang mang đến những hệ lụy … buồn cho cả vùng đất và đồng bào dân tộc nơi đây./.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#troc