Phần XI: Lỡ nhau một kiếp

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

TÂY CUNG THU OÁN

(Vương Xương Linh)
Phù dung bất cập mỹ nhân trang,
Thuỷ điện phong lai châu thuý hương.
Khước hận hàm tình yểm thu phiến,
Không huyền minh nguyệt đãi quân vương.

Dịch thơ:

Điểm trang người đẹp nụ sen nhường,
Thuỷ điện châu lồng gió ngát hương.
Mảnh quạt thu sầu che tủi hận,
Mãi treo trăng tỏ đợi quân vương...
( Lê Nguyễn Lưu phỏng dịch)

Phần XI: Lỡ nhau một kiếpChương 1: Vị đạo sĩ ở núi Côn Luân

Cách Khương La sáu trăm dặm về hướng Bắc là lãnh thổ của Đại Thế hoàng triều. Nếu đem lên bàn cân đong đếm, Đại Thế và Khương La kẻ tám lạng người nửa cân, mỗi nước hùng cường chiếm đóng một phương. Giống như câu nói: "Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?" Sự có mặt của hai cường quốc trên một đại lục là nguy cơ thường trực của mâu thuẫn và chiến tranh.

Đại Thế rất kiêu ngạo, vào thời trị vì của vua Mã Nặc IV, ông từng hạ lệnh chém hai phái đoàn sứ giả ngoại quốc vì dám cười cợt Đại Thế là "Thiên hạ đệ nhị". Cái tích "Thiên hạ đệ nhị" đã kéo dài suốt dòng lịch sử. Trước kia, khi hai vương quốc chưa có nhiều đất đai và vàng bạc như bây giờ, các bộ lạc nguyên thủy có tục lệ tổ chức "Hội thu mã" năm năm một lần. Hội này chủ yếu là đi săn ngựa thảo nguyên, thi tài thuần ngựa. Không biết trùng hợp thế nào mà tất cả mùa thi bộ lạc Đại Thế luôn xếp nhì. Hai bên thuần được số ngựa như nhau nhưng các đời tộc trưởng Khương La ai cũng thu được Bạch Cự Long, thế là vượt lên một bậc chiếm hạng nhất. Nhắc tới giống ngựa huyền bí này lại có tới vài trăm mẫu chuyện khác nhau. Nhiều người tin rằng Bạch Cự Long vốn là Thái tử ở Long Cung, vì phạm tội trời mà bị đày xuống nhân gian làm ngựa. Bạch Cự Long có sừng vàng trên trán, màu lông trắng muốt, đuôi như cầu vồng, dáng vẻ thần thánh. Số Bạch Cự Long ở thảo nguyên rất ít, không tới 100 con mà con nào cũng là đầu đàn. Tính khí của loài ngựa này rất khó chịu, nó dã man và quyết tuyệt, bướng bỉnh và lì lợm, không chịu cho con người cưỡi lên. Lúc này có một chàng thanh niên tên là Ngưu Chỉ Ôn, sống trong bộ lạc Khương La. Chẳng biết bằng cách nào, anh ta đã khiến một con Bạch Cự Long nhận mình làm chủ, cả vùng tôn anh làm tộc trưởng, thống nhất ba mươi bảy bộ lạc rời rạc lập quốc sơ khai, thế là Khương La triều đại đầu tiên ra đời.

Trải qua rất nhiều thăng trầm, khi mà loài ngựa thần thánh đã hoàn toàn tuyệt chủng, Khương La vẫn bền bỉ vững mạnh. Ra đời muộn hơn nó một chút là Đại Thế, vương quốc thứ hai. Từ cái tích cổ này mà về sau hễ nhắc tới thứ hạng là Đại Thế bị xếp sau một bậc. Điều đó càng được chứng thực trong suốt ba nghìn năm, Đại Thế vẫn không vượt lên được, cứ đánh là thua, mãi mãi "Thiên hạ đệ nhị". Vết thương âm ỉ nhất cho đến bây giờ là năm Thiên Vĩnh đế tại vị, Đại Thế có sự ủng hộ của sáu nước lân bang, nguồn lực to lớn mà vẫn bị đánh tan tát chạy về. Quá hoang đường!

-Vì sao lại thế? Lẽ nào Khương La còn tiềm ẩn huyền cơ?

Thiếu niên đặt quân cờ lên bàn, khó hiểu nhìn sư phụ. Lão già thâm sâu lắc đầu, đưa tay vuốt bộ râu bạc trắng.

-Làm gì có! Chẳng qua Khương La may mắn, vì sao Ngưu Chỉ Ôn không phải người Đại Thế? Vì sao bí quyết thuần ngựa nằm trong tay bộ lạc Khương La? Vì sao Đại Thế năm đó không có một người ngang tài ngang sức với Hạ Hầu Vĩnh Khang? Ta nói con nghe, là vì chúng ta đều sinh lầm thời!

-Haha, sư phụ chí phải!

Đây là đỉnh núi Côn Luân, không phải Côn Luân chúng ta thường nghe mà là một Côn Luân khác vô tình giống ở cái tên. Núi Côn Luân quanh năm phủ mây, cảnh sắc mờ ảo như tiên giới. Có một cái đình nhỏ dựng sơ sài bên vách núi, một bên là vực sâu thăm thẳm, một bên là tường đá thô ráp. Hai người một già một trẻ ngồi đánh cờ, thản nhiên luận bàn thế sự.

-Sư phụ, vậy theo ngài... hiện giờ Khương La cùng Đại Thế, thứ hạng có khác xưa?

-Haizzz... con làm khó sư phụ rồi. Muốn xếp hạng thì phải so, muốn so thì phải có thử thách. Theo ta thấy Thái Minh đế bây giờ có lẽ không bằng Thiên Vĩnh đế năm xưa, rất khó nói! Trận Bình Thành sáu năm trước là bệ hạ quá đường đột, cứ tưởng Phượng Triều thầm lặng giúp đỡ thì nắm chắc trong tay. Kết quả thế nào? Lão tướng Đô Dư Mân ngay cả ta cũng kính mấy phần, vậy mà bệ hạ khinh địch quá đáng. THUA! Đó là tất yếu!

-Nhưng sư phụ à, Đại Thế đã nhẫn nhịn lâu rồi. Hiếm khi nội bộ họ rối ren bất ổn. Ôn Chính vương muốn chiếm ngôi, các hoàng tử còn tranh đấu, cánh quân giữ thành mỏng như cánh ve... đó là thời cơ ngàn vàng! Nếu ta không đánh thì bây giờ đang ngồi đây hối hận đó!

-"Thời cơ ngàn vàng"? Biết lúc nào là thời cơ, lúc nào là nguy cơ, đó mới là tầm nhìn của thiên tử! Con ấy à, phải phấn đấu nhiều!

Lão già vuốt râu, đặt thêm một quân đen, thế cờ lập tức đảo thua thành thắng khiến thiếu niên kia trợn mắt kinh ngạc.

-Tháng tới ta có đại sự phải rời Côn Luân, con tạm thời trở về nhà đi, mẹ của con đã gửi thư nhắc không dưới hai mươi lần. Đừng để bà lo lắng nữa.

-Sư phụ! Ngài lại muốn đi đâu?

-Ta đi Khương La.

-Cái gì? Sư phụ qua đó làm gì?

-Hôm trước ta ngồi xem thiên cơ, phát hiện một chuyện nói lớn không lớn, nói nhỏ không nhỏ, liên quan tới vận mệnh chúng ta. Chuyến này ta dùng thân phận khác đến gặp Chu Lạc Ca Dương, nói không chừng sẽ có nhiều phát hiện lý thú!

-Sư... sư phụ... ngài cẩn thận đấy, cái tên đó thấy vậy mà rất hung ác. Con đã từng nghe kể, hắn chém đầu thúc thúc của mình, biến anh trai thành phế nhân... là một tên máu lạnh vô tình!

-Haha, "máu lạnh vô tình", đây cũng là bản chất của thiên tử, con phải phấn đấu đó!

Ở Đế Đô, sau khi Minh Châu quận chúa rời đi không lâu, ám vệ đưa tin đã tìm thấy người bệ hạ cần. Khi U Trì bị nhiễm độc, Sở Phù Dung rời đi, Ca Dương đã bắt đầu có những hồi ức rời rạc về kiếp trước, về Hạ Hầu Vĩnh Khang... Hắn không có cách nào nhớ được toàn bộ câu chuyện, càng cố nghĩ thì đầu càng đau như búa bổ. Vì vậy Ca Dương đã phó thác Tiểu Ninh Tử trong suốt sáu năm không ngừng tìm kiếm một cao nhân am hiểu về kiếp số. Tận bây giờ mới tìm ra!

Ông ta gọi là Thủy Tức Chân Nhân, xuất thân từ một môn phái rất ít đệ tử ở Côn Luân. Người này tuổi cao nhưng rất khỏe mạnh, tóc bạc môi hồng, đôi mắt sáng, vóc người tầm thước... chỉ riêng bề ngoài đã làm người ta tin tưởng nửa phần. Ám vệ điều tra về ông rất vất vả, hầu như manh mối bị mất ở Côn Luân. Ngọn núi này thuộc lãnh địa Đại Thế, đạo phái của ông lại kín mật không giao thiệp bên ngoài, muốn biết tin tức còn khó hơn lên trời. Với tính cẩn trọng đa nghi của Ca Dương, hắn do dự rất lâu mới quyết định mời ông ta vào cung.

Chính Ca Dương cũng không biết mình vì sao phải làm như vậy. Cái chết của nàng là khối u vướng trong cổ họng, khiến hắn thở không thông, nuốt không được, nôn cũng không ra... Nếu Ca Dương là kiếp sau của Thiên Vĩnh đế vậy Sở Phù Dung hiện ở nơi nào? Nếu nàng vẫn chật vật dưới chốn âm ti, hắn phải tìm mọi cách đưa nàng trở về. Nếu nàng đã đầu thai và có cuộc sống mới, hắn phải đến quấy phá một phen. Không loại trừ khả năng nàng thành tiên thành Phật, thoát kiếp luân hồi, thanh tâm quả dục... vậy... Ca Dương đành phải tu luyện đuổi theo, kéo nàng cùng làm "đọa tiên".

Hắn càng nghĩ càng xa... càng vô lý... càng hoang đường... càng ngông nghênh bất trị... Thôi được rồi, đánh chết cái nết không chừa, tính tình này chắc là nhờ Hạ Hầu Vĩnh Khang ban cho! Ca Dương xoa trán bật cười, vừa lúc Tiểu Ninh Tử bưng bát thuốc đi vào.

-Lại nữa à? Trẫm không uống, khó ngửi chết được, ngươi lập tức đem vứt đi!

-Ây da, hoàng thượng, hoàng thượng... đừng như vậy mà. Đây là thuốc bổ máu, phải bổ sung chỗ máu bị mất chứ!

Ninh công công chuyện nhỏ xé ra to, chẳng qua tháng trước Ca Dương dùng nửa chén máu lau chùi ngọc Tu Loan, khiến nó uống máu đến say, màu đỏ sáng rực. Nửa bát thôi mà, so với hồi nhỏ hắn luyện võ bị thương thì chẳng thấm vào đâu. Ca Dương cảm thấy không phí, ngọc Tu Loan là một thứ cổ độc lành tính, nó cực kì thích máu mà chắc là hàng trăm năm chưa lần nào được uống nhiều như vậy. Ca Dương càng lau cảm thấy càng đẹp, yêu thích không buông tay. Kết quả khi Tiểu Ninh Tử phát hiện đã phải hét lên inh ỏi, làm các ám vệ lập tức đến cứu giá. Lúc ấy Ca Dương bất cẩn không để ý mình mặc y phục trắng, vào nửa đêm cả người loang lổ máu ở trên giường thì đáng sợ thật! Thế là từ hôm đó Tiểu Ninh Tử đều đặn mỗi ngày sắc thuốc, hắn không tin Ca Dương chỉ mất nửa chén máu.

Trải qua một phen cò kè mặc cả, cuối cùng Tiểu Ninh Tử thành công thuyết phục hoàng thượng uống "bát thuốc cuối cùng", về chuyện ngày mai có "bát thuốc cuối cùng" nào nữa thì từ từ bàn tiếp. Hắn gọi cung nữ vào dọn dẹp sau đó đưa một mẫu giấy nhỏ trong ống tre cho Ca Dương:

-Bệ hạ, sáng nay Trì đã đưa tin tới. Vị Thủy Tức Chân Nhân nọ đã vượt qua cửa khẩu Tràng Lâm, bước vào địa phận Khương La, hiện đang được hộ tống gấp rút về kinh... theo tốc độ này thì ngày hai mươi bảy sẽ đến.

Ca Dương nhíu mày nhận mảnh giấy chi chít kí tự khó hiểu, hắn đọc sơ qua rồi trả cho Tiểu Ninh Tử thiêu hủy. Bức thư mô tả ngắn gọn những điều ám vệ quan sát được trong mấy ngày qua. Thủy Tức Chân Nhân này ăn nói sắc sảo, kín tiếng lựa lời, không thể từ miệng ông ta moi ra tin tức. Tư trang hành lý cũng không có điểm bất thường, đều là vật tự làm hoặc mua bừa ở chợ dưới chân núi, không nói lên điều gì. Ám vệ dịch dung giả làm nô tài đồng hành cùng lão cả ngày lẫn đêm, thăm dò đủ cách nhưng không tóm được tí nào sơ hở...

Ca Dương đọc xong mật tín thì cúi đầu cười nhạt. Người như vậy chỉ có hai khả năng. Một là ông ta quá đổi bình thường, sạch sẽ như một tờ giấy trắng. Hai là lão ta quá mức cao thâm, sâu hun hút như vực không thấy đáy... Thủy Tức Chân Nhân này... rốt cuộc là loại một, hay loại hai?

Ngày hai mươi bảy cùng tháng, cuối cùng người Ca Dương đợi cũng đã đến. Tiểu Ninh Tử được lệnh sắp xếp một chỗ ở khiêm tốn và an toàn trong thành. Sáu năm tìm kiếm, không biết bao nhiêu tốn kém và vất vả nhưng vào lúc này Ca Dương không thấy vội. Hắn để lão chờ thêm nhiều ngày, chờ tới mức Tiểu Ninh Tử cũng sốt ruột nhắc nhở, sợ bệ hạ bận bịu quên mất. Thủy Tức Chân Nhân bị vứt bỏ trong ngôi nhà gỗ đơn sơ, ngày ngày điềm nhiên ôm biển quảng cáo khi khắp thành bói toán, kiếm vừa đủ bạc mua gạo và rau xanh. Ông ung dung sống qua ngày, không có một chút biểu hiện nôn nóng lo âu...

Khi nghe mật thám báo cáo tình hình, hoàng đế lại bật cười thêm lần nữa

-Ha, lão già này thật thú vị! Nếu ông ta là thù mà không phải bạn thì thật đáng tiếc...

Rồi một ngày kia, Thủy Tức Chân Nhân đi xem bói trở về, phát hiện hai gã sai vặt đã trở lại cùng với cỗ xe ngựa sang trọng đỗ ở sân nhà. Ông cười chào một tiếng, vào trong cất dụng cụ hành nghề, sau đó không đợi ai mời đã leo lên xe. Hai tên ám vệ trao đổi một ánh mắt, cũng tự nhiên ngồi vào vị trí đánh ngựa rời đi. Cỗ xe một mạch chạy qua sáu tầng cẩn mật, tiến vào hoàng cung nội điện. Hoàng đế đợi sẵn trong thư phòng.

Khi Thủy Tức Chân Nhân bước qua cánh cửa sơn son, ông chỉ thấy mình bị choáng ngộp bởi những pho sách chất cao tận trần nhà và những món đồ chơi lạ lùng không phù hợp bối cảnh. Căn phòng rất rộng, không gian sáng sủa, chính giữa là cái bàn gỗ sồi nhìn qua rất nặng. Không khó để hình dung mỗi ngày trăm vạn chuyện lớn nhỏ của một đại vương quốc đều được xử lý trên chiếc bàn này. Thủy Tức Chân Nhân hơi híp mắt, quan sát từng luồng dương khí cường thịnh, một phần do phong thủy quá tốt, một phần xuất phát từ vị chủ nhân nơi đây. Sau khi đánh giá sơ lược, lão lại chuyển mắt nhìn thẳng lên bóng lưng ẩn hiện một con bạch long. Thuật bói tướng của lão đã đạt tới trình độ thượng thừa, trong tích tắc nắm bắt được những điều thấy rõ và chưa rõ...

Thì ra đây là Chu Lạc Ca Dương, là Thái Minh đế của Khương La hoàng triều. Thủy Tức Chân Nhân lẩm bẩm hai lần cái tên này. Đôi vai rộng để gánh giang sơn, vóc người cao lớn đủ nâng lên tất cả, bàn tay sạch sẽ với những gấp khúc vương giả, sau ót cất giấu sự thâm trầm, khôn khéo,... có lẫn tịch mịch và cô độc của một nhân cách lớn...

Thủy Tức Chân Nhân thu lại tầm mắt, tự đáy lòng buông tiếng thở dài... Một "thiên tử" như vậy chắc là con dòng chính thất của trời, thuở đời nay con trời cũng phân trưởng, thứ... luôn có sự bất bình như vậy...

Đứng quay lưng nhìn ngắm chậu hoa sen bên bệ cửa sổ, Ca Dương để mặc Thủy Tức Chân Nhân đánh giá mình. Hắn không còn quá bận tâm lai lịch của ông như thế nào nữa. Lão già này, nếu là bạn thì tốt, là kẻ thù cũng chẳng sao. Mục đích của lão là gì, Ca Dương không tin mình không thể nhìn ra. Lúc này hắn chỉ chú tâm ngắm hoa, tự hỏi lòng mình đúng hay sai, nên hay không nên... Bởi vì có đôi lúc, hồi ức là con dao hai lưỡi, chỉ cần xem nó như kỷ vật giấu dưới đáy rương, mặc cho bụi thời gian vùi lấp. Một khi quyết định lôi nó ra, hậu quả không phải ai cũng lường trước được...

Ca Dương vuốt ve búp sen hồng ửng, rất giống làn da của người thiếu nữ. Hắn chắp tay sau lưng, đủng đỉnh trở về chỗ ngồi, cất tiếng nói không hờn không vui:

-Lão đạo sĩ này, nhìn thấy trẫm mà không hành lễ?

-Thái Minh đế thứ tội cho kẻ bần tiện, ta là con dân Đại Thế, không phải người Khương La, xét về lý không cần quỳ trước chúa Khương La!

-Ồ, vậy sao? Chẳng lẽ ông chưa nghe câu "nhập gia tùy tục"?

-Haha, bệ hạ quá lời, kẻ bần tiện chưa "nhập gia", chỉ mới làm khách đến chơi một chuyến!

Ca Dương nhếch mép, duỗi hai chân gác lên bàn, đế giày đung đưa chỉ thẳng mặt ông lão. Hắn lại quay về bộ dạng vô lại thường ngày.

-Gan ông cũng khá to đấy, không quỳ thì không quỳ, dẫu sao thứ trẫm muốn không chỉ một đôi chân biết quỳ. Nghe nói ông thông thiên đạt lý, nhìn thấu vận mệnh, đoán được kiếp số con người... Vậy bây giờ trẫm hỏi ông, vận mệnh của trẫm sẽ thế nào?

Thủy Tức Chân Nhân đưa tay vuốt râu, nói một cách hàm súc:

"Mệnh ở người, không ở trời. Gieo nhân nào sẽ gặt quả ấy. Kẻ bần tiện không dám soi mói vận cách của bệ hạ, nhưng nếu bệ hạ đã hỏi vậy ta đành phải trả lời: Mệnh ngài phúc thọ vô biên, trời sinh nắm giữ nghiệp lớn. Tuy nhiên về đường nhân duyên khá trắc trở, nếu không cố gắng cải biến thì tuổi già đơn độc, vô con vô tự!"

Lão nói xong, cả thư phòng im phăng phắc, một chiếc kim rơi cũng sẽ giật mình. Ca Dương nhìn chằm chằm dáng vẻ tự tin nhưng không đắc ý của ông, cười nhạt hỏi lại:

-Tuổi già đơn độc, vô con vô tự? Nói một hoàng đế không có con cháu, chẳng lẽ lão chán sống rồi?

-Hahaha... bệ hạ tức giận ta cũng không rút lại lời. Đây hoàn toàn là sự thật. Nhưng ngài cũng đừng lo lắng, chẳng phải đã nói "mệnh ở người" hay sao? Khó khăn nào cũng có cách hóa giải!

-Được rồi, cứ như ông nói, trẫm và ông sẽ bàn về "cách hóa giải" này sau. Hiện giờ điều trẫm muốn nhất là nhìn thấy toàn bộ cuộc đời kiếp trước. Một lời không quanh co, ông có làm được không?

Thủy Tức Chân Nhân hơi nhíu mày, hiển nhiên lão cũng không ngờ Ca Dương sẽ yêu cầu như vậy. Nhớ lại kiếp trước? Liệu có thể sao? Lão lại thâm trầm vuốt râu, trong đầu nảy sinh vô vàn suy tính...

-Bệ hạ, kẻ bần tiện cũng xin nói rõ. Muốn nhớ, ta hoàn toàn có cách. Tuy nhiên, người xưa vẫn nói "bánh ít ném đi bánh quy ném lại", ngài muốn thấy tiền kiếp, vậy phải trả giá bằng dương thọ kiếp này. Bệ hạ, ta không thấy được dương thọ của ngài nên không thể nói nó bị mất bao nhiêu, còn lại bao nhiêu. Một việc nhiều rủi ro và phải đánh đổi như vậy... bệ hạ vẫn muốn làm sao?

Gian phòng lại lần nữa rơi vào im lặng. Thủy Tức Chân Nhân ung dung chờ đợi, dường như quyết định của Ca Dương ông chẳng quá bận tâm. Hoàng đế ngồi trên long ỷ, ánh mắt đã rơi vào hư không... Dương thọ, nghĩa là kiếp này hắn phải sống ngắn đi một chút. Đối với bất kì ai, nhất là một vị vua, thời gian trên cõi đời quý báu biết dường nào. Chỉ nghe nói hoàng đế muốn tìm thuốc trường sinh bất tử, chứ chưa nghe nói hắn ngại mình sống quá lâu bao giờ!

Có lẽ là nửa giờ, cũng có lẽ là một khắc, cuối cùng Thủy Tức Chân Nhân nghe được tiếng trả lời:

"Được, trẫm chấp nhận!"

Chương 2: Cẩn Thiện kể chuyện

Lúc biết tin Chu Lạc Phong soán vị, ta và phu nhân đã sớm bỏ chạy đến một nơi rất xa. Cẩn gia hầu như tan đàn xẻ nghé, ôm theo một số tiền bạc của cải rời khỏi kinh thành. Nhà họ Cẩn trên dưới có tám chi, tính luôn các bác các chú, ta không biết bọn họ đã đi đâu, chỉ cần an toàn rời khỏi Khương La thì tốt rồi. Phu nhân ngồi trong xe vẫn ôm khăn tay khóc thút thít, thật là làm khó bà ấy, một tiểu thư nhà quan từ bé chưa từng trải qua hoạn nạn, lần này chắc bị dọa chết khiếp rồi. Tiểu Ngọc đang khuyên nhủ mẹ nó, con bé thấy vậy mà rất tỉnh táo và kiên cường. Thật là đứa nhỏ ngoan!

-Mẫu thân, bây giờ khóc lóc cũng không thể thay đổi được gì, quan trọng là cả nhà chúng ta đã tránh được kiếp nạn, đại ca nhị ca vẫn đang đợi ở Nam Đô, vài ngày nữa mọi người sum họp rồi sẽ bàn tính lại! Mẹ phải cố gắng lên, vẫn còn chúng con đây mà!

Thiếu Hoa hơi nguôi ngoai, khàn giọng bảo Tiểu Ngọc:

-Đều do mẹ không tốt, con và A Bảo đã đính ước rồi, bây giờ nhà mình ra thế này, chuyện chung thân đại sự mẹ không làm chủ được! Rồi còn ông ngoại con không biết ra sao, tuy ông ấy chỉ là một quan Đô đốc nho nhỏ nhưng mẹ rất lo, lỡ như bị chúng ta liên lụy...

Bà vừa dứt lời, bầu không khí trong xe liền trở nên nặng nề. Cho dù ta đã lo liệu từ sớm nhưng không thể chu toàn tất cả. Cẩn gia lặng lẽ dọn đi vào nửa đêm, không hề tiết lộ tin tức cho ai. Bên nhà nhạc phụ cũng vậy, ông ấy không phải quan lớn thường vào triều nhưng mang tiếng gả con gái cho Hầu phủ, ít nhiều sẽ bị truy xét tới. Chỉ hy vọng Chu Lạc Phong đừng quá tuyệt tình, chừa cho bọn họ một con đường sống. Ta ngồi trước xe đánh ngựa, không ai có thể tưởng tượng Hầu gia Cẩn Thiện sẽ có ngày đội nón rơm mặc áo rách mang theo gia quyến vượt biên. Bản thân ta cũng cảm thấy số mệnh trêu người...

-Lão gia, thiếp vẫn không hiểu tạo ra mọi chuyện ra nông nổi này... Bệ hạ... bệ hạ vừa mới băng hà thôi mà... làm cách nào Chu Lạc Phong có thể khuynh đảo hoàng triều như vậy?

Thiếu Hoa quen miệng vẫn gọi tiên hoàng là "bệ hạ", có lẽ trong suy nghĩ của bà ấy bệ hạ giống như bức tượng đá cổ xưa không bao giờ đổ ngã trước mưa bão... Nhà họ Cẩn có một quy tắc bất thành văn: đàn bà không được hỏi việc nước. Ta cũng không trách bà ấy, có lẽ ta nên nói rõ cho cả Tiểu Ngọc hiểu, để bọn họ không mịt mù chẳng biết thế sự. Hai con ngựa song song chạy đều, ta hạ vành nón thấp xuống, quất roi hai cái rồi mới nhàn nhạt đáp:

-Ở đời này, quanh co khó hiểu nhất chính là lòng vua. Bà nghĩ hoàng thượng là người như thế nào? Một cơ nghiệp đồ sộ dường này, ngài không thể chỉ lo xây mà không tính người thừa kế.

-Lão gia, thiếp thân ngu muội, vẫn không hiểu ý ông!

-Haizzz... đã bao giờ bệ hạ làm việc gì mà chưa suy nghĩ đâu? Tân đế lên ngôi năm ngày đã bị lật đổ, bà không thấy chuyện này là cả một âm mưu được suy tính kĩ càng sao? Trên đời này có thứ âm mưu dương mưu nào qua mắt được bệ hạ, trừ khi bệ hạ thao túng cho nó hình thành, thậm chí giúp đỡ cho nó tiến triển...

-Ý ông là...

Thiếu Hoa nghe xong ngỡ ngàng, không dám tin vào tai mình. Tiểu Ngọc thông minh rất nhanh đã hiểu.

-Cha, nói vậy tiên đế là muốn Chu Lạc gia lên thay dòng họ Hạ Hầu? Sao vô lý như vậy? Tân đế vốn là Thái tử, là con ruột của tiên đế, ngôi cha để lại cho con là điều rất đỗi bình thường. Vì sao bệ hạ muốn nhường nó cho người khác, bạc đãi chính con cháu của mình?

-Con gái, ta đã nói lòng vua khúc khuỷu, con có nghĩ cũng đừng nghĩ, thâm tâm bệ hạ suy tính gì chỉ có ngài mới biết! Hạ Hầu Vĩnh Bình có phải cốt nhục của bệ hạ hay không, chuyện này không chỉ nói là được!

Tiểu Ngọc đưa tay bưng miệng, khó lòng tiếp nhận những sự thật kinh trời động đất này. Bản thân ta cũng mịt mờ không rõ, Hạ Hầu Vĩnh Bình có phải con ruột của bệ hạ? Ta luôn linh cảm bệ hạ đối với Thái tử rất nhạt nhẽo, năm thái tử ra đời cũng là năm Dung phi nương nương mất, điều này có quan hệ gì không?

Ta đưa hai mẹ con Cẩn Ngọc đến Nam Đô, gặp được Cẩn Du Cẩn Tiêu, vậy là cả nhà ta đã bình an sum họp. May mắn hai đứa con trai này không theo nghiệp cha, nếu không lại vướng vào cái vòng quan quyền lẩn quẩn. Đó là năm Tân Niên thứ nhất, Chu Lạc Phong lên ngôi, Cẩn gia lưu lạc tha phương, rời bỏ Khương La đi nơi khác làm ăn sinh sống. Ta và phu nhân ở lại vùng Giang Vân thuộc Mạn quốc, về sau các con đều dựng vợ gả chồng chỗ này, không ai biết chúng ta lai lịch ra sao.

Ta sống đến năm bảy mươi tám tuổi, vui vầy con cháu một nhà, cuộc đời không có gì để tiếc nuối. Khi ta chết, linh hồn ta vẫn nhớ quê hương mà lênh đênh trở về lần cuối. Ta đi vào hoàng thành như xưa mà đã khác xưa, cung vàng điện ngọc không còn bóng dáng Hạ Hầu gia, thực sự đã tẩy sạch sẽ chẳng lưu dấu vết. Bệ hạ, nghiệp lớn một tay ngài xây rồi một tay ngài phá đổ, có phải rất hài lòng không?

Hồn ta trôi dạt vô định, cuối cùng bị một tiếng hát xa xăm thu hút, đi đến Phù Dung Trì. Cái đầm này bây giờ gọi là U Trì, năm đó Chu Lạc Phong thanh tẩy triều đình, vùi xác không ít người xuống đáy đầm. Bùn ở đây rất thích hợp cho việc phân hủy xác, chỉ bốc mùi khủng khiếp trong vài tháng, sau đó hoa cỏ trong hồ càng thêm xinh đẹp. Ta đi đến U Trì, lòng thầm nghĩ sẽ được gặp vài tên bạn già từng kề vai sát cánh năm xưa. Nhưng ngoài dự đoán, U Trì rất tĩnh lặng, không có oan hồn lây lất, không có ma cô quỷ dạ... rất bình yên... Ta khó hiểu nhìn ngắm sen trong hồ, chẳng lẽ Chu Lạc Phong đã mời đạo sĩ pháp sư gì đó về trừ tà?

Tiếng hát lạ lùng lại vang lên, bấy giờ ta mới nhìn rõ một cô gái rất quen mắt đang ôm cổ cầm, trôi bồng bềnh giữa biển hoa mà hát:

"Phải chi ta chưa bao giờ gặp, sẽ chưa bao giờ thương, cũng chưa bao giờ nhớ...

Phải chi người không khoác long bào, không giang sơn gấm vóc, không mỹ nhân giai lệ trùng phùng...

Kiếp làm hoa lặng thầm đợi cánh bướm. Bướm bay gần rồi bay xa, nhưng chưa từng ghé lại...

Kiếp làm hoa vẫn nhớ hoài cánh bướm. Bướm bay cao bay thấp, nhưng chẳng bao giờ nhìn thấy ta...

Kiếp làm hoa cứ phải đợi cánh bướm... đến khi hoa tàn, đến khi lá héo, đến khi cành khô... bướm chưa đến một lần..."

Ta thực sự bàng hoàng. Chính là nàng! Nàng vẫn luôn ở đây!

Tuy không còn nhớ rõ khuôn mặt nhưng ta biết Dung phi thích vận áo hồng. Nàng ở trong hậu cung thâm sâu, ta rất ít cơ hội nhìn thấy. Chỉ đôi lần bệ hạ vô tình nhắc tới, đặc biệt là khi ngài ấy say. Dung phi chết trẻ, linh hồn nàng vẫn mang diện mạo ngày xưa, xuân sắc mặn nồng, là một tuyệt thế giai nhân!

-Cẩn đại nhân, ông đến đây làm gì?

Phù Dung rời tay khỏi dây đàn, nhẹ nhàng đáp xuống bên bờ hồ. Nếu tóc nàng không bồng bềnh bay bay, thân thể hơi nhạt màu thì ta sẽ nghĩ nàng vẫn đang sống.

-Ta... Dung phi nương nương... sao...

Ta chẳng biết phải nói gì với nàng. Nàng ở đây lâu năm, cũng đã thấy hết thế sự đổi thay, chẳng có chuyện gì phải nói nữa.

-Cẩn đại nhân có cần ta giúp không?

Ta nhíu mà không hiểu, nàng lại cười nhẹ nhàng:

-Ông vẫn lưu luyến trần thế, không đành lòng buông xuống kiếp này, phải vậy không? Ta có thể giúp ông rời đi, chỉ cần đưa tay ra...

Ta kinh ngạc nhìn xuống bàn tay nàng. Có trăm điều nghi ngờ muốn hỏi.

-Nương nương có ý gì? Ta không lưu luyến gì hết, ta chỉ muốn thăm chốn cũ trước khi rời đi thôi!

-À...

Phù Dung gật đầu thu tay lại, vẫn là nét cười dịu dàng chỉ thuộc về một cô gái hiền hậu và chung tình.

-Có lẽ ông không biết. Tôi vẫn luôn canh giữ nơi này. Tôi đưa tất cả bọn họ về nơi thuộc về mình, bao gồm các hoàng hậu của chàng, bao gồm các triều thần tận trung vì chàng... Tôi nhìn Chu Lạc Phong xóa tên một triều đại, thật lòng không biết vui hay buồn...

-Vậy còn bệ hạ? Nương nương cũng đưa tiễn bệ hạ sao?

Phù Dung rũ mắt xuống

-Không. Tôi trốn trong búp sen, không có gặp ngài ấy.

-Vì sao?

Ta ngơ ngác nhìn nàng, nếu nàng vẫn ở đây thì lẽ ra phải thấy. Thấy những năm cuối đời bệ hạ rất đau khổ và ân hận, thấy việc ngài làm vì nàng, thấy ngài phá hủy tất cả giang san giao cho Chu Lạc Phong. Bệ hạ mù quáng điên cuồng như vậy, chẳng phải vì yêu Dung phi nương nương hay sao? Ta nhìn kĩ khuôn mặt tái nhợt của nàng, đây là biểu hiện của người chết vì ngạt nước. Váy áo nàng hơi ướt, đi đến đây cũng lưu vệt nước dưới chân...

-Nương nương... vẫn còn hận bệ hạ?

Phù Dung mở to mắt nhìn ta, không lắc đầu, cũng không gật đầu

-Tôi không biết. Có lẽ đã quên, cũng có thể còn ủy khuất. Nghiệp chướng của Vĩnh Khang rất nặng, nếu cứ tiếp tục như vậy chàng sẽ phải chịu nhiều hình phạt dưới âm ti. Tôi ở đây để hóa giải chúng, tôi đưa những hoàng hậu đoản mệnh bị chàng giết đi về cõi âm mà không lưu lại oán thù. Tôi dẫn những trung thần bị chàng phản bội đến một cuộc sống mới. Nhưng vào lúc chàng có thể nhìn thấy tôi... tôi lại không dám gặp. Sau này tôi phát hiện mình bị giam cầm ở Phù Dung Trì, không thể vượt qua tường thành hoàng cung. Có lẽ tôi sẽ mãi mãi tồn tại hư vô, trả giá cho những gì mình làm...

-Nói như vậy, thực ra nương nương vẫn yêu bệ hạ. Vì lo lắng cho ngài nên thay ngài dàn xếp, không phải sao?

Phù Dung quay lưng đi, nhón chân bay trở về biển hoa của nàng.

-Tôi không biết và cũng không muốn biết. Bây giờ tôi chỉ là một vu hồn hút linh khí hoa sen tồn tại. Vĩnh Khang đã đi rồi, chúng tôi sẽ không bao giờ gặp lại. Chuyện cũ không cần nghĩ nữa... đều là dĩ vãng...

Ta há miệng muốn gọi nàng lại nhưng phát hiện trên đầu tỏa ra vầng sáng. Ta không còn thời gian nữa, phải đi cho hết con đường thuộc về mình. Lúc ta bị cuốn vào vòng sáng thần thánh, ta nhớ lại tất cả chuyện cũ diễn ra trong kiếp này... Bệ hạ và Dung phi, bọn họ đều đáng thương như nhau, có lẽ giống như lời bài hát, thà không gặp, không quen thì sẽ không đau khổ!

Chương 3: Hà cô cô kể chuyện

Năm ấy, ta đã làm tới chức Thượng Cung tổng quản, đứng đầu sáu viện tám phường nội vụ, ngay cả Thượng thư lục bộ nhìn thấy ta trên đường cũng phải dừng chân chào một tiếng. Ở cái tuổi bóng xế chiều tà, địa vị cao cùng bổng lộc vô vàn dường như không còn nhiều ý nghĩa, chết chẳng mang theo, sống cũng không biết dùng làm gì... Ta lớn lên trong hoàng cung này, trải qua hai triều đại, thấu hiểu nhân sinh và thói đời, chứng kiến thăng trầm cùng biến cố... Lớn tuổi, phiền muộn thường quấy rầy, những đêm khó ngủ ta lại nhớ tới nương nương.

Khi trẻ, ta là cung nữ ở phòng giặt, quá nửa thanh xuân chìm trong hồ nước tẩy đen sì và mùi mồ hôi bốc lên từ vải vóc, bàn tay thô ráp thường bị phồng da vì ngâm nước nhiều ngày. Đứng tuổi một chút ta tạo được quan hệ với gã nô tài trong cung Thái hậu, lo lót ít tiền để đến nội điện làm mama. Trong cảm nhận của ta, hoàng cung chẳng khác gì hồ nước tẩy kia, quần áo giặt rồi sẽ sạch nhưng cặn bã thì lắng lại dưới đáy hồ. Cam chịu ở lại chốn này chỉ có hai loại người, một là thân bất do kỷ, hai là mưu cầu phú quý. Ta từng nghĩ tới việc xuất cung nhưng khổ nỗi không có bà con họ hàng, tuổi chẳng còn trẻ, tương lai mịt mờ. Ta chấp nhận sinh tồn ở đây, trước tiên mong muốn bình an, sau còn hy vọng tìm cây cao mà đậu. Cho nên, ta nằm giữa hai loại người này.

Hôm nọ ta gặp lại Phùng mama, người đã sống cùng một thời với ta. Bà ấy nay tóc bạc trắng, cuộc sống ăn sung mặc sướng xa rồi, bây giờ phải làm công việc rửa rau gọt củ ở phòng bếp, nỗi khắc khổ in hằn lên từng nếp nhăn trên khuôn mặt. Phùng mama là một trong số những người già nhất, nội vụ chủ trương không dùng người quá năm mươi tuổi, để ít tốn chi phí thuốc men. Mười mấy đôi mươi có thể làm cung nữ hầu hạ các nương nương, phục vụ tiệc tùng và nghi lễ trong cung. Cho nên bao giờ nhìn vào cũng thấy toàn trai xinh gái đẹp, thật ra kẻ già nua xấu xí đều không có cơ hội lộ diện. Đến độ ba mươi là thời kì quan trọng nhất, nếu tư chất tốt và nhiều may mắn họ có thể trở thành thân tín của ai đó, dựa vào cây cao mà từ từ leo lên, tìm cơ hội tiến thân. Ngược lại, khi thời cơ không mỉm cười, họ sẽ mãi lay lất trong phận tôi tớ, ngậm ngùi làm lụng chờ một ngày qua đi, từ đấy không ai biết họ là ai, hoàn toàn chìm nghỉm như hạt cát giữa sa mạc mênh mông. Đâu ai muốn mình sống đời uổng phí và vận may thì không ban phát cho tất cả mọi người. Tranh đoạt! Đó là tất yếu!

Cuộc chiến danh lợi trong chúng cung nhân cũng gây cấn không thua gì phi tần tranh sủng. Năm đó ta và bà Phùng đều là mama ở phòng nội vụ, cố gắng nhiều năm cuối cùng được phân công hầu hạ hai vị chủ tử. Phương Mẫn và Phương Lan đều trẻ đẹp, xuất thân từ viện dệt hoàng cung, vì đồng trang lứa lại cùng một họ nên các nàng nhận nhau tỷ muội. Một ngày nọ bầu trời nắng đẹp, hai cô đem lụa mới nhuộm ra sân phơi. Hồng hồng tím tím những thước vải óng ả, bay nghiêng nghiêng trên những sào tre. Phương Lan xinh xắn tinh nghịch, Phương Mẫn điềm đạm dịu dàng, năm đó họ quý mến nhau như chị em ruột thịt để rồi về sau là tất cả bội bạc phũ phàng...

Hình ảnh mỹ nữ chơi đùa giữa biển gấm hoa vô tình lọt vào mắt hoàng đế, chuyện tiếp theo không kể cũng biết. Sau này, khi Phương Lan đã thành một trong tứ phi, người ta vẫn thường ca tụng "sự tích" năm đó, nịnh nọt bảo rằng Lan phi có số phú quý, giữa vạn người lay động lòng vua. Họ đều quên rằng, chuyện tình yêu lãng mạn truyền kì kia còn có một người tên là Phương Mẫn – Phương tiệp dư của ta.

Phi tần có xuất thân tốt đều mang theo thân tín vào cung. Cơ hội dành cho mama trong nội vụ không nhiều. Năm ấy ta bàn bạc với bà Phùng, quyết định đi theo Phương tiệp dư. Nàng đẹp hơn Phương Lan một chút, nhất là đôi mắt rất hút hồn. Ta cứ nghĩ người đẹp thì sẽ được sủng, tương lai ta cũng thơm lây. Bà Phùng chọn Phương Lan mà không bất mãn, còn chê ta chẳng có mắt nhìn người. Mười năm sau cuối cùng ta đã hiểu, ta không có tài xem tướng giỏi như bà ấy. Phùng mama ngày xưa luôn dương dương tự đắc, bà ta trở thành mama tổng quản ở cung Lan phi. Còn ta cứ mãi lẩn quẩn trong cái viện dột nát, hầu hạ Phương tiệp dư không tranh không cầu. Phương Mẫn đẹp thì có đẹp nhưng tính tình hiền lành quá. Ban đầu hoàng đế để ý tới nàng nhiều hơn, nhưng qua một năm thì nhàm chán, cảm thấy Phương Lan khéo ăn nói, biết chiều chuộng, còn hay làm nũng, nữ nhân như vậy mới hấp dẫn!

Ta khuyên nhủ nương nương rát cổ họng mà nàng nghe tai trái ra tai phải, vẫn nhu nhược như xưa. Ta quả thực chọn lầm, người như Phương tiệp dư sẽ không bao giờ thăng tiến nổi. Lợi thế duy nhất của nàng chính là Bát hoàng tử. Ta thực tâm yêu thương đứa nhỏ này, bế nó trên tay từ khi đỏ hỏn đến lúc biết chạy nhảy, biết đánh vần. Bát hoàng tử là cậu bé ngoan ngoãn đáng yêu, ta chỉ buồn phiền một nỗi – nó yếu mềm y như mẹ nó! Tiểu hoàng tử trẻ dại, ngây ngô, một miếng bánh đậu xanh cũng có thể mua chuộc được. Sống trong hoàng cung tứ bề là lang sói, thử hỏi tính nết như vậy có thể sinh tồn không?

Trời phù hộ, hoàng tử bình an lớn lên. Nhờ mẹ nó lương thiện nên tích đức cho con, hoạn nạn mấy lần đều thoát chết trong gang tấc. Số hoàng tử thật lớn! Hầu hạ Tiệp dư nương nương hơn mười năm, sự bất mãn ban đầu đã biến thành kề vai sát cánh. Con người dù thế nào cũng là loài nặng tình cảm, sống đâu quen đó, ngày ngày cận kề một người thì dễ nảy sinh quý mến thương yêu. Ta cảm thấy Phương Mẫn là một bông hoa sen tinh khiết, xòe cánh lặng lẽ trong hồ nước tẩy này, mùi hôi và cặn bã không làm mờ đi nét đẹp của nàng. Nương nương tốt lắm, chưa bao giờ trách phạt hạ nhân, hầu hạ nàng không có khả năng thăng tiến nhưng ít ra an tâm, không lo có ngày vì làm vỡ cái tách mà cụt tay cụt chân.

Cứ tưởng ẩn dật an phận thì ông trời sẽ thương, ai ngờ tai ương ập tới. Năm Khang nhi lên mười ba tuổi nương nương lại có thai. Nàng bị vắng vẻ nhiều năm, không ngờ một lần bệ hạ say rượu vào nhầm phòng lại khiến nàng hoài thai. Lúc thái y báo hung tin, ta đã thấy bầu trời như sập xuống. Lăn lộn trong cung hai mươi năm, dĩ nhiên ta hiểu quy tắc ngầm của hoàng hậu. Phương Lan thăng tới chức phi nhưng nàng ta cũng chẳng là gì so với Hoàng hậu nương nương – người nắm quyền sinh sát trong tay. Đối với hoàng hậu, phi tần muốn gian xảo thế nào cũng được chỉ cần không tổn hại lợi ích của bà và không có con trai bên gối là được. Hoàng tử sinh ra không ít nhưng chết non và bệnh tật rất nhiều, người khỏe mạnh cho tới bây giờ đều nhờ vào nhà mẹ thế lực lớn. Phương tiệp dư không có gia thế gì nhưng lại sinh ra và nuôi lớn Bát hoàng tử. Hoàng hậu từ lâu nghi kị điều này, xưa nay ngao cò tranh đấu, kẻ đắc lợi bao giờ chẳng là ngư ông? Với tính tình của hoàng hậu, bà ấy tuyệt đối không để Tiệp dư sinh thêm đứa nữa.

Ngoài dự đoán của ta là hoàng hậu không lập tức hành động. Bà ấy có thai chỉ muộn hơn nương nương nửa tháng mười ngày. Cái thai này vô cùng quấy, đến tháng thứ sáu mà vẫn nghén trầm trọng. Phương tiệp dư sắp đến ngày lâm bồn, lòng ta vừa mừng vừa hoài nghi. Hoàng hậu quên rồi sao? Hay nàng ốm nghén không có tâm trí đối phó Phương Mẫn nữa? Suy đoán của ta hoàn toàn sai. Phải biết rằng nữ nhân mất con khi nó vừa thành hình sẽ không khổ sở bằng người an thai tám tháng đột nhiên bị tước quyền làm mẹ. Thai lớn, mức độ nguy hiểm càng cao mà đứa bé đầy đủ tay chân sẽ đáng thương hơn một khối thịt nhỏ tròn tròn. Thì ra đây mới là điều hoàng hậu muốn! Tàn ác làm sao, cay độc làm sao!

Ngày hôm đó bầu trời âm u, tiệp dư đau đớn nhiều canh giờ sau khi uống thuốc. Nữ y nhìn nhau lắc đầu, nếu nàng không lập tức tống ra cái thai chết thì bản thân nàng cũng sẽ chết theo. Ta đứng bên giường liên tục lau mồ hôi cho nương nương, không ngừng nhắc nhở nàng, Bát hoàng tử cần có người chăm sóc, không thể bỏ thằng bé trên cõi đời này!

Nương nương của ta thường ngày nhu nhược yếu đuối nhưng có những giây phút nàng kiên cường hơn ai hết, tất cả vì Khang nhi. Hôm ấy nương nương qua khỏi, sau khi nàng đau đớn ngất lịm ta mới run rẩy mở cửa phòng, lại phát hiện tiểu hoàng tử ngồi co ro trong góc tối. Thằng bé ngẩng đầu nhìn ta, nụ cười ngây ngô nhưng đôi mắt không che nổi sự hoang mang lo lắng. Năm ấy bệ hạ mười ba tuổi.

Nương nương thoát một nạn rồi cũng gục ngã ở kiếp nạn tiếp theo. Bát hoàng tử ngây ngơ ngờ nghệch của ta, ta không biết ngài đã trưởng thành khi nào, không biết chuyện gì đã diễn ra bên trong cái đầu non nớt ấy. Mười ba tuổi, hoàng tử ám sát Bảo Ngọc công chúa trong lễ đầy tháng, bị tống vào đại lao. Tiệp dư nương nương biết tin đã không thể nào gượng nổi. Sau khi sảy thai sinh mệnh nàng mong manh như ngọn đèn trước gió, bản thân nàng cũng hiểu mình không thể sống dài. Thời gian đó nương nương đi cầu cạnh Lan phi – người em gái ngày nào giờ đã là một con khổng tước, núp dưới bóng râm hoàng hậu. Thiết nghĩ tiệp dư xưa nay hiền lành, chẳng gây thù oán với ai nhưng thói đời luôn có niềm vui trong nỗi đau kẻ khác. Hoàng hậu một bên khóc lóc đòi hoàng đế phân xử, Lan phi nhận ủy thác của Phương Mẫn nhưng lại dẻo mồm bịa đặt, nói Bát hoàng tử vô lễ ngỗ nghịch, thói hư tật xấu gì cũng có. Các nương nương khác thì không cần bàn, họ vốn không ưa Phương tiệp dư hay tỏ ra thánh thiện, được dịp chi bằng ném đá xuống giếng. Tứ bề công kích, rốt cuộc hoàng đế thực sự bị chọc giận, không còn quan tâm Bát hoàng tử là máu mủ của y.

Ngày đó Phương tiệp dư đột nhiên dậy sớm tắm rửa sửa soạn, mặc xiêm y hồng cánh sen yêu kiều. Nàng dưỡng bệnh vài tháng, sắc mặt xanh xao bỗng trở nên hồng hào một cách quái lạ. Tiệp dư gọi ta vào tâm sự, nhiều năm tình chủ tớ chỉ có hôm ấy nàng nói rất nhiều, nói thật lòng, khiến ta không thể cầm được nước mắt. Tiệp dư của ta, cô nên được sinh ra một gia đình khá giả, nên được phụ mẫu yêu thương, gả cho người đàn ông tốt, hạnh phúc làm vợ làm mẹ. Tại sao đóa hoa vì một cơn gió mà rơi xuống dòng, bị cuốn đi trăm ngả?

Giống như ánh sáng le lói cuối cùng của ngọn đèn trước khi tắt lịm, nương nương dặn dò ta chăm sóc bát hoàng tử, sau đó nàng một mình đi tìm bệ hạ. Ta bất an đi qua đi lại trong phòng, cuối cùng điều mình sợ nhất đã xảy ra. Khi đi nàng đẹp lộng lẫy, khi về phải có người khiêng. Tiệp dư chết thay cho hoàng tử, đó là sự hy sinh cuối cùng của người mẹ bất lực dành cho con...

-Hà cô cô, bà thấy Dung phi thế nào?

Bệ hạ đột nhiên lên tiếng, làm gián đoạn dòng tưởng niệm của ta. À, ngài chính là bệ hạ, cũng là Bát hoàng tử ta nuôi nấng từ bé.

-Bẩm, lão nô không giỏi xem tướng, chỉ cảm thấy Dung phi nết na hiền hậu, tính tình có phần giống với nương nương ngày xưa...

-Vậy sao...?

Bệ hạ thì thầm như tự vấn, ta khó hiểu nhìn lên. Thiên Vĩnh đế tuổi trẻ tài cao, lên ngôi hơn mười năm đã mở rộng Khương La ra bốn cõi. Trong mắt ta, ngài vẫn giống như tiểu hoàng tử năm ấy – nhìn ta tỉ mỉ tắm xác cho nương nương mà nghiêm túc cam đoan: "Hà cô cô, chỉ cần bà không thay đổi, sau này ta sẽ cho bà phú quý vinh hoa, tuổi già hưởng phước!" Bây giờ ta đang hưởng phước, đã làm tới chức Thượng cung, nhận lấy ngưỡng vọng của bao người. Ta nên vui mừng mới phải!

Bệ hạ im lặng nhìn xuống tách trà, ta thật không rõ ngài có vướng mắc gì. Nhiều năm rồi, hiếm khi ngài gọi ta đến chuyện trò như vậy. Vẫn dõi theo bệ hạ từ nhỏ đến lớn, lòng ta hiểu rõ phía sau vẻ ngang tàng ấy, phong lưu ấy chỉ có một trái tim hiu quạnh dường nào...

-Dung phi có thai. Trẫm không tin mấy lão thái y lắm. Bà hãy sắc cho nàng bát thuốc... đừng để nàng đau đớn như mẫu thân năm đó...

Ta kinh hãi ngước nhìn bệ hạ. Nước trà nguội lạnh không thể sưởi ấm nữa, bàn tay ngài bất an xoay xoay cái tách, giống như muốn dùng thân nhiệt hâm nóng lại.

-Hoàng thượng... tại sao?

Ta biết không ít chuyện về vị Dung phi nương nương này. Hậu cung đồn đại nàng say mê bệ hạ, mặt dày đi theo phái đoàn của Ngũ công chúa Trung Lương, quyết tâm gả vào Khương La. Hoàng thượng nể tình Sở đế, phong cho hai chị em họ đều làm phi nhưng đãi ngộ thì khác nhau một trời một vực. Dung phi mang tiếng làm phi nhưng không có lấy một cái phong hào, dựa vào tên khai sanh mà gọi là "Dung". Nàng ở trong một cái hiên nhỏ cũng chẳng có tên, vì nằm gần rừng trúc nên tạm kêu "Trúc Uyển". Dung phi chỉ đem theo một tỳ nữ và ít đồ cưới, nội vụ cấp thêm một mama, hai a hoàn, một nô tài chạy việc. Trúc Uyển của nàng sơ sài và vắng vẻ y như lãnh cung.

Thời gian đầu, hoàng thượng không hề nhìn đến nàng, hậu cung đều thầm hả hê, khinh thường loại con gái cọc muốn tìm trâu, mặt dày mày dạn. Ta cũng nghe Lưu Hải kể lại, khi ở Trung Lương nàng bày mưu xuất hiện trong tiệc đề thân của Sở Tâm Huệ, trình diễn một điệu múa gọi là Phù Dung Lưu Hương, cướp hết sự chú ý của mọi người. Sở Phù Dung đã có hôn ước với một thiếu gia vọng tộc nào đó ở quê nhà, dự tính sau khi Ngũ tỷ thành thân liền lên kiệu hoa. Ai ngờ nàng nhất kiến chung tình với bệ hạ, bất chấp mẫu phi phản đối, bất chấp phụ hoàng không vui, đã chủ động cầu xin được gả cho hoàng thượng. Thời nay có một cô gái dạn dĩ như vậy cũng hiếm, ta không có ác cảm với nàng, một người như bệ hạ nữ nhân nào không yêu? Chỉ là họ có dám theo đuổi hay không.

Gả vào Khương La rồi, cái giá phải trả là sự lạnh lùng của đế vương. Lưu Hải đối với thái độ của hoàng thượng không thể nào hiểu nổi. Hắn là con nuôi ta dạy bảo từ nhỏ, thông minh lanh lợi, đi theo hầu hạ hoàng thượng nhiều năm rồi, ít có chuyện gì mà hắn thấy phân vân như chuyện của Dung phi. Lưu Hải từng xin ta chỉ giáo, kể lại tất cả suy đoán của hắn về tình cảm của bệ hạ. Lúc Dung phi múa điệu hoa sen, hoàng thượng đã mất hồn. Khi Dung phi quỳ gối trước đại điện thỉnh cầu Sở đế, hoàng thượng im lặng nhưng ánh mắt lấp lánh chờ mong. Ngày chuẩn bị trở về, ngài dặn dò thêm một cỗ xe trống, dường như sớm đoán ra Dung phi sẽ bất chấp tất cả đi cùng bọn họ. Rõ ràng bệ hạ ngấm ngầm mở đường, khai thông mọi lối để thuận lợi đưa nàng về Khương La. Bề ngoài giống như rất khó xử, không chủ động, không cố ý... thực chất đã ra ám hiệu với Sở Chính Hàn, khiến ông rốt cuộc phải thả người... Cho nên, bề ngoài giống như Dung phi theo đuổi bệ hạ, tự ôm hành lý bỏ nhà theo trai. Thực chất là bệ hạ quyến rũ người ta, vờ vịt đắc ý nhìn con thỏ ngốc chui đầu vào rọ với tinh thần cam tâm tình nguyện!

Lưu Hải cảm giác bệ hạ vô cùng hứng thú với Dung phi nhưng vừa đặt chân trở về hoàng thành thì thái độ xoay chuyển một trời một vực. Ngài không ngó ngàng gì nàng ấy nữa, ăn ở đều đối đãi đạm bạc, chẳng bao giờ hỏi han, có vô tình gặp gỡ cũng thờ ơ ghẻ lạnh. Tình trạng này kéo dài nhiều tháng, tưởng như Dung phi nương nương thực sự hết thời, vậy mà đùng một cái nàng được thị tẩm. Chuyện lần đó cũng rất phức tạp. Bệ hạ uống hơi nhiều nhưng Lưu Hải biết rằng ngài không say. Tình cờ gặp được Dung phi buổi tối đi dạo quanh bờ hồ bèn ôm nàng về Dụ Kiến cung. Chính chuyện này đã chọc giận đến Hoàng hậu, phải biết rằng đến hoàng hậu còn chưa từng được nằm lên long sàn!

Lưu Hải thở dài chả hiểu ra sao, đặc biệt là khi bệ hạ u ám ra lệnh không cho Kín Sự phòng ghi chép chuyện đêm đó. Thị tẩm mà không ghi lại, nếu Dung phi đột nhiên mang thai chẳng khác nào tội chết! Hoàng thượng muốn giết nương nương sao???

Khi hắn hỏi ta vấn đề này, ta lại không nghĩ như vậy. Với tính cách của hoàng thượng, muốn diệt một người đơn giản là lôi ra chém, không cần làm chuyện lòng vòng như vậy. Ngài không muốn Kín Sự phòng ghi chép, phải chăng chỉ tự đánh lừa bản thân? Rõ ràng say mê Dung phi nhưng chính mình không muốn thừa nhận. Từ đó Kín Sự phòng hiểu ý không còn đề cập tới chuyện này. Bây giờ nương nương mang thai, sự việc nói lớn không lớn, nói nhỏ không nhỏ. Xét về quy tắc thì sai nhưng chỉ cần bệ hạ lên tiếng lẽ nào không đúng? Hậu cung không biết chuyện của Kín Sự phòng nhưng họ đều rõ Dung phi đã được thị tẩm. Đứa nhỏ này hoàn toàn không bị nghi ngờ...

-Hoàng thượng, lão nô nghĩ vấn đề này rất đơn giản. Sửa lại sổ sách một chút, như vậy tiểu long tự có thể quang minh chính đại chào đời... Chỉ là chuyện giấy mực chẳng đáng mấy đồng, có phải bệ hạ đã nghĩ quá phức tạp không?

Hoàng thượng cười nhạt, bàn tay bóp trán có chút mệt mỏi đáp:

-Hà cô cô hiểu sai rồi... Trẫm không muốn đứa bé này, trời cao cũng không muốn, nó sinh ra là một thứ tội lỗi. Bà biết vì sao trẫm không cho phép Hồ công công nhắc tới chuyện này không? Bởi vì mỗi khi thức dậy trẫm đều cảm thấy mình làm sai, sai lại sai, trầm luân trong lầm lỗi... ai lại muốn ghi chép chuyện xấu của mình chứ?

Ta im lặng quan sát bệ hạ, vừa hiểu vừa không hiểu. Giữa hoàng thượng và nương nương còn có uẩn khúc gì?

-Tóm lại, chuyện này trẫm tin tưởng giao cho bà, bà suy nghĩ kĩ phương thuốc, cố gắng hạn chế tất cả rủi ro cho Dung phi. Làm sớm một chút, đứa nhỏ chưa lớn sẽ tốt hơn...

Điều này ta rất hiểu, cái thai nhỏ, không đáng thương như lúc đệ đệ của ngài bị tước đoạt sự sống. Ta cúi đầu nhận lệnh, chầm chậm bước ra khỏi phòng. Trước khi cánh cửa khép lại ta đã kịp nghe dặn dò cuối cùng:

-Nếu... nếu nàng kịch liệt chống đối, vậy thì... cứ để nàng sinh đi!

Ta cứ niệm đi niệm lại câu nói này. Đã quyết định bỏ nhưng lại chừa một đường lui. Bệ hạ của ta, ngài rõ ràng yêu đứa nhỏ, muốn nó được sống sót trên đời. Đã như thế, tại sao còn dối lòng nhẫn tâm?

Khi bưng chén thuốc đắng tới Trúc Uyển, ta cầu mong Dung phi sẽ kháng chỉ, chỉ cần nàng nói một tiếng, ta lập tức đổ bát thuốc này đi. Ai ngờ Dung phi chỉ cúi đầu tuân mệnh... Nàng nên giống những phi tần khác, sao có thể yếu mềm chịu đựng như Phương Mẫn ngày xưa? Thiệt thòi lắm, biết không? Dại dột lắm, biết không? Chỉ cần một chút thôi, một chút sự vùng vẫy thì đã không sao rồi!

Bệ hạ và Dung phi... haizzz... cả hai đều cứng đầu, cố chấp... Ta đứng ở giữa mà giận thay cho họ!

Có lẽ giống như ca khúc mà nương nương từng hát. Nàng cùng hoàng thượng là loại nghiệt duyên, thà chưa bao giờ gặp để chưa bao giờ yêu, rồi không bao giờ đau khổ! Đứa con thứ nhất là bệ hạ vứt bỏ, đứa con thứ hai chính nương nương không cần. Nếu lần đầu hoàng thượng do dự và bất lực thì lần sau ngài thật sự chờ mong. Mong một kì tích cứu rỗi mối quan hệ đã đi tới bờ vực. Năm ấy Trung Lương chìm trong khói lửa chiến tranh – một trong nhiều nguyên nhân khiến Dung phi không thể lưu lại đứa trẻ. Ta vốn là kẻ ngoài cuộc, những uẩn khúc bên trong không thể hiểu hết nhưng ít ra ta đồng cảm với nàng. Là nữ nhân của hoàng đế, cũng là công chúa Trung Lương, đối mặt với cảnh nước mất tan mà bản thân mình ngồi trong hang cọp như kẻ phản quốc! Cũng do bệ hạ quá tuyệt tình, Dung phi đi tới con đường này, một phần vì sự nhẫn tâm ấy.

Ngày đó ta đã thành bà lão nhăn nheo, không biết lúc nào đi gặp Phương tiệp dư. Ta gượng tấm thân khô héo đến an ủi bệ hạ. Thiên Vĩnh đế lẫy lừng bốn phương, Thiên Vĩnh đế vô địch thiên hạ, ngài vậy mà ngồi khóc như đứa trẻ. Nước mắt nóng rực tựa giọt mặt trời chảy ra từ khẽ tay... Đau lòng sao? Biết vậy thì đừng làm!

-Bệ hạ, đứa nhỏ cùng ngài vô duyên, vẫn có các nương nương khác sinh hoàng tự cho ngài. Bệ hạ đừng quá đau lòng!

Trong cung có bốn hoàng tử ba công chúa, đối với một đế vương thì quá ít ỏi nhưng không phải không có. Chuyện nối dõi tông đường cũng không bức thiết. Xét cho cùng, đứa bé của Dung phi không quan trọng đến vậy!

-Hà cô cô, trẫm không chỉ thương tiếc thằng bé, trẫm đau lòng là vì A Dung! Tại sao chứ? Năm xưa mẫu thân khổ sở vì hoàng đệ, lấy cái chết cứu mạng ta. Nàng cũng là người mẹ nhưng có thể tự tay giết con mình. Bà có hiểu cảm giác của trẫm khi lần nữa nhìn thấy thai nhi đầy đủ nhân hình nằm trên cái khay lạnh không? Giống hệt đệ đệ lúc ấy! Nó là cốt nhục của trẫm, cũng là máu mủ của nàng... Nàng hận trẫm, nhưng thằng bé vô tội mà!

Ta biết đệ đệ chưa ra đời là tâm bệnh vĩnh hằng của ngài. Sau khi lên ngôi, hoàng thượng không từ bỏ mong muốn điều tra lại sự tình năm đó. Ta rất ân hận vì đã dẫn ngài vào phòng, để ngài vô tình nhìn thấy bào thai kia. Trong cung tuy ít hoàng tử công chúa nhưng chưa từng có trẻ con chết non, bệ hạ cực kì quan tâm đến chúng, nếu cung tần không có năng lực ngài sẽ không để họ mang thai, một khi được sinh ra thì không cho phép kẻ nào hãm hại. Lần đầu tiên và duy nhất nhắm mắt từ bỏ chính là hài tử của Dung phi.

Ta hiểu vì sao bệ hạ làm như vậy. Nhớ năm ấy cuộc điều tra đưa tới một kết quả kinh hoàng. Vẫn biết cung đình xưa nay nhơ nhuốc nhưng không ngờ nó phi nhân tính tới mức này. Thời ấy dân chúng mê tín dị đoan, tin rằng đem bào thai ngâm trong hũ rượu sẽ tạo thành phương thuốc trường sinh. Mà chỗ có nhiều thai nhi chết non nhất – không cần nghi ngờ chính là hậu cung. Dưới sự thao túng của hoàng hậu, một đường dây mua bán phi pháp đã hình thành. Triệt phá bí mật ghê tởm này, cuối cùng hoàng thượng tìm được đứa em trai chưa chôn cất tử tế. Ta vẫn nhớ như in ánh mắt khiếp sợ và căm thù đó. Tấm vải đỏ được kéo xuống, để lộ cái chum thủy tinh chứa dung dịch màu vàng. Có một đứa trẻ co người như con tôm bị giam giữ bên trong. Đầu nó to khác thường, thân thể bị rã đi không ít... Hoàng thượng nhìn thật lâu rồi nhắm mắt lại, xua tay gọi người bưng xuống. Người vừa đi khuất ngài liền ôm ngực nôn thốc nôn tháo. Ta chưa từng thấy bệ hạ chật vật như vậy. Đó là nỗi ám ảnh lớn nhất trong đời ngài!

Dung phi nương nương khiến cơn ác mộng kia lặp lại, chính là chạm vào giới hạn chịu đựng của bệ hạ. Chuyện tiếp theo đó là một chuỗi bi kịch liên hoàn mà bản thân ta không cách nào ngăn nỗi... Chỉ trách vận mệnh an bài!

Khi ta quá già rồi chết, ta có gặp lại Dung phi trong cái hồ sen kia. Ta không quá bất ngờ vì nàng vẫn ở đây mà chỉ muốn hỏi nàng duy nhất một điều:

"Vì hận bệ hạ mà nương nương nhẫn tâm từ bỏ đứa trẻ sao? Nương nương có biết đây là đả kích rất lớn đối với ngài không?"

Sở Phù Dung ôm cổ cầm, trôi lơ lửng giữa biển hoa. Nàng tang thương đáp lại:

"Không phải vì hận, ngay cả khi đầu của phụ hoàng bị đem về Khương La, ta cũng không có suy nghĩ muốn bỏ con. Ta quyết định như vậy là vì biết đứa nhỏ mang tội lỗi trên mình, sự chào đời của nó sẽ không được trời đất dung tha. Thà rằng sớm chết đi, còn hơn sống đời bị nguyền rủa..."

"Hà mama, bà có biết không... ta cũng khổ tâm lắm... nhưng ta không thể làm khác được! Bởi vì... ta và chàng... ta và chàng... là huynh muội! Đã loạn luân đến thế rồi, không lẽ còn muốn để lại nghiệt chủng???"

Ta không biết phải nói gì hơn, chỉ đành buông tiếng thở dài. Kiếp này xem như xong rồi, chỉ mong nếu có kiếp sau thì hai người họ không phải đày đọa nhau thêm nữa. Ta xuống âm ti không vội luân hồi mà xin ở lại làm chút việc văn thư. Sau này có nghe Hắc Bạch Vô Thường bàn tán về một linh hồn ngang ngược lại lớn mật, dám đôi co với Diêm Vương, hắn đòi đầu thai cùng dòng họ với một người nhưng tuyệt đối không muốn làm anh em ruột. Đó là cách duy nhất để ở gần nàng, sớm gặp được nàng mà không bị rào cản đạo lý ngăn cách. Diêm Vương đại nhân thực sự bị chọc điên nhưng vì ngại linh hồn này mang long mệnh chín kiếp nên không thể phạt nặng. Cuối cùng Diêm Vương phải thỏa hiệp.

Khi kẻ đó bước vào vòng luân hồi, ta tò mò tới rình xem. Tận mắt thấy hắn đổ bỏ nửa bát Mạnh Bà, bóng lưng quen thuộc đi vào cổng Tam thế, lúc ấy ta mới an tâm quay trở về.

Long mệnh chín kiếp, ngài chỉ vừa đến kiếp thứ hai thôi!

Chương 4: Lưu Hải kể chuyện

Hôm nay Ngũ hoàng tử và Thất hoàng tử chơi trò đánh trận. Ta vẫn đóng vai con chiến mã như mọi khi. Có điều gần đây Ngũ hoàng tử phát phì, ta thực sự không chịu nổi trọng lượng của ngài, bò được một lúc thì tay chân run rẩy không giữ cân bằng được. Ta tên là Lưu Hải – tiểu thái giám ở Đạm Sơn cung.

Trò chơi của các vị hoàng tử rất phong phú, xét cho cùng chỉ có hai loại. Một loại là đem thú nuôi ra hành hạ, loại thứ hai là ngược đãi kẻ nô tài như ta. Hôm trước bị đứng đội táo cho Ngũ hoàng tử phóng tiêu, ta quá sợ hãi mà tè ướt cái quần. Bọn họ xúm lại đá vào háng ta rồi ôm bụng cười khùng khục. Tối về ta lén ôm quần bẩn đi ra ngoài giặt. May là ta mới mười tuổi, dáng người nhỏ bé nên không bị để ý. Quần dính nước tiểu, còn dính cả dấu giày của bọn họ, ta buộc lòng đến phòng giặt một chuyến. Đêm cuối thu se lạnh, ta khom lưng nhúng quần vào hồ nước tẩy. Thành hồ bị ẩm ướt quanh năm nên có lớp rêu mỏng, ta chỉ lo chồm người giặt giũ không chú ý, thế là ngã xuống. Trời sinh ta rất sợ nước, lại không biết bơi. Nửa đêm phòng giặt tối thui, không ai đốt đèn. Ta thoi thóp trong hồ nước đen sì, thầm nghĩ mình sắp chết rồi.

Ngay lúc đó có một đốm sáng lờ mờ đi tới, rồi giọng nữ nhân cất lên như âm thanh hy vọng huyền dịu nhất nhân thế:

-Ai đó?

-C... cứu... cứu mạng....!!!

Ta được người nọ lôi lên từ hồ tẩy, đầu cổ ướt đẫm, cả người bốc mùi hôi thối. Dưới ánh sáng mơ hồ của ngọn đèn lồng, ta nhìn thấy nàng là một nữ nhân không còn trẻ, nét mặt rất hiền từ.

-Cháu có sao không? Có cần tìm đại phu không?

-Dạ... không, không sao...

Ta nào dám tìm đại phu, chữa bệnh cũng tốn tiền mà. Vả lại nếu Trương mama biết ta đổ bệnh bà ấy sẽ không cho ta hầu hạ Ngũ hoàng tử nữa, sẽ tống ta vào hậu viện làm việc nặng. Ta không muốn gánh nước chẻ củi mỗi ngày! Ân nhân của ta họ Hà, dì Hà là cung nữ làm việc ở phòng giặt. Hôm đó dì cho ta mượn bộ quần áo sạch, còn giúp ta giặt đồ bẩn, bảo ta về ngủ sớm ngày mai đến lấy. Hôm sau ta đi tìm dì ấy, nhận quần áo về, còn nhận được ít thuốc cảm sốt phòng thân. Chưa có ai đối tốt với ta như vậy, quen bị đánh chửi nên ta cảm thấy dì Hà như Bồ Tát sống, thầm hứa với lòng phải báo đáp ân tình này.

Vài tháng sau dì được làm mama ở nội viện. Có quyền có chức hơn, dì vẫn đối với ta quan tâm như cũ, thỉnh thoảng lén cho ta ít bạc, ít thức ăn ngon, dạy ta đạo lý sinh tồn trong hoàng cung. Dì Hà thấy ta ngoan ngoãn vâng lời nên nói đùa: "Hay là cháu làm con dì đi!" Ta không suy nghĩ gì gật đầu ngay, ta xem dì như mẹ từ lâu rồi!

Từ đó ta có mẹ nuôi.

Rồi năm ấy mẹ nuôi có chủ tử mới, là một vị Tiệp dư họ Phương không có thanh thế gì. Từ ngày mẹ chuyển đến cung Cần Du ta ít liên lạc hơn. Hiện tại ta là thái giám của Ngũ hoàng tử, nếu quan hệ quá thân sẽ bị nghi ngờ. Phương tiệp dư là một chủ tử tốt nhưng không có quyền thế, may là nàng ta sinh được Bát hoàng tử. Mẹ Hà làm mama đỡ đầu, từ đó ít quan tâm đến ta hơn. Ta vẫn hiếu thuận với mẹ như trước, nếu có tin tức gì quan trọng sẽ báo cho mẹ chuẩn bị, tránh gặp tai bay vạ gió. Bát hoàng tử dần lớn, là một cậu bé dễ thương, hiền hiền, hơi khờ một chút. Những khi có cơ hội ta sẽ tìm cậu ấy chơi, hầu hạ Bát hoàng tử dễ chịu hơn Ngũ hoàng tử nhiều, giá như ta cũng làm nô tài ở cung Cần Du thì hay quá!

Năm Bát hoàng tử mười ba tuổi, Tiệp dư nương nương bị ép phá thai. Chuyện xấu liên tục tới, hoàng tử ám sát công chúa bị giam vào ngục, tiệp dư đổi mạng cứu con. Từ đó cung Cẩn Du vô chủ, tan hoang, tiêu điều... Mẹ Hà vẫn ở lại nơi đó, tiếp tục chăm sóc Bát hoàng tử. Một vị hoàng tử nhỏ tuổi mà không mẹ, không có gia thế họ ngoại chẳng khác gì đồ bỏ đi. Cuộc sống của chủ tớ cung Cần Du rất khổ sở, lương thực bị cắt xén, đồ dùng không đưa đủ, mái đình bị dột cũng không ai sửa. Những năm đó ta thường đi ăn trộm, có chút gì đáng giá đều đưa cho mẹ, để cuộc sống bớt vất vả hơn.

Một đêm nọ ta lẻn vào phòng Ngũ hoàng tử muốn trộm mấy tấm ngân phiếu. Thấy hoàng tử ngáy khò khò trên giường nên khá yên tâm. Hắn là con của Qúy phi, ăn sung mặc sướng, tiền của xài không hết. Ta nghĩ chỉ lấy vài món đồ chắc không bị phát hiện. Hồi hộp cạy mở rương gỗ, vừa thò tay vào xấp tiền thì đột nhiên bị ngăn lại. Trong phòng không đốt nến, ta sợ hết cả hồn. Người kia một tay bịt miệng, một tay ôm vai kéo ta đi. Hắn bay qua cửa sổ, đem theo ta chạy vù vù thật xa. Lúc quay đầu nhìn lại ta thấy cấm vệ xách đèn bao vây cung Qúy phi, may là ta đã chạy kịp.

-Ngu ngốc! Tiền có thể trộm như vậy sao?

Khi người kia đặt ta xuống đất, ta mới nhìn rõ hắn là một thiếu niên cao gầy. Dưới ánh trăng hiện lên ngũ quan trẻ trung anh tuấn. Kẻ này... sao giống Bát hoàng tử vậy nhỉ?

-Ngươi không biết chữ à? Bạc ở chỗ Qúy phi đều có đóng dấu, trộm đồ đi bán thì được, trộm ngân lượng sẽ bị điều tra ngay!

Hắn ngồi trên nhánh cây, hai chân đung đưa tán gẫu. Ta mở to mắt nhìn thật kĩ rồi mới đi đến kết luận.

-Bát hoàng tử??? Sao ngài lại ở đây???

Năm đó hoàng tử mười sáu tuổi, đã cao bằng ta rồi, không phải đứa nhỏ lùn như cây nấm năm xưa nữa. Hắn cười khẩy, điệu bộ thực xấu xa. Hắn ném xuống cho ta một cái đùi gà, còn mình thì ung dung ngồi trên chạc cây nhai hạt lựu.

-Bây giờ người vẫn còn thói trộm vặt à? Không phải Hà cô cô không cho phép người ăn trộm nữa sao?

-Ta... ta... chỉ muốn giúp đỡ nhưng lại không có tiền, ngoài ăn trộm thì đâu còn cách nào nữa?

Bát hoàng tử ngửa đầu nhìn trăng, đem giày ném xuống đất rồi tìm tư thế nằm thoải mái.

-Chỗ ta không thiếu thốn như người tưởng đâu. Bổn hoàng tử không cần người thương hại! Hà cô cô không cho phép người tiếp tục ăn trộm là sợ có ngày bị phát giác. Tới lúc đó hình phạt nhẹ nhất là loạn côn đánh chết! Người đừng để bà ấy lo lắng nữa...

-Nhưng... nhưng...

Bát hoàng tử nhíu mày, búng hạt lựu lốp bốp xuống đầu ta. Hắn lại cười nửa miệng một cách xảo trá.

-Nếu người muốn giúp thì có một chuyện. Chỉ sợ người không dám làm!

Ta ngửa đầu nhìn lên chạc cây. Thiếu niên đó mắt sáng như sao, vóc người hơi gầy nhưng rất có sức lực. Cái màn bay bay vừa rồi cũng đủ thấy võ công hắn không tồi. Ta thực khó hiểu, vị hoàng tử này không được bệ hạ yêu quý, chẳng có ai ngó ngàng nhưng sao hiểu biết nhiều như vậy. Hắn đi lại trong hoàng cung tự nhiên khoái hoạt như cơn gió, cả cấm y vệ cũng xem thường. Hình như ta bỏ sót điều gì thì phải...

-Ngài... muốn nô tài làm chuyện gì?

Bát hoàng tử híp mắt, nói ra những lời rất dọa người:

-Ta muốn người đẩy Ngũ hoàng tử xuống hồ, còn muốn người bỏ thuốc Lan phi nương nương...

Chẳng biết bắt đầu như thế nào Lưu Hải ta lớn gan như vậy. Những chuyện tai tiếng trong hậu cung ít nhiều đều có dính líu đến ta. Dĩ nhiên ta chỉ là một nhân tố nhỏ bên trong, dưới trướng Bát hoàng tử còn có nhiều người ta chưa từng thấy mặt. Đầu quân cho ngài, ta cũng đi hỏi mẹ Hà một chút. Bà ấy cười cười, vừa tán đồng vừa lo lắng bảo: "Làm việc cho bát hoàng tử con phải cẩn thận, tuyệt đối nghe lời ngài. Từ bây giờ cố gắng quan sát một chút, phải hiểu rằng mình không còn là tiểu thái giám chỉ lo phục dịch người khác... Con là người làm đại sự, bất cẩn một chút là mất mạng, tất cả thành quả ngày sau sẽ có hồi đáp!"

Mẹ nói đúng, ta làm chuyện lớn để có địa vị lớn. Khi bệ hạ đăng cơ ngài chọn ta làm công công tổng quản, đứng đầu thái giám trong cung. Chuyện đời ta thật ly kỳ không tin nổi. Ai mà biết Lưu Hải nhát gan hay tè dầm ngày xưa lại trở thành Lưu công công bây giờ?

Năm Thiên Vĩnh thứ mười bốn, bệ hạ đi sứ sang Trung Lương, Cẩn đại nhân cũng đi cùng. Vị Cẩn Thiện này cùng trang lứa với bệ hạ, ngày xưa phụ thân hắn chỉ là một quan văn nho nhỏ. Nếu ta là người âm thầm gây không ít sống gió ở hậu cung thì Cẩn Hoành là người đứng sau chính biến của hoàng triều. Bọn ta đều "nhỏ mà có võ"! Ta làm công công, Cẩn Hoành bây giờ là Quốc sư đại nhân rồi. Ông ấy có duy nhất đứa con trai Cẩn Thiện, nghe nói từ nhỏ đọc sách cốt để phò chúa sau này. Cha hướng nghiệp cho con thật tốt!

Cẩn Thiện đi với bệ hạ, lắm chuyện vui để xem. Trung Lương chỉ là một tiểu quốc mà thôi, ta tin trong ít năm nữa nó sẽ thuộc về lãnh thổ Khương La. Tham vọng của bệ hạ chưa bao giờ thấy đáy. Cô công chúa hòa thân tên Sở Tâm Huệ, là đệ nhất công chúa. Hoàng thượng không quá để ý đến nàng, mỹ nhân ở Đế Đô nào có thiếu. Một Sở Tâm Huệ đẹp đến đâu cũng không còn đặc biệt. Chúng ta đến ngoại giao vừa khéo gặp lễ Hoa Đăng, bệ hạ ham vui muốn xem thả đèn, ta đành ở lại hành cung trông coi mọi việc. Cẩn Thiện thật là đáng thương, hắn bước lọc cọc trên guốc gỗ, mặc nữ y đi theo. Đối với bệ hạ, Cẩn Thiện chỉ có hai tác dụng. Lúc ngài lười biếng thì ném tấu chương cho hắn, lúc ngài nhàm chán thì lấy việc trêu chọc hắn làm vui. Cứ đà này Cẩn đại nhân biết bao giờ mới lấy được vợ!?

Bọn họ trở về hành cung rất muộn, lúc ra nghênh đón ta thực sự bị dọa hết hồn. Trên khuôn mặt trắng trẻo của bệ hạ có một dấu bàn tay đỏ ửng, đủ cho thấy mấy phần công lực bình sinh đều dồn hết vào cái tát này. Ôi, dung nhan của ngài sau một đêm đã thảm hại như hàng đại hạ giá! Biểu cảm đáng sợ của hoàng đế làm ta tò mò, kinh ngạc, kích động, phấn khích mà... không dám hỏi. Tự đáy lòng khâm phục nữ trung hào kiệt nào dám chơi ngài một vố đau như thế! Đàn bà Trung Lương ghê gớm thật, chỉ bị sàm sỡ thôi chứ có gì to tát? Nữ nhân muốn được bệ hạ nhà ta sàm sỡ xếp hàng dài từ Trung Lương về đến Khương La, đó là chưa kể tình hình ùn tắc chen đẩy... hừ!

Nhờ liên tục thoa thuốc và chườm đá, sáng ngày hôm sau vết đỏ đã không thấy rõ, hoàng thượng vẫn có thể tự nhiên ra ngoài. Mọi chuyện không dừng ở đó. Một đêm nọ ta giật mình tỉnh giấc, phát hiện hoàng thượng không ở trong phòng. Cẩn Thiện lập tức có mặt, các ám vệ đi theo bệ hạ ngơ ngác đứng nhìn nhau. Bọn họ không tài nào hiểu được vì sao dưới tấm chăn là một bao gạo mà không phải đương kim thánh thượng!? Phải biết rằng ám vệ không giống thị vệ thông thường, họ trải qua bao trận chiến và sự khổ luyện mới được như ngày nay. Bệ hạ à, ngài quá thất đức rồi, không nên làm tan nát trái tim kiêu hãnh của huynh đệ tổ ám vệ!

Cùng lúc ấy hoàng cung Trung Lương có một phen náo nhiệt. "Đại nội chỉ huy sứ" khi đó là Tam phò mã Lăng Thế, hắn nhận được tin có thích khách đột nhập liền huy động hai nghìn thị vệ đốt đuốc rực trời, lùng sục vây bắt. Ta cùng Cẩn Thiện quan sát tình hình bên ngoài qua khe cửa nhỏ, chân như giẫm trên than. Chắc không liên quan gì đến hoàng thượng nhỉ? Cùng lắm là ngài phóng hỏa giết người thôi, đâu có gì to tát phải làm lớn như vậy!

Vào lúc chúng ta sắp không đứng yên thì cửa sổ bên hông tẩm phòng mở tung. Người nhảy vào là hoàng thượng rồi, ngài mặc y bào trắng, ta không còn lời nào để nói.

-Bệ hạ, ngài đã đi đâu vậy? Thần lo chết đi được! – Người nói là Cẩn Thiện

-Trẫm bảo rồi, đi làm hái hoa tặc!

-Ak? Nhưng... ít nhất cũng nên mặc hắc y... như vậy mới không bị phát hiện!

Hoàng đế nhíu mày cởi ngoại bào bị bẩn, quái lạ hỏi Cẩn Thiện:

-Tại sao chứ? Người không thấy trẫm mặc bạch y đặc biệt có phong thái nho nhã trí thức sao? Đi trêu hoa ghẹo nguyệt mà ăn mặc đen sì, chả hợp bối cảnh gì hết!

-...

Thực ra ta cảm thấy hoàng thượng mặc xanh đỏ tím vàng gì cũng là bộ dạng lưu manh, màu sắc không quyết định nhân phẩm! Nói về chuyện "hợp bối cảnh" càng không nên tranh luận với hoàng thượng, bởi vì đối với ngài, vừa cầm đao giết người vừa gặm đùi gà cũng rất "hợp bối cảnh". Hoàng thượng nhanh chóng thay một bộ trung y, xõa mái tóc ra, mang vào đôi dép trúc,... vừa ngụy trang xong thì hành cung bị thị vệ Trung Lương ập vào. Lăng Thế cất tiếng lanh lảnh uy nghiêm:

-Có thích khách đột nhập, thỉnh cầu Thiên Vĩnh đế cho phép chúng tôi vào lục soát, tránh để thích khách trà trộn vào hành cung, tất cả vì sự an toàn của quý quốc!

Hoàng thượng bộ dạng ngái ngủ gãi đầu đi ra. Ở trên đất khách quê người, chúng ta không hoàn toàn chiếm thế chủ động. Lần viễn du này chỉ đem theo ba trăm ngự lâm quân, số còn lại một nửa canh giữ hoàng thành, một nửa đóng ở biên giới chờ trường hợp cứu giá. Tuy quân số ít nhưng ta không thấy lo lắng nhiều. Ngự lâm quân ở các triều đại trước chưa từng có, từ khi bệ hạ lên ngôi mới bắt đầu thành lập. Nhớ năm ấy Cẩn Hoành hết lời khuyên can, lý lẽ của ông là nuôi dưỡng lính ngự lâm tốn kém gấp mười lần binh sĩ thông thường, trong tình trạng nội loạn vừa dẹp yên, đăng quang chưa bao lâu, quốc khố không đảm đương nổi. Khi ấy bệ hạ đã đáp trả Quốc sư đại nhân rằng: "Tiết kiệm là đức tính tốt của dân cày ruộng nhưng là thói quen xấu của một triều đại. Thay vì tìm cách cắt giảm chi phí sao không nghĩ làm thế nào để tiền của nhiều lên? Hưng thịnh nghĩa là gì? Nghĩa là xa hoa mà không bóc lột dân, nghĩa là lãng phí mà không lo thâm hụt ngân sách! Từ giờ trở về sau, các ngươi chỉ có thể dâng tấu cải tổ kinh tế, phát triển sản xuất chứ không được dâng sớ khuyên trẫm đừng xây cái này, đừng làm cái kia. Trẫm nuôi một lũ thần tử lớn nhỏ để làm gì? Tất nhiên là để các ngươi nai lưng ra cày, kiếm cho đủ tiền đắp vào quốc khố!"

Ta vẫn còn nhớ bộ mặt mướp đắng của triều thần ngày hôm đó. Tuy cách nói của bệ hạ hơi ngang ngược, bề ngoài như tên hôn quân nhưng đạo lý nào cũng không hề sai. Kể từ đó hàng loạt chính sách mới được đề cử, các địa phương chủ trương gia tăng canh tác, thay đổi phương thức, trước làm giàu cho dân, sau nộp thuế lên triều đình. Thần tử dần hiểu được mình phải làm gì để sống chung với vị vua thích tiêu tiền như nước này. Ngự lâm quân sau mười bốn năm đã cho thấy uy lực kinh người, đáng chén cơm bát gạo mà bệ hạ bỏ ra. Bây giờ không có vương triều nào không lé mắt nhìn sang một nghìn lính ngự lâm trong hoàng thành Khương La. Sách lược xây dựng và đào tạo là tuyệt mật, chỉ có ta, Cẩn Hoành và hai người nữa biết. Đây là một tổ chức đầy huyền bí, giống như ám vệ công khai, một người có thể địch trăm. Cho nên với ba trăm binh sĩ đem theo đến Trung Lương, ta hoàn toàn có thể tin tưởng bệ hạ sẽ bình an!

Trở lại vụ ồn ào đêm hôm đó, Lăng Thế đứng đầu đại nội thị vệ, tay lăm lăm thanh kiếm muốn khám xét hành cung. Bệ hạ nhếch nhác từ trong phòng đi ra, ngáp một cái rõ to rồi lim dim hỏi:

-Các ngươi tưởng mình là ai? Nói muốn lục soát thì bổn Quân phải nghe theo à?

Lăng Thế là nhị thiếu gia nhà họ Lăng, anh cả Lăng Kì là Hộ quốc tướng quân đang nắm quá nửa binh quyền Trung Lương. Hắn còn có một tam đệ, nghe nói là con rể hờ của Sở đế. Nhà họ Lăng là đệ nhất thế gia, được vua trọng dụng, ba anh em ai cũng nhiều tài ít tật, quả rất đáng khen. Nếu họ là người Khương La thì chắc chắn đã được bệ hạ bồi dưỡng từ nhỏ, biến thành cánh tay đắc lực của ngài. Lúc này ta chú ý tới nam nhân đứng bên cạnh Lăng Thế, nét mặt họ hơi tương đồng, suy đoán một chút liền xác định đây là tam công tử! Tuy Lăng Quân không có chức vụ quyền hạn gì trong triều nhưng nhờ bóng râm của hai anh trai hắn có thể tự do ra vào hoàng cung, hưởng đặc ân không ai có. Lăng Quân sắc mặc trắng nhợt, ống tay áo ướt đẫm máu tươi nhưng vẫn kiên trì đứng thẳng, ánh mắt nhìn chăm chăm vào bệ hạ... Cái nhìn hoài nghi, vỡ lẽ, lo lắng, bất an... ta có thể đọc ra rất nhiều cảm xúc từ đôi đồng tử đen lay láy. Kiểu vết thương thế này chắc là một "tác phẩm" của hoàng thượng...

Lăng Thế một người đầy chính khí, đối lập gay gắt với thứ "tà khí" của bệ hạ, hắn đường hoàng đối đáp:

-Thiên Vĩnh đế quá lời! Quân đang ở trên đất Trung Lương, chính là khách quý của bổn quốc. Vấn đề an toàn của ngài là trọng trách của chúng tôi. Mong Quân có thể phối hợp!

Quả là con nghé non không sợ cọp. Lăng Thế vừa dứt lời thì giơ tay ra hiệu, thị vệ đại nội tiến một bước, ngự lâm quân không ai bảo ai đồng loạt tuốt kiếm. Ánh kim loại sáng lòa, phản chiếu màu lửa bập bùng. Lính ngự lâm giáp vàng mũ sắt, đứng vững như tượng, rất có khí thế tà ma ngoại đạo đang hăm he danh môn chính phái!?

Lăng Thế hiển nhiên không ngờ bên này lại hung hăng như vậy, chưa nói một lời đã muốn đánh nhau. Hắn ngước nhìn Thiên Vĩnh đế đang ung dung thổi trà, dáng vẻ người ngoài cuộc mà không khỏi bức xúc.

-Quân làm vậy là có ý gì? Rút kiếm trong hành cung là điều cấm kị, chẳng lẽ Quân không biết?

-Tam phò mã, bổn đế không biết quy định ở Trung Lương cũng như ngươi không biết quy tắc của Ngự lâm quân. Đội cận vệ này sinh tồn trên sứ mệnh bảo vệ quốc chủ, bao gồm tính mệnh và uy danh của ta. Hôm nay ta ngồi đây, các người thì muốn vào trong khám xét, cho dù đang ở đất nhà ngươi nhưng cũng là chà đạp danh dự của ta! Bọn họ chỉ làm việc dựa vào quy tắc, không có ngoại lệ!

Lăng Thế há miệng lại ngậm miệng, bàn tay siết chặt thành nắm đấm. Bao lâu nay hắn đứng dưới danh tiếng Lăng gia chưa từng gặp tình huống bị trực tiếp đối chọi như vậy. Đụng phải bệ hạ nhà ta, ngươi phải làm quen từ từ đi! Các thị vệ đại nội bất an trông chờ nhìn chỉ huy sứ. Bọn họ ai cũng biết cái gì gọi là Ngự lâm quân, chẳng ai cam tâm tình nguyện thử kiếm vào lúc này. Trong lúc hai bên dằng co thì có một người tất tả chạy tới, thầm thì vào tai Lăng Thế, nét mặt vừa gấp vừa sợ sệt. Lăng Quân có lẽ cũng nghe thấy, hắn nhíu mày hạ rèm mi xuống, không nhìn chăm chăm vào hoàng thượng nữa...

Lăng Thế cũng có tư chất, rất bình tĩnh nghe hết bẩm báo, lại trấn định nói với bệ hạ:

-Lần này tại hạ đã mạo phạm, mong Quân lượng tình bỏ qua. Hành cung canh phòng cẩn mật như vậy, nếu thích khách không xuất thân từ chỗ này thì chẳng có khả năng đột nhập vào... đã thế, chúng ta xin rút lui, mời Quân trở lại giường!

Khá lắm Lăng Thế, cái gì mà "thích khách xuất thân từ chỗ này", một lời hai ý xỏ xiên! Không chờ bệ hạ lên tiếng, Lăng Thế đã đem thuộc hạ rời đi ngay. Lăng Quân lề mề theo sau, nhiều lần quay đầu nhìn lại. Ánh mắt hắn chạm vào ánh mắt hoàng thượng giữa không trung, ta mơ hồ nghe thấy vài tiếng sấm nổ... Đợi khi đám đông kia đã đi khỏi, hành cung yên ắng trở lại, bệ hạ liền ném vỡ chung trà xuống đất. Mọi người lặng thinh cúi đầu, biết rằng cơn giận của ngài không dễ tiêu tán.

-Trung Lương cũng thoáng quá nhỉ? Trai chưa vợ gái chưa chồng mà có thể gặp nhau nửa đêm! Chẳng phép tắc quy củ gì cả!

Mọi người kinh ngạc lén nhìn bệ hạ. Ơ hay... rốt cuộc hoàng thượng không phải tức giận vì bị đại nội thị vệ mạo phạm à? Ta nuốt nước bọt thầm nghĩ Trung Lương có thoáng cũng không thoáng bằng Khương La. Người ta nửa đêm hẹn hò, còn bệ hạ nửa đêm mặc bạch y ghé thăm khuê phòng của mỹ nữ. Ghé chơi thì thôi, lại còn động tay động chân. Bộ dạng của ngài khi vừa trở về là biết! Lúc ấy ta chưa đoán ra nữnhân nào đang khiến hoàng thượng thất thường như vậy. Mãi đến bữa tiệc đề thân của Sở công chúa, ta rốt cuộc được nhìn thấy cô gái đó. Chính là người về sau khiến ngài yêu say đắm mà cũng khổ tận cam lai. Ta đứng nhìn một đoạn tình lở dở mà chỉ biết thở dài. Xưa nay anh hùng khó qua ải mỹ nhân, Thiên Vĩnh đế để lạc trái tim, kết cục phải hủy cả cơ đồ vào tay Chu Lạc gia một cách cam tâm tình nguyện...

Chương 5:Hạ Hầu Vĩnh Khang tự truyện

***

Sáng nay lên triều ta không cách nào tập trung được. Nông bộ Thượng thư đã trình bày hai lần về đề xuất nhập giống lúa mạch của Cao Kê. Loại lúa này năng xuất gấp hai lần lúa truyền thống trong nước. Tuy nhiên Cao Kê là một vương quốc xa xôi, chúng ta không hiểu nhiều về nó, đường đi lại gian nan, phải vượt qua sa mạc cùng hẻm núi hiểm trở... Triều thần có người tán đồng, có người phản đối, tiếng tranh luận rất ồn ào. Ta mơ hồ nhìn những cái miệng liên tục mấp máy, hoàn toàn không theo kịp họ đang nói cái gì.

-Được rồi! Chuyện này ngày mai sẽ bàn tiếp. Các khanh lui ra đi!

Cái tổ vò vẽ lập tức yên tĩnh, ta có thể hiểu vì sao bọn họ kinh ngạc như vậy. Suốt mười bốn năm ta tại vị, chưa có buổi thiết triều nào họ được về nhà sớm, phải đứng chầu qua giờ cơm trưa là chuyện bình thường.

-Thế nào? Không muốn ngừng?

Ta cảm thấy hơi buồn cười. Vào những năm đầu khi ta lên ngôi, bọn họ rất sợ đi chầu. Phần vì phải đứng tê cả chân, phần vì phải lau mồ hôi nghe mắng chửi, lúc dâng tấu thì lo đông lo tây chỉ sợ viết sai chính tả hay có chi tiết nào không hợp lý sẽ khiến ta nhíu mày... Ta biết bọn họ sợ, dù chỉ một cái chớp mắt của ta. Trẫm hung ác lắm sao...?

Nhiều năm qua đi, đôi chân họ trở nên khỏe hơn, đứng bao nhiêu canh giờ cũng không thành vấn đề. Rồi lúc làm sai bị mắng thì giữ được bình tĩnh, cảm giác được mắng là một vinh quang. Thiết triều trở thành khoảng thời gian rất kích thích, ai cũng muốn phát biểu, hiến kế chỉ để đối lấy một ánh mắt hài lòng. Trẫm khó tính vậy sao...?

Các thần tử của ta, ta đều hiểu họ. Tuy đối với họ ta cao xa vời vợi, lạnh nhạt khó gần nhưng chính ta lại biết rất nhiều, cái tốt và xấu của từng người. Chẳng hạn như Ngô Phán sự có đầu óc nhanh nhạy, rất thông minh và nhiều sáng kiến nhưng ông ta bản tính tham lam, dễ bị tiền của dụ hoặc. Ta từng phát hiện không ít vụ tham ô nhỏ lẻ nhưng không vì thế mà cắt chức lão ấy. Thay vào đó lão lập công ta thưởng nhiều bổng lộc, thỉnh thoáng nói bóng nói gió dọa lão ta hồn kinh phách lạc. Con người ai cũng có một thành tố sai trái, mấu chốt ở chỗ nó có được kiềm chế kịp thời hay không. Dần dần, tất cả bọn họ đều hiểu ra, trẫm ngồi ở cao nhưng thấy rất nhiều góc khuất. Muốn sinh tồn thì phải thành thật cùng trung quân. Một hoàng đế tốt không chỉ lo nước thương dân là đủ mà còn phải khiến triều thần dù tốt hay xấu cũng trở nên hữu dụng. Chỉ cần họ không vượt qua giới hạn, ta sẽ có cách khiến họ ngoan ngoãn ngồi đúng vị trí.

Khi Lưu Hải cao giọng hô "Bãi triều", quan tướng lúc này mới tỉnh ngộ, bất an hành lễ rồi lui xuống. Đại điện chốc lát đã vắng tanh, cổng thép vàng khép lại. Ta vẫn ngồi im trên ngai, Lưu Hải bẽn lẽn cúi đầu chờ phân phó.

-Ngươi không có điều gì cần báo cáo với trẫm sao?

Lúc nãy ta đã nhìn thấy tiểu thái giám của Hà cô cô, hắn lén lút nấp sau rèm ra dấu với Lưu Hải. Lưu Hải không tiếng động rời chỗ đứng, hơi nghiêng đầu nghe tên kia thì thầm vào tai. Ta có thể đoán họ đang nói chuyện gì. Thế nhưng Lưu Hải lại không lập tức đến bẩm báo... kể từ lúc đó, ta không tài nào tập trung được, làm hại Nông bộ Thượng thư phải trình bày lần nữa.

Lưu Hải cúi thấp đầu, bàn tay bất an vuốt vuốt cây phất trần. Hắn theo ta nhiều năm, ta cũng biết đó là thói quen khi hắn lo sợ.

-Bẩm bệ hạ... Bên Thượng Cung báo tin đã đem thuốc đến chỗ Dung phi nương nương...

Hắn nói rất chậm, bàn tay ta siết lại trên thành ghế.

-Nàng... đã uống rồi!

Đã uống rồi...

Đã uống rồi......

Ta hít sâu một hơi, dần nhắm hai mắt lại. Phải, nàng nên uống, đó là lệnh của trẫm.

Nhưng sao trẫm lại ân hận thế này? Sao lại tức ngực thế này?

Ta vờ dời cánh tay, chỉ nhẹ xoa lồng ngực một chút, giọng nói vẫn thản nhiên:

-Uhm, thế Dung phi ra sao rồi?

Ta thừa nhận, chỉ mới nãy thôi ta đã mong Lưu Hải nói rằng nàng không chịu uống. Hóa ra đây mới là điều ta hy vọng!

-Tiểu thái giám kia không rõ tình hình lắm, chỉ nói Thượng Cung gọi ba y nữ tới Trúc Uyển, đến giờ vẫn chưa rời đi...

Khi ta đến đó thì Hà cô cô đang bất an đi qua đi lại, nhìn thấy ta cũng quên hành lễ mà vội vàng nói:

-Hoàng thượng! Dung phi không tốt lắm. Thần không biết chuyện ngày hôm qua nàng vừa bị ngã nên thai đã không ổn. Bây giờ lại uống thuốc...

Ta không đợi bà ấy nói hết, lập tức đá cửa phòng bước vào. Ngay lập tức có mùi máu nồng nặc ập tới, cảm giác như mảnh thủy tinh ghim vào phổi. Ta không nghe thấy tiếng kêu của nàng, chỉ có ba y nữ đang vây quanh giường, nhìn thấy ta bèn sợ tái mặt.

-Tránh ra! Một lũ ăn hại!!!

Ta biết mình không nên quát tháo vào lúc này vì người có lỗi nhất là ta mới đúng. Thế nhưng mọi thứ nghẹn ứ trong cổ họng, nếu không trút giận vào ai đó thì sẽ không chịu nổi. A Dung nằm trên giường, đắp tấm chăn mỏng. Da mặt nàng xanh mét, môi trắng bệch, băng vải lót dưới đệm đã nhiễm đỏ máu. Huyết sắc tương phản dữ dội với chiếc giường màu trắng, giống như mạt cưa đâm vào tròng mắt. Ta thật không muốn nhìn!

-A Dung... xin lỗi, xin lỗi...

Khi lên triều ta ghét nhất là nghe thần tử nhận lỗi, bởi vì có xin lỗi nghìn lần vạn lần thì cái sai cũng không biến thành đúng. Bây giờ ta hiểu hơn một điều, nói "xin lỗi" không chỉ mang hàm ý nhận trách nhiệm mà còn thể hiện sự bất lực và yếu đuối.

Trẫm xin lỗi...

Trúc Uyển hôm ấy rất loạn, ta chẳng nhớ mình đã gào thét cái gì nhưng Thái y viện đã đổ xô tới chỉ trong ít khắc. Người ngoài không rõ chuyện còn tưởng hoàng đế sắp băng hà rồi. A Dung mất máu quá nhiều nên mê man hai ngày. Trong hai ngày đó ta cũng không làm được chuyện gì ra hồn. Từ khi nào nàng lại trở nên quan trọng như vậy?

Huệ phi đến thăm A Dung, nói rằng hai người là tỷ muội nên muốn ở lại túc trực. Nàng ta có cái tên rất hay: Sở Tâm Huệ, tiếc rằng tâm hồn không bao giờ có thể thuần khiết như hoa huệ được. Nếu ở hậu cung này tồn tại một loài hoa thì chỉ có thể là hoa sen. Ta mất ba năm để hiểu ra điều đó!

-Huệ phi, nàng quá đề cao bản thân hay quá xem nhẹ quyền uy của trẫm? Nàng chẳng qua chỉ là một công chúa hòa thân đến từ tiểu quốc, làm con cờ thí bỏ trong tay Sở Chính Hàn thì vẻ vang lắm sao? Hãy nhớ, nơi này không phải Trung Lương của nàng mà là Khương La của trẫm. Nhất cử nhất động trong kinh thành không phải trẫm không biết, chẳng qua là không rảnh bận tâm mà thôi!

Khi nói những lời này ta đang cố tìm cách cho A Dung uống thuốc. Nàng như con chim nhỏ nép trong khủy tay ta, trông ngoan ngoãn nhưng lại rất bướng bĩnh, bao nhiêu thuốc đút vào đều chảy ra hết. Huệ phi quỳ ở giữa phòng, mặc một bộ hồng y chói mắt. Ta cảm thấy màu này thật xấu, vừa khêu vừa tục, không bao giờ thanh khiết và trinh bạch như màu hồng của A Dung... Huệ phi sửng sốt thật lâu, biểu cảm giống hệt những nữ nhân khác khi hồi tỉnh từ giấc mộng đẹp.

-Hoàng... hoàng thượng... sao chàng lại nặng lời với thiếp như vậy? Thần thiếp đã làm gì sai sao? Dung nhi là muội muội thân sinh, ở nơi này không ai gần gũi với thiếp hơn nàng ấy. Hai chúng ta đều lạc lỏng trong hậu cung, phải nương tựa lẫn nhau để sinh tồn... Bệ hạ, ngài nghi oan cho thiếp như vậy, thử hỏi thiếp làm sao sống được? Huhuhu...

Ta thừa nhận Sở Tâm Huệ rất có khiếu diễn xuất, nàng khóc đến thương tâm, mắt lệ long lanh, tiếng nấc nghẹn ngào... Nếu không phải hiểu rõ mười mươi có lẽ ta cũng sẽ áy náy dỗ nàng mấy câu. Ba năm nay đúng là Huệ phi và A Dung rất thân thiết, có lúc khiến ta cảm tưởng tình thân vẫn tồn tại giữa cám dỗ lọc lừa. Tiếc rằng sự kiên trì của Huệ phi chỉ vỏn vẹn ba năm, bây giờ đã lộ bộ mặt thật. Đáng buồn, cái ao bẩn thỉu mang tên "hoàng cung" không bao giờ trồng nổi một loài hoa tinh khiết. Có lẽ chỉ mỗi hoa sen mới không bị ám hôi mùi bùn...

Tiếng khóc ray rứt vẫn không dừng, vài tiểu cung nữ dám dùng ánh mắt trách móc lén hướng về phía ta. Khá lắm, các nàng là nô tì của ai? Đã không bảo vệ được chủ tử lại còn hùa theo phe giặc! Ta có một mong muốn phải đổi hết cung nhân trong Trúc Uyển này đi! Công nhận Sở Tâm Huệ rất khéo lấy lòng người, ít nhất trong ba năm nay nàng ta đã khiến A Dung và những người kề cận tin tưởng hết mức. Thậm chí nghe theo Huệ phi xúi giục, dám qua mặt trẫm để cho mình có thai!!!

Càng nghĩ ta càng thấy tức giận. Một bên là tiếng khóc phiền toái của Huệ phi, một bên là A Dung không chịu nuốt thuốc vào... long bào đã bị nàng làm ướt đẫm... ta không nghĩ mình sẽ kiên trì được hơn...

-KHỐN KHIẾP! Câm miệng lại! Cút hết cho trẫm!!!

Ta nổi khùng ném cây muỗng đi, rất vừa vặn trúng vào trán Huệ phi. Nàng ta sợ quên cả khóc, tay ôm trán hớt hãi chạy ra ngoài. Khi trong phòng không còn kẻ dư thừa nào ta mới thấy bình tĩnh một chút. Cô gái nằm trong lòng thì vô tư ngủ, không biết sợ là gì, dám thách thức sự nhẫn nại của ta...

-A Dung... trẫm xin nàng đấy, uống thuốc vào được không...?

Cây muỗng ném đi rồi, ta ngửa cổ uống một ngụm dược đắng, thật cẩn thận nâng đầu nàng lên. Bình thường người A Dung luôn ấm áp, khiến ta rất thích áp lại gần. Bây giờ nàng lại rất lạnh, tay lạnh, cổ lạnh, cả làn môi cũng giá buốt... Từng chút, từng chút, ta cố gắng đẩy thuốc vào, thật chậm và nhẫn nại để không làm nàng sặc. Dược rất đắng, ngậm lâu trong miệng chẳng còn thấy hương vị gì... tựa như đau đớn trong lòng, giữ lại lâu ngày cũng không còn mùi vị...

***

Bây giờ A Dung không cười nữa. Ta chẳng nhớ nổi lần cuối cùng nhìn thấy nàng cười là khi nào. Thái y nói sức khỏe và tinh thần của nàng không ổn định, tốt nhất đừng để nàng kích động. Khổ nổi nàng chỉ phát điên khi nhìn thấy ta, cho nên muốn nàng không kích động thì ta phải xéo đi chỗ khác! Tình trạng này đã ba tháng rồi, ta không bén mảng đến Trúc Uyển nữa, hậu cung bảo rằng Dung phi bị thất sủng, ta lại cảm thấy người bị "thất sủng" là mình mới đúng!

Lúc nàng tỉnh dậy không nói một câu nào, ánh mắt vô hồn như nhìn xuyên mọi vật. Khi ở một mình nàng sẽ vô thức đưa tay sờ bụng, còn ta thì lập lại động tác ấy khi nàng đã ngủ say. Ở đó từng có một hài tử, không biết là trai hay gái nhưng ta đã chọn từ bỏ... Về sau ta luôn tự vấn trong lòng, nếu năm ấy đứa bé được sinh ra thì sẽ thế nào? Chúng ta không chỉ bạc mệnh mà còn vô duyên với con cái.

Ngày hôm ấy ta đang bận rộn duyệt tấu chương trong thư phòng. Lưu Hải đẩy cửa xông vào, vội đến mức giẫm phải tà áo.

-Bệ... bệ hạ, không xong rồi! Dung phi nương nương nhảy xuống hồ!!!

Cây bút lông trên tay ta liền gãy làm đôi. Khi ta chạy đến thì nàng đã được cứu lên, nửa mê nửa tỉnh. Ta xô đám thị vệ sang một bên, vừa sai người gọi thái y vừa bế nàng chạy về Trúc Uyển cách đó không xa. Đem than đốt nóng căn phòng, dùng chăn bọc kín nàng lại. A Dung vừa ôm ngực ho vừa lạnh lùng hất tay ta ra, cơn buồn bực nhiều ngày tích tụ lập tức bùng phát.

-DUNG PHI!!! Liên tục thách thức trẫm vui lắm sao? Trẫm nói cho nàng biết, không phải chết là xong đâu. Nếu nàng dám tìm chết một lần nữa trẫm sẽ...

A Dung quay quắt lại, mở to mắt nhìn ta:

-Hoàng thượng sẽ làm gì? Cùng lắm là trút giận lên hạ nhân trong Trúc Uyển viện này. Mạng người trong tay bệ hạ chả đáng bằng ngọn cỏ, sau khi nhỏ sạch chỉ việc trồng lại là xong!

Mỗi khi nàng ngoan cường đôi mắt sẽ nhìn ta không nhân nhượng, sau cơn ho hai gò má đỏ bừng, trông có sức sống hơn hôm qua rất nhiều. Ta nhớ da diết A Dung của ba năm về trước, nhớ vẻ mặt vừa thẹn vừa giận khi ta mặc bạch y nửa đêm lẻn vào khuê phòng. Nàng cáu kỉnh như con vật nhỏ bị xâm phạm, sau khi đánh rồi cắn lại quay sang bao che cho ta. Khi ấy ta vô cùng tự tin đến mức tự phụ, nghĩ rằng mình đã hoàn toàn thu phục nữ nhân này, nàng sẽ phải bất chấp mọi thứ chạy theo "tiếng gọi tình yêu" như bao cô gái dại dột khác. Ta đã đúng, nàng xuất hiện trong bữa tiệc đề thân là muốn đưa một câu trả lời. A Dung của ba năm trước táo bạo quỳ trước vua cha, cầu xin được gả đi. Nàng cũng kiên quyết thu dọn hành lý trong khi mẫu phi vừa khóc vừa can ngăn. Nữ nhân! Chính là "khờ si" như vậy!

Ta cứ nghĩ mình thả miếng mồi bé bằng hạt ngô, thu về một con cá kình lớn. Ai ngờ cá kia ta không kéo nổi lên bờ mà chính nó lôi ta xuống nước... Hả hê, khinh thường, thích chí vì không tốn công sức gì cũng dụ được nàng đến Khương La. Thế nhưng ta phát hiện mình đang rung động. Thế gian này nữ nhân tơ tưởng ta rất nhiều, đàn bà trong hậu cung mỗi ngày đều nói nhớ thương nhưng thiết nghĩ có mấy ai "yêu" giống như nàng – chỉ nhìn thấy Hạ Hầu Vĩnh Khang chứ không phải một Thiên Vĩnh đế! Đó là sự khác biệt rất lớn. Nếu trên người ta không có long bào, trong tay không có giang san, dưới chân không phải cung vàng điện bạc thì ta chẳng là ai, chẳng là cái gì trong mắt bọn họ. Các nàng cứ nghĩ mình thật lòng thật dạ, nếu ta không đáp lại chân tình thì là vô tâm, lạnh nhạt thì vô tính... Họ chỉ thấy cái vỏ bề ngoài, yêu một hoàng đế, một quân vương chứ không phải bản thân ta!

A Dung quay mặt đi, chỉ chừa lại một tấm lưng hao gầy. Nàng vốn mảnh mai, sau khi sảy thai lại ốm yếu hơn nữa. Ta xót xa ngồi xuống giường, vừa nhẹ nhàng vừa quyết tuyệt ôm nàng vào lòng. Tựa như cái đêm không trăng không sao ở Trung Lương, nàng dùng hết lực đánh ta, cắn ta, mắng mệt lại khóc... Con người là một loài mâu thuẫn, họ chỉ bị tổn thương bởi người mình yêu, giống như ta giày vò nàng, nàng lại hành hạ ta... những kẻ khác thì trở nên vô nghĩa.

-A Dung, chúng ta quên hết đi, làm lại từ đầu được không?

Khi nàng đã khóc mệt ta mới có cơ hội tựa đầu nghe nhịp tim thình thịch, hơi thở nàng nhanh và mỏng, cứ nửa đêm tỉnh giấc ta lại nhung nhớ mùi hương này. A Dung tránh né nụ hôn của ta, nàng không còn là thiếu nữ ngây ngô chỉ vì một cái chạm nhẹ là hồn bay phách lạc. Nhưng ta thì khác, ta trở nên dễ dao động và thất thần, dù chỉ một ánh mắt của nàng. Cẩn Thiện thích sưu tầm mấy câu "triết lý" vớ vẩn, hắn từng bảo rằng: Về mặt tình cảm, đàn bà nặng lòng hơn đàn ông, người yêu trước sẽ là kẻ thua cuộc! Ta cảm thấy câu này hoàn toàn sai, ít nhất là đối với ta.

A Dung vô hồn để ta mặc sức ôm ấp, khi sắp bị lột trần cũng không phản ứng gì, ngây dại như xác chết. Tay ta dừng lại trên sợi dây yếm, không cách nào kéo nó ra được... Bên dưới lớp vải yếm thấm nước là cơ thể ta khao khát hàng đêm, gần như thành một cơn nghiện không có thuốc trị. Ta vuốt ve những chiếc xương sườn gồ lên sau làn da nhợt nhạt, dục niệm đều tan đi hết...

-A Dung... đừng như vậy... chẳng lẽ nàng muốn trốn tránh trẫm cả đời?

Ánh mắt của nàng hơi dao động, rất khẽ và chậm, chạm vào ánh mắt ta. Tóc nàng ướt rượt bếch vào chiếc cổ trắng nõn, từng đường nét lồi lõm hoàn hảo,... điều duy nhất ta cảm thấy tự tin trong lúc này là nàng thuộc về mình, nếu không phải tâm hồn thì cũng là thể xác. A Dung bình tĩnh nhìn ta trong chốc lát, có lẽ nàng sẽ nhận ra sự thành khẩn và cầu xin trong đôi mắt này. Chí ít cũng nghe được tiếng lòng của ta, những lời yêu mà ta sẽ không bao giờ nói...

-Bệ hạ, ngài có thể trả lời ta vài vấn đề không?

-Chuyện gì...?

A Dung nuốt xuống, cẩn thận lựa lời.

-Vì sao năm đó ngài lạnh nhạt với ta, sau khi ta theo ngài về Khương La thì chẳng hề ngó ngàng tới?

Ta quyết định giữ im lặng. Phải nói gì đây? Rằng tất cả chỉ là một kế hoạch điên rồ, rằng ta cực hận mẹ ruột của nàng, không tin bà ta đã hoàn toàn biến mất, muốn thông qua A Dung vừa trả thù vừa ôm cây đợi thỏ. Người đàn bà đó mãi mãi là một ẩn số. Ta vẫn không biết làm cách nào hai mẹ con họ thoát khỏi vụ hỏa hoạn, lẻn khỏi kinh thành không để lại dấu vết. Riêng về Lâm Xương thì có chút tin tức. Hắn mang tội mưu phản trên vai, chật vật trốn đến Khương La thì gặp nạn. Năm ấy hoàng hậu đi lễ chùa, vừa khéo cứu được một tên khất cái ngã núi gãy chân. Cả đời bà ta giết hại bao nhiêu người, chỉ cứu duy nhất một người thì lại cứu được kẻ trọng tình trọng nghĩa. Cái vận bả chó gì vậy? Lâm Xương này không hề tầm thường, chẳng rõ vì sao hắn thoát chết rời khỏi Trung Lương. Sau khi nhận giao phó của hoàng hậu thì đem Bảo Ngọc công chúa quay về cố hương, vào chùa nương náu. Cũng chính ở đây Lâm Xương gặp được Lăng tần, vậy là tình cũ không rủ cũng tới. Thời nay chùa chiền có lắm nhân duyên thật đấy! Lăng Thuần Mỹ thay mận đổi đào, đem Bảo Ngọc thế chỗ cô con gái đã chết, từ đó nàng trở thành Sở Phù Dung. Suốt 3 năm nay ta luôn tìm cách thăm dò, có thể khẳng định A Dung không hề biết gì về thân thế uẩn khúc của nàng, chỗ Lăng Thuần Mỹ cũng không biết nốt... Tất cả đầu mối đều biến mất, chỉ còn lại ta với nàng đối mặt nhau trong vận mệnh éo le, giữa yêu hận và một mối tình ngang trái...

A Dung chờ mãi không thấy ta trả lời cũng đành thôi, nàng cười giễu lại hỏi tiếp:

-Vậy tại sao bệ hạ luôn ép ta uống Tuyệt Tự Canh? Tại sao lại tàn nhẫn muốn vứt bỏ đứa bé? Nó cũng là máu mủ của ngài mà!

Câu hỏi này còn khó hơn câu trước, ta há miệng lại ngậm miệng, chẳng đáp nổi một lời. Phải nói gì đây? Rằng nàng là muội muội của ta, chúng ta đang đi trên con đường mang tên "tuyệt vọng"... Không, ta sẽ không bao giờ nói ra, cái bí mật đó ta sẽ ôm theo cả đời, cùng với dằn vặt và cay đắng, rồi đến một ngày chôn kín ở hoàng lăng...

Cho nên

Tất cả đáp án nàng muốn biết

Sẽ mãi mãi là im lặng bất tận...

***

Khi A Dung biết tin mình mang thai cũng là lúc quân lính Khương La tấn công nhà Mạc. Ta luôn ở trên triều không trở về hậu cung, Lưu Hải mỗi ngày vẫn báo cáo tình trạng của Dung phi. Qủa đúng như ta dự đoán, nàng cẩn thận chăm sóc chính mình, không bỏ ăn bỏ uống, cũng không khóc lóc than vãng. A Dung rất trân trọng đứa nhỏ, nàng sẽ là một người mẹ tốt. Tạm thời yên tâm, ta đặt hết tâm trí vào cuộc chiến, ngày ngày dõi về chiến trường nơi xa, một chút biến cố đều đích thân xử lý. Vị trí Nguyên Soái ta tin tưởng giao cho Tả Minh, đại tướng thống lính có năm người, đều là anh tài đã bồi dưỡng hơn mười năm. Ta biết bọn họ sẽ không phạm sai lầm ngớ ngẩn, cũng tin tưởng cách hành sự khôn ngoan. Bốn mươi chín ngày là con số không thể vượt qua, khi chiếm được miền Đông nước Mạc đã là ba mươi ngày, quân vận gấp như lửa xém lông mày. Ta ngồi trên triều lạnh lùng nghe thần tử kháng nghị, kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh khó mà thực hiện, bởi vì Trung Lương kịch liệt chống trả, gần như muốn đồng vu quy tận, toàn dân đều đổ ra chiến trường, tinh thần cứu quốc cao ngất ngưỡng... Xem ra phen này Tả Minh gặp cửa ải khó qua rồi, ta đã dự phòng trước mọi nguy cơ, chỉ chờ đến lúc bọn họ hoàn toàn bế tắc thì chỉ dẫn một chút. Dù có thế nào cũng nhất định thắng.

Nghe báo Dung phi đã quỳ ở ngoài cửa hai canh giờ, ta sai Lưu Hải đem than củi đốt nóng sân gạch, tránh cho nàng cảm lạnh. Ta không biết nàng sẽ kiên trì đến khi nào nhưng chắc chắn không kiên trì hơn ta. Đến nửa đêm ta buộc lòng dùng chút thủ đoạn làm nàng ngủ mê rồi đưa về Trúc Uyển. Mấy ngày sau trong thức ăn cũng hạ dược lành tính, cốt yếu khiến nàng ngủ nhiều hơn. Chỉ cần kiên trì vượt qua thời gian này, rồi mọi chuyện sẽ ổn. Có hôm ta đi ngang Phù Dung Trì, nghe tiếng đàn não nề và tiếng hát thê lương. Trong bài hát của nàng ta là đế vương tuyệt tình, nàng là bông hoa dần tàn bên trong bốn bề thành quách...

Ngày thứ bốn mươi chín tin chiến thắng truyền về, cả triều hừng hực nhuệ khí. Tả Minh ở lại trấn thủ, nhanh chóng đặt nền thống trị mới, sáp nhập vào lãnh thổ Khương La. Từ bây giờ Trung Lương là sân sau của ta, Đại Thế bại trận chỉ là sớm muộn. Đầu tháng tám phó tướng đem chiến lợi phẩm trình lên triều đình, vàng bạc châu báu là những thứ tầm thường ta không để mắt tới. Thế nhưng ngay lúc hắn dâng mâm bạc phủ tấm lụa đỏ ta chợt có linh cảm chẳng lành...

-Muôn tâu bệ hạ, chúng thần khống chế được kinh thành, đích thân bắt Sở Chính Hàn, chặt đầu đem về kính biếu!

Nhìn vẻ mặt phó tướng ta hiểu ra mọi chuyện. Trước khi xuất quân ta đã dặn dò Tả Minh không đụng đến Lăng Thuần Mỹ và Sở đế. Ta không tin Tả Minh dám trái lệnh. Thế nhưng tên phó tướng này là huynh đệ của Trịnh Sảnh, phe phái bọn họ mâu thuẫn với Tả Minh từ lâu. Ta cho rằng cạnh tranh sẽ khiến quân đội ngày một mạnh nên không can thiệp. Nào ngờ bọn họ háo thắng tranh công, tưởng chặt được đầu Sở đế thì giỏi hơn một bậc. Nhìn vật nằm bên dưới tấm lụa, ta chỉ thấy sống lưng tê rần... Hình như ông trời đang trừng phạt, không bao giờ để mọi chuyện xảy ra đúng dự tính.

Triều thần không nghe ta khen ngợi bèn nghi hoặc nhìn lên. Không thấy thì thôi, vừa thấy đã hốt hoảng quỳ xuống.

-Ngươi... các ngươi...

Ta không nói nổi một câu trọn vẹn, giống như chẳng còn chút sức lực nào. Lưu Hải đỡ vai ta không ngừng hô hoàng thượng. Vừa lúc đó ta thoáng thấy một bóng hồng đứng bên cửa điện, chưa kịp kêu một tiếng thì bóng lưng ấy đã chạy vụt đi. Sao nàng có thể vào đây, lại đúng khoảnh khắc này... lẽ nào vận mệnh đang chơi một trò đùa quái ác? Ta đẩy Lưu Hải ra, từ đài cao bước xuống, giẫm lên đống châu báu la liệt dưới sàn, giữa đường thuận tay tuốt thanh kiếm bên hông Cẩm y vệ. Một tiếng thét chói tai, chỉ thấy long bào ta tung tóe máu, hai hàng văn võ ngỡ ngàng dạt ra xa. Đúng, các người tốt nhất nên biến đi, bởi vì trẫm đang điên, rất điên, trẫm muốn đốt cung điện này, muốn đốn ngọn cờ Khương La dựng ở đầu thành, muốn chém đầu những kẻ vừa thắng trận lập công. Sử sách sẽ ghi lại Thiên Vĩnh đế là tên hôn quân điên loạn!

Sau khi phó tướng chết tại chỗ ta ném thanh gươm đi, vuốt máu trên mặt chạy ra khỏi điện. Ta chạy rất nhanh, băng qua Tây môn đuổi kịp bóng dáng nàng. Thời tiết tháng tám thường mưa rào bất chợt, tóc nàng nhanh chóng ướt đẫm, vừa khóc vừa vùng vẫy, đánh đấm loạn xạ. "Ma quỷ, ngươi là ma quỷ, ngươi không phải người!" Bộ dạng của ta giống ma quỷ thật, nước mưa làm máu khô trên mặt loang lổ, vì dằn do với nàng nên cả người lấm bùn. Ta không có gì để bào chữa hay giải thích, vì nàng sẽ không bao giờ tin. Ta chỉ biết ôm nàng thật chặt, nhỏ giọng nhắc nhở đừng kích động làm con bị thương.

Ngày hôm ấy ảm đạm và tệ hại nhưng chỉ là một khởi đầu. Trong số tù binh bị bắt về có Thống lĩnh quân đội Khương La, chính là Lăng Quân. Hắn xảo quyệt chạy thoát trên đường lưu đày, ám vệ không tìm ra manh mối. Ta có cảm giác nguy hiểm chực chờ, suy nghĩ một lát bèn phái thêm sáu người ngày đêm túc trực ở Trúc Uyển. Qủa nhiên ta đoán chẳng sai, một đêm nọ Lăng Quân mạo hiểm đưa A Dung bỏ trốn. Ta thừa nhận hắn là một đối thủ đáng gờm, chỉ tiếc sinh ra sai thời, lại còn mơ tưởng đến nữ nhân của ta.

Rạng sáng hôm ấy ta điềm nhiên cưỡi ngựa ra cổng thành, cả kinh đô vẫn còn say ngủ. A Dung mảnh mai bé nhỏ đang đứng giữa vòng vây, kiên quyết che chắn cho Lăng Quân, khiến hàng trăm mũi tên lên dây mà không dám bắn. Ngự lâm bất động, mồ hôi chảy ròng ròng. A Dung run run cầm thanh đao kề bên cổ, lưỡi sắt phạm vào da ứa ra vệch máu chói mắt. Khi ta đến nơi chính là chứng kiến cảnh tượng dằn do kịch liệt này. Quăng dây cương nhảy xuống ngựa, ta rẽ vòng vây bước vào trong. Lúc này chỉ có Lăng Quân, ta và nàng, xung quanh là tầng tầng lớp lớp cung đã căng dây, chỉ cần một cử động của ta thì mọi chuyện sẽ chấm dứt.

-Phù Dung, em đừng nghịch nữa, theo trẫm trở về đi!

Ta nhìn lom lom thanh đao sắt bén và bàn tay trắng nhỏ vốn không cân sức với thứ vũ khí nặng nề. Nàng muốn ta mở cổng thành để hai người rời đi, đó là mơ tưởng viễn vong. Từ rất lâu rồi Hạ Hầu Vĩnh Khang ta nhận định, Sở Phù Dung chỉ có thể sống bên cạnh ta, chết với ta chung huyệt. Đứng phía sau nàng là "Chiến thần" của Trung Lương, hắn nhìn ta bằng đôi mắt đen kịt, không sợ hãi, không căm hận, chỉ có thầm lặng dò xét. Ánh mắt ấy khiến ta khó chịu, giống như mình đang ở thế yếu, bị lột trần và săm soi đủ kiểu. Kẻ địch này ta chưa bao giờ xem trọng, từ nhiều năm trước khi hắn bị ta chém một nhát ở Phù Hoa cung, ta cảm giác Lăng Quân chẳng qua là một công tử thế gia còn non đời lắm. Sau khi A Dung gả đến Khương La, Lăng Quân vứt bỏ sự học đi đầu quân dưới trướng Lăng Kì. Bao nhiêu năm ta có nàng là bấy nhiêu năm hắn lăn lộn trong chốn binh đạo, trưởng thành qua gian khổ để làm nên huyền thoại thứ hai sau người anh cả, được dân chúng xưng tụng "Chiến thần". Tên nay nghe rất kiêu nhưng chính xác, ít nhất là về dũng hắn giỏi hơn Tả Minh, hơn Trịnh Sảnh; về trí cũng vượt Cẩn Thiện một bậc... Đáng tiếc, Lăng Quân sinh cùng thời với ta, hạng hai là vị trí cao nhất hắn chiếm được! Bao nhiêu năm qua đi, trừ đánh đấm và mưu lược thì hắn không cưới vợ không sinh con, ai nhìn vào cũng hiểu hắn si tình với Thập nhị công chúa cỡ nào. Càng như thế, ta càng căm ghét, càng muốn diệt trừ. Không nên tồn tại một người để nàng có cơ hội đem ra so sánh, trong lòng nàng ta phải là độc nhất vô nhị!

Rõ ràng A Dung không giỏi ra giá và thương lượng, yêu cầu của nàng không thuyết phục gì cả, ta có thể nhẹ nhàng lừa gạt một phen. Cả đời ta luôn tự hào mình hành sự quang minh lỗi lạc, lấy dân làm gốc, cốt cách đế vương. Tuy nhiên, đối mặt với A Dung mọi chuẩn mực cùng quy tắc đều vứt đi hết. Tình yêu của ta xây nên từ trăm nghìn dối trá và hứa hẹn không bao giờ thực hiện, mục đích cuối cùng là giam nàng bên cạnh mặc kệ tâm hồn nàng thuộc về nơi đâu. Lần này cũng vậy, ta cho mở cửa thành, lại cấp một con ngựa tốt. Chỉ cần nàng ngoan ngoãn hạ đao xuống, tiếp tục ngây ngốc làm Dung phi , Lăng Quân sẽ được tự do và ta không bao giờ truy cứu chuyện cũ nữa. A Dung nhìn ta chăm chú, cắn môi do dự, ánh mắt tràn đầy hoài nghi.

-Bệ hạ nói lời giữ lời chứ?

À, chỉ trách ta nuốt lời quá nhiều lần, kẻ mang tiền án không đáng tin tưởng...

-Quân vô hí ngôn!

Lời vua không nói bừa, cũng như thánh chỉ đã ban dù sai cũng không thu hồi lại. A Dung tạm yên tâm, nàng lại thuyết phục Lăng Quân rời đi. Cảnh tượng chia ly này đáng ghi vào sử sách là một "thiên cổ tình ca". Cái gì mà "hữu duyên vô phận"? Duyên phận của nàng đều thuộc về ta, chẳng liên quan đến tên họ Lăng. Cái gì mà "hạt sen nhỏ"? Ai cho phép hắn đặt biệt danh như vậy? Ta phải siết chặt nắm tay để ngăn mình xông lên làm thịt y tại chỗ. Cuối cùng A Dung cũng thành công đẩy hắn lên ngựa, vừa sốt ruột vừa lo lắng nhìn quân đội bao vây. Nàng đã thông minh hơn một chút, vẫn cầm đao chờ Lăng Quân chạy xa khuất bóng.

-Được rồi, đưa thứ đó cho trẫm, em nghĩ mình có thể ôm được bao lâu?

Ta thận trọng tiến từng bước, dịu dàng chậm rãi chạm vươn bàn tay ra. Những trò cân não loại này A Dung đâu phải đối thủ của ta. Nàng cảnh giác nhưng không lùi lại, chốc lát quay đầu nhìn về phía xa, Lăng Quân đã không thấy nữa. Cảm giác A Dung đã hoàn toàn lơi lỏng, ta lập tức đoạt lấy món vũ khí, quăng mạnh ra xa khiến nó cắm sâu xuống đất, kim loại run rẩy. Ta kéo nàng vào lòng, xé ống tay áo đè lên miệng vết thương. Sắc mặt nàng tái nhợt vì cả đêm không ngủ, bên dưới lớp vải thô là cái bụng đã to một vòng. Chưa bao giờ ta thấy đắng chát như vậy, thê tử đem theo hài nhi chạy trốn với tình lang!!!

Ta vuốt lại mái tóc lòa xòa, bí mật đưa tay ra sau điểm lên hai huyệt vị làm nàng chìm vào giấc ngủ, cái này có thể giải thích là mệt quá thiếp đi. Lưu Hải ôm áo lông sợ sệt tiến tới, ta bao nàng kín mít, dè dặt bế lên, sau đó ngẩng đầu nhìn ra cửa thành nở nụ cười trào phúng. Lúc nhỏ ta không được tiên đế yêu mến, chưa từng theo sư phó học chữ như các hoàng tử khác, vì thế chưa ai dạy ta thế nào là "Quân vô kí ngôn"...

-Lâm Trang Lân, dốc hết lực lượng, đem xác hắn về cho trẫm!

***

Trải qua chiến dịch "Ngự Bắc chế Tây", cả triều đình trên dưới hân hoan nhưng cũng không thảnh thơi. Quân đội hao tổn nguyên khí, phải gấp rút phục hồi. Quân lương đã vơi một nửa, phải nhanh chóng bổ sung. Thuế chiến tranh tăng thêm năm văn tiền so với các năm khác, phần này không làm nên gánh nặng kinh tế cho dân nhưng đòi hỏi nhà nước phải chi tiêu cẩn thận. Mỗi ngày tấu chương đưa đến long án vẫn chất cao như núi. Vì thói quen không dồn ứ công việc, ta luôn cố gắng làm xong trong ngày, không để thừa qua hôm sau. Cuộc sống bận rộn cũng có cái hay, đám nữ nhân hậu cung không dám đến làm phiền, khuya về có thể lăn ra ngủ mà không cần nghĩ ngợi linh tinh... Hành trình của ta cố định ba nơi: Chính điện, Thái Hệ cung và Trúc Uyển. Sáng sớm lên triều, nghe nghị sự đến giữa trưa, ngồi ở thư phòng duyệt tấu đến tối muộn. Khi trăng lên cao ta mới lê lếch về ngủ với A Dung. Mỗi ngày dường như nhàm chán, cũng dường như yên bình.

Dung phi mang thai tháng thứ sáu, bụng phồng lên như trái bóng, tròn vo đáng yêu! Đây không phải lần đầu ta có con nhưng cảm giác rất đặc biệt. Khi hoàng hậu mang thai trưởng công chúa ta cũng mong chờ, tháng đầu tiên cứ ba ngày lại đến Phượng Cát cung một lần nhưng về sau thưa thớt rồi không đi nữa. Không nói đến nhan sắc phụ nữ có thai xuống dốc trầm trọng, cả tính khí của họ cũng thay đổi, bắt đầu làm trời làm đất, đeo bám không rời. Đứa con đầu tiên chào đời, ta cũng đến nhìn xem, biết là máu mủ ruột rà nhưng một chút cảm giác thân thuộc hay yêu thương cũng không có. Sau này lại thêm vài nhi tử nữa, ta rất ít bồng bế chúng, mà chúng cũng không thích gần gũi ta. Chắc do mặt mũi ta lạnh nhạt khó coi, nhìn xa đã sợ, nhìn gần càng tệ hơn. Lúc trước ta từng nghe Hiền phi dạy dỗ Tứ hoàng tử: "Con phải chăm đọc sách, học thuộc Kinh thư, như vậy phụ hoàng mới khen thưởng." Về sau nàng ta đổi lại: "Hôm nay không thuộc bài ngày mai mẫu phi sẽ đưa con đến thỉnh an phụ hoàng!" Hà cô cô từng khuyên ta bỏ thói quen chau mày, bởi vì chân mày ta vừa dày vừa đậm, nhìn hơi dữ tợn. Bà còn nói ta nên mỉm cười với bọn trẻ, để chúng không phải lo lắng, căng thẳng mỗi khi gặp ta. Đề nghị này có vẻ hợp lý nhưng hơn ba mươi năm nay ta đều một dạng như vậy, sửa đổi không dễ và ta cũng chẳng muốn sửa.

Mãi đến khi A Dung mang thai lần nữa, ta xác định đứa trẻ này sẽ phải sinh ra, cảm giác về tình thân bất chợt ùa đến khiến ta không kịp chuẩn bị. Không phải bản chất ta nhạt nhẽo, chẳng qua chưa có ai làm động chân tâm. Không phải ta thích chau mày, chẳng qua chưa từng có một niềm vui khiến ta giãn ra nét mặt. Khi ôm A Dung ngồi ở bờ hồ, bàn tay từ phía sau xoa xoa bụng nàng, ta nhìn thấy bóng mình phản xạ nơi mặt nước. Một khuôn mặt hiền lành và nồng ấm, đây rõ ràng là dáng vẻ của một người cha!

Gần đây Lưu Hải thường cười lén, tên nô tài này ngày một lớn gan! Ta có quyển sách nhỏ dùng để ghi chép chuyện vặt vãnh dành cho hài tử sắp chào đời, thỉnh thoảng tâm trạng tốt sẽ đem ra coi, còn dễ tính bàn luận với hắn một chút.

-Ngươi xem mấy cái tên này cái nào hay nhất? Thiên Quân? Minh Vương? Vĩnh Đế?

Lưu Hải: À... ngoài "quân", "vương", "đế" bệ hạ không nghĩ ra cái gì khác sao? Nếu nương nương sinh tiểu công chúa thì làm thế nào?

-Uhm... công chúa? Vậy gọi là Thiên Ngọc, Minh Châu, Quế Ngân?

Lư Hải: À... ngoài "ngọc", "châu", "ngân" bệ hạ không có sáng kiến khác sao?

**

-Ngươi cảm thấy Lâm tướng quân và Tạ tướng quân người nào thích hợp làm thầy dạy võ cho hoàng tử hơn? Còn có sư phó dạy văn thì nên chọn Thái tiên sinh hay Hà tiên sinh?

Lưu Hải: Chuyện này đợi tiểu điện hạ bốn tuổi tính vẫn chưa muộn ạ!

-Uhm... cũng đúng, chuyện này không cần gấp. Vậy ngươi để ý một chút trong các nhà thế gia, có nam hài tử nào thông minh lanh lợi thì nói trẫm biết, lỡ như sinh công chúa thì phải bồi dưỡng phò mã từ nhỏ!

Lưu Hải: ...

Lưu công công dường như bị tâm trạng phấn khích của ta kích động, một hôm nọ chả biết từ đâu tha về đôi giày lụa bé tí teo, hoa văn tinh xảo, đường kim mũi chỉ lung linh. Ta nhìn mà yêu thích không buông tay, ngắm nghía suốt nửa canh giờ. Tối hôm ấy ta chạy đến Trúc Uyển, dâng "chiến lợi phẩm" khoe với nàng. Kết quả A Dung nhìn ta bằng vẻ mặt quái lạ...

-Làm sao thế?

Ta rất mất hứng, như quả bóng xẹp hơi co quắp lại. A Dung mím môi cúi đầu, nàng nhặt chiếc giày lên, tinh tế nhìn một cái rồi bỗng bật cười:

-Không ngờ bệ hạ lại thích con nít như vậy...

Nụ cười xuất phát từ thâm tâm cho nên vô cùng chân thật và dịu dàng, đã bao lâu rồi nàng không hòa nhã với ta như thế? Đôi giày bé nhỏ rơi xuống đất, A Dung bị đè trên giường, mở to mắt ngơ ngác, tóc đen dài trôi nổi theo từng nếp cong của lớp chăn trắng tuyết. Ta luôn cảm thấy nàng khác biệt so với đám nữ nhân ngoài kia, sau khi có bầu hai gò má đầy đặn hơn tí, da căng bóng bẩy, bụng to tròn tròn đang chứa chấp cốt nhục của ta... nàng đáng yêu đến mức không kiềm lòng được!

Ta cúi xuống chạm nhẹ bờ môi hơi mở, dùng thanh âm dịu dàng nhất của mình:

-Trẫm chưa bao giờ thích trẻ con, nhưng vì là em sinh ra nên mới thương yêu đến vậy...

A Dung khẽ cắn môi, hơi né sang một chút. Mùi hương của nàng quanh quẫn bên cánh mũi, làm ta như mê như say. Nàng vụng về và bối rối, trải qua bao nhiêu năm vẫn giống hệt thiếu nữ chưa hiểu sự đời, luôn run rẩy mỗi khi ta vuốt ve. Hôm ấy ta chỉ muốn gần nàng một chút, hoàn toàn không có ý nghĩ xa vời, sợ làm nàng phản cảm lại đâm ra chán ghét. Thế nhưng nghĩ và làm là hai chuyện khác nhau, tựa như củi khô lâu ngày bén mồi lửa, ta mơ hồ không kiểm soát được mình, cho đến lúc nghe tiếng nàng la toán mới bàng hoàng tỉnh lại.

-Em sao thế?

Sắc mặt nàng trắng bệch, ta luống cuống bò dậy, cứ tưởng đè nhầm bụng rồi... Kết quả nàng lại ôm ngực than đau, sau khi kéo vạc áo ra chính ta cũng bị dọa hết hồn.

-Sao lại thế này??? Y nữ đã biết chưa?

A Dung đỏ bừng mặt, luýnh quýnh đem chăn che lại, rất mất tự nhiên giải thích:

-Không phải vậy! Vì thần thiếp muốn tự nuôi con nên nhờ các mama Bảo Sinh Viện đến khám. Họ nói... nói... cấu tạo không thích hợp cho trẻ con bú...phải... phải... dùng dụng cụ mỗi ngày kéo ra...

Ta chỉ cảm thấy mặt mày say sẫm, trên đời còn có loại chuyện này nữa sao?

-Kéo? Kéo tới mức bầm xanh bầm tím thế đó hả?

A Dung còn ngoan cố chống chế:

-Tuần đầu phải chịu khó một chút, về sau sẽ tốt. Phụ nữ ở nông thôn đều làm như vậy! Nếu không lúc con sinh ra sẽ không thể bú!

-Vậy thì để bà vú cho nó ăn!

-Sữa mẹ mới tốt!

Ta lừ lừ nhìn nàng – bộ dạng bướng bỉnh quyết tranh cãi đến cùng. Ta thừa nhận mấy chuyện con mọn mình không có kinh nghiệm. Bình thường chẳng phải cứ chờ mấy tháng rồi hài tử ra đời, lại chờ mấy năm là chúng tự động lớn sao? Vấn đề này quá nan giải, sáng hôm sau ta lập tức triệu Hà cô cô đến hỏi thăm. Bà ấy nghe xong cũng sửng sốt, vẻ mặt hình như nén cười... dạo gần đây hạ nhân ở Thái Hệ cung thường xuyên có biểu hiện này, không lẽ quyền uy của trẫm đang giảm sút? Hà cô cô tuổi cao dày dạn kinh nghiệm, bà tườm tận giải thích:

-Dung phi không nói sai. Trẻ sơ sinh phản xạ và sức lực đều yếu, nếu vú mẹ có đầu ti quá ngắn trẻ sẽ gặp khó khăn. Hơn nữa khi căng sữa còn có thể bị thụt, sau đó bị nghẽn tuyến thì rất nguy hiểm, bệnh nặng sẽ chết người!

Ta bần thần ngồi nhìn Hà cô cô một lúc lâu, cho dù vỡ đê hay nội chiến cũng không căng thẳng như lúc này.

-Vậy... phải làm sao?

Hà cô cô tỏ ra cao thâm khó lường

-Cách truyền thống xưa nay người ta vẫn dùng dụng cụ để kéo, tuy nhiên khuyết điểm là dễ bị tổn thương. Bệ hạ đau lòng nương nương chi bằng ngài tự thân đến giúp đi...

Ta không rõ cách của bà có hiệu quả tới đâu nhưng chỉ riêng phần lợi lộc thì quá hậu hĩnh, bất cứ giá nào cũng phải làm! A Dung hàng đêm đều mặt đỏ tía tai, nhìn rất vui mắt. Sự thân mật tuyệt đối này chỉ thuộc về vợ chồng, ta tưởng tượng khi hoàng nhi chào đời, nó sẽ vui sướng uống sữa no nê ở nơi phụ hoàng vất vả nhiều tháng để giúp nó thoải mái...

Bao nhiêu mộng tưởng và ngọt ngào...

Bao nhiều mong chờ và xao động...

Tất cả vỡ tan khi ta nhìn thấy hình hài đứa trẻ bị moi ra vứt trên cái đĩa to lạnh lẽo...

Cảm giác mãnh liệt nhất không phải tức giận mà là đau thắt cõi lòng. Khi ta ôm nàng lập lại động tác quen thuộc, khi môi chạm đến bờ ngực, nước mắt trong ba mươi năm cuộc đời hiếm hoi chực trào... rơi xuống... lăn chậm theo làn da trắng nhợt, đi qua phần bụng phẳng lì... con ta không còn ở đó!

Chương 6: Sở Tâm Huệ kể chuyện

Đó là một buổi sáng đẹp trời. Lưu công công đem theo nụ cười hân hoan bước vào Tinh Huệ cung. Phía sau là hai hàng nô tài và cung nữ bưng những khay bạc nào là châu báu, nào là mỹ thực, nào là ngân lượng rồi thuốc quý.

-Huệ phi tiếp chỉ!

Ta cúi đầu quỳ xuống, trong lòng thấy rỗng tuếch, một chút đau khổ hay vui sướng đều không có, tựa như lá trà sau khi pha nước chỉ còn lại bã khô.

-Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết: Huệ phi họ Sở vì hoàng tộc nuôi dưỡng Thái tử, phẩm hạnh cao quý, tư chất vô song. Nay Tự Hiếu Hoàng hậu bất hạnh qua đời, trẫm tấn phong Huệ phi tiếp nối ngôi vị, trở thành mẫu nghi thiên hạ, ban phước con dân, sống đời hiền lương thục đức. Ngày lành tháng tốt trao phượng ấn, tặng phong hào Tự Trinh Hoàng Hậu, an bài ở điện Tiêu Phòng. Khâm thử!

Thật là một chiếu chỉ ngắn gọn súc tích, ta cười giễu trong lòng, tay vẫn nâng cao tiếp nhận.

-Thần thiếp tạ ơn hoàng thượng, Ngô hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế...

Sau khi Lưu Hải rời đi, ta đứng nhìn một phòng chất đầy của cải, lại nhìn phượng ấn trong tay. Rất lâu trước kia, ta từng mơ thấy tình cảnh này. Sở Tâm Huệ sẽ trở thành Hoàng hậu Khương La, đứng đầu lục cung, ngồi trên ngai cao cạnh bên bệ hạ, nhìn xuống triều thần nhất mực cúi đầu... Thật là tuyệt diệu làm sao, hạnh phúc làm sao, kiêu ngạo làm sao! Giờ nghĩ lại mơ mộng thời tuổi trẻ ta chợt thấy nản lòng. Sau bao nhiêu năm, rốt cuộc cũng trở thành Hoàng hậu...

Kể từ hôm đó ta đi tới đây cũng có người hành lễ, sống những ngày vui sướng và quyền lực hết mực. Đây rõ ràng là một trận hồi dương của người hấp hối sắp chết. Cung tần nhìn ta ngoài cung kính e sợ còn có một tia thương hại và hả hê. Trước đây bệ hạ có mười ba Hoàng hậu, ta là người thứ mười bốn. Bọn họ giống như ngọn đuốc cháy rực, bùng lên dữ dội để rồi chợt tắt... Đến lượt ta cũng không thoát số phận.

Trong những ngày vinh quang nhất đời mình ta thường nghĩ về Sở Phù Dung. Con người mãi mãi tìm thấy niềm vui trên khổ đau của kẻ khác, ta cũng không ngoại lệ. Trước kia ta hâm mộ và ghen ghét với nàng bao nhiêu, bây giờ ta càng thương hại và cười nhạo bấy nhiêu. Là nữ nhân được Thiên Vĩnh đế yêu, là người duy nhất có được trái tim ngài, là người cuối cùng được ngài thương nhớ... thế thì đã sao? Kết cục nàng ta không có số hưởng phước, chưa từng làm Hoàng hậu, lại còn tuổi trẻ bỏ mình! Hừ, chỉ là một đứa dại dột và ngu ngốc!

Sở Tâm Huệ ta không có được tình yêu, không có ai quý trọng nhưng ít nhất ta đã sống đến bây giờ, hiện tại trở thành mẫu nghi thiên hạ, có tư cách đứng bên cạnh quân vương. Khi ta chết, tên ta vẫn được ghi vào gia phả Hạ Hầu, vẫn được nhắc tới như một Hoàng hậu, được chôn trong Hoàng lăng và hương khói muôn đời!

-Ha ha ha...

Ta đập tay lên bàn, ôm bụng phá lên cười. Cung nhân tự giác im lặng lùi ra xa một chút.

-Người đâu? Lấy gương và hộp trang điểm qua đây. Bổn cung phải ra ngoài đi dạo!

Mỗi ngày ta thích nhất là ngồi cho cung nữ chải đầu, mặc lên phượng bào đỏ thắm, vẽ một đóa mẫu đơn lên trán rồi dẫn theo hai hàng nô tài, kiêu sa đi một vòng hậu cung. Gặp phải người nào ta lại hỏi thăm mấy câu, nếu là phi tử thì kiếm ít chuyện để trách phạt, nhìn xem bọn họ rưng rưng nước mắt, bộ dạng oan ức thật là vui! Cái cảm giác này tuyệt vời đến thế, thảo nào người ta đua nhau trèo lên, không sợ đầu rơi máu chảy...

Hôm nay ta vô tình đi ngang Phù Dung Trì, cái hồ này trùng tên với nàng ta, cũng là nơi nàng tìm đến cái chết. Hoa sen trong hồ rất đẹp, bệ hạ từng so sánh với nhan sắc Dung phi. Ta lại mơ hồ nhớ tới năm Thiên Vĩnh thứ mười tám bị biếm vào lãnh cung, ngày đó chịu khổ rất đáng. Khi còn ở Trung Lương ta là Ngũ công chúa danh giá nhất hoàng triều, mẹ là Qúy phi, cậu là Thượng thư, ông ngoại là sư phó. Ta lớn lên trong nhung lụa, được chiều chuộng và dạy dỗ từng li từng tí, từ rất nhỏ đã tài sắc hơn người, danh tiếng bay xa. Khi mười chín tuổi ta luôn nghĩ phụ hoàng thương tiếc nên chậm trễ chưa gả ta đi, sau này mới hiểu ông ấy từ lâu đã toan tính trong lòng. Một đứa con gái khá khẩm như vậy nếu không mưu cầu chút lợi ích thì thật uổng phí. Hoàng thất muôn đời bạc nhược, ta cũng sớm học được điều này!

Bị đem đi hòa thân, ta không khóc không nháo chẳng qua vì đối tượng là Hạ Hầu Vĩnh Khang. Các chị em ghen tị ta số tốt, từ khi biết rõ về phu quân tương lai của mình, ta cũng đã động lòng. Hình mẫu lý tưởng của một nữ nhân chẳng phải là tuổi trẻ quyền thế, anh hùng thiên hạ hay sao? Điểm chí mạng cuối cùng khiến ta hoàn toàn mê muội chính là vẻ bề ngoài của hắn. Ta vẫn nhớ như in đôi mắt sâu hun hút và cái nhìn ơ thờ biếng nhát bên dưới hàng lông mày đen rậm. Không thể dùng từ "đẹp" để mô tả vì sẽ sỉ nhục khí chất nam nhi. Chàng xa xôi như một vị thần mà ta là cô gái nhỏ khao khát được nép vào lòng, nhu mì như chú chim non. Khúc đàn khó khăn lắm mới không lỗi nhịp mà chàng thì chỉ một mực uống rượu, môi mỏng kề lên thành ly khiến ta đâm ra ghen ghét cái cốc bạc vô tri đó. Tướng số nói môi mỏng bạc tình, một đế vương môi mỏng chính là vô tình!

Không sao, không sao... ta chỉ cần gả cho người này, chỉ cần được thấy hắn mỗi ngày, được chung chăn gối một lần như vậy không còn gì nuối tiếc nữa! Tình cảm thật là đáng sợ, khi mười chín ta đã ngô nghê và ảo tưởng như thế!

-Nương nương, trời trở lạnh rồi, nên quay về thôi!

Cung nữ làm đứt mạch hoài niệm, ta nhíu mày bứt một búp sen, nhìn một vòng cái đầm rộng mênh mông, không biết giờ này Phù Dung đang ở nơi nào?

Khi ta chầm chậm trở về điện Tiêu Phòng, từ xa đã trông thấy mấy tên thái giám lạ mặt đứng hầu bên ngoài. Bước chân ta vô thức dừng lại, có xu hướng muốn quay đầu bỏ chạy. Tới rồi! Cuối cùng hắn cũng xuất hiện rồi!

-Khởi bẩm hoàng hậu nương nương, bệ hạ chờ người đã lâu!

Ta cười giễu, cảm thấy mình chạy cũng không thoát, có mảnh đất nào ở nơi này không thuộc về hắn chứ? Hạ Hầu Vĩnh Khang – tên tuổi ông thật lớn mà lòng dạ ông quá hẹp. Mấy năm nay hắn thay tính đổi nết rất nhiều, sắp hóa thành một tên hôn quân đúng nghĩa rồi! Nếu đánh mất tình yêu có thể khiến người ta hóa dại thì hắn là kẻ điên tỉnh táo nhất. Ta hít sâu lấy lại bộ dạng ngang ngược bất cần của mình, một thân xiêm y lộng lẫy bước vào cuộc chiến định trước sẽ bại...

Gian phòng hướng Tây nội điện là nơi phong thủy không tốt cho nên cung nữ chỉ an bài một bộ bàn ghế, vài bình hoa, mấy tấm tranh, thường ngày quét dọn một lần rồi không lui tới nữa. Lúc này vừa khéo tháng năm, ngày dài đêm ngắn, nắng chiều vẫn còn dư quang đỏ ối, căn phòng giống như bị tạt dầu hạt điều. Hạ Hầu Vĩnh Khang tựa vai bên khung cửa sổ, tay nâng tách trà đặt hờ lên môi. Vẫn là động tác vừa tao nhã vừa buông tuồng này, nếu giữa chúng ta không có thù địch và quá khứ, có thể ta sẽ ngu ngốc động tâm lần nữa...

Không có ai thông báo, ta đứng lại phía sau lưng hắn, hy vọng thời gian có thể dừng lại lâu một chút, để ta thấy rõ những gì ẩn chứa phía sau con người này. Tại sao có kẻ sinh ra là gã tiều phu, cố phấn đấu hết đời cũng chỉ dành đủ tiền xây ngôi nhà nhỏ? Tại sao có người sinh ra là áo gấm trâm vàng, chỉ cần nhấc tay cũng đủ cho giang san nghiêng ngả? Một vị anh hùng lúc về già sẽ như thế nào?

Thời gian là thứ duy nhất mà hắn không có quyền khống chế, nó để lại vết tích trên mái tóc điểm bạc, trên những nếp nhăn già dặn ở nơi khóe mắt. Dù là Hạ Hầu Vĩnh Khang tuổi trẻ ngời ngời của mười lăm năm trước hay là Hạ Hầu Vĩnh Khang thành thục chín chắn của mười lăm năm sau, hắn vẫn hấp dẫn và phong lưu như thế, trách sao hậu cung không bao giờ già, lớp này ngã xuống lớp khác xông lên. Ta thật muốn hỏi ông ấy một câu: "Bệ hạ hạnh phúc chứ?"

-Hoàng hậu còn định đứng nhìn tới bao giờ?

Hắn thả tách trà rỗng không xuống bệ cửa, chấp tay sau lưng quay lại chỗ ngồi, đến khi lướt qua ta cũng không buồn đưa mắt nhìn một cái.

-Bệ hạ vạn tuế! Hôm nay không biết ngọn gió nào đưa ngài đến đây thăm thiếp?

-Chính sự an nhàn, trẫm bớt chút thời gian cùng Hậu ôn chuyện cũ, có hứng thú không?

-Cung kính không bằng tuân mệnh.

Thật ra ta cũng từng mơ đến tình cảnh này. Hai người vừa uống trà vừa trò chuyện, chàng nói một câu, thiếp cười một cái, tốt nhất là có thêm vài hài tử chạy qua chạy lại. Làm phụ nữ, dù có hư vinh đến đâu thì tận đáy lòng họ đều mưu cầu một người đàn ông sẵn sàng yêu thương và bao dung mình, hạnh phúc nửa đời đàn bà luôn dựa vào một mối hôn nhân may rủi.

-Hôm nay nghe nói nàng đi dạo ở hồ sen?

-Vâng, hoa sen ở Phù Dung Trì không có mùa, lúc nào cũng đẹp như vậy. Thiếp dự tính lễ hội mùa thu năm nay sẽ chọn hoa sen làm chủ đề!

Cuối cùng Hạ Hầu Vĩnh Khang cũng nhìn qua, ý cười châm chọc:

-Hậu thật nhiều sáng kiến nhưng trẫm thấy tốt hơn hết đừng chọn hoa sen, không khéo có điều gì làm phật ý trẫm thì khó gánh hậu quả! Vẫn nên chọn những thứ an toàn và ít liên quan đi.

-Thần thiếp cẩn tuân lời dạy. Bệ hạ, vũ y phường hôm trước thông báo đã dạy dỗ xong mấy vũ nương đem từ Lương Châu sang, họ múa điệu Phù Dung Lưu Hương cũng không tệ, hay là cuối tháng này tổ chức gia yến cho bệ hạ thưởng thức, mama chưởng quản nói là...

"Choang!"

Chiếc cốc rơi xuống đất vỡ tan, tạo ra một âm thanh rất giòn. Sắc mặt hoàng thượng ngày một trắng, ta biết là mình vừa chọc tới chiếc vảy ngược của hắn, đau lắm nhỉ? Tốt, cứ đau đi, nỗi đau của ngươi là niềm vui của ta.

-Sở. Tâm. Huệ. Nàng cảm thấy ngày tháng quá nhàm chán đúng không? Rốt cuộc nàng muốn chén rượu độc hay mười tấc lụa trắng? Trẫm cũng không ngại để nàng chết chẳng toàn thây!

Nếu con người ngay cả cái chết cũng không sợ thì không có gì khiến họ sợ hãi nữa, ta cũng vậy! Từ khi Trung Lương bị Khương La đô hộ đã sáp nhập vào lãnh thổ, đổi tên thành Lương Châu. Người dân Lương Châu sống cũng không tệ, miễn là đừng khởi nghĩa chống đối. Với chính sách thống trị vừa cương lại nhu có khi vài thập niên nữa dân Trung Lương cũng bị đồng hóa thành người Khương La thôi. Bao nhiêu tiểu vương quốc lân cận đã bị thâu tóm như vậy, đất nước này ngày một phình ra mà nếu không vì chút chuyện cá nhân thì Hà Hầu Vĩnh Khang đã chẳng dừng bước, suýt nữa cả vùng lục địa này đã thuộc về hắn rồi!

Cuối cùng, lân bang ngoài kia nên cảm ơn một người con gái tên là Sở Phù Dung, cái chết của nàng ta vô tình đã cứu rỗi thời cuộc, đã đâm một nhát chí mạng vào trái tim con rồng hung ác, để nó hiểu thế nào là tổn thương và mất mát, để nó thu lại bộ vuốt bẩn máu, cuộn mình trốn vào hang ổ liếm láp nổi đau... Vết thương đóng vẩy, kéo da non nhưng cảm giác khổ sở vẫn vẹn nguyên như trước, từng ngày... từng ngày... bào mòn tinh thần và thể xác... khiến người đó nhận ra hắn đã quá già để tiếp tục tham vọng, quá mệt mỏi để xây tiếp giấc mộng giang sơn... Rồi hắn nản lòng!

Ta vẫn thường theo dõi diễn biến ở Lương Châu, dẫu sao nơi ấy cũng mang tên "quê nhà". Quan niệm sống của ta là sống chết có số, cá bé sinh tồn để cá lớn ăn thịt. Ta không có tư tưởng vĩ đại, trái tim từ bi bát ái quái gở như Phù Dung. Bảo ta vì thù hận mà chống đối hoàng thượng, ta không dám, đúng hơn là thấy không đáng! Con dân nước ta đầu rơi máu chảy, cha mẹ ta chết dưới quan binh của hắn, mà hắn thì đối với ta vô tình... Phải chi Hạ Hầu Vĩnh Khang có một phần mười thương xót thì ta cũng muốn vịn vào đó dày vò hắn ít nhiều. Cho nên chuyện lấy cái chết khiến người đó khổ hận suốt đời chỉ có Phù Dung làm được, vì tình đặt nơi nào thì nơi đó mềm yếu, chỉ người quan trọng nhất mới có thể làm đau ta nhất!

Ta thăm dò khá lâu mới tìm được vài vũ nương biết rõ về điệu múa dân tộc, nhất là điệu múa cung đình do "Vũ Tiên" sáng tác. Lúc còn ở Trung Lương ta có nghe danh người này, thỉnh thoảng vài kẻ to gan dám so sánh ta với "Vũ Tiên", họ nói chỉ có cô ấy mới sánh ngang với Ngũ công chúa. Trong lòng ta cười mỉa, Vũ Tiên dù thần thánh cũng là dân đen, có chút tài mọn nổi tiếng trong nhân gian nhưng không thể danh giá hơn một vị công chúa đương triều. Sau khi xem điệu Phù Dung Lưu Hương do cô ấy chế tác ta mới thán phục đôi chút, nghe nói tất cả vũ y trong cung không ai có thể múa chuẩn như phiên bản gốc, chỉ có Vũ Tiên mới làm được dáng đứng "Phù Dung ti mệnh" vừa khó lại cầu kỳ ấy, tất cả sức nặng đều dồn vào ngón chân cái bên phải, cả người tựa như không chạm đất, chân trái vươn cao và thẳng. Dáng đứng như vậy tạo cảm giác thoát tục, giống như chỉ chốc lát là người múa sẽ mọc cánh bay lên. Vì không ai làm được nên họ gọi động tác này là "Bất Khả". Ta không tin trên đời có người múa được Bất Khả, ngay cả Vũ Tiên có lẽ chỉ nói khoác mà thôi, ít ra phải tận mắt chứng kiến thì mới tin!

Vũ Tiên đó chính là Sở Phù Dung, nhiều năm về sau ta mới biết điều này. Từ khi trở thành Dung phi nàng ta chỉ ru rú trong viện của mình, không giống cung tần khác luôn tìm cách thể hiện, muốn những cuộc hội ngộ "tình cờ" để bệ hạ chú ý. Hoàng đế lúc nóng lúc lạnh, không phải với riêng người nào, Phù Dung thì sống nội tâm. Hội hè người người trang điểm chưng diện thi thố múa hát, trong khi Phù Dung chỉ ăn mặc đạm bạc, ngồi nhìn lơ đễnh cho tới tàn cuộc, ai cũng nghĩ nàng ta vô tài, vẫn bảo vô tài mới có đức mà!

Thật ra chỉ vì thiếu tâm, vì chẳng dụng lòng. Cuối cùng Phù Dung cũng thể hiện hết ra, khiến người người sửng sốt kinh ngạc, khiến bệ hạ điên đảo vì nàng để rồi ngay sau đó lặng lẽ chết đi... Chiêu này cũng thật độc! Phù Dung muốn cho người nào đó biết mình đáng giá cỡ nào, quý báu ra sao, để rồi kết luận hắn đã đánh mất. Duy nhất một lần nở rộ, bông hoa sen kia nhanh chóng héo tàn, chỉ người ở lại là tiếc ngẩn tiếc ngơ. Không gì tàn nhẫn hơn đưa người ta lên trời mây rồi một phát đạp xuống địa ngục, cũng tựa như chuốc say trong thuốc phiện, đợi đến lúc nghiện nặng thì không đưa thuốc nữa, mùi vị tuyệt vọng bao giờ cũng đắng hơn thạch tín.

Một dòng suy nghĩ mênh mang nghe thì dài mà thực sự chỉ xảy ra trong chốc lát. Khi cung nữ rung rẩy dọn dẹp chỗ tách sứ vỡ, ta cũng hoàn hồn lại, trào phúng nhìn khuôn mặt tái nhợt của hắn. Vũ nương từ Lương Châu, điệu múa của họ chỉ tổ khơi lại đau đớn trong lòng. Hạ Hầu Vĩnh Khang sẽ không còn cơ hội được thưởng thức một bài múa hoàn hảo nữa, cho dù là vũ nữ tài ba nhất, họ cũng không thể đem Phù Dung Lưu Hương của ngày nào tái hiện một cách hoàn mỹ. Đáng thương cho Thiên Vĩnh đế, cả đời chỉ một lần chứng kiến, ngoài hồi ức cũng chỉ còn kỉ niệm.

-Bệ hạ bớt giận, quả là thần thiếp thất trách, mấy vũ nương kia giỏi thì có giỏi nhưng làm sao qua mặt được Dung phi nương nương? Haizzz... ông trời luôn ganh tị với người tài, muội muội tuổi trẻ xinh đẹp mà lại...

Ta vờ vịt đem khăn lên chặm mắt, một bên khóe miệng nhếch cười. Nói ta điên rồ cũng được, dại dột cũng thế. Trở thành hoàng hậu, xem như ta đã toại nguyện, hắn muốn định kết cục ra sao thì định, ta chờ ngày này rất nhiều năm. Trước ta đã có mười ba người, không phải ai trong số họ cũng hiểu vì sao mình chết, nếu biết trước kết cục như vậy có lẽ năm ấy hậu cung chẳng đoàn kết đưa Dung phi vào đường cùng, mà những kẻ "bài đầu" như ta và Lâm quý phi chẳng nghi ngờ gì sẽ hứng chịu trừng phạt nặng nề nhất!

Ta len lén nhìn hoàng thượng, có khi nào hắn quá tức giận, dứt khoát lôi ta xuống chém đầu, như vậy thì hơi đau... ta vẫn muốn chết toàn thây hơn! Trái với dự đoán, Hạ Hầu Vĩnh Khang không nổi cơn thịnh nộ mà chỉ ngồi thất thần, giống như đi vào cõi vô hư rồi. Sống mũi hắn cao cao, kết hợp với mặt chữ điền có phần lệch lạc so với thẩm mỹ nhân gian. Người ta vẫn nói mũi trâu không giàu thì sang, tiền tài như nước, mũi dẹt có phúc khí, ăn sung mặc sướng. Ta cảm thấy mũi thẳng và cao ráo như bệ hạ mới thực anh tuấn, lẽ nào đây là mũi của đế vương? Lúc này đầu hắn hơi cúi, những đường nét lạnh lùng có phần tịch mịch, dưới nắng đỏ chiều tà lại thêm buồn thương. Ta chẳng muốn cảm thông, bởi vì trên đời ai sinh ra mà không biết khổ? Hắn đau của hắn, ta cũng có bi ai của riêng mình...

Thật lâu sau đó, căn phòng tĩnh lặng chợt vang lên tiếng nói:

-Trẫm muốn biết... vì sao năm ấy ngươi lại giúp A Dung mang thai?

Ồ, thật sự muốn ôn chuyện cũ sao? Ta có phần khó hiểu nhìn hắn nhưng vẫn thẳng thắn đáp:

-Tất nhiên là muốn liều một phen, thử lòng hoàng thượng đối với muội ấy có bao nhiêu nghĩa tình. Trong hậu cung này, chuyện con cái không phải do phi tử quyết định, ngài trị quốc tài giỏi mà trị gia cũng thật cao tay! Hiển Linh Hoàng hậu trước khi chết tiết lộ cho Lâm quý phi, phần lớn cung tần khi gả vào đều bị hạ dược vô sinh, ta không may nằm trong số đó... hahaha... buồn cười làm sao, vậy mà ngày xưa ta còn nhọc công bái tượng bồ tát về thờ, cầu cho sinh được hoàng tử. Bồ tát có linh cỡ nào cũng không "linh" bằng hoàng thượng! Ngài trong chuyện chăn gối cũng tính toán chi li, ai mang thai thì có lợi, đứa trẻ nào sinh ra thì hợp thời, hậu cung này cũng giống một nước cờ giang sơn mà thôi!

Ta ngừng lại, ưu nhã nhấp ngụm trà rồi mới nói tiếp. Sau này không còn cơ hội nữa, ta phải nói cho sướng miệng, xả ra bao nhiêu u uất chất chứa trong lòng hàng chục năm...

-Chuyện thế này cũng bình thường, nữ nhân chúng tôi dĩ nhiên không đấu lại Thiên Vĩnh đế ngài. Ban đầu thiếp thân có chút tuyệt vọng nhưng rồi đã nghĩ thoáng, không có con cũng chẳng sao, thời thế đâu đứng yên một chỗ! Ngài xem, không phải Thái tử hiện tại nuôi dưới danh nghĩa của ta sao? Chỉ thương hại cho mấy ả ngu ngốc kia, suốt ngày vì chuyện sinh nở mà ưu sầu, tin lời đồn uống hết phương thuốc này tới bài thuốc kia, cuối cùng con vẫn không có mà thân thể suy nhược! Bọn họ bị đùa bỡn như một lũ rối, mà thủ phạm chính là người kề cận chăn gối của mình... haha... rõ cái trò đời! Lẽ ra ta cũng không oán than gì nữa, ai cũng như ai, ta còn cảm thấy mình may mắn vì hiểu rõ sự tình, không bị lừa dối đến ngu như bọn họ. Thế nhưng có một ngày Phù Dung rơi lệ thổ lộ rằng nàng phải uống Tuyệt Tự Canh thường xuyên, bệ hạ lạnh nhạt vô tình dù nàng có van xin cỡ nào cũng không đổi ý. Ngài có biết cảm giác của ta khi đó là gì không? Là ghen tị mờ mắt, là cay đắng ngập lòng. Hậu cung này cả Tuyệt Tự Canh cũng không có cơ hội được uống! Nàng ta cũng giống như ta, đều là công chúa Trung Lương cả, ta bị vô sinh cũng có lý do chính trị thỏa đáng nhưng vì sao Phù Dung là ngoại lệ?

Hạ Hầu Vĩnh Khang hít sâu một hơi, nặng nề hỏi:

-Cho nên ngươi bày mưu giúp A Dung, may vải bông dày sau ống tay áo để đổ thuốc đi?

Ta đắc ý gật đầu:

-Phải! Thiếp đây vui mừng chờ mong phản ứng của bệ hạ, sau khi biết Dung phi mang thai ngoài ý muốn ngài sẽ làm gì? Giết nàng ta hay giết đứa trẻ? À, nhớ không lầm thì lần đó muội ấy suýt chết nhỉ? Hậu cung ngốc nhưng cũng không ngốc, bệ hạ chưa biết rằng đàn bà có cái lợi hại của đàn bà, họ có thể chẳng đủ thông minh đấu trí với ngài nhưng họ cực kì nhạy cảm, từ sâu trong tiềm thức đã hiểu ra ai mới là kẻ thù thực sự...

Nói tới đây ta không khỏi cảm thán. Muốn hãm hại Phù Dung chưa bao giờ là số ít, bất cứ chuyện gì xảy đến với nàng ta cũng là một rừng toan tính chằng chịt như mạng nhện. Người không chủ mưu thì cũng tiếp tay, kẻ không tiếp tay thì cũng bao che, kẻ không bao che thì giả vờ ngó lơ... cho nên mới có sự kiện mười ba hoàng hậu, hắn muốn trả thù cho Phù Dung, chỉ có cách diệt hết cả hậu cung thì mới hết tội! Hoàng cung chính là bãi đầm lầy, ai bước vào dù muốn hay không cũng đều dính bẩn. Chỉ bất hạnh cho kẻ nào được hoàng thượng yêu thương, bởi vì phía sau tấm màn rực rỡ là tất cả ganh ghét của nữ nhân trên đời...

Ta từ trên ghế đứng dậy, áo phượng đỏ rực tựa như hòa vào một thể với màu nắng đỏ chiều tà, cảm giác mình rất uy phong dũng mãnh! Ta muốn chết như một Hoàng hậu chứ không muốn sống như lũ dân đen. Nếu đã không có người thương xót cho Sở Tâm Huệ này thì ta phải trân trọng lấy mình. Sở Tâm Huệ từng là một công chúa danh giá nhất Trung Lương, bây giờ nàng ấy là Hoàng hậu của Khương La, hoàn toàn có thể kiêu ngạo ngẩng cao đầu!

Ta nhìn xuống vị quân vương được người người ngưỡng vọng kia. Ông chẳng qua cũng là con người chứ có phải thần thánh chi đâu? Ông rồi cũng già và chết, ông có tất cả trong tay đồng thời cũng chẳng có gì, phải bầu bạn bên cô độc, sống từng ngày mòn mỏi như vậy mới là kẻ đáng thương nhất!

-Hoàng đế bệ hạ, bổn cung xuống suối vàng sẽ phù hộ cho chàng sống thật lâu, cứ sống mà nếm trải đau thương này. Nếu ta gặp muội muội sẽ báo cho muội biết, ca ca của nàng là gã si tình cỡ nào, hắn yêu em gái mình, các người loạn luân hoài thai nghiệt chủng. Tình yêu bất chấp đạo lý khiến trời cao cảm động, kiếp sau sẽ tiếp tục để hai người làm huynh muội, sinh ra ở bên nhau, cùng lớn lên rồi thành vợ chồng! Ôi chao... lãng mạn thật đấy, con cái của các người không thiếu tay thì cũng cụt chân, không là quái thai cũng giống quái vật!!!

Tiếng nói của ta càng lúc càng lớn, vang vọng khắp phòng, tưởng chừng cả hoàng thành cũng nghe thấy! Ta nguyền rủa các người, quá khứ hiện tại và mai sau, các người sẽ không bao giờ được danh chính ngôn thuận ở bên nhau, sẽ mãi mãi bị vây khốn trong luân thường đạo lý! Cầu mà không được, ước mà không thấy... ở ngay bên cạnh mà chẳng dám chạm vào!

Hạ Hầu Vĩnh Khang trước sau chưa từng nổi giận. Hắn vuốt cánh tay áo đứng dậy, nét mặt vẫn ngạo nghễ ương ngạnh. Hắn đối diện ta, đế hậu y bào chói lóa, chúng ta có đẹp đôi hay không?

-Sở Tâm Huệ... ngươi oán hận ta và A Dung như vậy, nguyền rủa cũng thật độc! Nhưng mà... cũng phải cảm ơn lời chúc của ngươi. Nếu kiếp sau ta lại thành ca ca của nàng thì không phải mất nửa đời để tìm nhau nữa. Đúng như ngươi nói, sinh ra đã cận kề, lớn lên không chia cắt... như vậy tốt biết bao! Kể từ bây giờ Tự Trinh hoàng hậu đã qua đời, ngươi rời khỏi Khương La này đi!

Ta nhíu mày, thật không rõ ý hắn là gì...

-Không hiểu? Ha ha... ngươi có biết là... khi còn sống A Dung đã bắt trẫm thề... dù ngươi làm chuyện sai trái gì trẫm cũng để cho ngươi đường sống. Thật ra trong lòng A Dung, ngươi thực sự là tỷ tỷ của nàng. Hiện tại trẫm sợ mình không giữ được lời hứa cho nên tốt nhất ngươi hãy cao chạy xa bay, kẻo có một ngày trẫm thình lình đổi ý thì không biết phải ăn nói làm sao với A Dung...

Hắn nói xong liền quay người bước đi, chính là hoàn toàn bước ra khỏi cuộc đời ta...

Giây phút ấy dường như tất cả hồi ức ùa về, từ tuổi ấu thơ đến thời niên thiếu, từ khi thiếu nữ biết yêu đến lúc đàn bà tuyệt vọng trong bể ái...

Hóa ra... ta chưa bao giờ CÓ... nên cũng chưa từng MẤT...

Hạ Hầu Vĩnh Khang!

Sở Phù Dung!

Giữa ba chúng ta ai mê ai tỉnh? Ai mới là người ngoài cuộc trong ngổn ngang này?

***

Trong tẩm phòng ta có một hộp gỗ, nhìn thì tầm thường nhưng luôn đặt bên gối. Trong hộp có hai cái lọ, một lọ thủy tinh đựng bông hoa dại phơi khô. Chính loài hoa không tên này khiến ta đem lòng thương hắn. Nụ cười trong trẻo ngày đó, phong lưu đa tình ngày đó, người đã quên, người vẫn nhớ... thứ còn lại mang tên "dĩ vãng"

Ta trút cành hoa khô ra, vò nát nó trong bàn tay mình, rồi lại cầm chiếc lọ thứ hai. Chất lỏng bên trong có màu xanh bạc hà, uống vào trong miệng nghe vị ngọt. Ta nằm trên giường nhìn đỉnh màn treo tú cầu lấp lánh, đáy lòng tự hỏi... liệu có ai sẽ rơi nước mắt vì Tâm Tâm không?

"Nàng là... Ngũ công chúa của Trung Lương? Qủa nhiên tai nghe không bằng mắt thấy. Tâm Tâm xinh đẹp, ta tặng nàng món lễ vật, nàng sẽ không chê bai chứ?"

"Thiếp chẳng thèm! Ai lại đem cỏ làm quà bao giờ?"

"Hoàng thượng, nếu không có Phù Dung, có phải chàng sẽ yêu ta không?"

"Huệ phi, đừng hỏi câu ngu ngốc. Không có A Dung, trẫm cũng không biết yêu thương là gì!"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro