phung van lan

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đặt văn bản tại đây...LỜI MỞ ĐẦU:

Chính sách tiền tệ là 1 chính sách quan trọng trong việc thực hiện ổn định thị trường nhăm đảm bảo nền kinh tế của quốc gia đó trước sự biến động của thị trường, đặc biệt là giai đoạn cuối 2007- 2008 thời kìkhủng hoảng về tài chính:khủng hoảng trên thị trường cho vay thế chấp nhà đất dưới tiêu chuẩn ở Mỹ đã tác động tiêu cực đến thị trường tài chính thế giới. Hàng loạt các định chế tài chính ở Mỹ đã công bố những tổn thất nặng nề mà họ phải gánh chịu xuất phát từ hậu quả của cuộc khủng hoảng này gây nên. Hơn thế nữa, cuộc khủng hoảng này đã lan rộng sang một số nước khu vực Châu Âu, Nhật... Một số Ngân hàng lớn ở những quốc gia này cũng lâm vào tình trạng khủng hoảng tương tự. Hậu quả của cuộc khủng hoảng không chỉ được nhìn nhận dưới góc độ kinh doanh của từng ngân hàng, tỷ lệ tăng trưởng và giải quyết việc làm của riêng nước Mỹ mà còn được xem xét dưới ảnh hưởng mang tính toàn cầu, đến sự chu chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế nói riêng và sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới nói chung. Việt Nam với tư cách là một bộ phận và ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới chắc chắn cũng không tránh khỏi tình trạng đó. Vào tháng 7/2006 Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức WTO- tổ chứa thương mại thế giới đây là 1 lợi thế lớn và cũng là 1 thách thức lớn cho nền kinh tê việt nam. Với mục tiêu học tập, và tìm hiểu nghiên cứu để hiểu rõ hơn về nhưng biến động kinh tế, và việc đối phó của NHTW các nước trên

thế giới trong giai đoạn 2007-2010 nói chung và Việt Nam nói riêng chúng tôi đã đi sâu nghiên cứu từ tình hình biến động của nền kinh tê thế giới tác động thế nào thới nền kinh tế Việt Nam, và nền kinh tế Việt Nam biến động thế nào trước sự tác động đó, để đảm bảo cho sự phát triển phồn vinh của 1 quốc gia, chính Phủ Việt Nam sẽ phản ứng thế nào, đặc biệt là thông qua vai trò điều tiết kinh tế của NHNH Việt Nam qua việc thực thi chính sách tiền tệ. Trong quá trình nghiên cứu nhóm chúng tôi không thể tránh khỏi những sai sót cũng nhưng chưa thực sự hoàn thiện, Mong các bạn và thầy nhận xét và đánh giá để nhóm chúng tôi có thể hoàn thiện hơn bài thảo luận của minh. Trân thành cảm ơn!!!

Trong quá trình nghiên cứu nhóm chúng tôi đã sử dụng một số tài liệu sau:

Web:

thổng cục thống kê việt nam http://www.gso.gov.vn

Ngân hàng TW việt Nam: http://www.sbv.gov.vn

FIA việt Nam: http://fia.mpi.gov.vn

Viện nghiên cưu phát triển thành phố hồ chí http://www.hids.hochiminhcity.gov.vn

Thời báo kinh tế việt nam: http://vneconomy.vn/

Diễn đàn kinh tế Việt Nam: http://www.vnecon.vn/

Sách:

Giáo trình tiền tệ ngân hàng của học viện ngân hàng

Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính của Frederic S.Mishkin

BỐ CỤC BÀI THẢO LUẬN:

I, Phần lý thuyết:

1, khái niệm, vị trí của CSTT

a, khái niệm chính sách tiền tệ

b, vị trí chính sách tiền tệ

2, Mục tiêu của chính sách tiền tệ:

a, ổn định giá trị đồng tiền

b, Tăng công ăn việc làm

c, Tăng trưởng kinh tế

3. Công cụ của CSTT:

a, Nghiệp vụ thị trường mở

b, Dự trữ bắt buộc

c, Hạn mức tín dụng

d, Lãi suất

e, Tỉ giá đối hoái

II, VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHTW VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 2007-2010:

1, Giai đoạn : Trong năm 2007- đầu 2008

2, Giai đoạn : năm 2008

a, Giai đoạn từ đầu năm đến tháng 6

b, Giai đoạn từ tháng 6 tới cuối năm 2008

3, Giai đoạn: từ cuối năm 2008 và năm 2009

4, Giai đoạn : năm 2010 tới nay và định hướng tương lai

III, MỘT SỐ LƯU Ý KHI SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

BÀI LÀM

Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ:

1) Khái niệm:

Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ , biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu :ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trưởng kinh tế .

Chúng ta có thể hiểu, chính sách tiền tệ là tổng hòa các phương thức mà NHNN VN (NHTW) thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế -xã hội của đất nước trong một thời kì nhất định. Mặt khác, nó là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của chính phủ.

Tuỳ điều kiện các nước, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai hướng: chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh ,giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng -chính sách tiền tệ chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền , tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng-chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền).

2) Vị trí của chính sách tiền tệ :

Trong hệ thống các công cụ đIều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ .Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khoá,chính sách thu nhập,chính sách kinh tế đối ngoại.

Đối với Ngân hàng trung ương ,việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.

II. Mục tiêu của chính sách tiền tệ

a.Ổn định giá cả đồng tiền:

NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên hai mặt: Sức mua đối nội của đồng tiền(chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước)và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được,để có một tỷ lệ lạm phát giảm phảI chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.

b. Tăng công ăn việc làm:

CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực xã hội,quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghịêp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên. Mặt khác, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cuộc cải tiến kĩ thuật thì việc làm có thể không tăng mà còn giảm. Theo nhà kinh tế học Arthur Okun thì khi GNP thực tế giảm 2% so với GNP tiềm năng, thì mức thất nghiệp tăng 1%.

Từ những điều trên cho thấy, vai trò của NHTW khi thực hiện mục tiêu này : tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh, chống suy thoái kinh tế theo chu kỳ, tăng trưởng kinh tế ổn định, khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.

c. Tăng trưởng kinh tế:

Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng ,nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ.

Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hoà.

Mối quan hệ giữa các mục tiêu : Có mối quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ nhau, không tách rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậyđể đạt được các mục tiêu trên một cách hài hoà thì NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.

Mặt khác để biết các mục tiêu cuối cùng trên có thực hiện được không, thì các NHTW phải chờ thời gian dài ( một năm -khi kết thúc năm tài chính).

III. Công cụ của chính sách tiền tệ

a.Nghiệp vụ thị trường mở:

Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó đIều tiết lượng tiền cung ứng.

Cơ chế tác động: Khi NHTW mua (bán) chứng khoán thì sẽ làm cho cơ

số tiền tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi).

Nếu thị trường mở chỉ gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ làm thay đổi lượng tiền dự trữ của các NHTM (R ),nếu bao gồm cả công chúng thì nó sẽ làm thay đổi ngay lượng tiền mặt trong lưu thông (C).

Đặc điểm: Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một công cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác của CSTT vì khối lượng chứng khoán mua ( bán ) tỷ lệ với qui mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh, ít tốn kém về chi phí , dễ đảo ngược tình thế. Tuy vậy, vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phảI có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ ,thị trường vốn.

b.Dự trữ bắt buộc

Khái niệm : Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phảI giữ lại, do NHTW qui định, gửi tại NHTW, không hưởng lãI, không được dùng để đầu tư, cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng só tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân tiền tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các NHTM.Mặt khác khi tăng (giảm ) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng), làm cho lãI suất cho vay tăng (giảm), từ đó làm cho lượng cung ứng tiền giảm (tăng).

Đặc đIểm: Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp NHTW chủ động trong việc đIều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm ,phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM.

c.Chính sách tái cấp vốn:>< hạn mức tín dụng??

c.Quản lý hạn mức tín dụng

Khái niệm :

Quản lý hạn mức tín dụng là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ của các NHTM không được vượt quá một lượng nào đó trong một thời gian nhất định(một năm) để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ

mô(tốc độ tăng trưởng ,lạm phátiêu thụ..)sau đó NHTW sẽ phân bổ cho các

NHTM và NHTM không thể cho vay vượt quá hạn mức do NHTW quy định .

Cơ chế tác động:Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lượng tiền cung ứng,việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHTM.

Đặc điểm:Giúp NHTW điều chỉnh ,kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả ,đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng,tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế .Song nhược điểm của nó rất lớn : triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM,làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế ,dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngoàI sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ trở nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên

e.Tỉ giá hối đoái

Khái niệm :tỉ giá hối đoái là đại lượng biều thị mối tương quan về mặt giá trị giữa hai đồng tiền nói cách khác tỉ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được biểu hiện bằng một đơn vị tiền nước khác.

Cơ chế tác động:tác động đến hoạt động kinh tế , từ hoạt động xuất nhập khẩu đến sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước qua biến đổi của giá cả hàng hóa

Đặc điểm:ngân hàng trung ương có thể ấn định tỉ giá cố định hay tha nổi theo quan hệ cung cầu ngoai tệ trên thị trường ngoại hối bện canh đó còn có tỉ gái cố định nhưng di động khi cần thiết và tỉ giá thả nổi có quản lý.khi vận dung công cụ này không phải NHTU đẩy tỉ giá lên cao hay kéo tỉ gái xuống thấp mà ổn định tỉ gái ở một mức độ hợp lí phù hợp vói đặc điểm điều kiện thực tế của đất nước trong từng giai đoạn để tác động chung cuộc của nó là tốt nhất.

II, VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHTW TRONG NHỮNG NĂM 2007-2010:

1, Giai đoạn : Năm 2007:

Thực trạng:

Từ cuối năm 2006, nền kinh tế Việt Nam nổi lên với nhiều sự kiện, chỉ tiêu đầy hứa hẹn. Khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO, luồng vốn ngoại tệ vào rất lớn (lên tới 20 tỉ USD) đến mức quá nhiều trong khi khả năng hấp thụ vốn ngoại của nền kinh tế còn hạn chế, đã gây ra nhiều hiệu ứng cho nền kinh tế mức quá nhiều (VND lên giá, bùng nổ tín dụng, lạm phát gia tăng; sức ép đòi hỏi bơm nội tệ để mua ngoại tệ...) Trong đó, đồng tiền VND mất giá là ấn tượng đáng nhớ nhất đối với VN. Đầu năm 2005 , Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đưa ra dự báo, trong năm 2005, tỷ giá USD/VND sẽ tăng quanh mức 1%. Đầu giờ sáng nay, tỷ giá này đã tăng đến 0,8% so với đầu năm và chỉ cách ngưỡng dự báo khoảng 0,2%. Cụ thể, tỷ giá giao dịch tại hội sở chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) hiện ở mức 1 USD = 15.905 VND, tăng 0,8% so với đầu năm (15.778 VND). Mức 15.905 VND cũng là mức cao nhất kể từ đầu năm.

Theo tỷ giá hạch toán do Bộ Tài chính công bố, áp dụng trong tháng 10/2005, tỷ giá USD/VND cũng đã tăng trên 0,7%. Còn theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, do Ngân hàng nhà nước công bố ngày hôm nay, cũng đã tăng gần 0,75%. Và cuối năm 2006, tỷ giá vẫn còn ở mức mua vào 16.045 VND/USD và bán ra 16.055 VND/USD Hơn nữa, năm 2007 lại là năm ảm đạm của nền kinh tế Mỹ khi đồng USD

xuống giá nghiêm trọng.

Sau năm 2007, GDP của Mỹ chỉ đạt 13.800 tỷ đôla. Sự suy thoái của nền kinh tế lớn nhất thế giới này đã khiến cho nhiều nền kinh tế khác trên thế giới chịu nhiều ảnh hưởng, trong đó có Việt Nam

Trên cơ sở đánh giá và dự báo kịp thời chiều hướng biến động của kinh tế tiền tệ trong nước và quốc tế, trong năm 2007, NHNN đã thực hiện các giải pháp điều hành CSTT như sau:

 Thực hiện can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng giá VND gây bất lợi cho tăng trưởng kinh tế.

Trong phạm vi khối lượng tiền cung ứng tăng được Chính phủ phê duyệt năm 2007, NHNN đã sử dụng linh hoạt các công cụ CSTT để điều tiết có hiệu quả khối lượng tiền cung ứng này, nhằm đạt mục tiêu mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam, góp phần bình ổn thị trường ngoại hối, nhưng đồng thời cũng hút mạnh lượng tiền đã cung ứng ra cho mục đích mua ngoại tệ để giảm mức độ dư thừa vốn khả dụng của các NHTM, hạn chế sự giá tăng của tổng phương tiện thanh toán (TPTTT), qua đó giảm áp lực lạm phát. Cụ thể:

- Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã hút được một lượng tương đối lớn vốn khả dụng dư thừa của các TCTD, đồng thời vẫn điều tiết kịp thời sự thiếu hụt vốn mang tính thời điểm của một số TCTD, đảm bảo duy trì ổn định tiền tệ, ổn định lãi suất thị trường.

- Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó hạn chế tăng trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát trong những tháng cuối năm.

- Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do NHNN công bố, nhằm phát tín hiệu ổn định lãi suất thị trường. Đồng thời, trong điều kiện nguồn cung ngoại tệ dồi dào, từ 01/03/2007, NHNN đã chính thức thực hiện bỏ qui định về trần lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD để hoàn toàn tự do hóa lãi suất thị trường, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.

Lãi suất cơ bản 8.25%/năm 2881/QĐ-NHNN

01/12/2007 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 8,25%/năm 2538/QĐ-NHNN ngày 31/10/2007 01/11/2007 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 8,25%/năm 2265/QĐ-NHNN ngày 28 tháng 9 năm 2007 01/10/2007 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 8,25%/năm Số:2018/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 8 năm 2007 01/09/2007 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 8,25%/năm 1787/QĐ-NHNN ngày 31/7/2007 01/08/2007 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 8,25%/năm 1546/QĐ-NHNN ngày 29/06/2007 01/07/2007 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 8,25%/năm 1143/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2007 01/06/2007 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 8.25%/năm 908/QĐ-NHNN ngày 27/04/2007 01/05/2007 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 8,25%/năm 632/QĐ-NHNN ngày 29/03/2007 01/04/2007 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 8,25%/năm 424/QĐ-NHNN ngày 27/02/2007 01/03/2007 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 8,25%/năm số 298/QĐ-NHNN ngày 31/1/2007 01/02/2007 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 8,25%/năm 2517/QĐ-NHNN ngày 29/12/2006 01/01/2007 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 8,25%/năm 2308/QĐ-NHNN ngày 30/11/2006 01/12/2006 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 0,6875%/tháng (8,25%/năm) 2045/QĐ-NHNN ngày 30/10/2006 01/11/2006 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 8,25%/năm 1887/QĐ-NHNN ngày 29/09/2006 01/10/2006 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 0,6875%/tháng (8,25%/năm) 1714/QĐ-NHNN ngày 31/08/2006 01/09/2006 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 0,6875%/tháng (8,25%/năm) 1522/QĐ-NHNN ngày 31/7/2006 01/08/2006 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 0,6875%/tháng (8,25%/năm) 1234/QĐ-NHNN ngày 30/6/2006 01/07/2006 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 0,6875%/tháng (8,25%/năm) 1234/QĐ-NHNN ngày 30/06/2006 01/07/2006 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 0,6875%/tháng (8,25%/năm) 1044/QĐ-NHNN ngày 31/05/2006 01/06/2006 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 0,6875%/tháng (8,25%/năm) 854/QĐ-NHNN ngày 28/4/2006 01/05/2006 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 0,6875%/tháng (8,25%/năm) 581/QĐ-NHNN ngày 30/3/2006 01/04/2006 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 0,6875%/tháng (8,25%/năm) 311/QĐ-NHNN ngày 28/2/2006 01/03/2006 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 0,6875%/tháng (8,25%/năm) 140/QĐ-NHNN ngày 26/01/2006 01/02/2006 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản 0,6875%/tháng (8,25%/năm) 1894/QĐ-NHNN ngày 30/12/2005 01/01/2006 Không vượt 150% lãi suất cơ bản

-> Ta thấy lãi suất cơ bản luôn được ngân hàng TW ổn định ở mức 8.25 %/ năm từ đầu năm 2006 tới hết năm 2007.

- Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay chiết khấu trong hạn mức phân bổ.

 Điều hành tỷ giá và quản lý dự trữ ngoại hối phù hợp với điều kiện mở cửa thị trường tài chính.

- Ngay từ đầu năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0,25% lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%. Đồng thời NHNN đã thực hiện việc mua ngoại tệ theo nhu cầu bán của các NHTM, Kho bạc Nhà nước và các tổ chức quốc tế với tỷ giá phù hợp để hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam và tăng cường mức dự trữ ngoại hối Nhà nước. Chênh lệch giữa tỷ giá mua ngoại tệ của NHNN và tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng đã được thu hẹp, phản ánh sát cung cầu ngoại tệ trên thị trường.

- Thực hiện Quyết định số 597/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã duy trì hạn mức Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng bằng 30% tổng dự trữ ngoại hối nhà nước, (xác định theo quý) với biên độ +/- 10% thay vì xác định hạn mức theo giá trị tuyệt đối như trước đây. Việc xác định hạn mức như vậy cho phép NHNN tăng cường tính linh hoạt trong điều hành tỷ giá, kịp thời ứng phó với các rủi ro đảo chiều của các nguồn vốn, đặc biệt là các nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài.

- NHNN đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục tiêu thanh khoản và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước tính theo tuần nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời điểm cuối năm 2006 lên gần 18 tuần năm 2007.

- Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Ngoại hối; triển khai thực hiện Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

 Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tăng tổng phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát.

Bên cạnh việc sử dụng các công cụ CSTT để thu hút tiền dư thừa của các TCTD để hạn chế việc mở rộng quá mức đầu tư tín dụng và tăng TPTTT, NHNN tiếp tục thực hiện hoàn thiện cơ sở pháp lý và yêu cầu các TCTD thực hiện các quy định về kiểm soát rủi ro, quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như:

- Yêu cầu các TCTD tiếp tục thực hiện Công văn số 7318/NHNN-CSTT ngày 25/8/2006 về việc thực hiện một số biện pháp để kiểm soát việc cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở mức hạn chế và đảm bảo an toàn. Ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó có qui định khống chế dư nợ vốn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ tín dụng của TCTD...;

- Ban hành Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007 sửa đổi, bổ sung Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định các TCTD không được cấp tín dụng cho các doanh nghiệp trực thuộc hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, không được cho vay không có bảo đảm đối với các khoản vay nhằm đầu tư, kinh doanh chứng khoán và trong thời hạn 1 năm kể từ ngày Quyết định 03 có hiệu lực, các TCTD phải điều chỉnh để đáp ứng các quy định trên.

- Đồng thời, bổ sung sửa đổi quy định về tín dụng, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro phù hợp với chuẩn mực quốc tế và yêu cầu tăng cường năng lực tài chính của NHTM khi tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, hệ số rủi ro của các khoản cho vay để đầu tư chứng khoán, các khoản cho vay đối với công ty chứng khoán nhằm kinh doanh, mua bán chứng khoán được nâng lên mức 150% (theo quy định tại Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN là 100%);

- Ban hành văn bản số 3224/NHNN-CSTT ngày 10/4/2007 quy định việc các TCTD báo cáo định kỳ về hoạt động cho vay đầu tư chứng khoán, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố chứng khoán, ủy thác đầu tư và chiết khấu giấy tờ có giá nhằm phục vụ việc giám sát thường xuyên hoạt động cho vay đối với nhu cầu vốn này và có các giải pháp xử lýý? kịp thời; ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán và các văn bản hướng dẫn lộ thực hiện đối với các NHTM đã cho vay vượt mức khống chế tỷ lệ 3%, giảm dần cho đến thời điểm 31/12/2007 phải đảm bảo tỷ lệ 3%; tăng cường thanh tra, giám sát việc mở rộng quy mô và chất lượng tín dụng theo Chỉ thị này.

- Ban hành Chỉ thị số 06/2007/CT-NHNN ngày 02/11/2007 về yêu cầu các tổ chức tín dụng và các đơn vị trực thuộc NHNN thực hiện các giải pháp đảm bảo khả năng thanh toán và kiểm soát tổng phương tiện thanh toán.

- Tổ chức họp với các NHTM và NHNN chi nhánh thành phố Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh để triển khai thực hiện các giải pháp cụ thể về tiền tệ, tín dụng. NHNN đã chỉ đạo các NHTM tích cực tham gia nghiệp vụ thị trường mở, điều chỉnh cơ cấu tín dụng, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với một số lĩnh vực có độ rủi ro cao như cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán, cho vay kinh doanh bất động sản, cho vay bằng ngoại tệ, cho vay tiêu dùng.

- Tiến hành thanh tra tại các TCTD về hoạt động cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố chứng khoán.

Tác động:

 Tích cực

 Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xẩy ra những cú sốc về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính quốc tế :

+Nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định:lãi suất cơ bản luôn giữ ở mức 8,25%,lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng(TCTD)vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Tính đến cuối tháng 9/2007, huy động vốn của các TCTD tăng 31,2%, ước cả năm tăng 39,6%, cao hơn tốc độ tăng 33,1% của năm 2006; tín dụng đến cuối tháng 9 tháng tăng 30,9%, ước cả năm tăng 37,8%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng 22,8% của năm 2006).

+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ)

Loại ngoại tệ Tỷ giá ngày 7/1/07 Tỷ giá cuối tháng 10/07 Thay đổi so với tháng 1/2007 Tỷ giá bán 28/12/07 Thay đổi so với tháng 1/07 Tỷ giá bán 7/1/08 Thay đổi so với tháng 1/07

Đô la Canada - VND/CAD 13.700 16.704 22% 16.334 19,22 16.224 18,4

Đô la Australia - VND/AUD 12.484 14.491 16% 14.027 12,35 14.096 12,91

Đô la Mỹ - VND/USD 16.084 16.060 0,15% 16.030 -0,19 15.995 -0,5

 Góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND.

 Diến biến tổng phương tiện thanh toán mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi theo chiều hướng tích cực:

+ Tỷ lệ tiền mặt trên TPTTT giảm từ mức 19,3% năm 2006 xuống mức 17,8% năm 2007.

+ Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6% năm 2007 - giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế.

 Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế :

+ Trong hoạt động đầu tư tín dụng của các TCTD có những diễn biến tích cực, các sản phẩm dịch vụ tín dụng đã được đa dạng hơn, nhiều lĩnh vực cho vay đầu tư được mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng để phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần ổn định xã hội, cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn, cho vay chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn cũng được mở rộng, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. "Tỷ lệ hộ nghèo của cả nước đã giảm từ 15,47% năm 2006 xuống còn 14,75% năm 2007 vượt kế hoạch đề ra (16%). Trong các vùng của cả nước tỷ lệ hộ nghèo đều giảm, nhưng cá biệt một số tỉnh miền núi, tại những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người số hộ nghèo vẫn còn chiếm tỷ trọng cao: Tỷ lệ hộ nghèo của Lai Châu hiện nay là 55,32%; Điện Biên 40,77%; Hà Giang 39,44% và Bắc Kạn 37,8%". Bên cạnh đó, việc cho vay tiêu dùng cũng được mở ra rất đa dạng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của xã hội.

+ Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ và giảm dần cả số tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển ổn định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản cũng được theo dõi, giám sát chặt chẽ nhằm góp phần hạn chế những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động ngân hàng và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bến vững.

+ Chất lượng tín dụng được cải thiện: Tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2006 là 2,2%, có xu hướng giảm so với tỷ lệ nợ xấu tháng 12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ xấu của các nhóm TCTD đều giảm. Cụ thể là: tỷ lệ nợ xấu của các NHTM nhà nước là 2,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các NHTM cổ phần là 1,26% (giảm 0,34%); tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng liên doanh và chi nhánh nước ngoài là 0,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các TCTD khác là 2,4% (giảm

 Những thách thức phải đối mặt

Có thể nói, điều hành CSTT năm 2007 về cơ bản, đạt đuợc mục tiêu đặt ra, tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động, cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO nên việc điều hành CSTT đã phải đối mặt với nhiều thách thức làm cho việc thực hiện mục tiêu ban đầu còn có hạn chế nhất định.

Thách thức lớn nhất mà điều hành CSTT năm 2007 phải đối mặt, đó là dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều (Theo số liệu thống kê đến tháng 10/2007, doanh số phát sinh tiền gửi bằng VND của người không cư trú tại các NHTM thì có khoảng 13 tỷ USD của người không cư trú được chuyển cho người cư trú cho mục đích đầu tư vào thị trường chứng khoán, đầu tư vào bất động sản và chi tiêu các nhu cầu tiêu dùng khác trong nước). Tình hình này đã có tác động làm tăng tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế ( tăng M2); làm tăng cung ngoại tệ, gây sức ép làm VND lên giá; dự trữ vượt của hệ thống ngân hàng tăng mạnh - là một nhân tố thúc đẩy tín dụng tăng nhanh; dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) có tác động thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển mạnh hơn, và một lượng vốn nhất định cuả dân cư cũng như từ hệ thống ngân hàng được đầu tư trên thị trường chứng khoán, qua đó đã làm tăng dư nợ cho vay nền kinh tế; cùng với việc gia tăng mạnh dòng vốn đầu tư nước ngoài là sự tăng giá khó lường mang tính toàn cầu của một một số mặt hàng, như giá dầu thô, giá lương thực, bên cạnh đó là hạn hán lũ lụt, dịch bệnh gia cầm trong nước đã có tác động mạnh đến mức mức giá tiêu dùng nói chung. Trong bối cảnh trên, CSTT phải cùng một lúc đạt hai mục tiêu là vừa phải hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế đạt 8,5%, vừa phải kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng là cực kỳ khó khăn. Giải pháp ổn định lãi suất và tỷ giá danh nghĩa hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế và ổn định thị trường tiền tệ không để xẩy ra sự dịch chuyển dòng vốn, nhưng lại rất khó khăn để kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế và kiềm chế lạm phát.

Chính vì vậy, NHNN đã gặp khó khăn trong việc kiểm soát TPTTT, tín dụng, qua đó đã chưa kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu đặt ra: TPTTT của Việt Nam tăng mạnh trong năm 2007 là khó tránh khỏi khi dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều như năm nay. Muốn hạn chế gia tăng TPTTT, thì cần phải hạn chế sự gia tăng của dòng vốn này. Tuy nhiên, hạn chế dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là vấn đề không đơn giản khi Việt Nam đã gia nhập WTO, thị trường tài chính từng bước tự do hóa. Vì vậy, việc hạn chế sự gia tăng nguồn vốn nước ngoài nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN, mà đòi hỏi phải có chính sách vĩ mô đồng bộ để đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả, giám sát chặt chẽ luồng vốn đầu tư gián tiếp, hạn chế tình trạng đầu cơ trên thị trường chứng khoán,... nhằm hạn chế những tác động bất lợi của dòng vốn này.

Bên cạnh đó, việc Việt Nam gia nhập WTO tạo cơ hội thuận lợi cho hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển, qui mô các NHTM được mở rộng, các doanh nghiệp cũng có nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh đã gây sức ép mở rộng tín dụng tăng quá nhanh của các NHTM, gây tiềm ẩn rủi ro: tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTM cao hơn nhiều so với các năm từ năm 2001 - 2006, nhất là tín dụng ngoại tệ tăng hơn gấp hai lần, bắt đầu vượt ngưỡng an toàn (tỷ trọng giữa dư nợ cho vay bằng ngoại tệ với tổng tiền gửi bằng ngoại tệ đã vượt 90%); cơ cấu đầu tư tín dụng đa dạng hơn nhiều so với cơ cấu đầu tư của 5 năm trước đó, ngoài các lĩnh vực cho vay truyền thống thì lĩnh vực cho vay tiêu dùng đã phát triển nhanh hơn những năm trước. ví dụ : "Khách hàng không cần tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh nếu cần một khoản tiền lớn phải vay tín chấp tại Ngân hàng Việt Á (VietAbank). Thời gian làm thủ tục vay chỉ trong vòng 32 giờ, với số tiền lên đến 200 triệu đồng. Theo quy định của VietAbank, thời gian trả nợ gốc và lãi linh hoạt từ 12 đến 36 tháng. Mức lãi suất 0,75%-0,82% một tháng, tương đương 9-9,84% một năm, tính trên dư nợ ban đầu tùy theo mức tiền vay. Người vay chỉ cần có thu nhập thực lĩnh mỗi tháng từ 5 triệu đồng trở lên đối với khu vực TP HCM và 4 triệu đồng trở lên đối với khu vực ngoài TP HCM."

Dư nợ tín dụng trong lĩnh vực này chiếm đến 20 - 30% tổng dư nợ của khối NHTMCP. Riêng cho vay nhà đất có NHTM dư nợ chiếm đến 20%; thị trường chứng khoán phát triển mở ra một lĩnh vực đầu tư mới cho các NHTM, cũng góp phần làm tăng dư nợ tín dụng nền kinh tế. Sự phát triển nhanh của thị trường tín dụng cũng đã xuất hiện những dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro, như cho vay ngoại tệ tăng trưởng quá mức so với nguồn vốn; việc nới lỏng các điều kiện vay vốn của các NHTMCP; các lĩnh vực cho vay bất động sản, chứng khoán đã chiếm tỷ lệ không nhỏ trong tổng dư nợ ở một số NHTM... Thực tế này đòi hỏi phải tăng cường việc quản lý, giám sát rủi của các cơ quan quản lý tiền tệ mà trực tiếp là NHNN, cũng như từ chính các NHTM; thêm vào đó, việc dư thừa vốn khả dụng làm giảm hiệu quả thực thi CSTT của NHNN và làm tăng khả năng mất cân đối kỳ hạn cho hoạt động của các NHTM: Vốn khả dụng của các NHTM dư thừa và đầu tư giấy tờ có giá tăng mạnh: cũng như năm 2006, diễn biến tiền tệ nổi bật trong năm nay là vốn khả dụng của các TCTD xét trên bình diện toàn hệ thống thì thường xuyên dư thừa ở mức cao.

Nhìn chung, năm 2007 thực thi CSTT của NHNN là cực kỳ khó khăn bởi tác động bất lợi của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam quá lớn trong năm, cùng với những diễn biến phức tạp của giá cả những mặt hàng chủ yếu và những nhu cầu hội nhập của nền kinh tế. Mặc dầu vậy, về cơ bản, điều hành CSTT đã đạt được sự ổn định tiền tệ, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho phát triển kinh tế, song năm 2008, thực thi CSTT vẫn tiếp tục phải đối mặt với những thách thức do dòng vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục gia tăng và những biến động khó lường của thị trường tài chính quốc tế, cùng với biến động của giá cả thế giới. Điều đó đòi hỏi NHNN tiếp tục thực hiện CSTT chặt chẽ và cần có những giải pháp mang tính dài hạn để hạn chế đến mức thấp nhất những tác động bất lợi của những thách thức phải đối mặt.

2, Giai đoạn : năm 2008

 Tình hình kinh tế đầu năm 2008:

Bức tranh toàn cảnh về nền kinh tế 2008 được nhận xét là khá ảm đạm.

Tốc độ tăng trưởng GDP của việt nam và 1 số nước

Kinh tế-xã hội nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu, hàng hoá khác trên thị trường thế giới tăng mạnh kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước; lạm phát xảy ra tại nhiều nước trên thế giới; khủng hoảng tài chính toàn cầu dẫn đến một số nền kinh tế lớn suy thoái, kinh tế thế giới suy giảm. Nền kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động không ít và bắt đầu thực sự bước vào giai đoạn khó khăn. Quý I năm 2008 với mục tiêu tăng trưởng GDP 9% nhưng đã giảm còn 6,5%; biên độ giá của các mặt hàng dao động mạnh, lãi suất ngân hàng liên tục thay đổi, giá dầu giảm ở mức thấp nhất trong vòng 3 năm qua. So với tháng 12 năm 2007, giá tiêu dùng tăng 17,18%, mức cao nhất so với nhiều năm trở lại đây. Trong đó đáng quan tâm nhất là hai nhóm hàng lương thực và thực phẩm: lương thực tăng 59,44%, thực phẩm tăng 21,83%, đã góp phần đẩy chỉ số lạm phát bình quân 6 tháng đầu năm lên mức 2,86%/tháng. Đến cuối tháng 6, chỉ số lạm phát tuy có tăng chậm lại nhưng vẫn ở mức cao nhất so với tháng 6 của nhiều năm trước (2,14%)....Tất cả những biến đổi đó tác động mạnh đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và doanh nghiệp nói riêng.

a, Giai đoạn từ đầu năm đến tháng 6

Trong 6 tháng đầu năm, áp lực lạm phát gia tăng mang tính toàn cầu, CPI của Việt Nam trong 6 tháng tăng cao, mức thâm hụt cán cân thương mại ở mức kỷ lục (hơn 14% GDP). Trước tình hình đó, Ngân hàng Nhà Nước đã thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, với ba công cụ: lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở được sử dụng đồng thời cùng với những quy định siết chặt thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản... đã tác động mạnh đến thị trường.

 Về Dự trữ bắt buộc:

Trong tháng 2 và tháng 3, Ngân hàng Nhà nước đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mở rộng diện tiền gửi phải dự trữ bắt buộc ở tất cả các kỳ hạn (trước đây chỉ có tiền gửi dưới 24 tháng phải dự trữ bắt buộc).

Ngày 16/1/2008 , Ngân hàng Nhà nước đã có Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng dư nợ tín dụng phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô.

Theo Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN, Ngân hàng Nhà nước sẽ mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống trong thời gian qua.

Bên cạnh đó, Ngân hàng còn điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1% đối với các loại tiền gửi so với tỷ lệ quy định hiện nay. Đối với tiền VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tăng từ 10% lên 11%; đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tăng từ 4% lên 5%.

Đối với tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11% và tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng từ 4% lên 5%.

Tuy nhiên, một tình huống khó lường là các NHTM đã không phản ứng kịp thời trước việc thắt chặt CSTT nên vẫn tiếp tục đẩy mạnh tín dụng, cùng với việc quản lý thanh khoản của các NHTM còn bất cập đã gây nên tình trạng thiếu khả năng thanh khoản tại nhiều NH. " Từ 9/8/2007, trong không đầy một tháng, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã phải bơm khoảng 200 tỉ USD vào hệ thống ngân hàng để tránh khủng hoảng thanh khoản, hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ vay mua nhà dưới chuẩn trước đó. Ngược lại, ở Việt Nam, Trước khi có tình trạng khủng hoảng thanh khoản hiện nay, chưa hề có dấu hiệu khủng hoảng nợ trong hệ thống ngân hàng, mặc dù rủi ro tiềm ẩn là có. Trước sức ép của lạm phát và lo ngại rủi ro quá lớn từ các khoản cho vay bất động sản và cổ phiếu, từ giữa năm 2007, NHNN dường như đã bớt phải chịu sức ép tăng trưởng. Sau nhiều năm, NHNN lại có cơ hội có được quyền lực thực sự mà đáng lẽ nó phải được hưởng. Trên thực tế, NHNN đã có những động thái mạnh mẽ nhằm rút tiền ra khỏi lưu thông: tháng 6/2007, NHNN đã điều chỉnh tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc lên gấp đôi đối với cả nội tệ. Cuối tháng 1/2008, NHNN thông báo điều chỉnh các lãi suất cơ bản, tái cấp vốn và chiết khấu. Đầu năm 2008, Bộ Tài chính, do bị NHNN từ chối đổi tiền USD sang tiền đồng để chi ngân sách, đã rút một khối lượng lớn tiền mặt đang gửi trong các ngân hàng quốc doanh. Ngày 13/2, NHNN lại thông báo sẽ phát hành 20,3 nghìn tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc đối với 41 NHTM. Đây có lẽ là quyết định gây ra cú sốc cho thanh khoản của hệ thống ngân hàng, vốn đã thiếu thanh khoản từ cuối 2007.

Vào tháng 2/008, khi ngân hàng áp đặt bán 20 nghìn tỉ đồng tín phiếu thì các ngân hàng chỉ có mấy tuần để thu khối lượng tiền rất lớn này (trên dưới 10% tổng tiền mặt đang trong lưu thông), trong khi lượng tiền mặt đang có trong hệ thống ngân hàng không còn nhiều. ước đó, các ngân hàng đã phải huy động thêm 10 nghìn tỉ đồng để bổ sung vào dự trữ bắt buộc, vừa tăng thêm 1%).

Điều này đã gây ra hàng loạt tác dụng ngược:

• Một là, hệ quả tức thời của việc này là các ngân hàng, do không huy động kịp vốn nên phải vay nóng trên thị trường liên ngân hàng để tránh mất thanh khoản, đẩy lãi suất VNIBOR lên rất cao. Việc NHNN hất chi phí rút tiền sang các ngân hàng thương mại đã và đang gây thiệt hại cho các ngân hàng, vừa phải vay lãi suất cao để mua tín phiếu lãi suất thấp, vừa không đủ tiền để cho vay theo kế hoạch.

• Hai là, mặc dù tiền mặt trong dân vẫn nhiều, nhưng khi hệ thống ngân hàng thiếu tiền mặt thì tín dụng cấp cho nền kinh tế cũng bị cạn kiệt nhanh chóng. Nguyên nhân là khi tiền mặt khi quay vòng trong hệ thống ngân hàng thì nó có thể tạo ra tín dụng lớn hơn nhiều (số nhân tiền tệ cao hơn) so với tiền nằm trong dân hay nằm trong két sắt của NHNN. (Số nhân tiền tệ của VN hiện nay là khoảng 4.1). Hệ quả của khủng hoảng thanh khoản hiện này là trong ngắn hạn, nhiều ngân hàng phải ngừng cho vay, dẫn đến sự thiếu vốn đột ngột của doanh nghiệp, làm các dự án kinh doanh cần nhiều vốn (như bất động sản) bị đình đốn. Tình hình rồi sẽ được cải thiện khi lãi suất huy động đủ hấp dẫn để hút tiền trong dân vào lưu chuyển trong hệ thống ngân hàng, nhưng độ trễ (một vài tháng) của quá trình này sẽ gây khó khăn lớn trong ngắn hạn cho các thị trường như chứng khoán và bất động sản. (Đây chính là logic của hiện tượng tưởng chừng như nghịch lý: cả ngân hàng, người dân và doanh nghiệp đều kêu thiếu tiền mặt).

• Ba là, biện pháp nhằm giảm lạm phát trong trung hạn này lại đẻ ra lạm phát dữ dội trong ngắn hạn (chỉ trong 2 tháng đầu năm, lạm phát đã lên tới 6%). Muốn giữ cho hệ thống ngân hàng không lâm vào tình trạng mất thanh khoản, NHNN lại phải bơm tiền ra liên tục, ngược hẳn với ý định thu tiền về ban đầu. Chỉ trong 1 tuần vừa rồi, NHNN đã phải bơm 33 nghìn tỉ đồng vay ngắn hạn vào hệ thống liên ngân hàng, gấp 1,5 lần số lượng tiền định rút về qua tín phiếu bắt buộc.

Chừng nào mà các ngân hàng chưa thu đủ 20 nghìn tỉ đồng từ người dân để mua tín phiếu NHNN, thì tình trạng thiếu thanh khoản vẫn còn. Mỗi khi lượng tiền cho vay ngắn hạn của NHNN đáo hạn thì thiếu thanh khoản sẽ lại diễn ra, và NHNN vẫn phải bơm tiền đều đặn vài ngày hay một tuần một lần như vừa qua để các ngân hàng thương mại "cầm hơi". Điều này cũng tương tự như làm cho con nghiện bị sốc quá nặng vì cắt thuốc quá nhanh, rồi lại tiêm thuốc phiện để cho anh ta khỏi chết.

• Bốn là, việc bơm tiền dồn dập vừa qua đang khiến cho NHNN dần "hết đạn", tác động xấu đến tính khả tín của cam kết chống lạm phát của NHNN trong năm nay: Chỉ trong 2 tháng đầu năm, NHNN đã sử dụng hết gần một nửa hạn mức tiền đồng được phép đưa ra lưu thông cho năm 2008. Điều này lại dẫn đến kì vọng của người dân về lạm phát trong năm 2008 không giảm như mong muốn, và đến lượt nó, lại làm cho nhiệm vụ của NHNN thêm khó khăn.

• Năm là, nguy cơ vỡ nợ kĩ thuật của một vài ngân hàng tuy chưa lớn, nhưng sẽ tăng nhanh nếu tình trạng khủng hoảng thanh khoản kéo dài. Một khi lòng tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng giảm sút quá lớn, họ sẽ đổ xô đến ngân hàng để tranh nhau rút tiền gửi, làm sụp đổ toàn hệ thống. Mặt khác, việc các ngân hàng chạy đua lãi suất sẽ dẫn đến việc người gửi tiền rút từ ngân hàng chưa kịp tăng lãi suất để gửi sang ngân hàng có lãi suất cao hơn, dẫn đến việc các ngân hàng chậm chân không đủ tiền mặt để trả cho người rút tiền.

 cuộc khủng hoảng thanh toán của các ngân hàng đầu năm 2008

 Về lãi suất:

Từ mức lãi suất tháng 1 là 8,5%, các ngân hàng bắt đầu vào cuộc đua lãi suất, khởi đầu là các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh. Lãi suất tăng cao đến đỉnh điểm vào tháng 6 năm 2008 là 18,5%.

Hiện tượng người dân rút tiền từ ngân hàng có lãi suất thấp chuyển sang ngân hàng có lãi suất cao xuất hiện. Đây là lý do để có ngân hàng buộc phải cấp tốc điều chỉnh lãi suất.

Ngày 30/01/2008, Ngân hàng Nhà Nước điều chỉnh tăng các loại lãi suất: Lãi suất cơ bản tăng 0,5%, tái cấp vốn tăng 1,0%, lãi suất chiết khấu tăng 1,5% (Quyết định 305/QĐ-NHNN). Các giải pháp sau đó cũng không kém phần quyết liệt. Theo Quyết định 305/QĐ-NHNN ngày 30/01/2008, lãi suất cơ bản sau 25 tháng giữ ổn định ở mức 8,25%/năm tăng lên 0,5%/năm, chuyển sang mức 8,75%/năm. Sau hơn 3 tháng thực hiện, đến 19/5/2008, lãi suất cơ bản vọt lên 12%/năm và chưa đầy 1 tháng sau, ngày 11/6/2008, Quyết định 1317/QĐ-NHNN của NHNN đã nâng thêm 2% đưa lãi suất cơ bản lên mức 14%/năm...

Cụ thể, ta có thể thấy rõ thông qua biểu đồ sau:

Đây có thể coi như là một liệu pháp mạnh mang tính tình thế đã có tác động ổn định lãi suất và tăng trưởng tín dụng đã chậm lại từ tháng 5 cho đến hết năm.

 Về nghiệp vụ thị trường mở:

Để rút tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát chặt chẽ tiền tệ ngay từ đầu năm, góp phần kiềm chế lạm phát, bên cạnh các giải pháp đã được thực hiện như điều chỉnh dự trữ bắt buộc, lãi suất chủ đạo của NHNN, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 346/QĐ-NHNN ngày 13/2/2008 về việc phát hành tín phiếu Ngân hành Nhà nước bằng VND dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng; nội dung chủ yếu như sau:

Thứ nhất, tổng giá trị tín phiếu NHNN phát hành bắt buộc đợt này là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn là 364 ngày, lãi suất là 7,80%/năm; hình thức phát hành là ghi sổ.

Thứ hai, giá trị tín phiếu được phân bổ cho từng tổ chức tín dụng theo quy mô, tỷ trọng huy động vốn bằng đồng Việt Nam của từng tổ chức tín dụng. Có 41 tổ chức tín dụng thuộc đối tượng mua tín phiếu NHNN bắt buộc. Các tổ chức tín dụng hoạt động chủ yếu trên địa bàn nông nghiệp, nông thôn không thuộc đối tượng mua bao gồm: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, Quỹ Tín nhân dân trung ương, Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, các tổ chức tín dụng có số dư vốn huy động bằng VND đến ngày 31/1/2008 từ 1.000 tỷ đồng trở xuống. Tuy nhiên, các TCTD cần phải sử dụng hợp lý nguồn vốn được miễn tham gia mua tín phiếu để tăng cường mở rộng tín dụng đối với khu vực nông nghiệp nông thôn.

Thứ ba, Quyết định này được ban hành từ giữa tháng 2/2008 nhưng thời điểm phát hành tín phiếu là ngày 17/3/2008, nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng thuộc đối tượng mua có thời gian chuẩn bị, bố trí vốn để mua tín phiếu theo chỉ tiêu được phân bổ, tránh những biến động đột biến trên thị trường tiền tệ.

Thứ tư, tín phiếu NHNN mua bắt buộc đợt này được NHNN thanh toán khi đáo hạn (ngày 16/3/2009); xuất phát từ mục tiêu rút bớt tiền từ lưu thông do vậy các tổ chức tín dụng không được sử dụng tín phiếu mua đợt này trong các giao dịch tái cấp vốn với NHNN.

Đối với các TCTD, việc phát hành tín phiếu NHNN này sẽ có tác động nhất định đến cung- cầu vốn nhưng lãi suất thị trường tiền tệ sẽ ít biến động do NHNN trả lãi suất tín phiếu ở mức hợp lý, kỳ hạn phát hành ngắn hạn, thời điểm phát hành vào sau Tết nguyên đán khi việc huy động vốn của các TCTD có xu hướng tăng theo tính quy luật hàng năm.

 Tỷ giá hối đoái:

Một diễn biến bất lợi khác trên thị trường ngoại hối trong tháng 5/2008 là với mức thâm hụt thương mại lớn, lạm phát tăng cao, cộng với những thông tin thất thiệt đánh giá về khả năng thanh toán ngoại tệ quốc gia đã làm thay đổi hành vi của của các nhà đầu tư trên thị trường làm cho tỷ giá đảo chiều.

Vào thời điểm cuối tháng 5 và những ngày đầu tháng 6, trên thị trường ngoại hối tỷ giá tăng hàng ngày, có những ngày tỷ giá VND/USD lên mức 19.500 đồng/USD.

Để bình ổn thị trường ngoại hối, NHNN đã thực hiện hàng loạt biện pháp, như nới rộng biên độ tỷ giá từ ±1% lên mức ±2% tạo sự linh hoạt tỷ giá sát với cung - cầu thị trường; thực hiện mở rộng đối tượng bán ngoại tệ cho các NHTM, việc can thiệp dựa vào trạng thái ngoại tệ của các NHTM trong ngày, thực hiện minh bạch các thông tin về dự trữ ngoại hối. Các biện pháp này đã đáp ứng được các kỳ vọng của thị trường, trên cơ sở đó tạo dựng lòng tin của thị trường với NHNN.

Bên cạnh đó, NHNN thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh ngoại tệ, cấm các tổ chức tín dụng (TCTD) không được mua - bán USD thông qua ngoại tệ khác, phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra và xử lý các hoạt động đầu cơ, kinh doanh ngoại tệ trái pháp luật trên thị trường và thiết lập đường dây nóng. Hành động này đã có tác động nâng cao kỷ luật thị trường, góp phần tích cực tạo bình ổn thị trường.

 Tổng sản phẩm trong nước GDP 6 tháng đầu năm 2008 ước tăng 6,5%, chỉ số giá tháng 6/2008 đã tăng chậm lại, ở mức tăng 2,14% so với tháng trước.

b, Giai đoạn từ tháng 6 tới cuối năm 2008:

Bước sang tháng 7, tình hình kinh tế thế giới diễn ra theo chiều hướng bất ổn rõ nét: Từ khủng hoảng thị trường nhà đất của Mỹ chuyển sang khủng hoảng tài chính mang tính toàn cầu, suy thoái kinh tế đã xảy ra ở hầu hết nền kinh tế chủ chốt, như Nhật, Mỹ, Anh và nhiều nước thuộc khu vực Euro Zone...; giá dầu và giá lương thực giảm mạnh kéo theo giá các mặt hàng tiêu dùng khác giảm theo... Kinh tế thế giới đang từ xu hướng suy thoái kinh tế gắn lạm phát sang suy thoái kinh tế gắn với giảm phát đang là nỗi lo của các quốc gia hiện nay. Để cứu nguy cho tình hình này, hầu hết các nền kinh tế chủ chốt đã thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa nới lỏng nhằm tăng tính thanh khoản cho thị trường, khuyến khích các NHTM mở rộng cho vay, kích thích đầu tư...

 Về dự trữ bắt buộc:

Với Quyết định số 2811/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụngđược giảm 2% đối với các loại tiền gửi so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam quy định tại Quyết định số 2560/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008.

Cụ thể, đối với các ngân hàng thương mại nhà nước (không bao gồm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Agribank), Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính giảm từ 10% xuống 8% đối với loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, giảm từ 4% xuống 2% đối với loại tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.

Đối với Agribank, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam giảm từ 7% xuống 5% đối với loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, giảm từ 3% xuống 1% đối với loại tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn và Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, ngân hàng hợp tác giảm từ 3% xuống 1% đối với loại tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn dưới 12 tháng và từ 12 tháng trở lên.

Tóm lại, tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm từ 10%/năm xuống còn 8%/năm (Quyết định 2811 ngày 20/11/2008), 8% xuống còn 6% (Quyết định 2951 ngày 03/12/2008), đến 19/12/2008 còn 5% (Quyết định 3158)

 Về lãi suất:

Theo Quyết định số 2809/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008 về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam giảm từ 12%/năm xuống 11%/năm; theo đó, lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng giảm từ 18%/năm xuống 16,5%/năm.

Cũng trong ngày 20/11, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 2810/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng; theo đó, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 13%/năm xuống 12%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 11%/năm xuống 10%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng giảm từ 13%/năm xuống 12%/năm.

 Kết quả:

 Thành tựu:

Các chỉ số kinh tế đạt được trong những tháng cuối năm cho thấy việc thực thi CSTT của NHNN năm 2008, mặc dù có những bất cập nhất định, nhưng thực sự đã có những tác động rất rõ nét đến việc ổn định thị trường tiền tệ, ngăn chặn đà lạm phát đang gia tăng rất cao, tạo thế chủ động cho NHNN trong thực thi CSTT, thiết lập được kỷ luật trên thị trường tiền tệ mà trước đây rất lỏng lẻo, làm thay đổi thái độ và hành vi ứng xử của các thành viên thị trường theo chiều hướng tích cực.

Các NHTM đã có sự điều chỉnh chiến lược kinh doanh của mình phù hợp với các động thái chính sách, quản lý vốn thanh khoản được nâng lên một bước, các thành viên khác của thị trường (doanh nghiệp và cá nhân) đã phản ứng rất nhanh trước những thay đổi chính sách và thông tin thị trường.

Các biểu hiện này cho thấy, thị trường tiền tệ phát triển theo xu hướng tích cực, tăng tính thị trường và nó cũng cho thấy, độ trễ tác động của chính sách sẽ ngắn lại hơn so với các năm trước.

 Hạn chế:

Tuy nhiên, hoạt động của các thị trường vẫn trong tình trạng chưa có dấu hiệu cải thiện, luồng di chuyển tiền tệ trong nền kinh tế đang có hiện tượng chậm lại, tiến độ cho vay của các ngân hàng cũng như khả năng tiếp cận vốn vay từ phía các doanh nghiệp tuy đã phần nào được giải tỏa song vẫn là vấn đề nan giải. Hoạt động tín dụng vẫn còn ở trạng thái cầm chừng, trong 10 tháng đầu năm 2008, tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 19,6%, nếu so với 30% - giới hạn tăng trưởng tín dụng NHNN đặt ra cho năm 2008 thì hoạt động tín dụng mới chỉ "đi được" 2/3 "quãng đường". Vốn khả dụng của các NHTM hiện rất dồi dào; còn nếu nói đến nhu cầu xã hội thì con số 19,6% lại chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Như vậy, tỷ lệ 19,6% tăng lên của hoạt động tín dụng trong 10 tháng đầu năm 2008 là một con số chưa được thỏa mãn. Rõ ràng là dư âm và hậu quả của cuộc chạy đua lãi suất trong những tháng đầu năm 2008 vẫn còn đó mà khởi động cho nó chính là tác động của các công cụ chính sách tiền tệ đã được sử dụng.

 Bài học kinh nghiệm:

+ Thận trọng khi đồng thời sử dụng nhiều công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Thị trường là nơi rất nhạy cảm và nó chính là nơi phản ánh sức sống của nền kinh tế. Cần phải hết sức thận trọng đối với mỗi quyết định liên quan đến sự vận động của tiền tệ, trước khi vận hành phải quan sát kỹ diễn biến, dự kiến được những phản ứng có thể của thị trường để cân nhắc về loại công cụ sử dụng, về mức độ cần thiết, về liều lượng cũng như cách thức vận hành mỗi công cụ và luôn tránh những giải pháp sốc - giải pháp có thể dồn các ngân hàng vào những tình huống nguy hiểm.

+ Lãi suất là công cụ linh hoạt, đáng được cân nhắc để sử dụng nhất.Mặc dù mỗi công cụ có những đặc tính, khả năng tác động đến thị trường theo những cách khác nhau, với mức độ cũng không giống nhau, song cho dù công cụ nào thì tín hiệu cuối cùng của nó sau khi phát ra cũng dẫn đến sự thay đổi về giá - lãi suất, dù đó là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay mua tín phiếu bắt buộc... Vì vậy, nên sử dụng hữu hiệu công cụ lãi suất để điều tiết. Có thể nói, trong các loại lãi suất thì lãi suất thị trường liên ngân hàng sẽ phát ra tín hiệu phù hợp nhất, lãi suất này không chỉ chịu sự chi phối của cung cầu vốn mà còn chịu ảnh hưởng, tác động của lãi suất chỉ đạo phát ra từ NHNN: lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu. Lãi suất thị trường liên ngân hàng đặc biệt phát huy tác dụng trong điều kiện khó khăn về thanh khoản của các NHTM.

+ Ngoại tệ mua vào cần phải được sử dụng có hiệu quả. Ngoại tệ cần phải được tập trung vào tay Nhà nước để sử dụng hiệu quả cho những nhu cầu chính đáng của quốc gia và hạn chế tình trạng đôla hoá nền kinh tế, cho nên nếu doanh nghiệp, cá nhân nào có nhu cầu bán ngoại tệ là ngân hàng không nên từ chối. Tất nhiên, NHTM thì mua của doanh nghiệp, của dân; NHNN thì mua lại của các NHTM. Việc làm đó đồng nghĩa với phát hành tiền vào lưu thông, vấn đề sẽ trở nên bình thường nếu như nguồn ngoại tệ được sử dụng một cách có hiệu quả, tạo ra nguồn hàng đảm bảo sự cân đối với số lượng VND đã phát ra. Vì thế, một mặt, khi phát hành tiền đồng mua ngoại tệ phải luôn đi kèm với giải pháp hút tiền đồng về - sử dụng công cụ thị trường mở, công cụ lãi suất... Ngoài ra, vấn đề quản lý quỹ dự trữ ngoại hối của Nhà nước cũng phải được quan tâm, phải tập trung về một mối đó là NHNN - đại diện cho Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Ngoại tệ là của quốc gia, không vì lợi ích riêng mà để phân tán rải rác gây khó khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ và cũng cản trở việc quản lý và sử dụng chúng một cách hiệu quả.

+Nhận định đúng vai trò của thị trường tiền tệ để có hướng tác động thích hợp đến hoạt động của các thị trường. Nền kinh tế muốn phát triển thì các thị trường phải được vận hành một cách đồng bộ, song đứng trên hết và có thể tạo sự gắn kết, liên thông giữa các thị trường chính là thị trường tiền tệ bởi vì tiền chính là dòng chảy lưu thông giữa các thị trường, khi dòng chảy này bị chặn lại thì lập tức các thị trường trở nên đông cứng, không thể vận hành được.

3, Giai đoạn: năm 2009

 Hoàn cảnh thị trường tiền tệ

Điều kiện cho vay của ngân hàng ngày càng chặt chẽ, lãi suất tuy đã giảm nhưng vẫn ở mức cao trong khi doanh nghiệp còn phải đảm bảo khả năng thu hồi vốn trong điều kiện sản xuất, kinh doanh rất khó khăn. Năm 2009, theo lộ trình phải đưa giá điện và than vào lộ trình tăng giá thì chắc chắn chi phí sản xuất sẽ tăng. Cộng thêm những khó khăn do kinh tế thế giới thì các doanh nghiệp sẽ khó khăn hơn. Nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh đầu tư cho nông nghiệp - nông thôn, giải quyết vấn đề giáo dục...

Thế nhưng, năm 2009 không phải chúng ta đối mặt với toàn khó khăn, thách thức. Việt Nam có một thuận lợi là thế giới bắt đầu lạm phát thì ta đã trải qua thời điểm khó khăn, nguy hiểm nhất. Năng lượng và lương thực là ngòi nổ cho các cuộc khủng hoảng thế giới, nhưng với Việt Nam thì hai vấn đề này lại khá ổn định. Việt Nam lại có hệ thống chính trị ổn định, an ninh tốt...

Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ (CSTT) đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế.

 Chính sách tiền tệ được áp dụng

Trước những tác động bất lợi như vậy, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực thi CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường.

Từ đầu năm 2009, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư trong xã hội tiếp cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần của các gói giải pháp kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả, NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%.

Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hòa ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên ngân hàng.

Đồng thời, trình Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính bán nguồn ngoại tệ thu được từ phát hành trái phiếu Chính phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh nghiệp nhập khẩu lớn chuyển từ mua ngoại tệ sang vay bằng ngoại tệ; phối hợp chặt chẽ với Bộ Công thương trong việc kiểm soát nhập siêu và đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ thiết yếu của nền kinh tế.

Các biện pháp chấn chỉnh hoạt động ngoại hối cũng được tăng cường như phối hợp với các bộ, ngành kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các hành vi quảng cáo, niêm yết giá hàng hóa bằng ngoại tệ, mua, bán ngoại tệ trái phép; tăng cường kiểm tra hoạt động mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại và hoạt động của các đại lý đổi ngoại tệ, xử lý nghiêm các vi phạm.

Đặc biệt, áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp và người dân như đẩy mạnh công tác tuyên truyền và công bố công khai, rộng rãi các thông tin về tình hình ngoại hối, tỷ giá; yêu cầu các NHTM nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể từ ngày 01/6/2009, lãi suất huy động giảm xuống mức không quá l,5%/năm kể từ ngày 01/6/2009); đồng thời đề nghị Hiệp hội Ngân hàng yêu cầu các NHTM cổ phần đồng thuận giảm lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ như các NHTM nhà nước kể từ ngày 8/6/2009. Các biện pháp trên đã có tác động giảm áp lực thiếu cung ngoại tệ trên thị trường, giữ được thị trường ổn định.

Ngày 26/11, NHNN đã kịp thời điều chỉnh tỷ giá, nâng tỷ giá công bố lên 17.980 đồng/usd, tăng 5,4% so với ngày trước đó, thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% xuống còn +/-3%, đồng thời yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm biên độ tỷ giá.

Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống lại được NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cam kết cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu tiên những mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất.

Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá, NHNN đã thực hiện nâng các mức lãi suất chỉ đạo lên thêm 1%. Đây là giải pháp có tính đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế, vừa có tác dụng tiếp tục duy trì tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời chủ động ngăn chặn nguy cơ lạm phát và trước mắt ổn định thị trường ngoại hối.

Năm giải pháp được NHNN đề ra trong những tháng cuối của năm 2009 là:

Một là, điều hành lượng tiền cung ứng ở mức hợp lý; trường hợp cần thiết hỗ trợ thanh khoản trực tiếp cho các Ngân hàng Thương mại (NHTM) thông qua mua ngoại tệ; trường hợp đặc biệt, NHNN sẽ tái cấp vốn trực tiếp cho tổ chức tín dụng (TCTD), đồng thời thành lập tổ kiểm soát tại chỗ đối với các TCTD này, kèm theo đó là các biện pháp tăng cường giám sát để đảm bảo an toàn hệ thống và ổn định thị trường tiền tệ.

Hai là, giữ ổn định lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

Ba là, điều hành tỷ giá trong mối quan hệ với lãi suất, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân thanh toán quốc tế; điều chỉnh linh hoạt tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng tăng hoặc giảm ở mức độ hợp lý, phù hợp với tín hiệu của thị trường, có sự điều tiết của nhà nước, đảm bảo mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền VND.

Bốn là, xử lý phù hợp tình hình thực tế về cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với các nhu cầu vốn phục vụ đời sống và phát hành thẻ của các NHTM hiện nay và kiểm soát việc cho vay lãi suất thoả thuận của các NHTM theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.

Năm là, các NHTM thực hiện đúng chỉ đạo của Thống đốc NHNN tại chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 22/5/2009 về một số biện pháp đảm bảo an toàn, hiệu quả kinh doanh của TCTD; trong đó, phải đảm bảo cân đối giữa số vốn huy động và cho vay, cũng như cân đối về kỳ hạn, đảm bảo thanh khoản trong những tháng cuối năm và Tết Nguyên đán Canh Dần; Các NHTM không sử dụng vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng (thị trường 2) để cho vay đối với tổ chức, cá nhân, chỉ sử dụng để bù đắp thiếu hụt dự trữ bắt buộc và đảm bảo khả năng năng thanh toán.

 Kết quả:

Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ.

Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành nhạy bén, kịp thời, tập trung và quyết liệt của Đảng, Chính phủ; sự nỗ lực và chủ động khắc phục khó khăn, sự sáng tạo của các Bộ, Ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và của toàn dân nên nước ta đã ngăn chặn được suy giảm kinh tế, càng về cuối năm càng nâng cao được tốc độ tăng trưởng. Trên cơ sở số liệu 11 tháng và ước tính tháng 12, Tổng cục Thống kê khái quát kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009 của cả nước trên ba mặt: (1) Ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững; (2) Giữ ổn định kinh tế vĩ mô, chủ động phòng ngừa lạm phát cao trở lại; (3) Bảo đảm an sinh xã hội, phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác.

KẾT QUẢ NGĂN CHẶN SUY GIẢM KINH TẾ, DUY TRÌ TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ HỢP LÝ, BỀN VỮNG

Theo đà suy giảm kinh tế những tháng cuối năm 2008, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I/2009 chỉ đạt 3,14%, là quý có tốc độ tăng thấp nhất trong nhiều năm gần đây; nhưng quý II, quý III và quý IV của năm 2009, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước đã nâng dần lên lần lượt là 4,46%; 6,04% và 6,9%. Tính chung cả năm 2009, tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%, bao gồm: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,83%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,63%.

Từ diễn biến và kết quả tăng tổng sản phẩm trong nước năm 2009 có thể đưa ra một số nhận xét, đánh giá như sau:

- Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 tuy vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,18% của năm 2008, nhưng đã vượt mục tiêu tăng 5% của kế hoạch. Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm mà kinh tế nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng dương tương đối cao như trên là một thành công lớn.

- Hai là, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I và quý II năm 2009 thấp hơn tốc độ tăng của quý I và quý II năm 2008; nhưng quý III/2009 tăng 6,04%, cao hơn tốc độ tăng 5,98% của quý III/2008 và quý IV/2009 tăng 6,9%, cao hơn tốc độ tăng 5,89% của quý IV/2008 cho thấy nền kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm tốc độ tăng trưởng, chứng tỏ các chính sách, giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế của Chính phủ đề ra, được triển khai trong năm vừa qua phù hợp với tình hình thực tế, đã và đang phát huy hiệu quả.

Kết quả phòng ngừa lạm phát cao

Do ngay từ đầu năm Chính phủ và các cấp, các ngành đã triển khai quyết liệt và đồng bộ các giải pháp nhằm chủ động phòng ngừa tái lạm phát cao trở lại, khôi phục và đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, nhất là tập trung phát triển thị trường trong nước; chỉ đạo, điều hành tài chính, tiền tệ linh hoạt nên mức lạm phát năm 2009 không cao.

Giá tiêu dùng năm 2009 tương đối ổn định, ngoài tháng 2 và tháng 12 chỉ số giá tiêu dùng tăng trên 1%, các tháng còn lại giảm hoặc tăng thấp nên chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 năm 2009 so với tháng 12 năm 2008 tăng 6,52%, thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu tăng dưới 10% Quốc hội đề ra. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2009 tăng 6,88% so với bình quân năm 2008, là mức thấp nhất trong 6 năm trở lại đây (Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2004 tăng 7,71%; năm 2005 tăng 8,29%; năm 2006 tăng 7,48%; năm 2007 tăng 8,3%; năm 2008 tăng 22,97%). Chỉ số giá vàng tháng 12/2009 tăng 10,49% so với tháng trước; tăng 64,32% so với cùng kỳ năm 2008. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2009 tăng 3,19% so với tháng trước; tăng 10,7% so với cùng kỳ năm 2008. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu, nền kinh tế nước ta vừa đạt mức tăng trưởng tương đối khá, vừa duy trì được mức độ lạm phát không cao, đây là thành công lớn trong chỉ đạo, điều hành kinh tế vĩ mô.

KẾT QUẢ ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI, PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC, Y TẾ, VĂN HOÁ VÀ CÁC LĨNH VỰC XÃ HỘI KHÁC

Tại thời điểm điều tra, cả nước có 1,3 triệu lao động trong độ tuổi thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp là 2,9% (cao hơn mức 2,38% của năm 2008), trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 4,64%, xấp xỉ năm 2008; khu vực nông thôn là 2,25%, cao hơn mức 1,53% của năm 2008.

Đời sống những người làm công ăn lương cũng tiếp tục được cải thiện. Theo Nghị định số 33/2009/NĐ-CP ngày 06/4/2009 của Chính phủ, mức lương tối thiểu đã tăng 20%, từ 540 nghìn đồng/tháng lên 650 nghìn đồng/tháng; trợ cấp hàng tháng của những đối tượng hưởng lương hưu tăng thêm 5%. Tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước năm 2009 ước tính 12,3%, thấp hơn mức 14,8% của năm 2007 và mức 13,4% của năm 2008.

Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng.

Tuy nhiên, diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục là thách thức cho thực thi CSTT như thâm hụt cán cân thương mại không được cải thiện mà vẫn tiếp tục gia tăng (theo số liệu của Tổng cục Hải quan 11 tháng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 113,6 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó, xuất khẩu là 51,33 tỷ USD, giảm 11,5% và nhập khẩu là 62,28 tỷ USD, giảm 17%. Cán cân thương mại hàng hóa 11 tháng thâm hụt 10,95 tỷ USD bằng 21,3% xuất khẩu), nguồn bù đắp cho thâm hụt này suy giảm như nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm sút mạnh so với năm 2008, đầu tư gián tiếp nước ngoài không tăng mà còn giảm; nguồn kiều hối cũng giảm do khủng hoảng kinh tế toàn cầu... do vậy dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán, tình hình này tiếp tục gây bất lợi cho việc ổn định tỷ giá

Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức thâm hụt ngân sách ở mức 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó mà gây áp lực giảm giá VND.

Trên thị trường tiền tệ xuất hiện những hiện tượng bất cập, mâu thuẫn nhau: Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, VND vẫn khan hiếm, biểu hiện ở áp lực tăng lãi suất, thanh khoản VND mỏng manh.

Sự khan hiếm tiền đồng về mặt lý thuyết là làm cho VND lên giá. Nhưng chính sách điều tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp (lãi suất cho vay hỗ trợ, trần lãi suất cho vay..) gây áp lực giảm giá VND, đồng thời kích thích nhu cầu sử dụng tiền đồng, tăng nhu cầu tín dụng, gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền đồng, gây áp lực cho NHNN phải cung ứng thêm tiền đồng. Điều này tiếp tục gây áp lực giảm giá VND. Đồng thời, sự biến động mạnh của giá vàng cũng có những tác động bất lợi đến tỷ giá.

4, Giai đoạn : năm 2010 tới nay và định hướng tương lai

 Thực trạng nền kinh tế trong 9 tháng vừa qua năm 2010:

Quí I/2010, nhiều con số vĩ mô đã phản ánh một xu hướng khá tốt cho quá trình phục hồi kinh tế nước ta thời kỳ hậu suy giảm: GDP tăng 5,83% so cùng kỳ 2009, trong khi cũng con số này quí I/2009 so 2008 chỉ có 3,1%, quí II/2009 so 2008 là 4,42%; thị trường ngoại hối và lãi suất cơ bản vẫn ổn định, nguồn cung USD khá dồi dào do tốc độ giải ngân các dự án FDI, ODA tăng trưởng khá mạnh, trong đó riêng FDI giải ngân được 2,5 tỷ USD, tăng 13,6% so với 2,15 tỷ USD tại quý I/2009; các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước có USD đã bán cho ngân hàng thương mại (NHTM) theo cam kết, Việt Nam vẫn nằm trong vùng "điểm đến" của các dòng đầu tư nước ngoài.

Cũng trong quí I, nhiều chính sách mới liên quan đến chủ động kìm giữ lạm phát và kích hoạt cơ chế "bình thông nhau" trên thị trường vốn đã được ban hành và đi vào cuộc sống một cách chủ động, kịp thời, có hiệu quả, như: giới hạn mục tiêu tăng trưởng GDP theo kịch bản thận trọng ở mức 6,5%, kìm giữ tốc độ tăng tín dụng không quá 25%/năm, kìm giữ lạm phát ở mức dưới 7%, điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) thận trọng, linh hoạt, tăng cường kiểm soát đô la hóa, giảm lãi suất huy động ngoại tệ, chống găm giữ ngoại tệ, mở cơ chế thỏa thuận lãi suất cho tín dụng nội tệ trung và dài hạn cùng với một số loại tín dụng ngắn hạn khác đã được thỏa thuận lãi suất từ trước, tiến tới tự do hóa hoàn toàn cơ chế lãi suất tín dụng nội tệ ở đầu ra...

Tuy nhiên, cũng sau quí I/2010, nhiều dấu hiệu bất ổn đã bộc lộ: Lạm phát tuy chưa bùng phát, nhưng xu hướng biểu hiện rất rõ khả năng khó kìm giữ được dưới 7% như mục tiêu đặt ra. CPI quí I lần lượt qua 3 tháng đã là: tháng 1:1,36%; tháng 2: 1,96%; tháng 3: 0,75% (thường chỉ số này ở tháng 3 hàng năm là số âm và/hoặc không dương đáng kể), lũy kế cả 3 tháng: 4,122% và so cùng kỳ 2009 là 9,46%, đã là mức xấp xỉ 10% cho 12 tháng liên tiếp tính lũy kế từ tháng 3 năm trước tới tháng 3 năm nay. Ngoài ra, thời điểm được coi là hiệu ứng tác động của độ trễ của các nhân tố gây lạm phát từ năm trước, nhất là từ 4 đến hơn 6 tháng trước đã đến lúc xuất hiện vào đầu tháng 4/2010, đó là các nhân tố về tăng giá nhiều mặt hàng độc quyền của Nhà nước như: xăng, dầu, điện, vận tải, vật liệu xây dựng và các nhân tố về vốn như: tốc độ tăng tín dụng quá lớn hơn tốc độ tăng trưởng trong năm 2009, cơ cấu đầu tư rất lớn từ các "gói" kích thích kinh tế năm 2009 cũng chưa tạo được hiệu ứng rõ rệt đối với hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng và sức mua của xã hội, trong khi lại tạo ra những vòng đầu tư và đầu cơ lòng vòng trong nội bộ thị trường tài chính và bong bóng hóa thị trường bất động sản, góp phần đẩy hệ số ICOR lên trên 8 đồng đầu tư cho một đồng tăng trưởng, trong đó có trên 7 đồng tín dụng cho một đồng GDP! Các nhân tố đó đang như nằm trong chuỗi ngày "ủ bệnh" để bùng phát của CPI nếu không nhận diện, chủ động và có đối sách kịp thời thì việc bùng phát tái lạm phát, và/hoặc kịch bản năm 2008 sẽ lại diễn lại ở mức cao và nguy hiểm .

Báo cáo phát triển của ADB công bố ngày 13.4 dự báo tăng trưởng GDP dự kiến năm 2010 của VN sẽ đạt 6,5% và 6,8% vào năm 2010 và 2011. Lạm phát trung bình dự kiến tăng tương ứng 10% và 8% năm 2010 và 2011. Một số ý kiến từ các cơ quan quản lý và nghiên cứu VN cũng đã đề cập đến mức CPI năm 2010 ở mức 8%, 9%, thậm chí còn có thể vọt lên tới hơn 10%.

Một số chỉ tiêu tiền tệ cũng có sự thay đổi (tổng phương tiện thanh toán nay chỉ còn tăng khoảng 20% (trước 25%) và không thấy đề cập trực tiếp đến chỉ tiêu lạm phát 7%. Điều này cho thấy Chính phủ đã có sự quan ngại và đề phòng cao với lạm phát.

Nếu không cẩn trọng thì năm 2010 sẽ là năm vừa lạm phát cao giống kiểu năm 2008, vừa suy giảm và/hoặc tăng trưởng thấp, hiệu quả kém giống năm 2009. Ngoài ra, cần để ý rằng nếu một nền kinh tế có độ mở lớn, trong khi lại nhập siêu cũng lớn cùng với sự giảm giá trị đối ngoại của đồng nội tệ (phá giá nội tệ và/hoặc để tỷ giá tăng) thì nguy cơ lạm phát kép là hiện hữu: lạm phát từ bên trong và lạm phát nhập vào từ bên ngoài kiểu như cuối năm 2007.

Vậy vấn đề điều hành chính sách tiền tệ ra sao để kết hợp đồng bộ với các điều chỉnh cơ cấu và điều hành vĩ mô khác nhằm vừa chống lạm phát, vừa thúc đẩy được sản xuất, tiêu thụ đạt mức tăng trưởng chấp nhận được ở mức không dưới 6,5% như Chính phủ đã đề ra?

 Chính sách tiền tệ áp dụng:

Theo tính toán của Tổng cục Thống kê, quý I/2010 tuy tăng trưởng cao, nhưng mới chỉ đạt 5,83%, muốn đạt chỉ tiêu cả năm tăng 6,5% thì quý II phải phấn đấu tăng 6%, quý III tăng 6,5% và quý IV phải đạt mức tăng 7,3%. Như vậy, tăng trưởng dư nợ tín dụng của các quý còn lại trong năm 2010 cũng phải có mức tăng tỉ lệ thuận với mức tăng trưởng kinh tế. Để đạt mức tăng GDP 6,5% thì mức tăng trưởng dư nợ của VN năm 2010 sẽ khoảng trên/dưới 30%.

Với chủ trương hạ mặt bằng LS như hiện nay, cùng thông tin là NHNN sẽ tiếp tục giảm tiếp một số LS công bố của mình thì có thể thấy có vẻ như hiện nay CSTT đang tạm thời nới lỏng để làm tăng tính thanh khoản cho nền kinh tế và hỗ trợ các TCTD giảm LS cho vay.

Như vậy, có thể thấy CSTT đang nghiêng một chút về hỗ trợ tăng trưởng (để tiếp tục tạo đà vì mức tăng GDP quý I cũng đang bị coi là thấp). Tuy nhiên, sự nới lỏng sẽ không kéo dài quá lâu. Mức tăng tín dụng trong nửa đầu tháng 4 đã khả quan hơn quý I. Mặt bằng LS cho vay VND giảm xuống sẽ khuyến khích người vay tiền tăng nhu cầu vay.

 Triển khai Chính sách tiền tệ của NHNN

Trên cơ sở các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội và Chính phủ, các dự báo đánh giá của NHNN về lạm phát và tình hình kinh tế vĩ mô năm 2010, NHNN đặt ra yêu cầu và nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ năm 2010 linh hoạt, thận trọng và chặt chẽ để kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng đối với nền kinh tế, lãi suất và tỷ giá ở mức hợp lý, bảo đảm khả năng an toàn thanh toán của hệ thống ngân hàng, góp phần thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010. Mục tiêu điều hành là kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, tín dụng khoảng 25% với các giải pháp chủ yếu như sau:

1.Điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng:

Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt và thận trọng, đảm bảo thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5%. Cụ thể:

- Giữ nguyên lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn (8%/năm), lãi suất tái chiết khấu (6%/năm), lãi suất nghiệp vụ thị trường mở (7%-8%/năm); Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng là 8%/năm.

- Tiếp tục điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, chủ yếu là chào mua giấy tờ có giá nhằm bảo đảm khả năng thanh toán, an toàn hệ thống, duy trì ổn định thị trường tiền tệ và phát tín hiệu giảm lãi suất thị trường ở mức hợp lý; Tiếp tục thực hiện hỗ trợ vốn cho các tổ chức tín dụng qua hình thức cho vay tái cấp vốn, hoán đổi ngoại tệ.

- Điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam và Đô la Mỹ tăng 2,1%, từ 18.544 VND/USD lên 18.932 VND/USD kể từ ngày 18/8/2010. Đây là giải pháp nhằm góp phần kiềm chế nhập siêu, hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ của tổ chức cá nhân, đồng thời chủ động giảm áp lực về cầu ngoại tệ trong thời gian tới.

- Khẩn trương triển khai các biện pháp và yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm túc việc tất toán trạng thái kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài. Nhìn chung, các tổ chức tín dụng đã thực hiện tất toán trạng thái kinh doanh vàng theo đúng thời hạn, không gây tác động lớn đến thị trường vàng. Thị trường vàng vẫn ổn định, giá vàng trong nước bám sát diễn biến giá vàng thế giới.

2. Phát triển và đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng:

- Liên quan đến quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng: Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo đơn vị chức năng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 đảm bảo thống nhất cách hiểu và triển khai thực hiện; trong đó rà soát kỹ về các khái niệm, cách xác định các tỷ lệ đảm bảo an toàn, xử lý những bất cập và đảm bảo hài hòa trong quá trình thực hiện của Tổ chức tín dụng.

- Theo dõi, đánh giá tình hình cho vay của các ngân hàng đối với Vinashin; Chuẩn bị phương án xử lý của Ngành để tham gia tái cơ cấu tập đoàn này theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

- Tiếp tục chỉ đạo, giám sát các tổ chức tín dụng thực hiện tăng vốn điều lệ theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP; nghiên cứu phương án xử lý đối với các tổ chức tín dụng không đáp ứng yêu cầu theo quy định.

- Trong tháng 8/2010, Ngân hàng Nhà nước đã cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho Tổ chức tài chính quy mô nhỏ trách nhiệm hữu hạn một thành viên Tình thương của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; đồng thời, bổ sung, chỉnh sửa điều lệ, chuẩn y, bổ nhiệm Chủ tịch, thành viên Hội đồng Quản trị, Trưởng ban và thành viên Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc nhiệm kỳ 2010-2015 và chấp thuận 18 mạng lưới chi nhánh của Tổ chức này.

3. Triển khai Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng:

Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức hội nghị tuyên truyền, phổ biến để giới thiệu những nội dung cơ bản của 2 Luật Ngân hàng đến Thủ trưởng các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước, Tổng Giám đốc các tổ chức tín dụng. Về xây dựng các văn bản hướng dẫn 2 Luật, Ngân hàng Nhà nước đang khẩn trương rà soát để xây dựng các văn bản kịp thời trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành theo thẩm quyền.

4. Triển khai Đề án đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam :

Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các ngân hàng thương mại xây dựng kế hoạch nhằm đẩy mạnh thanh toán thẻ qua POS (điểm chấp nhận thẻ), tập trung phối hợp với các công ty chuyển mạch thẻ khẩn trương thực hiện cập nhật phần mềm cho các POS nhằm liên thông kết nối kỹ thuật các thiết bị đầu cuối, đảm bảo các POS của ngân hàng có thể chấp nhận được thẻ của các ngân hàng khác. Ngân hàng Nhà nước cũng đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan bàn các biện pháp nhằm phát triển mạnh hệ thống POS.

5. Thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm khác:

- Ngân hàng Nhà nước tổ chức xây dựng và triển khai thực hiện các nội dung nhằm từng bước hoàn thiện các thị trường bộ phận, đẩy mạnh khả năng thanh khoản và luân chuyển vốn ngắn hạn giữa các thành viên thị trường, nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc quản lý, giám sát thị trường tiền tệ, tạo điều kiện để thị trường tiền tệ trở thành kênh buôn bán ngắn hạn và dự trữ thứ cấp cũng như trở thành kênh truyền tải hữu hiệu tín hiệu điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước đến thị trường.

- Được sự uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và Quyền Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đã ký kết Hiệp định Tài trợ và các văn kiện liên quan của Chương trình Tín dụng hỗ trợ giảm nghèo 9 (PRSC 9). Đây là chương trình thứ tư trong chu trình 5 năm lần thứ hai (PRSC 6-10) nhằm hỗ trợ việc triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (SEDP) 5 năm giai đoạn 2006-2010. Hai bên cũng đã ký kết Hiệp định Tài trợ và các văn kiện liên quan trị giá 180,4 triệu USD cho Dự án Xây dựng trường đại học Việt - Đức tại Việt Nam.

III, MỘT SỐ LƯU Ý KHI SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ:

Những ưu và nhược điểm tron việc thực hiện chính sách tiền tệ từ năm 2007 đến nay:

a.Thành tựu:

Trong năm 2007 và đầu năm 2008, khi mà lạm phát của VN ở mức 2 con số (12,36% trong năm 2007 và 9,19% trong 3 tháng đầu năm 2008), NHNN đã có những động thái tích tực nhằm ổn đinh kinh tế vĩ mô. Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh song nhìn chung mặt bằng lãi suât ổn định lãi suất huy động và cho vay của TCTD vẫn giữ ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đâu tư cho tăng trưởng kinh tế. Tỷ giá danh nghĩa dao động nhẹ và có xu hướng giảm, trong bối cảnh lạm phát gia tăng góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất và ổn định thị trường tiền tệ. Tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND. Chính sách tiền tệ thắt chặt với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã tạo ra một lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm mạnh cấp tín dungj từ các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm 3,91%/tháng ( ~ 25,2%/năm ) tháng 5 năm 2008 xuống thấp.Tỷ lệ lạm phát cả năm 2008 chỉ còn là 19,89%.

Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát , NHNN đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng.LSCB đã hạ dần từ đỉnh 14% xuống còn 13% ( từ 21/10/08) , 12% ( từ 05/11/08) và liên tiếp được điều chỉnh tới 3 lần trong tháng cuối năm ( từ 11% , 10% rồi xuống 8,5% ) trước khi giữ ổn định ở mức 7% ( từ 01/02/09).Cùng với LSCB , LSTCK , LSTCV cũng được điều chỉnh giảm.Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được nới lỏng dần đi kèm với việc điều chỉnh lãi suất DTBB. Các công cụ trên đã tác động mạnh tới thị trường , làm tăng dần mức cung tiền cho nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng đạt ~ 23% ( bằng gần ½ mức tăng của năm 2007 ) , riêng 6 tháng đầu năm 2009 đạt ~ 17,1% , tăng 17,8% so với cùng kỳ 2008.Tăng trưởng tín dụng đã góp phần chặn đà suy giảm , ổn định kinh tế vĩ mô.

Diễn biến tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam từ đầu năm 2008 là hết sức phức tạp.Trong quý I, có lúc tỷ giá USD liên ngân hàng giảm xuống dưới 16000.Nhưng qua đầu quý 2 ,tỷ giá lại tăng đến chóng mặt , có lúc đã lên tới 19500.NHNN đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% ( từ ngày 26/06/08) đồng thời triển khai hàng loạt biện pháp khác : kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ, công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam ... Nhờ đó tỉ giá đã dần dịu lại và duy trì ơ mức 16500 cho hết quý III.

Gói hỗ trợ của Chính Phủ Việt Nam được định lượng là 1 tỷ USB ( trên 17.000 tỷ đồng ) với cách làm rất sang tạo , rất linh hoạt , ..Phần lớn tiền hỗ trợ không được trực tiếp chi mà được hỗ trợ gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất, đã kích thích tăng trưởng mạnh tín dụng, giúp các doanh nghiệp có nguồn vốn giá rẻ thông qua hỗ trợ lãi suất gián tiếp, nên đã giảm được giá thành sản phẩm , duy trì ổn định sản xuất, kích thích nhu cần trong nước...

b.Những yếu điểm trong việc thực thi chính sách tiền tệ:

Đầu năm 2008, trước khi có gói giải pháp 8 điểm, các ngân hàng đã nhanh chóng đưa ra những giải pháp rút bớt tiền trong lưu thông bằng cách tăng lãi suất (lãi suất tái chiết khấu, huy động, tiền vay, lãi suất cơ bản) sát với giá thị trường. Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định nâng dự trữ bắt buộc đối với các Ngân hàng thương mại và qui định các ngân hàng mua trái phiếu ngân hàng Nhà nước. Kèm với đó là hạn chế tăng trưởng tín dụng nóng bằng việc khống chế ở mức 30%. Ngoài ra, còn hàng loạt chính sách để hỗ trợ thị trường chứng khoán, hạn chế cho vay đối với bất động sản... Định hướng thực hiện các giải pháp là đúng nhưng liều lượng, thời gian tiến hành chưa thích hợp, nhuần nhuyễn. Liều lượng quá nhiều, căng thẳng cùng một lúc, trong điều kiện thanh khoản của các ngân hàng đang ở mức thấp vì cho vay dễ dãi từ các năm trước dồn cho bất động sản, chứng khoán. Đồng thời với đó, các NHTM lại phải mua trái phiếu Ngân hàng nhà nước, tăng dữ trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu... đã tạo một áp lực lớn, làm tình hình hơi rối và lãi suất tiền gửi cứ đua nhau lên.

-Thành viên tham gia trên thị trường mở chưa nhiều; hàng hoá giao dịch trên thị trường mở chưa được đa dạng; thị trường mở chưa thực sự là công cụ được sử dụng rộng rãi nhằm duy trì lãi suất chủ đạo "lãi suất liên ngân hàng định hướng". Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN mặc dầu thời gian đã có nhiều đổi mới và chuyển biến tích cực, nhưng chưa thực sự tác động mạnh mẽ đến các ngân hàng thương mại.

- Thị trường tiền tệ chưa thật sự là kênh dẫn có hiệu quả trong cơ chế truyền tải các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.

- Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và một số chính sách kinh tế vĩ mô khác chưa chặt chẽ, do đó dẫn đến giảm hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ.

Quản lý thị trường vàng chưa chặt chẽ dẫn đến nhập khẩu vàng ồ ạt (Việt Nam là nước nhập khẩu vàng lớn nhất nhì thế giới) kéo theo việc không quản lý được thị trường ngoại tệ. Đã có lúc, tỷ giá trên thị trường tự do giữa VND - USD đạt mức cao kỷ lục (19.000 đồng/USD-PV). Tâm lý găm giữ ngoại tệ của DN và người dân vẫn chưa được giải tỏa triệt để. Giá vàng trên thị trường thế giới luôn diễn biến phức tạp, khó lường và thực sự đang có xu hướng tăng...

Còn với chính sách hỗ trợ lãi suất, sự phối hợp giữa ngân hàng với các Bộ, ngành thực hiện Quyết định 497/QĐ-TTg chưa thật tốt, nhiều vướng mắc chậm được giải quyết cho nên nguồn vốn hỗ trợ chảy về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chưa nhiều, mức lãi suất vay USD thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn đã phát sinh hiện tượng khách hàng vay để trục lợi bằng cách vay ngân hàng này gửi vào ngân hàng khác. Cũng qua chính sách hỗ trợ này được áp dụng khá rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, ngành hàng và đối tượng thụ hưởng cho nên xuất hiện tâm lý ỷ lại hoặc sử dụng vốn không đúng mục đích, không kiểm soát được. Đồng vốn hỗ trợ lãi suất chưa thực sự giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào sản phẩm, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.

Giải pháp đưa ra để hoàn thiện cơ chế tác động của chính sách tiền tệ:

Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ.

Trong điều kiện nước ta hội nhập kinh tế quốc tế và nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới vừa bước qua cuộc khủng hoảng, thì việc tiếp tục điều hành các công cụ chính sách tiền tệ cần chủ động, linh hoạt; theo kịp sự phát triển của thị trường tiền tệ và trong khả năng kiểm soát tiền tệ là một trong các giải pháp để đạt được chính sách tiền tệ hiệu quả.

Duy trì việc tự do hoá công cụ lãi suất. Để NHNN thực sự là người cho vay cuối cùng trên thị trường liên ngân hàng, cần tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất theo hướng : sử dụng lãi suất tái chiết khấu như lãi suất sàn; lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất tái cấp vốn làm lãi suất trần trên thị trường liên ngân hàng nhằm tác động đến việc huy động vốn và cho vay của các ngân hàng thương mại trên thị trường.

Tiếp tục điều hành công cụ dự trữ bắt buộc một cách chủ động và linh hoạt theo diễn biến của thị trường nhằm kiểm soát tiền tệ; mặt khác tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng sử dụng vốn khả dụng linh hoạt và hiệu quả. Trong điều kiện kiềm chế lạm phát, trong năm 2007 và năm 2008 NHNN nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng từ 5%, lên đến 10% và 11% là cần thiết để chống lạm phát; nhưng trong bối cảnh nền KT vừa bước qua cuộc khủng hoảng nhưng lại đang đối mặt với nguy cơ lạm phát tăng , do đó cần thắt chặt tiền tệ

Đẩy mạnh việc đổi mới điều hành công cụ nghiệp vụ thị trường mở xem thị trường mở là công cụ được sử dụng rộng rãi nhằm duy trì lãi suất chủ đạo "lãi suất liên ngân hàng định hướng"; mở rộng việc kết nạp thành viên tham gia trên thị trường mở; đa dạng hoá hàng hoá giao dịch trên thị trường mở nhằm đáp ứng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng. Tạo điều kiện và thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc và thị trường mua bán lại giấy tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng với nhau và giữa tổ chức tín dụng với khách hàng.

Tiếp tục điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu trên thị trường, trong mối quan hệ phối hợp với lãi suất, có sự kiểm soát của Nhà nước nhằm đảm bảo các cân đối vĩ mô : kiểm soát được lạm phát; kích thích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu; khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; không ảnh hưởng lớn đến việc doanh nghiệp vay nợ bằng ngoại tệ; tạo điều kiện quản lý và thu hút nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng; nâng cao quỹ trữ ngoại tệ của Nhà nước. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp áp dụng các công cụ phòng ngừa, bảo hiểm rủi ro tỷ giá.

- Nâng cao tính độc lập, trách nhiệm của NHNN.

Thận trọng trong việc sử dụng nhiều công cụ điều hành chính sách tiền tệ: Thị trường là nơi rât nhạy cảm và nó chính là nơi phản ánh sức sống của nền kinh tế.Vì thế cần phải thận trọng với mỗi quyết định liên quan đến sự vận động của tiền tệ, trước khi vận hành phải quan sát kĩ diễn biến, dự kiến được những phản ứng có thể của thị trường .

Đây là một trong các điều kiện tiên quyết nhằm nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Việc nâng cao tính độc lập, trách nhiệm cho NHNN phải thích ứng với mức độ hội nhập tài chính thế giới và phù hợp thể chế chính trị ở nước ta. Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung Luật NHNN theo hướng trao thêm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho NHNN trong xây dựng dự án chính sách tiền tệ; chủ động trong việc sắp xếp cơ cấu tổ chức và nhân sự; tự chủ về tài chính trong bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ NHNN; có chế độ đãi ngộ hợp lý để khuyến khích thu hút nhân tài; hiện đại hoá công nghệ quản lý trong việc tổng hợp, thống kê, phân tích, dự báo ..phục vụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ.

- Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường tiền tệ.

Tiếp tục tạo hàng hoá và phát triển nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ; mở rộng thành viên tham gia thị trường; nâng cao vai trò điều tiết, hướng dẫn của NHNN trên thị trường tiền tệ; hoàn thiện hành lang pháp lý tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ phát triển. Sự phát triển của thị trường tiền tệ sẽ là kênh dẫn có hiệu quả trong cơ chế truyền tải các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.

- Chỉ đạo các TCTD cơ cấu lại tài sản và nguồn vốn theo hướng an toàn, bền vững, hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cơ cấu lại nền kinh tế. Kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng và chuyển dịch mạnh cơ cấu tín dụng theo ngành, lĩnh vực, địa bàn thành thị và nông thôn, kỳ hạn và khách hàng vay; hạn chế cho vay các nhu cầu vốn thuộc các lĩnh vực phi sản xuất. Tập trung đầu tư vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, sản xuất, kinh doanh, phát triển hạ tầng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các cơ chế hỗ trợ lãi suất theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

- Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và một số chính sách kinh tế vĩ mô khác

Để nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác (chính sách tài chính, chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài..). Trong điều kiện dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam nhiều như một số năm trước đây (trong đó có dòng vốn ngắn hạn), nếu không kiểm soát tốt dòng vốn này, sẽ ảnh hưởng đến việc chống lạm phát. Do đó, cần có sự phối hợp chặt giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài : đánh thuế hoặc yêu cầu ký quỹ đối với dòng vốn ngắn hạn vào Việt Nam. Hiện nay trong bối cảnh kinh tế thế giới đang phục hồi dần sau thời kì sụt giảm, thì việc điều hành chính sách tiền tệ trong quan hệ phối hợp chính sách tài chính nhằm mục tiêu góp phần tăng trưởng kinh tế, nhưng đồng thời kiểm soát được lạm phát.

- Nâng cao hiệu quả hoạt động và phối hợp chặt chẽ giữa các định chế tài chính và các tổ chức có liên quan:

+ Nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng từng TCTD và cả hệ thống trong việc chấp hành các tỷ lệ an toàn, thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất, hoạt động ngoại hối, cho vay tiêu dùng theo lãi suất thỏa thuận để kịp thời phát hiện, cảnh báo và xử lý rủi ro hệ thống và bảo đảm an toàn thanh toán.

+ Theo dõi, giám sát chặt chẽ và dự báo kịp thời diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính - tiền tệ trong nước và quốc tế để có chính sách, giải pháp thích hợp trong điều hành hoạt động ngân hàng và xử lý kịp thời những vướng mắc phát sinh. Hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác thống kê, dự báo tiền tệ và cán cân thanh toán quốc tế phục vụ tốt cho điều hành chính sách tiền tệ.

+Tăng cường hợp tác quốc tế và quan hệ đối ngoại để tranh thủ nguồn vốn, hỗ trợ kỹ thuật từ bên ngoài và nâng cao uy tín, tiếng nói của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong quan hệ hợp tác với các tổ chức tài chính, tiền tệ và đối tác quốc tế.

+ Tăng cường phối hợp với các bộ, ngành liên quan trong điều hành chính sách tiền tệ, tài khóa, quản lý ngoại hối và các chính sách vĩ mô khác nhằm nâng cao hiệu quả điều hành, kiểm soát tiền tệ, lạm phát và kích thích tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô.

Tuy nhiên, để có thể đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội và Chính phủ, cần có sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả các chính sách kinh tế vĩ mô từ các bộ, ngành có liên quan. Theo đó, NHNN có một số kiến nghị đối với các bộ, ngành trong quản lý và điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô như sau:

Bộ Công Thương chủ trì thực hiện có hiệu quả các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nghiêm ngặt nhập siêu. Triển khai, thực hiện các biện pháp phát triển hệ thống phân phối để tăng tiêu dùng, dự báo tình hình và kiểm soát giá cả hàng hóa ở mức hợp lý.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện các giải pháp thu hút vốn đầu tư FDI, ODA và các nguồn vốn khác; tiếp tục hoàn thiện cơ chế nhằm thúc đẩy việc huy động vốn từ nước ngoài thông qua việc tạo điều kiện cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam và các NHTM huy động các nguồn vốn dài hạn ODA, vay thương mại và tài trợ ủy thác khác từ nước ngoài để đầu tư các dự án kết cấu hạ tầng, dự án khả thi và có hiệu quả, tạo việc làm của doanh nghiệp và lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, chủ động bố trí cân đối các nguồn vốn trong và ngoài nước, tránh hiện tượng nợ đọng vốn xây dựng cơ bản, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của các NHTM; tránh giải ngân vốn ngân sách nhà nước năm 2010 quá lớn dẫn tới việc huy động vốn tăng cao làm tăng lãi suất trái phiếu Chính phủ, ảnh hưởng tới thị trường tiền tệ.

Bộ Tài chính rà soát việc huy động vốn của ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố theo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước, tránh mở rộng đầu tư quá khả năng huy động vốn, hiệu quả thấp kéo theo nợ xấu ngân hàng gia tăng; đồng thời trao đổi thông tin cho NHNN về khối lượng, lãi suất trái phiếu VND và ngoại tệ dự kiến phát hành, kế hoạch bán ngoại tệ cho NHNN và kế hoạch giải ngân nguồn vốn VND của Chính phủ để NHNN phối hợp điều hành chính sách tiền tệ.

Các cơ quan chức năng theo dõi sát diễn biến các thị trường, như: thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường lao động và các thị trường khác để có thông tin chính thức về giá cả thị trường, có các cảnh báo về nguy cơ rủi ro, phối hợp thực hiện các biện pháp để tránh hiện tượng tăng trưởng quá nóng. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố tiếp tục quan tâm, phối hợp chỉ đạo, tháo gỡ những khó khăn tại địa phương trong quá trình triển khai cơ chế hỗ trợ lãi suất.

Các cơ quan báo chí, truyền thông thực hiện việc thông tin về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và cơ chế hỗ trợ lãi suất ở mức độ phù hợp và bảo đảm chính xác về thông tin để công chúng hiểu đúng tình hình và quy định của pháp luật, tránh những hiệu ứng tâm lý không thuận lợi cho hoạt động ngân hàng.

Phần 3 bổ xung

Trong một bài viết đăng trên tạp chí Time đầu năm 2009, Giáo sư kinh tế Lawrence H. Officer thuộc Đại học Illinois, Mỹ, nhận định những CSTT phản ánh nhận thức sai lầm của Chính phủ nước này về tình hình lúc đó. Ông cũng cho rằng, đây sẽ không chỉ là sai lầm của chính quyền Bush, mà sẽ tiếp tục là nhầm lẫn của chính quyền Obama.

Trong bài viết này, ông Officer nhận định, chính sách chống khủng hoảng của Mỹ cho thấy nhiều sai lầm nguy hiểm có thể kéo dài suy thoái.

Theo vị giáo sư này, quyết định của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) hạ lãi suất cơ bản đồng USD về khoảng 0 - 0,25% là một trong những sai lầm lớn nhất. Ông cho rằng, ngay từ khi FED còn đang áp dụng mức lãi suất mục tiêu 1%, lãi suất qua đêm liên ngân hàng ở Mỹ thực tế đã giảm xuống mức gần 0%. Do đó, quyết định hạ lãi suất của FED không có tác dụng điều chỉnh lãi suất trên thực tế mà chỉ gửi đi một thông điệp tiêu cực về tình trạng kinh tế Mỹ. Điều này làm niềm tin càng thêm suy giảm.

Với "chiêu" lãi suất đã cạn, FED lại chuyển sang sử dụng một công cụ mới là đẩy mạnh tăng cường thanh khoản cho thị trường. Theo GS. Officer, đây lại là một sai lầm nữa, vì thanh khoản không phải là một khó khăn của các ngân hàng ở Mỹ hiện nay.Các vấn đề về thanh khoản không phải là nguồn gốc của những rắc rối tài chính mà kinh tế mà nước Mỹ đang phải đương đầu.

Suy thoái kinh tế thường dẫn tới giảm phát hoặc thiểu phát, và để giải quyết tình hình, biện pháp thường là thúc đẩy chi tiêu. Cơ chế giải quyết cần thiết và mang tính tự nhiên này sẽ vấp phải vấn đề lạm phát ngay khi suy thoái kết thúc.

Để vực dậy nền kinh tế trong đà suy thoái, Chính phủ Mỹ đang áp dụng một chính sách tiền tệ quá lỏng mà một số chuyên gia cho là phù hợp hơn với thời kỳ Đại suy thoái những năm 1930, thay vì cuộc khủng hoảng đang diễn ra.

.

Trên thực tế, theo số liệu của FED công bố ngày 18/12/2008, lượng thanh khoản dự trữ vượt mức cần thiết trong các tổ chức nhận gửi tiết kiệm ở Mỹ đã tăng từ mức dưới 2 tỷ USD trong tháng 8 lên mức kỷ lục 774 tỷ USD vào giữa tháng 12. Mặc dù vậy, các ngân hàng của nước này đã không tận dụng nguồn tiền thừa này để tăng cường hoạt động cho vay.

Lý giải vấn đề này, theo Giáo sư Officer, đó là vì nước Mỹ đang đối mặt một cuộc khủng hoảng niềm tin, thay vì khủng hoảng thanh khoản. Với lượng tiền dự trữ dư thừa khổng lồ như trên, rõ ràng, lý do khiến các ngân hàng ngại cho vay không phải vì họ không có tiền cho vay. Điều mà các ngân hàng lo ngại ở đây là đối tượng vay tiền của họ, trong đó bao gồm cả các ngân hàng khác, sẽ không trả nợ.

Còn với Trung Quốc đầu năm 2010

Bất chấp tâm lý phấn khởi hồi đầu tuần nhờ cam kết điều hành đồng Nhân dân tệ (NDT) linh hoạt của Trung Quốc, các chuyên gia phân tích cho rằng những hiệu quả mà đồng NDT mạnh đem lại cho các doanh nghiệp chỉ tồn tại trong ngắn hạn, còn triển vọng lâu dài không mấy khả quan.

Chính phủ Trung Quốc vẫn chưa sẵn lòng thả nổi tỷ giá tiền tệ và sự kỳ vọng quá lâu về động thái này sẽ làm giảm hiệu quả của việc tái định giá. Những nhà đầu tư đang thắc mắc về cách thức tận dụng lợi thế từ động thái của Trung Quốc tốt hơn hết nên duy trì chiến lược đầu tư hiện tại của mình.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#lan