Tư liệu

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tư liệu Đông Hán độ lượng

Chiều dài:

Hán thước tiêu chuẩn tìm đọc đến hữu hai loại ghi lại

Hán đại độ chế cơ bản vì

1 dẫn =10 trượng,1 trượng =10 thước

1 thước =10 tấc,1 tấc =10 phân

Hợp hiện tại vì:

1 dẫn =2310cm=23.10m

1 trượng =231cm=2.31m

1 thước =23.1cm=0.231m

1 tấc =2.31cm=0.0231m

1 phân =0.231cm=0.00231m

Cổ nhân chiều dài cơ bản đơn vị là “Thước”, ngũ thước làm một bước, ba trăm bước làm một lý. Hán đại một dặm vì ba trăm sáu mươi bước, mỗi bước lục thước, mỗi thước hợp 0.231 mễ, một dặm ước hợp 498.96 mễ, cùng hiện tại không sai biệt lắm.

1 dẫn =10 trượng,1 trượng =10 thước,1 thước =10 tấc,1 tấc =10 phân;

1 lý

300 bước,1 bước

6 thước

1 dẫn =2340 li mễ,1 trượng =234 li mễ,1 thước =23.4 li mễ,1 tấc =2.34 li mễ,1 phân =0.234 li mễ

1 lý

421.2 mễ,1 bước

140.4 li mễ =1.404 mễ

Chú: Đây là ba trăm bước khoảng cách tính toán.

Quyển sách trung nhỏ tham chiếu đệ nhất chủng hán thước, một dặm ba trăm sáu mươi bước, ước 498.96 mễ.

________________________________________

2

Sức nặng:

1 thạch =4 quân,1 quân =30 cân,1 cân =16 hai,1 hai =24 thù

1 thạch =29760 khắc,1 quân =7440 khắc,1 cân =248 khắc,1 hai =15.5 khắc,1 thù =0.65 khắc

1 thạch =29.760 kg,1 quân =7.440 kg,1 cân =0.248 kg,1 hai =0.0155 kg,1 thù =0.00065 kg

Cũ đo lường, mười li tương đương một phần, một phần ước hợp 0.3125 khắc.

Dung tích:

1 hộc [ thạch ]=10 đấu,1 đấu =10 thăng,1 thăng =10 hợp,

1 hợp =2 dược,1 dược =5 dúm,1 dúm =4 khuê

1 hộc =20000 hào thăng,1 đấu =2000 hào thăng,1 thăng =200 hào thăng,1 hợp =20 hào thăng,

1 dược =10 hào thăng,1 dúm =2 hào thăng,1 khuê =0.5 hào thăng

1 thạch mễ

17.55 kg,1 thạch kê

13.5 kg,1 thạch lúa mạch

12 kg

1 thạch mễ

35.1 cân,1 thạch kê

27 cân,1 thạch lúa mạch

24 cân

________________________________________

3

Diện tích:

Đông Hán 1 tiểu mẫu

100 bước

197.1216

, Đông Hán 1 đại mẫu

240 bước

473.0918

,1 mẫu

666.6667

,

1 mẫu

1.4092 Đông Hán đại mẫu

3.382 Đông Hán tiểu mẫu,

1 Đông Hán tiểu mẫu

0.4167 Đông Hán đại mẫu

0.2906 mẫu,

1 Đông Hán đại mẫu

2.4 Đông Hán tiểu mẫu

0.7096 mẫu

[*__*] hì hì...... Thái MM về sau hội dùng đến, trước phát đi lên làm đối chiếu.

Tư liệu Đông Hán khu hành chính

Đông Hán thuận đế vĩnh hòa năm năm [140 niên ], này lãnh thổ phân ranh giới vì Tư Đãi Giáo Úy bộ, mười hai châu thứ sử bộ hòa Tây Vực Trưởng Sử phủ, các vương quốc, phụ quốc ấn quận chế; Ấp, đạo, hầu quốc, công quốc chờ ấn huyện chế. Cụ thể phân ranh giới như sau:

Tư Đãi Giáo Úy bộ

Kinh triệu doãn trì Trường An [ nay Thiểm Tây Trường An tam kiều ].

Lĩnh 10 huyện: Trường An, Trường Lăng, dương toa, phách lăng, đỗ lăng, tân phong, Lam Điền, trịnh huyện, thượng lạc, thương huyện.

Hữu phù phong trì hòe lý [ nay Thiểm Tây hưng bình ].

Lĩnh 15 huyện: Hòe lý, mậu lăng, bình lăng, hộ huyện, võ công, mĩ dương, mi huyện, ung huyện, đỗ dương, trần thương, du quân, khiên huyện, nước sơn huyện,

栒栒

ấp, an lăng.

Tả phùng linh trì cao lăng [ nay Thiểm Tây cao lăng ].

Lĩnh 13 huyện: Cao lăng, trì dương, vạn năm, trọng tuyền, lâm tấn, cáp dương, hạ dương, tần dương, túc ấp, nha huyện, không [ đi tam điểm thủy gia kì bộ giữ ] hủ, vân dương.

Hà Đông quận trị an ấp [ nay Sơn Tây hạ huyện vũ vương ].

Lĩnh 19 huyện: An ấp, văn hỉ, y thị, đại dương, Hà Bắc, bồ phản, phần âm, da thị, giáng ấp, lâm phần, tương lăng, dương huyện, bình dương, Vĩnh An, bắc khuất, bồ tử, đoan thị, oách [ đi trùng gia tam điểm thủy ] trạch, đông viên.

Hoằng nông quận trì hoằng nông [ nay Hà Nam linh bảo bắc Hoàng Hà nam ngạn ].

Lĩnh 9 huyện: Hoằng nông, thiểm huyện, hồ huyện, hoa âm, lô thị, mãnh trì, Tân An, nghi dương, lục hồn.

Hà Nam doãn trì lạc dương [ nay Hà Nam Lạc Dương đông bắc ].

Lĩnh 21 huyện: Lạc dương, bình huyện, bình âm, cốc thành, Hà Nam, tân thành, lương huyện, yển sư, câu thị, củng huyện, thành cao, Huỳnh Dương, cuốn huyện, nguyên võ, dương võ, trung mưu, Khai Phong, uyển lăng, tân trịnh, mật huyện, kinh huyện.

Hà Nội quận trì hoài huyện [ nay Hà Nam võ trắc tây nam đại hồng kiều nam ].

Lĩnh 18 huyện: Hoài huyện, võ đức, bình cao, châu huyện, ôn huyện, Hà Dương, dã vương, ba huyện, chỉ huyện, thấm thủy, Sơn Dương, tu võ, lấy được gia, cấp huyện, cộng huyện, triều đình, đãng âm, lâm lo.

Dự châu thứ sử bộ

Toánh xuyên quận trì dương địch [ nay Hà Nam vũ châu ].

Lĩnh 17 huyện: Dương địch, dương thành, luân thị, giáp huyện, phụ thành, toánh dương, Tương thành, côn dương, vũ dương, định lăng, yển huyện, lâm toánh, toánh âm, hứa huyện, tân cấp, yên lăng, trưởng xã.

Nhữ Nam quận trì bình dư [ nay Hà Nam Nhữ Nam bắn kiều ].

Lĩnh 37 huyện: Bình dư, thượng thái,

灈灈

dương, ngô phòng, tây bình, định toánh, triệu lăng,

洇洇

[ đi nhân gia ẩn ] cường, tây hoa, chinh khương, nhữ dương, nam đốn, dương an, lang lăng, bắc Nghi Xuân, an thành, thận dương, an dương, tân tức, dặc dương, kì tư, nguyên lộc, phú ba, bao tín, tân thái,

鲖鲖

dương, cố thủy, hạng huyện, Nghi Lộc, tân dương, tống quốc, tư thiện, thành phụ, sơn tang, tế dương, nhữ âm, thận huyện.

Trần quốc trì trần huyện [ nay Hà Nam hoài dương ].

Lĩnh 9 huyện: Trần huyện, tân bình, Trữ Bình, võ bình, khổ huyện, chá huyện, dương hạ, phù nhạc, Trường Bình.

Lương quốc trì tuy dương [ nay Hà Nam thương khâu thị trấn ].

Lĩnh 8 huyện, tuy dương, mông huyện, ninh lăng, yên huyện, cốc thục, ngu huyện, hạ ấp, nãng huyện.

Phái quốc trì tướng huyện [ nay An Huy

khê trương tập ].

Lĩnh 21 huyện: Tướng huyện, tiếu huyện, trữ thu, phong huyện, phái huyện, lâm tuy, thái khâu, kiến bình,

鄼鄼

huyện, tiếu huyện, đan huyện, chất [ đi chất gia tới ] huyện, trúc ấp, kì huyện, phù ly, cốc dương, hào huyện, hồng huyện, hướng huyện, long kháng, công khâu.

Lỗ quốc trì lỗ huyện [ nay Sơn Đông khúc phụ ].

Lĩnh 6 huyện: Lỗ huyện, vấn dương, biện huyện, sô huyện, phiên huyện, tiết huyện.

Duyệt châu thứ sử bộ

Trần Lưu quận trì Trần Lưu [ nay Hà Nam Khai Phong huyện Trần Lưu ].

Lĩnh 17 huyện: Trần Lưu, ung khâu, úy thị, phù câu, ngữ huyện, tương ấp, mình ngô, khảo thành, ngoại hoàng, tế âm, đông hôn, tiểu hoàng, đào sâu nghi, phong khâu, bình khâu, trưởng viên, toan tảo.

Đông quận trì Bộc Dương [ nay Hà Nam Bộc Dương khánh tổ bắc ].

Lĩnh 15 huyện: Bộc Dương, bạch mã, yến huyện, đốn khâu, vệ quốc, đông võ dương, dương bình, đông a, phạm huyện, cốc thành, lâm ấp, nhạc bình, phát bình, tán gẫu thành, bác bình.

Tế âm quận trì Định Đào [ nay Sơn Đông Định Đào thành tây bắc ].

Lĩnh 11 huyện; Định Đào, oan câu, thừa thị, câu dương, thành dương, quyên thành, lẫm khâu, ly hồ, thành võ, đan phụ, mình thị.

Sơn Dương quận trì Xương Ấp [ nay Sơn Đông cự dã Xương Ấp ].

Lĩnh 10 huyện: Xương Ấp, cự dã, kim hương, đông mân, phòng đông, phương cùng, Cao Bình, hồ lục, nam bình dương, hà khâu.

Nhâm thành quốc trì nhâm thành [ nay Sơn Đông vi sơn lỗ kiều ].

Lĩnh 3 huyện: Nhâm thành, kháng phụ, phiền huyện.

Đông Bình quốc trì vô diêm [ nay Sơn Đông Đông Bình túc thành ].

Lĩnh 5 huyện: Vô diêm, thọ trương, tu xương, phú thành, chương huyện, đông vu lục, ninh dương.

Tế Bắc quốc trì lô huyện [ nay Sơn Đông trưởng thanh lập tức phụ cận ].

Lĩnh 5 huyện: Lô huyện, trì bình, xà khâu, cương huyện, thành huyện.

Thái Sơn quận trì phụng cao [ nay Sơn Đông thái an phạm trấn ].

Lĩnh 12 huyện: Phụng cao, bác huyện, lương phủ, cự bình, trì huyện, doanh huyện, mưu huyện, lai vu, cái huyện, nam võ dương, phí quốc, nam thành.

Thanh châu thứ sử bộ

Bình nguyên quận trì bình nguyên [ nay Sơn Đông bình nguyên ẩm mã điếm phụ cận ].

Lĩnh 10 huyện: Bình nguyên, cao đường, chúc a, tháp âm, an đức, cách quốc, tây bình xương, bàn huyện, nhạc lăng, ghét thứ.

Tế Nam quốc trì Đông Bình lăng [ nay Sơn Đông chương khâu tảo viên tây bắc ].

Lĩnh 1. Huyện; Đông Bình lăng, thổ cổ, lịch thành, thai huyện, trứ huyện, gian huyện, đông triều, trâu bình, lương trâu, vu lăng.

Nhạc an quốc trì lâm tế [ nay Sơn Đông cao thanh cao thành trấn ].

Lĩnh 9 huyện: Lâm tế, cao uyển, thiên thừa, nhạc an, bác xương, lợi huyện, liêu thành, thọ quang, ích huyện.

Tề quốc trì lâm truy [ nay Sơn Đông truy bác lâm truy khu tề đều ].

Lĩnh 6 huyện: Lâm truy, tây an, xương quốc, bàn dương, quảng huyện, lâm cù.

Bắc hải quốc trì kịch huyện [ nay Sơn Đông xương nhạc nghiêu câu trấn ].

Lĩnh 18 huyện: Kịch huyện, đông an bình, bình thọ, doanh lăng, chu hư, an khâu, xương an, bình an, cao mật, di an, Thuần Vu, đều xương, hạ mật, Giao Đông, tức mặc, tráng võ, cử huyện, quan dương.

Đông lai quận trì hoàng huyện [ nay Sơn Đông long khẩu hoàng thành tập ].

Lĩnh 12 huyện: Hoàng huyện, tư [ đi sơn gia khăn ] quốc, khúc thành, dịch quốc, đương lợi, lô hương, mưu bình, đông mưu, xương dương, trưởng quảng, không này, kiềm tưu.

Từ châu thứ sử bộ

Lang tà quốc trì khai dương [ nay Sơn Đông lâm nghi bắc đái thành tử ].

Lĩnh 13 huyện, cử huyện, đông an, đông hoàn, cô mạc, chư huyện, đông võ, lang tà, câu khúc, dương đều, lâm nghi, khai dương, tức khâu, tăng quốc.

Đông hải quận trì đàm huyện [ nay Sơn Đông đàm thành thành bắc ].

Lĩnh 13 huyện: Đàm huyện, tương bí, lan lăng, thừa huyện, âm bình, thích huyện, xương lo, hợp hương, chúc này, lợi thành, cống du, cù huyện, hậu khâu.

Bành Thành quốc trì Bành Thành [ nay Giang Tô Từ châu ].

Lĩnh 8 huyện: Bành Thành, lưu huyện, quảng thích, phó dương, võ nguyên, lữ huyện, ngô huyện,

甾甾

khâu.

Hạ bi quốc trì hạ bi [ nay Giang Tô bi huyện cổ bi ].

Lĩnh 16 huyện: Hạ bi, lương thành, tư ngô, hạ tướng, thủ lo, đồng quốc, hạ khâu, từ huyện, tuy lăng, Hu Di, núi cao, hoài lăng, đông thành, Khúc Dương, hoài phổ, Hoài Âm.

Quảng Lăng quận trì Quảng Lăng [ nay Giang Tô Dương Châu thành bắc ].

Lĩnh 12 huyện: Quảng Lăng, Giang Đô, dư quốc, đường ấp, Hải Lăng, Cao Bưu, bình an, đông dương, lăng huyện, bắn dương, hối tây, diêm độc.

Ký Châu thứ sử bộ

Ngụy quận trì nghiệp huyện [ nay Hà Bắc lâm chương nghiệp trấn ].

Lĩnh 15 huyện: Nghiệp huyện, nội hoàng, lê dương, phồn dương, âm an, ngụy huyện, nguyên thành, quán đào, thanh uyên, bình tư, xích khâu, khúc lương, lương kì, võ an, thiệp quốc.

Thanh hà quốc trì cam lăng [ nay Sơn Đông Lâm Thanh đông bắc ].

Lĩnh 7 huyện: Cam lăng, bối khâu, linh huyện, úc [ đi hữu gia du ] huyện, dịch mạc, quảng xuyên, đông võ thành.

An bình quốc trì tín đều [ nay Hà Bắc kí huyện ].

Lĩnh 13 huyện: Tín đều, phù liễu, đường dương, Nam Cung, hình huyện, võ ấp, quan tân, hạ bác, võ toại, dù dương, an bình, nam thâm trạch, phụ thành.

Cự lộc quận trì trang [ đi thổ gia anh ] đào [ nay Hà Bắc ninh tấn đông trần phụ cận ].

Lĩnh 15 huyện: Trang [ đi thổ gia anh ] đào, dương thị, vân [ đi viên gia kiêu ] huyện, hạ Khúc Dương, nam bí [ đi khẩu đi xe gia ngôn ], nhâm huyện, bình hương, nam hòa, cự lộc, quảng làm, khúc chu, quảng tông, quảng niên, xích chương, liệt nhân.

Triệu quốc trì Hàm Đan [ nay Hà Bắc Hàm Đan ].

Lĩnh 5 huyện: Hàm Đan, dịch dương, tương quốc, trung khâu, bách nhân.

Thường Sơn quốc trì nguyên thị [ nay Hà Bắc nguyên thị ân thôn ].

Lĩnh 12 huyện: Nguyên thị, loan thành, bình cức, cao ấp, phòng ở, thượng ngải, chân định, cửu môn, bồ ngô, tỉnh hình, linh thọ, đi về phía nam đường.

Trung Sơn quốc trì lô nô [ nay Hà Bắc định châu ].

Lĩnh 13 huyện: Lô nô, an hi, hán xương, lễ ngô, an quốc, vô cực, tân thị, thượng Khúc Dương, vọng đều, đường huyện, bồ âm, Bắc Bình, quảng xương.

Hà Gian quốc trì nhạc thành [ nay Hà Bắc bạc đầu Thiên hộ truân phụ cận ].

Lĩnh 11 huyện; Nhạc thành, cung cao, thành bình, trung thủy, võ viên, thúc châu, Đông Bình thư, Cao Dương, mạo huyện, văn an, dịch huyện.

Bột Hải quận trì Nam Bì [ nay Hà Bắc Nam Bì thường trang ].

Lĩnh 8 huyện: Nam Bì, đông quang, trùng hợp, cao thành, dương tín, tu huyện, di động dương, chương võ.

Kinh châu thứ sử bộ

Nam Dương quận trì uyển huyện [ nay Hà Nam Nam Dương ].

Lĩnh 36 huyện: Uyển huyện, tây ngạc, bác vọng, đổ dương, trĩ huyện, diệp huyện,

犨犨

huyện, Lỗ Dương, li quốc, tích huyện, Đan thủy, nam hương, thuận dương, Vũ Đương, quán quân,

鄼鄼

huyện, âm huyện, trúc dương, sơn đều, đặng huyện, thái dương, chương lăng, tương hương, hồ dương, triêu dương, Tân Dã, an chúng, nhương huyện, niết dương, cức dương, dục dương, vũ âm, bỉ dương, bình thị, phục dương, tùy huyện.

Giang hạ quận trì tây lăng [ nay Hồ Bắc tân châu thành Hà Tây ngạn ].

Lĩnh 14 huyện: Tây lăng, chu huyện, ngạc huyện, kì xuân, hạ trĩ, sa tiện, an lục, nam tân thị, vân đỗ, nhưng lại lăng, tây dương, nhuyễn [ đi khiếm gia đại ] quốc, quận [ đi quân gia mãnh ] huyện, bình xuân.

Nam quận trì Giang Lăng [ nay Hồ Bắc Giang Lăng ].

Lĩnh 17 huyện: Giang Lăng, hoa dung, châu lăng, chi giang, di đạo, di lăng, Đương Dương, nhược quốc, biên huyện, nghi thành, lại [ đi đi gia mình ] quốc, trung lô, Tương Dương, lâm tự, tỉ về, vu huyện,

佷佷

sơn.

Trường Sa quận trì lâm tương [ nay Hồ Nam Trường Sa ].

Lĩnh 12 huyện: Lâm tương, tương nam, ích dương, la huyện, hạ tuyển, liền nói, chiêu lăng, lễ lăng, an thành, trà lăng, du huyện, dung lăng.

Võ lăng quận trì lâm nguyên [ nay Hồ Nam thường đức ].

Lĩnh 12 huyện: Lâm nguyên, nguyên nam, hán thọ, chỉ đường, sàn lăng, linh dương, sung huyện, dậu dương, thiên lăng, nguyên lăng, thần dương,

镡镡

thành.

Linh lăng quận trì tuyền lăng [ nay Hồ Nam vĩnh châu ].

Lĩnh 13 huyện: Tuyền lăng, doanh phổ, doanh đạo, linh đạo, trọng an, tương hương, chiêu dương, yến dương, phu di, đều lương, thao dương, linh lăng, thủy an.

Quế Dương quận trì sâm huyện [ nay Hồ Nam sâm châu ].

Lĩnh 11 huyện: Sâm huyện, hán ninh, liền huyện, lỗi dương, âm sơn, lâm võ, nam bình, Quế Dương, khúc giang, trinh dương, hàm

.

Dương Châu thứ sử bộ

Cửu Giang quận trì âm lăng [ nay An Huy Phượng Dương chu vu tây nam ].

Lĩnh 14 huyện: Âm lăng, tây Khúc Dương, Thọ Xuân, đương từ, hạ thái, bình a, nghĩa thành, Chung Ly, thành đức, Hợp Phì, đào sâu tù, toàn tiêu, phụ lăng, lịch dương.

Lư Sơn quận trì thư huyện [ nay An Huy Lư Giang quế nguyên tây ].

Lĩnh 14 huyện: Thư huyện, lâm hồ, tương an, cư sào, hoàn huyện, tầm dương, long thư, lục an, an phong, tiềm [ đi nhật gia cách ] huyện, vu lâu, dương tuyền, liêu huyện.

Đan dương quận trì uyển lăng [ nay An Huy tuyên châu ].

Lĩnh 16 huyện: Uyển lăng, vu hồ, xuân cốc, lật dương, đan dương, thạch thành, mạt lăng, hồ thục, giang thừa, câu dung, cố chướng, vu tiềm, kính huyện, lăng dương, y huyện, hấp huyện.

Ngô quận trì ngô huyện [ nay Giang Tô Tô Châu ].

Lĩnh 13 huyện: Ngô huyện, lâu huyện, vô tích, bì lăng, Khúc A, đan đồ, dương tiện, ô trình, từ quyền, muối biển, dư hàng, tiền đường, phú xuân.

Hội Kê quận trì sơn âm [ nay Chiết Giang thiệu hưng ].

Lĩnh 14 huyện: Sơn âm, dư kị, thượng ngu, dư diêu, câu chương,

鄮鄮

huyện, ngân huyện, chư kị, diệm huyện, ô thương, đại mạt, chương an, vĩnh ninh, đông dã.

Dự chương quận trì nam xương [ nay Giang Tây nam xương ].

Lĩnh 21 huyện: Nam xương, dư hãn, bà dương, vân [ đi viên gia kiêu ] dương, hải hôn, lịch lăng, sài tang, bành trạch, ngải huyện, Kiến Xương, kiến thành, tân cam, Nghi Xuân, bình đều, thạch dương, lư lăng, lâm nhữ, nam thành, vu đều, cống huyện, nam dã.

Nay Đài Loan đảo lúc ấy xưng là di châu.

Dương Châu thứ sử bộ

Hán Trung quận trì nam trịnh [ nay Thiểm Tây Hán Trung ].

Lĩnh 9 huyện: Nam trịnh, miện dương, bao trung, thành cố, an dương, tây thành, tích huyện, thượng dung, phòng lăng.

Ba quận trì giang châu [ nay Tứ Xuyên Trùng Khánh ].

Lĩnh 14 huyện: Giang châu, điếm giang, an hán, đãng cừ, tuyên hán, hán xương, sung quốc, lãng trung, phù lăng, chỉ huyện, bình đều, lâm giang, cù nhẫn, ngư phục.

Quảng hán quận trì lạc huyện [ nay Tứ Xuyên quảng hán ].

Lĩnh 11 huyện: Lạc huyện, tân đều, cái gì phương, miên trúc, phù huyện, tử đồng, gia manh, cữu thủy, thê huyện, quảng hán, đức dương.

Quảng hán phụ quốc trì nay Cam Túc văn huyện.

Lĩnh 3 nói: Âm bình đạo, điện thị đạo, cương thị đạo.

Thục quận trì thành đô [ nay Tứ Xuyên thành đô ].

Lĩnh 8 huyện 3 nói: Thành đô, quảng đều, giang nguyên, lâm cung, bì huyện, phồn huyện, quảng nhu, tàm lăng; Miên cứu [ đi ký gia hổ ] đạo, vấn giang đạo, tiên để đạo.

Thục quận phụ quốc trì hán gia [ nay Tứ Xuyên lô Sơn Đông bắc ].

Lĩnh 4 huyện: Hán gia, đồ huyện, nghiêm đạo, mao ngưu.

Kiện vì quận trì võ dương [ nay Tứ Xuyên bành sơn thành Giang Đông ].

Lĩnh 9 huyện: Võ dương, nam an, ngưu tì [ đi nguyệt gia cách ], tư trung, hán an, giang dương, phù tiết, nam quảng,

僰僰

đạo.

Kiện vì phụ quốc trì chu đề [ nay Vân Nam chiêu thông ].

Lĩnh 3 huyện: Chu đề, Hán Dương, đường lang.

Tường Kha quận trì thả lan [ nay Quý Châu quý định huyện đông ].

Lĩnh 16 huyện: Thả lan, vô liễm,

鄨鄨

huyện, bình di, dạ lang, đạm cảo, đàm chỉ, lậu nằm, lậu giang, đồng cũng, vô đan, điện đinh, uyển ôn,

镡镡

phong, tiến thừa, tây tùy.

Ích châu quận trì Điền Trì [ nay Vân Nam chanh giang tấn thành ].

Lĩnh 16 huyện: Điền Trì, du nguyên, thắng hưu, kiến linh, liên nhiên, cốc xương, côn trạch, đồng lao, đồng lại, vị huyện, mục mĩ, tần tang, phan đống, vô

[ đi điền gia mộc ], luật cao, bí cổ.

Vĩnh xương quận trì không vi [ nay Vân Nam người bảo lãnh cầu gỗ ].

Lĩnh 8 huyện: Không vi, bác nam, tây đường, bỉ tô, sài du, tà long, Vân Nam, ai lao. Tại này tây bộ hữu bộc bộ bộ tộc ở lại, nam bộ từ mân bộc bộ, cưu liêu bộ chờ bộ tộc ở lại, tây nam từ lật việt bộ bộ tộc ở lại chờ.

Lương châu thứ sử bộ

Võ đều quận trì hạ biện [ nay Cam Túc huy huyện giang lạc trấn tây ].

Lĩnh 7 huyện: Hạ biện, hà trì, đường xưa, tự huyện, thượng lộc, võ đều đạo, khương đạo.

Lũng Tây quận trì địch đạo [ nay Cam Túc Lâm Thao ].

Lĩnh 11 huyện: Địch đạo, an cố, đại hạ, phu hãn, bạch thạch, hà quan, thủ dương, chướng huyện, tương võ, Lâm Thao [ trú nam bộ Đô Úy ], để đạo.

Hán Dương quận trì kí huyện [ hôm nay túc cam cốc ].

Lĩnh 12 huyện: Kí huyện, tây huyện, vọng viên, thượng quách, lũng huyện, lược dương, hiển thân,

獂獂

đạo, thành kỉ, a dương, bình tương, dũng sĩ.

An Định quận trì lâm kính [ nay Cam Túc trấn nguyên đông nam ].

Lĩnh 7 huyện: Lâm kính, âm bàn, thuần cô, ô thị, Cao Bình, triều kia, bành dương.

Bắc địa quận trì phú bình [ nay ninh hạ ngô trung tây nam ].

Lĩnh 6 huyện: Phú bình, liêm huyện, linh châu, tham bí [ đi khẩu, xe gia ngôn ], nê dương, dặc cư.

Võ Uy quận trì cô tang [ nay Cam Túc Võ Uy ].

Lĩnh 13 huyện: Cô tang, Hưu chư, hiển mĩ, tuyên uy, Võ Uy,

揟揟

thứ, loan điểu, thương tùng, trương dịch, phác nhị, ảo vây, chiến [ đi trang gia điểu ] âm, tổ lệ.

Kim thành quận trì duẫn ngô [ nay Cam Túc thủy thanh huyện bình câu ].

Lĩnh 10 huyện: Duẫn ngô, chi dương, Kim thành, duẫn phố, du trung, hạo vỉ, làm cư, phá khương, an di, lâm khương.

Trương dịch quận trì xúc [ đi trùng gia nhạc ] [ nay Cam Túc trương dịch lâm trạch huyện ].

Lĩnh 8 huyện: Xúc [ đi trùng gia nhạc ] , chiêu võ, ốc lan, san đan, để trì, nhật lặc, phiên hòa, li can [ đi nguyệt gia cách ],

Có khác trương dịch, cư duyên phụ quốc, trì cư duyên [ nay nội Mông Cổ ngạch tế nạp kì đông nam ].

Rượu tuyền quận trì lộc phúc [ nay Cam Túc rượu tuyền ].

Lĩnh 9 huyện: Lộc phúc, an di, biết bơi, nhạc loan, biểu thị, ngọc môn, duyên thọ, làm tề, sa đầu.

Đôn hoàng quận trì đôn hoàng [ nay Cam Túc đôn hoàng thành Hà Tây ].

Lĩnh 6 huyện: Đôn hoàng, long lặc, hiệu cốc, quảng tới, minh an, uyên tuyền.

Tịnh châu thứ sử bộ

Thượng Đảng bộ trì trưởng tử [ làm Sơn Tây trưởng tử ].

Lĩnh 13 huyện: Trưởng tử, huyễn thị, cao đều, dương a, tế [ đi kì gia kì ] thị, lộ huyện, hồ quan, truân lưu, cốc viễn, đồng đê, tương viên, niết huyện, dính huyện.

Thái Nguyên quận trì Tấn Dương [ nay Sơn Tây đại nguyên tấn nguyên ].

Lĩnh 15 huyện: Tấn Dương, du thứ, dương ấp, kì huyện, trung đều, ổ huyện, giới hưu, bình đào, đại lăng, tư thị, lang mạnh, vu huyện, dương khúc, lo cứu [ đi ký gia hổ ], kinh lăng.

Tây Hà quận trì ly thạch [ nay Sơn Tây ly thạch ].

Lĩnh 9 huyện: Ly thạch, trung dương, bình chu, lận huyện, viên dương, viên âm, bình định, quảng diễn, mĩ tắc.

Thượng quận trì phu thi [ nay Thiểm Tây du lâm ngư hà trấn ].

Lĩnh 9 huyện: Phu thi, quy tư, bạch thổ, trinh lâm, xa duyên, cao nô, định dương, điêu âm, nước sơn viên.

Nhạn Môn quận trì âm quán [ nay Sơn Tây sóc châu biện tử

phụ cận ].

Lĩnh 14 huyện: Âm quán, mã ấp, liệt huyện, lâu phiền, quảng võ, nguyên bình, lỗ thành, uông đào, phồn chỉ, kịch dương, quách huyện, võ châu, bình thành, cường dương.

Vân trung quận trì vân trung [ nay nội Mông Cổ Thác Khắc nhờ huyện cổ thành hương ].

Lĩnh 11 huyện: Vân trung, sa lăng, sa nam, ki lăng, thành nhạc, võ tiến, nguyên dương, định tương, hàm dương, võ tuyền, bắc dư.

Định tương quận trì thiện vô [ nay Sơn Tây hữu ngọc ].

Lĩnh 5 huyện: Thiện vô, trung lăng, võ thành, lạc huyện, đồng quá.

Ngũ nguyên quận trì cửu nguyên [ nay nội nhà bạt đầu cáp nghiệp phụ cận ].

Lĩnh 9 huyện: Cửu nguyên, hà âm, lâm ốc, ngũ nguyên, nghi lương, thành nghi, tây an dương, võ đều, mạn bách.

Sóc Phương quận trì lâm nhung [ nay nội Mông Cổ đặng khẩu huyện bá lăng ].

Lĩnh 6 huyện: Lâm nhung, ốc dã, quảng mục, Sóc Phương, đại thành, tam phong.

U châu thứ sử bộ

Đại quận trì cao liễu [ nay Sơn Tây dương cao ].

Lĩnh 11 huyện: Cao liễu, mã thành, đạo nhân, Bắc Bình ấp, ban thị, tiển [ đi ngươi gia kì ] thị, bình thư, đông an dương, tang làm, đương thành, đại huyện.

Thượng cốc quận trì tự dương [ nay Hà Bắc hoài đến tiểu nam tân bảo phụ cận ].

Lĩnh 8 huyện, tự dương, cư túc, trác lộc, phan huyện, đối [ đi thạch gia câu ] mậu, hạ lạc, Nghiêm Trữ, ninh huyện.

Trác quận trì trác huyện [ nay Hà Bắc trác châu ].

Lĩnh 7 huyện: Trác huyện, lương hương, phương thành, phạm dương, tù quốc, cố an, bắc tân thành.

Quảng dương quận trì kế huyện [ nay Bắc Kinh tây nam thành nội ].

Lĩnh 5 huyện: Kế huyện, quảng dương, xương bình, quân đều, an thứ.

Ngư Dương quận trì Ngư Dương [ nay Bắc Kinh mật vân mười dặm bảo phụ cận ].

Lĩnh 9 huyện; Ngư Dương, hung ác bình, cứu [ đi ký gia hổ ] hề, yên vui, hồ nô, bình cốc, lộ huyện, ung nô, tuyền châu.

Hữu Bắc Bình quận trì thổ ngân [ nay Hà Bắc đường sơn bắc vùng mới giải phóng ].

Lĩnh 4 huyện: Thổ ngân, từ vô, vô chung, tuấn mĩ.

Liêu Tây quận trì dương nhạc [ liêu ninh bắc phiếu nam ba đồ doanh tử phụ cận ].

Lĩnh 5 huyện: Dương nhạc, lâm du, phì như, hải dương, làm chi.

Liêu Đông quận trì tương bình [ liêu ninh liêu dương ].

Lĩnh 11 huyện: Tương bình, liêu đội, tân xương, an thị, vấn huyện, bình quách, đạp thị, tây an bình, phiên hãn, vọng bình, vô lo.

Khác lĩnh Liêu Đông phụ quốc, trì xương lê [ nay liêu ninh nghĩa huyện ].

Lĩnh 5 huyện: Xương lê, phù lê, tân đồ, đồ hà, phòng huyện, hiểm độc.

Huyền thố quận trì Cao Ly [ nay liêu ninh trầm dương đông lăng phụ cận ].

Lĩnh 5 huyện: Cao Ly, hậu thành, tây cái mã, liêu dương, cao hiển.

Nhạc lãng quận trì Triều Tiên [ sáng nay tiên Bình Nhưỡng nam nội thành ].

Lĩnh 18 huyện: Triều Tiên, chiếm thiền, toại thành, làm cho [ đi càng thêm nhiễm ] hàm, hồn di, tăng , li vọng, lũ phương, nhạc đều, bá [ đi phách gia bối ] thủy, truân hữu, hàm tư, đề hề, mang phương, hải minh, chiêu minh, liệt khẩu, trưởng sầm.

Giao châu thứ sử bộ

Nam Hải quận trì phiên ngu [ nay Quảng Đông Nghiễm châu ].

Lĩnh 7 huyện: Phiên ngu, tăng thành, bác la, long xuyên, yết dương, tứ hội, trung túc.

Thương ngô quận trì quảng tín [ nay Quảng Tây ngô châu ].

Lĩnh 9 huyện: Quảng tín, đoan khê, cao yếu, mãnh lăng, phong dương, lâm hạ, phùng thừa, tạ mộc, lệ phổ.

Hợp phổ quận trì hợp phổ [ nay Quảng Tây phổ bắc thạch

tây nam ].

Lĩnh 4 huyện: Hợp phổ, cao lạnh, lâm duẫn, từ văn.

Úc lâm quận trì bố sơn [ nay Quảng Tây quế bình thành tây nam ].

Lĩnh 10 huyện: Bố sơn, trung lưu, Quế Lâm, đàm trung, định chu, lĩnh phương, an quảng, tăng thực, lâm trần, quảng úc.

Giao chỉ quận trì long biên [ nay việt nam Hà Nội Bắc Trữ ].

Lĩnh 12 huyện: Long biên, bắc mang, Khúc Dương, kê từ, yên ổn, chu kích [ đi sớm gia ô ], vọng hải, tây vu, phong khê, lâu [ đi nữ gia ni ] linh, cẩu thả lậu, doanh đội [ đi nhân gia lâu ].

Cửu chân quận trì tư phổ [ nay việt nam Thanh Hoá tỉnh Thanh Hoá thành tây bắc ]

Lĩnh 5 huyện: Tư phổ, cư phong, vô công, vô biên, hàm hoan.

Nhật nam quận trì tây cuốn [ nay việt nam sửa chữa tỉnh Nghiễm Trì thị ].

Lĩnh 4 huyện: Tây cuốn, lô dung, chu ngô, bỉ cảnh.

Đông Hán khi xưng nay đảo Hải Nam vì chu nhai châu.

Tây Vực Đô hộ phủ

Đông Hán khi Tây Vực Đô hộ phủ vì dân tộc thiểu số ở lại khu. Đô hộ phủ vì quận cấp đơn vị, hạ lĩnh huyện cùng tương đương huyện cấp dân tộc thiểu số ở lại khu, tại Đông Hán hòa đế vĩnh nguyên lục niên tới an đế vĩnh sơ nguyên niên [ công nguyên 94~107 niên ] khi khu hành chính hoa như sau:

Tây Vực Đô hộ phủ, trì nó kiền thành [ nay tân cương sa nhã huyện cảnh nội ].

Lĩnh huyện hòa huyện cấp đơn vị hữu:

Duyên thành, úy lê, nguy tu, giao hà thành, vụ đồ cốc, hoan nê, thả mạt, tinh tuyệt, ninh di, tây thành, tử hợp, toa xe, sơ lặc, ôn túc, xích cốc thành, quý sơn thành, mậu bộ hầu thành, mậu mình giáo úy thành, nghi lúa Đô Úy thành chờ.

Đông Hán khi, tại Trung Quốc bắc bộ, tức nội Mông Cổ bắc bộ, Mông Cổ quốc cùng Nga bối gia ngươi hồ này nọ, từ Tiên Ti, đại mạc, Hung Nô, kiên côn, hô yết chờ dân tộc thiểu số ở lại.

Tại nay liêu ninh đông bắc bộ, Cát Lâm, Hắc Long Giang hòa Nga địa khu từ phu dư, ấp lâu, ốc tự, Cao Ly chờ dân tộc thiểu số ở lại.

Nay thanh hải, Tứ Xuyên tây bộ hòa Tây Tạng quảng đại địa khu từ đường mao, phát khương, thiêu khương, bạch mã khương, mâu [ đi trùng gia ni ] ngưu khương, đại tang chờ khương dân tộc ở lại. Mã khương, lộc ngưu khương, đại dương chờ khương dân tộc ở lại.

Nay tân cương tây bắc bộ từ ô tôn tộc ở lại.

Thời gian tương đối sớm điểm, bất quá đại đa số khu hành chính vực phân chia cũng chưa rất lớn biến hóa.

Tư liệu La Mã nhân “Trung Quốc ấn tượng”

Công nguyên 2 thế kỷ hậu, tiếp tục hữu La Mã nhân theo đường biển tiến đến Trung Quốc. Trung Quốc văn hiến ghi lại,226 niên, La Mã thương nhân tần luận đi vào Đông Ngô [222-280, Trung Quốc tam quốc thời kì Tôn Quyền thành lập chính quyền ] giao chỉ [ tức giao châu, nay việt nam bắc bộ ], Thái Thú ngô mạc phái người đưa hắn đưa đến thủ đô kiến khang [ nay Giang Tô Nam Kinh ] yết kiến Tôn Quyền đại đế. Tôn Quyền hỏi La Mã đế quốc phong thổ, tần luận còn thật sự đáp lại.

Công nguyên 281 niên, La Mã phái sứ thần đi sứ Tây Tấn vương triều [265-316], kinh đường biển đi vào Nghiễm châu. Anh quốc học giả dụ ngươi [e] cho rằng lần này tới Trung Quốc sứ đoàn nhất định là tạp lỗ tư hoàng đế [Carus,282-283 niên tại vị ] phái.26 bất quá, Italia học giả bạch lương tá [GiulianoBertuccioli], mã tây ni [FedericoMasini] có khuynh hướng nhận định La Mã sứ đoàn vì “Không chính thức” Tính chất. Bởi vì tại đây đoạn thời gian lý, La Mã lần lượt đương hoàng đế hữu vài vị: Phổ La bố tư [Probus], tạp lỗ tư, tạp lợi nô tư hòa nỗ mĩ lợi a nỗ tư [CarinusandNumerianus], bọn họ đều bận về việc.. bảo trụ ngôi vị hoàng đế, tại vị không lâu sau, không quá khả năng phái ra đặc phái viên viễn độ trùng dương đi trước Trung Quốc. Hữu một phần La Mã tư liệu lịch sử ghi lại, tại Áo Cổ Tư đều thời đại, một cái đến từ “Tơ lụa quốc gia”[ Trung Quốc ] sứ đoàn trải qua bốn năm lặn lội đường xa, cuối cùng tới La Mã, dâng lên trân châu, bảo thạch hòa voi.27

La Mã nhân đối địa cầu nhận thức càng ngày càng chuẩn xác, đối xa xôi Trung Quốc tri thức cũng dần dần tăng nhiều, nhân Trung Quốc thừa thải tơ lụa, La Mã nhân đem Trung Quốc xưng là “Tơ lụa quốc gia”.

Phổ lâm ni [ tự nhiên sử ] vạch: Người Trung Quốc “Cao hơn trung đẳng nhân”, phản ánh xuất người Trung Quốc tại La Mã lòng người trong mắt “Cao lớn” Hình tượng; Bất quá hắn còn nói, người Trung Quốc “Hồng tóc, lam ánh mắt”, hiển nhiên đem người Trung Quốc nhân chủng đặc thù cùng với hắn dân tộc lẫn lộn . Phổ lâm ni hòa hắn đồng thời đại một ít tác gia đối người Trung Quốc rất có hảo cảm, nói rất nhiều lời hay, miêu tả người Trung Quốc bản tính:

1. Tính tình ôn hòa, ái bình tĩnh cùng thủ trật tự. Phổ lâm ni nói:“Người Trung Quốc ôn hòa.” Tác lợi nặc [Solino] bổ sung nói:“Bọn họ trong lúc đó cực vì ôn hòa.” A mễ á nặc tư [Ammiano] cũng nói: Bọn họ quá cực độ bình tĩnh cuộc sống.”

2. Làm người công đạo, thành thực, có tốt đẹp quy phạm đạo đức, nhưng tôn giáo ý thức bạc nhược. Mai lạp [Pomponio] cho rằng, người Trung Quốc “Tràn ngập chính nghĩa”, Trung Quốc thừa hành pháp luật cấm mọi người giết người, thông dâm,**, trộm cướp hòa kính bái thần tượng, bởi vậy tại diện tích lãnh thổ mở mang quốc gia lý nhìn không tới miếu thờ, thần tượng, kỹ nữ, thông dâm giả; Không hữu đạo tặc bị thẩm phán, cũng không có người nào đó bị mưu sát ghi lại.

3. Trường thọ. Đây là Hy Lạp nhân hòa La Mã nhân sáng tác thường xuyên đàm luận trong lời nói đề. Phổ lâm ni nói người Trung Quốc sống đến 140 tuổi, có người nói là 200 tuổi, còn có người nói là 300 tuổi. Về phần người Trung Quốc trường thọ nguyên nhân, có chút nhân cho là do đạo gia tại khởi cư vệ sinh, tính cuộc sống, ẩm thực, tập thể hình, hô hấp, luyện đan thuật chờ phương diện tu vi, kéo dài tuổi thọ. Hữu nhân cho là do không khí, địa lợi hòa ẩm thực.28

Bởi vậy có thể thấy được, La Mã nhân về Trung Quốc tri thức chủ yếu tự truyện văn, bọn họ “Trung Quốc ấn tượng” Là mơ hồ , có chút thậm chí là hoang đường , nhưng là đáng quý . Loại này “Trung Quốc ấn tượng” Cho thấy, đông tây phương tiếp xúc hòa trao đổi đã muốn cáo biệt “Thần thoại” Thời đại. Theo trên biển tơ lụa đường phát triển, đông tây phương trao đổi chủ thể hòa con đường phát sinh biến hóa, nhưng trao đổi chưa bao giờ gián đoạn, lẫn nhau nhận thức đã ở dần dần xâm nhập.

Trong lúc vô ý theo trên mạng lục soát này thiên văn chương. Nhìn đến “Người Trung Quốc hồng tóc, lam ánh mắt” Này đoạn hoàn toàn phun tào O[∩_∩]O ha ha ~ lão phổ lâm ni nhớ không lầm yêu, lúc ấy La Mã sứ giả yết kiến là bích nhãn tử nhiêm Tôn Quyền.o[

]o quyền tử nãi giọt phi chủ lưu tạo hình hoàn toàn nhéo người Trung Quốc dân giọt hình tượng cũng.

Tư liệu tước vị biệt xưng

Cấp các vị tưởng viết mất quyền lực giọt bằng hữu phát điểm tư liệu ~~~~

--------------

Danh hiệu [ quan hàm biệt xưng ]

Hoàng đế [ thời cổ đối trước đây đế vương tôn xưng ]

Đại đế [ chống lại cổ thánh đức đế vương kính xưng ]

Vạn tuế gia [ đối hoàng đế kính xưng ]

Vân nhật [ đối phong kiến đế vương tiếng khen ]

Xa giá [ đế vương áp chế xe tiếng khen ]

Cự công [ hoàng đế biệt xưng ]

Nhân hoàng [ đối đương triều hoàng đế tôn xưng ]

Ngọc lưu [ cổ đại đế vương mũ miện biệt xưng ]

Thánh Thượng [ quân chủ thời đại đối tại vị hoàng đế tôn xưng ]

Thánh nghi [ đế vương uy nghi biệt xưng ]

Thánh chủ [ đối đương đại hoàng đế tôn xưng ]

Thánh minh [ hoàng đế tên khác ]]

Thánh thần [ đối hoàng đế tôn xưng ]

Thánh triều [ phong kiến thời đại tôn xưng triều đại ]

Lão gia tử [ thanh đại đối Hoàng Thượng biệt xưng ]

Hưu tộ [ đối đế vị tiếng khen ]

Trạch gia [ đường đại trong cung đối hoàng đế kính xưng ]

Huyện quan [ thời cổ thiên tử biệt xưng ]

Minh thượng [ do Thánh Thượng. Đối quân vương tôn xưng ]

Thùy lưu [ đế vương tên khác ]

Quân từ [ đối đế vương hoặc trưởng quan kính xưng ]

Thần thánh [ đối đế vương tôn xưng ]

Bệ hạ [ đối đế vương tôn xưng ]

Chân long thiên tử [ hoàng đế tên khác ]

Thần [ Bắc Cực tinh chỗ xưng thần, mượn chỉ đế vương ]

Thần tạo [ đối hoàng đế kính xưng ]

Ỷ lưu [ hoàng đế tên khác ]

Hoàng trung quân [ thiên tử biệt xưng ]

Hoàng ốc [ đế vương tên khác ]

Chuỗi ngọc trên mũ miện [ hoàng đế tên khác ]

Uyên thánh [ đối hoàng đế tôn xưng ]

Lưu khoáng [ đế vương tên khác ]

Lưu ỷ [ hoàng đế tên khác ]

Gia hoàng [ đối quân vương tiếng khen ]

Loan giá [ hoàng đế xa giá, dùng làm đế vương tên khác ]

Thúy cái [ đế vương tên khác ]

Thái thượng hoàng [ hoàng đế phụ thân tôn xưng ]

Thánh phụ [ đối thái thượng hoàng tôn xưng ]

Lão Phật gia [ thanh đại đối thái thượng hoàng hoặc hoàng thái hậu kính xưng ]

Thánh mẫu [ quân chủ thời đại đối hoàng thái hậu tôn xưng ]

Từ hồ [ đối Thái Hậu kính xưng ]

Hoàng thái phi [ hoàng đế đối nguyên phi hoàng hậu mẹ đẻ tôn xưng ]

Trung cung [ hoàng hậu ở lại chỗ, diệc dùng vì hoàng hậu tên khác ]

Chính cung [ hoàng hậu tục xưng ]

Tiêu phòng [ diệc chỉ “Tiêu thất”. Hậu phi ở lại cung thất, diệc tên khác hậu phi ]

Nguyên lương [ thái tử tên khác ]

Triết trữ [ đối thái tử kính xưng ]

Trữ hậu [ thái tử biệt danh ]

Trữ hai [ thái tử biệt xưng ]

Trữ dận [ thái tử biệt xưng ]

Quý chủ [ công chúa tôn xưng ]

Thối mã [ Phò mã Đô Úy biệt xưng ]

Đại vương [ cổ đại đối quân chủ hoặc chư hầu vương kính xưng ]

Vương gia [ trước đây đối phong vương tước giả tôn xưng ]

Làm vương [ đối hữu vương tước giả tiếng khen ]

Linh hoàng [ đối quân vương tiếng khen ]

Quân vương [ chư vương tôn xưng ]

Lâm chưng [ diệc chỉ “Lâm chưng”. Quân chủ biệt xưng ]

Trủng quân [ đại quân, đối các nước quân chủ kính xưng ]

Quỳnh chi ban [ nguyên sơ kết thân vương biệt xưng ]

Điện hạ [ hán, ngụy về sau đối chư hầu vương tôn xưng ]

Phiên nhạc [ cổ đại đối chư hầu vương tên khác ]

Lư vương [ đối phàm kém vương công miệt xưng ]

Tây quan [ tống đại thân vương con rể biệt xưng ]

Lãnh khanh [ tống khi đối tông chính hước xưng ]

Tông khanh sư [ tông sư tôn xưng ]

Đại nhân [ đối cung đình gần thị tôn xưng ]

Tự thần [ hoạn quan biệt xưng ]

Lão công [ hoạn quan tục xưng ]

Lão công công [ minh, thanh khi đối thái giám xưng hô ]

Yểm dựng thẳng [ hoạn quan bỉ xưng ]

Kim cương lão nhân đương [ minh võ tông khi hoạn quan biệt xưng ]

Đang dựng thẳng [ đối hoạn quan miệt xưng ]

Hoạn dựng thẳng [ đối hoạn quan tiện xưng ]

Hoạn nghiệt [ đối hoạn quan miệt xưng ]

Hoạn nhi [ đối thái giám miệt xưng ]

Hoạn dựng thẳng [ đối hoạn quan miệt xưng ]

Điêu tự [ thái giám biệt xưng ]

Đại thúc [ đối hào môn phó dịch hòa hoạn hoạn kính xưng ]

Tam hòe cửu cức [ tam công cửu khanh tên khác ]

Cửu cức [ cửu khanh tên khác ]

Sư thần [ đối cư sư bảo vị hoặc gia hữu Thái Sư quan hào chấp chính đại thần tôn xưng ]

Quốc sư [ Thái Sư biệt xưng ]

Duy viên [ Thái Sư tên khác ]

Phó quân [ đối Thái Phó tôn xưng ]

Á phó [ thiếu phó biệt xưng ]

Trung thai [ Tư Đồ hoặc Tư Không tên khác ]

Ngũ giáo [ đường nhân đối Tư Đồ biệt xưng ]

Á công [ Tư Đồ biệt xưng ]

Nông phụ [ cổ tên chính thức, Tư Đồ tôn xưng ]

Chưởng võ [ đường đại Thái úy biệt xưng ]

Lục công [ lục Thượng Thư sự kính xưng ]

Làm quân [ ngụy, tấn gian đối Thượng Thư Lệnh kính xưng ]

Hữu hạt [ hữu thừa biệt danh ]

Đều công [ đường • Thượng Thư tỉnh tả hữu tư biệt xưng ]

Vọng lang [ lang trung cổ xưng ]

Đại điêu [ đường đại thị trung biệt xưng ]

Tiểu điêu [ đường tán kỵ thường thị biệt xưng ]

Cửa nhỏ hạ [ nam triều • tề • cấp sự hoàng môn Thị Lang biệt xưng ]

Tịch lang [ diệc xưng “Tịch bái”. Hoàng môn Thị Lang biệt xưng ]

Thanh tỏa lang [ hoàng môn Thị Lang biệt xưng ]

Tả ly [ đường • môn hạ tỉnh ra cư lang biệt xưng ]

Phiên quan [ tùy đường khi điển nghi lễ xướng tán quan viên biệt xưng ]

Làm công [ đối Trung Thư Lệnh tôn xưng ]

Tử vi làm [ đường đại Trung Thư Lệnh biệt xưng ]

Tiểu Phượng [ đường, tống khi trung thư xá nhân biệt xưng ]

Tử vi xá nhân [ đường, tống trung thư xá nhân biệt xưng ]

Tử vi lang [ đường đại trung thư xá nhân biệt xưng ]

Hữu sử [ đường về sau vì trung thư tỉnh ra cư xá nhân biệt xưng ]

Thượng tướng [ đối Tể tướng tôn xưng ]

Thượng phụ [ Tể tướng tôn xưng ]

Phòng chính [ Tể tướng biệt xưng ]

Sư tướng [ Tể tướng tôn xưng ]

Trọng phụ [ dùng cho đế vương đối Tể tướng trọng thần tôn xưng ]

Tướng công [ trước đây đối Tể tướng kính xưng ]

Tướng phụ [ hoàng đế đối tiếp tục nhậm chức trước triều Tể tướng kính xưng ]

Tướng gia [ Tể tướng tục xưng ]

Tướng quân [ trước đây đối Tể tướng tôn xưng ]

Tướng quốc [ Tể tướng tôn xưng ]

Tổng quỹ [ giết phụ chi chức tên khác ]

Trủng tư [ Thừa tướng biệt xưng ]

Quỹ môn tướng [ Tể tướng biệt xưng ]

Các bộ [ minh, thanh khi nội các đại thần biệt xưng ]

Thủ phụ [ minh đại đối thủ tịch đại học sĩ tập xưng ]

Các thần [ minh, thanh đại học sĩ biệt xưng ]

Lão long [ Long Đồ các học sĩ biệt xưng ]

Giả long [ thẳng Long Đồ các biệt xưng ]

Tiểu long [ tên chính thức. Long Đồ các đãi chế biệt xưng ]

Bế đại phu [ tên chính thức, hạ đại phu biệt xưng ]

Thai các [ Thượng Thư biệt xưng ]

Khuê thai [ tống đại đối Thượng Thư kính xưng ]

Nhị khanh [ Thị Lang biệt xưng ]

Y ô [ đường đại chư bộ lang quan biệt xưng ]

Lang quan tinh [ diệc xưng “Lang tinh”. Lang quan tiếng khen ]

Ai ô lang [ đường chư bộ lang quan biệt xưng ]

Tiên lang [ đường nhân đối Thượng Thư tỉnh các bộ lang quan biệt xưng ]

Đại thiên [ đường đại Lại bộ Thượng Thư biệt xưng ]

Tiểu thiên [ đường đại Lại Bộ Thị Lang biệt xưng ]

Tiểu tuyển [ Lại bộ lang biệt danh ]

Tỉnh mắt [ đường đại Lại bộ lang biệt xưng ]

Thiếu huân [ đường • Lại bộ viên ngoại lang biệt xưng ]

Chấn hành [ đường đại khảo công, độ chi biệt xưng ]

Đại Tư Nông [ diệc xưng “Tư nông”. Thanh đại hộ bộ Thượng Thư biệt xưng ]

Đại Tư Đồ [ diệc xưng “Tư Đồ”. Minh, thanh đại hộ bộ Thượng Thư biệt xưng ]

Thái Tể [ minh, thanh khi hộ bộ Thượng Thư biệt xưng.]

Tiểu bản [ hộ bộ viên ngoại lang biệt xưng ]

Lần tràng hạt tào [ hộ bộ kinh triệu hộ tào biệt xưng ]

Thị sư [ cổ tên chính thức.“Tư thị” biệt xưng ]

Đại nghi [ đường đại Lễ bộ Thượng Thư biệt xưng ]

Gia nghị đại phu [ Lễ bộ Thượng Thư biệt xưng ]

Thượng tông [ chu chế xuân quan dài đại tông bá biệt xưng ]

Nghi tào [ đường về sau Lễ bộ lang quan biệt xưng ]

Danh biểu lang quan [ diệc xưng “Danh lang”. Tống đại Lễ bộ lang trung biệt xưng ]

Tiểu nghi [ đường đại Lễ bộ chủ sự biệt xưng ]

Đại Tư Mã [ diệc xưng “Tư Mã”. Minh, thanh bộ binh Thượng Thư tên khác ]

Đại nhung [ đường đại bộ binh Thượng Thư tên khác ]

Bản binh [ minh đại bộ binh Thượng Thư biệt xưng ]

Tư võ [ Tư Mã biệt xưng ]

Đô Đầu [ quân chức danh. Đều muốn biệt xưng ]

Điền tào [ đường • đồn điền quan biệt danh ]

Ngoại giam [ tống đại đều thủy giam biệt xưng ]

Mùa thu hoạch chính [ đường đại hình bộ Thượng Thư biệt xưng ]

Tiểu thu [ đường đại hình bộ lang biệt danh ]

Bỉ bàn [ đường đại đối lập bộ quan biệt xưng ]

Nguyên xu [ tống đại Xu Mật Sứ biệt xưng ]

Xu Mật Thái úy [ Xu Mật Sứ biệt xưng ]

Trụ hậu sử [ Ngự Sử biệt xưng ]

Nam tháp [ đường đại Ngự Sử biệt xưng ]

Trì phủ ông [ Ngự Sử biệt danh ]

Hiến tư [ Ngụy Tấn tới nay Ngự Sử biệt xưng ]

Viện trưởng [ đường đại Ngự Sử, nhặt của rơi biệt xưng ]

Á thai [ đường đại Ngự Sử đại phu biệt xưng ]

Á tướng [ Ngự Sử đại phu biệt xưng ]

Phó tướng [ Ngự Sử đại phu biệt xưng ]

Đều đều lão gia [ minh, thanh khi đối Đô Sát viện trưởng tôn xưng ]

Đều hiến [ minh Đô Sát viện, Đô Ngự Sử biệt xưng ]

Chưởng hiến [ Đô Ngự Sử biệt xưng ]

Tổng hiến [ minh, thanh Đô Sát viện tả Đô Ngự Sử biệt xưng ]

Phó hiến [ thanh đại Đô Sát viện phó trưởng quan tả phó Đô Ngự Sử biệt xưng ]

Trung tư [ Ngự Sử trung thừa tục xưng ]

Trung hiến [ đường đại trung thừa biệt xưng ]

Thiêm hiến [ thiêm Đô Ngự Sử tiếng khen ]

Tạp đoan [ đường • thị Ngự Sử biệt xưng ]

Kháp độc [ đường đại đối thị Ngự Sử tục xưng ]

Đoan công [ đường đại đối thị Ngự Sử biệt xưng ]

Phó đoan [ trong điện thị Ngự Sử biệt xưng ]

Mở miệng tiêu [ Đường triều giám sát Ngự Sử tục xưng ]

Lục sát [ giám sát Ngự Sử tên khác ]

Sát quan [ giám sát Ngự Sử biệt xưng ]

Nhìn kỹ [ giám sát Ngự Sử biệt xưng ]

Ấn viện [ minh đại tuần án Ngự Sử biệt xưng ]

Lão đạo trưởng [ minh, thanh khi đại liêu đối các đạo Ngự Sử tôn xưng ]

Cung đoan [ thái tử chiêm sự biệt xưng ]

Trữ đoan [ thái tử chiêm sự biệt xưng ]

Hàn trưởng [ đối hàn lâm tiền bối kính xưng ]

Đại phượng [ đường tống khi hàn lâm học sĩ biệt xưng ]

Nội chế [ hàn lâm học sĩ biệt xưng ]

Nội tướng [ hàn lâm học sĩ biệt xưng ]

Ngọc đường tiên [ hàn lâm học sĩ nhã hào ]

Quang học [ hàn lâm học sĩ biệt xưng ]

Kim loan [ hàn lâm học sĩ tiếng khen ]

Ba chữ [ tri chế cáo biệt xưng ]

Thứ đối [ đãi chế quan biệt xưng ]

Thứ thường [ thanh khi thứ cát sĩ tên khác ]

Đại pha [ đường đại gián nghị đại phu biệt xưng ]

Đại gián [ đường, tống khi gián nghị đại phu biệt xưng ]

Trung gián [ đường đại gián quan “Bổ khuyết” biệt xưng ]

Bổ cổn [ đường đại đối bổ khuyết biệt xưng ]

Tiểu gián [ đường đại gián quan nhặt của rơi biệt xưng.]

Di công [ đường đại nhặt của rơi quan biệt xưng ]

Đại bồng [ tên chính thức. Bí thư giam biệt xưng ]

Thiếu bồng [ bí thư thiếu giam biệt xưng ]

Cây cửu lý hương lại [ diệc tỉnh xưng “Vân lại”. Giáo thư lang biệt xưng ]

Đại sáng tác [ sáng tác lang biệt xưng. Cũng xưng đại sáng tác lang ]

Sử tá [ sáng tác tá lang biệt xưng ]

Nhạc khanh [ đường cùng đường về sau Thái Thường khanh biệt xưng ]

Thiếu thường [ đường Thái Thường tự thiếu khanh biệt xưng ]

Á khanh [ đường về sau Thái Thường tự chờ công sở thiếu khanh biệt xưng ]

Thanh tuyển [ Thái Thường quan biệt xưng ]

Tư đỉnh [ tên chính thức. Quang Lộc huân biệt xưng ]

Tổng lĩnh [ hán đại Quang Lộc huân biệt xưng ]

Lộc thần [ Quang Lộc huân biệt xưng ]

Ăn no khanh [ Quang Lộc khanh biệt xưng ]

Thiếu ngự [ Thái Bộc khanh biệt xưng ]

Đại cức [ tên chính thức. Đại Lý biệt xưng ]

Khách khanh [ đường đại hồng lư khanh biệt xưng ]

Ngủ khanh [ cổ đại tên chính thức. Hồng lư khanh biệt xưng ]

Tiểu tân [ hồng lư tự thiếu khanh biệt xưng ]

Tự khách [ hồng lư quan biệt xưng ]

Đi khanh [ đường, tống khi đối tư nông diễn xưng ]

Tư thành [ tế rượu biệt xưng ]

Nguyên sĩ [ minh sơ cấp sự trung biệt xưng ]

Cấp gián [ thanh đại lục khoa cấp sự trung biệt xưng ]

Đều quân [ điện tiền tư đều ngu hầu biệt xưng ]

Nghi chính [ nghi loan tư đại sứ biệt xưng ]

Chế quân [ minh thanh khi Tổng đốc biệt xưng ]

Tổng khổn [ thanh đại Tổng đốc biệt xưng ]

Khổn công [ đối đốc phủ kính xưng ]

Phủ thai [ minh thanh tuần phủ biệt xưng ]

Phủ quân [ minh thanh khi tuần phủ biệt xưng ]

Phủ hiến [ chúc đối tuần phủ tôn xưng ]

Hội phủ [ Tiết Độ Sứ biệt xưng ]

Tông sư [ minh thanh khi đối đề đốc học đạo biệt xưng ]

Học thai [ thanh đại học chính tục xưng ]

Đốc học sứ giả [ học chính biệt xưng ]

Phiên thai [ minh thanh khi Bố Chính Sứ tục xưng ]

Phiên tư [ minh thanh khi Bố Chính Sứ biệt xưng ]

Ô thai sứ quân [ án sát biệt xưng ]

Nghiệt thai [ minh thanh khi án sát biệt xưng ]

Nghiệt hiến [ trước đây đối án sát kính xưng ]

Liêm phóng [ thanh đại đối án sát tiếng khen ]

Nghiệt tư [ nguyên đại túc chính liêm phóng sứ tư, minh thanh đề hình án sát tư biệt xưng ]

Liêm hiến [ liêm phóng sứ tục xưng ]

Đại tham [ tham chính biệt xưng ]

Tào thai [ thanh đại thuỷ vận Tổng đốc biệt xưng ]

Hà soái [ hà đạo Tổng đốc biệt xưng ]

Hà thai [ thanh đại hà đạo Tổng đốc tục xưng ]

Thúc tuyết lượng châu [ trước đây đối diêm chính tiếng khen ]

Ta sứ [ thanh đại diêm vận sứ biệt xưng ]

Liêm trấn [ quan sát sứ biệt xưng ]

Chế soái [ chế trí sứ biệt xưng ]

Chế lĩnh [ chế trí sứ biệt xưng ]

Soái sứ [ tống đại trấn an sứ biệt xưng ]

Cư thủ [ tên chính thức. Lưu thủ biệt xưng ]

Đại tào [ tống đại đổi vận sứ tục xưng ]

Quan sát [ thanh đại đối đạo viên tôn xưng ]

Đạo hiến [ đối đạo đài tôn xưng ]

Đạo tôn [ đối đạo nhất cấp hành chính trưởng quan tôn xưng ]

Hữu phụ [ hữu nội sứ biệt xưng ]

Minh phủ [ hán, ngụy tới nay đối quận thủ, mục doãn tôn xưng ]

Phủ quân [ hán đại đối quận tướng, Thái Thú tôn xưng ]

Thái tôn [ minh thanh khi đối Tri Phủ tôn xưng ]

Phủ tôn [ minh, thanh khi đối Tri Phủ tôn xưng ]

Thái Thú [ tống về sau Tri Phủ, tri châu biệt xưng ]

Ông [ trước đây đối Tri Phủ, tri huyện chờ quan lại tôn xưng ]

Á doãn [ thiếu doãn biệt xưng ]

Nhị phủ [ minh, thanh hai đại phủ Đồng Tri tục xưng ]

Nhị doãn [ minh, thanh khi Huyện thừa hoặc phủ Đồng Tri biệt xưng ]

Tam phủ [ thông phán biệt xưng ]

Trướng làm [ thôi quan biệt xưng ]

Châu tôn [ đối nhất châu dài kính xưng ]

Ba đao [ thứ sử tên khác ]

Thủ hầu [ châu thứ sử biệt xưng ]

Phiên tư [ Nam Bắc triều khi châu thứ sử biệt xưng ]

Thượng cương [ Biệt Giá dị xưng ]

Đừng thừa [ Biệt Giá biệt xưng ]

Châu đều [ châu đại công chính biệt xưng ]

Tham khanh [ đối tham mưu, tòng quân biệt xưng ]

Củ tào [ diệc chỉ “Củ tào”. Châu quận chúc quan lục sự tòng quân biệt xưng ]

Ngũ mã [ Thái Thú tên khác ]

Linh hạ [ Thái Thú kính xưng ]

Đều lại [ hán chức tên chính thức. Đốc bưu biệt xưng ]

Tường lão [ cổ đại đối địa phương học quan kính xưng ]

Ngọc cục tiên [ ngọc cục quan đề cử diễn xưng ]

Thất phẩm hoàng đường [ phong kiến thời đại đối Huyện lệnh tiếng khen ]

Thất phẩm cầm đường [ phong kiến thời đại đối Huyện lệnh tiếng khen ]

Thái lão gia [ trước đây đối huyện quan tôn xưng ]

Tiên làm [ đối Huyện lệnh tiếng khen ]

Làm doãn [ huyện quan biệt danh ]

Làm quân [ đối Huyện lệnh tôn xưng ]

Trăm dặm quân [ diệc xưng “Trăm dặm giết”. Huyện lệnh biệt xưng ]

Ấp giết [ đối Huyện lệnh kính xưng ]

Huyện đại phu [ Huyện lệnh biệt xưng ]

Huyện thái gia [ trước đây đối Huyện lệnh tôn xưng ]

Huyện cha mẹ [ trước đây đối tri huyện tôn xưng ]

Huyện chính đường [ tri huyện tên khác ]

Huyện tôn [ trước đây đối huyện quan tôn xưng ]

Mậu giết [ trước đây đối huyện quan kính xưng ]

Minh đình [ hán thế hệ đối Huyện lệnh kính xưng ]

Quý huyện [ đối huyện quan tôn xưng ]

Giết công [ đối Huyện lệnh tôn xưng ]

Giết quân [ đối tri huyện kính xưng ]

Đường ông [ minh, thanh khi huyện lý nhân viên đối tri huyện tôn xưng ]

Đường tôn [ minh, thanh khi huyện lý chúc lại đối tri huyện tôn xưng ]

Lôi phong [ cổ đại Huyện lệnh tên khác ]

Nhị làm [ Huyện thừa biệt xưng ]

Tán công [ cổ đại Huyện thừa biệt xưng ]

Thiếu công [ huyện úy biệt xưng ]

Thiếu phủ [ huyện úy biệt xưng ]

Tiên úy [ đối huyện úy dự xưng ]

Mai úy [ đối huyện úy tiếng khen ]

Tư huấn [ minh, thanh khi huyện học dạy bảo khuyên răn biệt xưng ]

Hà thính [ hà bạc sở quan chức biệt xưng ]

Phụ nỗ [ cổ đại đình trưởng biệt xưng ]

Lão tổng [ thanh mạt đối tân kiến nhà nước cơ cấu tổng bạn biệt xưng ]

Tuyên giáo [ tống đại địch công lang biệt xưng ]

Đốc trấn [ tên chính thức. Đốc sư biệt xưng ]

Đề thai [ đề đốc tôn xưng ]

Tổng gia [ minh thanh khi đối Tổng binh tôn xưng ]

Tổng trấn [ Tổng binh biệt xưng ]

Trấn thai [ thanh đại Tổng binh biệt xưng ]

Trấn quân [ thanh đại Tổng binh tục xưng ]

Hiệp thai [ thanh đại phó tướng biệt xưng ]

Thiên binh [ võ quan “Thiên hộ” biệt xưng ]

Hà nuốt đại [ tên chính thức. Thành thủ úy biệt xưng ]

Tư liệu xa lạ phương xa -- hán triều nhân trong mắt La Mã

Ha ha, ngẫu nhóm đại hán là tốt lắm học giọt ~~~ đại hán đối La Mã giọt hiểu biết nhiều La Mã đối đại hán giọt hiểu biết yêu ~~~

--------------

Trương khiên lần đầu tiên đi sứ Tây Vực khi, từng ở nơi nào cung đình trông được đến quá ma thuật sư [ lúc ấy khiếu “Huyễn nhân”] biểu diễn. Chủ nhân hướng hắn giới thiệu nói, ma thuật sư đến từ tây bộ điều chi hòa lê

kiền

. Trương khiên hướng Hán Vũ Đế báo cáo này tình huống, vì thế võ đế phái sứ giả đi trước điều chi hòa lê

kiền

, nhưng tại Tư Mã thiên [ sử ký ] lý, cũng không công đạo sứ giả nhóm hay không tới nơi đó; Đi sứ đại khái không hữu thành công, bởi vì thẳng đến ban cố viết [ Hán Thư ] thời điểm, đối lê

kiền

tình huống đều không có đề cập.

Mà ra sứ ngủ yên sứ giả có thu hoạch. Ngủ yên quốc vương nghe nói Hán Vũ Đế đối điều chi chim to trứng hòa lê

kiền

huyễn nhân cảm thấy hứng thú, riêng đem cung đình lý đà điểu đản hòa vài vị lê

kiền

ma thuật sư làm lễ vật hiến cho Hán Vũ Đế. Ma thuật sư hộ tống sứ giả cùng nhau đi vào Trường An, cũng cấp Hán Vũ Đế đương trường biểu diễn nuốt đao phun lửa, thực qua trồng cây, đồ nhân tiệt mã xiếc, Hán Vũ Đế phi thường cao hứng, trọng thưởng ngủ yên sứ giả, gồm lê hiên ma thuật sư ở lại trong cung. Bởi vì Hán Vũ Đế ham, ma thuật rất nhanh tại Trung Quốc phong hành đứng lên, mà này vài vị ma thuật sư, cũng rốt cuộc có thể trở lại chính mình cố hương. Đây là Trung Quốc sách sử trung lần đầu tiên ghi lại đến Trung Quốc La Mã nhân.

Lúc ấy hán triều phồn vinh thịnh vượng, đúng là dân tộc Trung Hoa tối cụ khai thác tiến thủ tâm thời đại. Đông Hán thống trị Tây Vực hậu, ban siêu từng lập chí tây tiến, thăm dò thế giới bên cạnh -- tại mặt trời lặn chỗ thần bí quốc gia. Đông Hán hòa đế vĩnh nguyên chín năm [ công nguyên 97 niên ], phó sứ cam anh thụ phái từ Tây Vực xuất phát, hướng tây phương thám hiểm, việc này mục đích là đại tần -- La Mã đế quốc.

Cam anh một đường trèo non lội suối, đi ngang qua trung á, trải qua ngủ yên đi vào điều chi. Đi tới lục địa cuối, hiện ra ở trước mặt hắn là mênh mông bát ngát đại hải. Chúng ta có thể suy đoán, hắn gặp phải đại hải chính là Địa Trung Hải. Ngủ yên thủy thủ đối cam anh nói, này hải cực vì rộng lớn, nếu thuận gió, con thuyền 3 tháng tài năng tới bờ bên kia, gió hướng không đúng tắc yếu hai năm, cho nên độ hải giả muốn dẫn thượng 3 niên lương khô. Hành vu trên biển, đặc biệt dễ dàng làm cho người ta tơ vương cố hương, hàng không hành cũng rất nguy hiểm, thường thường gặp phải tử vong uy hiếp. Cam anh tại đường bộ thượng là một vị ương ngạnh dũng cảm thám hiểm gia, khi hắn đối mặt biển đại hải khi, tin tưởng lại dao động . Cuối cùng, hắn quay lại đầu ngựa, bước trên về nước lộ trình. Cam anh nghĩ sai thì hỏng hết, sứ đông tây phương trực tiếp trao đổi chậm lại 1000 nhiều năm, không thể không nói là - cái rất lớn tiếc nuối. Nếu cam anh vượt qua Địa Trung Hải, tới La Mã thành, thế giới văn minh sử còn có một loại khác khả năng.

Cam anh tây đi ra sứ, cuối cùng thất bại trong gang tấc, lịch sử học giả đem trách nhiệm về cứu vu ngủ yên nhân, nói bọn họ sợ hãi hán triều cùng La Mã sinh ra liên hệ, sứ ngủ yên đánh mất tơ lụa qua tay mậu dịch dày lợi nhuận, cho nên mượn thủy thủ trong lời nói đến hù dọa cam anh. Nhưng trên thực tế, lúc ấy hán triều nhân quả thật không tốt vu hàng hải, đối đại hải có mang một loại đặc thù sợ hãi. Vô luận như thế nào, cam anh là hán hướng tây phương lữ hành đi được xa nhất anh hùng. Hắn trở về hậu, hán triều đối tây phương thế giới hiểu biết lại bỉ trương khiên khi rảo bước tiến lên nhất đi nhanh.

Chúng ta không biết là cái gì nguyên nhân sứ ban siêu đối đại tần sinh ra như thế nồng hậu hứng thú. Chẳng lẽ trước đó, trừ bỏ vài vị lê hiên ma thuật sư ngoại, còn có La Mã nhân đến quá Trung Quốc sao? Một vị khiếu đức hiếu khiên Pháp quốc học giả trải qua đối [ Hán Thư ] nghiên cứu, đưa ra một cái rất ý tứ thiết tưởng.

Theo [ Hán Thư • trần canh truyền ] ghi lại, công nguyên tiền 36 niên Hung Nô chất chi Thiền Vu tây xâm khang cư. Ứng trung á các quốc gia xin giúp đỡ, hán triều phái tướng quân trần canh, cam duyên thọ dẫn một chi quân viễn chinh thảo phạt chất chi Thiền Vu. Trần canh tới Hung Nô Thiền Vu trú khi, đụng phải chưa bao giờ gặp qua việc lạ: Thiền Vu tu kiến chắc chắn tòa thành,100 hơn bộ binh ở cửa thành bố thành vẩy cá trận, chống đỡ hán quân. Này cùng người Hung Nô truyền thống kỵ binh dã chiến hoàn toàn bất đồng. Tòa thành cũng không thể ngăn cản am hiểu công thành bộ chiến hán quân, bọn họ tứ phía phóng hỏa, đỉnh tấm chắn công thành, cuối cùng giết chết Thiền Vu, bắt làm tù binh hắn 1000 hơn bộ hạ khải hoàn.

Vị này Pháp quốc học giả vạch, Hung Nô hòa trung á quốc gia tại quân sự kỹ thuật thượng tương đương lạc hậu, xây dựng chắc chắn tòa thành, bộ binh bãi thành vẩy cá phương trận, hoàn toàn là La Mã nhân tác chiến đặc thù. Giúp Hung Nô cùng hán triều quân đội tác chiến thực có thể là công nguyên tiền 53 niên Tạp Nhĩ lai chiến dịch trung La Mã tù binh, này 10000 nhiều người có ở lại ngủ yên, có bị bán trao tay hoặc lưu vong đến trung á, trong đó nhất bộ phân nhân có khả năng tại khang cư đảm đương Hung Nô lính đánh thuê.

Căn cứ cổ La Mã văn thư, La Mã đối Trung Quốc nhận thức hoàn ở “Tái Lí Tư” Thần thoại giai đoạn, đương nhiên không có phái người đi sứ Trung Quốc ghi lại. Nhưng [ Hậu Hán Thư ] lại minh xác ghi lại, Đông Hán hoàn đế duyên hi chín năm [ công nguyên 166 niên ], một vị La Mã sứ giả tới Lạc Dương,“Đại tần vương an đôn khiển sứ tự nhật nam kiếu ngoại hiến ngà voi, sừng tê giác, con đồi mồi, thủy nãi thông yên”. Chuyện này chân thật tính không thể hoài nghi,“An đôn” Chính là lúc ấy tại vị La Mã hoàng đế An Đông Ni • tí ô [AntoninLePieux]. Vị này La Mã sứ giả theo nhật nam [ nay việt nam ] nhập cảnh, đại khái không có đi tơ lụa đường, mà là đi thuyền theo Ấn Độ Dương mà đến. Văn thư thượng không hữu ghi lại hắn lữ hành lộ tuyến, thậm chí không ghi nhớ tên của hắn, chích ghi nhớ hắn tiến cống quà tặng. Vị này tự tin sứ giả khả năng cho rằng hắn hiến cho hán triều hoàng đế đều là vật báu vô giá, nhưng tại Lạc Dương cung đình lý, này đó bất quá là nhìn quen lắm rồi bình thường vật phẩm. Âu châu nhân lần đầu tiên Đông Phương ngoại giao tựa hồ không hữu khiến cho người Trung Quốc chú ý.

Sứ giả hoàn mang đến La Mã hoàng đế hy vọng cùng Trung Quốc thông thương nguyện vọng:“[ đại tần ] vương thường dục thông sứ vu hán, mà ngủ yên dục lấy hán tăng màu cùng chi giao thị, cố che ngại không thể tự đạt.” Vị này sứ giả hướng hán triều hoàng đế kể lại giới thiệu La Mã tình huống, hơn nữa cam anh đi sứ mang về tình báo, người Trung Quốc đối La Mã nhận thức rõ ràng hơn, bài trừ trước kia này thần thoại truyền thuyết.[ Hậu Hán Thư • Tây Vực truyền ] người đại lý thiệu đại tần quốc một đoạn tự thuật, tương đương phấn khích chuẩn xác:

“Đại tần quốc một gã lê kiện, lấy tại hải tây, diệc vân hải tây quốc. Địa phương mấy ngàn lý, hữu bốn trăm dư thành. Tiểu quốc dịch chúc giả hơn mười.” Có học giả cho rằng,“Lê kiện” Chính là Á Lịch Sơn Đại thành dịch âm.

“[ đại tần ] lấy thạch vì thành quách, liệt trí trạm bưu điện, giai ác

chi...... Giai khôn khéo mà y văn tú, thừa truy bạch cái xe đẩy, xuất nhập kích trống, kiến tinh kỳ phiên xí. Sở cư thành thị, chu viên hơn trăm lý. Trong thành hữu ngũ cung, tướng đi các mười dặm. Cung thất giai lấy thủy tinh vì trụ, thực khí cũng thế.” Này đoạn văn tự miêu tả La Mã thành đều dùng vôi đồ nóc nhà, La Mã nam nhân đều đuối lý phát [ người Trung Quốc thế phát là một loại hình phạt ], xuyên hữu thêu đồ án trang phục, cung điện hòa đồ ăn đa dụng thủy tinh. Có thể thấy được lúc ấy Hán nhân còn không hiểu biết đá cẩm thạch cùng thủy tinh khác nhau.

[ Hậu Hán Thư ] hoàn ghi lại La Mã chính trị chế độ:“Thường sứ một người trì túi tùy vương xe, nhân hữu ngôn sự giả, tức lấy thư đầu trong túi, vương tới cung phát tỉnh, để ý này uổng thẳng. Các hữu quan tào văn thư. Trí ba mươi sáu đem, giai hội nghị quốc sự. Này vương trống không thường nhân, giai giản lập hiền giả. Quốc trung thiên tai cùng mưa gió thỉnh thoảng, triếp phế mà càng lập, thụ phóng giả cam truất không oán.”

Xem ra, hán triều nhân đã muốn tương đối tinh tường hiểu biết đến La Mã hội nghị hòa chấp chính quan tuyển cử chế độ, cũng lấy thưởng thức miệng nhắc tới nó. Làm hán triều nhân khó có thể lý giải là, quốc vương bị phế truất vì cái gì không oán, bởi vì tại hán triều, hoàng quyền là một ngày cũng không khả khuyết thiếu . Đặc biệt an đôn đặc phái viên đến Trung Quốc khi chính trực hoàn đế tại vị, ngoại thích, hoạn quan thay phiên lộng quyền, hán triều chính trì chướng khí mù mịt, chính trực kẻ sĩ không phải bị giết, chính là bỏ tù, Đông Hán vương triều đã muốn đi hướng mạt lộ. Đông tây phương quyền lực quan niệm như thế bất đồng, hán triều nhân chỉ có thể đem La Mã nhân thay phiên chấp chính lý giải vì đạo đức cao thượng. Bọn họ không biết, tại Khải Tát sau, cá nhân chuyên chế tại La Mã sẽ rất khó hành thông .

Tại đông tây phương thế giới bắt đầu cho nhau tìm kiếm thời điểm, người Trung Quốc càng nhiều địa tiếp xúc La Mã nhân, đây là một cái vô cùng tốt trao đổi cơ hội. Nếu người Trung Quốc tiếp tục bảo trì trương khiên hòa ban siêu khai thác tinh thần hòa mạo hiểm tinh thần, đem tơ lụa đường vẫn kéo dài đến La Mã thành, nhất định hội thật to xúc tiến thế giới văn minh tiến trình. Nhưng người Trung Quốc không có nắm chắc trụ cơ hội này. Vài thập niên hậu, bởi vì Đông Hán triều đình hắc ám hòa hủ bại, làm cho Ngụy Tấn Nam Bắc triều [ công nguyên 220 niên - công nguyên 589 niên ]300 nhiều năm phân liệt hòa chiến loạn, tơ lụa đường khai bế vô thường, đông tây phương giao thông đường bộ lui tới tiến nhập cơn sóng nhỏ kì. Từ nay về sau, cho đến phồn vinh hưng thịnh Trung Quốc Đường triều, tơ lụa đường mới một lần nữa quán thông, trở thành trọng yếu quốc tế thương mậu thông đạo.

Tư liệu hán triều gia cụ

Tiểu thái thượng kinh lạc, gặp đều là công khanh quý tộc yêu ~~~ thiếp điểm có thân phận nhân giọt ~ tư liệu sinh hoạt.

-------------------

Tần hán thời kì, Trung Quốc xã hội phong kiến bị vây một cái đại thống nhất thời kì, văn hóa, kinh tế phồn vinh, nhất là tơ lụa đường khai thông, câu thông Trung Quốc cùng Tây Á, Âu châu hòa Phi Châu các quốc gia văn hóa hòa kinh tế trao đổi. Lúc ấy mọi người khởi cư phương thức vẫn đang là ngồi trên chiếu, bên trong gia cụ trần thiết cơ bản kéo dài xuân thu Chiến quốc thời kì tịch, giường, tháp, mấy, án tổ hợp vận mệnh, nước sơn Mộc gia cụ hoàn toàn thay thế được Thanh Đồng khí mà chiếm cứ chủ đạo địa vị.

Theo tần hán thời kì bích hoạ, bức họa chuyên, bức họa thạch, nước sơn họa, tranh lục, điêu khắc hòa bản khắc trung có thể suy đoán, giường là lúc ấy sử dụng nhiều nhất gia cụ chi nhất, chủ yếu cung nhân tọa, nằm, tẩm, từng bước hình thành lấy giường vì trung tâm khởi cư hình thức. Đến hán đại, giường sử dụng phạm vi càng thêm rộng khắp, hằng ngày cuộc sống trung các loại hoạt động như yến ẩm, đãi khách, trò chơi, đọc sách hòa giấc ngủ, thậm chí triều hội, làm công đều tại trên giường tiến hành. Hà Bắc vọng đều hán mộ bích hoạ trung “Chủ kí sử” Hòa “Chủ bạc” Các tọa nhất tháp, hai tháp hình dạng và cấu tạo, nhỏ cơ bản tiếp cận, giữa hai chân hữu hình cung khoán khẩu nha bản đường cong, tháp mặt phô hữu tịch điếm. Mặt khác, tại Giang Tô Từ châu hồng lâu thôn hòa mao thôn hán mộ bức họa thạch thượng, hữu một người độc ngồi trên tháp thượng, mà Từ châu mười dặm phô Đông Hán mộ bức họa thạch trung, cũng có một người ngồi ngay ngắn tháp thượng khắc. Hà Nam đan thành khai quật hán tháp vì hình chữ nhật, tứ chân, trưởng 0.875 mễ, khoan 0.72 mễ, cao 0.19 mễ, chân chừng cắt đứt mặt là thước gấp hình, giữa hai chân cũng có hình cung đường cong, tháp trên mặt khắc hữu thể chữ lệ:“Hán cố bác sĩ Thường Sơn đại [ thái ] phó vương quân tọa tháp”. Giường quật khởi thịnh hành, đối này tiến hành trang sức cũng lặng yên thăng ôn.[ thích danh ] tái:“Trướng, trương cũng, trương toàn vu trên giường”. Có thể thấy được, tần hán trên giường thủy thi lấy màn, đông thiết màn tị hàn, hạ thi màn tị ruồi.

Hán triều nhân hứa thận tại [ nói văn ] trung xưng giường vì “An thân chi mấy tọa cũng”, minh xác nói là tòa cụ. Còn có một loại xưng là “Khuông giường”, lại bảo “Độc tọa tòa”, rõ ràng là đan nhân tòa cụ. Hán đại lưu hi [ thích danh • giường thiên ] vân:“Nhân sở tọa nằm viết giường trang cũng, cho nên tự hành tái cũng.” Ngay lúc đó giường bao gồm hai cái hàm nghĩa, cũng là tòa cụ, lại là đồ ngủ. Tây Hán hậu kỳ, lại xuất hiện “Tháp” Này tên, là chuyên chỉ tòa cụ . Hà Bắc vọng đều hán mộ bích hoạ, Sơn Đông gia tường võ lương từ bức họa thạch hòa Thiểm Tây Tuy Đức hán mộ khắc đá trung, đều có tọa tháp hình vẻ.[ thích danh ] nói:“Trưởng hiệp mà ti giả viết tháp, ngôn này tháp nhiên gần địa cũng. Tiểu giả độc tọa, chủ nhân vô nhị, độc sở tọa cũng.”[ thông tục văn ] nói:“Ba thước ngũ viết tháp, độc tọa viết bình, bát thước viết giường”.[ Hậu Hán Thư ] trung kí đông quận thái ninh “Vào đông tọa da dê, ngày mùa hè tọa nhất du tấm ván gỗ sơ thực ra ngoài mua diêm cổ thực chi”. Giường cùng tháp tại công năng hòa hình thức thượng có điều bất đồng, giường lược cao hơn tháp, khoan vu tháp, khả tọa khả nằm; Tháp tắc thấp hơn giường, trách vu giường, hữu độc tọa hòa hai người ngồi chờ, tần hán thời kì cận cung tọa dùng, hậu diễn biến biến thành khả tọa khả nằm.

Tần hán thời kì vẫn bảo trì thương chu tới nay ngồi trên chiếu thói quen, bởi vậy mấy, án, giường chờ gia cụ đều có vẻ thấp bé. Mấy, án ngoại hình không đồng nhất, mặt trên phần lớn đồ hữu hắc nước sơn hoặc hồng nước sơn, cũng vẽ xuất các loại tinh mỹ hoa văn, số ít còn tại mặt ngoài thi hữu phù điêu. Chúng nó cùng hán đại tinh mỹ đồ sơn chén, bàn, tôn, hồ phong cách đại thế nhất trí. Hán đại án bỉ Tiên Tần trưởng chút. Có hoàn làm thành trọng điệp nhị tầng án, hảo phóng càng nhiều đồ vật. Thực án tắc đa làm phương, viên nhị hình [ trần bình [ Trung Quốc ở lại văn hóa ], Hongkong Trung Hoa thư cục 1992 niên bản, đệ 63 trang ]. Tiền đã thuật cùng, nơi này không chuế.

Hán đại tiểu ghế ngồi là bình, nó có vẻ ải, bình mặt vì hình vuông, bốn phía không dậy nổi duyên. Nó hòa lớn nhỏ cùng chi gần thực án chi là tối trọng yếu khác nhau ở chỗ chừng hình dạng: Thực án chi chừng tiếp cận tế hình trụ hình, mà bình chừng mặt cắt trình thước gấp hình, chừng gian trình hồ môn hình, bỉ thực án càng có thể thừa nhận sức nặng.[ thích danh? Thích màn ]:“Bình, bình cũng; Lấy bản làm nên, này thể ngay ngắn cũng.” Bình thượng chỉ có thể tọa một người, cho nên cũng xưng độc tọa.[ bì thương ]:“Bình, tháp cũng, vị độc tọa phản cũng.”[ thích màn ] cũng nói:“Tiểu giả viết độc tọa, chủ nhân vô nhị, độc sở tọa cũng.” Hà Bắc vọng đều nhất hào Đông Hán mộ bích hoạ trung hữu độc tọa bản bình ảnh hình người [ đồ 71]. Bất quá bình trừ bản chế ngoại, cũng có thạch chế . Hà Bắc hình thai trần thôn Tây Hán lưu thiên mộ, định huyện bát giác hành lang Tây Hán lưu tu mộ trung quân khai quật quá thạch bình, người sau hoàn trang hữu đồng chừng.

Bỉ bình đại chút ghế ngồi vì tháp.[ thích màn ]:“Trưởng hiệp mà ti viết tháp, ngôn này tháp nhiên gần địa cũng.” Nơi này nói tháp hiệp mà ti, là hòa giường đối lập mà nói. Phục kiền [ thông tục văn ]:“Giường ba thước ngũ viết tháp, bản độc tọa viết bình, bát thước viết giường.”[[ sơ học kí ] cuốn hai mươi lăm ] lấy nay chế tương đương, tắc tháp ước trưởng 84 li mễ, giường ước trưởng 192 li mễ. Hà Nam đan thành khai quật Tây Hán thạch tháp, hữu “Hán cố bác sĩ Thường Sơn đại bác vương quân tọa tháp” Khắc minh, trưởng 87.5 li mễ, cùng [ thông tục văn ] sở kí trưởng 3.5 hán thước chi con số cực vì tiếp cận. Loại này chiều dài tháp đương nhiên không thể nằm, chỉ có thể tọa, như [ ẩn sĩ truyền ] nói quản ninh “Thường tọa nhất mộc tháp, tích năm mươi dư niên, khó ki cổ, tháp mắc mưu tất chỗ giai xuyên”[[ thái bình ngự lãm ] cuốn thất ○ lục ]. Tháp cũng lấy một người độc tọa vi tôn.[ thế nói tân ngữ? Ngay ngắn thiên ] lưu chú dẫn [ ngữ lâm ]:“[ đỗ ] dự chinh ngô hoàn, độc tháp, không cùng tân khách cộng cũng.”[ chế giễu thiên ]:“Lưu tôn tổ thiếu vì ân trung quân biết, xưng chi vu dữu công. Dữu công dẫn kiến, tọa chi độc tháp thượng.” Này đó tư liệu lịch sử thời đại mặc dù hơi trì, nhưng cùng hán chế ứng vô cực khác. Hai người cộng tọa giả, tắc xưng hợp tháp.[ tam quốc chí? Ngô chí? Lỗ túc truyền ]:“Hợp tháp đối ẩm.”[ Gia Cát dung truyền ]:“Hợp tháp xúc tọa.” Hán bức họa thạch thượng xuất hiện quá hai người tọa nhất tháp bức ảnh, ứng tức hợp tháp. Về phần Nam Bắc triều khi đa số nhân cộng tọa chi liên tháp, hán đại tựa hồ còn chưa xuất hiện [ tôn cơ [ hán đại vật chất văn hóa tư liệu sách tranh ], văn vật nhà xuất bản 1991 niên bản, đệ 220 trang ].

Tháp trừ bỏ chủ nhân tự tọa nghỉ ngơi ngoại, còn dùng vu đãi khách, như [ Hậu Hán Thư? Từ trĩ truyền ]:“Trần phiên vì Thái Thú, không tiếp tân khách, duy trĩ đến, thiết kế nhất tháp, đi tắc huyền chi.” Lại dùng vu gặp lại, như Từ châu mười dặm phô Đông Hán bức họa thạch trung, nhất địa phương trưởng lại ngồi ngay ngắn tháp thượng, ba cái tiểu lại bộ dáng nhân, hai tay chấp hốt cung kính địa quỳ lạy vu tiền [[ Giang Tô Từ châu mười dặm phô hán bức họa thạch mộ ],[ khảo cổ ]1966 niên đệ 2 kì ]. Yến ẩm khi, tháp hơn thường trực, hoặc chủ nhân tự tọa, hoặc cùng tân khách cộng tọa. Liêu dương bổng bàn đánh bóng bàn nhị hào hán mộ yến ẩm đồ [ đồ 72] trung, nam nữ chủ nhân tức các tọa nhất tháp, trung gian thiết thực án, tháp thượng hoàn thi lấy thiêu trướng, một bên uống rượu, một bên thưởng thức ca múa [[ liêu dương thị bổng bàn đánh bóng bàn nhị hào bích hoạ mộ ],[ khảo cổ ]1960 niên đệ 1 kì ]. Mặt khác, còn có một loại đặc tiểu chi tháp, xứng lấy tháp đăng, dùng cho đăng giường lớn.[ thích danh ]:“Tháp đăng thi giường lớn phía trước, tiểu tháp phía trên, cho nên đăng giường cũng.”[ lâm kiếm minh chờ [ tần hán xã hội văn minh ], tây bắc đại học nhà xuất bản 1985 niên bản, đệ 238~239 trang ]

Giường bỉ bình, tháp đều đại, kiêm cung tọa, nằm. Bình thường vì mộc chế.[ ngự lãm ] cuốn thất lẻ sáu dẫn [ Hậu Hán Thư ]:“Dương mao vì đông quận Thái Thú, ngày mùa hè tọa nhất du tấm ván gỗ giường.” Cũng có thạch chế giả, vọng đều nhị hào Đông Hán mộ sở xuất giường đá, trưởng 159 li mễ, khoan 100 li mễ, cao 18 li mễ, khả dung một người nằm tức. Tại hán đại, giường là bỉ tháp quy cách rất cao gia cụ, như [ phong tục thông nghĩa? Khiên lễ thiên ]:“Nam Dương trương bá đại, đặng tử kính tiểu bá đại ba năm, lấy huynh lễ sự chi. Bá nằm trên giường thượng, kính tẩm hạ tiểu tháp, ngôn thường khủng, thanh sáng triều bái.” Giường lớn thường tại một bên thiết bình, sau lưng thiết ỷ, hợp thành “Bình ỷ”. Sơn Đông an khâu bức họa thạch cùng liêu dương bổng bàn đánh bóng bàn truân Đông Hán mộ bích hoạ trung cũng có này lệ [ đồ 73].

Hán thế hệ tại giường, tháp thượng tọa tư, tiếp cận vu hiện đại thường gọi quỳ tư, bởi vậy, tọa lâu hội cảm thấy mệt, thậm chí sinh ra như [ hàn phi tử? Ngoại trữ nói tả thượng ] nhắc tới “Phì đau, chừng tý, chuột rút” Chờ hiện tượng. Cho nên có khi yếu ẩn mấy mà ngồi, tất nạp vu vài cái, khửu tay phục vu mấy thượng. Loại này mấy được xưng là bằng mấy, này vài lần góc trách, bình thường tại 20 li mễ tả hữu. Tây Hán khi bằng vài lần thường vi xuống phía dưới ao khúc, hoàn tiếp cận Chiến quốc khi kiểu dáng. Sơn Đông lâm nghi kim tước sơn nhất hào Tây Hán mộ khai quật này thức bằng mấy, vài lần hai đoan điêu thành thỏ thủ trạng, có chút rất khác biệt. Đông Hán bằng mấy vài lần đa số cứng nhắc, có trang tứ điều hàng rào trạng chừng, có chích trang một cái khúc chừng, này hai loại bằng mấy sử dụng tình huống, tại bức họa thạch thượng đều có thể nhìn đến [ đồ 74]. Mãn thành nhất hào Tây Hán mộ trung nước sơn bằng mấy, lõi gỗ phân đã muốn hủ thất, nhưng đang có lưu kim đồng mấy chừng, này thượng bộ trang bản lề, sứ mấy đủ có thể lấy hướng vào phía trong gấp. Cổ nhạc lãng khai quật nhất kiện nước sơn bằng mấy, mấy chừng cao thấp hai tầng, hạ tầng mấy đủ có thể tạo ra cũng khả chiết nhập, do đó có thể điều tiết mấy độ cao, kết cấu thực tinh xảo. Tại mùa đông, mấy thượng hoàn gia phô hàng dệt, như [ Tây Kinh tạp ký ] cuốn nhất:“Hán chế thiên tử ngọc mấy, đông tắc gia đề cẩm này thượng, vị chi đề mấy, công hầu giai lấy trúc mộc vì mấy, đông tắc lấy tế kế vì cảo lấy bằng chi, không thể gia đề cẩm.” Mã vương đôi nhất hào hán mộ khiển sách trung kí hữu “Tố trường thọ tú cơ khăn nhất”, trường thọ tú bỉ đề cẩm rất cao quý, có thể thấy được [ Tây Kinh tạp ký ] sở kí cũng không hoàn toàn chuẩn xác. Hán đại thông hành ngồi chồm hỗm, ngồi dạng chân hòa thùy chừng tọa thường thường sẽ khiến cho mọi người phản cảm. Giang Tô đồng sơn cảnh tập phát hiện một khối bức họa thạch, khắc xuất nhất chấp đao nhân thùy chừng ngồi trên mấy phía trên [ đồ 75]. Đây là một loại vô lễ tư thế, tại lúc ấy thập phần hiếm thấy [ tôn cơ [ hán đại vật chất văn hóa tư liệu sách tranh ], văn vật nhà xuất bản 1991 niên bản, đệ 220~223 trang ].

Tháp thượng, trên giường hòa bên trong thượng an vị chỗ bình thường đều phô tịch. Tịch phần lớn lấy cành lá hương bồ hoặc lận hàng mây tre lá thành.[ cấp liền thiên ]:“Bồ nhược lận tịch.” Chú:“Nhược, vị bồ chi nhu nhược giả cũng. Lận thảo danh cũng, diệc hoàn linh tinh cũng. Bồ nhược có thể vì tiến, lận thảo có thể vì tịch.” Tiến, tức trưởng nằm tịch.[ Hán Thư? Văn đế kỉ ] tái, văn đế “Lấy uyển bồ vì tịch”, lấy kì này kiệm. Lại [ đông quan hán kí ] tái:“Quách đan học thầy Công Tôn xương, kính trọng, thường trì bồ biên tịch.” Mã vương đôi hán mộ khai quật khiển trách trung tái:“Uyển tịch nhị, thứ nhất thanh duyên, nhất cẩm duyên.” Trên thực tế tắc khai quật uyển tịch tứ kiện, hoàn hảo hữu nhị kiện, nhất kiện trưởng 219 li mễ, khoan 81 li mễ, một khác kiện trưởng 222 li mễ, khoan 82 li mễ, tịch biên quân dùng hoàng quyên bao phùng, biên khoan 20 li mễ tả hữu. Theo [ diêm thiết luận? Tán không đủ ], Tiên Tần khi thứ nhân dùng “Đan lận chiếu thô”. Cái gọi là “Chiếu thô”, chỉ thô trúc tịch, hán khi đồng dạng lưu hành. Trúc tịch hoặc trở thành giường chỉ, này tinh tế xưng là điệm.[ đông quan hán kí ]:“Thương đế chiếu hữu yếu đuối bình điệm.” Lại [ Tây Kinh tạp ký ]:“Hội Kê hiến trúc điệm cung ngự, thế hào vì lưu hoàng điệm.” Ninh hạ ngân xuyên bình cát bảo hán mộ trung khai quật trúc tịch, vì dân gian hình thức. Này sắc bụi, tịch văn ăn ở hình chữ, dùng bạc miệt phiến biên chế mà thành [[ ngân xuyên phụ cận hán mộ hòa đường mộ ],[ văn vật ]1978 niên đệ 8 kì ]. Trừ kể trên chiếu hòa trúc tịch ngoại, còn có một loại chuế lấy da thú địa tinh tịch.[ thích danh ]:“Điêu tịch, liên điêu da nghĩ đến tịch cũng.” Lại [ Tây Kinh tạp ký ]:“Chiêu dương điện thiết duyên hùng tịch, mao giai trưởng một thước dư, miên mà ủng mao tự tế, vọng chi giả không thể gặp cũng, tọa tắc không tất trong đó, tạp huân chư hương, ngồi xuống này tịch, dư hương trăm ngày không nghỉ cũng.”

Ngồi vào chi lễ cũng có nhất định quy củ, tôn giả tất có vị trí riêng. Trong gia đình vì trưởng bối thiết vị trí riêng, giảng đường thượng vì lão sư thiết vị trí riêng, mà cung đình trung tắc vì đế vương cùng hoàng hậu bố vị trí riêng. Triều hội khi, vì ưu lễ công thần kì nho, thường thường cũng thiết vị trí riêng.[ Hậu Hán Thư? Vương thường truyền ]:“Vương thường vì hoành dã đại tướng quân, vị thứ cùng chư tướng tuyệt tịch.” Lại [ trương vũ truyền ]:“Trương vũ vì Thái Phó, Thượng Thư, đặng Thái Hậu lấy thương đế sơ dục, dục làm trọng thần cư cấm nội, nãi chiếu vũ cùng tam công tuyệt tịch.” Đông Hán khi, vì đề cao Thượng Thư Lệnh, Ngự Sử trung thừa, Tư Đãi Giáo Úy chờ quyết sách hòa giám sát quan viên địa vị, vu kiến võ nguyên niên [ công nguyên 25 niên ] khởi, triều hội khi giai vị trí riêng mà ngồi, cho nên kinh sư hào vì “Tam độc tọa”[ lâm kiếm minh chờ [ tần hán xã hội văn minh ], tây bắc đại học nhà xuất bản 1985 niên bản, đệ 234~235 trang ].

Tịch phô trên mặt đất có thể di động, an phú tôn vinh quý tộc thân sĩ khả mệt tọa bát chín tầng tịch. Tại trường học trung, dạy học khi mỗi người tọa nhất tịch, nhưng chủ giảng nhân nói được có tình có lí, bác bỏ người khác học thuyết thời điểm, là có thể đoạt nhân chi tịch. Như Đông Hán học giả đái bằng giải kinh bất tận, có thể trọng tọa năm mươi dư tịch [[ Hậu Hán Thư • đái bằng truyền ]]. Về phần bình thường hàn sĩ, như tiết đôn liền “Tọa vô hoàn tịch” [ tạ quốc trinh [ Lưỡng Hán xã hội cuộc sống tường thuật tóm lược ], Thiểm Tây nhân dân nhà xuất bản 1985 niên bản, đệ 67 trang ].

Hán đại cũng không lưu hành thùy chừng cao tọa, cho nên lúc này tự không ứng hữu bàn, y chờ gia cụ. Nhưng mà trên thực tế, hán đại tuy rằng vô y, cũng đã sinh ra sơ hình bàn. Hà Nam linh bảo trương loan nhị hào Đông Hán mộ khai quật hé ra lục dứu đào bàn, thượng trí nhất viên để tiểu quán. Theo này chừng hòa mặt tỉ lệ xem ra, đây là hé ra góc cao tiểu bàn [ trần tăng bật tiên sinh cho rằng này không phải tiểu bàn, mà là “Nhất kiện cùng táo thai nguyên bộ sử dụng phòng bếp trung bãi phóng chế biến thức ăn vị phẩm táo biên tiểu án”. Gặp [ luận hán đại vô bàn ],[ văn bác ]1982 niên đệ 5 kì ]. Bất quá bởi vì đào bàn là đồ vàng mã mô hình, nó sở đại biểu thực vật nhỏ khó có thể xác định. Tứ Xuyên bành huyện khai quật thị trường bức họa chuyên thượng hé ra bàn vuông, trước bàn người cùng trên bàn người đang tiến hành giao dịch, bàn độ cao có thể thông qua nhân thể cao gián tiếp suy ra, cho nên có thể bị xác nhận [ đồ 76]. Này trương cái bàn bàn giữa hai chân vô chống đỡ, hình dạng và cấu tạo góc nguyên thủy, nhưng đã cùng đôn hoàng mạc cao quật 85 quật đường đại bích hoạ trung địa phương bàn thập phần tiếp cận .

Cung cất giữ dùng là gia cụ hữu trù hòa quỹ.[ luận hành? Cảm hư thiên ] lại [ là ứng thiên ] vị yến thái tử đan chất tần cầu về, tần vương đưa ra điều kiện trung hữu:“Trù môn mộc tượng thịt tươi chừng, nãi về.” Nơi này theo như lời trù đương chỉ trữ vật chi trù. Tây Chu Thanh Đồng phương cách chi tòa thường tại ngay mặt thiết hai phiến môn, trên cửa chú xuất thủ vệ có khác giả. Này phong khả năng làm hậu thế chi trù sở noi theo, trù trên cửa cũng sức hữu ngoạt giả mộc giống, cho nên nói “Thịt tươi chừng”.[ tấn thư? Cố khải chi truyền ]:“Khải chi thường lấy nhất trù họa, hồ đề này tiền, kí hoàn huyền.” Cũng xác nhận này loại trù. Liêu dương bổng bàn đánh bóng bàn truân Đông Hán mộ bích hoạ trung hữu đại trù, trù đỉnh chỉ nóc nhà hình, nhất nữ tử chính khai trù môn thủ vật, có thể thấy được trong đó trữ hữu màu đen chi hồ [ đồ 77].[ quảng vận? Thượng thanh bằng mười ngu ]:“■, trướng trang, tự trù hình cũng. Xuất lục nên [ tự lâm ].” Cũng biết trù giống nhau ác trướng, đang cùng kể trên bích hoạ tướng hợp. Nhật Bản nại lương pháp long tự sở tàng thất thế kỷ chế tác ngọc trùng đầu bếp, trù đỉnh vẫn chỉ nóc nhà hình, hoàn noi theo này nhất chế độ. Cùng trù so sánh với, quỹ tắc để mà trữ góc quý trọng vật phẩm, như [ Sở Từ? Thất gián ]:“Ngọc cùng thạch này đồng quỹ hề.”[ Hán Thư? Cao đế kỉ ]:“Cùng công thần phẩu phù chỉ thệ, đan thư thiết khế, kim quỹ thạch thất, tàng chi tông miếu.” Sơn Đông nghi nam bức họa thạch trung hữu này bức ảnh [ đồ 78], Hà Nam linh bảo cùng thiểm huyện Lưu gia cừ hán mộ giai khai quật quá đào quỹ, này đó đào quỹ rộng hẹp cao thấp tỉ lệ thập phần cân xứng phối hợp, thẳng đến đường đại này tạo hình vẫn vô nhiều biến hóa.

Hán đại còn chưa tại bên trong thiết bình ám linh tinh thiên hoa, vì phòng ngừa lương trần dính y, đa tại giường trên đỉnh huyền lọng che.[ thích danh? Thích màn ]:“Lọng che, thi vu thượng, lấy lọng che thổ cũng.” Lọng che lại danh diệc.[ lễ kí? Đàn cung ] trịnh chú:“Diệc, mạc chi tiểu giả, cho nên lọng che.”[ chu lễ? Mạc nhân ] trước trịnh chú:“Diệc, bình trướng cũng.” Tắc lọng che nguyên là bình trương vu trên giường tiểu mạc. Đông Hán khi, như thành đô khai quật truyền kinh bức họa chuyên thượng chứng kiến giả, dạy học kinh sư sở tọa cao trên giường chi lọng che, đã banh tại mang ô vuông mộc khuông thượng, có hướng bình kì quá độ xu thế . Bởi vậy, lúc này lọng che là bên trong tương đối cố định thiết bị, ngày thường không thường di động, như [ Hậu Hán Thư? Lôi nghĩa truyền ] kí lôi nghĩa cự tuyệt thụ kim, nhưng “Kim chủ tý nghĩa không ở, mặc đầu kim vu lọng che thượng. Hậu tập để ý nhà, nãi chi.”

Bình huyền vu bên trong để mà chống bụi là lọng che, dựng đứng vu bên trong để mà chắn phong còn lại là bình phong. Bình phong là nhất kiện độc lập gia cụ, cùng phụ thuộc vu giường bình ỷ bất đồng.[ sử ký? Mạnh thường quân liệt truyện ] trung từng nhắc tới bình phong, thuyết minh Chiến quốc khi đã có vật ấy, hán đại hơn lưu hành [ tôn cơ [ hán đại vật chất văn hóa tư liệu sách tranh ], văn vật nhà xuất bản 1991 niên bản, đệ 218~219,225 trang ]

[ phong tục thông ]:“Bình, khanh đại phu lấy duy, sĩ lấy liêm, hơi có đệ lấy tự che chắn cũng.”[ Hán Thư? Trần hàm truyền ]:“Vạn năm thường bệnh, triệu hàm giáo giới vu dưới giường. Ngữ tới nửa đêm, hàm ngủ, đầu xúc bình phong.” Bình phong bình thường dùng quyên đề lâm vào,[ nghi lễ? Cận lễ ] trịnh chú tức ngôn hán đại hữu đề tố bình phong. Bình phong thượng đa hội hữu màu họa. Như [ Hán Thư? Tự truyền ] ngôn thành đế ngự tòa giữ hữu họa thương trụ túy cứ Ðát kỉ chỉ đêm dài chi nhạc đồ bình phong.[ đông quan hán kí ] cũng tái quang võ đế ngự tòa giữ hữu liệt nữ đồ bình phong. Mã vương đôi hán mộ khai quật hữu nhất mộc nhiều màu bình phong phong, trưởng 72 li mễ, cao 62 li mễ, là cái rút nhỏ mô hình, theo khiển sách sở kí, này nguyên trưởng ngũ thước, cao tam thước. Cũng có loại nhỏ bình phong, đặt giường phía trên, hán họa trung lũ có điều gặp. Như liêu dương hán mộ bích hoạ nam nữ chủ nhân tháp phần sau cũng có bình phong, trình chiết giác hình [[ liêu dương phát hiện ba tòa bích hoạ cổ mộ ],[ văn vật tham khảo tư liệu ]1955 niên đệ 5 kì ]. Có bình phong thượng hoàn có chứa gương, như Đông Hán những năm cuối Tào Tháo ám sát Đổng Trác khi, liền bởi vì Đổng Trác theo phía sau giường bình phong thượng trong gương nhìn đến Tào Tháo đang ở rút đao mà bừng tỉnh, cho nên Tào Tháo có thể thành công.

Có khi trong phòng cận trí bình phong còn không đủ để ngự phong hàn hoặc chắn văn ruồi, cho nên lại trí duy trướng. Duy bản chỉ cửa xe liêm, khi chỉ “Xe vi thường”.[ Hậu Hán Thư? Cổ tông truyền ]:“Cổ tông vì Ký Châu thứ sử. Cùng tông chi bộ, thăng xe ngôn viết:‘Thứ sử đương viễn thị quảng nghe, duy trì trật tự mĩ ác, hà hữu phản thùy vi thường lấy tự dấu tắc hồ?’ nãi mệnh ngự giả khiên chi.” Hậu cũng dùng cho không nội, lấy tự chướng ác.[ sử ký? Đổng trọng thư truyền ]: Đổng trọng thư “Vì bác sĩ, há duy giảng tụng, đệ tử truyền lấy lâu thứ tướng học nghề, hoặc mạc gặp này mặt.” Lại [ Hậu Hán Thư? Lưu huyền truyền ]:“Làm lại từ đầu ủy chính vu triệu manh, ngày đêm cùng con gái ẩm yến **, quần thần muốn nói sự, triếp túy không thể gặp, khi không thể đã, làm thị trung tọa duy nội cùng ngữ.” Cho nên [ thích danh ]:“Duy, vây cũng, cho nên tự chướng vây cũng.”[ thích danh ]:“Trướng, trương cũng, trương thi vu trên giường cũng. Tiểu trướng viết đấu, hình như phúc đấu cũng.” Có thể thấy được duy cùng trướng khác nhau ở chỗ: Đệ nhất, duy dùng để phân cách đường, thất, trướng tắc thi vu trên giường; Thứ hai, duy đa đan phúc hoành mặt thi trướng, mà trướng tắc bao phủ tứ phía. Nhưng mà chúng nó tác dụng đều có chướng ế mắt điểm này, cho nên, trước giường “Thiếp thiếp mà thùy” thiếp, nhân này hoành mặt đan huyền mà [ thích danh ] xưng là trước giường duy. Phàm là hữu đỉnh màn che cũng đều bị gọi trướng, cho dù không thi vu trên giường cũng như thế.[ sử ký? Cấp trịnh liệt truyện ]:“Thượng thường tọa võ trướng trung, ảm khúc nhạc dạo sự, thượng không quan, trông thấy ảm, tị trướng trung, khiến người khả này tấu.” Này võ trướng tức phi màn, mà là điện thượng ngự tòa hữu đỉnh chi trướng [ lâm kiếm minh chờ [ tần hán xã hội văn minh ], tây bắc đại học nhà xuất bản 1985 niên bản, đệ 239~240 trang ].



Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro