phuongthucttqt

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1.2.4. Phương thức tín dụng chứng từ - Documentary Credit

1.2.4.1. Khái niệm và đặc điểm của phương thức tín dụng chứng từ

● Khái niệm

Tín dụng chứng từ là một phương thức thanh toán, theo đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của một khách hàng (người đề nghị mở thư tín dụng) trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi), hoặc chấp nhận hối phiếu do người xuất khẩu ký phát trong thời gian quy định và trong phạm vi số tiền của L/C khi người xuất khẩu xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định trong thư tín dụng.

       ● Đặc điểm của phương thức tín dụng chứng từ

- Tính độc lập của L/C

- Tuân thủ chặt chẽ các quy định của L/C về chứng từ

- Việc thanh toán chỉ dựa vào chứng từ

- Phương thức thanh toán bằng L/C liên quan đến hai quan hệ hợp đồng

       Ngân hàng phát hành chấp thuận mở L/C theo yêu cầu của người nhập khẩu là một hợp đồng cung cấp dịch vụ. Nhà nhập khẩu phải trả một khoản phí mở L/C và các khoản chi phí khác theo quy định của ngân hàng. Đổi lại ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra các chứng từ do người xuất khẩu xuất trình. Nếu chứng từ hoàn toàn phù hợp với nội dung của L/C thì ngân hàng sẽ nhận chứng từ và thanh toán tiền hàng, hoặc chấp nhận hối phiếu của nhà xuất khẩu; sau đó ngân hàng thu lại tiền của người nhập khẩu và giao chứng từ cho người nhập khẩu đi lấy hàng. L/C là một cam kết trả tiền có điều kiện của ngân hàng phát hành đối với người hưởng lợi. Chỉ khi nào người xuất khẩu xuất trình được bộ chứng từ phù hợp và trong thời hạn quy định của L/C thì ngân hàng mới phải thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu. Nếu ngân hàng vi phạm các quy định của L/C làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà xuất khẩu, ngân hàng sẽ bị phạt vi phạm hợp đồng, chẳng hạn như phạt chậm trả (do thời gian kiểm tra chứng từ quá lâu vượt quy định về thời gian kiểm tra chứng từ)…

       1.2.4.2. Các bên tham gia thanh toán theo L/C

       Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ thường bao gồm các thương nhân và các ngân hàng.

       ● Các thương nhân

+ Doanh nghiệp nhập khẩu (Importer), còn gọi là người yêu cầu mở L/C (Applicant for the credit), người mua (Buyer)…

Trong thanh toán bằng L/C người nhập khẩu phải thực hiện một số công việc sau:

- Phát hành yêu cầu mở L/C.

- Đề nghị sửa đổi, bổ sung L/C khi cần thiết.

- Kiểm tra chứng từ để quyết định việc trả tiền hay từ chối trả tiền ngân hàng mở L/C.

- Thanh toán phí dịch vụ cho ngân hàng.

+ Doanh nghiệp xuất khẩu (Exporter), còn gọi là người bán (Seller), người thụ hưởng (Beneficiary)…

Trong thanh toán bằng L/C người xuất khẩu phải thực hiện một số công việc sau:

- Kiểm tra L/C do ngân hàng gửi đến.

- Thương lượng và đề nghị sửa đổi, bổ sung L/C khi cần thiết.

- Hoàn tất bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C để đòi tiền.

● Các ngân hàng

+ Ngân hàng phát hành (Issuing bank), còn gọi là ngân hàng mở thư tín dụng (Opening Bank): là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu, cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu. Ngân hàng mở L/C được hai bên mua bán thỏa thuận , lựa chọn và quy định trong hợp đồng, nếu chưa có sự quy định trước người nhập khẩu có quyền lựa chọn. Thông thường, ngân hàng mở L/C là ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu, nhưng trong trường hợp người bán không tin tưởng ngân hàng này thì có thể là bất kỳ một ngân hàng nào đó theo yêu cầu của người bán.

Ngân hàng mở L/C có một số chức trách sau:

- Dựa vào đơn xin mở L/C của người nhập khẩu để mở L/C và thông báo nội dung L/C, đồng thời gửi bản gốc L/C cho người xuất khẩu thông qua ngân hàng thông báo.

- Sửa đổi, bổ sung các yêu cầu của người xin mở L/C, hoặc của người xuất khẩu đối với L/C đã mở.

- Kiểm tra chứng từ thanh toán do ngân hàng thông báo gửi đến, nếu thấy chứng từ phù hợp với quy định của L/C và không mâu thuẫn nhau sẽ thanh toán cho người xuất khẩu và đòi tiền người nhập khẩu, ngược lại sẽ từ chối thanh toán.. Ngân hàng chỉ chịu trách nhiệm kiểm soát “bề ngoài” của các chứng từ xem có phù hợp với L/C hay không, không chịu trách nhiệm về kiểm tra tính chất pháp lý và tính xác thực của chứng từ. Các tranh chấp về tính chất “bên trong” của chứng từ do người xuất khẩu và nhập khẩu tự giải quyết.

- Ngân hàng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp bất khả kháng như: chiến tranh, đình công, bạo loạn, lụt lội động đất… Nếu L/C hết hiệu lực vào lúc đó, ngân hàng cũng không chịu trách nhiệm thanh toán các bộ chứng từ gửi tới lúc đó trừ khi có quy định khác (điều 17 UCP500).

- Ngân hàng mở L/C chịu trách nhiệm về các hậu quả phát sinh do lỗi của mình.

+ Ngân hàng thông báo (Advising Bank) thư tín dụng: còn được gọi là ngân hàng giao dịch (Correspondent Bank) được ngân hàng phát hành yêu cầu thông báo cho người xuất khẩu về việc mở L/C. Ngân hàng thông báo L/C thường là ngân hàng đại lý của ngân hàng mở L/C ở nước người xuất khẩu.

Ngân hàng thông báo phải đảm nhiệm các công việc chính sau đây:

- Khi nhận được L/C của ngân hàng phát hành, ngân hàng thông báo sẽ chuyển toàn bộ nội dung L/C đã nhận được cho người xuất khẩu dưới hình thức văn bản. Ngân hàng thông báo chỉ chịu trách nhiệm chuyển nguyên văn bức điện đó, không chịu trách nhiệm phải dịch, diễn giải các từ chuyên môn ra tiếng địa phương. Nếu thông báo sai nội dung điện đã nhận, ngân hàng phải chịu trách nhiệm.

- Ngân hàng phải chuyển ngay và nguyên vẹn bộ chứng từ thanh toán của người xuất khẩu gửi đến cho ngân hàng mở L/C. Nếu bộ chứng từ chậm trễn hoặc mất mát đến đuường đến ngân hàng mở, ngân hàng thông báo không chịu trách nhiệm nếu minh chứng được mình đã gửi nguyên vẹn và đúng hạn bộ chứng từ đó qua bưu điện.

+ Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank) là ngân hàng đứng ra xác nhận L/C cho ngân hàng mở L/C theo yêu cầu của ngân hàng mở. Ngân hàng xác nhận có thể là ngân hàng phục vụ người bán, hoặc một ngân hàng lớn có uy tín trên thị trường tài chính và tín dụng quốc tế. Đôi khi ngân hàng thông báo được yêu cầu xác nhận vào L/C và trở thành ngân hàng xác nhận.

Muốn được xác nhận, ngân hàng mở L/C phải trả phí xác nhận (confirming charges), ngoài ra có thể còn phải đặt tiền trước (cash cover), có khi lên tới 100% giá trị của L/C (full cash cover).

+ Ngân hàng trả tiền (Paying Bank) có thể là ngân hàng mở L/C, hoặc có thể là một ngân hàng khác do ngân hàng mở L/C uỷ quyền đảm nhận việc thanh toán. Nếu địa điểm trả tiền quy định địa điểm trả tiền ở nước người xuất khẩu, ngân hàng trả tiền thường là ngân hàng thông báo L/C.

Ngân hàng trả tiền có trách nhiệm trả tiền cho người hưởng lợi sau khi nhận được bộ chứng từ thanh toán của người xuất khẩu gửi đến trong vòng thời gian 7 ngày kể từ ngày nhận được bộ chứng từ hợp lệ. Nói cách khác, ngân hàng được quyền kiểm tra chứng từ trong thời gian tối đa là 7 ngày để quyết định có nhận hay từ chối chứng từ và phải báo cho ngân hàng mà mình đã nhận chứng từ từ đó (điều 13 UCP500).

       1.2.4.3. Quy trình thanh toán

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(1) Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng (letter of credit - L/C) gửi tới ngân hàng mở L/C, yêu cầu ngân hàng này mở một L/C cho người xuất khẩu hưởng.

Ở Việt Nam, đơn xin mở L/C được lập theo mẫu in sẵn của ngân hàng (xem phụ lục số 4, số 5). Khi viết giấy xin mở L/C người nhập khẩu cần ghi rõ những nội dung chủ yếu sau:

- Đề nghị ngân hàng mở loại L/C nào, mở bằng điện hay bằng thư, hoặc mở bằng thư có thông báo vắn tắt trước bằng điện.

- Ghi rõ tên, địa chỉ đầy đủ của người được hưởng L/C (nói rõ cả địa chỉ, điện tín).

- Số tiền của L/C: cần ghi rõ cả bằng số, bằng chữ. Số tiền của L/C nên ghi là "vào khoảng", hoặc "khoảng chừng", hay "một số tiền không vượt quá tổng số là ...", không nên ghi số tuyệt đối.

Đề nghị ngân hàng mở L/C bằng loại ngoại tệ nào thì phải ghi đúng ký hiệu quốc tế của loại ngoại tệ đó.

- Ghi rõ phương thức trả tiền: trả ngay, hay trả chậm, hay chiết khấu.

- Trình bày tóm tắt về hàng hoá, tên hàng, số lượng, chất lượng, đơn giá, v.v...

- Yêu cầu về chủng loại chứng từ, số lượng từng loại, tên người ký phát chứng từ mà người xuất khẩu phải cung cấp.

- Nơi gửi hàng (sân bay, ga, bến cảng, kho, bãi...) và nơi hàng đến.

- Hàng có được phép chuyển tải không.

- Hàng có được giao từng phần hay không.

- Ngày giao hàng cuối cùng.

- Thời hạn xuất trình chứng từ để thanh toán.

- Ngày và địa điểm hết hạn hiệu lực của L/C

Khi đề nghị mở L/C người nhập khẩu thường phải ký quỹ mở L/C. Việc ký quỹ có thể thực hiện bằng ngoại tệ, hoặc bằng VND tương đương theo tỷ giá ngân hàng công bố. Số tiền ký quỹ nhiều hay ít tuỳ thuộc vào sức mạnh tài chính, uy tín của nhà nhập khẩu với ngân hàng mở L/C, loại L/C (L/C trả ngay hay trả chậm, L/C không thể hủy ngang hay L/C không thể hủy ngang có xác nhận...), đặc điểm của hàng hóa trong hợp đồng XNK… Nếu nhà nhập khẩu không có tiền và nếu có yêu cầu sẽ có thể được ngân hàng cho vay để mở L/C.

Khi được ngân hàng chấp nhận mở L/C thì nhà nhập khẩu phải trả phí mở L/C (ở nước ta mức phí mở L/C thường bằng 1% số tiền của L/C).

(2) Căn cứ vào đơn xin mở L/C, ngân hàng mở L/C sẽ phát hành một L/C và chuyển cho ngân hàng thông báo L/C.

Thông thường ngân hàng thông báo L/C là chi nhánh, hoặc là đại lý của ngân hàng mở L/C ở nước người xuất khẩu.

(3) Thông báo L/C

Nhận được điện mở L/C từ ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo chuyển nguyên văn bức điện mở L/C và bản xác báo bằng điện của mình về L/C đó cho người xuất khẩu. Nếu L/C mở bằng thư thì ngân hàng phải chuyển bản chính (bản gốc) L/C cho người xuất khẩu.

Ngân hàng thông báo được thu thủ tục phí thông báo (ai là người trả phí này cho ngân hàng thông báo đã được chỉ rõ trong L/C)

(4) Giao hàng

Sau khi nhận được L/C, người xuất khẩu sẽ phải kiểm tra những nội dung đã ghi trong L/C, đối chiếu với các thoả thuận trong hợp đồng ngoại thương.

Nếu:

- Các nội dung trong L/C phù hợp với hợp đồng đã ký thì tiến hành giao hàng.

- Nếu có nội dung nào cần sửa đổi, hoặc cần bổ sung thì phải điện thông báo những nội dung đó đến tận người nhập khẩu. Nếu người nhập khẩu điện trả lời đồng ý (qua ngân hàng mở L/C) thì những nội dung sửa đổi, bổ sung mới có hiệu lực thi hành. Người xuất khẩu thực hiện việc giao hàng theo đúng các điều kiện ghi trong L/C.

(5) Yêu cầu thanh toán của người xuất khẩu

Sau khi đã giao hàng, người xuất khẩu phải hoàn tất bộ chứng từ thanh toán theo yêu cầu của L/C xuất trình cho ngân hàng mở L/C, thông qua ngân hàng thông báo xin thanh toán.

Khi lập bộ chứng từ nhà xuất khẩu cần phải lưu ý:

- Các chứng từ trong bộ chứng từ phải phù hợp với luật lệ và tập quán buôn bán quốc tế mà hai bên xuất nhập khẩu đang áp dụng và được dẫn chiếu ra trong L/C.

- Các chứng từ phải lập theo đúng những yêu cầu đối với từng loại chứng từ đã được quy định trong L/C.

- Những nội dung và các số liệu liên quan giữa các chứng từ không được mâu thuẫn nhau.

Trường hợp hàng hoá thực tế đã giao có trị giá lớn hơn kim ngạch của L/C thì nhà xuất khẩu có thể điện báo cho nhà nhập khẩu đề nghị bổ sung thêm số tiền của L/C. Nếu được nhà nhập khẩu chấp nhận (thông qua ngân hàng mở L/C) thì nhà xuất khẩu ký phát hối phiếu bằng 100% trị giá hoá đơn để đòi tiền ngân hàng mở L/C. Ngược lại, nhà xuất khẩu chỉ có thể ký phát hối phiếu đòi tiền ngân hàng với số tiền bằng số tiền của L/C. Phần chênh lệch còn lại phải ký phát hối phiếu đòi tiền nhà nhập khẩu bằng những phương thức thanh toán khác.

Bộ chứng từ thanh toán trong phương thức tín dụng chứng từ thường bao gồm:

- Hối phiếu

- Hoá đơn thương mại

+ Nếu giao hàng theo điều kiện FOB thì chỉ cần hoá đơn thương mại chung (commercial invoice).

+ Nếu giao hàng theo điều kiện CIF thì phải gửi hoá đơn chi tiết (detailed commercial invoice).

- Vận đơn: phải là vận đơn sạch, hoàn hảo

- Giấy chứng nhận bảo hiểm (nếu giao hàng theo điều kiện CIF)

- Các chứng từ khác:

+ Giấy chứng nhận kiểm nghiệm hàng hoá

+ Giấy chứng nhận xuất xứ (do phòng thương mại cấp)

+ Giấy kê khai đóng gói bao bì chi tiết...

Sau khi hoàn tất bộ chứng từ, nhà xuất khẩu phải tiến hành kiểm tra lại. Nếu có sai sót thì tuỳ theo mức độ mà tìm biện pháp khắc phục. Trường hợp sai sót quá nghiêm trọng không thể thanh toán theo L/C thì có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp đề nghị đối phương sửa đổi L/C sao cho phù hợp với chứng từ đã lập. Đơn vị kinh doanh xuất khẩu có thể viết thư đảm bảo gửi cho ngân hàng mở L/C, trong đó cam kết sẽ chịu trách nhiệm về bộ chứng từ thanh toán đó. Thông thường thì thư đảm bảo này phải có ngân hàng đứng ra bảo lãnh...

Sau đó, nhà xuất khẩu phải nhanh chóng xuất trình bộ chứng từ thanh toán tại ngân hàng trong thời hạn quy định. Nếu xét thấy không có đủ khả năng nộp bộ chứng từ vào ngân hàng trong thời hạn qui định thì nhà xuất khẩu phải làm giấy đề nghị gia hạn hiệu lực của L/C gửi tới nhà nhập khẩu.

Trường hợp 1: Nếu được nhà nhập khẩu chấp nhận gia hạn hiệu lực của L/C thì vẫn ký phát hối phiếu đòi tiền ngân hàng mở L/C.

Trường hợp 2: Nếu không được nhà nhập khẩu chấp nhận gia hạn hiệu lực của L/C thì phải ký phát hối phiếu đòi tiền trực tiếp nhà nhập khẩu bằng những phương thức thanh toán khác.

(6) Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ thanh toán, nếu thấy phù hợp với L/C thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu, hoặc chấp nhận hối phiếu (đối với hối phiếu có kỳ hạn). Nếu thấy không phù hợp, ngân hàng từ chối thanh toán (hoặc từ chối chấp nhận) và gửi trả lại bộ chứng từ cho người xuất khẩu.

Trên thực tế, khi nhận được bộ chứng từ, một số ngân hàng mở L/C có thể chuyển ngay bộ chứng từ hoặc chuyển bộ chứng từ copy cho người nhập khẩu, nếu người nhập khẩu kiểm tra và thông báo chứng từ phù hợp với yêu cầu của L/C thì ngân hàng mở L/C trả tiền, hoặc chấp nhận hối phiếu; nếu không phù hợp thì từ chối trả tiền. Cách thanh toán này giúp ngân hàng tránh được những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra do sự không cẩn trọng trong việc kiểm tra chứng từ để trả tiền của ngân hàng.

Việc chuyển trả tiền có thể thực hiện bằng thư, hoặc bằng điện. Chuyển bằng điện thì sẽ nhanh hơn nhưng chi phí sẽ cao hơn. Nếu xét thuần tuý về mặt kinh tế, hiệu quả kinh tế của việc đòi tiền bằng điện phụ thuộc vào các yếu tố như: kim ngạch L/C, lãi suất tiền gửi ngân hàng trên thị trường, khoảng thời gian thu nhanh được của việc đòi tiền bằng điện so với bằng thư, chi phí điện hối và chi phí thư hối.

Mối liên hệ giữa các yếu tố đó cho kết quả là, nếu lợi tức do người xuất khẩu đem gửi tiền vào ngân hàng trong thời gian thu nhanh lớn hơn hoặc bằng điện phí thì việc trả tiền bằng điện có lợi cho người xuất khẩu, hoặc nếu người xuất khẩu phải bù vào số lợi tức đó một số tiền bé hơn hoặc tối thiểu bằng thư phí để đủ trả tiền điện phí thì việc trả tiền bằng điện cũng có lợi hơn trả tiền bằng thư.

Đây là vấn đề mà nhà xuất khẩu cần tính toán để đảm bảo quyền lợi cao nhất cho mình khi lựa chọn các phương tiện chuyển tiền.

(7) Ngân hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ hàng hoá cho người nhập khẩu.

(8) Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì hoàn trả tiền cho ngân hàng, nếu không phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền ngân hàng.

       1.2.4.4. Các loại L/C và nội dung của L/C

Các loại L/C trong thanh toán quốc tế

Có các loại L/C sau:

● Thư tín dụng có thể huỷ bỏ (Revocable letter of credit)

Thư tín dụng có thể huỷ bỏ là loại L/C mà nhà nhập khẩu có thể sửa đổi, hoặc huỷ bỏ tại bất cứ thời điểm nào mà không cần thông báo trước cho người bán. Nhưng muốn sửa đổi, hoặc huỷ bỏ phải tiến hành trước khi nhà xuất khẩu giao hàng và xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng thông báo.

Trường hợp huỷ bỏ sau khi người xuất khẩu giao hàng và xuất trình chứng từ cho ngân hàng thông báo thì ngân hàng mở L/C phải hoàn trả lại tiền cho chi nhánh, hay ngân hàng đại lý đã thanh toán cho khách hàng bằng cách trả ngay, bằng chấp nhận, hay bằng chiết khấu.

Việc thanh toán theo L/C có thể huỷ bỏ có những điểm lợi và bất lợi cho nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu như sau:

- Đối với nhà xuất khẩu: nếu việc sửa đổi, hoặc huỷ bỏ được thực hiện trong khi hàng hoá đang trên đường vận chuyển nhưng trước khi xuất trình chứng từ thì nhà xuất khẩu sẽ bị rủi ro.

- Đối với nhà nhập khẩu: L/C có thể huỷ bỏ cho anh ta một sự linh hoạt tối đa vì có thể sửa đổi, hoặc huỷ bỏ mà không cần thông báo trước cho người bán.

● Thư tín dụng không thể hủy ngang (Irrevocable letter of credit)

Thư tín dụng không thể hủy ngang là loại L/C sau khi đã được mở ra thì ngân hàng mở L/C không được sửa đổi, bổ sung, hoặc huỷ bỏ trong thời gian hiệu lực của nó, trừ khi có sự thoả thuận khác của các bên tham gia L/C.

Một L/C không ghi chữ Irrvocable thì vẫn được coi là không huỷ bỏ được.

Áp dụng loại L/C này làm cho người bán được đảm bảo chắc chắn hơn trong thanh toán; còn đối với người mua thì sự linh hoạt kém hơn vì L/C chỉ có thể sửa đổi, hoặc huỷ bỏ nếu tất cả các bên có liên quan đồng ý.

Thư tín dụng không thể huỷ ngang là loại L/C được áp dụng rộng rãi nhất trong thanh toán quốc tế, nó là loại L/C cơ bản nhất.

● Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận (Confirmed irrevocable L/C) 

Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận là loại L/C không thể huỷ bỏ được một ngân hàng khác đảm bảo trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C.

Trách nhiệm của ngân hàng xác nhận giống như ngân hàng mở L/C, do đó ngân hàng mở L/C phải trả thủ tục phí xác nhận, có khi còn phải đặt cọc tiền tới 100% trị giá L/C tại ngân hàng xác nhận (full cash cover).

Đối với loại L/C này, ngoài L/C ra, ngân hàng mở L/C phải có một văn bản khác kèm theo với lời xác nhận như sau: "L/C này có kèm sự xác nhận của chúng tôi cam kết thanh toán miễn truy đòi đối với hối phiếu ký phát phù hợp với các điều khoản hợp đồng".

Áp dụng loại L/C này:

- Người bán có sự tin tưởng chắc chắn trong thanh toán vì có hai ngân hàng cam kết trả tiền.

- Người mua có thêm yêu cầu nữa là phải trả phí xác nhận.

Trên thực tế có áp dụng loại L/C này hay không còn phụ thuộc vào mức độ tín nhiệm và tình hình tài chính của ngân hàng phát hành, tình hình kinh tế, chính trị của quốc gia có ngân hàng phát hành L/C đó. Ngân hàng mở L/C phải yêu cầu một ngân hàng khác xác nhận cho mình sẽ làm giảm uy tín của ngân hàng mở L/C.

● Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C)

Thư tín dụng tuần hoàn là loại L/C không thể huỷ bỏ sau khi sử dụng xong, hoặc đã hết hạn hiệu lực thì nó lại có giá trị như cũ, và cứ như vậy nó tuần hoàn cho đến khi nào tổng trị giá hợp đồng được thực hiện xong.

Ví dụ: một hợp đồng xuất nhập khẩu có tổng trị giá 1.200.000 USD, thực hiện trong 12 tháng, giao hàng 4 lần đều đặn. Để tránh thiệt hại cho người mua phải mở L/C có giá trị lớn, thời hạn dài gây nên ứ đọng vốn không cần thiết, người mua có thể mở một L/C trị giá 300.000 USD thời hạn hiệu lực là 3 tháng, với điều kiện tuần hoàn 4 lần trong năm.

Thư tín dụng tuần hoàn cần ghi rõ ngày hết hạn hiệu lực cuối cùng, số lần tuần hoàn và giá trị tối thiểu của mỗi lần đó. Nếu việc tuần hoàn căn cứ vào thời hạn hiệu lực trong mỗi lần tuần hoàn thì phải ghi rõ có cho phép số dư của L/C trước cộng dồn vào những L/C kế tiếp hay không. Nếu không cho phép thì gọi nó là L/C tuần hoàn không tích luỹ (non cumulative revoling L/C). Nếu cho phép thì gọi là thư tín dụng tuần hoàn tích luỹ (cumulative revoling L/C).

Có ba cách tuần hoàn: tuần hoàn tư động, tuần hoàn bán tự động và tuần hoàn hạn chế.

- Tuần hoàn tự động tức là nó tự động có giá trị như cũ không cần có sự thông báo của ngân hàng mở L/C cho người xuất khẩu biết.

- Tuần hoàn hạn chế: tức là chỉ khi nào ngân hàng mở L/C thông báo cho người xuất khẩu biết thì L/C kế tiếp mới có giá trị hiệu lực.

- Tuần hoàn bán tự động: tức là L/C trước sau khi sử dụng xong, hoặc hết hạn hiệu lực, nếu sau một vài ngày mà ngân hàng mở L/C không có ý kiến gì về L/C kế tiếp và thông báo cho người hưởng lợi L/C thì nó lại tự động có giá trị như cũ.

Thư tín dụng tuần hoàn thường được dùng khi các bên tin cậy lẫn nhau, mua hàng thường xuyên, định kỳ với khối lượng lớn và trong thời hạn dài.

● Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C)

Thư tín dụng giáp lưng là một loại thư tín dụng được mở căn cứ vào một L/C khác (L/C gốc). Loại L/C này thường được người xuất khẩu sử dụng để thanh toán với người cung cấp hàng hoá cho mình để xuất khẩu. Trong trường hợp này, người xuất khẩu trao cho ngân hàng mở L/C giáp lưng bản L/C gốc  mà người nhập khẩu mở cho mình làm cơ sở để yêu cầu ngân hàng mở cho người cung cấp hàng thư tín dụng giáp lưng. Thư tín dụng giáp lưng thường phát sinh trong trường hợp mua bán hàng hoá thông qua trung gian, hoặc kinh doanh chuyển khẩu.

Ví dụ: Một nhà nhập khẩu Việt Nam yêu cầu ngân hàng Việt Nam mở một L/C cho một người Singapore hưởng với trị giá 500.000 USD để mua một số hàng hoá sản xuất tại Indonesia. Hàng được giao trực tiếp từ Indonesia đến Việt Nam.

Trong ví dụ trên, nhà xuất khẩu Singapore phải mua hàng từ thị trường Indonesia để bán cho nhà nhập khẩu Việt Nam. Vì vậy, ở hoạt động kinh doanh chuyển khẩu này, trước hết nhà nhập khẩu Việt Nam phải làm giấy đề nghị ngân hàng Việt Nam, mở một L/C cho nhà xuất khẩu Singapore hưởng, nhà xuất khẩu Singapore mang L/C do ngân hàng Việt Nam mở đến ngân hàng Singapore, yêu cầu ngân hàng Singapore mở một L/C cho người hưởng lợi là nhà cung cấp hàng Indonesia. L/C do ngân hàng Singapore mở gọi là L/C giáp lưng.

Khi mở L/C mới cho nhà cung cấp Indonesia hưởng, ngân hàng Singapore sẽ giữ L/C do ngân hàng Việt Nam mở như là một vật đảm bảo.

Quy trình nghiệp vụ mở L/C giáp lưng được tiến hành như sau:

(1a), (1b) Hợp đồng thương mại quy định thanh toán bằng L/C.

(2) Người mua làm giấy đề nghị mở L/C gốc cho người môi giới hưởng và gửi tới ngân hàng mở L/C gốc.

(3) Ngân hàng mở L/C gốc chuyển L/C gốc này cho ngân hàng phục vụ người môi giới.

(4) Ngân hàng phục vụ người môi giới chuyển L/C gốc cho người môi giới.

(5) Người môi giới đề nghị ngân hàng phục vụ người môi giới căn cứ vào L/C gốc, mở L/C giáp lưng cho người bán hưởng.

(6) Ngân hàng phục vụ người môi giới mở L/C giáp lưng và chuyển cho ngân hàng thông báo.

(7) Ngân hàng thông báo chuyển L/C giáp lưng cho người bán.

Trong sơ đồ trên, ngân hàng phục vụ người môi giới vừa là ngân hàng thông báo L/C gốc vừa là ngân hàng mở L/C giáp lưng.

Về đại thể, L/C gốc và L/C giáp lưng giống nhau, nhưng đi vào chi tiết chúng có một số điểm khác nhau sau đây:

- Kim ngạch L/C gốc lớn hơn kim ngạch L/C giáp lưng. Khoản chênh lệch này do người trung gian hưởng dùng để trả chi phí mở L/C giáp lưng và phần hoa hồng của họ.

- Thời hạn giao hàng của L/C giáp lưng phải sớm hơn L/C gốc.

- Giá hàng trong L/C gốc lớn hơn giá hàng trong L/C giáp lưng…

Nghiệp vụ L/C giáp lưng rất phức tạp, nó đòi hỏi phải có sự kết hợp khéo léo và chính xác các điều kiện của L/C gốc với L/C giáp lưng, nhất là các vấn đề có liên quan đến vận đơn và các chứng từ hàng hoá khác.

       ● Thư tín dụng dự phòng (Stand by L/C)

L/C dự phòng là loại L/C trong đó ngân hàng mở L/C sẽ cam kết với người nhập khẩu sẽ thanh toán lại tiền cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo L/C đã đề ra.

L/C dự phòng thường được áp dụng trong trường hợp các khoản tín dụng mà người đặt hàng cấp cho người sản xuất như tiền đặt cọc, tiền ứng trước, chi phí mở L/C... chiếm tỷ trọng tương đối lớn so với trị giá của đơn đặt hàng. Việc bảo đảm hoàn lại số tiền đó khi người sản xuất không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng có ý nghĩa quan trọng.

● Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C)

là loại L/C chỉ bắt đầu có giá trị hiệu lực khi L/C kia đối ứng với nó đã mở ra.

Trong L/C ban đầu thường ghi "L/C này chỉ có giá trị khi người hưởng lợi đã mở lại một L/C đối ứng với nó để cho người mở L/C này hưởng" và trong L/C đối ứng phải ghi câu "L/C này đối ứng với L/C số ... mở ngày ... qua ngân hàng...".

Thư tín dụng đối ứng thường được sử dụng trong phương thức mua bán hàng đổi hàng (barter), ngoài ra không loại trừ khả năng dùng trong phương thức gia công quốc tế. Tuy nhiên, việc sử dụng trong gia công có nhiều phức tạp.

● Thư tín dụng thanh toán dần dần (Deferred payment L/C)

Thư tín dụng thanh toán dần dần là loại L/C không thể huỷ bỏ, trong đó ngân hàng mở L/C, hay ngân hàng xác nhận L/C cam kết với người hưởng lợi sẽ thanh toán dần dần toàn bộ số tiền của L/C trong những thời hạn đã quy định rõ trong L/C đó.

● Thư tín dụng không thể huỷ bỏ miễn truy đòi (Irrevocable without recourse L/C)

Thư tín dụng không thể huỷ bỏ miễn truy đòi là loại L/C mà sau khi người xuất khẩu đã được trả tiền thì ngân hàng mở L/C không có quyền đòi lại tiền người xuất khẩu trong bất cứ trường hợp nào.

Khi sử dụng loại L/C này người xuất khẩu phải ghi lên hối phiếu câu "miễn truy đòi lại người ký phát" và trong L/C cũng phải ghi như vậy.

L/C miễn truy đòi cũng được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế.

● Thư tín dụng chuyển nhượng (Transferable L/C)

Thư tín dụng chuyển nhượng là L/C không thể huỷ bỏ, trong đó quy định quyền của ngân hàng trả tiền được trả toàn bộ hay một phần số tiền của L/C cho một, hay nhiều người theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên. L/C chuyển nhượng chỉ được chuyển nhượng một lần. Chi phí chuyển nhượng thường do người hưởng lợi đầu tiên chịu.

Nội dung của L/C

Một L/C thường bao gồm những điều khoản sau đây:

* Số hiệu, địa điểm và ngày mở L/C.

- Tất cả các L/C phải có số hiệu (Credit No) riêng để trao đổi thư từ, điện tín có liên quan đến việc thực hiện L/C. Số hiệu của L/C còn được dùng để ghi vào các chứng từ có liên quan trong bộ chứng từ thanh toán của L/C (chẳng hạn hối phiếu bao giờ cũng phải ghi số L/C).

- Địa điểm mở L/C là nơi mà ngân hàng mở L/C viết cam kết trả tiền cho người xuất khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa trong việc chọn luật áp dụng khi xảy ra tranh chấp nếu có xung đột pháp luật về L/C đó.

- Ngày mở L/C (Date of issue) là ngày bắt đầu phát sinh sự cam kết của ngân hàng mở L/C với người xuất khẩu, là ngày ngân hàng mở L/C chính thức chấp nhận đơn xin mở L/C của người nhập khẩu, là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C và cuối cùng là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu thực hiện việc mở L/C có đúng hạn đã quy định trong hợp đồng hay không.

Ví dụ: L/C mở ngày 1/12/2009, nội dung có ghi: “We open our irrevocable credit in favour of yourselves by order of Mitsui Trading Co.Ltd Tokyo for not exceeding the amount of 50,000 USD expiring in HCM City for negotiation on 31th December 2009” (Chúng tôi mở thư tín dụng không thể hủy ngang cho ngài theo lệnh của công ty trách nhiệm hữu hạn Mitsui, Tokyo một số tiền không quá 50.000 USD, hết hạn giao dịch ngày 31/12/2009 tại TP HCM).

Như vậy thời gian hiệu lực của L/C này tính từ ngày mở 1/12/2009 đến ngày hết hiệu lực 31/12/2009 là 30 ngày.

Trong hợp đồng thương mại phải quy định rõ ngày giao hàng của người bán và ngày người mua phải mở L/C, chẳng hạn trễ nhất là bao nhiêu ngày trước ngày giao hàng (at the latest prior to the shipment date). Ví dụ: L/C phải được gửi tới tận tay người bán 25 ngày là chậm nhất, trước ngày giao hàng (Ngân hàng mở thông báo cho người bán bằng điện). Nếu L/C mở quá trễ, người bán có thể từ chối giao hàng mà không sợ vi phạm luật.

* Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ.

Những người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ gồm các thương nhân và các ngân hàng.

- Các thương nhân gồm người nhập khẩu (người yêu cầu mở L/C) và người xuất khẩu (người hưởng lợi L/C).

- Các ngân hàng tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm: ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo, ngân hàng trả tiền, ngân hàng xác nhận.

* Số tiền của L/C

Số tiền của L/C vừa ghi bằng chữ, vừa ghi bằng số và thống nhất với nhau. Tên của đơn vị tiền tệ phải rõ ràng vì cùng một tên gọi như Đô la nhưng trên thế giới có rất nhiều loại Đô la khác nhau như: đôla Mĩ (USD), đôla Hongkong (HKD). Không nên ghi số tiền dưới dạng số tuyệt đối vì ghi như thế, người xuất khẩu khó có thể giao hàng có giá trị đúng như L/C quy định, đặc biệt là đối với những mặt hàng rời như: than, gạo, ngô... Một khi giá trị hàng giao không khớp với giá trị trên L/C, nhà xuất khẩu khó có thể được thanh toán vì ngân hàng viện lý do chứng từ thanh toán không phù hợp với những điều đã quy định trong L/C.

Nên ghi một số giới hạn mà người xuất khẩu có thể đạt được dù hàng giao có tính chất nguyên cái, chiếc hay rời… “for a sum not exceeding a total of USD…” (một số tiền không vượt quá … đôla Mĩ), hoặc ghi một giới hạn chênh lệch hơn kém x% của tổng số tiền mà người xuất khẩu có quyền xuất trình chứng từ thanh toán như “…for an amount of X USD more or less ± y%” (một số tiền X USD hơn hay kém ± y%).

Các từ “khoảng” (about, approximately), “ước khoảng” (circa) hoặc các từ tương đương dùng để chỉ số tiền L/C, nên hiểu là cho phép xê dịch hơn kém không quá 10% của tổng số tiền đó (to exceed 10% more or less) (điều 39.1 UCP500).

Trừ khi L/C quy định số lượng hàng giao không được hơn kém, nói chung sẽ được phép có một khoảng chênh lệch trong phạm vi hơn kém 5%, miễn là tổng số tiền chi trả không được vượt quá số tiền của L/C. Ngoài ra, không được áp dụng mức chênh lệch này khi L/C quy định số lượng tính bằng số đơn vị bao, kiện, hoặc tính bằng đơn vị chiếc.

* Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng.

+ Thời hạn hiệu lực của L/C là khoảng thời gian bắt đầu tính từ ngày mở L/C (date of issue) đến hết ngày hết hiệu lực của L/C (expiry date). Đây là khoảng thời gian ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu, nếu người xuất khẩu xuất trình được bộ chứng từ thanh toán trong thời hạn đó và phù hợp với những điều quy định trong L/C.

Trong thời gian hiệu lực của L/C nhà nhập khẩu thường phải ký quỹ tại ngân hàng mở. Vì vậy, cần xác định một thời gian hiệu lực  hợp lý để tránh ứ đọng vốn của nhà nhập khẩu, nhưng cũng không gây khó khăn cho việc xuất trình chứng từ thanh toán của người xuất khẩu. Việc xác định này cần thoả mãn một số yêu cầu sau đây:

- Ngày mở L/C phải trước ngày giao hàng một khoảng thời gian hợp lý.

Thời gian hợp lý này được tính tối thiểu bằng tổng số của số ngày cần phải có để thông báo mở L/C, số ngày lưu L/C ở ngân hàng thông báo, số ngày kiểm tra L/C của nhà xuất khẩu, số ngày chuẩn bị hàng để giao cho người nhập khẩu. Nếu hàng xuất là hàng phức tạp, phải điều động từ xa ra cảng và phải tái chế biến lại trước khi giao, nếu thời điểm giao hàng vào mùa ẩm ướt… thì số ngày chuẩn bị hàng phải nhiều, ngược lại nếu hàng xuất là hàng sản phẩm công nghiệp thì không cần thiết đòi hỏi số ngày chuẩn bị quá lớn.

Ví dụ: Một công ty ở Pháp nhập hàng của Công ty XNK Tổng hợp 1. Ngày giao hàng quy định trong L/C là 31/12/2008, ngày mở L/C tối thiểu được tính như sau:

48 tiếng cho ngân hàng mở thực hiện mở L/C và thông báo nó.

24 tiếng cho Eximbank (ngân hàng thông báo) thông báo L/C cho Công ty XNK Tổng hợp 1.

20 ngày cho Công ty XNK Tổng hợp 1 chuẩn bị giao hàng.

Vậy tổng số ngày cần thiết là 23 ngày, hay ngày mở L/C tối thiểu phải trước ngày giao hàng 23 ngày (8/12/2008).

- Ngày hết hạn hiệu lực L/C phải ngay sau ngày giao hàng một khoảng thời gian hợp lý. Thời gian này tối thiểu phải bằng hoặc lớn hơn 21 ngày làm việc (điều 47 UCP 500).

Thời gian hợp lý bao gồm số ngày chuyển chứng từ từ nơi giao hàng đến cơ quan của người xuất khẩu, số ngày lập bộ chứng từ thanh toán, số ngày vận chuyển chứng từ thanh toán đến ngân hàng mở L/C (hay ngân hàng trả tiền), số ngày lưu giữ chứng từ tại ngân hàng thông báo.

Thông thường, thời gian hoàn tất bộ chứng từ tại các công ty xuất nhập khẩu khoảng từ 3-4 ngày. Thời gian lưu giữ chứng từ tại ngân hàng thông báo khoảng 2 ngày. Số ngày chuyển chứng từ còn phụ thuộc vào phương thức luân chuyển.

Nếu chuyển chứng từ bằng DHL từ Việt Nam đến:

- Nhật, Nam Triều Tiên, Singapore, Hồng Kông: 3-4 ngày.

- Châu Âu, Ý, Đức, Bỉ: 5-7 ngày.

Nếu thư gửi bằng máy bay

- Các nước Châu Á: 5 -7 ngày.

       - Các nước Châu Âu: 10-15 ngày.

       - Nếu chuyển chứng từ qua máy FAX mất khoảng 30 phút, qua Internet khoảng một vài phút (tuỳ thuộc độ dày của bộ chứng từ và khoảng cách đường truyền).

       Ví dụ: giao hàng ngày 31/12/2008 tại Hải Phòng, ngày hết hạn hiệu lực của L/C tính như sau:

       Số ngày chuyển chứng từ giao hàng từ Hải Phòng về đến trụ sở công ty xuất khẩu tại Hà Nội 1 ngày.

Số ngày lập chứng từ ở công ty XNK Tổng hợp 1 là 3 ngày.

Số ngày lưu giữ chứng từ tại Eximbank (ngân hàng thông báo): 2ngày.

Số ngày chuyển chứng từ đến ngân hàng mở L/C ở Châu Âu: 15 ngày.

Vậy ngày hết hạn hiệu lực của L/C tối thiểu phải vào ngày 21/1/2009.

+ Thời hạn trả tiền (date of payment): có thể là trả ngay, hoặc trả sau, điều này hoàn toàn tuỳ thuộc vào hợp đồng. Thời hạn trả tiền sẽ nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C (nếu là trả tiền ngay), hoặc có thể nằm ngoài thời hạn hiệu lực (nếu trả tiền có kỳ hạn). Mặc dù vậy, hối phiếu có kỳ hạn cũng phải được xuất trình để chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của L/C.

Với L/C trả tiền ngay (L/C at sight) người bán sẽ ký phát hối phiếu trả ngay với nội dung “available against presentation of your draft at sight on bank of Paris” (thanh toán khi xuất trình hối phiếu trả tiền ngay cho ngân hàng Paris).

Với L/C trả chậm (usance L/C) người bán sẽ ký phát hối phiếu có kỳ hạn (time draft) và xuất trình tại ngân hàng mở L/C ký chấp nhận trả tiền trong thời gian hiệu lực của L/C.

Ví dụ: ngày hết hạn hiệu lực của L/C vào ngày 21/1/2009. Hối phiếu D/A (Documents against acceptance) là 90 ngày. Vậy người xuất khẩu phải xuất trình hối phiếu và các chứng từ gửi hàng khác trước hoặc trong ngày 21/1/2009 để được chấp nhận. Tính từ ngày chấp nhận đó cộng thêm 90 ngày sẽ là ngày trả tiền hối phiếu D/A này (ngày 21/4/2009). Như vậy thời hạn trả tiền nằm ngoài thời gian hiệu lực của L/C nhưng hối phiếu đã được ngân hàng mở L/C chấp nhận, tức họ có nghĩa vụ trả tiền hối phiếu đó lúc đến hạn (21/4/2009).

+ Thời hạn giao hàng (Shipment date): do hợp đồng và L/C quy định. Thời hạn giao hàng nằm trong thời gian hiệu lực của L/C. Nếu hai bên đồng ý kéo dài thời gian giao hàng thêm bao nhiêu ngày, người bán cũng phải đề nghị kéo dài thời gian hiệu lực của L/C. Trái lại, nếu hai bên đồng ý kéo dài thêm thời gian hiệu lực của L/C, mà không nói đến việc kéo dài thời hạn giao hàng, người bán buộc phải giao hàng đúng hạn, chứ không được tự động kéo dài thời hạn giao hàng.

* Địa điểm hết hạn hiệu lực và địa điểm trả tiền.

Người bán thường mong muốn địa điểm hết hạn hiệu lực, địa điểm thanh toán tại nước mình, vì rằng họ có thể hoàn toàn chủ động trong việc xuất trình chứng từ thanh toán và việc thu tiền cũng được thực hiện sớm hơn. Ngược lại người mua mong muốn địa điểm hết hạn hiệu lực của L/C và địa điểm trả tiền tại nước họ vì rằng họ không phải trả tiền sớm.

* Những nội dung về hàng hoá như: tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá cả, quy cách phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu...

* Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hoá như: điều kiện giao hàng (FOB, CIF...), nơi gửi và nơi giao hàng, cách vận chuyển và cách giao hàng...

* Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình, số bản của mỗi loại chứng từ, yêu cầu về việc ký phát từng loại chứng từ đó như thế nào?

Ví dụ:

- Hối phiếu được ký phát cho ai, ngân hàng mở L/C, hay ngân hàng trả tiền, thời hạn trả tiền ngay, hay trả sau, đòi toàn bộ, hay một phần giá trị hoá đơn thương mại...

- Vận đơn đường biển loại gì, theo lệnh hay đích danh, hàng đã bốc lên tàu hay nhận hàng để chở, có yêu cầu sạch không, cước phí trả trước hay trả sau, thông báo cho ai (thường là cho người trả tiền), có nhận vận đơn rút gọn hay vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, có nhận vận đơn đến chậm không....

- V.v...

Các chứng từ gửi hàng mà người xuất khẩu phải xuất trình là nội dung quan trọng của L/C vì bộ chứng từ quy định trong L/C là bằng chứng chứng minh người xuất khẩu đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng đúng như L/C đã quy định. Căn cứ vào đó, ngân hàng mở L/C sẽ thanh toán tiền hàng cho người xuất khẩu nếu bộ chứng từ thanh toán phù hợp với các điều quy định trong L/C. Bộ chứng từ quy định nhiều hay ít tùy thuộc vào tính chất hàng, tùy theo sự thỏa thuận giữ hai bên mua bán trong hợp đồng.

* Sự cam kết trả tiền của ngân hàng mở L/C

Ví dụ: “We here by engage with the drawers, endorsers and bona fide holders of draft(s) drawn and presented in accordance with the terms of this credit, that the draft(s) shall be dully honoured on presentation” (chúng tôi cam kết với những người ký phát, ký hậu và người cầm hối phiếu trung thực đã được ký phát và được xuất trình phù hợp với các điều kiện của tín dụng này rằng các hối phiếu đó sẽ được tôn trọng khi xuất trình).

* Những điều khoản đặc biệt khác

Ngoài những nội dung nêu trên, L/C còn có thể có những nội dung khác như dẫn chiếu căn cứ pháp lý được sử dụng trong thanh toán bằng L/C…

Ví dụ: Tín dụng chứng từ này được lập theo “Thể lệ và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCPDC - Uniform Customs and Practice for Documentary Credit) ấn phẩm số 600, bản sửa đổi năm 2007 của Phòng Thương mại quốc tế, Paris, Pháp làm căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp.

* Chữ ký của ngân hàng mở L/C

       1.2.4.5. Một số chú ý trong thanh toán theo D/C

       ● Phát hành L/C

       Việc phát hành L/C được thực hiện theo trình tự các bước sau:

(1) Khách hàng có yêu cầu phát hành L/C phải xuất trình các giấy tờ theo yêu cầu của Ngân hàng Phát hành.

       Ở Việt Nam, khi có yêu cầu mở L/C, doanh nghiệp nhập khẩu thường phải gửi đến ngân hàng một số loại giấy tờ sau:

       - Thư yêu cầu mở L/C theo mẫu.

       - 01 bản sao hợp đồng mua bán ngoại thương hoặc giấy tờ có giá trị tương đương như hợp đồng.

       - 01 bản sao giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu (đối vói khách hàng giao dịch lần đầu).

       - Văn bản cho phép nhập khẩu của Bộ Thương mại hoặc Bộ quản lý chuyên ngành (đối với hàng nhập khẩu có điều kiện).

       (2) Tiếp nhận yêu cầu phát hành L/C

       Khi nhận được hồ sơ yêu cầu phát hành L/C của khách hàng, ngân hàng tiến hành triển khai các công việc sau:

- Kiểm tra số lượng và sự hợp lệ của các giấy tờ theo quy định, ký nhận và ghi rõ ngày, giờ nhận hồ sơ.

- Kiểm tra yêu cầu phát hành L/C. Nếu nội dung cầu phát hành L/C không rõ ràng, các điều kiện chỉ thị có mâu thuẫn thì hướng dẫn và yêu cầu khách hàng hoàn chỉnh trước khi phát hành L/C. Thanh toán viên không tự động sửa chữa hoặc bổ sung các chi tiết thay khách hàng. Thư yêu cầu phát hành L/C phải có đầy đủ chữ ký của Chủ tài khoản và Kế toán trưởng (nếu có). Mọi sửa chữa trên Thư yêu cầu phát hành L/C phải có chữ ký xác nhận của Chủ tài khoản, hoặc người được Chủ tài khoản ủy quyền.

(3) Xác định nguồn vốn đảm bảo thanh toán L/C

Nguồn vốn thanh toán L/C có thể bằng vốn tự có của khách hàng (khách hàng ký quỹ 100% hoặc một phần giá trị L/C), bằng vốn vay ngân hàng, hoặc bằng nguồn vốn do bên thứ ba bảo lãnh.

Đối với L/C xác nhận phải xác định phí xác nhận do ai chi trả.  Nếu phí xác nhận do người mua chịu, ngân hàng thu phí xác nhận từ nguồn vốn tự có của người mua; nếu do người bán chịu phải ghi rõ trong L/C.

Trường hợp Ngân hàng Thông báo đồng thời là Ngân hàng Xác nhận (đối với L/C phát hành bằng telex hoặc bằng thư), trong L/C phải ghi “Please add your confirmation”. Trường hợp Ngân hàng Xác nhận không phải là Ngân hàng Thông báo, thanh toán viên dự thảo điện liên hệ để đề nghị một Ngân hàng đại lý có quan hệ tốt với ngân hàng mở L/C đứng ra xác nhận, trình cán bộ có thẩm quyền duyệt (nếu khách hàng không chỉ định Ngân hàng Xác nhận). L/C phải ghi rõ tên, địa chỉ đầy đủ của Ngân hàng Xác nhận. Nếu Ngân hàng Xác nhận yêu cầu ký quỹ, thanh toán viên thông báo và yêu cầu khách hàng chuyển tiền ký quỹ. Số tiền ký quỹ không thấp hơn số tiền mà Ngân hàng mở L/C phải ký quỹ theo chỉ thị của Ngân hàng Xác nhận.

(4) Phát hành L/C

L/C có thể mở bằng thư máy bay (airmail), hay điện tín (by cable).

       Khi mở L/C bằng thư hàng không, L/C sẽ được phát hành 1 bản chính (one original) cùng 3 hoặc nhiều bản phụ không có giá trị giao dịch (non - negotiable copies). Bản chính và một bản sao sẽ được Ngân hàng Phát hành gửi cho Ngân hàng Thông báo. Ngân hàng này gửi bản chính cho người xuất khẩu và giữ lại bản sao để lưu hồ sơ. Một bản sao khác của L/C cùng với phiếu bảo nợ về chi phí ngân hàng (bank’s debit note of charges) sẽ được gửi đến người nhập khẩu - người mở L/C để thông báo về việc ngân hàng chính thức chấp nhận mở L/C theo yêu cầu và thu phí. Bản sao cuối cùng được ngân hàng mở L/C giữ lại để lưu trữ hồ sơ.

       Khi L/C mở bằng điện tín, ngân hàng mở L/C sẽ gửi một bản điện tín cho Ngân hàng Thông báo nêu tóm tắt, hoặc đầy đủ chi tiết (full particulars) về việc mở L/C, đồng thời xác nhận bản thông báo điện tín bằng thư hàng không theo hình thức thông thường của L/C, có ghi rõ: “This is the confirmation of our documentary credit opened by cable of today’s date” (Đây là bản xác nhận của tín dụng chứng từ chúng tôi mở bằng điện tín ngày hôm nay). Thường bản này chỉ có giá trị khi dùng cùng với bản thông báo bằng điện tín, tức việc trình các chứng từ phải kèm cả hai bản thông báo điện tín và bản xác nhận bằng thư về tín dụng chứng từ của ngân hàng mở L/C. Bản điện tín thường được xem như bản thông báo, và do đó được ghi “not negotiable” (không có giá trị giao dịch), nội dung sẽ có thể sửa đổi. Vì vậy người hưởng lợi không thể đem hối phiếu và các chứng từ đi giao dịch cho đến khi nhận được thư xác nhận của ngân hàng mở. Đôi khi nếu cần, ngân hàng mở có thể cho phép ngân hàng thông báo xem bản điện tín thông báo như có giá trị giao dịch để người hưởng lợi sẽ được trả tiền mà không phải chờ thư xác nhận.

● Thông báo L/C

       Việc thông báo mở L/C bằng thư hàng không (by airmail) thường ít tốn kém hơn thông báo bằng điện tín (tùy thuộc vào số chữ do ngân hàng dùng). Vì vậy, nếu hợp đồng sắp đến ngày hết hạn hoặc hợp đồng quy định L/C phải được ngân hàng thông báo bằng điện tín (banker’s cable) thì ngân hàng phát hành gửi một thông báo về L/C bằng điện tín và tiếp theo bằng thư xác nhận.

Khi nhận được L/C, sửa đổi L/C do các ngân hàng mở L/C gửi đến, Ngân hàng Thông báo có trách nhiệm kiểm tra và xác thực L/C.

       - Kiểm tra L/C: nếu L/C gửi bằng Telex phải xác nhận được mã đúng, bằng swift phải đúng với mẫu quy định, bằng thư phải xác định được chữ ký đúng. Trường hợp không xác định được mã hoặc chữ ký đúng phải tra soát ngay nơi phát hành bằng phương tiện nhanh nhất. Nếu bức điện bị chập hoặc bị lỗi, thư bị mờ, rách ngân hàng phải thông báo ngay cho nơi phát hành yêu cầu chuyển phát lại.

       - Kiểm tra tên, địa chỉ của người hưởng lợi, các chỉ dẫn của ngân hàng phát hành về việc thông báo L/C (thông báo trực tiếp hay thông báo qua ngân hàng thứ hai…), loại L/C (xác nhận chuyển nhượng…) để chọn phương thức thông báo (method of advice) cho phù hợp.

       - Đăng ký số tham chiếu L/C vào sổ theo dõi thông báo L/C, nhập dữ liệu vào máy tính để theo dõi.

       - Lập thông báo (theo mẫu) gửi khách hàng. Thư thông báo L/C, sửa đổi L/C được lập thành 02 bản, lưu 01 bản tại hồ sơ L/C.

       - Lập phiếu thu phí dịch vụ.

       Sau khi hoàn tất việc kiểm tra, kiểm soát ngân hàng thông báo phải đóng dấu và ghi ngày ký vào L/C gốc, giao một bản gốc L/C hoặc sửa đổi L/C kèm thư thông báo cho người thụ hưởng, hoặc ngân hàng của người thụ hưởng. L/C, sửa đổi L/C có thể giao trực tiếp cho khách hàng (yêu cầu khách hàng ký nhận vào bản L/C copy lưu tại hồ sơ ngân hàng), hoặc được gửi đảm bảo qua bưu điện. Đồng thời ngân hàng thông báo phải thông báo cho ngân hàng phát hành về việc nhận được L/C, sửa đổi L/C hoặc ý kiến của khách hàng về sửa đổi L/C nếu được yêu cầu.

● Điều chỉnh L/C

       Khi có nhu cầu điều chỉnh, sửa đổi L/C, khách hàng phải xuất trình thư yêu cầu sửa đổi L/C theo mẫu kèm văn bản thỏa thuận giữa người mua và người bán (nếu có) gửi đến ngân hàng phát hành L/C. Nếu chấp thuận yêu cầu của khách hàng ngân hàng phát hành sửa đổi L/C và gửi ngân hàng thông báo. Trường hợp cần có ý kiến của người hưởng lợi về sửa đổi L/C, trong nội dung thư sửa đổi thường ghi: “Trong vòng 3 ngày làm việc nếu không nhận được ý kiến gì từ phía các ngài, sửa đổi này coi như được chấp nhận”. Tuy nhiên khách hàng phải ghi vào yêu cầu sửa đổi “Ngân hàng không chịu trách nhiệm về việc chấp nhận hay không chấp nhận sửa đổi của người hưởng lợi”. Bởi vì, về nguyên tắc, mọi sửa đổi tín dụng không hủy ngang phải được sự đồng ý của các bên ký hợp đồng xuất nhập khẩu. Nếu sửa đổi mà bên ký hợp đồng không chấp thuận sẽ không có giá trị và có thể bị bên liên hệ từ chối và các điều khoản L/C vẫn không thay đổi. Nếu phí sửa đổi do người hưởng lợi chịu, trong sửa đổi L/C phải nêu rõ “Phí do người hưởng lợi chịu và sẽ được trừ khi thanh toán”.

● Hủy L/C

Trường hợp ngân hàng mở L/C nhận được điện hủy L/C từ ngân hàng nước ngoài trong thời gian hiệu lực của L/C, ngân hàng phải thông báo ngay cho người mở L/C và yêu cầu trả lời bằng văn bản. Khi nhận được trả lời của người mở L/C ngân hàng lập điện và chuyển cho ngân hàng thông báo.

Khi người mở L/C yêu cầu hủy L/C, nếu chấp nhận yêu cầu này ngân hàng lập điện hủy gửi ngân hàng thông báo. Về nguyên tắc, với các L/C không hủy ngang, việc hủy L/C phải được các bên tham gia đồng ý chấp thuận. Do đó, khách hàng phải cam kết tự chịu trách nhiệm trong trường hợp ngân hàng thông báo không gửi xác nhận hủy L/C trong thư yêu cầu hủy L/C. Trên cơ sở cam kết của khách hàng, ngân hàng phát hành điện hủy L/C và ghi rõ: “trong vòng 7 ngày làm việc nếu không nhận được trả lời thì L/C tự động hủy”. 30 ngày sau khi L/C hết hạn hiệu lực, ngân hàng hủy số dư L/C và hoàn trả ký quỹ cho khách hàng. Các ngân hàng không chấp nhận hủy L/C trong các trường hợp:

- Khách hàng đã nhận hàng thông qua bảo lãnh nhận hàng của ngân hàng.

- Có tranh chấp thương mại hoặc hai bên mua bán đã thỏa thuận nhưng chưa được sự chấp thuận hủy L/C của các ngân hàng liên quan.

       1.2.4.6. Ưu điểm và hạn chế của phương thức D/C

Ưu điểm

Phương thức tín dụng chứng từ là một phương thức thanh toán rất chặt chẽ về mặt thủ tục. Hơn thế nữa, trong phương thức thanh toán này, ngân hàng mở L/C không chỉ là một trung gian trong thanh toán, mà còn là người có nghĩa vụ trả tiền nhà xuất khẩu trong thời gian hiệu lực của L/C, với số tiền tối đa bằng số tiền của L/C, nếu nhà xuất khẩu xuất trình được bộ chứng từ thanh toán phù hợp với L/C. Vì vậy, đây là phương thức thanh toán đảm bảo chắc chắn quyền lợi cho nhà xuất khẩu. Về phía nhà nhập khẩu, mặc dù không có sự tín nhiệm đối với nhà xuất khẩu nhưng được ngân hàng mở L/C bảo lãnh thông qua việc cam kết trả tiền nên nhà nhập khẩu vẫn mua được hàng từ nhà xuất khẩu mà không phải thực hiện các biện pháp đảm bảo trực tiếp với nhà xuất khẩu như thanh toán trả trước… Xuất phát từ các ưu điểm nêu trên, thanh toán bằng L/C là phương thức được các doanh nghiệp sử dụng phổ biến trong thanh toán quốc tế hiện nay. Về phía ngân hàng, việc phát triển và hoàn thiện dịch vụ thanh toán bằng L/C cho khách hàng không chỉ góp phần gia tăng thị phần và thu nhập từ hoạt động kinh doanh đối ngoại mà còn từng bước mở rộng mạng lưới ngân hàng đại lý, nâng cao vị thế uy tín của các ngân hàng trên thị trường quốc tế.

Hạn chế

       Thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ đòi hỏi nhà xuất khẩu phải xuất trình được bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với những quy định trong L/C. Vì vậy, việc thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu có thể bị trì hoãn, hoặc bì từ chối nếu các chứng từ không phù hợp. Mặt khác, nếu nhà xuất khẩu không thận trọng khi ký hợp đồng và kiểm tra L/C có thể gây khó khăn cho nhà xuất khẩu trong việc giao hàng và xuất trình chứng từ do L/C có thể có những quy định quá cao, người bán không có khả năng thực hiện…

Xét về phía nhà nhập khẩu, thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ sẽ làm cho nhà nhập khẩu bị đọng vốn nếu nhà nhập khẩu phải ký quỹ tại ngân hàng ngay từ khi mở L/C. Thời gian hiệu lực của L/C càng dài, số tiền của L/C càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn của nhà nhập khẩu càng giảm đi. Đây chính là một trong những vấn đề mà nhà nhập khẩu cần quan tâm khi xác định loại L/C và thời hạn hiệu lực của L/C để giảm chi phí khi thanh toán bằng L/C. Mặt khác, như đã nêu trên, ngân hàng chỉ có trách nhiệm kiểm tra chứng từ về mặt hình thức; do đó, rủi ro sẽ có thể xảy ra với nhà nhập khẩu nếu hàng hoá nhà xuất khẩu giao không phù hợp với chứng từ.

Xét về phía ngân hàng mở L/C: trong phương thức tín dụng chứng từ, nghĩa vụ kiểm tra chứng từ và thanh toán tiền hàng cho người bán thuộc về ngân hàng phát hành L/C. Vì vậy, một sự không cẩn trọng của ngân hàng khi kiểm tra chứng từ đều có thể dẫn đến rủi ro. Bên cạnh đó, việc người mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán, hoặc can thiệp vào việc thanh toán giữa ngân hàng với người bán một cách bất hợp lý đều có thể gây nên những tranh chấp và rủi ro cho ngân hàng…

Tóm lại, mặc dù phương thức tín dụng chứng từ có rất nhiều ưu điểm, đảm bảo được quyền lợi của các bên tham gia thanh toán, tuy nhiên việc vận dụng phương thức này trong thực tiễn thanh toán quốc tế vẫn phát sinh nhiều tranh chấp và rủi ro, thiệt hại cho cả doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó một số nguyên nhân cơ bản là: do hiểu và vận dụng UCP không chính xác; do sự phức tạp của các luật điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế; do các bên ký kết các điều khoản của hợp đồng không hợp lý, không chặt chẽ; do sự phức tạp của quy trình và yêu cầu kỹ thuật trong thanh toán bằng L/C… Vì vậy, để hạn chế tới mức thấp nhất những tranh chấp, rủi ro, thiệt hại các bên cần hết sức chú ý trong từng nghiệp vụ cụ thể, nghiên cứu kỹ đối tác, ký kết các điều khoản của hợp đồng và L/C chặt chẽ, đúng luật, trung thực và có trách nhiệm trong việc thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết.

 

1.2.1. Phương thức chuyển tiền (Remittance)

1.2.1.1. Khái niệm

Chuyển tiền là phương thức trong đó khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định, bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.

Các bên tham gia:

- Người chuyển tiền/ Remitter (người đầu tư, kiều bào chuyển tiền về nước, người chuyển kinh phí ra nước ngoài), hoặc người trả tiền (người mua, người mắc nợ): là người yêu cầu ngân hàng chuyển tiền ra nước ngoài.

- Người hưởng lợi/ Beneficiary (người bán, chủ nợ, người tiếp nhận vốn đầu tư) hoặc là người nào đó do người chuyển tiền chỉ định.

- Ngân hàng chuyển tiền/ Remitting Bank: là ngân hàng ở nước người chuyển tiền.

- Ngân hàng trả tiền/ Paying Bank: là ngân hàng trả tiền cho người thu hưởng, thường là ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền ở nước người hưởng lợi.

1.2.1.2. Quy trình thanh toán

Trong thanh toán thương mại quốc tế, chuyển tiền có thể được thực hiện trước hoặc sau khi giao hàng. Quy trình thanh toán thực hiện theo các bước sau:

 

(1) Giao dịch thương mại.

Trường hợp thanh toán trả trước, giao dịch thương mại chính là điều khoản thanh toán trả trước trong hợp đồng ngoại thương đã kí. Trường hợp thanh toán trả sau, giao dịch thương mại được thể hiện ở bằng chứng đã giao hàng.

(2) Phát hành lệnh chuyển tiền (bằng thư hoặc bằng điện) cùng với uỷ nhiệm chi (nếu có tài khoản mở tại ngân hàng).

(3) Chuyển tiền ra nước ngoài qua ngân hàng đại lý.

(4) Ngân hàng chuyển tiền cho người hưởng lợi.

Có các phương tiện chuyển tiền sau: chuyển bằng thư (Mail Transfer - M/T); chuyển bằng điện (Telegraphic Transfer - T/T); chuyển tiền qua mạng SWIFT (Soceity for Worldwide Interbank Financial Telecommunications). Chuyển tiền bằng thư có thể là thư bảo đảm, chuyển phát nhanh. Chuyển tiền bằng điện cũng có nhiều cách: Fax, Telex, hoặc E-bank.

1.2.1.3. Ưu nhược điểm và các trường hợp áp dụng

● Ưu nhược điểm

Trong phương thức chuyển tiền, ngân hàng chỉ là trung gian thực hiện theo uỷ nhiệm để hưởng phí cung cấp dịch vụ, chứ không bị ràng buộc gì cả. Việc giao hàng của bên xuất khẩu và chuyển tiền của bên nhập khẩu hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí, sự chủ động và khả năng của mỗi bên. Vì vậy, quyền lợi của người xuất khẩu khó được bảo đảm nếu thực hiện thanh toán trả sau. Trái lại, quyền lợi của người chuyển tiền - người nhập khẩu khó được đảm bảo nếu thực hiện thanh toán trả trước. Phương thức này có ưu điểm: thủ tục thanh toán đơn giản, thời gian thanh toán nhanh chóng.

● Trường hợp áp dụng 

- Thanh toán các chi phí có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá.

- Ứng trước tiền hàng, tiền bồi thường do vi phạm hợp đồng.

- Các hợp đồng có giá trị thấp, hai bên mua bán tin tưởng lẫn nhau.

- Chuyển vốn ra nước ngoài để đầu tư, hoặc chi tiêu phi mậu dịch.

- Chuyển kiều hối.

1.2.2. Phương thức ghi sổ (Open Account)

1.2.2.1. Khái niệm

Phương thức ghi sổ là một phương thức thanh toán trong đó, người bán mở một tài khoản (hoặc một quyển sổ) để ghi nợ người mua sau khi đã hoàn thành việc giao hàng, hay dịch vụ. Đến từng định kỳ nhất định người mua dùng phương thức chuyển tiền, hoặc phát hành séc… để trả tiền cho người bán.

Đặc điểm của phương thức thanh toán:

- Đây là một phương thức thanh toán không có sự tham gia của ngân hàng trong từng lần giao hàng với chức năng là người mở tài khoản và thực thi thanh toán.

- Chỉ mở tài khoản đơn biên, không mở tài khoản song biên. Nếu người mua mở tài khoản để ghi thì tài khoản ấy chỉ là tài khoản theo dõi, không có giá trị thanh toán giữa hai bên, trong từng lần thanh toán.

1.2.2.2. Quy trình thanh toán

 

(1) Giao hàng, hoặc dịch vụ cùng với gửi chứng từ hàng hoá.

(2) Báo nợ trực tiếp.

(3) Người mua dùng phương thức chuyển tiền, hoặc phát hành séc… để trả tiền người bán khi đến kỳ hạn thanh toán.

1.2.2.3. Ưu nhược điểm và các trường hợp áp dụng

● Ưu nhược điểm

- Người nhập khẩu không phải trả tiền ngay sau khi nhận hàng, nhờ đó giảm được áp lực tài chính do được trả chậm.

- Sau khi nhận hàng, người nhập khẩu có thể không thanh toán theo đúng thỏa thuận, làm tăng chi phí kiểm soát các khoản phải thu, tăng rủi ro tín dụng.

● Trường hợp áp dụng

- Hai bên mua bán thực sự tin cậy lẫn nhau.

- Thanh toán tiền hàng trong trường hợp là đại lý bán, mua bán hàng đổi hàng, nhiều lần, thường xuyên trong một thời kỳ nhất định.

- Thanh toán phi mậu dịch như: chi phí vận tải, phí bảo hiểm, tiền hoa hồng trong nghiệp vụ môi giới, uỷ thác, lãi cho vay và đầu tư…

1.2.2.4. Những điều cần chú ý khi áp dụng phương thức ghi sổ

- Quy định thống nhất đồng tiền ghi trên tài khoản.

- Căn cứ ghi nợ của người bán thường là hoá đơn giao hàng.

- Căn cứ nhận nợ của người mua là gì (thường dựa vào kết quả nhận hàng ở nơi nhận hàng).

- Chuyển tiền bằng thư, hay bằng điện.

- Giá hàng trong phương thức ghi sổ thường cao hơn giá hàng trong trường hợp trả tiền ngay. Chênh lệch này là số tiền lãi phát sinh của số tiền ghi sổ trong khoảng thời gian bằng định kỳ thanh toán, theo mức lãi suất được người mua chấp nhận.

- Định kỳ thanh toán có hai cách quy định:

+ Hoặc là quy định X ngày kể từ ngày giao hàng đối với từng chuyến hàng. Ví dụ: 60 ngày kể từ ngày ký phát hoá đơn thương mại, hoặc từ ngày ghi trên vận đơn giao hàng.

+ Hoặc là quy định theo niên lịch. Ví dụ: cuối quý thanh toán một lần.

- Việc người mua chuyển tiền thanh toán chậm được giải quyết thế nào, có phạt chậm trả không, mức phạt bao nhiêu, tính từ lúc nào?

- Nếu phát sinh sự khác nhau giữa số tiền ghi Nợ của người bán và số tiền nhận Nợ của người mua thì giải quyết như thế nào?

1.2.3. Phương thức nhờ thu (Collection of payment)

1.2.3.1. Khái niệm

Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh toán trong đó người bán sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, hoặc cung ứng một dịch vụ nào đó cho khách hàng thì uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua, trên cơ sở hối phiếu của người bán lập ra.

Các bên tham gia phương thức nhờ thu gồm có:

- Người ủy thác nhờ thu (Principal): là người ra chỉ thị nhờ thu. Trong thương mại quốc tế, người ủy thác nhờ thu là người bán/ người hưởng lợi.

- Ngân hàng nhờ thu (Remitting Bank): là ngân hàng nhận ủy thác thu tiền của người ủy thác nhờ thu. Thông thường, đó là ngân hàng phục vụ bên bán, nơi người bán mở tài khoản tiền gửi thanh toán.

- Ngân hàng thu hộ (Collecting Bank): thường là đại lý của ngân hàng bên bán, có trụ sở ở nước người mua. Ngân hàng thu hộ nhận nhờ thu từ ngân hàng nhờ thu và thực hiện thu tiền từ người trả tiền theo chỉ thị trong lệnh nhờ thu, sau đo chuyển cho ngân hàng nhờ thu.

- Người người trả tiền (Drawee): trong thanh toán nhờ thu, người trả tiền là người mua.

1.2.3.2. Các loại nhờ thu

Có hai loại nhờ thu:

- Nhờ thu phiếu trơn/ Clean collection (còn gọi là uỷ thác thu không kèm chứng từ, hay nhờ thu hoàn hảo) .

- Nhờ thu kèm chứng từ/ Documentary collection (còn gọi là uỷ thác thu kèm chứng từ).

►Nhờ thu phiếu trơn

● Khái niệm

Nhờ thu phiếu trơn là phương thức nhờ thu trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua chỉ căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ thương mại thì gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng.

● Quy trình thanh toán

 

(1) Người bán gửi hàng và chứng từ hàng hoá cho người mua.

(2) Người bán ký phát hối phiếu đòi tiền người mua và uỷ thác cho ngân hàng nước mình đòi tiền hộ theo hối phiếu.

(3) Ngân hàng phục vụ bên bán chuyển hối phiếu sang ngân hàng đại lý của mình ở nước người mua.

(4) Ngân hàng đại lý yêu cầu người mua trả tiền hối phiếu (nếu là hối phiếu trả tiền ngay), hoặc chấp nhận hối phiếu (nếu mua chịu).

(5) Ngân hàng đại lý chuyển tiền thu được cho người bán. Nếu chỉ là chấp nhận hối phiếu thì ngân hàng giữ lại hối phiếu hoặc chuyển trả người bán. Khi đến kỳ hạn thanh toán, ngân hàng sẽ đòi tiền ở người mua và thực hiện việc chuyển tiền như trên.

● Trường hợp áp dụng

- Người bán, người mua tin cậy lẫn nhau, hoặc có quan hệ liên doanh với nhau, hoặc thanh toán giữa công ty mẹ với công ty con, hoặc là chi nhánh của nhau.

- Thanh toán các dịch vụ có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá (vì việc thanh toán này không cần phải kèm theo chứng từ) như: tiền cước phí vận tải, phí bảo hiểm, tiền bồi thường, v.v...

- Thanh toán hàng xuất khẩu có giá trị nhỏ, hàng ứ đọng khó tiêu thụ.

Phương thức nhờ thu phiếu trơn không được áp dụng nhiều trong thanh toán về mậu dịch vì nó không đảm bảo quyền lợi cho người bán. Do việc nhận hàng của người mua hoàn toàn tách rời khỏi khâu thanh toán, nên người mua có thể nhận hàng mà không trả tiền hoặc chậm trễ trả tiền. Đối với người mua, áp dụng phương thức này cũng có điều bất lợi, vì nếu hối phiếu đến sớm hơn chứng từ hàng hoá, người mua trả tiền ngay, trong khi không biết việc giao hàng của người bán có đúng hợp đồng hay không.

►Nhờ thu kèm chứng từ

● Khái niệm

Nhờ thu kèm chứng từ là phương thức nhờ thu trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu, mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá gửi kèm theo với điều kiện là nếu người mua trả tiền, hoặc chấp nhận hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ hàng hoá cho người mua để nhận hàng.

Nhờ thu kèm chứng từ có các loại:

- D/P: Nhờ thu trả tiền trao chứng từ - Documentary against payment. Người mua trả tiền ngay khi chứng từ được xuất trình (payable at sight). Đây là điều kiện thanh toán trả ngay. Thông thường người trả tiền phải thanh toán trong vong 3 ngày làm việc khi bộ chứng từ được xuất trình.

- D/P x days sight: Nhờ thu trả tiền trong khoảng thời gian x ngày kể từ ngày bộ chứng từ được xuất trình. Khác với D/P, nhà nhập khẩu không phải trả tiền ngay, mà được phép trả tiền trong khoảng thời gian x ngày sau khi nhìn thấy bộ chứng từ.

- D/A: Nhờ thu chấp nhận trả tiền trao chứng từ - Documentary against acceptance. Điều kiện này hàm ý, người xuất khẩu cấp tín dụng cho người nhập khẩu. Thời gian cho vay chính là thời hạn của hối phiếu.

- D/OT. Ngoài các điều kiện thanh toán phổ biến nêu trên, trong thực tế còn có các điều kiện trao chứng từ khác như: thanh toán từng phần, đổi chứng từ lấy kì phiếu, đổi chứng từ lấy giấy nhận nợ…

● Quy trình thanh toán

Quy trình thanh toán nhờ thu kèm chứng từ cũng giống nhờ thu phiếu trơn chỉ khác ở một số điểm sau:

- Ở bước (1) người bán chỉ gửi hàng hoá cho người mua.

- Ở bước (2), (3), (4) ngoài hối phiếu còn có bộ chứng từ hàng hoá đi cùng.

● Ưu, nhược điểm

Ưu điểm: trong nhờ thu kèm chứng từ, người bán không chỉ uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền, mà còn nhờ ngân hàng khống chế bộ chứng từ hàng hoá đối với người mua. Đây là sự khác nhau cơ bản giữa nhờ thu kèm chứng từ và nhờ thu phiếu trơn. Với cách khống chế này, quyền lợi của người bán được đảm bảo hơn.

Tuy vậy, nhờ thu kèm chứng từ vẫn còn một số nhược điểm sau đây:

- Người bán thông qua ngân hàng mới khống chế được quyền định đoạt hàng hoá đối với người mua, chứ chưa khống chế được việc trả tiền của người mua.

- Người mua có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa nhận chứng từ hàng hoá, hoặc có thể không trả tiền cũng được khi tình tình thị trường bất lợi cho họ.

- Việc trả tiền còn quá chậm chạp, từ lúc giao hàng đến lúc nhận được tiền có khi kéo dài vài tháng, hoặc nửa năm.

- Trong phương thức này ngân hàng chỉ đóng vai trò là trung gian thu hộ tiền, còn không có trách nhiệm đến việc trả tiền của người mua. Vì vậy, đôi khi người bán bị từ chối bộ chứng từ và vẫn tiếp tục giữ quyền sở hữu hàng hoá. Rủi ro xảy ra đối với người bán ở đây là các chi phí chuyên chở hàng hoá và phí bảo hiểm đã thực hiện.

- Về phía người mua: phương thức thanh toán này qui định người mua có trách nhiệm trả tiền ngay, hoặc chấp nhận trả tiền mới được nhận bộ chứng từ để nhận hàng, nên không kiểm tra trước được hàng hoá. Người mua có thể gặp rủi ro trong trường hợp hàng hoá mô tả trên chứng từ không phù hợp với số lượng, chất lượng hàng hoá thực tế và trong hợp đồng.

1.2.3.3. Một số vấn đề cần lưu ý khi sử dụng phương thức nhờ thu

Muốn thanh toán bằng phương thức nhờ thu người bán phải lập một thư uỷ thác nhờ thu gửi đến ngân hàng phục vụ mình nhờ thu hộ tiền. Trong thư uỷ thác nhờ thu, người bán phải đề ra những điều kiện nhờ thu và được ngân hàng chấp nhận. Đây là chứng từ pháp lý điều chỉnh quan hệ giữa người bán và ngân hàng phục vụ người bán.

- Thông tin về chuyến hàng: số hóa đơn, vận đơn và giá trị nhờ thu.

- Phí nhờ thu do ai chịu? Có thể quy định như sau:

Chi phí và lệ phí của ngân hàng nhận uỷ thác sẽ do người xuất khẩu trả, các chi phí và lệ phí đối với ngân hàng đại lý thì do người nhập khẩu thanh toán. Nếu không quy định ngân hàng thu hộ phải gánh chịu.

Trong trường hợp bị từ chối thanh toán hợp lý có khi người bán phải chịu luôn cả chi phí và lệ phí đối với ngân hàng đại lý.

- Điều kiện chuyển chứng từ: yêu cầu ngân hàng chuyển chứng từ bằng điện hay bằng thư.

- Các chỉ thị trong trường hợp từ chối thanh toán, từ chối chấp nhận

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#duyanh