pl Hindu,châu phi,XHCN,XHCN ơ đông âu+châu á, pl hồi giáo

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Pháp luật Hindu giáo ở Ấn Độ

Pháp luật Hindu không phải là pháp luật Ấn Độ, nó chỉ là pháp luật của cộng đồng theo đạo Hindu ở Ấn Độ và một số nước thuộc Đông Nam Á. Cũng như pháp luật Hồi giáo, đạo Hindu bắt buộc môn đồ của mình phải có niềm tin vào những giáo điều và cách nhìn nhận thế giới nhất định

      Pháp luật Hindu qua các giai đoạn phát triển của Hồi giáo, và sự thống trị của người Anh đã có những sự biến dạng đáng kể, điều này đã làm cho nó phai nhạt nhứng giá trị truyền thống.

      Hiến pháp Ấn Độ đã hủy bỏ chế độ đẳng cấp trong pháp luật Hindu. Các vấn đề về hôn nhân và ly hôn đã được cải tổ cơ bản trong Luật hôn nhân năm 1955.

      Pháp luật Hindu chỉ áp dụng phổ biến trong cộng đồng người theo Hindu giáo. Xu hướng của Ấn Độ hiện nay là pháp luật quốc gia được áp dụng cho mọi công dân không phụ thuộc vào tôn giáo của họ

      Sastra: Những quy phạm nói về cách ứng xử của con người. Có 3 dạng Sastra vì thế giới và xử sự của con người được xác định bởi 3 động lực: đức hạnh, sự ham muốn và nỗi khoái cảm. Sastra dạy cách xử sự phù hợp với ý trời - đó là khoa học Dhama, những Sastra khác dạy làm giàu và chỉ huy người khác (artha - khoa học về lợi ích và chính trị), (kama - dạy hưởng khoái lạc như thế nào).

      Dharma: Dharma dựa trên niềm tin về một trật tự thế giới xuất phát từ bản chất của sự việc. Dharma nói về cách xử sự của con người mà không phân biệt những nghĩa vụ, bổn phận tôn giáo và pháp lý. Ví dụ Dharma quy định khi phạm lỗi phải gánh chịu những chế tài gì, xác định trong những trường hợp nào cần phải bố thí, những quy tắc nào khi tiếp khách. Cốt lõi của Dharma là những bổn phận phải tuân theo.

Pháp luật của các nước Châu Phi- sự ảnh hưởng của tập quán pháp     

      Châu Phi có một hệ thống tập quán phong phú. Mỗi cộng đồng đều có những nếp sống và tập quán riêng của mình.

      Các hệ thống pháp luật Châu Phi có những nét tương đồng về nguyên tắc, các chế định, kỹ thuật pháp lý, có thể nói rằng chúng tạo thành một hệ tộc chung mặc dù không rõ ai là ông tổ chung của chúng

      Người Châu Phi tập trung sự quan tâm và những vấn đề: nhóm người (đẳng cấp, làng xóm, bộ tộc..) chứ không quan tâm nhiều đến những yếu tố động hơn như cá nhân, gia đình.

      Đất đai thuộc về tổ tiên. Hôn nhân - đó là sự liên minh giữa hai gia đình chứ không phải là sự liên minh giữa hai con người. Cá nhân, mặc dù vẫn được công nhận, những nó chỉ có ý nghĩa khi gắn với cộng đồng, trong quan hệ đối với bên ngoài, chủ thể  là nhóm người chứ không phải là cá nhân.

      Người Châu Phi không tồn tại khoa học pháp lý cũng như luật gia, không có sự phân biệt nghĩa vụ luân lý và nghĩa vụ pháp lý, luật công và luật tư, luật dân sự và luật hình sự, pháp luật về tài sản và luật trái vụ gắn liền với khái niệm quy chế (status).

      Theo tập quán, ở Châu Phi khi có hành vi vi phạm tập quán xảy ra, việc hoà giải các bên liên quan được chú trọng hơn việc thiết lập nên quyền hạn.

      Thuật ngữ  “ công bằng” được hiểu trước hết là những gì bảo đảm sự gắn kết trong một nhóm người và sự hoà thuận, hiểu biết lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm.

Sự không đồng nhất về mặt ngôn ngữ, điều này dẫn tới việc không có sự hoà hợp trong các khái niệm pháp luật với khái niệm tập quán.

Xuất phát từ truyền thống xã hội, chẳng hạn gia đình Châu Phi khác với gia đình theo kiểu phương Tây

Khó có thể xác định ở mức độ nào một tập quán truyền miệng phù hợp với tập quán được toà án áp dụng. Phần lớn tập quán ở Châu Phi vẫn là những tập quán truyền miệng

      Một mặt, pháp luật thực định theo mô hình phương Tây được tiếp nhận ở Châu Phi.

      Mặt khác, để áp dụng pháp luật này vào thực tiễn, ngoài những cơ quan xét xử truyền thống, các toà án dạng Châu Âu cũng được thành lập có thẩm quyền trong tất cả các trường hợp khi các quy phạm luật tập quán không thể áp dụng: những tranh chấp mà một bên trong đó không phải là người Châu Phi, những tranh chấp liên quan đến những dạng quan hệ mới không do tập quán điều chỉnh.

      Sự tiếp nhận pháp luật Châu Âu ở Châu Phi không có được tính tổng thể và hoàn chỉnh. Nhà lập pháp sở tại vẫn có thể đưa vào những thay đổi trong pháp luật đó; cũng như vậy, các tòa án có thể loại bỏ những quy phạm nào đó mà họ cho là không thích hợp với những điều kiện địa phương. Kết quả là pháp luật những nước này ngày càng khác nhau và khác với pháp luật vào thời điểm mới được tiếp nhận. (bị tập quán hóa)

      Các hệ thống pháp luật hiện đại của Châu Phi có thể tiếp nhận thành công một số yếu tố luật tập quán truyền thống. Tuy nhiên nó cũng không tránh khỏi việc là suy thoái những giá trị truyền thống của luật tập quán.

      Thái độ của dân chúng đối với pháp luật mới rất khác nhau.

Pháp luật Xã hội chủ nghĩa

-         Thời kỳ pháp luật công xã Pari

-         Thời kỳ pháp luật Xô Viết

-         Pháp luật các nước dân chủ nhân dân sau chiến tranh thế giới lần thứ II

-         Pháp luật sau thời kỳ Liên Xô sụp đổ

Chú trọng pháp luật thực định (nguồn cơ bản của pháp luật xã hội chủ nghĩa là các quy phạm thành văn);

- Chú trọng tới hoạt động pháp điển hoá;

- Phân chia hệ thống pháp luật thành các ngành luật dựa trên tiêu chí: đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, chủ thể pháp luật.

Pháp luật Xô Viết

Chiếm vị trí quan trọng nhất trong hệ thống các quy phạm là những quy tắc xuất phát từ Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô hoặc từ các cơ quan của tổ chức này như: Bộ Chính trị, Ban bí thư, các ban của Đảng.v..;

Ý thức pháp luật của nhân dân chưa cao, vì thế các văn bản liên tịch giữa ban chấp hành Trung ương Đảng và Hội đồng Bộ trưởng trở nên phổ biến

Pháp luật XHCN ở Đông Âu

•         Luật được coi là nguồn chính của pháp luật. Quyền lực nhà nước được tập trung vào tay Quốc hội

•         Hoạt động pháp điển hoá được chú trọng;

•         Pháp luật của các nước Đông Âu chịu ảnh hưởng từ nhiều nhánh pháp luật khác nhau

•         Hệ thống pháp luật này ít nhiều có những quan niệm pháp lý chung của hệ thống pháp luật Rô ma- Giéc manh;

•         Pháp luật Liên Xô trở thành mô hình cho tất cả pháp luật các nước xã hội chủ nghĩa trong việc phân pháp luật thành các ngành luật khác nhau..

Pháp luật XHCN ở Châu Á

Khi nghiên cứu về pháp luật các nước xã hội chủ nghĩa ở Châu Á, không thể không tính đến yếu tố đặc thù của dân tộc, vì thế ở mỗi quốc gia, hệ thống pháp luật có những đặc thù riêng, chẳng hạn ở Mông Cổ, hệ thống pháp luật tương đồng với pháp luật của các quốc gia Châu Âu. Hoặc như ở Việt Nam, pháp luật lại mang dấu ấn trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể của đất nước.

Xu thế phát triển của pháp luật XHCN

•         Pháp luật xã hội chủ nghĩa trong một thời gian dài được coi là pháp luật giai cấp. Trong thời kỳ mới, tính giai cấp dần xóa nhòa

•         Pháp luật được coi là công cụ của quyền lực nhà nước; bên cạnh đó tiếp thu tinh hoa học thuyết ‘Nhà nước pháp quyền’

•         Đi tìm sự hài hòa giữa lợi ích nhà nước và công dân, mối quan hệ bình đẳng cần bằng về quyền và nghĩa vụ.

•         Quyền con người từng bước được thừa nhận

•         Đạo luật từng bước chiếm ưu thế là vị trí hàng đầu trong pháp luật; công tác pháp điển hóa ngày càng chuyên môn hơn

•         Quyền lực tư pháp ngày càng trở nên độc lập, nghề luật được quan tâm hơn

Sự ảnh hưởng của giáo lý Hồi giáo với pháp luật

      Pháp luật đạo Hồi liên quan đến phần “Shary’a” có nghĩa là “con đường cần theo”.  Nền tảng của pháp luật đạo Hồi một mặt chủ yếu dựa trên  nền tảng cơ bản của tôn giáo (Côran và Sunna).

      Tư tưởng thống trị trong đạo Hồi là tư tưởng thần quyền

      Trên nguyên tắc, pháp luật này chỉ áp dụng đối với những người theo đạo Hồi, nguyên tắc tôn giáo làm cơ sở cho pháp luật Hồi giáo sẽ không có hiệu lực nếu một trong các bên không phải là người theo đạo Hồi.

      Khoảng 30 quốc gia trên thế giới theo Hồi giáo, và 1 số coi đó là Quốc giáo

      Không 1 quốc gia nào áp dụng hoàn toàn luật hồi giáo, mà tồn tại song song đó là hệ thống luật thực định

Pháp luật thực định ở các nước Hồi giáo

      Pháp luật chịu ảnh hưởng nhiều của các nước phương Tây, đặc biệt là của Anh và Pháp, những quốc gia đã từng thuộc địa hoá các nước Hồi giáo;

      Pháp luật chịu ảnh hưởng của đạo Hồi, nhất là các quốc gia coi đạo Hồi là quốc giáo như Iran, Afghanistan. Nhiều giáo điều của đạo Hồi được thể chế hoá trong luật thực định;

      Pháp luật cho phép các công dân, nhất là công dân Hồi giáo, khi đứng trước tranh chấp, lựa chọn hoặc luật Hồi giáo hoặc luật thực định của quốc gia. Chính vì vậy, trong các nước Hồi giáo, bên cạnh toà án nhà nước còn có toà án của đạo Hồi (Toà Shari’a).

      Nhóm thứ nhất: Albania và các nước Trung Á (đạo Hồi không được khuyến khích phát triễn. Tuy đạo Hồi vẫn tồn tại song ảnh hưởng của nó rất hạn chế.

      Nhóm thứ hai: bao gồm Afghanistan, Pakistan, các quốc gia ở bán đảo Arap (Arập Xê- út, Cộng hoà Arap Yemen, Oman và Maxcate, Liên bang các Tiểu Vương Quốc Arap, Bahrein, Koweit, Qatar). Pháp luật các nước này thừa nhận tính tối cao của luật Hồi giáo. Ngoại lệ: Kuweit và Arab Seud.

      Nhóm thứ ba: bao gồm những quốc gia trong đó luật Hồi giáo chỉ được dùng để điều chỉnh một số lĩnh vực của đời sống xã hội (vấn đề nhân thân, hoạt động của các tổ chức tôn giáo, đôi khi cả chế độ ruộng đất), trong khi đó pháp luật “hiện đại” điều chỉnh những khía cạnh mới của các quan hệ xã hội

Cấu trúc pháp luật:

      Luật Hồi giáo bao gồm hai bộ phận. Bộ phận thứ nhất là học thuyết tôn giáo với các giáo điều mà một tín đồ phải tin. Bộ phận thứ hai là luật thần thánh quy định những gì mà một tín đồ phải làm và không được làm.

      Về nguyên tắc, luật Hồi giáo chỉ được áp dụng để điều chỉnh  mối quan hệ giữa những người Hồi giáo. Mối quan hệ của những người không phải Hồi giáo, sống ở quốc gia Hồi giáo, sẽ được điều chỉnh bằng các quy phạm khác.

      Pháp luật là sản phẩm của ý chí thần thánh. Nó không thể bị sửa đổi, và nó là con đường duy nhất cho các tín đồ noi theo.

Nguồn của pháp luật Hồi giáo:

_Kinh coran:

      Thánh kinh Coran gồm những lời dạy của Thánh Ala đối với người cuối cùng trong số những Nhà tiên tri và Sứ đồ của mình là Mahomed (570 - 632).

      Những quy định của Kinh Côran mang tính chất pháp lý trong số lượng nhất định các khổ thơ của Côran (luật gia Hồi giáo gọi là những khổ thơ pháp luật).

      Kinh Coran là một thánh kinh 114 chương, với 6.237 đoạn thơ bao gồm toàn bộ ý tưởng của Thánh Allâh dành cho Mohamet, là nguồn đầu tiên của luật Hồi giáo. Nội dung pháp lý của kinh Corann được tìm thấy trong khá nhiều đoạn, điều chỉnh nhiều vấn đề như: nhân dân (70 đoạn), quyền dân sự (70 đoạn), hình sự (30 đoạn), thủ tục tư pháp (13 đoạn), “hiến pháp” (10 đoạn), kinh tế và tài chính (10 đoạn), “luật quốc tế” (25 đoạn).

      “khi vay nợ nhau trong thời hạn xác định, cần viết ra thành văn tự. Phải nên có văn tự cụ thể giữa hai bên… hãy để người vay nợ xác nhận rõ… đừng ngần ngại viết ra dù nợ lớn hay nợ nhỏ, và thời gian cũng ghi rõ trên đó. Việc ấy sẽ hữu hiệu hơn như Thánh Allah nhận thấy, để được chắc chắn hơn về sau, và là cách tốt nhất để các bên khỏi nghi ngại nhau…”(Coran, 2:282).

      “Thượng Đế đã cho rằng việc buôn bán là hợp luật, còn cho vay lấy lãi là không hợp luật” (Coran, 2:282).

_Sunna

      Sunna kể về đời sống và hoạt động của Nhà tiên tri mà những người theo Hồi giáo cần phải theo.

      Sunna - tuyển tập những Adat - tức là những truyền thống liên quan đến những hành động và lời nói của Nhà tiên tri Mahomed do nhiều người sau này tái tạo lại.

      Chỉ những Adat chân chính mới có thể làm cơ sở để thảo ra những quy phạm pháp luật. Là nguồn thứ hai sau kinh Côran

      Sunna có tác dụng tái tạo lại các quy phạm tập quán tồn tại trước khi Hồi giáo xuất hiện

_Kias

      Kias - Những suy xét theo sự  việc tương tự. Nguồn này hình thành từ việc giải thích luật, đó là sự  “kết hợp giữa Thánh kinh và lý trí của con người”. Kias được xem như là phương thức giải thích và áp dụng pháp luật

Đặc trưng của Luật Hồi giáo

      Khó có thể phân biệt giữa các quy định của pháp luật và các quy định tôn giáo

      Luật Hồi giáo có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh lĩnh vực pháp luật truyền thống như hôn nhân – gia đình, thừa kế, hình sự.

      Hành vi hợp pháp và bất hợp pháp, hành vi nên làm và hành vi bị khiển trách

      Các văn bản pháp  luật do Nhà nước ban hành không thể làm thay đổi luật Hồi giáo mà chỉ có thể điều chỉnh những chi tiết mà luật Hồi giáo chưa cụ thể hoá hoặc còn bỏ trống.

      Các quy định của đạo Hồi được xây dựng ở mức rất khái quát, do đó tạo thuận lợi cho việc giải thích và áp dụng nó một cách mềm dẻo.

      Về nghề luật ở các nước Hồi giáo. Các bên tranh chấp không thường xuyên thuê luật sư đại diện, và đào tạo luật ở các nước này chủ yếu dành cho các học giả, hơn là cho những người hành nghề.

      Những người muốn làm thẩm phán hoặc luật sư phải theo học một khoá thần học, chứ không được đào tạo luật theo cách truyền thống.

      Luật sư được đào tạo chính quy không phải là người bào chữa duy nhất. Trên thực tế, người Hồi giáo thường tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho họ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro