Vụ giết người trong khách sạn

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trong số các bạn bè của Poirot và tôi có bác sĩ Hawker, một người hàng xóm, có uy tín trong giới y tế. Ông bác sĩ thân thiết đó có thói quen ngồi nói chuyện với chúng tôi sau bữa ăn tối.

Một tối đầu tháng sáu, ông tới chỗ chúng tôi khoảng tám giờ rưỡi và câu chuyện phiếm sa vào việc bàn luận tới các vụ đầu độc bằng thạch tín.

Chúng tôi nói chuyện với nhau và vào khoảng mười lăm phút thì cánh cửa phòng khách chợt bật mở, một người đàn bà hốt hoảng chạy vào giữa phòng.

- Ôi! Ông bác sĩ, người ta gọi ông...

Chúng tôi nhận ra đây là bà Rider, người hầu phòng của bác sĩ Hawker. Ông bác sĩ sống độc thân trong một căn hộ cách nhà chúng tôi độ vài chục mét. Bình thường thì bà Rider là người bình tĩnh và kín đáo nhưng lúc này tỏ ra hoàn toàn bối rối.

- Trời ơi! Bà Rider, có chuyện gì vậy?

- Điện thoại... Bác sĩ. Tôi nghe thấy tiếng người nói: "Cứu tôi với!", tôi hỏi lại: "Ai đấy?". Người ta cố trả lời tôi nhưng chỉ là những tiếng thở hổn hển. Tôi chỉ nghe lờ mờ... Foscatini... khách sạn Regent's Court... mà thôi.

Ông bác sĩ không thể giữ nổi vẻ ngạc nhiên:

- Bá tước Foscatini có một căn hộ ở khách sạn Regent's Court. Tôi cần tới đó ngay. Có việc gì xảy ra với ông ấy vậy?

- Đây là một trong những bệnh nhân của ông ư? – Poirot hỏi.

- Tôi chỉ chữa cho ông ấy thời gian ngắn gần đây về những bệnh tật nhẹ thôi. Đây là một người Ý, nhưng ông ấy nói tiếng Anh rất thạo. Tôi phải tạm biệt các ông thôi. Ông Poirot, nếu có thể...

Ông ta ngập ngừng.

- Tôi đã đoán ra điều ông muốn nói – Poirot cười đáp – Tôi rất vui lòng đi theo ông. Hastings, xuống gọi một chiếc taxi đi.

Một vài giây sau, xe chúng tôi chạy về mạn khách sạn Regent's Court. Ở đây có những khối nhà vừa xây dựng xong, có những căn hộ rất tiện lợi.

Không có ai ở dưới nhà khi chúng tôi tới cả. Ông bác sĩ gọi thang máy và sốt ruột bảo người phục vụ:

- Căn hộ số mười một. Bá tước Foscantini. Ở đây vừa xảy ra một tai nạn, tôi cho là như vậy.

Người phục vụ nhìn chằm chằm vào ông, ngạc nhiên.

- Tin đầu tiên! Graves, người hầu phòng của bá tước Foscatini, vừa mới đi khỏi đây khoảng nửa tiếng đồng hồ, anh ta không nói gì cả.

- Bá tước ở trong phòng một mình ư?

- Không, có hai ông khách cùng ăn bữa tối với ông.

- Họ là những người như thế nào? – Tôi hỏi.

- Tôi không trông thấy họ, thưa ông, nhưng tôi cho rằng họ là những người nước ngoài.

Thang máy đưa chúng tôi lên lầu hai, ngay trước phòng số mười một. Ông bác sĩ bấm chuông. Không có tiếng trả lời, không một tiếng động. Ông bấm chuông nhiều lần mà không đạt kết quả.

- Có chuyện nghiêm trọng rồi đây – Ông lẩm bẩm

Sau đó ông quay sang người phục vụ:

- Anh có chìa khóa cửa này không?

- Có một chiếc ở bàn giấy người gác cổng.

- Anh xuống lấy đi. Và tôi cho rằng anh nên gọi điện báo ngay cho cảnh sát.

Một thoáng sau người phục vụ quay trở lại có ông Giám đốc khách sạn đi theo.

- Thưa các ông, các ông cho biết đã có việc gì xảy ra?

- Chắc chắn là có chuyện – Ông bác sĩ trả lời – Tôi nhận được một cú điện thoại của bá tước Foscatini nói rằng ông bị tấn công và yêu cầu tôi đến giúp đỡ.

Ông Giám đốc mở cửa phòng và chúng tôi bước vào. Trước hết là phòng xép. Bên phải phòng xép có một cánh cửa để ngỏ.

- Phòng ăn – Ông giám đốc bảo chúng tôi.

Bác sĩ đi trước. Chúng tôi đi theo ông từng bước. Bước vào phòng tôi không thể nén được một tiếng kêu thảng thốt. Trên bàn có những bát đĩa sau bữa ăn, ba chiếc ghế để xa bàn như là những khách ăn vừa đứng lên.

Trong góc phòng, bên cạnh lò sưởi, một người đang ngồi trước bàn giấy.

Tay phải của người ấy đặt trên máy điện thoại, nhưng một cú đánh phía sau đầu đã làm người ấy gục lên bàn. Bên cạnh người chết là một pho tượng nhỏ bằng đá, có dính máu bị ném lăn lóc.

Một phút sau, người thầy thuốc hiểu rằng không có cách cứu chữa nào nữa.

- Cái chết xảy ra rất nhanh – Ông nói – Tôi tự hỏi làm thế nào mà ông ấy gọi dây nói được. Chúng ta không sờ mó vào vật gì khi cảnh sát chưa tới.

Chúng tôi bắt đầu quan sát căn hộ nhưng không thấy bóng một người nào. Khi chúng tôi quay lại phòng ăn. Poirot chăm chú xem xét kỹ bàn ăn. Một lọ hoa hồng trang điểm chiếc bàn. Hãy còn lại một ít hoa quả, nhưng ba đĩa đồ tráng miệng thì hết nhẵn: ba chiếc tách thì hai chiếc còn cặn cà phê pha rất đậm, một chiếc còn cặn cà phê sữa. Ba người đã uống rượu Marc vì vò rượu hãy còn đến một nửa. Một người hút xì gà, hai người khác thì hút thuốc lá.

Tôi xem xét các đồ vật, nhưng phải thừa nhận là chúng chẳng làm sáng tỏ cho tôi điều gì. Tôi lấy làm lạ khi thấy Poirot chăm chú nhìn các thứ trên bàn ăn. Tôi hỏi anh điều này.

- Anh bạn – Poirot nói – Anh không hiểu gì cả. Tôi tìm những thứ mà anh không nhận ra.

- Sao!

- Một sơ ý, một sơ ý dù nhỏ, do kẻ giết người để lại.

Anh đi đi, lại lại nhìn ngó các nơi, nhưng có vẻ không thấy cái mình đang tìm kiếm.

- Thưa ông – Anh nói với người Giám đốc – Xin ông cho biết cách phục vụ bữa ăn ở đây?

- Bữa ăn được chuyển đến các phòng bằng một loại thang máy riêng – Ông ta giải thích – Máy chạy từ nhà bếp lên tầng lầu cao nhất. Ông đặt món ăn bằng điện thoại và người ta chuyển lần lượt từng món lên theo thang máy. Bát đĩa sau bữa ăn cũng được chuyển xuống bếp theo cách đó. Như vậy ông không gặp khó khăn gì và ông có thể ăn các bữa trong khách sạn.

Poirot xác nhận

- Vậy bát đĩa của bữa tối bây giờ còn ở trong bếp không? Tôi có thể xuống xem được không?

- Ồ! Được chứ, Robert, người phục vụ sẽ đưa ông đi.

Chúng tôi cùng xuống bếp và hỏi chuyện người nhận đơn đặt hàng của căn hộ số mười một.

- Đơn đặt cho ba người ăn – Người đầu bếp nói – Canh, thịt bò thăn, cá thờn bơn, cơm rang.

- Vào lúc mấy giờ?

- Khoảng tám giờ – Người ấy nói – Tôi sợ rằng bát đĩa đã được rửa rồi. Ông muốn tìm dấu vân tay ư, tôi cho là như thế?

- Không đúng hoàn toàn – Poirot nói – Tôi muốn biết ông hầu tước và khách mời ăn khỏe ra sao thôi.

- Vâng, nhưng không thể nói chính xác số thức ăn họ đã dùng được. Bát đĩa đều dùng rồi, đĩa ăn đều hết sạch trừ món cơm rang thì còn lại rất nhiều.

- A! A! – Poirot kêu lên bằng giọng thỏa mãn.

Trong khi chúng tôi lên lầu hai, Poirot nói nhỏ vào tai tôi:

- Chúng ta đang làm việc với người rất cẩn thận.

- Anh nói về ông bá tước hay là kẻ giết người?

- Chắc chắn ông bá tước là con người chu đáo rồi. Sau khi gọi cấp cứu, ông ta đã gác máy điện thoại lên.

Tôi ngạc nhiên nhìn Poirot.

- Anh giả định ông ta bị đầu độc ư? – Tôi thì thầm – Cú đánh vào đầu chỉ là ngụy trang ư?

Poirot chỉ cười mà không trả lời.

*

Ông thanh tra cảnh sát và hai nhân viên tới nơi khi chúng tôi trở lại căn hộ. Poirot phải cầu cứu đến bạn anh là thanh tra Japp ở Scotland Yard để xin phép được vào trong nhà.

May mắn là chừng năm phút sau đó một người hớt hải chạy vào căn phòng.

Đó là Graves, người hầu phòng của bá tước Foscatini. Anh ta nói sáng hôm qua có hai ông khách đã tới thăm chủ anh ta. Đó là những người Ý. Người tuổi cao trong hai người, khoảng bốn mươi, tên là Ascanio, người trẻ hơn, khoảng hai mươi đến hai mươi nhăm.

Bá tước Foscatini đợi khách và khi họ tới ông sai Graves đi làm một số việc bên ngoài. Tới đây, người hầu phòng cảm thấy phân vân. Cuối cùng anh ta thú nhận là cuộc gặp gỡ này có điều gì đó đáng ngờ nên anh không vâng lệnh ông chủ mà đứng lại ghé tai qua cánh cửa.

Ba người nói rất nhỏ nhưng anh có thể đoán ra đây là câu chuyện về tiền nong và đe dọa lẫn nhau. Cuộc tranh cãi hình như rất căng thẳng. Cuối cùng bá tước cất cao giọng và Graves nghe rất rõ:

- Thưa các ngài, tôi không có thời gian để tranh luận lâu hơn nữa. Nếu các ngài vui lòng tới dùng bữa với tôi vào chiều mai thì chúng ta sẽ tiếp tục nói chuyện.

Sợ bị chủ bắt gặp, Graves không nghe trộm lâu hơn nữa.

Chiều nay, hai người ấy tới lúc khoảng tám giờ... Trong bữa ăn câu chuyện diễn ra bình thường, không có ý nghĩa gì. Khi Graves mang cà phê tới thì chủ anh nói là anh có thể đi ra ngoài.

- Đây có phải là thói quen mỗi khi có khách tới thăm của ông chủ anh không? – Ông thanh tra cảnh sát hỏi.

- Không, thưa ông. Tôi nghĩ do chủ tôi muốn nói những việc quan trọng với các ông khách ấy.

Anh ta đi ra lúc tám giờ ba mươi, gặp một người bạn, anh ta cùng bạn đi nghe hòa nhạc. Đó là hết lời khai của Graves.

Không một ai trông thấy hai vị khách ra về, nhưng người ta có thể thấy thời điểm của việc giết người là tám giờ bốn mươi bảy phút. Chiếc đồng hồ trên bàn bị tay Foscatini làm đổ đã dừng lại vào giờ ấy. Đây cũng phù hợp với thời điểm mà bà Rider nhận được cú điện thoại.

Sau khi khám nghiệm, bác sĩ pháp y cho đưa xác người chết lên giường.

- Tốt – Ông thanh tra cánh sát nhét sổ tay vào túi nói – Vụ này có vẻ đã rõ ràng, cái khó khăn là tóm được Ascanio. Tôi nghĩ rằng địa chỉ của hắn có trong sổ tay của bá tước.

Như xét đoán của Poirot, Foscatini là người cẩn thận. Trên sổ tay của ông ta chúng tôi đọc được một hàng chữ viết nắn nót: "Ngài Paolo Ascanio, khách sạn Grovenor".

Viên thanh tra chạy đến bên máy điện thoại và quay lại với chúng tôi sau đó một lát.

- Chúng ta làm việc rất kịp thời, quý ông ấy sắp rời xứ sở này. Thưa các ông, mọi việc ở đây đã xong. Đây là sự kiện đáng buồn nhưng đã rõ ràng.

*

Khi xuống nhà, bác sĩ Hawker có vẻ bị kích thích mạnh.

- Đây là đoạn đầu của cuốn tiểu thuyết - Ông ta nói – Không biết người ta có đọc không?

Poirot không nói gì. Anh mơ màng sau đó đã nói cả buổi chiều.

- Ông nghĩ gì, ông thày các thám tử? – Hawker hỏi và vỗ vào lưng anh – Chắc rằng ông chưa thấy được điều gì?

- Ông nghĩ như vậy ư?

- Thế thì điều gì?

- Này! Ví dụ như cái cửa sổ.

- Cửa sổ? Cửa sổ vẫn khép kín – Người thày thuốc nói.

- Ông có nhận xét gì khi nhìn cửa sổ?

Ông bác sĩ bối rối.

Poirot giải thích:

- Tôi muốn nói về tấm vải che cửa sổ. Rèm chưa được kéo để che cửa sổ. Cũng khá kỳ lạ... Rồi còn cà phê nữa, cà phê pha rất đặc.

- Thì đã sao?

- Rất đặc – Poirot nhắc lại – Còn nữa, ông có nhớ là họ ăn rất ít cơm không?

- Phải, nhưng tôi không biết anh muốn đưa chuyện này đến đâu – Tôi thú nhận.

- Anh không nghi ngờ gì người hầu phòng ư? Hắn có thể cùng đồng bọn cho thuốc độc vào cà phê. Tôi giả thiết rằng người ta sẽ xem lại những chứng cứ vô can của hắn chứ?

- Chắc chắn là thế, anh bạn, nhưng tôi lại chú ý đến chứng cứ vô can của Ascanio.

- Anh nghĩ ông ta không có bằng chứng không phạm tội sao?

- Đó là cái tôi đang suy nghĩ, nhưng chúng ta sẽ nhanh chóng biết rõ thôi.

*

Ascanio bị bắt và bị truy tố về tội giết bá tước Foscatini. Sau khi bị bắt ông ta khẳng định ông chưa bao giờ tới Regent's Court, cả buổi tối hôm xảy ra án mạng và cả sáng hôm trước. Người trẻ tuổi nói là đi theo ông đã hoàn toàn biết mất. Ascanio tới nước Anh hai ngày trước khi xảy ra vụ án và một mình trọ ở khách sạn Grosvenor. Mọi cố gắng tìm tung tích người trẻ tuổi đều không kết quả.

Tới ngày Ascanio bị đem ra xét xử thì ông đại sứ Ý tới tuyên bố với cảnh sát là Ascanio tới làm việc ở tòa đại sứ trong buổi tối xảy ra bi kịch, từ lúc tám giờ tới chín giờ. Người bị bắt được trả lại tự do. Tất nhiên nhiều người cho rằng đây là một vụ án chính trị đã bị bưng bít đi.

Poirot rất quan tâm tới vụ này. Do đó tôi không ngạc nhiên lắm khi anh nói với tôi một buổi sáng sau đó rằng anh chờ một vị khách và người đó chính là Ascanio...

- Ông ta muốn gặp riêng anh ư? – Tôi hỏi.

- Cả hai, Hastings. Chính tôi muốn nói chuyện với ông ấy.

- Về vấn đề gì?

- Về vụ án mạng ở Regent's Court.

- Anh sẽ chứng minh ông ta là thủ phạm ư?

- Một người không thể bị xử hai lần, Hastings. Anh hãy tỏ ra có thiện ý một chút. A! Đã có tiếng chuông gọi cửa của ông bạn ấy.

Vài phút sau Ascanio bước vào phòng. Đây là một người nhỏ nhắn và gày gò. Ông ta nhìn cả hai chúng tôi bằng con mắt nghi ngờ.

- Tôi hỏi ông Poirot?

Bạn tôi tiếp đón ông ta một cách đáng mến.

- Thưa ông, mời ông ngồi. Ông đã nhận được lá thư của tôi phải không? Tôi quyết định đi tới cùng vụ án này. Chúng ta bắt đầu: ông và bạn ông đã tới thăm bá tước Foscatini sáng hôm thứ ba phải không?

Người này có một cử chỉ tức giận.

- Chưa bao giờ. Tôi đã thề trước tòa rồi.

- Tôi biết điều đó, nhưng tôi cho rằng ông đã nói dối.

- Ông dọa nạt tôi ư?

- Tốt hơn cả là ông nên thành thật với tôi. Tôi không hỏi lý do ông đến nước Anh. Tôi biết là ông tới chỉ là để gặp bá tước Foscatini mà thôi.

- Hắn không phải là bá tước – Người Ý càu nhàu.

- Tôi đã lưu ý rằng tên của lão ta không có trong tự điển Gotha.

- Tôi thấy là ông đã biết rõ tất cả, tôi chỉ còn cách là nói thật với ông. Phải, tôi đã đến gặp Foscatini sáng thứ ba, nhưng không tới vào cái tối hắn bị giết. Tôi không còn lý do gì để gặp hắn nữa. Tôi xin giải thích: Foscatini là một kẻ tống tiền. Một số giấy tờ của một người có cấp bậc rất cao của nước Ý nằm trong tay hắn. Hắn đòi một số tiền lớn để chuộc lại những giấy tờ ấy vào sáng

- thứ ba. Một viên thư ký trẻ tuổi ở Sứ quán đi theo tôi. Foscatini tỏ ra rất nhã nhặn mà tôi không thể tưởng tượng nổi. Nhưng số tiền chuộc hắn đòi cũng khá lớn.

- Xin lỗi, ông đã trả khoản tiền trên như thế nào?

- Bằng giấy bạc loại nhỏ của Ngân hàng Ý. Tiền và các giấy tờ đã được trao đổi tận tay. Chúng tôi không gặp hắn từ sau đó nữa.

- Tại sao ông không nói chuyện này khi người ta bắt giữ ông?

- Tôi ở trong một hoàn cảnh khá tế nhị, tôi không thể thú nhận là đã biết hắn ta được.

- Như vậy thì ông giải thích như thế nào những việc xảy ra vào cái tối có vụ giết người ấy?

- Tất cả những điều tôi phỏng đoán là có kẻ nào đó đội lốt tôi. Tôi biết là người ta không tìm thấy tiền trong căn hộ ấy.

Poirot nhìn ông ta và gật đầu.

- Tôi tin ông, ông Ascanio. Câu chuyện của ông phù hợp với những điều tôi suy nghĩ, nhưng tôi muốn nghe ông cho chắc chắn hơn. Xin tạm biệt ông.

Sau khi tiễn khách, Poirot trở lại, ngồi xuống ghế, mỉm cười:

- Này, đại úy Hastings, anh thấy chuyện này như thế nào?

- Tôi cho rằng Ascanio nói có lý, một kẻ nào đã đội lốt ông ta.

- Không, không, anh chưa suy nghĩ kỹ. Anh hãy nhớ lại những điều tôi nói khi ở căn hộ người chết ra về. Tôi nói tấm rèm cửa chưa được kéo ra. Chúng ta đang ở vào tháng sáu. Vào tám giờ tối trời còn sáng. Mặt trời lặn vào nửa tiếng đồng hồ sau đó. Cái đó có nói gì với anh không? Còn cà phê nữa, tôi nói là cà phê quá đậm. Răng của Foscatini lại rất trắng. Cà phê thường bám vào răng. Chúng ta kết luận rằng Foscatini không uống cà phê. Lúc ấy cặn cà phê còn trong ba chiếc tách. Tại sao một người nào đó muốn làm cho mọi người tin rằng Foscatini đã uống cà phê trong khi lão ta không uống gì cả?

Tôi rối trí, lắc đầu.

- Nào, tôi sẽ giúp anh. Có gì làm cho người ta tin rằng Ascanio là người đi theo tới căn hộ của Foscatini vào cái tối lão bị giết? Chẳng một ai nhìn thấy họ đi vào cũng như từ căn hộ đi ra. Chúng ta chỉ có những chứng cứ mơ hồ...

- Anh muốn nói sao?

- Tôi muốn nói, dao, nĩa đều dùng rồi, bát đĩa đều đã hết thức ăn. A! Thật là ranh mãnh. Graves là một tên kẻ cắp nhưng là một người biết đề phòng. Hắn đã nghe trộm được câu chuyện sáng hôm trước và biết rằng Ascanio khó tự bào chữa. Chiều hôm sau hắn nói với chủ là có điện thoại gọi ông, Foscatini ngồi xuống cầm lấy ống nói, trong lúc ấy thì Graves đánh lão bằng pho tượng nhỏ bằng đá. Sau đó hắn gọi dây nói đặt bữa ăn cho ba người. Khi thức ăn được chuyển lên, hắn làm bẩn các thìa nĩa. Nhưng phải ăn hết thức ăn. Là một kẻ phàm ăn, hắn đã nghĩ đến chuyện này. Nhưng đến món cơm rang thì hắn đã quá no rồi. Hắn hút một điếu xì gà và hai điếu thuốc lá. Anh thấy, thế là xong. Sau khi vặn kim đồng hồ đúng tám giờ bốn mươi bảy phút, hắn làm ngừng chạy và lật đổ đồng hồ. Hắn chỉ quên kéo tấm rèm che cửa sổ. Nếu Foscatini thực sự mời khách dùng bữa thì rèm cửa đã được kéo lên tối trời rồi. Sau đó Graves đi ra, nói với người phục vụ thang máy là chủ hắn đang tiếp khách. Hắn chạy vội đến một trạm điện thoại giả tiếng kêu cứu của chủ để gọi bác sĩ vào lúc tám giờ bốn mươi bảy phút. Mọi người tin hắn mà không tự hỏi thực ra có ai gọi điện thoại từ căn hộ số mười một trong khách sạn vào cái giờ ấy không!

Tất nhiên anh bạn tôi đã chứng minh, bao giờ cũng vậy, rằng Poirot là có lý.

Vụ mất cắp một triệu đô-la bằng trái phiếu

Số lượng những vụ đánh cắp trái phiếu hồi này xảy ra nhiều quá – Tôi nói và đẩy tờ báo ra – Poirot, chúng ta hãy bỏ việc nghiên cứu để khám phá những vụ loại này. Anh đã đọc những tin tức cuối cùng chưa? Những tờ trái phiếu "Liberty" giá trị tới một triệu dollars mà Ngân hàng Londres – Ecosse gửi tới Nữu Ước đã bị mất một cách không ngờ trên tàu Olympia.

- Nếu không bị say sóng và không bị ám ảnh bởi cái cách đi lại của tàu Laverguier khi vượt Đại Tây Dương thì tôi sẽ rất vui lòng lên một trong những con tàu lớn – Poirot nói với vẻ mơ màng.

- Anh yên tâm – Tôi nhiệt thành trả lời – Một vài con tàu đã có đầy đủ tiện nghi và những bể bơi, phòng khách, khách sạn... Nhưng... cũng rất đúng là người ta rất khó quen thuộc với biển cả.

- Còn tôi, bao giờ tôi cũng biết sẽ ra sao khi đi trên biển – Poirot nói giọng buồn rầu – Tất cả những thứ anh vừa kể, với tôi thì chúng chẳng có nghĩa lý gì cả. Nhưng, anh bạn, nếu có lúc nào đó có những nhân tài đi vi hành trên những con tàu anh vừa kể thì rất có thể họ gặp được nhà quán quân trong thế giới tội phạm.

Tôi cười:

- Đó là lý do của những lợi ích trong những chuyến đi biển của anh ư? Anh muốn đọ kiếm với kẻ đã chiếm đoạt những trái phiếu Liberty ư?

Bà phục vụ của chúng tôi bước vào làm câu chuyện ngừng lại.

- Có một cô gái muốn gặp ông, thưa ông Poirot. Đây là danh thiếp của cô ấy.

Tấm thiếp ghi: Cô Esmée Farquhar. Sau khi cúi xuống nhặt một vụn bánh mì dưới bàn và cho nó vào giỏ giấy bỏ đi, Poirot ra hiệu cho người hầu mời khách vào.

Một phút sau, một trong số những cô gái kiều diễm mà tôi đã được nhìn qua bước vào. Khoảng hai mươi nhăm tuổi, mắt to, màu xanh và vóc người thật hoàn hảo, cô ta ăn vận rất sang trọng và có những cử chỉ thật dễ chịu.

- Thưa cô, mời cô ngồi. Xin giới thiệu với cô đây là đại úy Hastings, người đã giúp tôi trong những việc nhỏ.

- Thưa ông Poirot, tôi sợ rằng đây là một việc lớn mà tôi mang tới ông – Cô gái trả lời và nghiêng đầu về phía tôi trước khi ngồi xuống ghế. Chắc chắn rằng ông đã đọc báo. Tôi nói về vụ đánh cắp những trái phiếu Liberty trên tàu Olympia.

Poirot tỏ vẻ ngạc nhiên khi cô đi ngay vào câu chuyện:

- Chắc hẳn ông muốn hỏi tôi có quan hệ gì với ngân hàng Londres – Ecosse? Theo một nghĩa nào đó thì không nhưng với một nghĩa khác thì lại có. Thưa ông Poirot, tôi là vợ chưa cưới của Philippe Ridgeway.

- A! Còn ông Philippe Ridgeway...

- ... Là người chịu trách nhiệm canh giữ những trái phiếu ấy, lúc chúng bị đánh cắp. Tất nhiên, anh ấy không có một lỗi nào để có thể bị truy tố và dù sao chăng nữa anh ấy cũng không liên quan gì đến vụ mất trộm này. Tuy nhiên vụ này đã làm anh mất bình tĩnh và tôi biết là ông bác của anh đã biết anh là người áp tải số trái phiếu. Đây là một cú đánh ghê gớm vào nghề nghiệp của Philippe.

- Người bác của anh ta là ai?

- Là ông Vavasour, tổng giám đốc Ngân hàng Londres – Ecosse.

- Cô Farquhar, cô hãy kể cho chúng tôi nghe câu chuyện đã xảy ra như thế nào.

- Vâng. Như các ông đã biết, Ngân hàng muốn mở rộng công cuộc kinh doanh sang châu Mỹ nên đã quyết định gửi một triệu dollars bằng trái phiếu Liberty tới đó. Ông Vavasour đã chọn người áp tải số hàng này là người cháu của mình. Anh là người đáng tin cậy qua nhiều năm làm việc ở đây và là người biết rõ những công việc về quan hệ giữa Ngân hàng với Nữu Ước. Tàu Olympia nhổ neo ở Liverpool ngày 23 và những trái phiếu được ông Vavasour và ông Shaw là hai đồng tổng giám đốc của Ngân hàng giao tận tay Philippe ngay sáng hôm ấy. Trái phiếu được đếm, đóng gói và buộc chặt trước mặt anh và Philippe đã khóa chiếc két sắt.

- Chiếc két được khóa bằng một chiếc khóa thông thường ư?

- Không ông Shaw đã bắt buộc phải dùng khóa của hãng Hubb. Như tôi đã nói chính tay Philippe Ridgeway đã đặt gói hàng vào trong két và hàng đã bị mất vài tiếng đồng hồ trước khi tới cảng Nữu Ước. Một vụ lục soát gắt gao trên tàu đã không mang lại kết quả gì. Những tờ trái phiếu hình như đã biến thành hơi bay vào không khí.

Poirot nhăn mặt.

- Nhưng chúng không mất, vì như tôi biết, chúng đã được bán từng ít một nửa tiếng đồng hồ sau khi tàu cập bến. Thế đấy. Tôi thì tôi không nghi ngờ gì anh Ridgeway. Tôi gợi ý là mời các ông tới dùng bữa ở cửa hàng Cheshire Cheese! Philippe đợi tôi ở đấy, nhưng anh chưa biết là tôi đã nhân danh anh để mời các ông.

Chúng tôi nhận lời mời và thuê một chuyến tắc xi để tới chỗ hẹn. Philippe Ridgeway đã có mặt ở đấy và ngạc nhiên thấy vợ chưa cưới của mình đi tới cùng hai người lạ mặt. Cao, hơi gầy, vẻ lịch sự, Ridgeway có những sợi tóc đốm bạc ở hai thái dương tuy anh chưa đến ba mươi tuổi.

Cô Farquhar đi tới và đặt tay lên vai anh.

- Tha lỗi vì em đã làm mà không hỏi ý kiến anh, Philippe. Xin phép giới thiệu đây là ông Poirot mà chắc chắn rằng anh đã biết tiếng và đại úy Hastings, bạn ông.

Ridgeway chào chúng tôi mà không che giấu vẻ ngỡ ngàng.

- Chắc chắn là như vậy, tôi đã nghe nói về ông, ông Poirot. Nhưng tôi không nghĩ đến việc Esmée đã tới hỏi ông nhân danh... câu chuyện của chúng tôi.

- Em sợ rằng anh không để em làm như vậy, anh Philipp – Cô Farquhar dịu dàng giải thích.

Anh ta cười:

- Tôi hy vọng ông Poirot có thể làm sáng tỏ câu đố lạ lùng này vì tôi thành thật thú nhận là tôi đã gần phát điên lên vì lo lắng.

Đúng là vẻ mặt đang nhăn nhó nói lên những lo ngại đã day dứt anh.

- Được – Poirot – Chúng ta hãy ngồi vào bàn, vừa ăn vừa nói chuyện xem chúng ta có thể làm được những gì. Tôi muốn anh Ridgeway tự kể lại chuyện này.

Trong khi chúng tôi thưởng thức món thịt bò rán và món bầu dục xào của nhà hàng thì Philippe Ridgeway nói về những hoàn cảnh xung quanh vụ những trái phiếu bị mất cắp. Câu chuyện của anh cũng giống như chuyện kể của cô Farquhar. Khi anh nói xong, Poirot đặt câu hỏi đầu tiên:

- Ridgeway, ai là người đầu tiên thấy gói trái phiếu đã bị mất?

Người được hỏi trả lời bằng giọng cay đắng:

- Điều đó làm tôi lo lắng... ông Poirot. Tôi không thể đề phòng được. Chiếc két đã bị kéo ra một phần khỏi gầm giường tôi nằm. Tôi đã đặt chiếc két vào đấy và ổ khóa có những dấu vết bị phá.

- Nhưng tôi nghe nói ổ khóa đã được mở bằng chìa kia mà?

- Đúng thế. Đầu tiên là chúng định phá khóa nhưng không kết quả. Sau đó chúng phải dùng cách khác.

- Thật là lạ lùng – Poirot lẩm bẩm, mắt ánh lên một tia sáng mà tôi rất quen thuộc. Rất lạ lùng – Bọn kẻ trộm đã để mất một thời gian đáng kể để phá ổ khóa và cuối cùng... đồ chết giẫm! Chúng biết là chúng có chìa khóa trong túi lúc ấy... vì chìa khóa của hãng Hubb chỉ có độc một chiếc thôi.

- Chính vì vậy mà chúng không thể có một chiếc chìa nữa được. Chìa khóa luôn ở trong người tôi ngày cũng như đêm.

- Anh tin chắc như thế chứ?

- Chắc chắn. Hơn thế nữa, nếu chúng có chiếc chìa khóa tôi luôn giữ, hoặc chiếc thứ hai, thì tại sao chúng lại để mất thời gian quí báu để phá ổ khóa khi biết rõ là không thể nào phá nổi?

- Đúng đây là câu hỏi chúng ta cần đặt ra. Nếu chúng ta không tìm ra lời giải thì chúng ta mãi mãi quanh quẩn bên cạnh sự việc lạ lùng và ngược đời này. Tôi yêu cầu anh trả lời câu hỏi cuối cùng này: Anh có tuyệt đối tin chắc là không lúc nào anh để chiếc két không khóa không?

Philippe Ridgeway trợn mắt nhìn Poirot và sau đó anh đã có một cử chỉ xin lỗi.

- Chuyện đó cũng có thể xảy ra, tôi bảo đảm với anh như vậy. Được, những trái phiếu đó đã bị mất cắp. Bọn ăn cắp sẽ làm gì? Làm thế nào mà chúng có thể mang số hàng đó lên bờ được?

- Làm thế nào ư? Tôi không hiểu. Cơ quan hải quan đã được báo tin và họ đã khám xét kỹ từng hành khách khi tới Nữu Ước.

- Và những trái phiếu được đóng gói thành một khối lượng lớn chứ, tôi hình dung như vậy?

- Đúng. Chúng không thể giấu cái gói ấy trên tàu được... Và dù sao thì cũng không thể có chuyện này, vì chúng xuất hiện trên thị trường nửa tiếng đồng hồ sau khi tàu Olympia cập bến, sau khi tôi đánh điện tín thông báo con số của những tờ tín phiếu đó. Một nhà buôn còn khẳng định là ông ta đã mua tín phiếu ấy khi tàu chưa tới bến nữa. Chắc chắn rằng người ta không thể gửi tín phiếu trên đường điện tín được.

- Đúng là không được, nhưng có thể có một chiếc thuyền con nào bám theo tàu của anh anh không?

- Chỉ có thuyền của các nhà chức trách sau khi lệnh báo động được loan ra và người ta đã tìm kiếm ở mọi nơi... Tự tôi, tôi cũng kiểm soát các con thuyền ấy xem có ai đưa bọc hàng từ tàu xuống thuyền không. Trời ! ông Poirot. Việc này làm tôi phát điên lên! Người ta đã bắt đầu thì thào rằng chính tôi là tác giả của vụ cướp này.

- Nhưng người ta cùng lục soát cả anh, cả anh nữa, khi rời tàu chứ?

- Vâng.

Chàng trai nhìn Poirot với vẻ ngỡ ngàng.

- Tôi thấy anh không hiểu ý tôi – Poirot mỉm cười một cách bí ẩn – Bây giờ tôi muốn có những ý kiến của Ngân hàng.

Ridgeway lấy ra một tấm danh thiếp và viết lên đó ít chữ.

- Ông đưa cho người bác tôi cái này và sẽ được tiếp chuyện ngay.

Poirot cảm ơn và chào Farquhar và chúng tôi cùng đi tới phố Treadneedie, nơi có trụ sở chính của ngân hàng Londres – Ecosse. Theo tờ danh thiếp của Ridgeway chúng tôi được dẫn qua một lối hành lang phức tạp có những bàn giấy nơi các nhân viên bận rộn nhận và trả tiền. Hai ông đồng Tổng giám đốc tiếp chúng tôi trong một phòng giấy nhỏ trên lầu một. Hai ông già nghiêm trang đã làm việc nhiều năm trong ngành Ngân hàng. Ông Vavasour có bộ râu trắng bạc. Ông Shaw mặt mày nhẵn nhụi.

- Theo tôi hiểu thì ông là nhân viên đi tìm những của cải bị mất trộm, đúng không? – ông Vavasour hỏi – Đồng ý, đồng ý. Chúng tôi đã được Scotland Yard giúp đỡ. Thanh tra Mac Neil đảm trách việc này. Một cảnh sát rất khôn khéo, tôi cho là như vậy.

- Tôi tin chắc là như thế – Poirot lễ phép trả lời – Nhân danh người cháu của ông, xin ông cho phép được hỏi một vài điều được không? Có đúng là chiếc két sắt đó các ông đã đặt mua ở hãng Hubb phải không?

- Tự tôi đi mua nó – Ông Shaw nói ngay – Tôi không giao việc này cho ai cả. Còn về chìa khóa thì ngoài chiếc anh Ridgeway cầm, còn hai chiếc tôi và ông đồng sự của tôi mỗi người giữ một chiếc.

- Có đúng là không một người làm công nào đã tới gần chiếc két không? – Ông Shaw đưa mắt sang nhìn người cộng tác với mình và ông này trả lời.

- Tôi có thể khẳng định với ông là những tờ trái phiếu vẫn nằm trong két cho đến ngày hai mươi ba. Bạn tôi đã bị ốm trước đó mười lăm ngày... Cho tới ngày Philipp lên đường ông mới bình phục.

- Bệnh sưng phổi không phải là một trò đùa với một người ở tuổi tôi, ông Shaw tiếp lời. Nhưng tôi lo ngại là ông bạn tôi khổ tâm không do làm việc quá sức khi tôi vắng mặt mà do cái sự cố không lường trước được này.

Poirot đặt ra một vài câu hỏi phụ. Tôi cho rằng anh đang thăm dò về tình cảm giữa người bác và người cháu. Những câu trả lời của ông Vavasour đều ngắn gọn và chính xác. Cháu ông là một nhân viên đáng tin cậy, theo ông thì anh không hề nợ nần, không hề túng bấn. Từ trước tới nay người ta vẫn giao cho anh những công việc tương tự.

Cuối cùng thì chúng tôi xin phép tạm biệt hai ông.

- Tôi rất thất vọng – Poirot nhận xét trong khi chúng tôi ra ngoài phố.

- Anh không còn hy vọng điều tra vụ này nữa ư? Đó là những ông già thô lỗ.

- Không phải thái độ thô lỗ của họ mà tôi thất vọng. Tôi không chờ gặp một ông chủ Ngân hàng, một nhà tài phiệt với cặp mắt sắc xảo như trong tiểu thuyết của các anh. Tôi thất vọng vì chính bản thân việc này... nó quá dễ dàng!

- Dễ dàng ư?

- Phải, anh không thấy sự việc đơn giản gần như chuyện trẻ con a?

- Anh đã biết ai là kẻ ăn cắp những trái phiếu ấy rồi chứ?

- Tôi biết.

- Nhưng... Chúng ta phải... Tại sao...

- Anh đừng có quá bối rối và xúc động, Hastings. Lúc này thì chúng ta không thể làm gì được.

- Tại sao? Còn chờ gì nữa?

- Con tàu Olympia. Nó sẽ từ Nữu Ước trở về vào thứ ba tới.

- Nếu anh đã biết kẻ ăn cắp trái phiếu thì tại sao còn trùng trình như vậy? Hắn có thể trốn thoát.

- Trốn tới một hòn đảo phía Nam để khỏi bị trao trả lại ư? Không, anh bạn, hắn sẽ thấy cuộc sống ở đấy không dễ chịu chút nào. Còn về lý do khiến tôi phải chờ đợi... Này, đối với trí thông minh của Hercule Poirot thì câu chuyện đã quá rõ ràng, nhưng đối với những người không được Thượng đế phú cho tài trí ấy như Mac Neil chẳng hạn, hắn sẽ theo đuổi đến cùng việc điều tra cho đến khi các bằng chứng tìm được phù hợp với sự việc. Cần phải khoan dung cho những người ít tài năng hơn mình.

- Trời ơi! Anh Poirot? Anh có biết là tôi có thể sẵn sàng bỏ ra một số tiền lớn để được một lần xem anh giở trò ngu ngốc. Anh hợm mình quá mức!

- Đừng bực bội, Hastings. Đúng ra, tôi nhận thấy có lúc anh ghét bỏ tôi! Than ôi, tôi đau đớn vì chính sự vĩ đại của mình!

Con người thấp lùn ấy cúi người thở dài một cách khôi hài khiến tôi không thể nhịn cười được.

Ngày thứ ba đến, chúng tôi ngồi trên toa tàu hạng nhất đi Liverpool. Poirot khăng khăng không làm cho tôi sáng tỏ điều gì... Anh tỏ ra ngạc nhiên khi thấy tôi không nắm được những tình huống. Tôi không muốn thảo luận với anh và cố giấu sự tò mò của tôi sau một bức tường đã tính toán trước. Tới bến cảng, đứng trước con tàu xuyên Đại Tây Dương, Poirot tỏ ra rất tinh nhanh. Anh liên tiếp hỏi chuyện bốn người phục vụ trên tàu về một người bạn đã ở trên tàu này để tới Nữu Ước vào ngày hai mươi ba:

- Một ông sang trọng, đứng tuổi, mang kính che một con mắt hỏng, ít khi rời khỏi chỗ nằm trên tàu.

Việc mô tả của anh phù hợp với một hành khách tên là Vantnor trên cabin C24, bên cạnh cabin của Philippe Ridgeway. Tôi rất thích thú tuy không hiểu tại sao Poirot lại biết được sự có mặt của ông Vavasour ấy trên con tàu này.

- Xin cho biết – Tôi ngắt lời – Ông khách lịch sự ấy có phải là người đầu tiên rời khỏi tàu khi tàu cập cảng Nữu Ước không?

- Thưa ông, không, trái lại ông ấy là một trong những người cuối cùng rời khỏi tàu.

Tôi rút lui, bối rối nhìn Poirot đang nhăn mặt cười với tôi. Anh cảm ơn người phục vụ, nhét vào tay người ấy một tờ giấy bạc và chúng tôi ra về.

- Tất cả những cái đó rất hay – Tôi cáu kỉnh nhận xét – Anh có thể càu nhàu bao nhiêu thì tùy anh, nhưng câu trả lời cuối cùng ấy đã phá hỏng toàn bộ lý thuyết quý báu của anh, đúng không?

- Bao giờ cũng vậy, anh chẳng nhìn thấy gì cả. Câu trả lời cuối cùng ấy, ngược lại đã khẳng định lý thuyết của tôi là đúng.

Tôi giơ tay lên trời như là một dấu hiệu thất vọng.

- Thôi cho qua.

*

Trên chuyến xe lửa trả chúng tôi về Londres, Poirot tập trung chú ý đến viết một bức thư rồi cho thư vào phong bì.

- Thư này gửi cho thanh tra Mac Neil! Chúng ta sẽ chuyển nó khi đi qua Scotland Yard, sau đó chúng ta đi thẳng tới khách sạn Cheshire Cheese. Tôi đã mời cô Faquhar cùng ăn với chúng ta.

- Còn Ridgeway thì sao?

- Thế nào? – Poirot hỏi với cái nhìn tinh quái.

- Đúng là như thế... Anh không nghĩ tới... Anh không thể...

- Sự không tập trung tư tưởng của anh đã trở thành một thói quen. Tôi nghĩ đến Ridgeway là kẻ đánh cắp, chuyện này cũng có thể xảy ra, thì việc này sẽ rất tế nhị... Một việc làm tốt đẹp.

- Nhưng cũng rất "tế nhị" đối với cô Farquhar nữa chứ?

- Anh có lý. Như vậy tất cả cho cái tốt nhất. Bây giờ, Hastings ta trở lại câu chuyện. Tôi cảm thấy anh rất sốt ruột. Gói hàng đóng gói đã được lôi ra khỏi két sắt và "bốc hơi", theo cách nói của cô Farquhar. Chúng ta hãy bỏ qua lý thuyết về sự bốc hơi mà khoa học thời nay đã lên án để xét xem thực tế nó đã như thế nào. Mọi người không thừa nhận đây là một vụ gian lận...

- Nhưng chúng ta biết rằng...

- Anh thì có thể chứ không phải tôi, Hastings. Tôi cho rằng vì là cái trước kia đã không thể thì ngày nay vẫn không thể xảy ra. Có thể có hai cách có thể tính đến: hoặc là người ta giấu nó trên tàu (như thế tôi thấy là rất khó khăn), hoặc là người ta ném nó xuống biển.

- Với một chiếc phao, anh muốn nói như vậy chứ?

- Không có phao.

Tôi hoảng hốt nhìn anh.

- Nhưng nếu những trái phiếu ấy ở trên tàu thì chúng không thể được mang bán ở Nữu Ước được!

- Tôi khâm phục trí xét đoán logic của anh, Hastings. Những trái phiếu đã được bán ở Nữu Ước thì chúng ta phải bỏ khả năng ấy đi. Anh đồng ý như thế chứ?

- Từ lúc đầu chúng ta đã thỏa thuận như vậy rồi.

- Chưa bao giờ! Nếu gói hàng được ném xuống biển và những trái phiếu được bán ở Nữu Ước thì gói hàng ấy không phải là trái phiếu. Có lý do gì mà chúng ta tin chắc là các tờ trái phiếu được đóng gói trong đó? Anh nên nhớ: Ridgeway chưa mở két sắt một lần nào kể từ lúc người ta giao cho anh chiếc két ấy từ Londres.

- Đúng, nhưng có thể là...

- Xin để tôi nói tiếp, lần cuối cùng mà người ta nhìn thấy những tờ trái phiếu ấy là vào sáng ngày hai mươi ba, tại Ngân hàng Londres – Ecosse. Sau đó chúng xuất hiện ở Nữu Ước một tiếng đồng hồ sau đó tàu Olympia cập bến, và theo ý kiến của một người thì chúng xuất hiện ngay cả lúc tàu chưa cập bến. Giả định là trái phiếu chưa bao giờ có mặt ở trên tàu Olympia thì liệu chúng có thể tới Nữu Ước bằng cách nào nữa không? Có, tàu Gigantic rồi vượt qua Đại Tây Dương. Được gửi trên tàu Gigantic, trái phiếu tới Nữu Ước một ngày sớm hơn! Từ đấy, mọi cái sẽ rõ ràng và vụ việc bắt đầu tự giải thích. Gói hàng chỉ là một gói hàng giả và sự thay thế ấy cần được tiến hành nhanh chóng ở văn phòng Ngân hàng tại Londres. Một trong ba người ấy dễ dàng tạo ra một gói hàng giống như gói hàng thật. Rất tốt. Nhưng trái phiếu thật được gửi cho một kẻ tòng phạm ở Nữu Ước với lệnh ra là bán chúng khi tàu Olympia cập bến, nhưng phải có một người nữa đi trên tàu Olympia để tạo ra vụ mất trộm đó.

- Vì sao?

- Vì chỉ cần Ridgeway mở chiếc két đó, phát hiện ra đây là những trái phiếu giả, thì những nghi ngờ sẽ nảy ra ở cơ quan Ngân hàng tại Londres. Không, con người trên tàu, trong cabin, bên cạnh cabin của Ridgeway, đã làm công việc của mình. Người ấy định phá ổ khóa để lôi kéo sự chú ý đến một tên kẻ trộm đáng ngờ, sau đó mở chiếc két bằng chiếc chìa khóa thứ hai, ném gói hàng xuống biển và đợi đến phút cuối cùng để rời khỏi tàu. Tất nhiên hắn đeo kính để che con mắt bị hỏng vì hắn không muốn gặp Ridgeway. Hắn xuống Nữu Ước để trở về ngay bằng chuyến tàu đầu tiên gặp được.

- Nhưng hắn là ai?

- Cái người giữ một trong ba chiếc chìa khóa, người đi mua ổ khóa và người chưa bao giờ bị sưng phổi tại nhà hắn ở nông thôn... cuối cùng đó là lão già "thô lỗ", ông Shaw! Nhiều khi kẻ phạm tội lại là những người giữ những chức vụ quan trọng, anh bạn ạ! À! Chúng ta tới nơi rồi... Thưa cô, tôi đã thành công. Xin phép cô!

Và hớn hở, anh đặt một nụ hôn nhẹ lên má của cô gái đang quá đỗi ngạc nhiên.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#poirot