pppppppppppppppppppppppp

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hướng đi của dòng vốn tín dụng

Thứ tư, 04-05-2011 | 08:28:18 GMT+7

Bản in

Email

Tính đến cuối tháng 12/2010, dư nợ của 5 NHTM Nhà nước là hơn 1 triệu tỷ đồng, chiếm 58% dư nợ của cả hệ thống NHTM cả nước.

Trả lời cho câu hỏi "Dòng vốn tín dụng Việt Nam thời gian qua chảy vào đâu?" thật sự không dễ. Bởi lẽ vấn đề này, ngoại trừ bản thân các ngân hàng có thể biết chính xác dòng tiền ra từ ngân hàng của họ, còn lại chỉ có thể là Ngân hàng Nhà nước (NHNN) dựa trên số liệu tổng hợp của cả hệ thống, có thể biết được xu hướng này.

Tuy nhiên, số liệu mà NHNN có được chưa chắc đã chính xác do các tổ chức tín dụng đã "xử lý kỹ thuật" trước khi báo cáo cho cơ quan quản lý. Bài viết này mang lại một vài lý giải có thể giúp các nhà hoạch định chính sách có cái nhìn thực tế về hướng đi của dòng vốn tín dụng ngân hàng Việt Nam, từ đó có chính sách hợp lý trong việc kiềm chế lạm phát, bởi "Lạm phát luôn luôn và bao giờ cũng là hiện tượng tiền tệ" (Milton Friedman).

Ai đã giúp các ngân hàng tăng vốn?

Theo thống kê, trong giai đoạn 2008-2010, tổng số vốn điều lệ tăng thêm của 37 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam khoảng 97.000 tỉ đồng. Đây là con số quá lớn trong một thời gian rất ngắn. Ai có thể trả lời con số khổng lồ này các cổ đông đã lấy từ đâu để góp vốn vào các ngân hàng?

Trong giai đoạn 2008-2010, tổng số vốn điều lệ tăng thêm của 37 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam khoảng 97.000 tỉ đồng.

Ngày 7-6-2007, NHNN đã ban hành Quyết định số 24/2007/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế cấp giấy phép thành lập và hoạt động NHTMCP, trong đó có quy định "không được sử dụng tiền vay dưới bất kỳ hình thức nào để góp vốn thành lập ngân hàng".

Quy định này cũng được kế thừa trong Thông tư số 09/2010/TT-NHNN (thay thế cho Quyết định 24/2007/QĐ-NHNN) khi quy định: "Các tổ chức, cá nhân không được dùng vốn ủy thác, vốn vay của các tổ chức, cá nhân khác để góp vốn và hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của nguồn vốn góp". Có quy định nhưng NHNN không có cách nào kiểm tra, xác thực mà giao cho các cổ đông "hoàn toàn chịu trách nhiệm". Đó là lý do khiến điều khoản này được xem là một trong những quy định mang tính "kêu gọi lòng tự giác nhất" mà NHNN đã từng ban hành.

Từ 2008 đến nay, mức lãi suất tiết kiệm tiền đồng hiếm khi xuống dưới 10%/năm (trừ một thời gian của năm 2009) trong khi giai đoạn này không nhiều ngân hàng trả cổ tức trên 10%. Bên cạnh đó, có đến hai phần ba cổ phiếu của các NHTMCP giao dịch dưới mệnh giá, thậm chí không có giao dịch. Như vậy, các cổ đông góp vốn vào các ngân hàng vì mục đích gì? Nếu chỉ nhìn bên ngoài mà không biết bản chất, câu trả lời thật sự bế tắc!

Thực tế, rất nhiều cổ đông nhỏ đã từ bỏ vai trò làm chủ của mình ở các ngân hàng, ngay cả đối với ngân hàng họ đang công tác. Trên website của mình, một ngân hàng vừa hoàn thành việc tăng vốn lên 3.100 tỉ đồng từ mức 1.000 tỉ đồng của năm trước cho biết chỉ có 66 cổ đông (trong tổng số trên 1.300 cổ đông) tham gia góp vốn, còn lại là các nhà đầu tư mới.

Tuy vậy, tất cả các ngân hàng đã vượt qua mốc 1.000 tỉ đồng của năm 2008 và chắc chắn cũng sẽ cán đích thắng lợi mốc 3.000 tỉ đồng của năm nay, chưa nói nhiều ngân hàng tỏ ra khó khăn và chỉ kịp tăng đủ vốn pháp định vào những ngày cuối cùng của năm 2010 đã ngay lập tức trình đại hội đồng cổ đông xin tăng vốn lên 4.000-5.000 tỉ đồng trong năm nay. Liệu điều đó có bình thường?

Nguồn tiền huy động của nhiều ngân hàng thực tế đã không đến được với nền kinh tế, để phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm và giá trị tăng thêm cho xã hội. Trái lại, ngân hàng A mang tiền sang gửi tại ngân hàng B và sử dụng làm tài sản bảo đảm cho cổ đông của mình vay vốn để góp vào vốn điều lệ của mình. Thậm chí, không cần phải đi đường vòng như vậy, các ngân hàng có thể giải ngân trực tiếp cho khách hàng C và đồng tiền này sẽ được chuyển cho cổ đông D để góp vào vốn điều lệ của chính ngân hàng.

Đó là câu trả lời cho một phần câu hỏi vì sao dư nợ tín dụng của hệ thống không ngừng tăng lên, vốn điều lệ của hệ thống vẫn từng bước đáp ứng các yêu cầu của cơ quan quản lý (dù những quy định này khi mới ban hành, nhiều người cho rằng quá sức của nhiều ngân hàng), năng lực tài chính đã được "nâng cao" nhưng thanh khoản vẫn cứ thiếu hụt triền miên, cuộc đua lãi suất cứ chực bùng lên và NHNN vẫn phải vất vả chặn đường này, bịt đường kia.

Tín dụng vẫn không ngừng vào bất động sản

Cơn sốt bất động sản cuối năm 2007 đầu 2008 đã có nhiều phân tích về nguyên nhân, tựu trung lại đều đồng ý rằng tác nhân chính là do tín dụng của hệ thống ngân hàng đã tăng quá cao (năm 2007 tăng gần 54%). Doanh nghiệp đổ xô xây chung cư, người người đi buôn nhà đất.

Asia Times online ngày 12-4-2011 có bài viết về Việt Nam (Vietnam changes course) dẫn một báo cáo cho rằng ICOR bình quân của Việt Nam giai đoạn 2001-2009 là 8,78 và của riêng khu vực nhà nước là 17,55. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp nhà nước bình quân phải đầu tư 17,55 đồng mới tạo ra được một đồng tăng thêm. Một sự lãng phí quá lớn.

Từ đó đến nay, dù thị trường chưa trở lại thời sốt nóng nhưng thực tế giá nhà đất không giảm là bao và giá của nhiều phân khúc thị trường vẫn không ngừng tăng lên. Nhà phố ở các quận nội thành TPHCM và đất nền ở các vùng ven vẫn liên tục thiết lập các mặt bằng giá mới. So với thời điểm năm 2007, tốc độ sinh sôi của các cao ốc không hề giảm trong hai năm gần đây. Điều này chứng tỏ dòng tiền vẫn tiếp tục đổ vào thị trường này.

Sau khi Chỉ thị 01/CT-NHNN được ban hành, NHNN cho biết hiện dư nợ phi sản xuất có ngân hàng lên đến 59% tổng dư nợ. Trong số này chắc chắn dư nợ bất động sản và tiêu dùng (mà phần lớn cũng là mua bất động sản) chiếm đa số bởi hai năm qua không nhiều ngân hàng còn giải ngân cho khách hàng mua chứng khoán. Đó là lý do thị trường bất động sản vẫn ấm, dù được cho là nguội lạnh ở phân khúc thị trường căn hộ cao cấp.

Với mức lãi suất giải ngân hiện nay, dao động thực tế trong khoảng 18-22%, được xem là quá sức chịu đựng của các ngành sản xuất kinh doanh. Tuy vậy, mức tăng trưởng tín dụng quí 1-2011 vẫn ở mức cao, lên đến 4,81%. Nhiều ngân hàng dù mạng lưới không lớn, dư nợ không cao vậy mà mức giải ngân hàng tháng lên đến cả ngàn tỉ đồng. Một phần rất lớn trong số này được cho là của các ông bà chủ, và thực tế các "đại gia ngân hàng" này không ai không làm bất động sản.

Giật mình với ICOR

Bên cạnh dòng vốn chạy lòng vòng và vào bất động sản, tín dụng cho sản xuất kinh doanh vẫn là ưu tiên của hệ thống ngân hàng. Tuy vậy, hiệu suất sử dụng vốn của các doanh nghiệp Việt Nam hiện quá thấp. Ngày 7-3-2008, báo điện tử Người đại biểu nhân dân dẫn thông tin từ Viện Khoa học tài chính, Bộ Tài chính cho rằng hệ số ICOR năm này bình quân cả nước là 7-8, còn khu vực nhà nước là 12. Đây đã là con số quá cao so với mức trung bình 3-4 của khu vực.

Thế nhưng, Asia Times online ngày 12-4-2011 có bài viết về Việt Nam (Vietnam changes course) dẫn một báo cáo cho rằng ICOR bình quân của Việt Nam giai đoạn 2001-2009 là 8,78 và của riêng khu vực nhà nước là 17,55. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp nhà nước bình quân phải đầu tư 17,55 đồng mới tạo ra được một đồng tăng thêm. Một sự lãng phí quá lớn.

Tính đến cuối tháng 12-2010, dư nợ của năm ngân hàng thương mại nhà nước (Agribank, MHB, Vietinbank, BIDV và Vietcombank) là 1.097.302 tỉ đồng, chiếm 58% dư nợ của cả hệ thống ngân hàng thương mại trong nước; riêng dư nợ của Agribank đã chiếm 53% dư nợ của 37 NHTMCP còn lại. Những con số này đã nói lên tất cả, rằng tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam có nguồn gốc từ đâu.

Các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn có thói quen ưu ái các doanh nghiệp quốc doanh, cho vay theo chỉ định, cho vay nông nghiệp nông thôn, cho vay chương trình đánh bắt xa bờ hay chương trình 1 triệu tấn đường... mà kết quả thế nào ai cũng rõ. Năm 2011 này, với mức tăng trưởng dư nợ được giới hạn dưới 20% cho tất cả các ngân hàng thì không chỉ là lạm phát, mà nguy cơ tác động hất ra (crowding out) đối với các thành phần kinh tế dân doanh là không thể tránh khỏi.

Theo Hoàng Bách

TBKTSG

Lạm phát cao, ngân hàng khó huy động tiền gửi

Thứ ba, 26-04-2011 | 08:51:17 GMT+7

Bản in

Email

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 tính theo năm đã trên 17,53%, khiến cho người dân không mặn mà gửi tiết kiệm.

Theo quy luật thông thường, khi lạm phát có xu hướng tăng thì các ngân hàng cũng sẽ tăng lãi suất để thu hút vốn do biến động của lãi suất và lạm phát thường cùng chiều với nhau.

Tuy nhiên, không phải cứ tăng lãi suất thì sẽ tăng được lượng tiền huy động. Điều này còn phụ thuộc vào việc liệu mức tăng lãi suất có lớn hơn mức tăng lạm phát để đảm bảo cho người gửi tiền có được mức lãi suất thực dương hay không.

Nếu lãi suất thực bị âm, người có tiền sẽ tìm các kênh đầu tư khác để bảo toàn vốn như vàng, ngoại tệ, hoặc bất động sản, v.v. Đây là những loại tài sản thường sẽ tăng giá tương ứng hoặc cao hơn so với lạm phát.

Thực tế này đã được chứng minh trong năm 2008. Khi lãi suất thực âm, dù lãi suất tiết kiệm có tăng lên nhưng tốc độ tăng trưởng tiền gửi của hệ thống ngân hàng vẫn giảm từ gần 50% vào cuối năm 2007 xuống còn 25% vào cuối năm 2009.

Trong năm 2009, khi lãi suất thực mà người dân được hưởng là dương thì tăng trưởng huy động của hệ thống ngân hàng cũng tăng từ 25% lên 35%. Tuy nhiên, trong năm 2010, lãi suất thực đã diễn biến theo xu hướng giảm dần và đến đầu năm 2011, lãi suất thực đã chuyển từ dương sang âm thì tốc độ tăng trưởng tiền gửi lại diễn biến theo xu hướng giảm. Tốc độ tăng trưởng huy động trong quý 1/2011 chỉ ở mức 1,56% so với mức 3,8% của quý 1/2010.

Khi chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 tính theo năm của Việt Nam ở mức 17,53%, khiến lãi suất thực của tiền gửi đã bị âm. Điều này có thể dẫn đến một hệ luỵ đáng ngại: tình trạng tín dụng đen nở rộ. Người dân không muốn gửi tiền với lãi suất thấp sẽ cho vay ngoài với mức lãi suất cao hơn lãi suất gửi ngân hàng. Tuy rủi ro có thể mất vốn nhưng mức lợi nhuận thu lại khá cao, có thể bù đắp được một phần rủi ro mất vốn. Với việc các ngân hàng thương mại bị giới hạn về mức tăng trưởng tín dụng 20% năm 2011 và do nguồn huy động có thể bị sụt giảm, không những chỉ người dân mà cả một bộ phận doanh nghiệp vốn không vay được từ các ngân hàng thương mại sẽ buộc phải chuyển hướng vay ở ngoài ngân hàng. Điều này tiềm ẩn nguy cơ vỡ nợ ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng Nhà nước.

Nếu ngân hàng Nhà nước không nhanh chóng đưa ra các biện pháp thắt chặt chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát và có chính sách phù hợp để lãi suất thực dương, thì các ngân hàng thương mại sẽ ngày càng khó khăn hơn trong hoạt động huy động vốn. Ngân hàng Nhà nước không những hút được tiền lưu thông trong nền kinh tế, khiến cho lạm phát gia tăng.

Theo SGTT

"Không nên siết chặt tiền tệ hơn nữa"

Thứ tư, 27-04-2011 | 08:42:17 GMT+7

Bản in

Email

Theo bà Dương Thu Hương, chưa nên tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc VND, tuy nhiên đối với lãi suất tái cấp vốn và trần lãi suất huy động VND (14%/năm) cần phải điều chỉnh.

"Nếu Nghị quyết 11 không được triển khai một cách quyết liệt ngay từ cuối tháng 2/2011 thì diễn biến lạm phát có thể còn xấu hơn nữa. Tuy nhiên, nếu nhìn vào căn nguyên của lạm phát, thì trong thời điểm hiện nay, không nên thắt chặt tiền tệ hơn nữa" - TS. Dương Thu Hương - Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đưa ra nhận định như vậy trong một cuộc trả lời phỏng vấn.

Đánh giá của Bà về những động thái gần đây của Chính phủ và NHNN trong việc kiểm soát thị trường tiền tệ, ngoại hối và vàng?

Bà Dương Thu Hương: Phải khẳng định là rất tích cực. Nghị quyết 11 được triển khai mạnh mẽ, nhất là trong việc điều hành chính sách tiền tệ, kiểm soát thị trường ngoại hối và vàng đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Thị trường ngoại tệ ổn định và biểu hiện xu hướng vận động tích cực.

Thứ nhất, tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do xuống thấp, giá mua vào USD trên thị trường tự do bằng hoặc thậm chí thấp hơn giá mua vào của các NHTM. Thứ hai, các NHTM bắt đầu mua được ngoại tệ từ doanh nghiệp và dân cư.

Thứ ba, người dân và doanh nghiệp đã bắt đầu tính đến việc chuyển các khoản tiền gửi bằng USD sang VND. Như vậy, tâm lý găm giữ ngoại tệ đã giảm. Các số liệu thống kê gần đây cũng cho thấy, tiền gửi ngoại tệ tại ngân hàng của dân cư và tổ chức kinh tế giảm, chứng tỏ tình trạng đôla hóa có dấu hiệu giảm bớt...

Liên quan đến hoạt động sản xuất và kinh doanh vàng, tuy Chính phủ mới chỉ đạo kiểm soát việc kinh doanh vàng miếng nhưng thị trường đã có sự điều chỉnh rõ rệt. Giá vàng trong nước không còn nhảy những bước dài, vượt qua giá vàng thế giới như trước đây mà có lúc còn thấp hơn...

Những ngày gần đây, giá vàng thế giới leo lên mức cao kỷ lục trong vòng hơn 30 năm qua (trên 1.500 USD/ounce). Nếu Nghị quyết 11 không được ban hành kịp thời thì không biết thị trường vàng và ngoại tệ sẽ rối loạn đến đâu? Chắn chắn sẽ liên tục sốt nóng, tác động xấu tới tâm lý xã hội và kích thích thêm lạm phát.

Những diễn biến trên chứng tỏ các giải pháp vừa qua của Chính phủ rất đúng, rất trúng và kịp thời.

Do vậy, rất cần tiếp tục triển khai quyết liệt các giải pháp về ngoại tệ và vàng như Thủ tướng đã kết luận trong thông báo gần đây (Thông báo số 84). Và quá trình thực hiện phải đạt mục tiêu vừa đảm bảo quyền sở hữu vàng và ngoại tệ của người dân nhưng vẫn đảm bảo kiểm soát hiệu quả các thị trường này.

Nhưng sức ép lạm phát vẫn tiếp tục gia tăng. Đặc biệt, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4 đã tăng tới 3,32% so với tháng trước?

Phải khẳng định rằng, nếu Nghị quyết 11 không được triển khai một cách quyết liệt ngay từ cuối tháng 2/2011 thì diễn biến lạm phát có thể còn xấu hơn nữa. Kiểm soát được lạm phát ở mức độ này là nhờ Nghị quyết 11 được ban hành kịp thời với một loạt giải pháp đồng bộ và toàn diện.

Vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay là phải nhận rõ căn nguyên lạm phát để có đối sách phù hợp. Trước hết, phải khẳng định rằng, tốc độ tăng CPI cao trong vài tháng gần đây không xuất phát từ nguyên nhân tiền tệ mà do "chi phí đẩy".

Đây là nguyên nhân căn bản trong bối cảnh lạm phát đang có xu hướng gia tăng một cách đáng lo ngại trên phạm vi toàn cầu. Ở trong nước, giá điện, xăng dầu, than... buộc phải điều chỉnh với mức độ khá cao do Ngân sách nhà nước không đủ sức để có thể tiếp tục bù lỗ nhằm giữ giá các mặt hàng này.

Trước tình hình này, theo Bà, có nên thắt chặt chính sách tiền tệ hơn nữa?

Tôi cho rằng, chính sách tiền tệ hiện thắt chặt đến mức ngặt nghèo. Trong nhiều năm gần đây, chưa bao giờ tốc độ tăng trưởng tín dụng dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán dưới 16%. Điều đó khẳng định mục tiêu ưu tiên hàng đầu của Chính phủ là kiềm chế lạm phát.

Nhưng nếu nhìn vào căn nguyên của lạm phát, như đã phân tích ở trên, thì trong thời điểm hiện nay, không nên thắt chặt tiền tệ hơn nữa. Và cũng chưa nên sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND. Tuy nhiên, đối với lãi suất tái cấp vốn và trần lãi suất huy động tiền gửi VND (14%/năm - PV) cần phải xem xét điều chỉnh phù hợp trong bối cảnh sức ép lạm phát tăng cao.

Có hiện tượng một số ngân hàng nâng lãi suất huy động VND lên xấp xỉ 20%/năm. Theo Bà, đây là mức lãi suất phù hợp trong bối cảnh lạm phát gia tăng?

Lạm phát cao thì lãi suất có xu hướng tăng lên. Nhưng huy động với lãi suất từ 18% - 20%/năm, theo tôi là bất hợp lý. Huy động như vậy thì lãi suất cho vay ra sẽ ở mức nào? Bởi trong điều kiện hiện nay, ít có doanh nghiệp nào có lãi nếu phải vay ngân hàng với lãi suất trên 20%/năm.

Mặc dù lãi suất huy động VND tăng cao, nhưng theo một số ngân hàng, vốn VND vẫn chưa chảy nhiều vào ngân hàng. Vì sao vậy, thưa Bà?

Tôi hy vọng sau khi NHNN áp trần lãi suất huy động ngoại tệ (tối đa là 3%/năm đối với cá nhân và 1%/năm đối với doanh nghiệp), người dân và doanh nghiệp sẽ bán ngoại tệ cho ngân hàng và vốn tiền đồng sẽ chảy vào ngân hàng nhiều hơn.

Tuy nhiên, có một thực tế là, trong bối cảnh lạm phát tăng cao thì một bộ phận người dân tìm cách bảo vệ giá trị tài sản của mình bằng cách đầu tư vào bất động sản. Chính vì vậy, việc giải quyết bài toán vốn VND không chỉ nằm ở lãi suất mà còn phụ thuộc vào xu hướng đầu cơ trên thị trường bất động sản. Theo tôi, để vốn VND tập trung chảy vào ngân hàng và ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn này ưu tiên cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp xuất khẩu, khu vực nông nghiệp, nông thôn... với lãi suất hợp lý thì phải hạn chế tối đa dòng vốn đầu cơ. Để làm được như vậy thì cần phải đánh thuế thật cao vào các giao dịch mua, bán bất động sản mang tính đầu cơ; ngoài ra phải kiểm soát có hiệu quả lạm phát, thị trường vàng và ngoại tệ.

Chưa nên thắt chặt chính sách tiền tệ hơn nữa. Vậy còn chính sách tài khóa, thưa Bà?

Có thể nhận thấy rõ hiệu ứng của chính sách tiền tệ trong ngắn hạn. Nhưng chính sách tài khóa đòi hỏi phải có "độ trễ" dài hơn. Mặc dù vậy, tôi cho rằng, đầu tư công phải cắt giảm mạnh hơn nữa. Nếu không, mục tiêu giảm tổng cầu nhằm kiềm chế lạm phát sẽ kém hiệu quả.

Xin cảm ơn Bà!

Theo SBV

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro