PTBCTC1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1.Một chuyên viên kế toán cho rằng, “Phân tích chiến lược không cần thiết khi phân tích báo cáo tài chính. Chúng ta đi thẳng vào những vấn đề kế toán tài chính.” Bạn có đồng ý với câu nói trên không ? vì sao ?

Không

- Phân tích chiến lược là điểm khởi đầu của phân tích báo cáo tài chính vì nó cho phép đặt doanh nghiệp trong bối cảnh của ngành nghề cũng như các định hướng chiến lược của doanh nghiệp. Không có phân tích chiến lược, việc phân tích kế toán hay phân tích tài chính sẽ mang tính “võ đoán” hơn là những hiểu biết cụ thể về doanh nghiệp.

- Phân tích chiến lược còn cho phép việc nhận biết các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời và các yếu tố rủi ro tác động đến DN. Nói cách khác, phân tích chiến lược cho phép nhà phân tích đánh giá khả năng duy trì hoạt động hiện tại của DN và đưa ra những dự đoán mang tính thực tế về hoạt động tương lai của DN.

- Giá trị của DN được quyết định bởi khả năng sinh lời, khả năng sinh lời lại bị chi phối bởi việc lựa chọn chính sách của DN: lựa chọn ngành, lựa chọn chiến lược cạnh tranh và chính sách hoạt động của DN.

Thí dụ:

Một công ty có tỷ suất sinh lời trên doanh thu là 2% có thể bị đánh giá là thấp. Nhưng nếu đặt trong bối cảnh một ngành nghề đang có cạnh tranh dữ dội do cầu giảm sút thì mức sinh lời đó là mơ ước của tất cả các doanh nghiệp trong ngành.

Hoặc ngay cả khi tỷ suất sinh lời trên doanh thu bình quân của ngành là 6% thì mức 2% của doanh nghiệp cũng không thể đánh giá là kém nếu biết rằng doanh nghiệp đang theo đuổi chiến lược cạnh tranh bằng giá thấp để có thể đạt một số vòng quay tài sản lớn hơn.

(slide 13) Một giám đốc quỹ đầu tư cho rằng, “tôi không mua bất kỳ công ty nào tự động thay đổi chính sách kế toán, vì chắc chắn rằng ban giám đốc của công ty đó đang cố gắng che dấu những thông tin xấu.” Bạn có thể có cách giải thích khác không?

Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 29 quy định, doanh nghiệp chỉ được thay đổi chính sách kế toán khi :

- Có sự thay đổi theo quy định của pháp luật hoặc của chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán; hoặc

- Sự thay đổi sẽ dẫn đến báo cáo tài chính cung cấp thông tin tin cậy và thích hợp hơn về ảnh hưởng của các giao dịch và sự kiện đối với tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh và lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp.

- Việc thay đổi đột ngột chính sách kế toán của DN có thể xuất phát từ động cơ che giấu thông tin. Ví dụ: sự gia tăng bất thường của khoản phải thu so với sự gia tăng doanh thu trong kỳ có thể là kết quả của việc thay đổi chính sách nợ hoặc mở rộng các kênh phân phối, nhằm đẩy doanh thu tăng cao, nếu việc nới lỏng chính sách nợ đối với khách hàng trở nên quá mức DN có thể phải đối mặt với việc không thu được tiền trong những kỳ kinh doanh tiếp theo.

- Không phải bất cứ một thay đổi nào trong chính sách kế toán của doanh nghiệp cũng bắt nguồn từ động cơ che giấu những thông tin xấu. Thay đổi kế toán có thể chỉ do tình hình kinh doanh thay đổi. Vd: (1)hàng tồn kho tăng bất thường trong khi doanh thu cũng tăng, có thể là dấu hiệu của việc nhu cầu sản phẩm giảm xuống, dẫn đến hàng hóa không bán được và tồn kho, dẫn tới doanh thu có thể giảm xuống, nhưng để có số liệu đẹp trên BCTC,  DN có thể thực hiện việc cắt bớt chi phí hoặc ghi thấp hơn số tồn kho thực tế, dẫn tới doanh thu tăng cao hơn so với doanh thu thực tế. Tuy nhiên, việc hàng tồn kho tăng lên có thể chỉ đơn thuần là do DN chuẩn bị giới thiệu sản phẩm mới ra thị trường. (2) Tăng phải thu do thay đổi chiến lược bán hàng chứ không phải là kết quả của việc thay đổi chính sách nợ hay mở rộng các kênh phân phối. (3) Sự giảm xuống bất thường của khoản dự phòng phải thu khó đòi do tác động của việc thay đổi mối quan tâm và sự tập trung vào các khách hàng hoặc nhóm khách hàng khác nhau.

- Nhà phân tích cần xem xét mọi khả năng có thể giải thích cho việc thay đổi các chính sách hay ước tính kế toán và kiểm tra những khả năng có thể xảy ra đó bằng những thông tin được cung cấp trên báo cáo tài chính để đưa ra nhận định và quyết định đầu tư đúng đắn.

(slide 14) Một công ty hàng không ký hợp đồng thuê tài chính một máy bay trong 20 năm. Nghĩa vụ thuê tài chính phải trả năm đầu tư là 4,7 triệu USD. Ảnh hưởng của nghiệp vụ này đến báo cáo tài chính là gì? Nếu tiền thuê tài chính được ghi nhận là (a) tài sản thuê tài chính hay (b) thuê hoạt động? Nếu bạn là giám đốc công ty, bạn dự báo gì để quyết định sử dụng phương pháp thay thế? Bạn thích phương pháp ghi nhận tiền thuê tài chính nào hơn? Tại sao? Nếu bạn là một nhà phân tích tài chính, bạn sẽ hỏi người điều hành công ty những câu hỏi gì?

(a)    Tiền thuê tài chính được ghi nhận là tài sản thuê tài chính:

Trên bảng cân đối kế toán:

Máy bay sẽ được ghi nhận là tài sản của DN trong mục tài sản thuê tài chính, như vậy khi ghi nhận, tổng tài sản của DN sẽ tăng thêm 4,7 triệu USD * 20 năm

Tiền thuê tài chính phải trả được ghi nhận là nợ phải trả của DN, như vậy khi ghi nhận nghĩa vụ này, nợ phải trả của DN tăng 4,7 triệu USD * 20 năm. Khoản phải trả này sẽ là nghĩa vụ của DN trong vòng 20 năm tới.

Hàng năm DN sẽ trích khấu hao tscđ này và ghi nhận vào khoản chi phí sản xuất chung.

(b)   Nếu ghi nhận ts này là ts thuê hoạt động:

- Trên BCĐKT không phản ánh giá trị tài sản đi thuê, cũng không trích khấu hao đối với tài sản thuê hoạt động, chi phí thuê hoạt động của năm nào được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh của năm đó theo PP đường thẳng cho suốt thời hạn thuê tài sản, không phụ thuộc vào phương thức thanh toán tiền thuê.

- Khoản phải trả trên BCTC chỉ phản ánh số tiền thuê phải trả trong năm tài chính hiện hành là 4,7 triệu USD, không phản ánh nghĩa vụ phải trả trong những năm tiếp theo, điều này làm nghĩa vụ phải trả của DN trên bctc  thấp hơn nhiều so  với thực tế. (trên bctc là 4,7tr và thực tế là 4,7*20)

- Điều này dẫn đến các tỷ số tài chính được tính toán dựa trên bctc của DN cũng bị sai lệch và không phản ánh đúng tình trạng hoạt động của DN: tỷ số nợ, tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản…

Như vậy, doanh nghiệp có thể lợi dụng vùng xám của các quy định kế toán để ghi nhận như một khoản thuê hoạt động. Điều này làm xuất hiện khả năng báo cáo tài chính không phản ảnh đầy đủ các khoản nghĩa vụ phải trả của doanh nghiệp; từ đó sẽ làm người đọc đánh giá sai về tình hình tài chính của doanh nghiệp.

(slide 20) Khách hàng thanh toán trước 1.000 USD cho một hợp đồng dịch vụ. Các giao dịch này ảnh hưởng gì đối với báo cáo tài chính nếu (a) doanh thu được ghi nhận khi thu tiền, và (b) doanh thu được ghi nhận khi giao sản phẩm? Bạn cần dự báo gì, nếu có, để hoàn tất việc ghi nhận giao dịch này? Những nhân tố nào sẽ xác định hai phương pháp nào sẽ phù hợp? Là một nhà phân tích tài chính, bạn sẽ hỏi các giám đốc tài chính của công ty những câu hỏi gì?

(a)   Doanh thu được ghi nhận khi thu tiền

- Khách hàng thanh toán trước khi dịch vụ được cung cấp mà doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lại ghi nhận doanh thu khi thu tiền thì dẫn đến việc tiền đã được ghi nhận là tài sản của DN và doanh thu cũng đã được ghi nhận khi chưa thực sự phát sinh. Dẫn tới doanh thu sẽ cao hơn thực tế $1,000 và lợi nhuận trong kỳ cũng sẽ cao hơn so với thực tế, trong khi chi phí  không hề tăng thêm.

- Dòng tiền vào và dòng tiền ra thể hiện trên Báo cáo lưu chuyển tiền tệ của DN sẽ cung cấp những thông tin sai lệch về tình hình tài chính của DN. Vì khoản tiền nhận trước này là nghĩa vụ chứ không phải tài sản của DN. Nó chỉ được ghi nhận là doanh thu và tài sản của DN đáp ứng được đầy đủ 5 nguyên tắc ghi nhận doanh thu:

+ Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu sản phẩm hoặc hàng hóa cho người mua;

+ Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hóa như người sở hữu hàng hóa hoặc quyền kiểm soát hàng hóa;

+ Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn;

+ Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng;

+ Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.

- Có thể xảy ra trường hợp tiền được ghi nhận kỳ này nhưng các kỳ kế toán sau doanh thu mới thực sự được cung cấp, như vậy số liệu trên BCTC của kỳ này với các kỳ tiếp theo rất khó theo dõi.

(b)   Doanh thu được ghi nhận khi thực tế cung cấp sản phẩm

- Khoản tiền nhận trước sẽ được ghi nhận như là một nghĩa vụ phải trả của doanh nghiệp, và nó sẽ được chuyển thành doanh thu khi DN đáp ứng đầy đủ 5 nguyên tắc như đã nói ở trên.

- Việc ghi nhận này đáp ứng được yêu cầu của Chuẩn mực kế toán được ban hành, đáp ứng được nguyên tắc dồn tích trong kế toán.

- Phản ánh tốt hơn tình hình hoạt động của DN, tăng tính có thể so sánh được giữa BCTC của kỳ này với những kỳ khác

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro