QT chi dao CL CM VN gd 30-45 sang tao, nhanh chong, kip thoi?

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hãy chứng minh rằng quá trình chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 mang tính năng động, sáng tạo, nhanh chóng và kịp thời?

Bài làm.

6.1) Giai đoạn từ 1930 -1935.

Sự thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam suốt từ cuối thế kỷ XIX cho đến đầu năm 1930 của thế kỷ XX, đã cho thấy sự khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo mạng mạng Việt Nam. Ngày 3/2/1930, Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập và đưa ra cương lĩnh chính trị đầu tiên của mình, đã vạch ra đường lối chủ trương chiến lược cho cách mạng nước ta. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam ( 3/2/1930) đã chấn rứt sự khủng hoảng về chủ trương, đường lối và giai cấp lãnh đạo của cách mạng nước ta.

Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ( 3/2/1930), đã làm cho phong trào cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ chưa từng có từ trước đến nay trở thành cao trào. Tháng 4/1930, Trần Phú sau một thời gian học tập tại Liên Xô trở về nước và được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 10/1930, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất họp tại Hương Cảng ( Trung Quốc) do Trần Phú chủ trì. Hội Nghị đã quyết định Đổi tên Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông Dương và thông qua Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 do Trang phú soạn thảo.

- Chủ chương đường lối của Đảng được thể hiện trong hai cương lĩnh chính trị là Luận cương chính trị đầu tiên của Đảng ( 3/2/1930) do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và Luận cương chính trị tại Hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng lần thư Nhất ( 10/1930).

+ Phương hướng chiến lược cơ bản của cách mạng Việt Nam trong hai bản cương lĩnh này là: cách mạng Việt Nam là, “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội công sản”.

Trong cách mạng tư sản dân quyền Luận cương xác định là phải đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp và phong kiến tay sai để giành độc lập cho dân tộc, sau đó tiến hành cách mạng ruông đất, tịch thu ruộng đất tài sản của bọn đế quốc địa chủ chia cho dân cày.

Đảng chủ trương tập hợp tập hợp rộng rãi lực lượng để tiến hành cách mạng giải phong dân tộc, Trong cương lĩnh tháng 2 viết: Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất, lôi kéo các tầng lớp tư sản, tiểu tư sản dân tộc, trí thức, trung tiểu địa chủ … đi vào phe của giai cấp vô sản.

→ Như vậy, Chủ trương đường lối của Đảng được đưa ra trong hai bản Luận cương đầu tiên ( 3/2/1930) và Luận cương chính trị ( 10/1930). Đã thể hiện sự đúng đăn của Đảng về con đường cách mạng Việt Nam, Đường lối chủ trương tiến hành cách mạng tư sản dân quyền là rất đúng lúc và kịp thời để giải quyết vấn đề mâu thuẫn dân tộc ở nước ta. Chủ trương tập hợp lực lượng trong giai đoạn này đã phản ánh được tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên trong Bản Luận cương chính trị (10/1930) của Trần Phú đã cho thấy một số sai lầm về chủ trương đường lối của Đảng trong giai đoạn này đó là Luận cương chính trị tháng 10/1930 đã đưa nhiệm vụ cách mạng ruộng đất lên hàng đầu đồng thời đánh giá không đúng vai trò và khả năng cách mạng của bộ phân giai cấp tư sản dân tộc nên chưa thể hiện được tư tưởng đại đoàn kết dân tộc như Cương lĩnh tháng 2 của Nguyễn Ái Quốc.

- Chủ trương khôi phục tổ chức Đảng và phong trào cách mạng 1931 – 1935.

Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930, đã làm cho phong trào cách mạng Việt Nam phát triển vô cùng mạnh mẽ và rộng lớn mà tiêu biểu là sự phát triển của cao trào cách mạng 1930 – 1931 với đỉnh cao là Xô viết - Nghệ tĩnh. Trước tình hình đó thực dân Pháp đã tiến hành một chương trình đàn áp, khung bố vô cùng dã man hòng dập tắt phong trào cách mạng Việt Nam tiêu diệt Đảng cộng sản Đông Dương. Hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn quần chúng yêu nước bị bắt , bị giết hoặc bị tù đày. Các cơ quan lãnh đạo Đảng ở trung ương và địa phương lần lượt bị phá vỡ. Toàn bộ Ban chấp hành Trung ương bị bắt và bị mang ra xét xử.

Mặc dù bị thực dân Pháp đàn áp khủng bố nhưng Đảng vẫn thể hiện được vai trò lãnh đạo cách mạng tiên phong của mình. Đảng và quần chúng cách mạng đã vượt qua thử thách khó khăn, từng bước khôi phục tổ chức Đảng và phong trào cách mạng. Nhiều chi bộ Đảng trong các nhà tù vẫn được thành lập, hệ thống tổ chức Đảng từng bước được khôi phục, nhiều Đảng viên vượt ngục đã tích cực tham gia khôi phục Đảng và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.

+ Chủ trương chiến lược lãnh đạo cách mạng trong giai đoạn này là: Đảng đã lãnh đạo quần chúng đấu tranh giành những quyền lợi thiết thực hàng ngày, rồi dần dần đưa quần chúng tiến lên đấu tranh cho những yêu cầu chính trị cao hơn.

Thứ nhất: đòi các quyền tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, đi lại trong nước và ra nước ngoài.

Thứ hai: bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xư, trả tự do cho các tù chính trị, bỏ ngay chính sách đàn áp, giải tán Hội đồng đề hình.

Thứ ba: bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các thư thế vô lý khác.

Thứ tư: bỏ các độc quyền về rượu, thuốc phiện và muối.

+ Chương trình hành động của Đảng còn đề những yêu cầu cụ thể riêng cho từng giai cấp và các tầng lớp nhân dân; vạch rõ và phải ra sức tuyên truyền và mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng, củng cố và phát triển các đoàn thể cách mạng nhất là công hội, nông hội; dẫn dắt quần chúng đấu tranh cho những quyền lợi hàng ngày tiến lên đấu tranh chính trị, chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền.

→ Như vậy, chủ trương đường lối của Đảng trong thời kỳ này đã thể hiện sự phù hợp trong bối cảnh bị thực dân Pháp đàn áp, khủng bố thì việc lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi các quyền lợi hàng ngày là cần thiết để tạo điều kiện khôi phục các tổ chức Đảng. Tháng 3/1935 Đại hội đại biểu lần thư nhất của Đảng họi tại Ma Cao ( Trung Quốc), Đây chính là đại hội khẳng định sự phục hồi của Đảng và các phong trào cách mạng.

6.2). Giai đoạn từ 1936 – 1939.

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933, đã làm cho mâu thuân vốn có trong hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa trở nên vô cùn gay gắt, một số nước tư bản đã tiến hàng cải cách để vượt qua cuộc khủng hoảng này bằng con đường phát xít hoá đất nước như: Đức, Italia, Nhật bản, Tây ban nha…Các nước này đã liên kết với nhau thành một “trục” ráo riết chạy đua vũ trang chuẩn bị chiến tranh nhằm phân chia lại phạm vi ảnh hưởng trên thế giới. Hiểm hoạ phát xít và nguyên cơ bùng nổ chiến tranh thế giới thư II đã hiện hữu đe doạ nghiêm trọng nền hoà bình an ninh thế giới.

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 đã ảnh hưởng sấu sắc đến đời sống của các tầng lớp nhân dân trong nuớc, thực dân pháp vẫn tiếp tục thi hành chính sách đàn áp, khủng bố, bóc lột nhân dân ta nhằm bóp nghẹt phong trào cách mạng Đông Dương. Tháng 3/1935 Đại hội đại biểu lần thư nhất của Đảng họp tại Ma Cao ( Trung Quốc) đã đánh dấu sự phục hồi của Đảng và phong trào cách mạng Việt Nam.

* Chủ trương đường lối lãnh đạo cách mạng của Đảng trong giai đoạn này đó là: Tạm gác lại khẩu hiệu độc lập dân tộc và người cày có ruộng đất mà tập trung vào đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, dân sinh.

- Chủ trương đấu tranh đòi các quyền dân chủ, dân sinh:

+ Tháng 7/1936 Ban chấp hành Trung ương Đảng và Ban chỉ huy ở ngoài họp Hội nghị tại Thượng Hải ( Trung Quốc), dưới sự chủ trì của Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập. Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt là chống phát xít, chống chiến tranh đề quốc, chống bọn phản đông thuộc địa và tay sai, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hoà bình.

- Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh đòi các quyền dân chủ, dân sinh.

+ Chủ trương mới của Đảng phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng bức thiết của quần chúng, làm dấy lên trong cả nước một phong trào đấu tranh mạnh mẽ sôi nổi hướng vào mục tiêu trước mắt là tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình. Đảng phát động một phong trào đấu tranh công khai của quần chúng với các hình thức đấu tranh phong phú đa dạng mở đầu là các cuộc mít tinh biểu tình tuần hành diến ra sôi nổi ở khắp mọi nơi như Hà nội, Huế, Sài Gòn…

+ Phong trào báo chí công khai cũng diễn ra rất sôi nổi. Hàng loạt tờ báo mang nội dung tiến bộ đã được xuất bản phát hành rộng rãi, bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp, tiêu biểu như: “Nhành lúa”, “An Nam trẻ”, “Người nhà quê”… Phong trào thơ cac cũng phát triển mạnh mẽ (đặc biệt là thơ Tố Hữu) đã khơi dậy lòng yêu nước cổ vũ thanh niên hăng hái tham gia cách mạng. Báo chí của Đảng lên tiếng bênh vực quần chúng, đòi các quyền dân chủ, dân sinh, thức tỉnh lòng yêu nước cho nhân dân, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê nin và vận động quần chúng đấu tranh.

+ Đấu tranh nghị trường cũng được sử dụng. Đảng và mặt trân dân chủ đã cử các đại biểu của mình ra tranh cử vào “Hội đồng quản hạt” ở Nam kỳ, “Viện dân đại biểu” ở Bắc kỳ. Các đại biểu của Đảng đã trúng cử đã dùng tiếng nói của mình để tố cáo, phản đối và hạn chế phần nào việc thi hành những chính sách phản động của thực dân Pháp.

+ Các cuộc đấu tranh trên các lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, triết học và tư tưởng cũng diễn ra rất sôi nổi, đã làm cho một số văn nghệ sĩ, trí thức tỉnh ngộ giúp họ đi đúng phương hướng.

→ Những chủ trương chỉ đạo chiến lược của Đảng đối với cách mạng Việt Nam giai đoạn 1936 -1939, đã giải quyết đúng đắn giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng, các mối quan hệ giữa liên minh công – nông và mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, giữa vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp, giữa phong trào cách mạng Đông Dương và phoang trào cách mạng thế giới. Việc đưa ra các hình thức đấu tranh dân chủ, dân sinh, phù hợp đã hướng dẫn quần chúng đấu tranh giành những quyền lợi hàng ngày để chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh chính trị cao hơn giành độc lập tự do.

Những chủ trương chính sách chỉ đạo của Đảng đã chứng tỏ sự trưỏng thành vững mạnh của Đảng về tư tưởng, chính trị, thể hiện bản lĩnh và tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng. Mở ra một thời kỳ mới chuẩn bị những điều kiện tiến lênh giành những thắng lợi lớn.

6.3). Giai đoạn từ 1939 – 1945.

* Giai đoạn 1939 – 1941.

Ngày 1/9/1939 phát xít Đức tấn công Ba Lan, sau đó Đức lân lược tuyên chiếnh với Anh và Pháp, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ. Đế quốc Pháp lao vào cuộc chiến, Chính phủ Pháp đã thi hành biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở chính quốc và phong trào cách mạng ở thuộc địa.

Mùa thu năm 1940 Nhật vào Đông Dương, ngày 22/9/1940 Phát xít Nhật tiến vào Lạng Sơn, Hải Phòng của nước ta. Ngày 23/9/1940 Pháp kí hiệp định đầu hàng Nhật. Từ đây nhân dân ta phải chịu cảnh một cổ hai chòng, áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và Phát xít Nhật. Mâu thuẫn dân tộc ở nước ta trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.

- Chủ trương đường lối chỉ đạo của Đảng, được thể hiện trong 3 Hội nghị Trung ương.

+ Hội nghị Trung ương Đảng lẩn VI ( 6/11/1939) họp tại ( Bà Điểm – Hóc Môn – Gia Định) do Nguyễn Văn Cừ chủ trì.

+ Hội nghị Trung ương Đảng lần VII ( 6 – 9/ 11/1940) họp tại (Đình Bảng - Từ Sơn - Bắc Ninh) do Trường Chinh chủ trì.

+ Hội nghị Trung ương Đảng lần 8 ( 5/1941) họp tại ( Pắc Pó – Cao Bằng) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì.

- Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng như sau:

+ Đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, xác định mục tiêu trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Tạm gác lại khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và việt gian”, “chia lại ruộng đất cho dân cày nghèo và giảm tô thuế”.

+ Đảng quyết định thành lập mặt trân Việt Minh, để đoàn kết toàn dân nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong dân tộc để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, làm nhiệm vụ giải phóng dân tộc, cứu nước, cứu nhà.

+ Quyết định chuẩn bị lực lượng về mọi mặt để tiến lên khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Cần phải ra sức phát triển lực lượng cách mạng ( bao gồm cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Pắc Pó – Cao Bằng). Ban chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh việc chuẩn bị lực lượng để tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ này.

→ Chủ trương chiến lược chỉ đạo cách mạng nước ta đã được Hội nghị Trung ương lần VI vạch ra đường lối chiến lược và sách lược cho cách mạng nước ta thời ký 1939 – 1945, thời kỳ đấu tranh giải phong dân tộc. Nó chứng tỏ sự đúng đắn, nhạy bén của Đảng trước những biến đổi của tình hình. Chủ trương này của Đảng đã tiếp tục được hoàn thiện tại Hội nghị trung ương VII ( 11/1940) và Hội nghị Trung ương 8 ( 5/1941).

Với chủ trương đường lối giương cao ngon cờ giải phong dân tộc lên hàng đầu của thời kỳ này, đã tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào Mặt trân Việt Minh, chuẩn bị lực lượng về mọi mặt, xây dựng căn cứ đại cách mạng là ngọn cờ đầu dẫn đường cho nhân dân ta đánh Pháp, đuôit Nhật, tạo điều kiện để nhân dân ta nổi dậy giành thắng lợi trong Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945.

* Giai đoạn 1941 – 1945.

Cuối năm 1944 cuộc chiến tranh thế giới thứ II sắp kết thúc, trên thế giới phe Đồng minh ( Anh – Pháp – Liên Xô) liên tiếp giành thắng lợi đây trục phát xít (Đức – Italia – Nhât )co cụm về phòng ngự.

Ở Đông Dương mâu thuẫn Nhật – Pháp lên đến đỉnh điểm. Đêm 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương, quân Pháp nhanh chóng đầu hàng quân Nhật vô điều kiện.

- Chủ trương chỉ đạo chiến lược của Đảng.

+ Ngay trong đêm 9/3/1945 khi mà Nhật đảo chính Pháp. Ban thường vụ Trung ương Đảng đã họp Hội nghị mở rộng ở (Đình Bảng - Từ Sơn – Bắc Ninh) . Ngày 12/3/1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

Chỉ thị chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa. Chỉ thị xác định sau cuộc đảo chính phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể, trước mắt của nhân dân Đông Dương, vì vậy phải thay khẩu hiệu: “đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”.

Chỉ thị nêu rõ phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du kích, Đẩy mạnh khởi nghĩa giải phóng từng phần, giành chính quyền bộ phận để tiến lên Tổng khởi nghĩa.

Những chính sách cai trị, vơ vét, bóc lột của Pháp - Nhật đã đẩy đất nước ta rơi vào nạn đói khủng khiếp 1945. Xuất phát từ lợi ích sống còn trước mắt của quần chúng. Đảng kịp thời đề ra khẩu hiêu: “Phá kho thóc Nhật giải quyết nạn đói.

- Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa của Đảng.

Chiến tranh thế giới thứ II bước vào những ngày cuối cùng Ngày 9/5/1945 phát xít Đức tuyên bố đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Ở chấu Á phát xít Nhật sắp đi đến thất bại hoàn toàn.

+ Từ ngày 13 -15/8/1945 Trung ương Đảng quyết định họp hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào ( Tuyên Quang). Hội nghị nhận định đây là cơ hội tốt cho nhân dân ta đứng lên giành chính quyền và quyết định phát đông Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân đồng minh tiến vào nước ta. Uỷ ban khởi nghĩa Trung ương được thành lập để lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa.

Hội nghị chỉ rõ khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: “phản đối xâm lược”, “Hoàn toàn độc lập”, “chính quyền nhân dân”. Nguyên tăc để chỉ đạo Tổng khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp thời. Hội nghị cúng quyết định những vấn đề về đối nội và đối ngoại của Đảng trong tình hình mới.

+ Ngày 16/8/1945 Quốc dân Đại hội chính thức khai mạc. Hội nghị nhiệt liệt tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh, quyết định thành lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam. Thông qua Quốc kỳ, Quốc ca và Quốc huy của đất nước, thảo luận và bổ sung một số chính sách cần phải thực hiện ngay sau khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Ngay sau Đại Hội chủ tich Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Cuối cùng Đại hội đã thông qua mệnh lệnh khởi nghĩa và ra quân lệnh số 1: Hạ lệnh Tổng khởi nghĩa.

Với chủ trương đường lối, phương hướng chỉ đạo của Đảng, Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 đã diễn ra thành công nhanh chóng, giành thắng lợi hoàn toàn triệt để. Chỉ trong vòng 15 ngày ( từ ngày 14 -28/8/1945), Tổng khởi nghĩa lần lượt thành công trên hầu khắp các địa phưong trong cả nước.

→ Chủ trương chỉ đạo chiên lược cách mạng của Đảng trong Cao trào kháng Nhật cứu nước và Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 giành chính quyền trong cả nước là vô cùng kịp thời, chính xác và nhanh chónh đưa tới thắng lợi toàn diện của tổng khởi nghĩa tháng 8/1945.

+ Sự kịp thời, chính xác và nhanh chónh của Đảng được thể hiện: Việc nhận định tình hình, đánh giá tình huống khi mà Nhật đảo chính Phap, để đưa ra phưong hướng chỉ đạo kịp thời đúng đắn. Sự nhận định chính xác thời cơ của Tổng khởi nghĩa đã chín mồi, quyết định hạ lệnh Tổng khởi nghĩa đúng lúc và bằng mọi cách Tổng khởi nghĩa phải giành được chính quyền trước khi mà quân Đồng minh tiến vào Đông Dương để tuớc vũ khí quân đội Nhật. Đây là một quyết định vô cùng chính xác và đúng đắn bởi vì nếu Tổng khởi nghĩa mà không giành đuợc chính quyền trước khi quân Đồng minh tiến vào nước ta thì khi vào nước ta họ sẽ dựng nên một chính quyền bù nhìn mà họ đã mang theo lúc này thì cuộc khởi nghĩa coi như đã thất bại.

Như vậy, chủ trưong chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng ta trong suốt thời kì từ 1930 – 1945 đã thể hiện sự đúng đắn, năng động, sáng tạo, nhanh chóng và kịp thời. Đưa đến thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ( 2/9/1945), chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của Thực dân Pháp, nhân dân ta tư những con người nô lệ, đói khổ đã được hưởng cuộc sống tự do đọc lập và làm chủ đất nước của mình.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro