QTLT 26-52

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 26: Thủ hồ (Nhị)

Khi tôi trở lại khu câu cá, Bạch Dực đã đứng lên xếp cần câu, nhìn xô cá đầy nhóc, tâm tình tôi mới thoải mái hơn một chút, vì chí ít Bạch Dực có thể nấu mấy món rất ngon với đám cá này. Tham ăn có thể nói là tật xấu lớn nhất của tôi, chỉ cần nghĩ tới đồ ăn là không còn lo lắng như lúc nãy nữa. Anh ta vẫy vẫy tay với tôi, ý bảo tôi tới giúp, tôi liền xắn tay áo tiến tới định giúp anh ta xách xô cá, nhưng vừa tới gần thì anh ta đã bịt mũi nhíu mày nhìn tôi: “Tiểu An, đi đâu về mà cả người lại có mùi tanh tanh thế?”

Tôi kéo góc áo lên mũi ngửi ngửi, quả nhiên nghe thấy mùi đất ngai ngái, tôi ngạc nhiên suy nghĩ, rõ ràng sáng nay mới tắm, sao cơ thể lại bốc mùi… đành vùng vằng cãi lại: “Cả người anh cũng đầy mùi cá đó thôi, ai mà nhận ra anh làm nghề giáo viên nữa, chẳng thà xuống đây đổi nghề làm ngư dân cho rồi!”

Anh ta không tin, bèn dí sát mũi vào cổ tôi ngửi ngửi. Lúc này Lục Tử đang cao hứng bừng bừng trở về, nhìn thấy hai chúng tôi, tự nhiên mặt lại nghệt ra như vừa nhìn thấy phim người lớn không dành cho con nít vậy, quay đầu lập tức đi thẳng. Tôi vội vàng hét lên sau lưng hắn: “Lục Tử, chạy đi đâu đó! Quay lại mau!”

Hắn vừa nghe tôi gọi liền do dự một chốc rồi mới quay lại, lúc tới cạnh chúng tôi còn cợt nhả một câu: “Ây da, người ta sợ làm phiền hai người mà!”

Tôi càng nghĩ càng cảm thấy tên ngốc này dường như đã hiểu nhầm cái gì đó, liền liếc hắn nói: “Quấy rối cái gì, tôi còn sợ quấy rối cậu kia… người đẹp kia đâu?”

Hắn không mang người đẹp về, dừng tay giữa chừng? Hình như có hơi không giống tác phong trước giờ của Lục Tử lắm. Nhưng hắn chỉ xua xua tay nói: “À, về với chồng người ta rồi! Còn để lại cho tớ số điện thoại của cô ta nữa cơ, để tớ lúc nào rảnh rỗi thì gọi.”

Tôi rùng mình hỏi: “Phụ nữ có chồng mà nhà ngươi còn dám động thủ? Không sợ chồng người ta tìm tới đánh cho què chân à?!”

Hắn đáp như đùa cợt: “Yên tâm yên tâm, tớ tự biết chừng mực. Thôi đi ăn cơm đi, coi như tớ tạ lỗi với các anh em. Tớ đặt bàn sẵn luôn rồi.”

Lục Tử vươn người tới định kéo chúng tôi tới nhà hàng, nhưng vừa dí sát mặt tới gần người tôi thì đột nhiên cau mũi hỏi: “Tiểu An, bộ vừa đánh rắm hay sao mà thối quá vậy?”

Tôi lập tức đập cần câu lên đầu hắn, phẫn nộ nói: “Có mà nhà ngươi đánh rắm ấy, ăn nói gì mà thô bỉ thế hả!”

Lục Tử lại vươn người tới nghe nghe, sau đó sờ sờ mũi nói: “Không phải… trên người cậu đúng là có một mùi hôi hôi… nhưng mùi này tớ đã ngửi thấy ở đâu rồi ấy nhỉ…”

Mắt Bạch Dực chợt lóe lên, đột nhiên hỏi: “Có phải cậu đang cầm cái gì đó không?”

Bọn họ nhắc tới tôi mới nhớ ra, trong túi còn cục đá kia còn gì. Vì thế vội vàng lôi nó ra, cặp mắt Lục Tử vừa nhìn thấy nó lập tức đã trợn to lên, nhìn chằm chằm vào khối đá mà hít hà: “Oa, cừ thật! Đây hình như là một khối kiếm cách[1] bằng ngọc đó nha!”

Nói xong lập tức nhét lại cục đá vào túi tôi, nhìn trước nhìn sau một hồi không thấy có ai để ý tới, mới thì thầm: “Tiểu An, đây là đồ cổ đó, cậu kiếm đâu ra được vậy?”

Tôi kể lại sơ lược chuyện lúc nãy cho bọn họ nghe, nghe xong, cả hai đều hơi cúi đầu như suy nghĩ, sắc mặt Bạch Dực càng thêm nghiêm nghị khác thường, đây cũng chính là nguyên nhân làm tôi cảm thấy sợ. Vì mỗi lần anh ta tỏ ra căng thẳng, là câu chuyện lại có xu hướng phát triển theo hướng xấu ngay.

Cuối cùng cũng chính Lục Tử là người phá vỡ sự im lặng nặng nề giữa chúng tôi, hắn cắn cắn môi dè dặt nói: “Kỳ lạ thật… một vật thế này sao lại xuất hiện trong một làng chài bình thường như vầy được? Nếu nó đúng là bảo vật văn hóa thì sẽ không bị đối xử lạnh nhạt thế này đâu… Nếu không phải tớ nhìn cổ vật quen rồi thì căn bản nhìn không ra nó là một khối ngọc nha… Thôi bỏ qua đi, đi ăn trước cái đã. Ở đây tai vách mạch rừng, nếu có người biết chúng ta tìm được thứ quý giá như vậy thì coi chừng bị bắt nộp lên bây giờ.”

Tôi nhìn sang Bạch Dực ra ý hỏi, nhưng thấy anh ta vẫn cau mày im lặng, trong lòng tôi vẫn cảm thấy lo âu, nhưng ít ra ngay lúc này cũng chưa có chuyện gì quái dị phát sinh, nên cũng gật đầu mà đáp: “Đúng vậy, đi ăn cái đã. Lúc về phòng rồi sẽ từ từ nghiên cứu lại sau.”

Nhà hàng thực ra cũng là chỗ chúng tôi ở trọ, nói cho đúng ra là một biệt thự nhỏ của một hộ nông dân. Tầng dưới cùng dùng làm nhà ăn, mấy gian phòng trên lầu cho khách du lịch thuê. Có rất nhiều hộ gia đình ở đây chọn cách kinh doanh này, vừa phục vụ chỗ nghỉ vừa phục vụ cơm nước, đồ ăn thì đều là những món ăn làm từ chính nông sản địa phương, ví dụ như canh gà ta, cơm chiên tôm, cá hấp vân vân. Ăn xong rồi khách có thể lên lầu nghỉ ngơi, rất tiện lợi. Gian phòng của chúng tôi ở vị trí tốt, mở cửa sổ ra có thể nhìn thấy mặt hồ trước mặt.

Nhưng bao nhiêu tâm tư của chúng tôi đều để hết ở chỗ khối ngọc và chuyện quái dị lúc nãy, nên không còn lòng dạ nào thưởng thức hương vị của món ăn. Hơn nữa trên người tôi vẫn bám theo cái mùi khó ngửi đó, cũng không muốn ở lâu trước mặt người khác để người ta phải dị nghị, cho nên cả ba vội vàng ăn cho xong bữa cơm, sau đó lập tức lên lầu. Vào phòng đóng cửa lại rồi, Lục Tử húng hắng vài tiếng rồi nói: “Tiểu An, đem thứ kia ra đây xem nào.”

Quả thực mùi hôi kỳ lạ kia toát ra từ chính khối ngọc, còn phảng phất một mùi máu tanh rất nặng hòa cùng mùi đất gai gai mũi, thực sự rất khó nghe. Lục Tử lấy ra một cái hộp nhỏ, bên trong có vài cái bàn chải nhỏ và khăn lau, là thứ mà hắn thường dùng để chùi con dấu. Hắn vừa cẩn thận nâng niu khối ngọc trong tay vừa nói với chúng tôi: “Đây đúng là cái mùi đặc thù của đồ cổ. Nhất là ngọc, để càng lâu thì ngọc càng tỏa ra một mùi hôi khó ngửi, cho nên rất nhiều kẻ làm giả cổ vật thường ném những khối ngọc còn mới vào bồn cầu để làm giả thành ngọc xưa. Nhưng loại thủ pháp vụng về đó thường không qua mắt được dân chuyên nghiệp.”

Tôi thử để sát mũi vào ngửi ngửi, hèn gì mà Bạch Dực vừa nghe đã biết tôi đang giữ cái gì trong người. Quả nhiên thứ này có vẻ rất nhiều tuổi đây, chờ Lục Tử lau sạch nó xong là có thể biết nó là cái gì.

Lục Tử cầm bàn chải nhỏ, tỉ mỉ chải từng chút một dọc theo những vân hoa văn. Bạch Dực cũng ngồi bên cạnh chăm chú nhìn, vừa khi một góc hoa văn lộ ra là anh ta đã lặng lẽ nói: “Thứ này thuộc thời Ngô quốc.”

Lục Tử làm việc rất cẩn thận chu đáo, trong lĩnh vực này hắn quả thực là chuyên gia. Hắn nhìn qua hoa văn, cũng gật đầu: “Đúng vậy, khối kiếm cách bằng ngọc này là của Ngô quốc. Hoa văn này đúng là loại hoa văn thịnh hành thời cuối Xuân Thu, đầu Ngô. Cái âu khai quật được trong kho tàng Tư Đồ ở thành phố Đan Dương tỉnh Giang Tô năm 1976 cũng mang những hoa văn đan chéo nhau phức tạp giống thế này.

Hắn dùng bàn chải chải sạch khối ngọc xong, rồi dùng vải mềm chà nhẹ qua, khối ngọc liền hiện ra ánh sáng nguyên bản của ngọc cổ, đó là một màu giống như màu đá Moldavite[2], giữa sắc xanh lục sậm vằn vện những vằn màu đen mảnh, hình chữ nhật bo tròn ở hai đầu. Một đầu có đục lỗ, dùng để tra chuôi kiếm vào, chính giữa mặt ngọc có khắc hai chữ triện “Câu Nguyệt”, nét chữ mạnh mẽ khí khái. Nếu có thêm cả chuôi lẫn lưỡi kiếm, chắc chắn không phải là một thanh kiếm tầm thường. Nếu có thể cầm trong tay một thanh kiếm như thế ra trận, thì quả là một hình ảnh cực kỳ oai phong!

Lục Tử đặt khối ngọc lên bàn, Bạch Dực lập tức cầm lên, lấy tay miết nhẹ lên chữ khắc trên mặt ngọc mà kích động thì thầm: “Trên này khắc hai chữ ‘Câu Nguyệt’ này! Chẳng lẽ đây chính là thanh kiếm ‘Câu Nguyệt cổ kiếm’ đã thất truyền từ lâu của Ngô quốc hay sao?!”

Lục Tử vừa thu dọn mọi thứ đi ướng nước, nghe Bạch Dực nói thế thì lập tức phun hết nước ra mà ho khan, tôi sợ hắn phun nước lên khối kiếm cách, vội vàng kéo hắn lại. Hắn kích động nắm chặt hai tay tôi mà phun nước bọt như mưa lên mặt tôi: “Có lầm không vậy chứ!! Chẳng lẽ… chẳng lẽ chính là thanh kiếm lưỡi vàng chuôi ngọc mà Ngô vương Phù Sai đã dùng để bức tử Ngũ Tử Tư hay sao?!!!”

Hắn vừa nói thế, tôi cũng lập tức sợ ngây người, quên mất cả nước miếng phun phèo phèo trên mặt mình mà ngây ra nhìn khối kiếm cách bằng ngọc trong tay Bạch Dực. Tục truyền Ngô vương có một thanh “Câu Nguyệt cổ kiếm”, cùng với thanh “Vương giả chi kiếm” của Việt vương Câu Tiễn hợp thành một đôi hi thế bảo kiếm được xưng là “Thiên hạ xưng bá thành vương”. Thanh kiếm của Câu Tiễn được gọi là “Thành vương”, còn Câu Nguyệt được gọi là “Thủ quốc”. Ngô vương Phù Sai dùng nó để bức tử Ngũ Tử Tư, sau đó khi Việt quốc tấn công Ngô quốc thì bóng dáng của Câu Nguyệt cũng theo loạn lạc mà bị phủ mờ trong suốt chiều dài lịch sử, không còn ai biết tung tích. Nghe kể rằng những bậc vương giả có được thanh kiếm này trong tay, sau khi chiếm được thiên hạ rồi, sẽ được kiếm phù trợ cho được thiên hạ thái bình, thịnh thế muôn đời, thiên thu vạn đại.

Ba người chúng tôi đều lặng người đi bàng hoàng, cuối cùng vẫn là tôi e dè lên tiếng trước: “Thứ này… thực sự là một bộ phận của thanh cổ kiếm đó sao? Nói vậy thì phải chăng… thanh kiếm vẫn còn lưu lạc gần đâu đây?”

Bạch Dực đẩy gọng kính, nheo nheo mắt nhìn khối kiếm cách mà trả lời: “Cũng khó nói, nhưng tôi có cảm giác cái này và tấm bia đá cậu nhìn thấy cùng với chuyện khỉ nước nhất định có liên quan. Thế này đi, Lục Tử, cậu ở đây giữ kiếm cách, Tiểu An, dẫn tôi ra chỗ tấm bia đá xem sao.”

Tôi lập tức gật đầu, nghĩ ở một làng chài bé nhỏ hẻo lánh như thế này mà lại có thể có một phát hiện chấn động đến thế, cũng thực sự có chút hứng khởi. Nhưng bên cạnh đó là một loại bất an không gạt đi nổi, trực giác nói cho tôi biết, chuyện này không đơn giản như vậy.

Còn Lục Tử trước hết vẫn là một thương nhân, hắn lập tức suy nghĩ theo góc độ của một vụ buôn bán, vừa nghe tới tấm bia đá đã lập tức nói: “Hai người đi xem đi nhé, có thể tấm bia đó cũng có giá trị, nếu thực sự có liên hệ với thanh kiếm này là tôi lập tức gọi người tới bán liền, tới lúc đó không quên tiền hoa hồng cho hai người đâu!”

Khi chúng tôi quay lại bên hồ, trời đã ngả về chiều, khu du lịch đầy những đôi trai gái nắm tay nhau đi dạo quanh hồ ngắm phong cảnh, nhưng chúng tôi không còn lòng dạ nào ngắm hoàng hôn, chỉ mải miết đi về phía tây. Quả nhiên khu vực đó là một “điểm mù” an ninh của khu du lịch này, cho tới bây giờ vẫn không có ai tới canh gác. Chúng tôi cúi gập người chui vào bụi cây, từ đây có thể thấy rõ chỗ nước cạn nơi phát hiện xác chết ban ngày. Thi thể đã được đem đi, nhưng theo tập tục của ngư dân ở đây, vẫn để lại một cây nến sáp ong, bốn phía bày đầy những vật dụng lúc sinh tiền của người chết, với ý nghĩa là để dẫn hồn phách lưu lạc trong nước quay về, tránh cho người chết biến thành khỉ nước.

Hồ nước róc rách tiếng nước triều đều đặn dâng lên rồi lại hạ xuống, nghe như hơi thở của thiên nhiên. Triều dâng rồi triều dạt, có lẽ tấm bia đá kia đã chứng kiến cả ngàn năm thủy triều lên xuống thế này rồi nhỉ. Tôi nhìn mặt hồ một cái, sau đó quay đi bước theo Bạch Dực tới chỗ bia đá. Đột nhiên nghe anh ta khẽ hô lên một tiếng: “Thấy rồi.”

Tôi bước nhanh tới, quả thực là tấm bia đá vô danh tôi đã nhìn thấy ban ngày. Bạch Dực phủi hết lá cây bám trên mặt bia, quan sát một lúc rồi nói: “Quả nhiên là đồ có từ thời nhà Ngô.”

Tôi hỏi: “Trên đó viết những gì vậy? Sao chỉ có vài dòng ngắn ngủi thế?”

Bạch Dực mím chặt môi nhìn tấm bia một lúc lâu khiến tôi càng tò mò, giục anh ta mau nói.

Ánh mắt Bạch Dực có hơi kỳ lạ, anh ta quay sang tôi lặng lẽ nói: “Tấm bia này thực ra là do người chết làm cho chính mình.”

Tôi ngẩn người ra, cái gì cơ? Tự lập bia cho mình? Kẻ đó biết mình sắp chết nên tự lập bia cho mình sao?

Tôi gãi gãi đầu chỉ vào tấm bia: “Thì trước hết anh cứ dịch tấm bia này ra cho tôi nghe xem nào, sao kẻ đó chỉ ghi lại cho chính mình có vài hàng như vậy? Cổ nhân luôn luôn coi trọng hậu sự, một tấm bia sơ sài thế này không hợp với lễ giáo lúc đó chút nào!”

Bạch Dực vuốt dọc những dòng chữ khắc mà khẽ đọc: “Nó viết là ‘Sĩ vi tri kỷ giả tử, thiên cổ nhất hận, duy hữu thủ nguyệt’.”

Văn học cổ luôn luôn là điểm yếu của tôi, suy nghĩ mãi mà tôi vẫn không biết tấm bia nói thế là có ý gì, đành quay qua hỏi Bạch Dực: “Anh hiểu kẻ này muốn nói gì không? Tôi chỉ biết câu ‘Sĩ vi tri kỷ giả tử, nữ vi duyệt kỷ giả dung’[3] thôi à…”

Bạch Dực khẽ cười cốc đầu tôi một cái: “Bậy bạ, cái gì mà ‘nữ vi duyệt kỷ giả dung’ ở đây? Câu đầu đúng là có ý là ‘kẻ sĩ chết vì tri kỷ’. Còn ‘thiên cổ nhất hận’, tôi cũng không biết là hận gì, ‘duy hữu thủ nguyệt’ có hai cách hiểu, cách thứ nhất là chỉ cái hồ Thủ Nguyệt này, cách hiểu thứ hai là chỉ thanh kiếm Câu Nguyệt.”

Người thời cổ thường lời ít mà ý nhiều, phần nhiều là để cho người nghe tự suy ngẫm, dựa vào chính khả năng của mình mà lãnh hội. Nếu có ngộ tâm, tất sẽ tự hiểu người ta đang nói cái gì, còn nếu không có ngộ tâm, thì xin lỗi, có nhìn đám chữ đó tới mức thổ huyết cũng đừng hòng hiểu ra. Tuy không thể hiểu hết câu này có ý gì, nhưng xem ra chắc chắn có liên quan nào đó tới Câu Nguyệt cổ kiếm.

Bạch Dực thấy đám chữ này cũng không cung cấp được thêm cái gì cho chúng tôi, liền bước ra phía sau tấm bia xem thử. Tôi càng không hiểu gì, vì thế liền quay ra phía sau lưng nhìn lại chỗ nước cạn nơi thi thể được tìm thấy, nhưng lại đột nhiên phát hiện ngọn nến sáp đã… biến mất, chỉ để lại những vệt sáp trắng nhạt. Trên mặt cát lưu lại một loạt dấu chân ướt sũng, nhìn là biết tuyệt đối không phải dấu chân người, mà cứ như những dấu chân vịt khổng lồ vậy.

Tôi cảm thấy mặt mình tê rần lên, vội vã xoay người gào lên với Bạch Dực: “Lão Bạch lão Bạch, ngọn nến mất tiêu rồi!”

Bạch Dực ngẩng đầu lên khỏi mặt sau tấm bia, đột nhiên anh ta cũng trừng to mắt, thoáng cái kéo lấy tay áo tôi giật mạnh lại, kéo tôi về phía sau tấm bia. Vì lực kéo quá mạnh, mặt tôi liền đập thẳng vào mặt đá, tôi chỉ cảm thấy mũi đau thốn lên, đau tới mức rên rỉ: “Anh bị mắc cái chứng gì vậy, mũi tôi bị đập gãy bây giờ!”

Nhưng Bạch Dực không thèm để ý tới, chỉ nhanh như chớp nhảy phắt ra chặn trước mặt, kéo tôi ra phía sau lưng mình. Tôi bưng chặt mũi nhìn lên, vừa kịp thấy một cái bóng đen nhoáng cái chui vào trong rừng cây dày đặc, tốc độ cực nhanh. Bạch Dực chỉ cẩn thận quan sát bốn phía, âm trầm nói với tôi: “Chỗ này không an toàn, về thôi!”

Không cần anh ta phải nói tôi cũng biết chỗ này lành ít dữ nhiều, thứ đen thùi lúc nãy rất có khả năng chính là vị khỉ nước ban sáng, đúng là bám dai như đỉa vậy. Tôi bỏ bàn tay đang bịt mũi ra, nhìn thấy một màu đỏ ghê người của máu tươi, nghĩ thầm, Bạch Dực đúng là ra tay quá mạnh, nếu anh ta mà cố tình một chút thì không chừng cả cái mặt tôi cũng dẹp lép mất rồi. Anh ta nhìn gương mặt của tôi, cũng có hơi hối hận, liền lấy trong túi quần ra một cái khăn tay chuẩn bị giúp tôi lau mũi. Nhưng tôi vội vàng ngăn bàn tay anh ta lại, cầm lấy cái khăn tự mình lau. Anh chàng này mạnh tay như vậy, bây giờ mà lau một cái dám cái mũi của tôi cũng rớt ra theo quá. Tôi lườm anh ta một cái, bưng mũi nói: “Về trước cái đã, hiện tại không phải là lúc quan tâm tới vấn đề mặt mũi, có xấu đi chút cũng còn hơn là xuống hồ làm khỉ nước!”

Trên đường trở về tôi vẫn bưng chặt mũi, Bạch Dực lẽo đẽo theo phía sau. Những người trên đường nhìn mặt tôi, tưởng tôi vừa bị ai “dạy dỗ”, đều chỉ trỏ thì thầm với nhau. Tôi cúi thấp đầu, thầm mắng cả mười tám đời tổ tông nhà Bạch Dực tơi tả.

Một người đàn ông trung niên tiến tới từ phía xa, tôi nhận ra ông ta là một trong số những ngư dân ban sáng. Ông ta tiến thẳng tới trước mặt tôi, thấy phía sau tôi còn có thêm một người, hơi ngây ra một chút, thế nhưng lại lập tức đi tiếp. Trên thắt lưng của ông ta có cột một sợi dây xô gai màu trắng, bởi vì người chết là đứa nhỏ trong nhà, nên người lớn không cần mang vải tang màu đen mà chỉ cần cột một sợi dây trắng bên hông, biểu thị trong nhà có trẻ con qua đời là được.

Ông ta vội vàng nói với tôi: “Cậu nhóc, đừng ở lại đây nữa, sớm muộn gì cũng gặp xui cho coi. Tui biết cậu không tin, nhưng khỉ nước ở chỗ này khá với những chỗ khác, có thể lên tận trên bờ mà tha người xuống nước đó, tất cả những ai đã trông thấy nó đều sẽ bị nó kéo xuống nước hết đó!”

Tôi nhìn ông ta, cảm thấy có thể tìm hiểu được nhiều điều từ người này, bèn lén nháy mắt với Bạch Dực một cái rồi làm ra vẻ ngây thơ nói với ông ta: “Đại ca, không phải tôi không tin, nhưng mà anh nói chuyện cũng mập mờ quá đi. Tôi không hiểu gì hết, mà khỉ nước là cái gì?”

Ông ta nhìn chúng tôi một chút rồi thở dài: “Hai người không phải người trong thôn, không biết khỉ nước lợi hại tới mức nào đâu. Thằng con nhà tui trước khi gặp nạn cũng nhìn thấy khỉ nước, sau đó mới bị nó lôi xuống hồ. Nhất là những lúc thủy triều, đám khỉ nước ở đây cứ như trúng ma, đều chực chờ bên mặt nước, thấy ai là kéo người đó xuống hồ cho chết đuối liền. Những lúc thủy triều lên xuống, làng này không ai dám ra hồ bắt cá cả. Ai… chúng ta đều biết, bị khỉ nước lôi đi rồi là thế nào cũng phải trở thành một trong số chúng… thương cho con tui…”

Bạch Dực đứng bên cạnh chăm chú lắng nghe, tới đây đột nhiên chen vào hỏi: “Vậy vùng này có truyền thuyết gì về cái hồ này không? Càng xưa càng tốt!”

Ông ta suy nghĩ một chút rồi trả lời: “Những chuyện cổ ở đây nói chung đều là về cái hồ này, nhưng chuyện xưa nhất… có lẽ là chuyện kể là ngày xưa đã từng có một quý tộc nhảy xuống sông tự vận, không ai biết lai lịch của người đó ra sao, nhưng nghe đồn ông ta biết pháp thuật, tự sát rồi cũng không có cá tôm nào dám rỉa xác của ông ta, hơn nữa… hình như là ông ta còn ôm theo một thanh kiếm nhảy xuống hồ nữa.”

Tôi và Bạch Dực quay phắt lại nhìn nhau, cảm thấy có đầu mối, vì thế hỏi ông ta kể chi tiết hơn. Người đàn ông gãi gãi tóc suy nghĩ rồi kể: “Ông nội tui bảo, thân thế của người này rất đặc biệt, nghe nói ông ta chết rất trẻ, lúc chết lại ôm oán hận quá lớn, oán khí không tan nổi, cho nên biến thành Quỷ Vương của thủy quỷ, mà cả thanh kiếm của ông ta cũng rất đáng sợ. Thủy quỷ đều phải nghe lệnh ông ta, mà cái vị ‘Thủ quốc gia gia’ này đặc biệt không thích người ta tới mé tây hồ, kẻ nào dám tới lập tức sẽ bị khỉ nước bắt đi hết. Cho nên chỗ đó biến thành chỗ cấm của làng này. Nhưng sau thời cải cách văn hóa, khách du lịch bắt đầu tìm tới, ban ngày chúng tui cũng bạo gan vài lần tới câu cá. Nhưng gần đây thì đám khỉ nước càng lúc càng hung tợn khác thường, hình như là do oan hồn của vị gia gia này quấy phá, tụi tui cũng cúng cho hồ rất nhiều lần, nhưng không ăn thua gì. Thằng con tui tối bữa trước ra mé tây hồ rồi cũng không còn trở về nữa…”

Bạch Dực hỏi tiếp: “Vậy các vị có biết người này là người thời nào, tên gì không?”

Ông ta chậc chậc lưỡi đáp: “Cái đó thì không biết, nghe nói là người trước cả thời Tần Thủy Hoàng, tên gọi… không biết tên là gì, nhưng tụi tui đều gọi ông ta là ‘Thủ quốc công’, những cái khác… quả thực không biết.”

Tôi xem chừng không còn hỏi thêm được gì nữa, bèn chào hỏi qua loa rồi cùng Bạch Dực về phòng trọ. Dọc trên đường, Bạch Dực đều rất trầm tư như đang suy nghĩ rất lung, lúc chúng tôi vào phòng, thấy Lục Tử vẫn đang nghiên cứu khối kiếm cách bằng ngọc kia. Chúng tôi vừa vào cửa, hắn đã đứng dậy hỏi có thu hoạch gì không.

Tôi tự rót cho mình một ly nước, kể lại chuyện ông ngư dân kia đã nói cho hắn nghe. Hắn gõ gõ lên bàn, thở dài: “Tư liệu như vậy vẫn còn quá ít, chẳng biết thêm được gì cả.”

Bạch Dực lắc đầu: “Chưa chắc, hai người suy nghĩ thử xem, Phù Sai bức tử Ngũ Tử Tư rồi, sau đó bảo kiếm có thể rơi vào tay ai? Một thứ quan trọng như vậy, Ngô vương Phù Sai có ngốc đến mấy cũng không thể giao vào tay người ngoài. Cho nên chắc chắn lúc đó giữ kiếm phải là thân tín, hoặc là trực hệ của Ngô vương.”

Chính xác, nghe rất có lý. Tôi gật đầu, đồng ý với ý kiến của Bạch Dực: “Nói đúng lắm, vậy người nào có thể vừa là thân tín của Phù Sai lại vừa biết pháp thuật nhỉ?”

Lục Tử cắt ngang: “Không thể tin theo lời ông ngư dân kia nói mà nghĩ rằng người đó nhất định phải biết pháp thuật, làm sao có chuyện hoang đường tới mức đó được. Người thời cổ thường cho những hiện tượng tự nhiên dị thường đều là pháp thuật cả, nếu cậu bây giờ mà quay vể thời cổ đại móc ra một cái bật lửa là lập tức tất cả mọi người, coi chừng cả lão hoàng đế cũng phải quỳ xuống trước mặt cậu nữa là.”

Tức là, ngoại trừ khối kiếm cách cộng với một câu chuyện truyền khẩu không đầu không đuôi thì chúng tôi không có gì khác trong tay cả. Kỳ thực, điều làm tôi quan tâm nhất chỉ là làm sao để không bị khỉ nước lấy mạng mà thôi, vì nếu như lời ông ngư dân kia nói là thực, bất kỳ ai nhìn thấy khỉ nước đều phải chết, vậy chẳng phải tôi chết chắc rồi sao?

Bạch Dực nhìn thấu lo lắng trong lòng tôi, liền vỗ vỗ vai khuyên nhủ: “Tôi cảm giác chuyện này vẫn chưa ngã ngũ, hơn nữa chỗ này cũng xa hồ, khỉ nước không thể nào dám tới tận đây mà tìm cậu được đâu, cùng lắm thì mai chúng ta về thành phố, lẽ nào nó có thể đuổi theo cậu tới tận đó?”

Nhưng lần này thì ngay cả những lời bảo đảm của Bạch Dực cũng không làm tôi bớt lo hơn chút nào. Trong lòng dường như luôn luôn có một tảng đá khổng lồ đè nặng, không sao nhẹ nhõm được. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, trời đã tối đen lại, mặt hồ ánh lên một sắc xanh sẫm pha đen huyền ảo, một vầng trăng tròn trặn lửng lơ giữa bầu trời không gợn áng mây. Một khung cảnh tĩnh tại đẹp đẽ đến thế, vậy mà lúc này nhìn lại không hiểu sao cứ cảm thấy có hơi quỷ dị.

Chợt từ xa truyền tới từng đợt thanh la xập xòe cộng với tiếng tụng kinh đều đều của hòa thượng. Ngoài bến sông, ngư dân đang tổ chức lễ cúng cho đứa trẻ vừa chết, bọn họ đốt một đống quần áo mà nó thường mặc khi còn sống bên bờ sông, từ xa vẫn có thể nghe thấy mùi cháy khét lẹt.

Tiếng khóc của người phụ nữ ban sáng lại lần nữa vang lên thảm thiết. Tôi bắt đầu thực sự phát sợ, tay run run vội vã đóng cửa sổ lại, bất an quay lại ngồi lên ghế, ỉu xìu nói với hai người còn lại: “Tôi mặc kệ hết, sáng mai chúng ta về đi! Bọn khỉ nước này thực sự quá đáng sợ mà, tính mạng quan trọng hơn thanh kiếm kia nhiều!”

[1] Kiếm cách là một khối (thường là) hình chữ nhật nằm ở vị trí giữa chuôi kiếm và lưỡi kiếm, có tác dụng bảo vệ tay. Khối kiếm cách của Tiểu An nhặt được có lẽ chính xác trông như thế này:

[2] Hay còn được gọi là vẩn thạch Tiệp Khắc do nguồn gốc của nó là từ vẩn thạch mà tạo thành. Có sắc xanh lục, đôi khi hơi ngả sang màu rêu rất đẹp. Có ý nghĩa là “cầu cho mối quan hệ được rõ ràng vững chắc”.

3] Kẻ sĩ chết vì tri kỷ, hồng nhan thắm bởi người yêu – Lục Mịnh dịch rất thoát ^^

.

Chương 27: Thủ hồ (Tam)

Bạch Dực mân mê chén trà trong tay, không nói gì; Lục Tử tuy có vẻ như muốn ở lại tìm tung tích của thanh cổ kiếm, nhưng nhìn dáng vẻ lo sợ của tôi cũng không dám ép. Đột nhiên ánh mắt Bạch Dực như lóe lên, dường như tự đắc vì đã nghĩ ra cái gì đó vậy, nhưng sự biến hóa này chỉ xẹt qua đáy mắt anh ta rất nhanh rồi nhanh chóng biến mất, trở lại vẻ lạnh nhạt như cũ, trước sau vẫn không mở miệng.

Tôi vốn định hỏi anh ta đã nghĩ ra cái gì, nhưng anh ta đã khéo léo dùng ngón trỏ của bàn tay đang cầm chén mà đặt nhẹ lên môi, ý bảo tôi đừng lên tiếng. Để không cắt đứt dòng suy nghĩ của anh ta, tôi cũng đành nhịn mà im lặng, chờ anh ta suy nghĩ cẩn thận đâu ra đó rồi chắc chắn sẽ giải thích. Buồn chán, tôi bèn lơ đãng nhìn ra ánh lửa xa xa ngoài cửa sổ, nghĩ thầm, quả nhiên là những người sinh ra bên hồ, lớn lên trong hồ, cuối cùng cũng gửi thân xác lại trong hồ, đó cũng có thể coi như một sự trở về. Tôi thở dài một hơi, u ám nhìn lướt qua mặt hồ đen đặc rộng lớn. Đột nhiên, giữa mặt hồ, tôi nhìn thấy… một cái bóng người trắng toát!

Lòng tôi trong phút chốc hoảng lên, thân hình của kẻ nọ rất mờ nhạt, ánh trăng chiếu lên người hắn làm thành một đường viền nhàn nhạt. Tôi không khỏi nghi ngờ, người này biết phép đi trên mặt nước hay sao? Bởi vì trông cái bóng thực sự như đang lướt trên mặt nước, nhưng vẫn hoàn toàn không làm cho mặt nước xao động, toàn bộ thân hình như tĩnh lại, kéo theo không khí xung quanh hắn cũng như ngưng đọng theo.

Một ý nghĩ toát ra trong đầu tôi, người này rất có thể chính là “Thủ quốc công” mà ông ngư dân ban chiều đã nhắc tới, nghĩ vậy, tự nhiên cảm thấy một cảm giác khao khát mãnh liệt muốn nhìn thấy hắn tận mắt, làm như nếu nhìn thấy người này thì có thể giải được hết mọi bí ẩn vậy. Mặc kệ hắn là thiện hay ác, là thần hay quỷ, thà tìm thấy hắn trước còn hơn chờ hắn tới tìm, không phải sao!

Để nhìn thấy rõ hơn, tôi vội vã tiến ra trước cửa sổ, nhìn chằm chằm vào cái bóng trên mặt hồ, cái bóng như được phủ mờ bởi tầng tầng ánh trăng huyền ảo. Đột nhiên tôi có cảm giác thật muốn, thật sự muốn lao đầu ra khỏi cửa sổ… bàn tay tôi đã nắm lên bờ cửa, nhưng khi tôi vừa mở rộng cửa ra, thì từ bên ngoài, một cái bóng đen thùi đã chồm lên. Khỉ nước! Nó nhe răng trợn mắt nhìn tôi, tròng mắt đỏ rực như máu. Tôi giật người lùi lại, nó đã xô mạnh vào vai tôi mà nhảy xổ vào phòng. Đang lúc cả đám người chúng tôi còn đang trở tay không kịp, trong phòng lại đột ngột… cúp điện! Lục Tử và Bạch Dực đều la lên. Chuyện xảy ra nhanh như một cái chớp mắt, ba người chúng tôi căn bản không kịp động đậy, vì ánh sáng bất thình lình biến mất nên chúng tôi cứ như ba kẻ mù, tôi vội vã giơ giơ tay ra trước hốt hoảng gọi: “Bạch Dực, Lục Tử! Hai người đâu rồi!”

Đột nhiên cảm thấy đụng phải một người, tôi tưởng là Bạch Dực, liền vội vàng nắm lấy tay người đó, nhưng chạm vào rồi mới thấy, đây tuyệt đối không thể là Bạch Dực được, vì tay áo hắn dài thượt, không phải quần áo của người hiện đại, mà cả người hắn lại ướt đẫm, cứ như… cứ như vừa bước lên từ dưới hồ vậy!!!

Tôi giật tay lại rút lui liền mấy bước, đụng phải ghế, lập tức ngã nhào xuống. Đôi mắt dần dần quen với bóng tối, tôi bèn nhìn chằm chằm vào bóng người đang đứng cạnh cửa sổ kia. Hắn mặc một chiếc áo dài thượt, rộng thùng thình, một tay đang vươn ra về phía tôi, lòng bàn tay mở rộng như đang đòi vật gì đó. Tôi lập tức hiểu ngay, hắn đang đòi lại khối kiếm cách ngọc! Đột nhiên cả người bị ai đó ôm chặt lấy, kéo về phía sau, tôi mất đà ngã vào lồng ngực người ấy. Nhìn lại thì phát hiện là Bạch Dực, trong lòng lập tức yên tâm, liền run run chỉ cho anh ta thấy người bên cửa sổ kia: “Hắn… dường như muốn lấy lại khối kiếm cách hay sao ấy!”

Lục Tử thì đang co người trốn dưới gầm bàn, cả người hắn run tới mức khiến cho cả cái bàn cũng run bắn theo, trong miệng liên tục lẩm nhẩm A di đà phật. Nhưng vấn đề là khối kiếm cách ngọc trên bàn đã không còn ở đó nữa, lẽ nào con khỉ nước lúc nãy đã cướp đi rồi sao? Chợt nghe Bạch Dực từ sau lưng nhẹ giọng thì thầm: “Thứ đó trong tay tôi, yên tâm đi.”

Tôi mếu máo nói: “Chi bằng…chi bằng trả lại cho người ta đi, chúng ta còn giữ nó thì còn không được bình an!”

Cái bóng kia vẫn giữ nguyên tư thế như trước, không thèm động đậy. Toàn thân hắn tỏa ra một thứ hơi lạnh tiêu điều u tịch, ánh trăng chiếu xuyên qua người hắn, hắt lên mặt đất chút ánh sáng lờ mờ. Bạch Dực đỡ tôi đứng dậy, người kia cũng như một con rối, xoay người theo động tác của chúng tôi, cánh tay vẫn giơ ra, dường như hắn biết khối ngọc kia đang nằm trên tay Bạch Dực vậy.

Kỳ thực, so với bóng người không biết tên tuổi này, tôi còn sợ con khỉ nước không biết đang lẩn lút ở đâu trong phòng kia hơn. Nó không biết đang trốn trong xó xỉnh nào, bởi vì Bạch Dực không hề mở cửa phòng, cho nên nó cũng cứ thế giảo hoạt mà giấu mình trong bóng tối, chờ cơ hội nhảy ra.

Tôi liếm liếm đôi môi khô khốc, hỏi: “Ngươi… ngươi là ai?” Giọng nói khàn tới mức ngay cả tôi nghe thấy cũng giật cả mình.

Bóng người vẫn không hề lay động, cũng không thèm trả lời, từ người hắn có thể cảm thấy một loại khí độ lãnh ngạo đến cực điểm. Bạch Dực phía sau cũng bắt đầu thở gấp, có thể thấy ngay cả anh ta cũng bắt đầu lo lắng. Đúng lúc này, Lục Tử đột ngột hét to lên một tiếng, như thể vừa bị ai đó tóm được vậy. Tôi vừa nhìn thấy thì tim cũng gần như ngừng đập, con khỉ nước kia không dám ra tay với chúng tôi, mà lại chọn đúng Lục Tử thân cô thế yếu để tấn công, bọn quỷ này, quả thực là quá hiểm độc mà!

Lục Tử dường như bị bóp cổ, tiếng la trở nên gián đoạn lại khò khè, tôi lo lắng quay sang Bạch Dực: “Không ổn rồi! Lục Tử sắp chết tới nơi rồi, chi bằng chúng ta trả thứ đó lại cho hắn đi, cầu xin hắn cho chúng ta một con đường sống!”

Bạch Dực chỉ suy nghĩ trong chốc lát, một tay cẩn thận ôm chặt lấy tôi, tay còn lại nắm khối kiếm cách ném thẳng ra ngoài cửa sổ. Chỉ nghe Lục Tử hét thảm một tiếng, con khỉ nước lông lá đen ngòm kia đã nhảy phắt ra khỏi cửa sổ, bóng người màu trắng cũng thoáng cái biến mất.

Ba người chúng tôi ngồi phịch xuống đất thở hổn hển, mãi một lúc lâu sau khi có người tới gõ cửa mới hoàn hồn lại. Đứng trước cửa là ông chủ quán trọ, ông ta nói cầu dao tổng không biết bị ai chơi ác đóng lại, cho nên cả nhà trọ mới bị cúp điện. Lại nghe tiếng chúng tôi hét trên này nên lên xem thử, vừa nói xong thì gian phòng cũng đúng lúc sáng lên. Chỉ có một cái ghế ngã chỏng chơ trên sàn, Lục Tử thì cuộn tròn người dưới bàn, bưng cái cổ ra sức thở hào hển.

Tôi vội vàng lên tiếng giải thích với ông chủ đang há hốc miệng ngạc nhiên: “Bạn của tôi lúc nhỏ gặp tai nạn, cho nên bây giờ cứ mỗi lần cúp điện đột ngột là lại như vậy đó, đây là một loại bệnh tâm lý thôi, không sao hết!”

Ông chủ nghe thế cũng gật đầu: “Là vậy sao, thật không phải, đột nhiên xảy ra chuyện này tui cũng rất xin lỗi, có cần tụi tui đưa bạn cậu tới bệnh viện không?”

Tôi vội vã xua tay: “Không, không cân đâu ạ, cậu ta chỉ cần nghỉ ngơi một lát là khỏi ngay ấy mà. Bác cứ đi lo công chuyện đi, ở đây không còn gì phải lo nữa đâu.”

Ông chủ lo lắng nhìn lại Lục Tử thêm một lần nữa, nhưng không nói thêm gì mà vội vã rời đi. Tôi lập tức đóng chặt cửa, nói với Bạch Dực: “Thứ kia có được khối ngọc rồi, chắc sẽ không quay lại nữa đâu nhỉ?”

Lục Tử đã bắt đầu bình thường trở lại, hắn lảo đảo đứng lên bước tới ngồi phịch xuống ghế, bưng ngực thều thào: “Đúng đó, trả lại cho hắn là đúng, có chủ nhân hung ác như vậy, thứ kia mà mang về cũng chỉ mang tới tai họa thôi…”

Bạch Dực trầm mặc nhìn chúng tôi hồi lâu, mãi sau mới thản nhiên nói: “Tôi chưa trả thứ đó lại cho hắn.”

Chúng tôi vừa nghe tháy, liền trợn mắt lên nhìn anh ta, không sao tin nổi, giọng của Lục Tử cũng run lên: “Ối đại ca ơi! Sao anh còn giữ lại cái thứ gây tai họa này làm cái gì!!! Anh đâu phải là loại người vì nghĩa mà quên mạng đâu hả? Hả?!”

Tôi cắt ngang màn quỷ rống của Lục Tử, vì biết Bạch Dực làm thế chắc chắn có lý do của anh ta, cho nên tôi chỉ cố gắng giữ bình tĩnh mà hỏi: “Lão Bạch, anh giữ lại thứ này làm gì? Dù sao nó cũng đâu có quan trọng với chúng ta lắm?”

Bạch Dực lấy khối kiếm cách từ trong túi quần ra mà đáp: “Nếu trả lại nó rồi, coi chừng không quá ba ngày sau chúng ta đều phải ra ma hết, ai cũng chạy không thoát. Chỉ có giữ nó lại mới có đường sống.”

Bạch Dực nói thế tôi mới sực nhận ra, người này thực sự sẽ không cho chúng tôi được sống sót. Vì sao hắn lại không để ai bước chân tới mé tây hồ? Vì sao đứa bé kia lại bị khỉ nước tha xuống chết đuối? Cách giải thích duy nhất là vì đứa bé đó chính là người đầu tiên bắt được khối kiếm cách. Cho nên nó phải chết. Mà người kế tiếp giữ kiếm cách trong tay là tôi liền biến thành mục tiêu truy sát của khỉ nước. Vì kẻ đó muốn giữ kín bí mật của cổ kiếm, cho nên ra sức phong tỏa mọi tin tức dẫn tới kiếm, nếu chúng tôi còn sống thì tức là mối đe dọa vẫn còn. Cho nên, chỉ có cách tốt nhất để giữ bí mật, đó là khiến cho ba người chúng tôi vĩnh viễn câm miệng, vì người chết là loại người duy nhất sẽ không bao giờ để lộ bí mật ra ngoài.

Lòng tôi lạnh toát, bất giác quay lại nhìn Bạch Dực. May có anh ta, may mà anh ta nghĩ ra, không bị tình huống nguy hiểm tức thời làm bối rối tinh thần, bằng không nếu lúc nãy giao ra lá bùa hộ mệnh duy nhất này rồi thì tiếp theo đúng là chỉ còn có nước chờ chết.

Lục Tử rốt cuộc cũng hiểu ra tình hình, thở dài một tiếng nói: “Vậy bây giờ chúng ta phải làm sao? Chẳng lẽ cứ ở đây chờ người kia quay lại tính sổ? Hắn mà biết chúng ta lừa hắn, đảm bảo sẽ không để chúng ta yên lành rời khỏi đây đâu!”

Bạch Dực ngẩng đầu nhìn mặt hồ ngoài cửa sổ, đáp: “Cho nên chúng ta phải chủ động đi tìm hắn, ra điều kiện!”

Nguyên cả đêm đó chúng tôi không sao chợp mắt nổi, Lục Tử nắm chặt khối khai quang cổ ngọc mà sư phụ hắn cho trong tay, niệm kinh lầm rầm cả đêm. Tôi ngồi canh bên cửa sổ, dùng cây móc áo chặn chặt cửa sổ lại, không cho khỉ nước phá cửa xông vào. Bởi vì tôi có cảm giác, lũ khỉ nước này vẫn giữ được trí thông minh của con người, chỉ hình dạng bên ngoài là bị biến đổi mà thôi. Đã là như thế thì những trò như cạy cửa sổ chắc chắn cũng không thể không biết.

Nhưng đáng lo nhất lại chính là Bạch Dực, cả đêm anh ta nắm khối kiếm cách trong tay, không biết suy nghĩ gì mà trầm tư, mặt mày nghiêm trọng kinh khủng. Lục Tử mấy lần gọi, nhưng anh ta đều không nghe thấy. Tôi xua xua tay với Lục Tử, ra hiệu cho hắn đừng làm phiền Bạch Dực. Bởi vì tình huống lúc này của chúng tôi, ngoại trừ trông cậy vào khối ngọc trong tay anh ta để cứu mạng thì không còn cách nào khác.

Một đêm ngủ không yên, phương đông đã hửng sáng tự lúc nào. Ánh trăng trút xuống những lớp sáng nhạt cuối cùng, dần dần bị thay thế bởi những tia nắng chói lọi của vầng thái dương. Ánh sáng ban ngày có hơi chói mắt, tôi động đậy cơ thể, gãi gãi đầu tỉnh giấc, hóa ra cuối cùng vẫn là trụ không được, ngủ thiếp đi tự lúc nào. Trên người tôi đắp cái áo khoác của Bạch Dực, anh ta vẫn đang ngồi bên bàn mà nhìn chằm chằm khối kiếm cách trong tay, tròng mắt đỏ quạch, dường như cả đêm không ngủ.

Lục Tử còn nằm yên trên giường ngủ say như chết, miệng há hốc ngáy khò khò, trong tay còn nắm chặt khối ngọc của hắn không dám buông. Tôi lắc lắc cái cổ cứng đờ, bước tới hỏi Bạch Dực: “Thế nào? Có biện pháp gì chưa?”

Anh ta thấy tôi đã tỉnh, liền cầm lại áo khoác của mình, sờ sờ cằm mà nói: “Xem ra muốn giải quyết dứt điểm thì buộc phải tới bên hồ một lần nữa. Khối ngọc này thế nào cũng phải tra lại cho hắn, nhưng chúng ta cũng phải buộc hắn hứa không được làm hại chúng ta mới được. Nếu không có ngày chết chìm trong bồn rửa mặt nhà mình mất.”

Chúng tôi thực sự không ham muốn thứ này, dù sao với tôi mà nói cả câu chuyện này chỉ là một lần gặp chuyện không may mà thôi, nếu như được lựa chọn tôi thà không bao giờ bước chân tới chỗ này. Nghĩ đến đây, tôi lại không khỏi lườm cái kẻ đầu sỏ gây chuyện kia một cái.

Bạch Dực nhìn tôi, bình thản nói tiếp: “Biện pháp của tôi lúc này cũng chỉ dựa trên sự suy đoán, cho nên chắc chắn là có nguy hiểm. Tỉ lệ thành công có khi chỉ có 50%, cho nên tôi định chuyện này để một mình tôi giải quyết được rồi, cậu về trước với Lục Tử đi. Nếu như…”

Tôi lập tức chặn ngang không cho anh ta nói nữa. Lại bắt đầu cái bệnh anh hùng cá nhân rồi, đây có phải là chuyện cá nhân của anh ta đâu? Đã nguy hiểm như vậy thì càng cần phải có người giúp đỡ chứ? Hơn nữa chẳng lẽ anh ta cho rằng tôi về nhà sẽ an toàn sao? Nếu lỡ mà anh ta thất bại, tôi vẫn như cũ chết đuối trong bồn rửa mặt chứ ích gì? Vì thế, tôi kiên quyết hăm he: “Tôi không quay về, tôi ở lại với anh! Thằng nhóc Lục Tử này nhát lắm, đá cậu ta về trước đi!”

Bạch Dực lắc đầu: “Lần này tôi quả thực không dám cam đoan là có thể bảo vệ tốt cho cậu, nếu chẳng may… chẳng may cậu xảy ra chuyện gì… tôi… tôi làm sao ăn nói với cha mẹ cậu…?”

Tôi trừng mắt với anh ta một cái, anh ta khinh tôi là con nít lên ba sao? Vì thế cố tình nói bằng một giọng nặng nề hơn: “Đừng nói loanh quanh, muốn chê tôi vô dụng thì cứ nói thẳng đi! Tôi thì tôi nói thật nhé, anh nghĩ tôi không muốn chạy chắc?! Nhưng vấn đề ở đây là nếu anh thất bại thì tôi có thể chạy đi đâu nào? Hung tinh đêm qua anh cũng thấy rồi đó, anh xem chạy thoát nổi không?!”

Anh ta khẽ nhún vai, ý nói tôi cũng có lý. Suy nghĩ một chút, cuối cùng anh ta nói: “Cậu nói phải, vậy cậu ở lại đi, nhưng phải nghe theo lời tôi đấy.”

Tôi vội vã gật đầu. Anh ta nhìn tôi thở dài một tiếng, lắc lắc đầu nói: “Ngày hôm trước lúc mới tới đây tôi đã nhận thấy ở đây có một luồng oán khí rất nhạt, nhưng lại thấy phong thủy không có vấn đề nên cũng không dám chắc. Nhưng nay xem ra, đúng là không có lửa làm sao có khói.”

Anh ta mân mê khối kiếm cách ngọc trong tay, tư lự một chút rồi nói tiếp: “Thực ra chúng ta đều có thể đoán được, tất cả cũng chỉ là vì kẻ đã nhảy xuống hồ tự tử kia, mà tấm bia đá trong rừng có lẽ chính là thứ cuối cùng hắn lưu lại trước khi chết.” Dừng một chút, anh ta tiếp lời: “Hắn chết thì ôm theo thanh cổ kiếm này, vậy chắc hẳn phải là quý tộc Ngô quốc, hơn nữa nhất định có quan hệ tới Ngũ Tử Tư.”

Tôi hoàn toàn hiểu được cách suy luận của Bạch Dực, đích xác là nếu Phù Sai vẫn còn giữ Câu Nguyệt cổ kiếm trong tay thì chắc chắn thiên hạ cũng không rơi vào tay Câu Tiễn.”

Tôi nói: “Trên tấm bia nói hắn là ‘sĩ vi tri kỉ giả tử’, lẽ nào hắn là vì Ngũ Tử Tư mà nhảy hồ tự vẫn? Mà ôm theo Câu Nguyệt cổ kiếm là vì để trả thù Ngô vương nghe lời gian thần dèm pha mà hãm hại trung lương?”

Bạch Dực lắc đầu: “Cái này không biết, nhưng nếu hắn có thể chết vì tri kỉ thì có thể coi như một người nghĩa sĩ. Cần phải đến đó để xem xem hắn rốt cuộc vì nỗi khổ gì mà giữ hồ này lâu đến vậy còn không tan nổi oán khí, nói không chừng đó mới là cơ hội cứu mạng của chúng ta.”

Tôi sửng sốt nhìn anh ta, cuối cùng cũng hiểu hết, tất cả những gì Bạch Dực suy đoán nãy giờ đều chỉ là dựa trên một tiền đề, đó là kẻ dưới hồ kia phải là một con quỷ “lương thiện”. Phải đi bàn bạc với một con quỷ “có nhân nghĩa”, “có tính người” để hi vọng nó mở cho chúng tôi một con đường sống… Thảo nào mà Bạch Dực muốn tôi về nhà trước, nhiệm vụ này… thật sự quá sức, cho dù là đối với bất kỳ ai.

Bạch Dực nhìn ra suy nghĩ của tôi, xấu hổ húng hắng ho, rồi đến bên giường lay lay Lục Tử dậy. Tên khốn Lục Tử này thật xấu nết ngủ, há hốc miệng ra chảy nước miếng đầy mặt. Bị Bạch Dực đẩy, hắn lăn người một cái, dựng phắt dậy gào thét trong vô thức: “Có khỉ nước! Có khỉ nước tới!!!”

Tôi tát cho hắn một cái vào ót, hắn làm mất mặt tôi quá, chẳng còn nhỏ nhít gì mà sao nhát gan thế không biết! Tôi thở dài nói: “Lục Tử, tôi và anh Bạch Dực bàn xong rồi, cậu về nhà trước đi, ở đây để kệ tụi tôi tự xử lý.”

Hắn cuối cùng cũng tỉnh táo ra, ngồi lại trên giường chùi chùi nước miếng mà nói: “Hai người liệu giải quyết nổi không? Nếu không được thì tớ có biết một ông đạo trưởng Long Hổ Sơn, hay là thỉnh ổng xuống giúp hai người một tay?”

Bạch Dực lắc đầu: “Nước xa không cứu được lửa gần, huống chi có thỉnh ông đạo trưởng đó tới có khi cũng chỉ là hại người ta bị kéo xuống nước thôi. Loại chuyện này nên tự giải quyết thì hơn.”

Lục Tử cúi đầu ngẫm nghĩ một chút, cuối cùng nói: “Thôi được, tớ ở lại đây cũng không giúp được gì, vầy đi, để tớ trở về tra tìm tư liệu về cái hồ này đã, cho dù có phải quật ba thước đất cũng phải biết chuyện về cái hồ quỷ này!” Nói xong không thèm đánh cả răng, chỉ lau lau cái mặt vài cái rồi mặc quần áo biến mất. Nhìn theo bóng lưng của hắn, tôi thực sự không biết hắn là nóng lòng muốn tra tư liệu, hay là vội vàng đào tẩu đây…

.

Chương 28: Thủ hồ (Tứ)

Sau khi Lục Tử bỏ chạy rồi, trong phòng chỉ còn tôi và Bạch Dực. Anh ta mặc áo khoác, bước ra mở cửa sổ, tiếng chim hót ríu rít liền tràn vào phòng. Tôi loay hoay chuẩn bị vài thứ, mà thực ra là cũng không biết phải mang theo cái gì, vì thế hết nhét cái này vào lại bỏ cái kia ra, chờ Bạch Dực ra rồi cùng đi. Bạch Dực quay lại nhìn tôi, bật cười: “Cậu mang theo nhiều thứ thế làm gì?”

Tôi ra sức nhét một cái cờ lê sắt to vào túi xách, ngẩng đầu đáp: “Chuẩn bị chứ làm gì, vậy chừng nào chúng ta đi kiếm người kia?”

Anh ta nhìn tôi lắc đầu đầy vẻ bất đắc dĩ, dở khóc dở cười mà nói: “Muốn gặp cũng phải chờ đến tối, chứ ban ngày ai mà thèm ra cho cậu gặp. Tôi chuẩn bị đi câu cá đây, muốn đi cùng không?”

Tôi xấu hổ bỏ cái cờ lê ra, mặc áo khoác theo Bạch Dực xuống nhà ăn. Ban ngày người qua lại rất tấp nập, nào là ngư dân giăng lưới đánh cá, nào là những sạp hàng bán đồ lưu niệm nho nhỏ tranh nhau mở cửa. Cảm giác sợ hãi thấp thỏm cũng tan đi ít nhiều nhờ vào bầu không khí náo nhiệt đầy sức sống này. Bạch Dực có vẻ cực kỳ bình tĩnh, gần như không có vẻ gì là bị chuyện đêm qua dọa, kiếm cách cuối cùng vẫn là nằm lại trên người tôi, vì theo Bạch Dực nói, nếu thực sự cuối cùng mà thất bại thì cứ cầm chắc khối ngọc mà cao chạy xa bay, dựa vào chuyện đêm qua cũng có thể thấy, chỉ cần trong tay chúng tôi có ngọc thì hắn không thể trực tiếp uy hiếp tới chúng tôi được, coi như là một cơ hội cuối cùng.

Chỉ nhìn vẻ bề ngoài thì dường như chúng tôi là hai du khách nhàn nhã đi câu cá như mọi người, thế nhưng có trời mới biết sắp tới có thể xảy ra những chuyện kinh khủng gì. Giữa đám dân làng có mấy người thắt dải xô trắng bên thắt lưng, tất cả bọn họ đều cố tình tránh mặt chúng tôi, đến nhìn còn không dám nhìn, làm như sợ bị xui vậy.

Hồ nước vẫn trong suốt hữu tình, Bạch Dực vẫn câu cá thần sầu như cũ. Nhưng tôi không có hứng quan sát, chỉ cúi đầu ra sức suy nghĩ để mong có thể tìm ra cách gì trong mớ bùi nhùi này chăng, nhưng vẫn không có kết quả gì.

Tôi đột nhiên cảm thấy sự yên tĩnh lúc này mới là đáng sợ nhất, đó là một cảm giác hoàn toàn bất lực trước một thế lực vô hình, một loại phó mặc cho số trời. Thời gian trôi qua chậm khủng khiếp, mang theo một cảm giác áp lực kỳ lạ, khiến tôi càng lúc càng cảm thấy như bản thân bị đè bẹp dưới một khối sợ hãi cùng bức bí. Dạ dày tôi chẳng hiểu vì sao mà tự nhiên nhói đau, Bạch Dực thấy tôi biến sắc, vội lo lắng hỏi tôi làm sao vậy.

Tôi không muốn cho anh ta thấy sự yếu đuối của mình, chỉ vì chút áp lực này mà đau dạ dày, liền cắn răng nói: “Không sao cả.”

Anh ta buông cần câu nói: “Vào trong đình ngồi đi, ngoài này gió lớn. Dù sao còn lâu mới tới tối.”

Tôi gật đầu. Mặt hồ đang phẳng lặng chợt gợn gió, mặt nước chập chờn dâng cao lên, nhưng ngư dân ở đây dường như đã quen với hiện tượng này, nên vẫn thản nhiên gỡ lưới, không thèm để ý tới sóng gió. Gió cuốn theo những hạt nước li ti từ mặt hồ hất tung lên trời, khiến không khí càng thêm ẩm ướt. Nhiều du khách đều đứng dậy thu thập đồ dùng quay về nhà trọ, tôi cùng Bạch Dực cũng thu dọn bước vào căn nhà gỗ nhỏ dùng làm chỗ cho khách nghỉ chân trước nhà trọ. Nơi này thực ra là một căn đình nhỏ, tên đặt cũng cực kỳ phong vận cổ xưa: “Chấp thủ đình”. Bên trong có quầy bán một ít đồ ăn lặt vặt. Nhìn thấy nó, tôi mới nhớ cả ngày hôm nay chưa ăn gì, thảo nào dạ dày lại đau. Bèn tới quầy bán hàng, mua một đĩa bánh bao, ăn một cái, cảm giác cả người đều ấm áp hẳn lên.

Nhưng khi tôi quay lại định hỏi Bạch Dực có muốn ăn không thì đột nhiên phát hiện, anh ta đã biến mất đi đàng nào rồi! Lòng tôi hoảng lên, lập tức dáo dác nhìn xung quanh tìm kiếm, lại bất thình lình nhìn thấy bóng Bạch Dực đang chạy thẳng về phía hồ, dường như đã nhìn thấy cái gì đó vậy. Tôi sốt ruột, vội buông đĩa bánh bao xuống, xốc ba lô trên lưng rồi xông ra ngoài đuổi theo.

Gió gào thét mạnh mẽ, tiếng sóng cuộn ào ạt trên hồ tạo thành một thanh âm tràn đầy cuồng nộ lẫn đe dọa. Tôi chạy dọc theo bờ sông thoai thoải, không thèm quan tâm đã đụng phải bao nhiêu người trên đường đi. Nhưng dần dần thể lực của tôi cũng cạn kiệt, đành nửa ngồi nửa đứng trên đất mà thở hồng hộc. Chờ một lúc cho lại sức, tôi gạt mồ hôi lạnh trên trán, muốn tiếp tục chạy theo thì mới nhận ra, Bạch Dực đã hoàn toàn biến mất.

Tôi nhất thời cảm thấy cả sự tồn tại của mình cũng như chao đảo bất an. Vì Bạch Dực rất hiếm, rất hiếm khi bỏ tôi lại một mình. Chỉ khi nào nhìn thấy cái gì đó cực kỳ khẩn cấp, cực kỳ nguy hiểm mới có thể khiến một người bình tĩnh như Bạch Dực phải hốt hoảng. Lúc này chỉ còn có một mình, đột nhiên sự bất an tràn lên. Tôi đứng lên, nhìn bốn phía. Chỗ này là đầu cùng của khu du ngoạn, xung quanh không có bóng khách du lịch. Ngay khi chuẩn bị quay lưng chạy về, tôi lại thấy bóng dáng Bạch Dực đứng bên cạnh tấm bia đá dưới tàng cây trong rừng, trong lòng tôi ngạc nhiên, anh ta tới đó làm gì nhỉ?

Nhưng lúc này đã tìm được anh ta, lòng tôi cũng nhẹ nhõm không ít, vội nghiêng người nhảy qua hàng rào bảo vệ tiến tới bên cạnh Bạch Dực. Cảm giác dưới chân bùn đất ướt nhơm nhớp, nên mãi một lúc sau tôi mới lép nhép lê người tới được. Bạch Dực đang đứng trước tấm bia, xoay lưng lại phía tôi, nên tôi không nhìn thấy vẻ mặt anh ta lúc này, nhưng đoán rằng cuộc chạy việt dã lúc nãy của anh ta phải có lý do chính đáng, nhưng khi tôi vừa định đưa tay kéo tay Bạch Dực về phía mình, chợt từ phía sau… truyền tới một tiếng hét to của Bạch Dực?! Trong tích tắc, mồ hôi lạnh túa ra ướt đầm trán. Giọng nói phía sau là của Bạch Dực, vậy… vậy bóng lưng trước mặt tôi đây là… ai?!

Bạch Dực vẫn không ngừng gọi to sau lưng, nhưng đầu óc tôi lúc này đã mụ mị cả ra, căn bản không nghe được anh ta đang nói gì! Chỉ biết đần người ra đứng chính giữa, giữa hai người Bạch Dực! Thân ảnh đang đưa lưng về phía tôi chợt bắt đầu run lên. Tôi giật thót mình, cảm giác như có một dòng điện vừa truyền vào người mình, từ miệng hắn truyền ra một giọng nói hoàn toàn không giống chất giọng thanh lãnh của Bạch Dực. Tôi cảm thấy, như để đáp lại chất giọng đó, từ bốn phía trong rừng cây có rất nhiều thứ đang sột soạt, sột soạt bò tới. Từng bóng từng bóng đen thui lướt qua, tốc độ nhanh như ma quỷ, trước khi tôi kịp hoàn hồn thì một con khỉ nước đã nhanh như chớp lao vút từ trong bụi cây ra, nhảy xổ vào người tôi. Gần như cùng lúc đó, tôi cũng bị Bạch Dực từ phía sau lưng nhảy tới xô té lăn ra đất. Tôi bị đè dưới người anh ta, cả mặt đập xuống đất, miệng đầy bùn đất. Tôi hốt hoảng nhìn lại phía sau, đúng là Bạch Dực, đang lo lắng nhìn tôi. Tôi lập tức ngẩng lên nhìn về phía tấm bia đá, phát hiện “Bạch Dực” đứng trước đó vẫn không hề động đậy, chỉ có rất nhiều, rất nhiều nước đang tràn ra dưới chân hắn, hắn lúc này giống như một cái bình chứa đầy nước.

Bạch Dực vội kéo tôi dậy, dường như rất ái ngại cho cái mặt đầy bùn của tôi, nhưng hoàn cảnh hiện tại không phải lúc lo lắng chuyện bẩn sạch, Bạch Dực giả trước mặt chúng tôi vẫn không có động tĩnh. Vì thế Bạch Dực liền nháy mắt với tôi một cái, chúng tôi chậm rãi từ từ lùi về phía sau từng chút một, ánh mắt tôi không hề rời khỏi bóng lưng trước  mặt, phát hiện từ người hắn toát ra một loại cảm giác bi ai vì xuống dốc nào đó. Từ trong rừng phát ra một tiếng hú của khỉ nước thê lương rợn cả người, khắc sâu vào màng não của tôi, tựa như tiếng rên rỉ cầu cứu cuối cùng của một linh hồn vừa đọa vào lòng nước thẳm.

Tôi run bắn lên, nắm chắc khối kiếm cách ngọc trong túi, thấp giọng hỏi Bạch Dực: “Sao anh bảo ban ngày hắn không ra được kia mà!”

Bạch Dực rõ ràng cũng rất ngạc nhiên, anh ta đã đánh mất vẻ bình thản thường ngày, giọng nói cũng hơi run lên: “Người này thực sự điên rồi, hắn căn bản là không muốn sống nữa mà, muốn xuất hiện ban ngày một lần là tiêu hao biết bao nhiêu nguyên khí chứ!”

Từ kẻ nọ thoát ra một tiếng thở dài, như thể đã biết ván cược cuối cùng của mình cũng đã thất bại rồi vậy. Nhưng hắn quả thực quá nguy hiểm, nói như Bạch Dực thì khác nào hắn đã chuẩn bị tinh thần cùng chúng tôi đồng quy vu tận? Loại quỷ cực đoan tới mức này tôi cũng mới thấy lần đầu. Nếu hắn là con người thì cũng là một kẻ cảm tử! Tôi e dè nói: “Lão Bạch, anh cho rằng chúng ta có bao nhiêu phần trăm có thể thoát ra ngoài an toàn?” Tôi không phải không sợ, nhưng chẳng hiểu vì sao lúc này lại cảm thấy điềm tĩnh đến thế. Dường như càng nguy hiểm, con người càng bình tĩnh hơn thì phải? Hay là… đây chính là cảm giác chờ chết…?

Bạch Dực chỉ im lặng chốc lát, sau đó thở dài, làm như đã quyết định xong một điều vô cùng khó khăn vậy. Anh ta gật đầu, nói: “Thứ này đã không còn bao nhiêu năng lực của ngày trước nữa, có lẽ toàn bộ nguyên hồn của hắn vốn là bám trên thân kiếm, cổ kiếm bây giờ không được toàn vẹn, cho nên chỉ bằng chút oán khí hiện nay của hắn cũng không đủ để duy trì sức mạnh.” Nói xong, anh ta không lùi lại nữa mà ngược lại, quyết định kéo tay tôi tiến về phía trước. Tôi vẫn rất sợ, chỉ để mặc cho Bạch Dực kéo cả người mình tới.

Con quỷ vẫn đứng đưa lưng về phía chúng tôi, nhưng dường như hắn đang kiêng kị cái gì, vì hai bờ vai càng run dữ dội hơn. Trong lòng tôi có hơi lo lắng, nhưng vẫn để ý chặt bọn khỉ nước lẩn lút xung quanh. Con quỷ này dường như không thể tấn công chúng tôi trực tiếp, cho nên mối đe dọa lớn nhất chính là lũ khỉ nước đang chực chờ xông lên này.

Thế nhưng điều không ngờ nhất là, lũ khỉ nước vừa nhìn thấy con quỷ kia thất thế là từng bước từng bước, bộ dạng vô cùng nôn nóng, nhe nanh múa vuốt tìm cách xiết chặt vòng vây xung quanh hắn, rống từng hồi tức giận. Thanh âm của chúng chói tai tới mức tôi phải nổi hết da gà. Thấy cảnh đó, tôi ngạc nhiên nên kéo tay Bạch Dực hỏi: “Lũ khỉ nước này không phải thuộc hạ của hắn sao? Sao lại có cảm giác như chúng có thâm thù đại hận với hắn vậy?”

Bạch Dực lạnh lùng nhìn xung quanh, vẻ mặt cực kỳ nghiêm túc. Anh ta nói: “Đương nhiên là thâm thù đại hận rồi, đám khỉ nước này kỳ thực chỉ hận không thể cắn chết người này ngay lập tức mà thôi, hắn hại những linh hồn bị chết đuối không được siêu sinh, vĩnh viễn phải ở lại làm khỉ nước bảo vệ cái hồ này cho hắn. Nói theo cách của người phàm trần chúng ta là chế độ độc tài, quan ép dân làm phản đó mà.”

Tôi không hề quan tâm tới cuộc khởi nghĩa nông dân của đám quỷ này, lúc này mạng sống là quan trọng nhất, vì thế bèn nói với Bạch Dực: “Nhân cơ hội chúng nội chiến với nhau, chúng ta chạy mau!”

Nhưng Bạch Dực làm như không nghe thấy, chỉ kéo tôi tới sát bên người, sau đó quay sang nói với con quỷ kia: “Hiện tại, nếu ngươi muốn an toàn thoát hiểm chỉ có cách là lấy lại khối kiếm cách ngọc này mà thôi, đúng không?”

Nam quỷ nghiêng người gật đầu, cho dù bị nhiều khỉ nước vây quanh như vậy mà trông hắn vẫn không có vẻ hốt hoảng nhiều cho lắm, ngược lại có một loại khí phách thấy chết không sờn, khiến tôi không khỏi cảm thấy kính phục vị Quỷ Vương này.

Nhưng vừa nghĩ thế thì một con khỉ nước đã nhảy xổ ra, liều mạng xông tới định cắn hắn. Con quỷ phản ứng cực nhanh, lách mình một cái tránh sang một bên, sau đó ánh đao trên tay hắn lướt qua, con khỉ nước liều lĩnh đã bị hắn chém đứt đầu. Cái đầu vẫn còn nguyên vẻ hung dữ, cái miệng há hốc như muốn rống lên, nhưng tiếng rống đã bị tắc nửa chừng trong cổ họng chỉ còn phát ra một tiếng “hộc” đau đớn, sau đó nó rất nhanh biến thành một bãi nước đen ngòm, đồng thời cả người con khỉ nước cũng tan chảy, chỉ còn một ít nước loang trên đất.

Đám khỉ nước xung quanh nhìn thấy đồng loại chết thảm, đều kêu gào thảm thiết, nhưng không có con nào dám xông lên nữa. Mặc dù tôi phải nói rằng, tuy Quỷ Vương này võ công rất cao, chỉ một cái vung tay đã lấy đầu một con khỉ nước, nhưng nếu cả đám cùng xông lên thì mặc kệ hắn có là Độc Cô Cầu Bại đi nữa cũng chỉ có thể bị xé thành từng mảnh mà thôi.

Bạch Dực chỉ liếc nhìn đám nước một cái, không hề tỏ ra sợ hãi giống tôi, trong mắt kiên định thêm vài phần, như thể những phán đoán trước đây của anh ta nay đã được xác thực vậy. Bạch Dực trấn tĩnh quay lại kẻ kia nói: “Đã như vậy, cả hai bên chúng ta đều là tiến thoái lưỡng nan, chúng ta trả thứ kia lại cho ngươi, nhưng ngươi phải thả chúng ta đi, đối với chúng ta mà nói thứ kia bất quá chỉ là một cục đá mà thôi.”

Tôi thật không ngờ Bạch Dực dám ra điều kiện một cách thẳng thừng như vậy, nhưng hiển nhiên nam quỷ có vẻ rất cân nhắc những lời này, hắn cúi đầu suy tư một chút rồi lên tiếng, giọng nói của hắn còn rất trẻ, nhưng ngữ điệu cực kỳ cổ quái, nếu không phải đang ở trong hoàn cảnh này thì chắc tôi đã phá lên cười, nhưng lúc này, từng lời từng chữ của hắn đều quyết định vận mạng của chúng tôi.

Thế nhưng điều kỳ quái nhất là tiếng nói của hắn dường như phát ra từ tấm bia đá, chứ không phải từ chính cái bóng của hắn, hắn lạnh lùng nói: “Trả thần vật cho min.[1]”

Tôi nghe như hắn đang diễn tuồng, nhưng cũng may là còn hiểu được, nếu hắn mở miệng, tức là còn cơ hội thương lượng với nhau. Vì thế tôi cũng tiếp lời: “Thần vật mà ngươi nhắc tới phải chăng chính là khối kiếm cách bằng ngọc trên thân Câu Nguyệt cổ kiếm?”

Hắn gật đầu, từ từ xoay người lại, khi tôi nhìn thấy khuôn mặt của hắn, hắn đã không còn mang dáng dấp Bạch Dực nữa, mà là mặc một thân trường bào trắng toát, bên hông thắt đai lưng theo kiểu người cổ đại. Trên đầu hắn đội lễ quan phục sức kiểu thời Xuân Thu, hai sợi tua thả hai bên, cột lại dưới cổ. Gương mặt hắn có thể nói là còn rất trẻ, dường như còn nhỏ hơn tôi vài tuổi, nhưng tại thời cổ đại có lẽ đã qua tuổi nhược quán[2], chỉ có điều trên gương mặt trẻ trung là vậy mà lại mang theo một vẻ tang thương không thể hiểu nổi. Tay phải hắn cầm một thanh kiếm mục nát hoen gỉ như đồng nát, thực sự không dám tin đó chính là thanh kiếm đã chém đứt đầu con khỉ nước lúc nãy. Hắn lạnh lùng  nhìn chúng tôi, nhưng khi nhìn sang Bạch Dực, đột nhiên cả người hơi sững lại, rõ ràng là giật mình. Nhưng cũng rất nhanh khôi phục lại vẻ bình thản ngạo nghễ trong mắt.

Cơ thể hắn vẫn tiếp tục rĩ nước, đất xung quanh đã bị hắn làm cho ướt sũng. Bạch Dực lạnh nhạt nói với hắn: “Ngươi chính là con trai út của Phù Sai, Ngô Cô Miệt phải không.”

Tôi vừa nghe lập tức sững sờ, đứng trước mặt tôi đây chính là đứa con cuối cùng của Ngô vương Phù Sai từ mấy ngàn năm trước ư? Như vậy, hắn chính là vương tử của Ngô quốc rồi?

Hồn ma nghe thấy có người gọi đúng tên của mình bèn hơi run lên, nhưng dù vậy thì hắn vẫn đĩnh đạc mà đứng yên, trong tay nắm chặt thanh Câu Nguyệt cổ kiếm đã loang lổ. Hắn nhìn chúng tôi, trong mắt ẩn ẩn hoài niệm, bắt đầu lên tiếng kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện có từ thời Ngô quốc.

Ngô vương lúc đó điên đảo vì Tây Thi, tin tưởng gian thần mà tước hết mọi quyền hành của Ngũ Tử Tư. Còn hắn tuy là vương tử của Ngô vương, nhưng lại không phải là trưởng tử, không có bao nhiêu quyền hành, cuối cùng chỉ biết trơ mắt nhìn vị thầy học đáng kính của mình là Ngũ Tử Tư bị tước hết binh quyền, sau đó lại bị bức tử, thi thể cũng bị quấn vào chiếu đem vứt xuống sông. Hắn lúc đó không quyền không thế, tuy muốn cứu thầy, nhưng cũng không có cách nào lay chuyển nổi quyền lực của đám gian thần, không có cách nào cảnh tỉnh được phụ vương đã bị tửu sắc làm mờ mắt.

Hắn nghĩ tới những lời cuối cùng của Ngũ Tử Tư, rằng ông còn thì Ngô quốc còn, ông mất thì Ngô quốc vong, lại nhìn quê hương lay lắt như ngọn đèn trước gió, vận mệnh quốc gia sắp mất, vì vậy vừa mang tang thầy, vừa sắp mất nước, hai chấn động nặng nề đối với vị vương tử trẻ tuổi của nhà họ Ngô————-rốt cuộc, hắn đã mang theo hi vọng cuối cùng, Câu Nguyệt cổ kiếm mà nhảy xuống sông tự vận. Hắn mong muốn có thể bảo vệ được thanh kiếm này dưới hồ, bảo vệ trụ cột cuối cùng của quốc gi, dùng thần binh lợi khí giữ lấy mong ước cuối cùng, lưu lại ranh giới thiên lý mà các bậc tiền nhân đã dày công chiếm giữ.

Hàng trăm hàng ngàn năm sau đó, hắn vẫn một mình thủ giữ một khoảng hồ mênh mông, giữ kiếm, đó đã trở thành ký thác cuối cùng của linh hồn hắn. Dần dần, linh hồn hắn và kiếm đã hòa thành một thể, mà tất cả những oan hồn chết đuối trên sông, vì oán khí thiên cổ không tán tích tụ trong kiếm mà đều không thể siêu sinh, vĩnh viễn hóa thành khỉ nước làm con rối cho hắn điều khiển. Khỉ nước có được linh khí từ kiếm, có thể theo thủy triều mà lên bờ. Hắn dùng lũ khỉ nước này để bảo vệ cho giang san Ngô quốc đã sớm tan thành mây khói từ lâu. Trong mắt hắn, đất này vẫn là đất Ngô, mà hắn, vẫn là vương tử của nó. Chỉ bất quá, sự bi ai của hắn bị thời gian làm cho méo mó, đã sớm biến thành oán khí. Mà oán khí cũng trở thành bức tường bảo vệ cuối cùng cho bảo kiếm, bất kỳ ai thấy được, hay cầm được bảo kiếm trong tay đều bị vị vương tử lãnh khốc này kéo xuống hồ chết chìm, lại tiếp tục hóa thành khỉ nước, bảo vệ cho thanh kiếm.

Tôi cảm thấy có chút bi ai đối với hắn, nhưng vẫn không thể không đề phòng, bởi vì sự tàn khốc của hắn không khỏi làm tôi lạnh cả xương sống. Chỉ bởi vì một thanh kiếm hoen gỉ, hắn đã giết không biết bao nhiêu người từng tiếp xúc với kiếm, ngay cả đứa bé vừa qua đời không bao lâu kia. Tôi kéo tay Bạch Dực từ từ lùi lại phía sau, tìm một vị trí dễ bỏ chạy nhất. Nhưng giọng nói cũng bất giác mà ôn hòa hơn nhiều, tôi nói với hắn: “Nếu ngươi muốn bảo vệ cổ kiếm, ta có thể dùng chính mạng mình ra đảm bảo sẽ không bao giờ để lộ tin tức kiếm đang ở đây đâu. Thứ đó vĩnh viễn là của ngươi.”

Vừa nói tôi vừa nhìn Bạch Dực, thấy anh ta gật đầu. Bạch Dực cũng quay sang nói với vương tử: “Thứ kia là của ngươi, ta dám dùng linh hồn mình mà đảm bảo. Ngươi cứ tiếp tục bảo vệ quốc gia của riêng ngươi, hoàn thành mộng anh hùng đi.”

Quỷ vương tử nghe thấy Bạch Dực đảm bảo, lúc này mới gật đầu, chìa lòng bàn tay ra, có vẻ như muốn cùng chúng ta đạt thành khế ước. Trong lòng tôi không khỏi có chút ấm ức, vì sao lời của Bạch Dực thì lại đáng tin như thế, mà lời tôi nói lại không có kí lô nào là sao?!

Bạch Dực lấy khối kiếm cách ngọc từ tay tôi, hướng về phía người kia mà ném sang, lần này là ném thật. Tôi nhìn theo khối ngọc bay một đường vòng cung, cuối cùng rơi vào lòng bàn tay người kia. Hắn vừa nắm được nó trong tay, lũ khỉ nước xung quanh liền như nhìn thấy cái gì đó cực kỳ kinh khủng mà nhốn nháo bỏ chạy hết vào trong hồ, vừa chạy vừa nhìn theo chúng tôi rống lên đầy oán hận. Nhưng không có con nào dám can đảm ở lại. Ngô Cô Miệt vẫn chăm chú cầm khối ngọc trong tay, nhìn theo đám khỉ nước đang hốt hoảng bỏ chạy, dần dần trên gương mặt tái nhợt của hắn chảy xuống một dòng nước mắt, run rẩy lên tiếng: “Ta chỉ muốn trở thành một anh hùng giống như các tổ phụ, bắn rơi thiên hạ, bá nghiệp ngàn thu. Nhưng mà nay, chỉ còn là một oan hồn, ta đã chờ ở đây quá lâu rồi… cũng mệt mỏi quá rồi, cuối cùng, vẫn không sao trở thành một anh hùng được. Thế nhưng ta không thể buông tay, đã không còn buông tay được nữa. Chúng nó chỉ có thể cùng ta bảo vệ cái hồ này, cho dù phải mang theo oán hận nặng nề tới mức nào đi nữa, ta vẫn phải tiếp tục trấn thủ ở đây! Thanh kiếm này, ta sẽ không để cho nó xuất hiện lần thứ hai trên đời này nữa!”

Nói xong gương mặt của hắn bắt đầu biến đổi, gương mặt vốn thanh tú đột nhiên trũng xuống, dần dần tan chảy hết chỉ để lộ bộ xương vàng ệch bên trong, tóc cũng biến từ màu đen sáng thành khô vàng như cỏ cháy, từ người hắn tràn ra một mùi xác chết rất khó ngửi, cuộn lại với nhau thành một lớp sương mù đen đặc bao quanh người. Nhưng ánh mắt của Ngô Cô Miệt vẫn cao ngạo điềm tĩnh như cũ, hắn nắm chắc thanh kiếm trong tay, nhìn chúng tôi chăm chú như thể nhắc cho chúng tôi nhớ về lời hẹn ước. Dần dần bàn tay nắm thanh kiếm cũng hóa thành một lớp xương khô. Bảo kiếm thoát khỏi tay, rơi xuống nền đất ẩm.

Bạch Dực nhìn hắn bằng một cái nhìn phức tạp, cuối cùng, mở miệng nói: “Thanh kiếm này vĩnh viễn thuộc về ngươi, sẽ không ai trong chúng ta lấy nó đi đâu, bởi vì thời này không còn cần anh hùng nữa.”

Cuối cùng, vị vương tử Ngô quốc chỉ còn là một bộ xương khô được bọc trong y phục. Lời hứa cuối cùng của hắn là sẽ không tìm tới chúng tôi nữa. Tôi nghi ngờ nhìn sang Bạch Dực, nhưng chỉ thấy anh ta gật đầu: “Hắn cho dù đã chết thì vẫn là một vị vương tử, đồng thời, còn là một anh hùng rất cố chấp với lý tưởng của mình.”

Đúng là như thế, cho dù đã biến thành quỷ, hắn vẫn mang theo một bản tính cao ngạo trời sinh. Ta không hiểu sự ngạo mạn này là vì cái gì, nhưng dù sao hiện giờ hắn cũng chỉ còn là một làn khói xanh, để lại bảo kiếm xác xơ nằm chỏng chơ trên đất. Nhưng chúng tôi vẫn phải tuân thủ theo đúng lời hứa với hắn, nếu không chẳng biết lúc nào sẽ bị hắn kéo chân chết đuối, biến thành khỉ nước vĩnh viễn không thể siêu sinh nữa.

Bạch Dực bước sang, cầm lấy cả bảo kiếm lẫn kiếm cách, dùng sức ném mạnh nó vào hồ, kiếm rơi vào trong hồ, vang lên một tiếng rung kỳ lạ rồi từ từ chìm vào lòng nước. Tôi không biết liệu có ngày nào nó còn có thể nhìn thấy ánh mặt trời lần nữa hay không, nhưng chí ít nó còn có một người vì nó mà không quản ngày đêm thủ hộ. Vì bảo kiếm, linh hồn cô độc đáng thương đó sẽ không biết còn muốn thủ hồ đến bao giờ. Hay cũng có thể, từ đầu kiếm đã không cần có người bảo vệ, vì với kiếm mà nói, thế giới này có biến hóa ra sao căn bản cũng không có gì quan trọng.

Tôi ngơ ngẩn nhìn mặt hồ hồi lâu, thình lình bị Bạch Dực gõ lên đầu một cái. Còn chưa kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra đã nghe anh ta tức giận mắng: “Thấy bóng người là lập tức chạy bổ sang, bảo cậu ngốc, chi bằng bảo cậu không có đầu óc còn đúng hơn!”

Tôi vuốt vuốt chỗ bị cốc, nhìn dáng vẻ tức giận của Bạch Dực, hóa ra chỉ là vì chuyện này. Tôi lườm anh ta một cái nói: “Đương nhiên phải đuổi theo chứ, lỡ như anh xảy ra chuyện gì thì chẳng lẽ tôi phải một mình gánh chịu sao!”

Khóe mắt Bạch Dực hơi giật giật, chuyện này rất hiếm khi xảy ra, muốn một kẻ mặt đơ như anh ta nổi giận cũng cần phải có tài năng lớn. Tôi tiếp tục nói: “Mà lẽ nào thấy bóng dáng của tôi anh lại không chạy theo sao?”

Nghe thấy tôi nói thế, Bạch Dực tự nhiên nghẹn lời. Tôi đột ngột  nhớ ra, vội vàng nói với Bạch Dực: “Chết bà, tôi bỏ lại đĩa bánh bao mua hơn mười tệ ở chỗ đình rồi! Tôi còn chưa kịp ăn mấy cái mà!!!”

Nói xong lập tức kéo Bạch Dực chạy về, trong lòng chỉ nghĩ đến bánh bao nên chỉ nghe loáng thoáng Bạch Dực nhẹ nhàng nói: “Nếu tôi không buông tay, cậu sao có thể chạy thoát khỏi tôi chứ!”

Tôi quay lại nhìn vẻ mặt thản nhiên của anh ta mà nhăn nhó nói: “Ừ thì tôi chạy không thoát, nhưng nếu bánh bao của tôi mà mất là anh đền cho tôi đấy, chạy nhanh lên!” Bạch Dực bị tôi lôi theo đột nhiên trở tay cầm lấy tay tôi, nhẹ giọng bật cười, tăng tốc độ kéo tôi cùng chạy về phía căn đình ban nãy.

Thủ hồ – Hoàn

[1] Ở đây nguyên tác là “ngô”, là cách xưng hô của giới quý tộc thời xưa tại Trung Quốc, Lục Mịnh cố tình thay bằng “min”, là cách xưng hô cổ của người Việt. (Truyện Kiều có câu “Thôi thôi cướp sống chồng min đi rồi” của Hoạn Thư)

[2] Tức khoảng 20 tuổi. Ngày xưa còn tính cả tuổi ta, cho nên 20 tuổi ngày xưa chỉ chừng 18, 19 bây giờ.

___________________________________

Chương 29: Kẻ báo tử (Thượng)

“…Con người không có cách nào thay đổi tương lai, chỉ có thể nhìn bánh xe vận mệnh từ từ lăn mà không có cách nào thay đổi. Sâu róm cho dù cuối cùng có biến thành bướm đi nữa thì chờ đợi nó ở cuối đường vẫn chỉ là cái chết. Đứng trước cái chết, bất kỳ ai cũng cảm thấy bất lực, yếu ớt đến tội nghiệp…”

Rầm! Tiếng đập bàn vang lên từ cái bàn làm việc sát bên cạnh tôi, cả phòng giáo viên liền ngẩng lên hướng về phía cô giáo Lâm đang tức giận đỏ cả mặt.

“Trẻ con bây giờ sao mà toàn viết những thứ vớ vẩn thế này không biết, đúng là suy nghĩ quá tiêu cực mà!”

Cô giáo Lâm là một cô giáo lớn tuổi, đã dạy học ở trường này mấy chục năm rồi, có thể nói là giáo viên có thâm niên nhất chỉ sau Phan hói, cũng là giáo viên có tiếng nghiêm khắc nhất. Năm nay là lần thứ tám cô có cơ hội được nhận danh hiệu “Nhà giáo ưu tú”, nhưng cơ hội này xem ra đã sớm hóa thành bọt nước với một bài văn như vậy.

Đứng đối diện cô là một cô bé học lớp Tám 4. Hai đầu vai cô bé run nhè nhẹ, hiển nhiên là bị vị giáo sư thịnh nộ trước mặt làm cho sợ mất mật, chỉ biết cúi đầu đỏ mặt, nhìn rất đáng thương. Cô giáo Lâm lạnh lùng nhìn cô bé chằm chằm, cao giọng nói: “Nhạc Lan! Em tuổi còn nhỏ như vậy, làm sao có thể suy nghĩ tiêu cực như thế được! Tôi thì không cần danh hiệu Nhà giáo ưu tú gì đó cũng được, nhưng em! Em cứ như thế thì tương lai sau này biết thế nào!”

Cô bé có tên Nhạc Lan kia ban đầu là sợ giật cả mình, sau đó cắn chặt môi, không nói gì mà chỉ gật gật đầu, ra vẻ có nghe. Cô giáo Lâm, để đối phó với loại học sinh không muốn lên tiếng thường có một chiêu là “mời phụ huynh”, sau đó sẽ nói với phụ huynh những dự đoán thê thảm về tương lai của học sinh, để phụ huynh có thể thay thế cho cô mà về nhà “giáo dục” lại con em mình.

Quả nhiên, lần này cô cũng trừng mắt với Nhạc Lan, lạnh lùng nói: “Ngày mai gọi cha mẹ em lên nói chuyện với tôi!”

Nhạc Lan ngẩng phắt đầu lên, trong mắt tự nhiên toát ra một tia lạnh lẽo, nhưng sau đó lập tức quay về vẻ ngoan ngoãn sợ sệt mà nhẹ giọng đáp: “Thưa cô, mẹ em… mẹ em bị bệnh không tới được…”

Cô giáo Lâm ra vẻ không quan tâm, hừ lạnh một tiếng, lật sổ giáo án mà nói: “Vậy gọi cha em tới, để tôi hỏi cha em xem là nên làm gì với em bây giờ! Nhỏ như vầy đã suy nghĩ kiểu đó, lớn lên chẳng biết còn ra thế nào nữa!”

Khi Nhạc Lan còn đang do dự như không biết phải nói sao thì Phan hói đã đẩy cửa bước vào, lão nhìn thấy Nhạc Lan, lập tức quay sang nói với cô giáo Lâm: “Cô Lâm, cô bé này có hơi đặc biệt chút, vầy đi, trước tiên để Tiểu An đưa cô bé về nhà đã, bảo cô bé viết bài văn khác nộp cho cô, còn tôi có chuyện cần nói với cô một chút.”

Tôi đang cầm sách vở chuẩn bị về, tự nhiên lại rước phải phiền toái mang tên “đi thăm hỏi gia đình học sinh” này. Đối với nhiều giáo viên, việc đến thăm gia đình học sinh chẳng khác nào một loại tăng ca biến tướng. Có nhiều học sinh ở rất xa, vậy mà còn phải lê thân tới, mục đích là báo cáo tình trạng không tốt của học sinh cho phụ huynh biết, vậy mà thái độ còn phải thành khẩn, giọng nói phải chân thành, bằng không phụ huynh sẽ khó chịu. Nói không chừng đi nửa ngày, tới nơi chưa được đãi chén trà nào đã bị hốt ra cửa. Lòng tôi chán nản cảm thán nghĩ thầm: quả nhiên lão già này toàn đem phiền phức tống hết lên người tôi thôi. Tôi liếc sang Bạch Dực, không ngờ ngay giờ khắc quan trọng này mà anh ta lại gục mặt lên bàn, chơi trò giả ngủ với tôi! Tôi căm tức nhìn anh ta, đúng là trước nguy hiểm sinh tử thì bạn bè đều là đồ bỏ mà! Tôi do dự đứng lên bước sang bàn làm việc của cô Lâm, Nhạc Lan vẫn cúi thấp đầu nhìn chằm chằm vào cái khăn quàng đỏ trên ngực, trông rất đáng thương.

Phan hói sai bảo tôi đã quen, nên lập tức vẫy vẫy tay kêu tôi tới vỗ vỗ lên bài làm văn của cô bé mà nói: “Thầy An, thầy đưa trò này về nhà, nhân tiện chỉ cho cô bé viết lại bài văn khác. Trò này có hơi đặc biệt một chút, coi như nhân tiện kiểm tra xem thầy có đảm đương được trách nhiệm của một giáo viên hay không!”

Tôi cầm lấy bài văn, trong lòng thầm chửi một câu thật độc, nhưng ngoài mặt vẫn nghiêm túc gật đầu bảo chứng với cô giáo Lâm: “Xin thầy cô yên tâm, tôi sẽ chỉ bảo cho em ấy cẩn thận.”

Nói xong bèn khoác ba lô, ôm sách vở ra khỏi phòng làm việc, Nhạc Lan lẽo đẽo theo phía sau, đầu vẫn cúi thấp. Kỳ thực lúc này vẫn còn 5 phút mới tới giờ tan học, nhưng lại phải đeo theo trách nhiệm “sửa đổi” cho tư tưởng tiêu cực của cô bé này. Tôi khẽ thở dài chán nản, loại chuyện này thường không tới phiên tôi làm, nhưng không hiểu sao Phan hói có vẻ kiêng dè cô bé này, nên cứ theo lệ cũ bắt nạt ma mới mà quẳng gánh sang cho tôi. Nói là kiểm tra, chẳng qua là nếu tôi có làm sai đi nữa, bị mắng cũng không làm ảnh hưởng tới danh tiếng của lão.

Theo thói thường mà nói, một đứa bé như thế này sẽ bị Phan hói mắng xối xả, nhưng hôm nay lão lại đích thân đứng ra làm hòa, lại còn muốn tôi đưa cô bé về nhà. Vì thế tôi không nén được tò mò mà quay sang nhìn Nhạc Lan, sắc mặt cô bé tái nhợt, có vẻ rất yếu ớt, mái tóc khô vàng rối bù buộc thành một cái đuôi ngựa sau gáy, đồng phục có hơi bẩn, trên ngực áo có mấy vết dơ. Mà quái dị nhất là vầng trán của cô bé có hơi cao hơn những đứa bé cùng tuổi khác, nên nhìn hơi kỳ quặc. Tôi không thể nhìn thấy được mắt cô bé, cả cái đầu của cô bé cứ như một khối cầu tròn đặt trên cái cổ vậy.

Đưa cô bé về tới lớp, lúc này có mấy bạn đang ở lại trực nhật sau giờ học, Nhạc Lan yên lặng bước vào phòng lấy cặp, tôi đứng bên ngoài cửa đợi, chợt nghe tiếng nói chuyện từ bên trong phòng vọng ra.

“Nhạc Lan, đừng ăn nói bậy bạ nữa, đúng là đồ phù thủy!”

“Đúng, thấy mà ghê, cậu xem nó kìa, vừa xấu vừa bẩn như vậy, sao lại cho nó vào lớp tụi mình không biết nữa à!”

“Thấy ghét, làm hại Lâm lão thái chửi lây sang cả tụi mình, bảo nó làm văn, nó lại viết ba cái thứ quái dị đó!”

Nhạc Lan làm như không hề nghe thấy gì, đeo túi xách lên lưng, vừa đi vừa nhét vội mấy cuốn sách vào túi, nhanh chóng ra khỏi phòng học, sau đó ngẩng đầu lên nói với tôi: “Chúng ta đi thôi ạ, em biết thầy cũng không muốn đưa em về nhà, không sao đâu, thầy đưa em tới cửa trường là được rồi ạ.”

Vừa nghe thấy những lời này, đúng với ý mình hết sức, nhưng càng vì thế mà càng cảm thấy xấu hổ, bị một cô bé mới có tí tuổi đầu bắt nọn đúng là quá sức mất mặt.

Tôi ho khan hai ba tiếng, làm ra vẻ nghiêm túc mà nói: “Thầy thực sự muốn tới nhà em xem thử mà, xem xem vì sao em lại viết văn như vậy!”

Nhạc Lan không thèm giả vờ tội nghiệp nữa, sắc mặt thoáng một cái chợt trở nên rất lạnh lùng, suy nghĩ một chút rồi nhạt nhẽo nói: “Em chỉ nói sự thực thôi mà, nói dối thì còn có ý nghĩa gì nữa chứ? Hừ, ai đời lại ra đề bài là ‘Nếu có thể thấy trước tương lai’! Đề bài ngu ngốc như vậy đúng là chỉ có cô Lâm mới nghĩ ra được. Thầy có thể  nhìn thấy được tương lai sao? Mà nếu thấy đi nữa thì có thể thay đổi được cái gì?!”

Tôi nghe cô bé hỏi mà sững cả người, chỉ biết ngơ ngác theo chân cô bé ra cửa. Cô bé ngừng bước, quay lại nói: “Thầy An, thầy về đi, em tự về được rồi.”

Nói xong lại cắm đầu đi tiếp, tôi nhìn theo đứa bé này, lòng ngập tràn quái dị, những lời vừa rồi lại được thốt ra từ miệng của một cô bé học tiểu học sao? Rất cực đoan, nhưng lại rất chân thực. Huống chi nếu không chịu tới nhà gặp phụ huynh, chắc sẽ bị Phan hói dũa chết mất…

Nghĩ vậy, tôi nhìn theo Nhạc Lan đang đi càng lúc càng xa, lập tức nhanh chân chạy theo. Tuy tôi không phải là người tốt tới mức nhiệt huyết tràn đầy làm chuyện bao đồng, nhưng dù sao cũng là công tác cấp trên giao cho, chỉ có thể hoàn thành mà thôi. Huống chi một thầy giáo mà bị học sinh nói cho như vậy, cũng không xứng làm thầy người ta.

Ai ngờ Nhạc Lan tự nhiên dừng lại, dựa hẳn nửa người vào cột điện mà trượt dần xuống. Tôi hốt hoảng nghĩ thầm: cô bé này có bệnh à, rồi vội vàng chạy tới đỡ.

Gân xanh trên trán Nhạc Lan hằn hết cả lên, mồ hôi hột túa ra như tắm. Tôi kéo cô bé dậy, nhưng cô bé đã khoát khoát tay: “Em… em không sao… em bị tuột huyết áp, thầy có mang theo kẹo không?”

Tôi là một đại nam nhân, đâu có bao giờ mang theo kẹo ra khỏi nhà, mà nhìn cô bé sắc mặt càng lúc càng tái đi, cũng không biết phải làm sao, đành cuống quít nói: “Em cứ vầy không được đâu, để thầy đưa em đi bệnh viện!”

Nhưng cô bé đột nhiên hoảng hốt cả lên, lắc đầu như điên, cắn răng đẩy mạnh tôi ra, chỉ ra sức dựa vào chính sức lực của mình mà đứng lên, cương quyết nói: “Không đi! Em không sao! Thầy đi đi!”

Tôi gãi gãi đầu, nhìn xung quanh đó, đã có mấy người qua đường hiếu kì đứng lại xem, tôi bối rối nhìn tứ phía một lúc, phát hiện bên kia đường có một quán đồ ăn nhanh, bèn nhanh chóng quyết định: “Lúc này em cũng không có sức ma về, chúng ta sang bên kia đường ăn một chút đi, ít ra có thể giúp em đỡ mệt.”

Nhạc Lan nhìn sang quán ăn, vẫn có vẻ cực kỳ do dự. Tôi phải làm ra vẻ “em mà không ăn là thầy gọi cấp cứu” mới khiến cô bé run rẩy gật đầu đồng ý. Vì thế tôi lập tức đỡ cô nhỏ, nhanh chân chạy tới quán.

Tôi gọi một vài món có nhiều đường, sau đó quay lại đưa cho Nhạc Lan. Cô bé lúc này yếu tới mức không có đủ sức để xé giấy gói, nhưng khi tôi định đưa tay ra giúp cô bé mở thì cô bé đã trừng mắt với tôi, run run dùng hàm răng mình xé bao gói ra. Tôi trợn mắt kinh ngạc nhìn: một cô bé con mà có thể quật cường tới như vậy!

Lúc này trong quán có rất nhiều khách, đa phần đều là học sinh về học ghé qua ăn quà vặt, tiếng cười lảnh lót như chuông bạc vang khắp quán. Chỉ có cô bé đang ngồi trước mặt tôi đây, sắc mặt tái nhợt như vừa từ trong quan tài chui ra, vì yếu quá nên ngay cả sức nhai cũng không có, chỉ có thể từ từ cắn từng chút từng chút một, khó khăn nuốt xuống, nhưng nhờ có đồ ngọt mà sắc mặt cũng dần dần khá hơn trước, không tới nỗi dọa người như lúc nãy.

Lúc này tôi mới có thời gian để ngắm tỉ mỉ cặp mắt của cô bé, một đôi mắt khác thường, dù đôi mắt của tôi cũng không giống mắt người bình thường lắm, mắt trái có màu nhạt hơn mắt phải, pha thêm một chút màu xanh lam. Ba tôi nói là do di truyền, mắt bà nội tôi, trước khi bị mù cũng có màu xanh đen như vậy. Nhưng đôi mắt của cô bé này hoàn toàn khác biệt. Nhìn lâu vào mắt cô bé, người đối diện sẽ phải cảm thấy một cơn sợ hãi khác thường, thấy cả người như lạnh buốt. Đôi mắt của cô bé đặc biệt đen thẳm, hơn nữa gần như không hề phản chiếu ánh sáng, nhìn vào cứ như hai cái động không đáy, lộ ra một vẻ vô hồn đến lạ lùng.

Lúc này cô bé đã khỏe lại chút ít, sức ăn cũng dần dần nhanh hơn, cả bao khoai tây chiên cũng đã ăn gần hết. Tôi có cảm giác dường như đứa bé này đã bị đói lâu ngày, cho nên ra mua thêm cho cô bé thêm hai phần nữa, để cô bé từ từ ăn. Ăn được nửa chừng, Nhạc Lan ngẩng đầu lên hỏi tôi: “Thầy An, sao thầy không ăn ạ?”

Tôi sờ sờ đầu, cười: “Có người ở nhà nấu cơm rồi, thầy mà ăn bây giờ sợ lát nữa ăn không vào mất.”

Trong mắt cô bé thoáng hiện lên một tia ước ao, chậm rãi nói: “Thật tốt, là thầy Bạch nấu cho thầy ăn đúng không ạ?”

Tôi cười cười gật đầu: “Đúng vậy, thầy Bạch Dực nấu ăn ngon lắm đó, bữa nào em cũng đến ăn thử đi, có khi còn ngon hơn cơm ba mẹ nấu ấy chứ!”

Nghe tới hai chữ “ba mẹ”, cô bé tự nhiên run lên, đôi mắt đen thẳm lần đầu tiên nhìn thẳng vào tôi, sau đó nhẹ nhàng nói: “Thầy rất thích thầy Bạch, đúng không ạ?”

Tôi đột nhiên cảm thấy bối rối, một câu hỏi thế này thì nên trả lời ra sao đây? Thích? Một người con trai thích một người có cùng giới tính với mình? Sao nghe thế nào cũng như “sai lầm” ở đâu ấy nhỉ? Tôi vuốt vuốt tóc, dời ánh mắt ra ngoài cánh cửa kính mà đáp: “Em hỏi lạ thật đấy. Ý em là quan hệ của chúng ta thân thiết lắm à?”

Cô bé cắn một miếng bánh, lắc đầu: “Không phải, mà là nếu như thầy để ý tới bữa cơm mà người đó nấu cho mình như vậy, tức là thầy rất thích người ấy.”

Tôi nghe thế, lập tức đỏ bừng mặt, vờ ho khan vài tiếng, xấu hổ nhìn lên bức tranh trang trí treo trên tường. Trong đầu tôi hiện lên vài lần Bạch Dực cứu tôi, trong lòng có một thứ cảm tình không thể diễn tả thành lời. Nhưng thứ cảm tình này… dường như còn có pha lẫn thêm một chút khác lạ nào đó. Tôi chỉ biết lấy ngón tay miết miết cánh mũi, che gương mặt đỏ hồng của mình mà cười cười: “Nói vậy… ha ha… vì thầy Bạch Dực và thầy đã từng vào sinh ra tử bên cạnh nhau, cho nên đương nhiên phải… thân thiết rồi. Đương nhiên rồi…”

Nhưng Nhạc Lan có vẻ như không quan tâm đến những gì tôi nói, chỉ máy móc nhai đồ ăn trên tay, tiếp tục lẩm bẩm một mình: “Có người chờ thầy về nhà ăn, mà thầy cũng vui vẻ trở về. Thật tốt, như vậy sẽ không cô đơn…”

Tôi còn chưa kịp hiểu cô bé đang nói gì thì Nhạc Lan đột ngột hỏi ngược lại tôi: “Thầy, nếu như thầy Bạch chết đi, thầy có cảm thấy đau lòng không?”

Lần này không phải chỉ là giật giật khóe mắt mà cả gương mặt của tôi đều nhăn nhúm lại, con bé này sao toàn suy nghĩ những chuyện quái gở vậy không biết? Tôi có hơi giận, liền không nhịn được mà hơi cao giọng: “Thầy ấy làm sao chết được, thần Bạch Dực còn khỏe mạnh bình thường như vậy, làm sao có thể tự nhiên lăn ra chết? Sao trong đầu em toàn những suy nghĩ khó hiểu như vậy?”

Ánh mắt Nhạc Lan có hơi thất vọng, làm như không thấy tôi khóc lóc bảo rằng mình sẽ đau lòng thì con bé không được vui vậy, chỉ hơi lắc lắc đầu: “Thầy không biết đâu, thực ra, có thể thấy trước tương lai là một chuyện rất kinh khủng…”

Tôi cũng cảm thấy muốn thay đổi suy nghĩ của cô bé này không phải là chuyện một sớm một chiều, bèn nhìn đồng hồ đeo tay rồi nói: “Ừm, vậy đi, nếu em đã đỡ mệt rồi thì để thầy đưa em về nhà.”

Cô bé lấy khăn lau miệng, cầm túi xách, bỏ chỗ thức ăn còn thừa lại vào đó rồi đứng lên bước ra đường, có ý bảo tôi đi theo.

Nhà Nhạc Lan đúng là rất xa, cô bé dẫn tôi lên chuyến xe bus quen thuộc, đi tới một căn ngõ cũ, nhà cửa ở trong đó phân nửa đã bị dỡ bỏ, có vài nhà còn bị dán lên cửa tờ giấy ghi dòng chữ “Nhà bị cưỡng chế di dời”, phía bên trong toàn là những khu nhà lụp xụp làm chỗ trọ cho những người tỉnh khác tới thành phố làm ăn. Cột điện dùng để phơi chăn, thậm chí có vài nhà còn không biết xấu hổ mà phơi cả đồ lót nữ ra ngoài. Tất cả bọn họ đều làm như không thấy Nhạc Lan, thậm chí có người vừa nhác thấy cô bé từ xa bước tới đã hốt hoảng chạy vào nhà đóng chặt cửa lại.

Nhạc Lan chỉ nhìn thoáng qua, không nói gì. Chỉ thành thục mở cánh cửa sắt, dẫn tôi bước vào một căn phòng tối như mực, phía sau cửa sắt là một cánh cửa sơn son cũ xì, nước sơn đã phai hết, khi Nhạc Lan đẩy nó ra, liền phát ra tiếng kẽo kẹt ghê người. Loại nhà này rõ ràng là nếu xảy ra hỏa hoạn thì rất khó chạy, đây cũng là vấn đề chung của những con ngõ nhỏ kiểu xưa.

Hành lang hoàn toàn không có đèn đóm gì cả, tôi bị phủ chìm trong bóng tối, chỉ biết dọ dẫm dùng đầu ngón chân dò đường đi. Nhưng Nhạc Lan có vẻ đã rất quen, nhanh chân bước lên lầu. Chờ đến khi tôi bò lên tới lầu hai thì Nhạc Lan đã vào phòng, cánh cửa để mở cho thấy cô bé cho phép tôi bước vào. Tôi nghĩ, hóa ra nhà Nhạc Lan lại khó khăn đến thế, chẳng biết cha mẹ cô bé làm nghề gì mà để con gái suy dinh dưỡng như vậy.

Trong phòng cũng rất tối, hầu như không khá hơn ngoài hành lang là bao, chỉ có một cái bóng đèn tròn vàng vọt không sáng hơn ngọn nến.Trên đèn ám đầy bụi mỡ, ánh sáng nó phát ra cũng làm người ta cực kỳ khó chịu. Nhạc Lan bước tới bên bàn, bỏ trong túi xách ra cái bánh và mấy miếng khoai tây chiên mà tôi mua cho cô bé lúc nãy vào một cái chén rồi đậy báo lên. Tôi phát hiện trong chén là mấy miếng đậu tương và dưa muối đã mốc meo. Ăn uống kham khổ như vậy, chẳng trách đứa bé này lại yếu ớt đến thế.

Cả phòng rất lạnh, Nhạc Lan buông túi xách cầm cái ly, dùng tay áo lau lau miệng ly rồi dốc ấm định rót nước cho tôi, nhưng cả hai bình thủy đều không còn giọt nước nào. Tôi xấu hổ nói: “Không sao đâu, thầy không khát, em khỏi cần lo. Cha mẹ em đâu rồi?”

Nhạc Lan rút từ dưới gầm bàn ra một cái ghế đẩu cho tôi ngồi, rồi cầm ấm đi nấu nước, vừa đi vừa nói: “Ba em mất sớm rồi, bây giờ em sống với mẹ thôi.”

Vừa nghe thấy, tôi lập tức cảm thấy đồng cảm với cô bé này, thảo nào nghe cô giáo Lâm đòi mời cha mẹ lên nói chuyện thì mặt cô bé lại biến sắc như vậy. Xem ra đứa học trò này quả là một trường hợp khó khăn đặc biệt, cho nên Phan hói mới đặc biệt can thiệp như vậy.

Tôi nhìn quanh bốn phía, thấy trong nhà đồ đạc lộn xộn, vả lại bày biện cứ như một linh đường, trong góc phòng chất một đống vòng hoa tang, trên mặt đất còn vài tờ vàng mã. Một ít hóa vàng hương nến vẫn còn vứt lung tung 

trên nắp rương. Tôi đang vắt óc đoán xem nhà này đã xảy ra chuyện gì thì chợt từ phòng trong vang lên tiếng cái chén rơi xuống đất.

Tôi nghĩ có thể là mẹ của Nhạc Lan, nếu thế thì ít ra nên vào chào hỏi cho phải phép, liền đứng lên hỏi Nhạc Lan: “Trong phòng trong là mẹ em à? Để thầy vào chào mẹ em được chứ? Yên tâm, thầy không kể chuyện bài làm văn của em đâu, chỉ muốn biết rõ hoàn cảnh của em hơn thôi.”

Nhưng Nhạc Lan có vẻ rất do dự, cô bé cắn môi ngập ngừng nói: “Mẹ em… bị bệnh… không tiện gặp khách đâu…”

Tôi không biết vì sao cô bé phải kiêng dè như vậy, nhưng nghĩ rằng thân là giáo viên, đã tới thì phải chào phụ huynh một tiếng, cho nên ngay lúc tôi định mở miệng chào, thì đột ngột lại nghe vài tiếng lạch cạch, quay lại nhìn thì thấy ở khe cửa có một đôi mắt lạnh lùng nhìn chúng tôi, thấy tôi quay lại, đôi mắt đó nhanh chóng biến mất.

Tôi chỉ vào phòng trong: “Hình như thầy vừa thấy ở khe cửa có người nhìn, là mẹ em à?”

Nhạc Lan giật mình, sau đó cúi đầu: “Vâng ạ…” Cô bé cân nhắc một chút, rồi lại tiếp tục nói: “Thầy muốn gặp mẹ em thì vào gặp cũng được.”

Nhạc Lan bước tới mở cửa phòng trong, tôi theo cô bé đi vào, phát hiện bên trong còn tối hơn cả bên ngoài, hơn nữa còn một đống đồ đạc chất lung tung khắp nơi, khó lòng tưởng tượng nổi có ai lại sống được trong một không gian thế này. Tôi nhìn quanh quất xung quanh mãi mới phát hiện một bóng người ngồi thu lu trong góc phòng, im thin thít, cả người run lẩy bẩy.

Nhạc Lan bước tới định đỡ người đó dậy, nhưng đột nhiên người đó nhảy dựng lên, điên cuồng cào cấu xung quanh, Nhạc Lan không sao tới gần được, tôi kinh ngạc nhìn người nọ mà hỏi: “Đây là… mẹ em sao?”

Nhạc Lan khổ sở đáp: “Vâng, mẹ em bị điên, cho nên em mới nói thầy không gặp mẹ em được đâu mà.”

Cả người dơ bẩn, đầu tóc rối nùi thành một cục, y phục xộc xệch rách rưới, cả người bà ta hiện lên vẻ “bất bình thường”, vừa nhìn thấy Nhạc Lan, người đàn bà đã rống lên: “Mày cút ngay, đồ sao chổi! Mày đã hại chết bao nhiêu người, bây giờ còn muốn hại cả tao à, cút, mày cút đi!!!”

Cảnh tượng điên cuồng trước mắt quả thực khiến người ta phải kinh hoàng. Tôi xông tới định giúp Nhạc Lan, thì người đàn bà điên chợt gầm gừ với tôi, hai mắt trợn trừng, cả người bốc mùi hôi thối, vừa mở miệng ra thì một mùi hôi đã xông thẳng ra, làm tôi phải nhíu mày quay đi, không biết bà ta đã bao nhiêu lâu chưa tắm rửa cho đàng hoàng rồi.

Bà ta nhảy lên tấm ván giường, co rúm người chỉ vào Nhạc Lan mà gào: “Mày là quỷ! Mày là quỷ! A ha ha ha, mày quay đầu lại mà nhìn đi! Nhìn đi! Cha mày bị mày hại chết đang nhìn mày kìa, đang nhìn mày kìa! Mày xem, nhìn mày!”

Tôi bị bà ta dọa sợ chết khiếp, vội quay đầu lại phía sau nhìn, quả nhiên sau một tấm vải đen có một khuôn mặt trắng nhợt, trên môi là nụ cười nhạt đang nhìn chúng tôi. Tôi giật bắn mình vội quay cả người lại nhìn kỹ, thì hóa ra là một cái bàn thờ phủ vải đen. Sau tấm vải là một tấm di ảnh. Nhưng tấm ảnh bình thường đó lại bị bao bởi một khung tranh đen, cho nên nụ cười bị bóp méo thành ra quái dị. Đôi mắt còn lộ ra một thứ gì phảng phất như tử khí, ánh mắt vô hồn đó giống Nhạc Lan như đúc.

Lúc này, người đàn bà điên chợt đổi giọng cười hì hì: “Lan Lan, tới đây tới đây cho mẹ xem, mẹ dạy con vẽ tranh con nhớ không? Hì hì, mau vẽ cái xe cho mẹ xem nào…”

Mặt Nhạc Lan càng trắng bệch ra, khóe mắt dường như đã rớm nước, cô bé cố nén khóc mà quay lại đẩy đẩy tôi: “Thầy ơi ra thôi, thầy thấy mẹ em rồi còn gì, thầy mau mau đi, đừng tới đây nữa.”

Khi Nhạc Lan và tôi còn đang đẩy nhau thì giọng nói của bà mẹ chợt cao lên, vừa điên cuồng cào xé tóc mình vừa rống lên: “Tao bảo mày vẽ cái xe! Sao mày lại vẽ nhiều người chết như thế chứ hả! Tại sao mày tô hết toàn bộ bút sáp màu đỏ rồi!!! Cả bức tranh tại sao đều là máu?! Mày vẽ cái gì vậy! Mày là con quỷ! Mày hại chết tất cả chúng ta!!!”

Tôi bị cảnh tượng trước mặt dọa tới ngây người, để mặc cho Nhạc Lan vừa kéo vừa đẩy ra tới ngoài cửa, ánh mắt của cô bé đầy van xin, mà tôi vốn không có đủ kinh nghiệm để ứng phó với những chuyện thế này nên cũng đành chạy ra ngoài. Chỉ nghe “Cạch” một cái, cánh cửa đã bị đóng sầm trước mặt. Ở trong phòng, mẹ Nhạc Lan vẫn tiếp tục gào thét, ở giữa còn nghe tiếng khóc thút thít của Nhạc Lan.

Tôi gõ cửa liên tục, nhưng tiếng ồn ào trong phòng đã hoàn toàn nhấn chìm tiếng đập cửa của tôi, toàn bộ quang cảnh trở nên cực kỳ điên cuồng. Tôi đập cửa đến đau cả tay, qua hồi lâu, trong phòng dần dần im ắng trở lại, không còn tiếng gào thét của bà mẹ, không còn tiếng khóc của Nhạc Lan, im lặng tới mức đáng sợ. Tôi mặc kệ cái tay đau mà tiếp tục đập cửa, nhưng dưới thang lầu đột ngột xuất hiện một bà lão, bóng dáng bà ta in trên hành lang tối đen trông cực kỳ mờ nhạt. Bà lão chậm chạp bước tới cạnh tôi, trên người bà ta toát ra mùi đàn hương, cộng với sự u ám trong căn nhà, càng trở nên âm lãnh hơn. Bà lão chỉ nhìn vào cánh cửa sau đó quay sang nói với tôi: “Nhóc con, đừng tới gần con bé nhà này, nó là một ngôi sao chổi đó. Miệng lưỡi nó ăn mắm ăn muối lắm.”

Tôi nhẹ giọng thưa: “Thưa bà, cháu là giáo viên của Nhạc Lan, lần này tới đây thăm hỏi gia đình em ấy.”

Nhưng ánh mắt bà lão vẫn cực kỳ u ám, hung hăng nhìn tôi mà nói: “Đừng có lo cho nó nữa! đã bảo nó là quỷ mà lại! Quỷ hại người đó! Cậu xem ba má nó đó, tất cả đều là do nó làm hại! Từ khi nhà nó tới khu này, xung quanh đây có biết bao nhiêu người chết rồi! Nếu cậu còn muốn sống thì lùi xa nó ra, càng xa càng tốt! Bằng không, chết chắc đó!”

Nói xong liền như điên lên mà dùng gậy chống đuổi tôi ra khỏi nhà, tôi gần như là bị bà ta đánh đuổi ra. Lúc này sắc trời đã tối sầm, gian phòng bị rèm cửa che kín, lập lòe ngọn đèn nhỏ xíu vàng vọt, càng hắt ra một thứ không khí quỷ dị. Tôi lo lắng nhìn vào cánh cửa sổ đóng chặt, nghĩ thầm nhất định phải phản ánh lại trường hợp của cô bé này với nhà trường. Nhưng đột ngột từ sau rèm cửa, hiện lên bóng dáng của một người, một người cực kỳ cao to, không giống Nhạc Lan hay bà mẹ cô bé. Lẽ nào nói, trong phòng còn ai khác nữa sao?

Tôi đang do dự xem có nên quay lên tìm hai mẹ con họ hay không thì chợt phía sau có người vỗ nhẹ lên vai, tôi giật mình quay lại, không ngờ lại là Bạch Dực. Bèn xoay người lại hỏi: “Sao anh lại tới đây?”

Anh ta lạnh lùng nhìn tôi, vẻ nghiêm khắc: “Cậu mang hết chìa khóa nhà theo rồi còn đâu, tôi đâu có vào nhà được, đành phải tới đây tìm cậu thôi!”

Lúc này tôi mới nhớ ra, sáng sớm nay lúc đi làm vội vội vàng vàng, vơ đại chùm chìa khóa trên bàn, hóa ra là chùm chìa khóa của Bạch Dực. Tôi gãi gãi đầu cười ngượng nghịu: “Anh xem, tôi đểnh đoảng quá đi mất. Mà ở đây… À mà thôi, đi về trước đi, vừa đi tôi vừa kể anh nghe!”

______________________________________________________

Chương 30: Kẻ báo tử (Trung)

Dọc đường về tôi kể hết cho Bạch Dực nghe, cả cái bóng đen lúc cuối cùng tôi thoáng nhìn thấy nữa. Bạch Dực nghe rất chăm chú, khiến tôi cao hứng kể tỉ mỉ tới mức suýt cắn nhằm đầu lưỡi mấy lần. Nghe xong, Bạch Dực đưa tay sờ sờ cằm, chân mày nhíu chặt lại, chìm vào trầm tư mà không nói chuyện, tôi hỏi gì cũng không trả lời. Tôi cảm thấy chán nản, giống như cảm giác đánh vào cái bị bông, cho nên cũng kệ mặc anh ta.

Về tới nhà, tôi nằm phịch ra giường, nhớ lại hoàn cảnh của Nhạc Lan mà âm thầm xót xa, nghĩ thầm không thể để cô bé ở bên cạnh một người mẹ điên như thế lâu hơn nữa. Giờ mới hiểu vì sao cô bé lại tạo cho người ta cái cảm giác âm trầm như vậy, hiện tại ngẫm lại thì cũng là đương nhiên, nếu mỗi ngày phải đối mặt với một bà mẹ như vậy, ở trong một ngôi nhà như vậy thì một đứa bé yếu đuối hơn một chút đã sớm gục ngã rồi. Nghĩ tới đây, tôi lại cảm thấy vừa nể phục, vừa lo lắng cho cô bé.

Tôi ưu phiền trở mình, đột nhiên nhớ tới cái bóng đen ở trong phòng mà tôi nhìn thấy qua tấm rèm cửa, cái bóng dường như thuộc về một người thứ ba, một người đàn ông nào đó ngoài hai mẹ con. Người đầu tiên tôi nghĩ tới là cha cô bé, nhưng cha Nhạc Lan chẳng phải đã mất lâu rồi sao?

Những ý nghĩ lung tung trong đầu cứ vặn xoắn vào nhau, tôi không nhịn được lại ngồi dậy đi xuống bếp. Bạch Dực cũng không phải là người tình nguyện ngày nào cũng nấu ăn, hễ lười được là anh ta lười, ngày hôm nay cũng vậy, anh ta đang ở dưới bếp chiên cơm với trứng, mà tôi đã phải ăn cơm trứng chiên cả tuần nay rồi.

Tôi tiến tới bên cạnh anh ta, dựa người vào tường, hai tay khoanh lại trước ngực mà trầm tư nói: “Anh nói xem, hai mẹ con nhà đó biết làm sao bây giờ!”

Bạch Dực không thèm ngẩng lên nhìn tôi, chỉ nhanh tay đảo cơm trong chảo mà hời hợt đáp: “Có gì lạ đâu, thì là trường hợp đặc biệt khó khăn thôi, chuyện này cậu cứ báo cáo lên trên, xin miễn giảm học phí cho nó là xong.”

Tôi nghi ngờ nhìn anh ta, khả năng nói dối của Bạch Dực đúng là còn rất tệ, thái độ giấu đầu hở đuôi như vậy mà dám bảo là không có gì lạ. Anh ta chiên cơm xong, bới cho tôi một chén rồi nghiêm túc dặn dò: “Đừng nghĩ tới chuyện của cô bé đó nữa, loại người như cậu lần nào cũng gây chuyện rắc rối, nên nhớ, không phải lúc nào tôi cũng giúp được cậu đâu.”

Tôi khinh thường nhìn anh ta, không ngờ Bạch Dực lại là con người ngại khó ngại khổ như vậy? Một cô bé con thì có thể gây rắc rối nhiều tới mức nào cơ chứ? Nhưng Bạch Dực ngược lại trừng mắt nhìn tôi như đe dọa, rõ ràng anh ta hoàn toàn không đồng ý cho tôi liên can gì tới chuyện này. Tôi giơ hai tay như đầu hàng, ý nói đồng ý với anh ta, nhưng trong lòng thì âm thầm tính toán xem nên làm thế nào. Ít ra thì ngày mai phải đi tìm hiểu qua một chút, nếu không phải tìm Nhạc Lan hỏi thăm kỹ càng mới được. Đương nhiên, không nên nói cho “bà mẹ” Bạch Dực lắm chuyện hay lo này làm gì.

Ngày hôm sau vào giờ ra chơi, tôi cố tình tìm tới lớp Nhạc Lan hỏi thăm tin tức. Tôi gọi đại diện lớp giờ mỹ thuật của lớp Nhạc Lan ra. Cô bé đại diện này không hẳn là học sinh vẽ đẹp nhất lớp, nhưng thành tích học tập  rất nổi bật, hơn nữa gia đình cũng gia giáo, cô bé đảm nhiệm rất nhiều chức đại diện của các môn khác nhau, cũng nằm trong ban cán sự lớp, là nhân vật rất có năng lực của lớp này.

Cô bé đang ôm một đống sách, thấy tôi liền đẩy đẩy gọng kính hỏi lễ phép: “Thưa thầy An, thầy tìm em có việc ạ?”

Tôi nhìn lén vào phòng học, không thấy Nhạc Lan đâu mới yên tâm hỏi: “Trong lớp các em có một bạn vừa chuyển trường tới tên Nhạc Lan phải không? Hôm qua thầy vừa tới nhà bạn ấy thăm, nên hôm nay muốn tới hỏi các em kỹ hơn về bạn ấy.”

Cô bé có hơi nghi hoặc nhìn tôi, mà cô bé không cần nhìn tôi cũng hiểu, một giáo viên môn phụ như tôi thì quan tâm nhiều đến thế mà làm gì? Tôi húng hắng vài tiếng, cô bé mới giật mình tỉnh người mà lập tức trả lời: “Dạ Nhạc Lan ạ… bạn ấy đúng là mới chuyển trường tới chưa được bao lâu, mà bạn này… em không biết phải nói thế nào…”

Cô bé nghi ngại nhìn bốn phía một lúc, biết rõ Nhạc Lan không có trong phòng mới ghé sát vào tai tôi thì thầm: “Bạn này… miệng rất xui!”

Hử? Miệng rất xui? Cô bé thì thào: “Dạ vâng, miệng rất xui, bạn ấy vốn không có gì đặc biệt, bọn em cũng không phải bài xích học sinh mới, cũng không ai bắt nạt bạn ấy. Nhưng chỉ nghĩ là bạn ấy rất quái gở, không thích nói chuyện. Nếu không phải tại chuyện lần đó…”

Tôi hỏi dò: “Chuyện gì?”

Cô bé gật đầu lia lại nói: “Bạn ấy… bạn ấy có khả năng báo trước cái chết của người khác đó thầy! Thầy thấy có đáng sợ không chứ!”

Tôi vừa nghe liền lập tức cảm thấy như quay về thời kỳ xem tiểu thuyết “Vệ Tư Lý”[1]. Tôi nuốt nước miếng hỏi: “Làm thế nào mà dự đoán được?”

Cô học trò nhìn thấy tôi có hứng thú, cũng hăng hái kể: “Thưa thầy, lúc bạn ấy mới tới, ngồi bên cạnh bạn ấy có một bạn nam rất nghịch ngợm, hay chọc người ngồi cùng bàn, cho nên Nhạc Lan cũng thường bị trêu chọc đến thảm. Có một lần người hiền lành không bao giờ lên tiếng như Nhạc Lan cũng nổi giận, lúc này em nhớ tới vẻ mặt lúc đó của bạn ấy còn cảm thấy nổi da gà, ánh mắt của bạn ấy giống hệt như một con quỷ, bạn ấy lạnh lùng  nói bạn nam kia không sống được tới hết tuần sau, nói bạn kia sẽ bị điện giật mà chết. Ngay cả tình huống lúc chết, khi chết mặc cái gì cũng nói rất rõ ràng.

Bọn em vừa nghe thì cũng thấy sợ, nhưng không ai tin hết. Nhưng mà chỉ vài ngày sau, khi bọn em đều đã quên hết chuyện này thì bố của bạn nam kia tự nhiên vào trường báo tin bạn kia đã chết! Giống hệt như Nhạc Lan đã nói, một tuần sau đó bạn nam đó bị điện giật chết, hơn nữa chết rất đột ngột. Từ đó về sau không còn ai dám nói chuyện với bạn Nhạc Lan nữa, cũng không có ai chịu ngồi cùng bàn với bạn ấy. Nhưng sau đó bạn ấy còn nói ra nhiều người chết nữa, mà miêu tả rất tỉ mỉ, cho nên mọi người rất sợ bạn ấy mở miệng, vừa thấy bạn ấy là chạy hết rồi!”

Tôi bây giờ đã hiểu tại sao mọi người vừa nhìn thấy Nhạc Lan thì đã vội vàng kiêng kị tránh né, cô bé này không khác gì một quả bom nổ chậm, bất kỳ lúc nào cũng có thể đột ngột lên tiếng định đoạt số mạng của người khác. Thảo nào mà Nhạc Lan mới nói là biết trước tương lai là một chuyện hết sức kinh khủng. Nhưng nếu vậy sao cô bé không im lặng? Nếu không thể nói dối được thì cứ im lặng đừng nói ra chẳng phải sẽ dễ dàng hơn sao? Rất nhiều nghi ngờ quay vòng vòng trong đầu tôi, cho tới lúc cô học trò đứng trước mặt chợt nhìn ra phía sau lưng tôi chớp chớp mắt rụt rè thì tôi mới quay đầu lại, lại thấy Bạch Dực đứng phía sau từ lúc nào, ánh mắt cực kỳ lạnh lùng, đôi môi mím chặt nghiêm khắc nhìn tôi.

Xem ra những gì tôi và cô học trò nói với nhau lúc nãy anh ta đã nghe thấy hết rồi, tôi gãi gãi đầu, trong lòng cực kỳ nghi ngờ anh chàng này có theo dõi tôi. Cô học trò thấy tình huống có vẻ không ổn, liền lấy cớ có công việc mà bỏ chạy mất.

Bạch Dực nhìn tôi có vẻ bực bội, nhưng tôi cũng không sợ, ưỡn ngực mà nói với anh ta: “Không sai, tôi hỏi thăm đó, rồi sao nào! Tôi lo lắng cho cô bé đó thôi, tại tôi nghĩ mọi chuyện không đơn giản như vậy!”

Bạch Dực trừng mắt nhìn tôi, tôi cũng kiên trì trừng lại. Qua hồi lâu, cuối cùng anh ta thở dài: “Chuyện này không dễ dàng, sao cậu lại đi bới tung mọi chuyện lên như thế chứ!”

Thấy anh ta nhẹ giọng, tôi cũng nhẹ nhàng theo: “Lão Bạch, anh không thấy nên không biết đó thôi, cô bé này gia cảnh thảm lắm. Tôi không biết vì sao có cảm giác có thứ gì đó bám bên người cô bé. Hơn nữa…” Nói tới đây tôi có hơi xấu hổ, lí nhí tiếp: “…Hơn nữa, cái cảm giác của cô bé này tôi hiểu, lúc còn nhỏ tôi cũng bị người ta gọi là quái nhân, bảo tôi là quái thai…” Nói xong, tôi ngại ngùng chạm lên mắt trái của mình.

Bạch Dực vỗ vỗ trán mình, thở dài một cái: “Chuyện này để tôi cùng tìm hiểu. Đừng tự mình đi tìm đứa bé đó. Tôi đã thấy nó vài lần, con bé đó mang theo một cảm giác rất bất thường.”

Tôi vừa nghe Bạch Dực nhận lời giúp đỡ, trong lòng cũng yên tâm lên nhiều. Không để ý thấy cô học trò lúc nãy đang cùng mấy người bạn châu đầu thì thào cái gì đó, vừa nói vừa nhìn lén sang chúng tôi, thấy tôi nhìn lại, lập tức bỏ chạy không còn tăm hơi, chỉ nghe vài tiếng líu ríu thoảng trong gió: “Thầy Bạch quả nhiên là công nha!”

“Đúng đúng, An Tung chỉ xứng làm thụ thôi hà!”

Tôi đen cả mặt lại, thực sự bắt đầu hoài nghi về uy nghiêm của bản thân ở cương vị một giáo viên, không biết trong đầu con nhóc kia tôi có dáng vẻ như thế nào nữa! Nhưng khi vừa lơ đãng quay đầu lại, bất thình lình thấy Nhạc Lan đã lù lù đứng sau lưng tôi tự lúc nào! Cô bé này xuất hiện mà một chút âm thanh cũng không có, ngay cả Bạch Dực cũng bị nó dọa. Một cô bé nhỏ nhắn xinh xắn như vậy, mà bước đi không hề để lại nửa tiếng bước chân.

Tôi có hơi hoảng, bối rối nhìn sang Bạch Dực, Bạch Dực cũng lạnh lùng trừng trừng nhìn Nhạc Lan. Lúc tôi định mở miệng hỏi chuyện ngày hôm qua thì thấy trên cổ cô bé có hai vết cào rất sâu còn bầm máu, có thể là do bà mẹ của cô bé lúc lên cơn để lại. Nhạc Lan để ý thấy tôi nhìn vào cổ mình, liền nhanh tay che vết thương lại, lạnh lùng hỏi: “Thầy An, thầy hỏi thăm chuyện của em làm gì?”

Tôi bị hỏi trúng, nhất thời xấu hổ không biết phải trả lời thế nào, chỉ biết gãi gãi đầu, sau đó hít sâu một hơi giải thích: “Nhạc Lan, tuy thầy không biết lúc trước có chuyện gì xảy ra cho em, nhưng hiện tại quả thực em không nên tiếp tục sống như vậy nữa. Em nên đi gặp thầy cô chủ nhiệm để xin giúp đỡ, mẹ em cũng phải được đưa vào bệnh viện.”

Cô bé lạnh lùng bật cười một tiếng, chỉ chỉ vào hai mắt mình mà nói: “Thứ em nhìn thấy không giống như mọi người nhìn thấy, bên cạnh em mà nói, người chết còn nhiều hơn người sống, thầy hiểu không!”

Tôi nghe thế, cảm thấy vô cùng căng thẳng, chỉ là một đứa bé, vậy mà lại nói ra những lời già dặn mà tuyệt vọng đến thế, không biết phải có một quá khứ như thế nào? Tôi định tiến tới chạm vào người cô bé, nhưng bị Bạch Dực kéo giật về phía sau. Quay lại nhìn, tôi giật mình thấy ánh mắt của Bạch Dực tràn đầy vẻ nghiêm túc lạnh lùng. Anh ta lần đầu tiên mở miệng hỏi Nhạc Lan: “Vậy sao? Không giống ở chỗ nào?”

Cô bé mở to đôi mắt vô hồn nhìn trừng trừng Bạch Dực, đôi môi hơi giật giật, sau đó cúi đầu đáp: “Em có thể nhìn thấy những người tới số chết…”

Giọng của cô bé rất nhỏ nhẹ, nhưng bốn chữ “người tới số chết” lọt vào tai tôi chẳng khác nào sấm động. Cô bé ngẩng đầu, ánh mắt phức tạp nhìn chúng tôi: “Nhưng không sao, em sắp không còn thấy nữa rồi…”

Vừa nghe thế, trong lòng tôi đột nhiên có cảm giác bất an mãnh liệt, chuyện này quả nhiên không đơn giản, cô bé nói thế là có ý gì chứ?!

Nhạc Lan cố gắng lắm mới nặn ra được một nụ cười méo mó: “Vì hôm qua em đã nhìn thấy cái chết của chính mình rồi.”

Tôi và Bạch Dực đều giật thót người. Cái gì?! Cái chết của chính mình? Tôi kinh ngạc nhìn Nhạc Lan, còn cô bé thì cứ như vừa trút được gánh nặng nào đó khỏi vai, thở phào một hơi dài, sau đó yên lặng quay về chỗ ngồi. Vị trí của cô bé nằm trong góc lớp, bên cạnh không có ai ngồi cùng.

Tôi định xông vào lớp hỏi lại cho ra lẽ, vì sao phải tự nguyền rủa mình? Biết bao nhiêu suy nghĩ nghi ngờ quay cuồng trong đầu, mà cả người cứ run lên vì một hơi lạnh lạ lùng nào đó. Nhưng một lần nữa tôi lại bị Bạch Dực ngăn cản, tôi đờ ra nhìn anh ta, chỉ thấy trong đôi mắt của anh ta cũng thấp thoáng một ít lo âu hiếm thấy. Anh ta kéo tôi đi, vừa đi vừa nói: “Chuyện này muốn hỏi cho rõ phải chờ tới cuối giờ học. Còn về phần đôi mắt của con bé…”

Tôi không nghe được nửa câu còn lại của Bạch Dực, chỉ yên lặng gật đầu, mơ màng để mặc cho anh ta kéo tôi đi đâu thì đi. Tiếng chuông vào học vang lên chói tai, những học sinh còn đang đứng ngoài hành lang lục tục chạy về lớp hết, chỉ một lát sau, đây đó vang lên những tiếng chào to “Nghiêm! Chào thầy/ cô ạ!” Những tiếng hô trong trẻo của đám trẻ con với lời thì thầm về cái chết của Nhạc Lan lúc nãy như nhòe làm một trong đầu tôi, nhức nhối bất an.

Cả buổi sáng tôi chỉ nghĩ tới chuyện của Nhạc Lan, mỗi lần lên lớp hồn cũng như để đâu đâu, chỉ giảng như một cái máy qua buổi chiều. Chờ tới lúc vừa tan học, tôi lập tức quay về phòng giáo viên kéo Bạch Dực đi tìm Nhạc Lan. Nhưng khi vừa mở cửa phòng ra thì đã thấy Nhạc Lan đứng chờ sẵn ở trước cửa từ lúc nào, vẫn im lìm không lên tiếng như cũ.

Cô bé đeo túi xách trên vai, cúi đầu bước vào phòng giáo viên, tay cầm bài tập làm văn nộp ra trước mặt cô giáo Lâm. Cô Lâm xem chừng sau lần nói chuyện với Phan hói cũng đã hiểu ra ít nhiều, đối với cô bé này cũng khách khí, không nghiêm khắc như lần trước mà chỉ khuyên vài câu rồi cho về. Cô bé hơi cúi đầu chào, sau đó quay người ra khỏi phòng, không hề nhìn chúng tôi một lần nào, hay phải nói đúng hơn là cô bé cúi đầu suốt từ đầu đến cuối, rõ ràng là không muốn nhìn thẳng vào bất kỳ ai!

Tôi và Bạch Dực thoáng nhìn nhau một cái, lập tức theo cô bé ra ngoài. Tôi gọi tên cô bé từ phía sau, nhưng Nhạc Lan dường như không hề có ý dừng  lại, cuối cùng tôi đành chạy lên trước mặt chặn đầu cô bé, còn Bạch Dực thì chặn phía sau lưng. Nhạc Lan dùng ánh mắt phiền não nhìn chúng tôi, còn tôi thì trong lòng tràn đầy một cảm giác bất lực, cô bé này nói chuyện thì hàm hồ, hành vi thì quái dị, chúng tôi nóng lòng lo cho nó như vậy, còn nó thì cứ thản nhiên như không có chuyện gì! Đang khi tôi không biết phải mở miệng thế nào thì Bạch Dực đã lên tiếng trước: “Em có thể nói hết cho chúng tôi nghe mà, chắc em cũng không muốn chết mà không ai biết đúng không?”

Quả nhiên là Bạch Dực, một khi lên tiếng thì ngoan độc khỏi chê. Tôi nhìn anh ta thoáng trách cứ, sau đó nhẹ giọng nói: “Cho dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, chỉ cần em chịu nói ra thì hai thầy đều tin mà, chỉ cần em chịu nói, hai thầy sẽ lắng nghe!”

Nhạc Lan bất thần ngẩng phắt đầu dậy, trừng đôi mắt vô hồn đen thẳm kia nhìn chúng tôi: “Các thầy sẽ tin sao? Sẽ không sợ sao?”

Tôi cố gắng giữ nét mặt thật bình thản mà gật đầu: “Vầy đi, quán ăn lần trước cũng không tệ lắm phải không? Thầy mời em tới đó ăn, em có thể vừa ăn vừa kể vậy?”

Ánh mắt Nhạc Lan cuối cùng cũng dịu lại, quả nhiên trẻ con là phải vừa dụ vừa dỗ mới được. Tôi đắc ý liếc sang Bạch Dực, chỉ thấy anh ta chán nản nhìn tôi lắc đầu. Tôi cũng không thèm nói gì thêm mà nhanh chân kéo cả hai người bọn họ tới quán ăn lần trước.

Trong quán vẫn ồn ào huyên náo như cũ, bọn nhỏ hình như ngày nào cũng tập trung hết ở đây ăn hàng tán chuyện hay sao ấy. Chúng tôi chọn một góc khuất nhất quán, hiển nhiên là vì hai người ngồi cạnh tôi đây đều là loại người thích yên tĩnh. Nhạc Lan có vẻ rất thích đồ ngọt, cô bé dường như đặc biệt thích bánh táo (apple pie) ở đây. Chúng tôi nhìn cô bé chậm rãi ăn, cũng không vội hỏi chuyện.

Chờ đến lúc no nê rồi, Nhạc Lan mới dùng khăn giấy chùi miệng rồi nói: “Ngày hôm qua em đã nhìn thấy ngày chết của mình rồi, cho nên em biết em không còn sống bao lâu nữa.”

Cô bé nói rất thản nhiên, giống như cái nhìn trong đôi mắt lạnh nhạt kia, thản nhiên cứ như thể không phải đang nói về chính mình vậy. Tôi có hơi kinh ngạc, nhưng Bạch Dực đã khoanh tay hỏi trước: “Sao em khẳng định là những gì mình nhìn thấy nhất định sẽ thành hiện thực?”

Nhạc Lan buông cái bánh trên tay xuống, nét mặt trầm lại như vừa rơi vào hồi ức, cất giọng nói nhỏ như thì thầm: “Lúc em còn nhỏ, ba mẹ rất thương em, tuy em không xinh xắn hơn ai, nhưng ba mẹ vẫn mua cho em rất nhiều quần áo đẹp, mua kem cho em ăn… em thích ngồi trên đầu vai của ba, nhìn ra thật xa thật xa… nhưng sau đó, em bị bệnh…

Cô bé sờ sờ hai mắt mình, sau đó nắm chặt hai tay lại mà kể tiếp: “Lúc đó em phát sốt rất cao, bác sĩ nói hai mắt em sẽ bị hư, không nhìn được nữa, ba em đi khắp nơi tìm bác sĩ, Trung y Tây y gì cũng thử qua hết, nhưng đáng tiếc là thị lực của em cứ càng ngày càng giảm đi. Cuối cùng, ba em dùng hết tiền tiết kiệm trong nhà mua cho em một đơn thuốc rất đặc biệt, nói là chỉ cần uống vào em sẽ khỏi bệnh ngay. Nhưng cái thứ thuốc đó rất khó uống, vừa uống vào bụng là cảm thấy như có hàng ngàn mũi kim châm vào dạ dày, đau đớn kinh khủng. Nhưng sau đó thì mắt em thực sự nhìn thấy được. Ba em thở phào nhẹ nhõm, nhưng từ đó mắt em trở nên rất kỳ quái, em tự nhiên phát hiện ra rằng có những người em từng gặp qua trước đó, tuy em không biết chuyện của họ, nhưng sau đó trong đầu em cứ tự động hiện lên những hình ảnh về họ, mà hình ảnh cuối cùng lúc nào cũng là cái chết.”

Cô bé cắn cắn môi đè nén xúc động rồi tiếp: “Mẹ không thích em nói đến chết chóc, nhưng mỗi lần bị kích động em lại nói ra, mẹ lại đánh em, ba lúc nào cũng xông vào cản lại. Nhưng ba thực ra cũng sợ, em cảm thấy vòng tay ba ôm em cũng run run… chính em cũng sợ… nhưng có một ngày em nhìn thấy một vụ tai nạn giao thông… cả người ba bị phủ trong vũng máu… Sau này em mới biết, thứ thuốc mà em đã uống vào, thực ra là… là… tro cốt của những đứa trẻ chưa đầy một tuổi! Em đã uống vào rất nhiều rất nhiều tro cốt của trẻ con… tất cả chúng tập trung hết vào mắt của em, ngày ngày nguyền rủa em…!”

Cô bé cúi đầu, từng giọt nước mắt rơi trên mu bàn tay: “Em vốn muốn ngăn ba lại, em nói cho ba mẹ biết, để họ đừng đi ra ngoài, em kéo tay ba lại, nói ba đừng đi, nhưng ba vẫn đi, ba nói tất cả đều do ba gây ra, ba phải đem mạng mình ra đổi lấy tương lai cho em. Em và mẹ ngăn ba không được… Cuối cùng mẹ em cũng phát điên, cả nhà em đã bị đôi mắt của em phá hoại hết.”

Giọng nói của cô bé càng lúc càng thấp, chúng tôi phải dỏng hai tai lên, chăm chú lắng nghe lắm thì mới nghe được cô bé nói gì. Cô bé gần như bị mộng du vậy, tôi có cảm giác đây chính là lý do cô bé có muốn nói ra cũng không dám nói, vì nói tới đây thì cô bé cứ như rơi vào một trạng thái như bị thôi miên, không thể khống chế nổi bản thân. Tôi lo lắng nhìn Bạch Dực, nhưng anh ta chỉ nắm tay tôi lại, lắc lắc đầu ý nói đừng lên tiếng. Tôi thở cũng không dám thở mạnh, cô bé cúi thấp đầu làm chúng tôi trông không rõ mặt cô bé lúc này, Nhạc Lan bắt đầu lẩm nhẩm như bị quỷ nhập: “Ngày hai mươi tám tháng hai… buổi chiều bốn giờ ba mươi sáu phút… em sẽ đi qua đầu phố, đúng lúc một chiếc xe tải chở thép chạy qua… lúc đó…”

Trong cổ họng Nhạc Lan chợt vang lên tiếng khùng khục khe khẽ, dường như có cái gì nghẹn lại ở hầu vậy, trên trán bắt đầu đổ mồ hôi hột như tắm, giọng nói của cô bé tự nhiên thay đổi, biến thành một giọng đàn ông thô ráp, cái giọng đó gầm gừ tiếp lời: “…Lúc đó Nhạc Lan băng qua đường dành cho người đi bộ, xe tải tránh gấp… nên dây buộc thép trên xe bung ra, cây thép xuyên thẳng qua người Nhạc Lan… làm vỡ nội tạng, chảy máu quá nhiều mà chết…”

Miệng tôi há hốc ra, mắt trừng to tới mức phát đau, sau một hồi, chợt nghe Nhạc Lan ho khù khụ. Cô bé ôm chặt cổ, tôi thấy các dây thần kinh xung quanh mắt cô bé đều vằn hết lên, cảm giác như vô số khối u chạy dài tới mắt, căng phập phồng như muốn lao hẳn ra ngoài qua đôi tròng mắt đen nhánh mở to. Cô bé dùng tay bưng chặt mắt, nức nở đau đớn.

Bạch Dực lập tức dốc hết ly nước đá lên cái khăn tay, dùng khăn bưng mắt cho Nhạc Lan. Vừa đụng tới đôi mắt cô bé, tay anh ta cũng run lên, quay lại nói với tôi: “Đôi mắt của Nhạc Lan nóng lắm, các dây thần kinh xung quanh cũng run lên.”

Tôi lo lắng bồn chồn nhìn cô bé, dần dần hơi thở của Nhạc Lan cũng quay về bình thường, cô bé ngẩng lên nhìn chúng tôi, đôi mắt mờ đục như tro nguội nay vằn đầy tia máu, cảm giác đáng sợ vô cùng.

Cô bé bình tĩnh nhìn chúng tôi hồi lâu, sau đó nói bằng giọng thản nhiên như ban đầu: “Đó là tất cả những gì em nhìn thấy.”

Tôi cảm thấy cổ họng khô khốc lại, nuốt nước bọt cũng cảm thấy bị nghẹn, ngực như bị một khối đá đè nặng, bức bối khó thở, ngồi ngẩn ra đó không nói được câu nào, chỉ biết liếc sang nhìn phản ứng của Bạch Dực, thấy anh ta cũng ngẩn người ra. Hai chúng tôi kinh dị nhìn Nhạc Lan trân trối, nhưng cô bé cứ như chưa có chuyện gì xảy ra vậy, thản nhiên tiếp tục ăn bánh. Chỉ có điều, đôi bàn tay cầm bánh cứ run lẩy bẩy.

Tôi có thể cảm nhận được sự quật cường của cô bé con này, dùng hết toàn bộ sức lực mà ngăn chặn sự sợ hãi tột độ của mình. Có ai mà không sợ chết chứ? Huống chi còn là biết trước, thì cái cảm giác chờ đợi trong dằn vặt và sợ hãi tột cùng đó làm sao có thể tả nổi? Chưa kể thời thơ ấu của cô bé đúng là một quyển tiểu thuyết kinh dị hạng nhất.

Sự trầm lặng cuối cùng bị Bạch Dực quyết định phá vỡ, anh ta bình tĩnh hỏi: “Vậy, gần đây em có cảm giác gì… lạ lùng không?”

Nhạc Lan vừa máy móc ăn vừa lắc đầu: “Không có, chỉ có là…”

Vừa cảm thấy Nhạc Lan lại muốn giấu gì đó, tôi lập tức xen vào: “Nhạc Lan, chuyện của em thực ra không phải là do bẩm sinh mà là do số tro cốt kia tạo thành, cho nên bất kỳ chuyện lạ lùng nào em cảm thấy cũng có thể là một đầu mối quan trọng giúp cứu mạng em. Huống chi từ giờ tới ngày 28 chẳng còn bao lâu nữa đâu!”

Nhạc Lan khổ sở cười mà đáp: “Thực ra em có cảm giác là dường như có ai đó ở bên cạnh, buổi tối lúc đi ngủ cũng cảm thấy dường như trong phòng còn có một người nữa, nhưng không bao giờ trông thấy. Trước đây em sợ lắm, nhưng giờ thì quen rồi…”

Tôi lập tức nhìn sang Bạch Dực, quả nhiên thấy trong mắt anh ta cũng lóe sáng. Tôi vội vàng hỏi thêm: “Vậy bây giờ em có cảm thấy người đó ở đây không?”

Tôi thực sự cảm thấy thần kinh mình đã được rèn luyện mạnh mẽ hơn rất nhiều rồi, nếu là trước đây thì nghe tới chỗ này dám tôi đã bỏ chạy mất dép, nhưng bây giờ thì chẳng sao nữa, ngay cả Bạch Dực nghe tôi hỏi cũng phải liếc sang tôi tán thưởng. Cô bé lắc đầu: “Không, em không thấy. Chỉ những khi nào chỉ có một mình, em mới cảm thấy có người mà thôi.”

Tôi còn muốn hỏi nữa, nhưng lại bị Bạch Dực ngăn lại. Tôi thở dài, tự biết bản thân đang kích động. Kỳ thực tôi vẫn còn có chút nghi ngờ không biết chuyện này có thực hay không, dù sao cũng không phải đang đóng phim kinh dị Mỹ, làm gì có nhiều chuyện quái dị đến thế cho chúng tôi “vô tình” đụng phải thế này được, nhưng cảnh tượng lúc nãy quả thực quá sức đáng sợ. Quá khứ nuốt sống tro cốt trẻ con, cùng với giọng nói thô tháp của một kẻ khác, chỉ cần nhớ lại là đủ để tôi nổi da gà rần rần rồi.

Bạch Dực hỏi: “Mọi chuyện em từng dự đoán đều trở thành hiện thực sao? Chẳng lẽ chưa từng có ai nghe thấy mà không tìm cách tránh đi sao?”

Nhạc Lan lắc đầu: “Mỗi lần em nói ra không có ai chịu tin cả, mà có tin cũng không trốn thoát được.”

Bạch Dực trầm tư một lát, rồi gõ gõ ngón tay lên bàn nói: “Nói cách khác là cho dù có nói cho đối phương biết, đối phương biết mình sắp chết thế nào, vậy mà cuối cùng vẫn không thoát được?”

Nhạc Lan gật đầu, bình thản nói với chúng tôi: “Vâng, cho nên em muốn chết thật nhanh. Có thể đây là lần cuối cùng em nói chuyện với hai thầy.”

Nói xong, cô bé vơ hai cái bánh trên bàn nhét vào túi xách, gật đầu chào chúng tôi rồi cúi thấp đầu rời khỏi tiệm.

[1] “Vệ Tư Lý hệ liệt” là tác phẩm dài nhất và nổi tiếng nhất của Nghê Khuông. Là một tác phẩm khoa học viễn tưởng, nhân vật chính là Vệ Tư Lý, một người hào sảng, thích lo chuyện bao đồng.

.

Chương 31: Kẻ báo tử (Hạ)

Bạch Dực vẫn ngồi nguyên chỗ cũ dùng ngón tay gõ gõ mặt bàn, lạnh lùng nói: “Con bé này còn giấu chúng ta vài thứ.”

Tôi khẽ run lên, sợ hãi hỏi: “Là cái gì?”

Bạch Dực không nhìn tôi, bàn tay mân mê gọng kính trên sống mũi, vừa như phân tích vừa như tự thuật mà nói: “Nhạc Lan không phải mới sinh ra đã dự báo được cái chết, mà là từ sau khi uống phải một số lượng lớn tro cốt trẻ con mới biến thành như thế. Nhưng tôi chú ý nhất là câu mà nó nói: Nó nhìn thấy người chết nhiều hơn hẳn người sống. Tôi nghĩ… câu này, đúng ra phải hiểu là: Tất cả những ai đã từng tiếp xúc với Nhạc Lan đều lần lượt phải chết!”

Tôi giật bắn người, cả người lạnh buốt như vừa bị dầm trong một khối băng lớn, hấp tấp bưng ly cà phê lên uống một ngụm lớn, cố gắng trấn tĩnh lại tinh thần. Bạch Dực chỉ bình tĩnh tiếp lời: “Tuy nói thế này thì không hay cho nó, nhưng cô bé này quả thực là một tai họa, sự sống của nó chỉ đơn giản là để đem đến cái chết cho người khác mà thôi. Mà tất cả những người kia, cho dù có biết cũng không sao tránh khỏi. Có thể nói là…”

Nói tới đây Bạch Dực đột nhiên im lặng, nhìn sâu vào mắt tôi, tôi bị anh ta nhìn đến nổi cả da gà, vội vàng giục: “Có thể nói là cái gì?!”

Bạch Dực nhíu mày: “Con bé thấy nhiều hơn, nhưng cố tình giữ lại một phần mà không nói cho chúng ta biết, cho nên có lẽ… chuyện đó có quan hệ tới… tôi, hoặc là cậu!”

Tôi cảm thấy có cái gì như vừa nổ tung trong đầu mình, một ý nghĩ kinh khủng chợt nhen lên, rồi không ngừng sinh sôi lớn lên trong óc, tôi cố rặn ra một nụ cười cứng ngắc: “Không phải là… không phải là cái chết của…chúng ta đó chứ…?”

Bạch Dực không trả lời, nhưng sự yên lặng của anh ta còn khiến tôi sợ hơn, cuối cùng, Bạch Dực vỗ vỗ vai tôi thở dài: “Sự sống chết của cô bé này không phải là thứ chúng ta có thể xen vào nổi đâu, cậu đừng suy nghĩ về nó nữa, nếu không sẽ tự ném mình vào vòng xoáy kinh khủng đó đấy, chính vì thế này cho nên tôi mới muốn cậu tách xa khỏi con bé đó ra.”

Tôi thở dài, chuyện này trước sau là do tôi tự rước vào thân, vả lại dù sao cũng chưa chắc là nhất định sẽ bị hại đến người mà, nếu lúc này vì sợ mà bỏ cuộc thì quả thực quá nhát gan. Nhưng Nhạc Lan thì chỉ còn có vài ngày nữa là đến đại nạn, nếu buông tay thì theo “tỉ lệ” dự đoán trước giờ của chính cô bé thì cô bé phải chết là cái chắc. Sợ mà rút lui, vậy chẳng khác nào khoanh tay nhìn đứa bé đó chết trước mặt mình…

Bạch Dực nhìn thấu tâm tư của tôi, nhẹ bật cười: “Biết ngay là cậu không bỏ được mà, nhưng tôi nói trước là tôi chỉ thử thôi đó nhé, có thể thành công hay không còn không biết, dù sao tử khí bám trên người cô bé này quá nặng, thật giống như một dòng nước đen ngòm chảy liên tục… Còn đôi mắt của nó nữa, dường như tôi đã gặp qua ở đâu đó thì phải… Chỉ là không ngờ, bằng cách đó mà cũng rước phải cặp mắt La Sát…”

Mấy ngày sau đó, Nhạc Lan cố tình tránh mặt chúng tôi, tôi cũng chỉ biết lặng lẽ theo dõi cuộc sống của cô bé, phát hiện những khi ở trong lớp, cô bé cứ lôi ra một tờ giấy trắng nhìn chằm chằm vào đó, viết viết, rồi lại xé đi. Tôi cũng không quản việc cô bé cứ tới tiết của tôi là cúp học nữa, vì với Nhạc Lan mà nói, lúc này học hành tuyệt đối không phải là quan tâm hàng đầu. Tôi đoán tờ giấy kia có lẽ là di chúc. Một đứa bé nhỏ xíu, tự mình viết di chúc cho mình, cái cảm giác đó kinh khủng tới mức nào? Khi ấy đã không còn bao nhiêu thời gian, tôi nhận thấy sắc mặt của Nhạc Lan cứ càng ngày càng tái đi, không có giây nào khắc nào không khiến cho cô bé nhớ tới cái chết đang lù lù tiến tới, còn chúng tôi – những người duy nhất biết chuyện – cho dù rất muốn can thiệp nhưng lại chẳng biết phải làm thế nào. Chỉ biết một cách duy nhất là làm bộ lờ đi, không cố tình nhắc cho Nhạc Lan sự thực này nữa, có lẽ, đối với cô bé mà nói thì “quên đi” là giải pháp tốt nhất hiện nay. Từng ngày từng ngày cứ lừ đừ trôi qua, cho tới ngày hôm nay – ngày 28 – tôi nhìn tờ lịch, lòng đau như bị ai cắt.

Bạch Dực vỗ mạnh vào gáy tôi, đánh thức tôi từ trong những suy nghĩ rối rắm. Đang chấm bài vẽ cho học sinh, bị anh ta đánh, tôi giật mình đánh rơi cây bút đang cầm trong tay xuống đất đánh “cạch” một tiếng. Tôi oán giận liếc anh ta một cái, nhặt cây bút lên, lại chìm vào trầm tư, Bạch Dực gõ mạnh lên bàn: “An Tung đồng chí, biết chuyện mới hay là cậu lo lắng cho Nhạc Lan, chứ không biết thì… dám nghĩ là mùa xuân tới rồi cậu lại mộng xuân kia đấy!”

Tôi lúc này đã hoàn hồn trở lại, vừa nghe thế lập tức giật mình, chỉ sợ những đồng nghiệp khác nghe thấy, đành hạ giọng mà gầm gừ: “Có anh mới mộng xuân ấy, mùa xuân tới rồi, chẳng biết trong đầu anh là mỹ nhân nào đây!”

Tôi vốn chỉ là nói cho có, ai ngờ anh ta hăng hái đáp lại: “Phải phải, trong đầu tôi toàn là hình ảnh của cậu không đó nha!”

Tóc gáy tôi lập tức dựng hết cả lên, biết là nói giỡn, nhưng vẫn đỏ mặt, vờ như ho khan vài tiếng rồi cao giọng mắng anh ta: “Bạch Dực đồng chí, anh ăn nói cẩn thận đấy! Còn nữa, có nghĩ tới cách nào cứu Nhạc Lan chưa! Còn chờ nữa thì hư xôi hư chè hết bây giờ!”

Anh ta uống một ngụm trà, quay về với vẻ nghiêm túc thường nhật, môi mím chặt lạnh lùng, suy nghĩ một lúc rồi mới nói: “Có nghĩ tới một cách, nhưng vẫn không nắm chắc lắm… nhưng dù sao cũng phải thử xem.”

Tôi vừa nghe thế, lập tức vươn người tới dỏng tai lên: “Cách gì??”

Bạch Dực lắc lắc ngón tay mỉm cười nhìn tôi: “Không thể nói.”

Quả nhiên, hi vọng vào anh chàng này chẳng khác nào tự hành hạ mình, nếu không phải xung quanh còn có người thì tôi đã xông vào cho anh ta một trận rồi. Nhưng thực ra, nếu Bạch Dực nói đã có cách thì tôi cũng yên tâm hơn một nửa rồi.

Bạch Dực nhìn đồng hồ, chốt hạ: “Tới giờ lên lớp của tôi rồi, đi trước đây, nhớ sau giờ tan học ở lại đây chờ nhé.”

Tôi gật đầu, không cần anh ta nói tôi cũng không dời đi đâu nửa bước. Tôi lo lắng nhìn lên đồng hồ, ngực bắt đầu thấp thỏm, lúc này cách giờ chết mà Nhạc Lan tiên đoán chỉ còn thời gian chưa đầy một tiết học, tôi căng thẳng thần kinh lắng nghe tiếng đồng hồ tích tắc từng khắc từng khắc một báo hiệu thời gian trôi qua, lúc này trong phòng giáo viên chỉ còn mình tôi và một giáo viên khác, ngoài hành lang truyền tới tiếng trẻ con đọc bài thật to. Tất cả những đứa trẻ khác đều vô âu vô lo tận hưởng tuổi thơ của mình, chỉ có Nhạc Lan không giây phút nào không bị ám ảnh bởi cái chết sắp tới. Tôi nhớ lại bài văn đầu tiên của cô bé, sự tuyệt vọng như xuyên thấu qua từng con chữ mà trào ra ngoài. Tôi bất lực buông bút, chăm chú nhìn đồng hồ. Tôi rất tin tưởng Bạch Dực nhất định có cách cứu cô bé, vì tuy cách ăn nói có hơi thẳng thừng tàn nhẫn, nhưng anh ta chính là người duy nhất mà tôi đặt trọn niềm tin trên đời này, chỉ cần anh ta hứa, nhất định sẽ thực hiện cho bằng được. Vậy mà sao vẫn cứ thấp thỏm lo âu, hàm răng không kiềm được mà run lên đánh lách cách, cảm thấy như nhiệt độ xung quanh giảm đi mất mấy độ?

Tôi quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, ngoài kia, thế giới vẫn bình thường, như thể mọi thứ vẫn quay theo quỹ đạo của nó. Đang khi tôi còn ngơ ngẩn suy nghĩ, chợt ngoài hành lang vang lên tiếng la lối ầm ĩ, tôi lúc này không muốn nghe những âm thanh quá lớn nên vô thức bóp bóp trán cau mày, nhưng lại thấy Bạch Dực vẻ mặt giận dữ đùng đùng đi thẳng vào phòng, tôi còn chưa kịp kinh ngạc thì đã thấy theo sau anh ta là Nhạc Lan, vẻ mặt đầy oan ức. Tôi lại càng thêm ngơ ngác, anh chàng này muốn diễn trò gì đây nhỉ?

Tôi tiến tới, chợt nghe Bạch Dực nghiêm khắc nói: “Không ngờ tuổi còn nhỏ thế này mà đã dám gian lận rồi!”

Tôi càng nghe càng ngạc nhiên, Nhạc Lan lúng túng đi vào, Bạch Dực nổi giận đùng đùng ngồi phịch xuống ghế, sau đó buông bài kiểm tra trong tay xuống, quay sang nói với giáo viên còn lại: “Xin lỗi thầy Trình, thầy có thể thay tôi trông giúp lớp đang làm kiểm tra được không? Tôi ở lại xử lý trường hợp gian lận này!”

Thầy Trình tuy cực kỳ không tình nguyện, nhưng nhìn vẻ mặt lạnh như băng của Bạch Dực cũng sợ, nên nhanh chóng gật đầu ra khỏi phòng giáo viên. Vẻ mặt tức giận của Bạch Dực thực sự rất kinh khủng, rất đáng sợ, cả người dường như toát ra một thứ sức mạnh cuộn trào mà tàn bạo nào đó, tôi ở bên cạnh cũng im thin thít, không dám lên tiếng.

Bạch Dực quay sang Nhạc Lan nghiêm khắc nói: “Em, ở lại đây làm lại bài thi cho tôi! Tôi sẽ trông chừng em cẩn thận, để xem em còn cách nào gian lận nữa không!”

Nhạc Lan cả người run bắn lên, dường như là vì tức giận, nhưng lại không dám lên tiếng chống đối, vẻ mặt oan khuất như thể oan Thị Kính[1] vậy. Cô bé cắn chặt môi nhìn Bạch Dực, sau đó thấp giọng hừ một tiếng, cuối cùng vẫn cầm bài làm ra một góc ngồi làm bài. Bạch Dực chỉ lên đồng hồ nói: “Chuông reo hết giờ thì nộp bài! Dám gian lận ngay trước mặt tôi, khinh tôi là không khí chắc!”

Anh ta tức giận tháo mắt kính xuống xoa xoa Thái Dương, tôi sửng sốt tới giờ này vẫn không biết phải nói gì, mãi mới gom hết bình tĩnh mà lặng lẽ hỏi nhỏ: “Lão Bạch, anh đang diễn trò gì vậy? Tôi không hiểu…”

Bạch Dực vừa nghe thế lập tức hét lên: “Dám gian lận bài kiểm tra ngay trước mặt tôi! Đương nhiên tôi phải xử lý nghiêm rồi, cho nó ra đây làm bài tiếp đã là nhân nhượng lắm rồi đấy!”

Tôi bị giọng hét của anh ta dọa sợ chết khiếp, cả người cũng run lên, Bạch Dực thấy tôi sợ, liền nhanh chóng nhẹ giọng nói: “Nhạc Lan trong giờ kiểm tra của tôi dám mở tài liệu, bị tôi bắt được còn nhất quyết không nhận tội!”

Tôi ngạc nhiên nhìn Bạch Dực, vì tôi biết rõ tính cách của anh ta, phương châm của anh ta là dễ dàng, cho dù có học sinh gian lận, anh ta lúc nào cũng nhân nhượng cho học sinh đó một cơ hội, thậm chí có lần sau kỳ thi cuối học kỳ chính mắt tôi còn thấy anh ta lẳng lặng ở lại sau giờ thi giúp học sinh tiêu hủy chứng cứ nữa.

Tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra, Bạch Dực lắc đầu, nên tôi cũng biết ý không hỏi tiếp nữa, chỉ biết cúi đầu tiếp tục chấm bài của mình, bầu không khí quay về với sự tĩnh lặng khó thở. Bạch Dực khoanh tay nhìn Nhạc Lan chằm chằm. Tôi không biết vì sao Bạch Dực phải làm thế này, nhưng tin tưởng anh ta đã là thói quen của tôi rồi, nên lần này cũng vậy, tôi chỉ nhìn Bạch Dực ra ý hỏi, nhưng anh ta không thèm liếc tôi nửa con mắt, mặt mày vẫn cau có như còn giận dữ lắm.

“Chẳng lẽ thực sự là gian lận?” Tôi thầm nghĩ. Tôi biết, tâm trạng Nhạc Lan lúc này cực kỳ hỗn loạn, cô bé biết thời hạn của mình càng lúc càng tới gần, cho nên cho dù chỉ còn có một tiết đi nữa thì cô bé vẫn muốn có mặt, vì sợ sau này vĩnh viễn không còn cơ hội đến lớp  nữa. Sắc  mặt của cô bé tái nhợt kinh người, lúc này sự sống đối với cô bé có lẽ càng lúc càng xa tầm tay với, bản năng của cô bé là tin tưởng vào những gì mình tiên đoán, cho nên dự đoán lần này chính là lời dự đoán tàn khốc nhất đối với Nhạc Lan.

Thế nhưng đứa bé này vẫn kiên gan tới cùng, cho tới lúc này, cô bé vẫn cắn chặt răng chịu đựng, hoàn toàn không có chút hoảng loạn nào thể hiện ra bên ngoài, cũng là đối mặt với cái chết, vậy mà so với tôi là một người trưởng thành, cô bé thực sự còn kiên cường hơn rất nhiều. Có người nào lại không tiếc mạng mình, Nhạc Lan cũng vậy, cũng muốn được một cơ hội để sống sót, cho dù chính cô bé đã phủ nhận cơ hội đó của mình.

Đồng hồ điểm từng giây từng giây một, trán tôi cũng ướt đầm mồ hôi, hơi thở càng lúc càng gấp. Vẻ mặt của Bạch Dực cũng từ từ căng thẳng hơn, trong căn phòng chỉ còn tiếng ngòi chữ chạy trên giấy loạt soạt, cùng với tiếng tích tắc của đồng hồ. Bàn tay cầm bút của tôi bắt đầu run lên, lúc tôi thả bút xuống, mới nhận ra trong lòng bàn tay toàn là mồ hôi. Bạch Dực lo âu nhìn tôi một chút, nhưng vẫn giữ im lặng.

Dần dần, Nhạc Lan cũng bắt đầu run lên, vì thời gian nộp bài đã gần đến. Khóe mắt cô bé đã bắt đầu ươn ướt, tinh thần của cô bé dường như đã tới cực hạn. Mặc cho Nhạc Lan có kiên cường tới đâu đi nữa thì cảm giác chờ chết vẫn là một thứ cảm giác kinh khủng tới cực độ, ngay cả một người lớn còn có thể bị nó làm cho phát điên, đừng nói chi tới một đứa trẻ con. Tôi căng thẳng nhìn đồng hồ, từng giây trôi qua trong mắt tôi dường như đều tàn nhẫn tới tột cùng. Khi cô bé run lẩy bẩy nâng bài kiểm tra lên nộp cho Bạch Dực, tôi thấy trên trán cô bé cũng toát đầy mồ hôi hột, cô bé nhắm  nghiền mắt, cố trấn tĩnh lại, sau đó ra sức giữ cho giọng nói của mình đừng lạc đi mà nói: “Thưa thầy, em làm xong rồi… em về được chưa ạ…?”

Ngay giây phút đó, chúng tôi chợt nghe từ phía ngoài cửa sổ vang lên tiếng động ầm ầm. Chúng tôi tất cả đều run lên, riêng tôi cảm thấy như giây phút đó, tim mình đã hẫng mấy nhịp. Tôi hốt hoảng bưng ngực chạy ra trước cửa sổ nhìn ra ngoài xem có chuyện gì, thì chỉ thấy ở góc đường một chiếc xe tải lật nghiêng chỏng chơ, vẫn còn nháy đèn, tài xế đang bị một đám người lôi ra ngoài. Dường như bị thương, đang to tiếng chửi ầm lên.

Trong khoảnh khắc, cả người tôi gần như trượt xuống. Nhạc Lan ngơ ngác nhìn chúng tôi, rồi lại quay sang nhìn ra cửa sổ, trên gương mặt tái nhợt đa phần là kinh ngạc, còn một phần nhỏ bé còn lại là nhẹ nhõm, nhẹ nhõm vì đã thoát được kiếp nạn, làm lại từ đầu!

Tôi vẫn còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra, chỉ run run đưa tay gạt mồ hôi lạnh trên trán, quay sang hỏi: “Bạch Dực, chuyện gì vừa xảy ra vậy? Rốt cuộc là chuyện gì xảy ra vậy?!”

Bạch Dực thở phào một hơi dài nhẹ nhõm, rõ ràng trước đó anh ta cũng rất căng thẳng. Anh ta uống một ngụm trà rồi trả lời: “Tôi đã chỉnh lại đồng hồ trong trường chạy chậm 10 phút. Chuông reo tan học cũng bị tôi cắt mất rồi, đừng có để lộ ra, bằng không tôi để cho trường trừ lương của cậu đấy!”

Đầu óc tôi chạy theo không kịp, vẻ mặt Nhạc Lan cũng ngơ ngác, nhưng dù sao cũng thoát chết, cả hai chúng tôi đều thư thái hẳn ra, rốt cuộc lời nguyền chết chóc của Nhạc Lan cũng đã bị phá vỡ! Tôi bủn rủn ngã người lên ghế, mồ hôi ra như tắm, cổ họng có hơi khô nên chỉ muốn uống nước. Tôi bèn liếm liếm môi hỏi: “Vậy sao anh không nói trước cho bọn tôi biết?”

Bạch Dực cầm bài kiểm tra của Nhạc Lan để lên bàn mà đáp: “Vì không thể để Nhạc Lan biết được.”

Nhạc Lan ngơ ngác nhìn chúng tôi, còn tôi tuy cũng có hiểu chút chút nhưng vẫn còn nhiều chi tiết chưa hiểu hết, nên cả hai chúng tôi đều đồng lòng nhìn sang Bạch Dực ra ý hỏi, anh ta thở dài một tiếng rồi nhẹ nhàng giải thích: “Theo cách miêu tả của Nhạc Lan thì mọi tiên đoán đều rất chi tiết, ngay cả thời gian chết cũng rõ ràng, vì thế vô hình chung đã khiến Nhạc Lan đóng đinh cái khái niệm ‘biết rõ lúc nào sẽ chết’ vào đầu rồi.”

Tôi gật đầu: “Đúng, vì lần nào Nhạc Lan cũng nói ra nên người chết ai cũng biết thời gian chết của mình.”

Bạch Dực bóp bóp trán nói tiếp: “Cho nên tôi liều một phen, để thời gian chạy sai. Nếu thời điểm mà Nhạc Lan chờ đợi ‘vẫn chưa đến’, nhưng trên thực tế là ‘đã trôi qua rồi’ thì có thể tránh khỏi cái chết hay không? Mà bản thân hoàn toàn không biết thời gian có sự sai lệch, cho nên có thể dựa vào đó mà tránh đi, người ta gọi là vô tình mà tránh khỏi.”

Tôi nhìn Bạch Dực hỏi lại: “Chẳng lẽ màn kịch vừa rồi là để anh kéo dài thời gian sao? Để Nhạc Lan vẫn cứ chờ đợi thời gian tử vong ‘chưa tới’, trong khi trên thực tế thì nó đã ‘trôi qua mất rồi’?”

Bạch Dực gật đầu: “Đúng vậy, nếu cho Nhạc Lan biết trước kế hoạch này thì trong lòng cô bé sẽ tự hiểu rằng đây chỉ là thời gian giả tạo; còn nếu giấu cô bé tới phút cuối thì tinh thần của cô bé vẫn sẽ giữ nguyên ở trạng thái ‘chờ chết’ mà không thay đổi gì. Chúng ta cần là cần điểm đó.”

Nhạc Lan lần đầu tiên kích động nở nụ cười, cô bé che miệng cười thoải mái, nước mắt tràn qua mi nhỏ xuống sàn, tôi nhìn gương mặt non nớt lần đầu tiên xuất hiện đủ mọi cảm xúc khác nhau, lần đầu tiên cô bé không kiềm chế nữa mà để mặc cho bản thân khóc to lên, còn tôi và Bạch Dực chỉ yên lặng nhìn cô bé kiên cường này khóc nức nở để xả hết mọi ức chế đau khổ bấy lâu trong lòng. Dù sao cũng chỉ là tránh được một lần, cuộc sống sau này vẫn là một gánh nặng khủng khiếp đối với Nhạc Lan, cô bé vẫn là một người phải thường xuyên nhìn thấy trước cái chết.

Bạch Dực nhìn Nhạc Lan khóc tới lả người, bèn đứng lên vỗ vai tôi, ý bảo tôi và anh phải dìu cô bé này ra cổng trường thôi. Tôi gật đầu, giúp Nhạc Lan thu dọn sách vở, đưa cô bé ra khỏi phòng giáo viên. Lúc ra tới cổng, nét mặt Nhạc Lan đã quay lại vẻ lạnh nhạt như mọi ngày, nhưng trong đôi mắt sưng húp đỏ bừng kia đã bắt đầu mang theo những tia sáng mới. Đi tới cổng, cô bé vẫy vẫy tay chào từ biệt chúng tôi, tôi nhìn theo cô bé an toàn qua khỏi ngã tư đường xa xa, cũng thở phào nhẹ nhõm, Bạch Dực cũng mím môi nhìn theo bóng dáng khuất dần của Nhạc Lan, sau cùng thở dài: “Rồi, về nhà thôi, nhớ đấy, cấm không được hé ra chuyện tôi cắt dây chuông đấy, bằng không tôi đánh cậu thật thì đừng có trách!”

Tôi cười cười: “Trời, anh hai, đang dọa tôi đó sao! Sức anh thì đè nổi ai mà làm tàng!”

Anh ta cũng cười: “Đủ đối phó với cậu là được rồi! Không nói nhảm nữa, về thôi.”

Tôi gật đầu, quay lại nhìn theo bóng dáng nho nhỏ kia lần cuối rồi mới theo Bạch Dực về nhà.

Sau chuyện này, mọi thứ lại quay về với quỹ đạo bình thường. Tôi yên tâm tiếp tục dạy môn mỹ thuật của tôi, Bạch Dực yên tâm tiếp tục chơi mèo vờn chuột với Phan hói, từ chối làm chủ nhiệm lớp. Mỗi lần nhìn thấy vẻ mặt nhăn nhó của anh ta, tự nhiên trong lòng có một cảm giác gì đó gần như là thỏa mãn. Nhạc Lan vẫn không thay đổi gì mấy, vẫn ít nói vẫn trầm lặng như cũ, chỉ một mình cô độc, trong mắt tràn ngập vẻ lạnh lùng. Tôi nghĩ, có lẽ đây mới chính là Nhạc Lan thực sự, rất khép kín, rất kiên cường, kiên cường đến tội nghiệp.

Ngày hôm nay phòng giáo viên vẫn vắng lặng như cũ, Bạch Dực và tôi chán nản lật báo, đọc đi đọc lại mấy mẩu tin cũ xì. Tôi vẫn còn chút nghi ngờ đối với khả năng dự báo cái chết của Nhạc Lan, nhưng dù sao đại nạn lần trước cũng đã qua đi. Cô bé kia còn có cả một tương lai dài dằng dặc trước mặt để mà lo lắng.

Tôi khẽ chạm lên mắt trái của mình, trong lòng lại bắt đầu băn khoăn về sự tồn tại của chính mình. Một kẻ từ khi sinh ra đã nhìn thấy nhiều điều quái dị như tôi, cũng từng có thời bị người xung quanh chế nhạo lánh xa. Đó chính là nguyên nhân chính khiến tôi đặc biệt quan tâm tới Nhạc Lan như vậy. Con người lúc nào cũng theo bản năng mà sợ hãi những thứ không giống mình; không biết trước tương lai, thực sự là một loại hạnh phúc.

Đột nhiên bàn tay lật báo của Bạch Dực run lên, anh ta quay phắt lại nhìn đồng hồ trên tường, vẻ mặt càng thêm kích động. Tôi ngạc nhiên nhìn, một người mặt lạnh muôn thuở như Bạch Dực mà cũng có lúc kích động như vậy? Tôi buông báo hỏi: “Anh làm sao vậy?”

Sắc mặt Bạch Dực trắng bệch ra, trên trán đổ mồ hôi như mưa. Tôi lập tức cũng bất an theo, anh ta run run chỉ vào tờ báo ngày hôm nay, giọng nói cũng lạc cả đi: “Chúng ta đều nhầm rồi! Kỳ thực hôm nay cũng là ngày 28! Ngày 28 Âm lịch! Chết tiệt! Năm nay là năm nhuận, có hai tháng trùng nhau, trời ạ!!!”

Nói xong lập tức đứng dậy lao ra ngoài, tôi lập cập cầm tờ báo lên nhìn lướt qua, vừa đúng bài giới thiệu về tháng nhuận năm nay. Lúc này mới thình lình vỡ lẽ, năm nay là năm nhuận 4 năm mới có một lần, thế nào cũng sẽ dư ra thêm một tháng, mà tháng nhuận năm nay…  lại chính là tháng hai! Nói cách khác, ngày hôm nay rất có thể mới là ngày chết của Nhạc Lan! Tôi ném tờ báo đi, phóng theo sau Bạch Dực chạy về phía phòng học của lớp Tám 4. Trái tim như đã muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, nhưng tôi vẫn cố tự trấn an mình: “Không sao, không sao, chúng ta đã thấy cái xe tải đó lật rồi mà!!!”

Bạch Dực cắn răng, lo lắng nói: “Nhưng mà trên cái xe đó… không có chở thép! Chúng ta quá mừng nên quên mất!”

Tôi nhất thời lạnh cứng cả sống lưng, cái cảm giác nặng nề mà khủng bố khi cái chết từ từ tới gần này lại làm cho tôi gần như không thể làm gì nổi. Trên đồng hồ đeo tay chỉ thời gian chỉ còn cách cái chết dự đoán đúng 6 phút ngắn ngủi, mà lúc này lại chính là giờ tan học!

Tôi chửi bậy một câu, cùng Bạch Dực chạy vào phòng học, chỉ để thấy vị trí của Nhạc Lan trống trơn, tôi tóm lấy một học sinh, gắt giọng hỏi: “Nhạc Lan đâu! Cô bé đâu!”

Học sinh kia bị tôi dọa sợ run bắn lên, không nói được tiếng nào, nhìn ra ngoài cửa sổ, tôi thoáng thấy cái bóng của Nhạc Lan đã sắp bước ra khỏi cổng trường, liền thô bạo đẩy học sinh kia ra mà chạy thẳng xuống dưới, cảm giác sợ hãi chưa từng có len lỏi trong từng đường gân thớ thịt, bao phủ cả cơ thể tôi chìm trong tuyệt vọng. Tôi gần như không còn nghe thấy tiếng tim mình đang đập như nổi trống, chỉ phát cuồng mà phóng thẳng ra ngoài, va phải biết bao nhiêu người cũng mặc kệ, bị đẩy ngã thì bặm môi đứng dậy chạy tiếp, bị mắng thì bưng tai làm như không nghe.

Chỉ chăm chú cầu nguyện, cầu nguyện cho đứa bé đó đừng bước ra đường. Lúc tôi chạy tới cổng trường thì thấy Nhạc Lan dừng lại trước cửa tiệm thức ăn nhanh lần trước nhìn vào trong chốc lát, trong mắt đầy vẻ ước ao ngọt ngào. Tôi muốn dùng hết sức mà hét lên, mà gào to lên, em đừng đi, đừng bước qua đường.

Nhưng cuộc chạy nãy giờ đã rút hết sức lực của tôi, tôi không cất nổi giọng, mà Nhạc Lan đã quay đầu hướng ra đường. Tôi ngã sấp mặt xuống đất, giây phút cuối cùng, dùng hết sức rướn người lên mà hét to: “Nhạc Lan! Quay lại!!!”

Cô bé quay đầu nhìn lại, lần đầu tiên mỉm cười với tôi, nụ cười ngọt ngào của một đứa bé bình thường, ánh mắt không còn lạnh như tro mà tràn ngập sức sống mà một đứa bé nên có. Nhưng đột nhiên, bên viền mắt của cô bé chợt hiện ra rất nhiều cái bóng, hàng trăm gương mặt nhăn nhó vặn vẹo của trẻ con hắt bóng trong đôi mắt đen thẳm đó, như đang rít gào từ dưới đáy sâu địa ngục, tôi chết sững nhìn vào đôi mắt kinh khủng đó. Cùng lúc ấy, một chiếc xe tải chở thép chạy vụt qua, thắng gấp trước mặt Nhạc Lan, hình ảnh cuối cùng còn in dấu trong võng mạc của tôi là một dòng máu đỏ tươi phun tung tóe, nhuộm đỏ cả đường nhìn, cùng với một tiếng hét thảm thiết của cô bé gái.

Tôi trợn tròn mắt, miệng há hốc, muốn hét lên, muốn gọi to, muốn gào thét cái gì, nhưng tôi không nghe thấy gì nữa, không còn bất kỳ âm thanh nào nữa. Trước mắt chỉ còn có máu, máu đỏ tươi, trong đầu chỉ còn có tiếng hét, tiếng hét thảm thiết.

Tôi quỳ rạp người trên đất, mắt nhòa đi. Hình ảnh cuối cùng là một cái bóng đen thui như quỷ mị nhanh như chớp lẩn ra khỏi vũng máu của cô bé, đó là ý thức cuối cùng trước khi tôi bị phủ chìm trong bóng tối.

Khi tôi mở mắt ra, đã ở trong bệnh viện, trên tay đeo ống truyền dịch. Tôi cố gắng mở to hai mắt, Bạch Dực đang ngồi yên bên cạnh nắm tay tôi, tôi chỉ có thể cảm thấy hơi ấm duy nhất là từ bàn tay anh ta truyền sang. Tôi giật giật ngón tay, Bạch Dực vội vàng ghé sát tới: “Thế nào, đỡ hơn chưa?”

Đỡ hơn chưa… tôi tự nhiên muốn cười, sao có thể đỡ nổi đây, nhìn thấy một sinh mạng biến mất ngay trước mặt mình là một chuyện khổ sở tới mức nào chứ? Đỡ hơn chưa… nghe buồn cười thật đấy. Tôi lặng lẽ nhìn Bạch Dực, vẫn muốn nghe thấy một tin tức mà chính mình cũng biết là tuyệt vọng, nhưng vẫn khàn khàn hỏi: “Cô bé… còn sống không…?”

Ánh mắt Bạch Dực tối sầm lại, lòng tôi cũng lạnh đi. Tôi nuốt nước miếng, phát hiện cổ họng khô khốc đau gần chết, Bạch Dực cố sức nắm tay tôi càng chặt, không nói gì hết, chỉ nắm chặt tay tôi, rồi kéo tôi lại ôm chặt tôi vào lòng, tôi tự nhiên cảm thấy sợ lạnh, bởi vì lạnh tức là đã chết. Nhạc Lan, cô bé có sợ lạnh không nhỉ?

Lúc này đột nhiên cảm thấy sợ cái chết vô cùng, vì sinh mạng của con người quả thực chỉ là một món đồ chơi trong tay Tử thần, không có kẻ nào có thể chạy trốn lưỡi hái của cái chết. Tôi chỉ cần một hơi ấm ngay lúc này mà thôi, cho nên tôi ôm Bạch Dực thật chặt, vùi đầu vào lòng anh, tiếng tim đập của Bạch Dực cũng rất gấp, tôi biết anh lo lắng, cũng biết anh rất đau lòng, như tôi vậy. Tôi thực sự muốn bật khóc, nhưng nước mắt không sao tuôn ra được. Chỉ ra sức níu chặt lấy Bạch Dực, chỉ sợ sự ấm áp duy nhất này cũng tan biến.

Bạch Dực cúi đầu hôn lên tóc tôi thật sâu, nhẹ giọng nói: “Đừng sợ, còn có tôi đây.”

Tôi nhắm nghiền hai mắt, đột nhiên nhớ lại cái bóng đen thoát ra khỏi người Nhạc Lan khi cô bé chết, cộng với những hình ảnh kinh khủng trong mắt Nhạc Lan vào phút cuối, bèn mở choàng mắt ngẩng đầu lên kể hết cho Bạch Dực nghe, Bạch Dực không nói gì, nhưng ánh mắt càng lúc càng lạnh đi, vòng tay ôm cũng càng lúc càng siết chặt. Cuối cùng, chỉ nghe anh liên tục lẩm bẩm: “Không có việc gì, không có việc gì đâu, còn có ta ở đây, còn có ta ở đây…”

Vài ngày sau đó, sinh hoạt của tôi và Bạch Dực vẫn không có gì thay đổi, Nhạc Lan chỉ là một học sinh chuyển trường, ngoại trừ chúng tôi không ai cảm thấy thương xót cho cô bé nhiều lắm, ngược lại còn có vẻ thoải mái hơn nhiều, như thể mối đe dọa thường trực bấy lâu nay đã biến mất. Tôi đột nhiên cảm thấy bực tức vì thái độ đó, có một dạo tâm trạng rất xấu. Nhưng Bạch Dực vẫn kiên trì dỗ dành, còn làm rất nhiều món tôi thích ăn. Tôi đột nhiên thích ăn bánh táo của tiệm đồ ăn nhanh kia, phát hiện bánh ngọt của nó thực sự rất ngon, ngọt ngọt, rồi lại chua chua. Hèn gì mà lần nào tới đây, Nhạc Lan cũng phải mang theo mấy cái về. Thực ra là cô bé muốn để dành cho mẹ mình, đứa bé thiện lương đó, cho đến chết vẫn rất nhớ tới bà mẹ luôn luôn hận mình.

Sau nữa, mẹ của Nhạc Lan cũng được bệnh viện tới tiếp đi, nói là sẽ có dàn xếp thỏa đáng. Mẹ Nhạc Lan lúc biết tin con gái mình chết rồi thì lúc khóc lúc cười, ngờ nghệch hát vài bài, rồi lại một mình lẩm bẩm gọi tên Nhạc Lan. Trong mắt bà tràn ngập tuyệt vọng của một người đã mất đi tất cả. Tôi không có cách giúp bà, mà bà ta cũng không cần tôi giúp, đã không còn ai trên đời này có thể đi vào lòng người đàn bà này nữa. Bà ta chưa chết, nhưng linh hồn đã chết từ lâu rồi.

Điều làm tôi lo lắng  nhất là có người nhận lấy võng mạc của Nhạc Lan mang đi, nói là muốn hiến cho những bệnh nhân cần ánh sáng khác. Tin này làm tôi thấp thỏm suốt một thời gian dài, vì người nào có được đôi võng mạc đó có lẽ sẽ không bao giờ nhìn thấy ánh sáng mà mình mong mỏi, ngược lại, chỉ có bóng tối vô hạn của chết chóc… Nhưng khi tôi muốn hỏi tung tích của đôi võng mạc đó thì bệnh viện giấu rất kỹ, lý do là vì muốn bảo vệ đời tư cho người được hiến tặng. Tôi không dám nói cho bọn họ biết đó là một đôi mắt quỷ, một đôi mắt La Sát có thể nhìn thấy người chết. Bọn họ cũng sẽ không tin đâu, thậm chí còn có thể tống tôi vào bệnh viện tâm thần cũng không chừng. Cho nên tôi chỉ biết ôm đầy sầu lo mà đi ra khỏi bệnh viện.

Cuộc sống vẫn tiếp diễn, con người chỉ cần một ngày còn sống là còn phải bôn ba với đời. Tôi vẫn đúng giờ đến trường, đúng giờ tan tầm, các nữ sinh vẫn châu đầu vào nhau lén nhìn theo tôi và Bạch Dực. Tôi cũng bắt đầu quen với những ánh mắt tò mò của các cô bé. Chỉ là bắt đầu lo lắng cho đôi mắt mình. Nó cũng là một tồn tại bất thường, trong trí nhớ của tôi, mắt trái lúc nhỏ còn xanh hơn lúc này rất nhiều, lúc đó cả nhà tôi cũng rối tung lên, ba mẹ tôi cũng suốt ngày âu sầu. Nhưng tôi may mắn hơn, vì người nhà của tôi vẫn dốc lòng bảo vệ tôi, chưa bao giờ nhắc đến chuyện đôi mắt khác người này, vì sợ tôi bị ám ảnh.

Sau khi trải qua chuyện của Nhạc Lan rồi, có đôi khi tôi lại vô thức sờ sờ lên mắt mình, trong lòng còn lo lắng sợ hãi hơn xưa nhiều. Nhưng có một lần, lúc tôi đang đứng trước gương ra sức dụi dụi mắt trái thì phía sau đã vang lên giọng nói nhẹ nhàng của Bạch Dực: “Đừng dụi nữa, dụi nữa đau mắt hột bây giờ. Yên tâm đi, chỉ cần có tôi ở đây, cậu sẽ không có nguy hiểm gì đâu, tôi sẽ không để cậu thành Nhạc Lan thứ hai đâu.”

Chẳng hiểu vì sao khi nghe những lời đó tự nhiên cảm thấy an toàn lạ, tôi cúi đầu bật cười, hít sâu một cái, rồi quay lại cố tình thở dài một tiếng đầy khoa trương: “Vậy cảm ơn nha, người anh em, phải dựa vào anh rồi đó.”

Trong mắt Bạch Dực chợt lóe qua một tia sáng lạ lùng, anh cũng nhẹ nhàng mỉm cười: “Vậy thì trả tiền bảo vệ cho tôi đi.”

Chúng tôi nhẹ nhàng mà đùa giỡn nhau, tuy trong lòng còn mang theo lo lắng chưa nguôi, nhưng còn sống là còn phải dũng cảm mà tiến tới. Nhạc Lan bé bỏng mà còn có thể kiên cường đến vậy, huống gì là chúng tôi!

Kẻ báo tử – Hoàn

[1] Nguyên tác là “như Đậu Nga vậy”, Lục Mịnh sửa lại thế này cho dễ hiểu hơn.

Chương 32: Ăn thịt (Nhất)

Con người là động vật ăn tạp, nói khó nghe một chút thì là cái gì cũng ăn. Người Trung Quốc, đặc biệt dân tộc Hán, vốn có truyền thống nghiêng về ăn chay, thức ăn chính là ngũ cốc. Thời xưa cũng có một câu nói, “tích cốc phòng cơ”, ý nói chỉ cần có đủ ngũ cốc là an toàn hạnh phúc. Thế nhưng người Trung Quốc còn mang một tình cảm đặc biệt dành cho món thịt. Gia súc gia cầm, nhỏ từ con gà, lớn tới con bò, từ thời cổ, thịt đã mang một tính chất quan trọng hơn hẳn các sản phẩm trồng trọt, tới nỗi có hẳn một thứ dụng cụ tế lễ dành riêng cho thịt——cái đỉnh, lúc đầu, các tư tế thường hay giết gia súc rồi đựng vào đỉnh dâng lên cho thần linh. Cho đến sau này khi ý nghĩa tế lễ được xác định rồi thì đỉnh trở thành một thứ dụng cụ tế lễ nói chung, không nhất định là phải đựng thịt nữa. Tuy nhiên vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, cho dù có nghèo đến đâu đi nữa thì trong nhà cũng phải có thứ đồ dùng đặc biệt này để đựng thịt, và vào những dịp tế tổ hàng năm không thể thiếu được ba thứ thịt cơ bản là heo, bò và dê.

Tôi cũng thích ăn thịt, mỗi lần ăn thịt là vồ vập y như hổ đói. Bạch Dực vẫn rất tò mò là tôi ăn bao nhiêu chất đạm như vậy mà vì sao vẫn không cao to lên được tí nào? Thực ra tôi cũng rất đau khổ về chuyện này, mọi người cứ thử nghĩ xem, đường đường một gã đàn ông mà lại nhỏ nhắn như tôi thì làm sao được coi như nam tử Hán? Không thể làm người ta có cảm giác an toàn đúng không? Khó trách tới từng tuổi này mà tôi chưa từng có một cô bạn gái nào, có nhiều khả năng là do vẻ ngoài gây ra.

Ngày hôm nay nhóm đi phó bản chúng tôi họp hậu cần lần cuối cùng để chuẩn bị cho chuyến phó bản lần sau, Lục Tử vẫn là một tên hành vi quái gở không đỡ nổi như mọi lần, làm tôi đôi khi cũng phải thắc mắc, học thư họa bao nhiêu năm mà sao không thể thay đổi nổi sự thô tục của tên ngốc này? Nhưng dù sao thao tác của hắn cũng không tệ, năng lực khống chế trò chơi rất tốt, mọi người sớm đã quên “tội ác” trước đây của hắn mà hồ hởi đón chào hắn chính thức gia nhập vào đoàn ong thợ của chúng tôi, cùng nhau xưng huynh gọi đệ đánh phó bản kiếm trang bị rồi.

Các thành viên khác trong nhóm thì đều là người chơi lâu năm, không hiếm người tài. Có người còn là người chơi chuyên nghiệp, được xưng là “người chơi cao cấp”. Trong số bọn họ, tuy tôi không phải là người có kỹ thuật cao nhất, nhưng xét về khả năng hậu cần thì không tồi, có thể coi như một nửa quân sư quạt mo. Khi tôi còn đang say sưa bàn luận với mọi người về thuộc tính và tuyệt chiêu của BOSS phó bản lần này thì Bạch Dực từ phía sau đột nhiên lên tiếng: “Này, tủ lạnh hết thịt rồi, cậu ra ngoài chợ mua thêm ít thịt ba chỉ đi.” Ngữ điệu y chang những lần ba tôi mở miệng sai mẹ tôi đi chợ.

Tôi nhất thời cảm thấy mất hứng, không thèm quay đầu lại mà đáp: “Không rảnh, anh đi mua đi, lúc về tiền cưa đôi.”

Bạch Dực không có phản ứng, chỉ nghe tiếng anh ta lật giấy soàn soạt, cuối cùng lạnh nhạt phán một câu: “Vậy bữa tối ăn mì nước trong. Mà nhà hết mì luôn rồi, đi mua mì về đây đi.”

Suy nghĩ bị mấy cái chuyện nhỏ nhặt vớ vẩn này cắt đứt làm tôi có hơi bực mình, huống chi mấy lần bị Bạch Dực sai vặt, cho nên tôi vốn đã ấm ức lâu ngày nay càng thêm âm ỉ tức giận. Tôi gạt ghế đứng phắt lên, căm tức quay sang Bạch Dực gào to: “Anh cho anh là ai, cái gì cũng sai tôi làm là sao!” Tôi trừng to mắt, vươn thẳng người, cố gắng làm cho mình trông cao to hơn.

“Sai cậu? Cậu nghĩ cơm ăn hàng ngày của cậu là ai nấu?!” Bạch Dực hừ lạnh một tiếng, vứt cuốn sách sang một bên, đứng bật dậy, hai tay đút vào túi quần chằm chằm nhìn tôi lạnh lùng, thái độ cực kỳ kiêu ngạo. Tôi không khỏi mắng thầm trong lòng: đồ khốn, đã coi người ta như cu li mà sai vặt lại còn ra vẻ ta đây, muốn động tay động chân thật đấy à?

Tôi cũng không tỏ ra yếu kém, cao giọng quát anh ta: “Đừng tưởng biết nấu ăn là giỏi lắm! Vậy chén bát ai rửa? Đồ ăn ai rửa? Là ông đây chứ ai!” Bạch Dực vừa nghe thế liền bình tĩnh bước tới gần, tôi lập tức đề phòng, nghĩ thầm: thực sự muốn đánh nhau thật phải không? Đừng nghĩ tôi sợ anh, tôi đã sớm chuẩn bị rồi, anh mà đánh nhau với tôi là đấm thứ nhất tôi sẽ giộng thẳng vào mặt anh đấy!

Cứ như vậy, hai người chúng tôi trừng mắt nhìn nhau cả nửa buổi anh ta cũng không ra tay. Tôi vẫn duy trì tư thế phòng thủ, nhưng thực ra cả người đều run run lên, thực sự hận bản thân không được cao, thảo nào người ta đều nói “đàn ông không có sức vóc là tàn phế” mà. Khi đánh nhau thì việc duy trì tư thế mắt đối mắt, mũi đối mũi rất quan trọng, nếu thấp hơn đối thủ thì toàn bộ khí thế đều mất hết. Nhưng vì vấn đề danh dự, chỉ còn cách tiếp tục cắn răng trừng nhau. Bạch Dực gạt gạt sống kính, lạnh nhạt nói: “Có giỏi thì lần sau cấm bỏ quần đùi vào đống quần áo của tôi bắt tôi giặt đi!”

Tôi vừa nghe thế, lập tức bùng nổ. Đúng là có vài lần không để ý vô tình để chung quần áo của mình vào đống quần áo của Bạch Dực mà quên lấy ra. Vốn tưởng nếu anh ta thấy thì sẽ bỏ ra, nhưng Bạch Dực không nói gì cứ thế cầm hết đi giặt luôn, không ngờ chờ tới lúc này lại đem nó ra chất vấn tôi.

Trong lòng tôi thầm thè lưỡi làm mặt quỷ với anh ta, nhưng ngoài mặt thì vẫn hăng máu cãi lại: “Chết tiệt, tôi để chỗ đó thì để mặc tôi tự giặt đi, ai bảo anh lúc đó lo chuyện bao đồng xen vào việc của người khác?! Còn nữa, bộ anh tưởng tôi chưa từng giặt cho anh chắc?!”

Dường như Bạch Dực cũng thực sự bị tôi làm cho tức điên, sắc mặt đen lại. Anh ta bất thình lình đẩy mạnh tôi một cái, tôi vốn đứng đã không vững, nay bị đẩy một cái lập tức ngã ngửa người ra sau, Bạch Dực thuận thế xốc tới xách cổ áo của tôi ghì lại sát mặt mình, mũi tôi gần như chạm tới cằm anh ta, nghe Bạch Dực gầm gừ: “Đi. Mua. Thịt. Mua về thì tối nay ăn thịt kho măng, còn nếu không mua, cả tuần sau cả hai cùng ăn mì nước trong. Tôi một món cũng không đụng tay vào làm. Tự suy xét đi!”

Tôi bị anh ta nắm áo, ngoài mặt vẫn hung hăng trừng mắt, nhưng thực ra trong lòng đã muốn giương cờ trắng đầu hàng. Tuy cực kỳ mong chờ vào đợt phó bản lần này, nhưng nghĩ tới cả tuần chỉ ăn mì trong, trời ạ, đó không phải là thực đơn dành cho người đâu! Tôi ho khan vài tiếng, nội tâm cực kỳ mâu thuẫn, liếc sang nhìn máy vi tính một cái, sau đó làm như tù binh thất trận mà ngán ngẩm giơ cả hai tay lên trời nói với Bạch Dực: “OK, OK! Tôi đi mua, chết tiệt! Không phải chỉ là mấy miếng thịt thôi sao, cần gì phải làm dữ như vậy! Thiệt tình, cứ như vợ chồng cãi nhau vậy!” Nói xong gạt tay anh ta ra, mặc quần áo, nhưng thực ra hai tay vẫn còn run run.

Gương mặt hắc ám của Bạch Dực rốt cuộc cũng dịu đi, anh ta vỗ vỗ vai tôi: “Bây giờ mới biết à, đúng là vợ chồng son cãi nhau chứ còn gì nữa. Đừng vùi đầu vào game online hoài, chịu khó ra ngoài trời nhiều một chút, chứ coi cơ thể cậu đó, tôi đẩy một cái là té, vậy mà còn đòi đánh nhau với tôi? Tôi còn sợ cậu khóc kìa!”

Tôi vùng vằng đẩy tay anh ta ra, nhìn vẻ mặt tự cao tự đại đắc ý đó mà chỉ muốn cầm chổi phang lên đầu cho anh ta một cú. Nói thẳng ra là anh ta làm dữ với tôi như vậy, chẳng qua chỉ là vì không muốn phải ra ngoài trong tiết trời này mà thôi. Bởi vì ngoài trời đã hai ngày nay mưa phùn sùi sụt, làm gì có ai tự nhiên tự lành muốn ra đường hứng mưa vào lúc này cơ chứ! Chẳng phải là tự tìm phiền toái sao! Thế nhưng thể trạng của tôi không bằng Bạch Dực, nếu thực sự động tay động chân thì thua anh ta là cái chắc. Vì thế cũng chỉ còn cách nhanh chóng ra ngoài mua thịt, lúc về có khi còn kịp cuộc họp lần thứ hai.

Vì vậy tôi vội vàng gõ vài dòng, nói Lục Tử và các anh em khác cứ bàn bạc tiếp, chừng nào tôi về sẽ nghĩ chiến lược sau. Dặn dò xong, vẫn chưa thôi ấm ức, liền nhân lúc Bạch Dực đang ngồi đó đọc sách mà đi qua đánh cho anh ta một cái thật mạnh vào sau gáy, sau đó lập tức vơ áo khoác cầm dù chạy thẳng ra cửa, chỉ nghe phía sau giọng Bạch Dực gào to: “Nhóc con khá lắm, có giỏi thì đừng có mà về đây, bằng không tôi cho cậu một trận!!!”

Vừa ra khỏi cửa mới nhận thấy bên ngoài lạnh tới mức nào. Lúc này sắp qua tiết Kinh Trập, nhưng mấy ngày nay mưa không dứt nên không khí cực kỳ ẩm ướt, cộng thêm cái rét tháng ba căm căm, vừa bước ra ngoài đã đối diện với một bầu trời âm u tối tăm, mưa như trút nước, gió lạnh ào ạt thổi thốc vào những bóng người co ro lẻ loi bước trên đường.

Nhưng cũng là vì mùa xuân sắp tới, nên cây cối bên đường đều đang nảy mầm đâm chồi, vài bông hoa dại nho nhỏ màu vàng ven đường cũng đã lục tục nở đón xuân. Tôi đi trên đường, trong lòng cũng có chút cảm thán, chờ qua mùa mưa này là đón mùa Thanh Minh. Nên mua nhiều nhiều đồ ăn một chút, ít ra vài ngày đỡ phải đi mua. Cho nên cố tình vòng lại chọn một cái chợ đông đông, chuẩn bị mua nhiều đồ ăn một chút về tích trữ.

Lúc này đã quá trưa nên cả dãy chợ đều có vẻ vắng vẻ, nhiều quầy hàng đã đóng cửa, trời mưa làm tầm nhìn không được tốt. Chỉ còn có một bác gái bán măng rao to vài tiếng để bán nốt mớ rau cuối cùng, với một vài người bán thủy hải sản ngồi co chân nhàn nhã cắn hạt dưa buôn chuyện phiếm. Trên mặt đất toàn là bùn đất cùng với nước hắt ra từ mấy chậu đựng cá, cực kỳ trơn trượt khó đi.

Tôi mua rất nhiều thứ, còn cố tình chọn những thứ để được lâu, để nếu có gì còn xoay xở được. Ví dụ như trứng gà không dễ hư, mua nhiều một chút, nếu cùng lắm thì… cơm chiên trứng.

Chờ tới lúc mua được gần đầy đủ rồi tôi mới nhớ ra là lần này ra chợ chủ yếu là để mua thịt, vì vậy vội vàng quay lại một quầy bán thịt trông có vẻ khá khang trang ở trước chợ. Khu vực đầu chợ này hầu hết đều đóng cửa hết, chỉ còn nhà bán thịt này còn treo bảng giá trước cửa, ý bảo còn kinh doanh, nhưng không hiểu sao mà có vẻ rất quạnh quẽ chứ không đông đúc sầm uất, cứ như không ai tới đây mua bán gì cả vậy. Tôi nhìn vào bên trong thăm dò, miệng gọi to hai ba tiếng, nghĩ thầm, cửa hàng này lạc quan thật đấy, để mặc thế này không sợ có ai thừa cơ nẫng mất cái chân giò nào hay sao? Ở đây ánh sáng kém, trên cái bàn thép bóng loáng toàn là máu đông với mỡ thừa của heo, trông rất bẩn thỉu. Một cái cân điện tử ngay ngắn nằm bên cạnh phản, trên cái thớt gỗ to cắm phập một con dao phay sáng loáng, lưỡi dao hơi cong vào, chứng tỏ cái dao cũng được sử dụng khá lâu rồi. Qua một hồi lâu, cuối cùng từ trong nhà bước ra một người đàn ông trung niên mặc quần áo bảo hộ lao động màu xanh. Ông ta lùn tịt, hơn nữa lại còn béo phục phịch, chân đi khệnh khạng, cho nên nhìn rất thô lỗ cục mịch. Dường như là do nghề bán thịt heo nên tôi có thể cảm thấy từ người ông ta truyền tới một mùi hôi thum thủm của mỡ, trên tóc thậm chí còn dính một ít thịt vụn, thực sự nhìn rất ghê người.

Ông bán thịt nhướn đôi mắt tam giác ti hí lên liếc tôi, nhưng ánh mắt không hiểu sao có chút né tránh, ra vẻ tâm sự nặng nề, làm như một bệnh nhân suy nhược thần kinh vậy. Ông ta khàn khàn giọng hỏi: “Chú em, muốn mua cái gì?”

Tôi nhìn qua ngó lại, muốn chọn một ít thịt thật ngon, nhưng ông chủ ục ịch này dường như rất vội, gắt giọng giục: “Cậu rốt cuộc muốn mua cái gì? Tui còn công việc đó! Đừng săm soi nữa, thịt nhà tui chất lượng tốt lắm!”

Tôi vốn định chọn kỹ hơn, nhưng bị cằn nhằn như vậy rồi nên cũng chỉ biết nói: “Vậy cho ba ký thịt ba chỉ, chọn chỗ ngon ngon một chút.”

Nghe thấy thế, ông ta lập tức nhấc cái dao phay trên thớt ra, thành thạo kéo một súc thịt to trên xiên sắt xuống, chặt thành từng miếng nhỏ, động tác rất nhanh chóng, nhưng không hiểu vì sao cứ làm cho tôi có cảm giác là ông ta không phải đang chặt thịt heo, mà là xả xuống người kẻ thù không đội trời chung vậy.

Tôi không muốn nhìn ông ta chặt thịt tàn bạo như vậy nữa, nên nhìn sang chỗ khác, đột nhiên thấy ngay bên trong tấm mành sáo ngăn cửa tiệm với gian nhà trong dường như có cái gì đó được đặt ngay đó, có hình dáng giống như một người đang ngồi co chân, nhưng trắng bốp, lại dường như giống với heo đã được cạo lông. Tôi không khỏi tò mò mà hỏi: “Ô, ông chú, ông giết heo ngay trong quầy hả?”

Nghe tôi hỏi thế, ông chủ tiệm chợt ngưng tay, ngẩng đầu nheo nheo đôi mắt ti hí nhìn tôi toét miệng cười, hàm răng vàng ệch, mang theo một mùi hôi khó ngửi xông thẳng vào mặt tôi: “Đúng đó, tui thường mua heo cả con đem về xả thịt ngay sau quầy tùy theo yêu cầu của khách hàng, cho nên thịt chỗ tui là tươi lắm!”

Nói xong ông ta đảo dao phay vài cái, chỗ thịt đã được cắt gọn ghẽ nhẹ nhàng lọt xuống quầy. Ông ta chỉ vào chỗ thịt mà tính: “Ba ký thịt heo, mỗi ký mười ba tệ tám, tính cậu tổng cộng bốn mươi tệ được rồi, ăn ngon thì lần sau nhớ ghé lại mua nữa nghe.”

Tôi cầm túi xốp đựng thịt nhấc nhấc mấy cái, cảm giác cũng đủ cân, liền trả tiền cho ông chủ quầy. Ông ta dùng một cái khăn tay đầy mỡ lau sơ tay rồi đưa tay nhận tiền. Đột nhiên tôi nhận ra da của người này có hơi kỳ lạ, thô tháp thì không nói làm gì, nhưng dường như còn hơi bầm xanh. Hơn nữa trong kẽ móng tay còn bám đầy máu khô, dường như là khi chặt thịt không rửa tay. Tôi cau mày nghĩ thầm: chết tiệt, bao lâu chưa rửa tay không biết, cứ như thế dám đi chặt thịt đưa cho người ta ăn mà không sợ dơ à?

Ông ta cầm tiền đếm đếm, cười nói: “Bàn tay chú em đúng là giống hệt như vóc người nha, thon thon nhỏ nhỏ lại trắng trẻo, thật là thanh tú. Nhưng có hơi gầy đó. Chịu khó ăn nhiều thịt một chút, mới cao to ra được.” Tôi vốn không thích nghe ai khen mình trắng trẻo thanh tú, những từ này dùng trên các cô gái mới hợp, chứ đàn ông con trai mà nghe thế thì chẳng vui chút nào. Mặt tôi thoáng cái sa sầm xuống, không muốn lằng nhằng với ông ta nữa, chỉ cầm thịt rồi quay người lại định về. Nhưng vô tình liếc qua sau tấm mành, lại thấy cái bóng trắng trắng lúc nãy đã biến mất tự lúc nào, chỉ còn để lại dưới sàn một vũng máu, trong lòng nghĩ có lẽ trong tiệm còn có thợ khác chăng? Ngay khi còn đang nghi hoặc, chợt từ sau mành truyền tới một tiếng động rất kỳ quái, rôm rốp rôm rốp, cứ như có cái gì đó đang nhai nuốt vậy. Tôi định dừng lại nghe kỹ hơn, thì ông chủ béo phị kia đã lập tức chắn cả người trước mặt. Tôi thấy người ta rõ ràng không muốn mình nhìn thấy, nên cũng nhanh chóng bỏ đi, không nhìn nữa.

Tôi một tay xách túi lớn túi nhỏ, một tay cầm dù mà vẫn ướt mất nửa người, gấu quần thì sũng nước bùn. Đây chính là lý do Bạch Dực có chết cũng không chịu ra khỏi nhà vào thời tiết này, vì anh ta hơi bị bệnh sạch sẽ thái quá, rất ghét những nơi dơ dáy như chợ, lại còn cái gì mà thức ăn mặn trọc khí quá nặng, anh ta không thích.

Lúc trở về tới nhà thì gần như toàn bộ người tôi đã ướt đẫm, tóc cũng ướt nước, quần đẫm nước nên nặng chình chịch, tôi giao hết đồ ăn cho Bạch Dực rồi nhanh chóng vào nhà thay quần áo, nếu không thì nhiễm lạnh mất. Anh ta vừa nhìn tôi cười chọc quê vừa mở túi thịt ra xem thử. Lúc anh ta đưa mũi vào túi ngửi thử, đột nhiên nhíu mày hỏi: “Sao thịt này có mùi khó ngửi vậy?” Nói xong đưa sang cho tôi ngửi.

Tôi ghé mũi vào ngửi một cái, quả nhiên có một mùi hư thối rất khó diễn tả từ bên trong xông ra, nhưng không giống như mùi thịt ôi thiu do để lâu ngày, mà giống như thể nó bị ngâm vào một thứ gì đó khác độc hại vậy. Thế nhưng lúc ông chủ quầy đưa cho tôi quả thực nó chưa hề có mùi gì khác thường kia mà, chẳng lẽ là do cả quầy thịt quá hôi nên lúc đó ngửi không ra? Bạch Dực thắt chặt miệng túi lại rồi bỏ nó sang một bên, kiên quyết nói: “Không nên ăn, chắc là nó bị ôi rồi, ngày mai để mang ra mắng vốn chủ quầy đòi tiền lại!”

Tôi kéo quần lên, cười nhạt một tiếng: “Xì, anh nghĩ trời lúc này trong xanh ấm áp lắm chắc? Cái quần lúc nãy của tôi chắc ba ngày sau cũng khô không nổi quá. Lần này anh đi đi!”

Anh ta lắc đầu, lại đưa lên mũi ngửi cái nữa, nhăn mặt rồi nói: “Chắc chắn bị ôi, cùng lắm mai tôi đi với cậu, chứ ông ta không biết tôi là ai, nếu cậu không đi lỡ ông ta không chịu nhận thì thế nào?”

Tôi xem xét cái túi ny lông vài lần, đúng là tới mấy chục tệ, bỏ đi thì thật là đáng tiếc, xem ra chỉ có thể quay lại một lần vậy. Đột nhiên lại nhớ tới ông chủ quầy cứ khẳng định thịt nhà mình rất tươi, quả nhiên dân buôn bán đều là đồ gian thương! Đang khi lơ đãng, tự nhiên tôi nghe từ trong cái túi vang lên tiếng… loạt soạt, thấy cái túi nhúc nhích, dường như bên trong không phải là thịt heo mà là một con cá còn sống đang quẫy vậy!

Tôi lập tức kéo tay Bạch Dực chỉ vào túi: “Lúc nãy cái túi vừa động đậy kìa, như là bên trong có cái gì đó vậy?!”

Bạch Dực nghi ngờ quay đầu lại, cởi túi ra, đổ số thịt heo bên trong ra nhìn nhìn, không có cái gì động đậy cả, toàn bộ chỉ là thịt heo bình thường, ngoại trừ mùi tanh hôi quái dị kia ra thì chẳng còn gì khác.

Bạch Dực lấy tay chọc chọc vào miếng thịt, sau đó lại cột chặt túi lại: “Chắc lúc nãy tôi để không đàng hoàng nên túi bị sụp chứ gì, cậu đừng có sợ hoảng, nếu thịt heo mà còn có thể động đậy thì thịt luộc nấu trong nồi chắc có thể bay hết lên trời quá!”

Trong lòng tôi vẫn chưa an tâm lắm, nhưng nghĩ Bạch Dực nói cũng phải, một túi thịt heo sao có thể động đậy được chứ? Tôi cào cào tóc, lại sực nhớ ra là còn cuộc họp đi phó bản, lập tức chạy về phía máy tính.

Ngày hôm sau trời vẫn tiếp tục mưa dầm không ngớt. Cái quần ướt hôm qua phơi ngoài lan can đến hôm nay vẫn không sao ráo nước nổi, cuối cùng tôi đành kiếm một túi chườm nước nóng ra hơ cho nó bay hết hơi nước. Phía nam không thể so với phía bắc, mùa này càng thể hiện rõ ràng hơn, người phương bắc vốn chịu lạnh rất giỏi nhưng chắc chắn cũng không chịu nổi cái lạnh ẩm ướt này của phương nam.

Ăn xong bữa trưa, tôi kiểm tra lại cái quần vẫn chưa khô, đành kiếm một cái khác ra mặc. Bạch Dực mang túi thịt ra. Vì mùi của nó quá khó ngửi nên chúng tôi đồng lòng treo nó vào nhà tắm. Lúc Bạch Dực cầm lấy cái túi, chợt trầm giọng “hử?” một tiếng, tôi hỏi có chuyện gì, anh ta lắc lắc đầu, vẻ mặt ngạc nhiên giơ cái túi lên nói: “Lạ ghê, sao cảm giác như nhẹ hẳn đi thế này?”

Tôi mặc xong y phục, cũng tiến tới nhấc nhấc thử túi thịt, quả nhiên có hơi nhẹ hơn hôm qua. Mở ra xem thử, thật kỳ lạ, cái mùi hôi quái lạ hôm qua đã biến mất, trái lại bên trong tỏa ra một mùi như mùi hạnh nhân. Thế nhưng chỗ thịt thì đã biến dạng hoàn toàn, vừa nhừ vừa nát thành một đống lộn xộn, hơn nữa còn chảy ra một thứ dịch màu xanh sẫm. Tôi hiếu kỳ định lấy tay chạm thử vào thịt, chợt Bạch Dực nhanh như chớp nắm chặt lấy tay tôi hất ra, sắc mặt anh lạnh băng nhìn túi thịt, sau đó cấp tốc dốc thẳng chỗ thịt vào bồn cầu, giật nước trôi hết vết tích.

Tôi còn chưa kịp lên tiếng hỏi thì Bạch Dực đã nghiêm giọng nói: “Sau này tuyệt đối không được tới cái chợ đó nữa, cần gì thì cứ vào siêu thị mà mua. Còn cái quầy thịt đó…” Anh ta không nói hết, đôi mắt mông lung nhìn về phía xa, tôi thắc mắc nhìn Bạch Dực, vẻ mặt của anh ta lúc này rõ ràng là cũng có nghi hoặc chưa rõ. Nhưng chỗ thịt lúc nãy quả thực bất bình thường, Bạch Dực nhanh chóng cầm cái túi ny lông bỏ lên bếp đốt sạch. Tôi thấy thái độ như thể đang tiêu độc chống bệnh truyền nhiễm của anh ta mà tự nhiên nhớ ra anh ta hình như cũng đã chạm vào thịt, vì thế lo lắng hỏi: “Lão Bạch, có chuyện gì xảy ra vậy? Không phải là cái gì không lành chứ? Ngày hôm qua anh cũng đã chạm vào nó, liệu… có sao không?”

Anh ta khoát khoát tay với tôi, vẻ mặt cũng không âm u lắm, tôi cũng an tâm hơn một chút, dù sao nếu có chuyện gì không lành thì Bạch Dực cũng tự biết cách xử lý thỏa đáng. Cuối cùng chúng tôi cũng không tìm tới quầy thịt kia nữa, Bạch Dực chỉ dặn tôi mấy lần là không được tới đó, cũng không nói gì thêm.

Cứ như thế vài ngày sau chúng tôi không ăn thịt, trong lòng tôi quả thực có hơi khó chịu, nhưng Bạch Dực thì cực kỳ thoải mái nhẹ nhàng, đôi lúc tôi có cảm giác anh ta dường như không có hứng thú gì lắm với việc ăn uống, ăn thế nào cũng được không chấp nhất nhiều. Thế nhưng tôi thì không chịu được, thực sắc tính dã[1], bắt tôi cả ngày ăn mì chay thì tôi sẽ biến thành hòa thượng mất. Vì thế nhân một hôm trời ngớt mưa, tôi tranh thủ thời gian chạy ra chợ. Cùng lắm thì không héo lánh qua hàng thịt đó là được chứ gì, quầy thịt có đầy chợ, nếu mua không được thịt thì cùng lắm mua vài khúc dồi về nấu lẩu ăn đỡ, cũng coi như an ủi cái dạ dày.

Lúc tan tầm, tôi cưỡi xe đạp chạy thẳng ra chợ. Lúc này người qua lại trong chợ đông đúc hơn hẳn lần trước, tiếng cãi vã kì kèo ồn ào hòa cùng đủ thứ mùi hợp lại thành một bản hòa tấu kinh khủng. Tôi cau mũi, muốn mua thật nhanh để còn về nhà. Nhưng vì túi thịt lần trước, lần này tôi không dám bước đến đầu chợ, chỉ chọn đại một quầy thịt bên ngoài mua đỡ.

Lần này tôi chọn rất kỹ, thậm chí còn đưa thịt sát lên mũi ngửi, ông chủ quầy thấy bộ dạng kỳ quái của tôi bèn phá lên cười nói: “Ai da da, cậu có ngửi mấy cũng thế thôi à, thịt chỗ tui chất lượng bảo đảm cực kỳ luôn đó, không tin cậu đi hỏi thử đi, quầy thịt Tiểu Chu này là nổi tiếng thịt ngon xưa nay nha!”

Tôi xác định thịt không có vấn đề xong, bèn cột túi lại rồi nói với ông ta: “Đừng nói nữa, lần trước mua thịt trong cái sạp trong kia, ông chủ cũng vỗ ngực xưng là thịt ngon, mà ai dè hôm sau hóa thành tương hồ hết, tôi còn chưa tính đó!”

Ông ta vừa nghe tới quầy thịt kia thì giật bắn mình như thể vừa nghe thấy cái gì cấm kỵ, lấy tay khum khum che miệng, nhìn dáo dác xung quanh rồi mới thì thào với tôi: “Cái quầy đó, không mua được đâu!”

Chương 33: Ăn thịt (Nhị)

Tôi rụt cổ hỏi lại: “Tại sao?”

Ông ta nhìn tôi có vẻ có hứng thú, bèn ngẩng đầu suy nghĩ một chút, sau đó trả lời: “Thịt của nhà đó lúc nào cũng ôi như vậy hết, hơn nữa trong thịt còn có giòi, cậu nói có ghê không chứ? Ban đầu có người còn tới đó mua, nhưng dần dần không còn ai đến hết. Nghe nói quanh nhà đó lúc nào cũng có một mùi gì đó rất hôi, không giống như mùi tanh của thịt mà giống như một mùi thối rữa nào đó vậy!”

Nghe ông ta kể, ánh mắt tôi chạm phải tấm phản bày đầy thịt heo loáng mỡ trước mặt, tự nhiên cảm thấy buồn nôn, không còn muốn ăn thịt nữa. Vì thế cũng bỏ đi ý định hỏi thăm tiếp mà trả tiền rồi vội vàng bỏ đi. Thế nhưng cái tính tò mò không bỏ được, lại thêm phần nghi hoặc, nên trước khi đi tôi vẫn không nhịn được mà nhìn lại lần nữa về phía cái quầy thịt kinh khủng bên kia, vẫn u ám tối tăm như trước, quả thực không có một ai tới đó mua bán. Tôi không khỏi thắc mắc: vì sao lại để việc buôn bán sa sút tới mức này mà vẫn không chịu thay đổi bán thịt cho đàng hoàng? Một cái chợ thế này chủ yếu dựa vào những khách hàng quen, chỉ cần buôn gian bán lận một lần, sau này sẽ không còn ai tới mua lần nữa.

Lúc tôi còn đang phân vân xem có nên tìm quản lý chợ phản ánh về chất lượng thịt của quầy này hay không thì tự nhiên thoáng nhìn thấy từ khe cửa của căn nhà đó tự nhiên… vươn ra một bàn tay đầy máu, năm ngón tay vặn vẹo dữ dội như muốn kêu cứu, thế nhưng trong nháy mắt đã rụt trở lại! Tôi run bắn cả người lên, định đi tới xem cho rõ, lại nghe từ trong cái quầy đó thoát ra vài âm thanh như thể cái gì đó đang quất vùn vụt trong không khí. Nhưng cũng chỉ trong khoảnh khắc, tất cả lại im lặng trở lại, dường như tất cả những gì vừa xảy ra chỉ là tưởng tượng. Tôi cảm thấy thực sự sợ hãi, nghĩ cái cửa hàng này quả thực không được bình thường, trong lòng không khỏi lạnh đi, lập tức quay đầu đi thẳng một nước, cố gắng không nghĩ tới bàn tay máu kinh khủng lúc nãy nữa.

Trên đường trở về bãi để xe đạp, bao tử tôi cứ nhộn nhạo, trong đầu không khỏi liên tưởng tới những hình ảnh kinh khủng, ví dụ như chuyện bánh bao nhân thịt người chẳng hạn. Nói thật, tôi đã bắt đầu nghi ngờ cái quầy đó liệu có phải là bán thịt người hay không! Thế nhưng lúc này đã là thời hiện đại, đã sớm thoát khỏi thời kỳ mông muội đói kém phải ăn thịt người rồi, làm sao còn có thể những quán trọ lừa khách rồi giết để ăn thịt như trong Thủy Hử, phải không?

Tôi cười cười tự trào trí tưởng tượng quá mức phong phú của mình, có lẽ dạo này gặp hơi nhiều chuyện quái dị nên đầu óc có phần thoát ly hiện thực. Lúc này mặt trời đã lặn tới đường chân trời phía tây, sắc trời cũng sẫm dần, Bạch Dực có lẽ cũng đã về tới nhà, nghĩ thế, tôi cũng rảo bước nhanh hơn về phía nhà để xe đạp. Con chó mực lần trước đang lười biếng nằm dài ra trước nhà để xe sưởi nắng, thấy tôi tới gần, nó lập tức dựng đứng người dậy như vừa nhìn thấy quái vật mà chạy cuống quít bỏ trốn. Tôi nhớ tới chuyện chén máu lần trước, thật không ngờ nó lại thù dai tới vậy… Vừa bật cười, tôi vừa lục trong túi quần ra cái chìa khóa xe, nhưng trong nháy mắt khi tôi vừa mở khóa xe đạp, chợt cảm giác… sau gáy đau thốn lên, dường như có một vật gì đó vừa đập thẳng vào sau cổ… sau đó, trước mặt lập tức tối sầm lại…

.

Lần thứ hai mở mắt ra, tôi phát hiện mình đã nằm trong một nơi cực kỳ xa lạ mà quỷ dị, xung quanh được thắp sáng bởi rất nhiều nến, nhưng vẫn tối tăm lù mù trông không rõ mọi thứ xung quanh. Chỉ thấy lờ mờ trên tường dán rất nhiều tranh thần phật cổ quái, có thể nói phàm là những vị thần nào được thờ cúng trong đền miếu đều có mặt ở đây hết, nhưng không hiểu sao những vị thần trong tấm hình ở đây lại cực kỳ âm tà, không hề hiền lành thánh thiện như trong các nơi thờ phượng khác, mà… nhuốm đầy tà khí, cứ như ác quỷ dưới địa ngục đội lốt vậy. Phía trước có một bàn thờ, nhưng bên trên thờ cái gì không trông rõ lắm.

Tôi vừa kinh hoàng vừa bối rối, vội vã tìm cách đứng lên, nhưng vừa nhổm lên thì đã lập tức ngã sấp xuống, đến lúc này mới nhận ra mình đã bị trói chặt cả tay chân. Tôi ra sức giãy, nhưng những nút buộc ở đây dường như là loại gút thắt thường dùng của giới thủy thủ, càng giãy lại càng thít chặt hơn. Vì thế tôi cũng không phí sức vô ích nữa, muốn tìm cách lôi cái điện thoại trong túi quần ra, nhưng lại nhận ra cả điện thoại lẫn ví tiền đều đã biến mất! Đến lúc này tôi mới lạnh người ý thức được, mình đã bị bắt cóc thật rồi! Nhưng vấn đề là tôi chỉ là một thằng nghèo kiết xác, ba tôi cũng chỉ là một ông chủ tiệm sách nho nhỏ, nhìn sao cũng không giống đối tượng lý tưởng để bắt cóc tống tiền kia mà! Đang khi còn cố sống cố chết giãy dụa, hi vọng có thể nới lỏng dây trói ra phần nào thì đột nhiên đụng phải cái gì đó ở phía sau, quay đầu nhìn lại thì… má ơi, đó là một gương mặt tái nhợt, mắt toàn tròng trắng, vẻ mặt nhăn nhúm sợ hãi đang trừng trừng nhìn tôi! Tôi sợ tới mức ngã vật sang một bên, phản xạ dùng chân đạp mạnh một cái, đột nhiên gương mặt… rớt xuống… lăn thẳng tới bên người, lắc lư mấy cái mới dừng lại hẳn, bên trong bò ra một con gián cực to… nương ánh nến tù mù, tôi mới nhận ra, hóa ra… đó là một cái đầu người chết!!! Trên đỉnh đầu có một lỗ thủng to, não tủy đã bị lấy ra hết, tuy tôi có cảm giác là đã có xử lý qua cho khỏi thối rữa, nhưng lúc này cũng đã có dấu hiệu phân hủy, thảo nào sâu bọ lúc nhúc bên trong.

Tôi xém chút nữa ói ngay tại chỗ, sợ tới nỗi hét to một tiếng, rụt người vào một góc thật xa mà gục đầu nôn. Đột nhiên nghe có tiếng mở cửa, tôi mở to mắt, mím môi, chú ý lắng nghe, thấy có hai tiếng chân, rõ ràng không chỉ có một thủ phạm. Bọn chúng đang nói chuyện với nhau, một giọng nghe có vẻ trẻ hơn, một giọng còn lại rõ ràng là giọng ông chủ quầy thịt.

Lão chủ quầy khào khào nói: “A Hác, chuyện này nên kết thúc đi thôi, ta sợ lắm rồi, nếu còn làm thế này nữa chúng ta chỉ có nước xuống địa ngục hết!”

Giọng trẻ hơn bật cười ghê rợn: “Ông sợ cái quái gì, giết người cũng giống như giết heo, đều là sát sinh, đều phải xuống địa ngục hết! Chỉ có dựa vào cách làm của tôi thì chúng ta mới có thể sống sót mà thôi! Mà còn sống thì sợ quái gì địa ngục, hả!”

Tôi cắn chặt răng không lên tiếng, chỉ chăm chú nghe bọn chúng trò chuyện, vừa nghe vừa tưởng tượng tới những tổ chức tà giáo vốn có rất nhiều ở nước ngoài, chẳng lẽ ở Trung Quốc cũng có? Tôi nín thở, nằm vật ra trên đất làm bộ như còn bất tỉnh, chỉ dựa vào tiếng động mà phán đoán hành động của hai kẻ kia. Bất chợt cảm giác có ai đó ngồi xổm xuống bên cạnh nắm cằm tôi kéo giật lên, lực mạnh tới mức muốn bóp nát cả cằm tôi. Gã âm hiểm nói: “Nhãi con đừng giả bộ nữa, đã có nhiều kẻ bắt chước như mày rồi, tao còn lạ gì?”

Tôi thấy đã bị vạch trần, liền thẳng thắn mở to mắt, nhìn thấy trước mặt mình là một gã đàn ông có vẻ ngoài cực kỳ u ám, tuy tuổi tác có vẻ không chênh lệch với tôi bao nhiêu, nhưng gương mặt tái nhợt, môi mỏng quẹt, thấy tôi mở mắt, gã âm tà nở nụ cười: “Ôi chà, lần này ông tìm khá đấy, cậu nhóc này đẹp hơn đám người lúc trước!” Nói xong còn vuốt vuốt mặt tôi sỗ sàng, tôi vừa nhìn tới ánh mắt gã là bao nhiêu lông tơ trên người đều dựng đứng hết lên. Nhưng cũng không muốn dễ dàng chịu thua, nên vội hét lên: “Các người bắt ta làm gì? Các người rốt cuộc là ai?!”

Ánh mắt lão chủ quầy nhìn tôi có vẻ bối rối lảng tránh, nhưng tên thanh niên kia vẫn nhìn thẳng vào tôi đầy hứng thú, rồi quay lại cười ha hả với lão chủ quầy: “Hê hê, không ngờ tên nhãi này lại có lá gan to như vậy, thấy mấy thứ ở đây rồi còn có sức hét to thế!”

Tôi nhìn chằm chằm vào bọn chúng, lão chủ quầy thịt chỉ cười cười lấy lệ rồi tránh mắt nhìn sang bên kia, rõ ràng là không dám nhìn thẳng vào tôi, làm như nhìn kỹ quá thì tôi sẽ biến thành lệ quỷ đòi mạng lão vậy.

Tên thanh niên gọi A Hác kia thở dài một cái, sau đó như phát dại mà vuốt vuốt tóc tôi: “Tiểu mỹ nhân đáng yêu, mày phải cảm thấy may mắn mới phải, được lựa chọn là phúc của mày, cũng giống như những kẻ trước mày vậy.” Nói xong gã chỉ vào những góc phòng còn lại, tôi vừa nhìn thì hơi thở cũng tắc lại trong khí quản, tổ tiên ơi, chỗ nọ chất ba bốn cái đầu người, trong đó có hai cái đã thối rữa hoàn toàn chỉ còn lộ xương trắng, còn da thịt gì đều rữa thành nước lênh láng dưới sàn hết! Tôi lập tức hiểu ngay thứ người đang đứng trước mặt mình đây, ro ràng là một kẻ biến thái cuồng sát mà!

Gã có vẻ rất thỏa mãn chứng kiến vẻ mặt kinh hoàng của tôi, vỗ vỗ má tôi mà cười: “Chờ tao thành tiên rồi, bọn họ cũng sẽ cùng đắc đạo với tao, đứng trong hàng ngũ của thần tiên bất tử, mày nói xem, có phải chúng mày cực kỳ may mắn hay không nào, ha ha!”

Gã mỉm cười nhìn đống đầu người, sau đó quay lại nhìn tôi, ánh mắt như nhìn con mèo nhỏ nhà mình nuôi làm tôi sởn gai ốc. Sau đó gã đứng dậy đi châm thêm vài ngọn nến nữa, làm cả gian phòng sáng sủa thêm không ít. Lúc này tôi mới nhìn thấy cả gian phòng, kỳ thực đây có vẻ là một căn hầm ngầm, trong phòng chất một đống thứ kỳ quái linh tinh, nhưng quái lạ nhất là ở ngay giữa hầm có một cái ang rất lớn, loại ang to dùng để đựng nước mà tôi thường thấy ở nông thôn trước đây. Trên nắp ang chặn một cục đá rất to, có thể mơ hồ nghe thấy những tiếng lục sục trong ang nước, rất giống như những âm thanh tôi đã nghe thấy lúc trước.

Tôi chú ý tới lão chủ quầy thịt từ đầu đến cuối đều có vẻ sợ sệt day dứt, vẻ mặt đầy bất đắc dĩ, so sánh với nhau thì rõ ràng tên thanh niên tên A Hác kia đáng sợ hơn rất nhiều. Tôi cho rằng có thể lợi dụng điểm này để làm lão lung lay, liền mở miệng nói: “Các người làm thế này là trái pháp luật, là giết người đó! Các người sẽ bị tử hình cho coi! Chi bằng thả ta ra, còn mong được pháp luật khoan hồng! Nói không chừng thoát khỏi án tử hình!”

Nói xong tôi nhìn chằm chằm vào lão bán thịt, dù trong lòng thực sự không chắc chắn lắm, vì tên A Hác kia rõ ràng là một tay bệnh tâm thần phân liệt mức độ nghiêm trọng, có khi tôi chết cũng không khiến gã bị thương tới mạng. A Hác cảm thấy lão bán thịt có hơi dao động, lập tức xốc tới đá cho tôi một cú thích đáng vào giữa bụng, đau tới mức làm tôi phải cong gập người lại, thậm chí không có đủ sức để mà rên rỉ, chỉ biết há hốc miệng thở dốc, trên trán toát đầy mồ hôi lạnh.

Gã lại kéo giật tóc tôi lên, gí sát mặt gã vào mặt tôi, ánh mắt của gã không còn giả vờ vui vẻ như lúc nãy nữa mà long sòng sọc đầy điên cuồng, tơ máu đỏ ngầu, gã rít lên: “Mày thì biết cái gì? Mày thì biết cái quái gì, hả?! Tao muốn đắc đạo thành tiên, tương lai có thể trường sinh bất tử, còn chúng mày có thể trở thành một phần của tao, sau này cùng tao sống đến vạn kiếp, có gì là không tốt nào?! Đừng làm tao phát điên, tao sẽ không ngần ngại làm thịt mày ngay bây giờ đâu đấy!”

Tôi cắn chặt môi, cố hết sức mà gào lên: “Mày đúng là điên rồi, đắc đạo thành tiên?! Mày xem Phong Thần Bảng đến ngu người ra rồi hả?! Nếu như mày mà còn có thể thành tiên thì thế giới này biến thành địa ngục rồi!!!”

A Hác ngưng bặt lại tàn bạo nhìn tôi, lúc này tôi mới cảm thấy hối hận vì đã nói ra, lỡ như thực sự chọc giận gã, gã đem tôi ra giết thật thì làm thế nào? Ngay khi tôi bất an nhìn gã thì chợt gã bật cười, thỏa mãn gật gật đầu mà rằng: “Nhãi con can đảm đấy, ha ha, mày cứ yên tâm, tao chưa giết mày ngay đâu, còn phải chờ tới ngày rằm là ngày mai, cho nên đêm nay mày còn chưa chết được. Mày ngoan ngoãn ở lại đây cho tao đi, tao sẽ không làm gì mày, bằng không… mày dễ thương như vậy… đem ra ‘làm’ chắc cũng không thua gì đàn bà đâu, hả?”

Nói xong lại tà ác nhìn tôi từ trên xuống dưới, ánh mắt cuối cùng dừng lại trên đùi tôi. Tôi hiểu ra gã đang ám chỉ cái gì, cả người lập tức nổi hết da gà! Mẹ nó, gớm chết đi được, đồ biến thái! Nhưng tôi cũng không dám chọc gã thêm nữa, sợ nếu gã điên lên thì tôi phải lãnh đủ, nên cắn răng cúi đầu không nói gì nữa, chỉ có điều, trong đầu vẫn không ngừng suy tính cách đào thoát, dù sao gã cũng đã nói đêm nay tôi chưa chết, dường như còn cần một thứ nghi thức nào đó, mà chỉ cần chưa chết thì vẫn còn cơ hội chạy thoát, đúng không?

A Hác thấy tôi không giãy dụa nữa, bèn buông tóc tôi ra, quay lại nói với lão chủ quầy thịt: “Ông trông chừng nó thật chặt cho tôi, nếu thằng nhóc này mà chạy thoát ra ngoài báo cảnh sát thì chúng ta chết chắc đó. Đồ ăn thức uống gì đó cứ chuẩn bị đầy đủ cho nó, tử tù còn được hưởng bữa ăn cuối cùng, chúng ta cũng phải nhân đạo chút chứ, phải không nào? Ha ha.”

Nói xong đứng dậy bước tới trước bàn thờ, rút mấy nén nhang mà nghiêm túc châm lửa, cúi thấp đầu lễ bái, dáng vẻ trang nghiêm thành kính như bọn xã hội đen ra mắt đại ca. Cảnh đó làm tôi không khỏi chửi thầm trong đầu: Đồ biến thái đầu óc đen như mực tàu, còn muốn thành tiên? Có mà xuống mười tám tầng địa ngục làm quỷ còn chưa hết tội kìa!

Gã thắp hương xong, phủi phủi quần áo rồi ra ngoài, lão chủ quầy phục phịch kia cũng không còn muốn ở thêm phút nào nữa, lập tức cũng theo ra ngoài. Tôi phát hiện lão thực sự rất sợ cái thứ ở trong ang nước, bởi vì hơn cả khi nhìn những cái đầu người, ánh mắt lão khi nhìn vào cái ang còn sợ sệt hơn, như thể bên trong là yêu ma quái thú gì không bằng.

Hai kẻ kia ra khỏi cửa xong, tôi còn nghe tiếng xích sắt khua loảng xoảng, sau đó là tiếng khóa bập đánh cách. Tôi cố hết sức đè ép trái tim đang đập điên cuồng trong lồng ngực, nỗi sợ hãi cùng hoảng loạn đã làm đầu óc tôi quay cuồng như sắp điên, nhưng chí ít lúc này tôi vẫn còn sống, không thể buông tha khát vọng sống sót được! Tôi cố tự cho mình một cái tát, cố trấn an bản thân tuyệt đối không được phát cuồng, phát cuồng rồi sẽ không thể nắm chắc cơ hội chạy thoát được, bây giờ phải giữ được bình tĩnh, ổn định tâm tình, kiên trì tìm cách, mới có cơ may thoát chết.

Nhưng nghĩ là nghĩ vậy thôi, thực ra tôi đang sợ tới mức cả người đều run bắn lên. Đặc biệt là lúc này, chỉ có một mình đối diện với một đám đầu lâu, cộng với một thứ còn chưa biết là cái gì trong ang nước. Tôi cắn chặt răng, cố tình đập đầu vào tường một cái để đầu óc tỉnh táo lại chút đỉnh, tự nhiên trong óc nảy ra một mong ước điên rồ, ước gì có Bạch Dực ở đây, anh sẽ cứu tôi, nếu là anh thì nhất định sẽ nghĩ ra cách gì đó… nhưng tới đây lại lập tức tự cắt đứt suy nghĩ của mình, tôi đập đầu vào tường thêm mấy cái, trong miệng lầm bầm tự mắng: “Chết tiệt! An Tung, mày điên rồi hay sao, lúc này còn mong chờ có người tới cứu! Cho dù Bạch Dực có biết mày mất tích đi nữa thì mày bảo anh ta phải tìm mày bằng cách nào?! Làm sao anh ta biết mày bị nhốt trong cái hầm ngầm không có bóng mặt trời rọi tới này?!” Lúc này quả thực tôi cảm thấy khinh ghét sự yếu đuối của bản thân mình đến tột cùng.

Từ từ lắc lắc đầu qua lại cho tỉnh táo, tôi dán sát người vào vách tường, dường như có thể nghe thấy loáng thoáng tiếng động bên ngoài, hơn nữa cố hết sức chú ý còn có thể ngửi thấy một mùi đặc trưng của khu chợ. Tôi cảm thấy ở đây thực ra rất gần với cái chợ lúc nãy, hơn nữa, trực giác cho tôi biết là rất có thể tôi đang ở dưới một tầng ngầm chứa hàng nào đó của khu chợ. Dù sao tôi cũng vẫn là một người sống, không thể ngất xỉu quá lâu, điều kiện cũng không cho phép bọn chúng đem tôi đi xa lắm. Vì thế tôi bèn trấn tĩnh lại kiểm tra thử xung quanh, không chừa ngõ ngách nào, đột nhiên phát hiện ở trong đống giẻ rách chất trong một góc chợt lộ ra tia sáng. Tôi bèn dùng cả cơ thể mình trườn dưới sàn, từ từ nhích người về phía cái góc nọ. Chỉ có một khoảng cách ngắn ngủi, vậy mà tôi mệt tới mức thở dốc. Cố hết sức giơ bàn tay đang bị trói lên, gạt đống giẻ ra, tôi phát hiện đó là một cánh cửa sổ ngầm dưới đất, qua lớp kính thủy tinh có thể nhìn thấy mặt đất, trên mặt đất còn có vài tấm da heo vứt lộn xộn. Tôi biết mình đoán không nhầm, liền hứng khởi cố hết sức đẩy cửa sổ ra, nhưng cửa sổ đã bị bịt chặt, hơn nữa rất nhỏ, tôi hoàn toàn không có cơ hội bò qua đó mà thoát ra ngoài được. Tôi tuyệt vọng dùng chân đá mạnh vào cửa sổ, thủy tinh nhanh chóng bị đập nát, nhưng bên ngoài nó còn một lớp song sắt, không có khả năng thoát thân qua nó. Chờ đá vỡ hết cánh cửa sổ, tôi mệt tới nỗi quỳ rạp trên mặt đất thở dốc từng hồi. Lúc này từ đáy lòng mới từ từ mọc lên một cảm giác chờ chết tuyệt vọng, tôi ngây dại nhìn cái ang nước chằm chằm, không biết thứ nghi thức quỷ quái kia là thế nào, dù sao nhất định là bọn chúng sẽ không để tôi sống mà quay về rồi, bọn chúng cũng đã giết một số người, nhưng vì sao chỉ còn có đầu lâu? Còn thi thể đâu? Mà bọn chúng còn giữ lại đầu lâu để làm gì kia chứ?

Nói đến đầu lâu, tôi quay đầu lại nhìn vào những cái đầu đang dần dần thối rữa kia, chúng bị vứt lung tung trong một góc, trong số đó chỉ có một cái được xử lý sơ để chống phân hủy, còn lại đều bị thối rữa nghiêm trọng, có thể nhìn thấy một đống giòi bọ lúc nhúc bò bên trong. Không biết vì sao khi nhìn vào những cái đầu ấy, tôi lại đột nhiên rớt nước mắt, tôi sụt sịt mũi, dùng cánh tay chật vật lau nước mắt, trong lòng cũng âm thầm quyết định tình huống xấu nhất, đó là cho dù có phải chết, tôi cũng không thể để hai tên điên loạn này tiếp tục hại người được nữa. Nhất định phải tìm cách tuồn được cái gì đó ra ngoài, dù cuối cùng chỉ có thể còn lại cái đầu của tôi thôi thì cũng phải bắt hai kẻ biến thái này ra trước công lý.

Nghĩ tới đây tôi lại nhớ tới cái cửa sổ gắn song sắt kia, tuy không thể thoát ra ngoài, nhưng lại hoàn toàn có thể tuồn được cái gì đó ra, mà có thể đây cũng là cơ hội duy nhất. Trên người, thứ duy nhất có thể chứng thực thân phận của tôi chỉ có một vật trang sức tôi thường đeo trên cổ, là một tấm bùa hộ mệnh bằng vàng ròng của Mật tông, nó đặc biệt tới nỗi ở khắp thành phố này cũng khó mà cầu được một cái thứ hai giống hệt, cho nên tôi coi nó như bảo bối, lúc nào cũng đeo bên mình. Những lúc tắm Bạch Dực cũng đã từng trông thấy, chắc chắn anh ta sẽ nhận ra nó. Tôi khó khăn tháo tấm bùa ra khỏi cổ, cắn răng dứt đứt dây, đang định tìm cái gì đó để viết lại vài chữ thì cảm giác có người quay lại, vì thế tôi hoảng loạn vơ vội mớ giẻ rách lúc nãy lấp cánh cửa sổ lại, vùi cả tấm bùa vào mớ giẻ, sau đó lập tức lăn sang phía khác.

Lại là lão già ục ịch kia đi vào, lão nhìn tôi một cái, sau đó cảnh giác nhìn xung quanh một vòng, thấy không có gì bất thường mới từ từ tiến về phía tôi. Lão mang theo cơm nước, lại còn một ít nước và khăn để rửa mặt, chưa kể cả bô đi vệ sinh cũng mang theo, thật đúng là coi như nhân đạo một chút. Lão ném cái cặp lồng đựng cơm cho tôi, ý bảo tôi ăn mau, tôi cũng không khách khí, tốt xấu vẫn phải bảo đảm thể lực mới chạy được chứ. Lão mập không cho tôi đũa, chỉ có một cái muỗng nhựa. Hai tay tôi bị trói chặt, ăn uống rất khó khăn, yếu ớt xúc từng muỗng từng muỗng một. Cảm giác này làm tôi cực kỳ khó chịu, càng cực kỳ phẫn hận, hận tới mức không thể lập tức xông tới cắn chết tên thủ phạm kia.

Lão nhìn tôi ăn gần xong, liền cho tôi một chai nước, tôi hung hăng giật lấy chai mà uống ừng ực, trông lão có vẻ cực kỳ áy náy, thở dài một cái rồi mới nói: “Cậu đừng trách tụi tui, muốn trách thì tự trách mình số không may, ai bảo lúc cậu tới mua thịt lại bị thằng con tui vô tình nhìn trúng, bằng không tui cũng đâu có muốn hại cậu!”

Tôi thiếu chút nữa phun hết nước trong miệng ra, ngạc nhiên nhìn lão già mập mạp xấu xí này, tuy tên khốn kia thực sự rất âm độc, nhưng dù sao lớn lên cũng coi như dạ thú mà vẫn có mặt người, ai ngờ lại là con trai của lão già này.

Lão cũng không ngại vẻ kinh ngạc của tôi, chỉ khổ sở phân bua: “Con tui là nghiên cứu sinh lận, là niềm tự hào của tui đó. Từ lúc bà nhà tui qua đời, nó là niềm mong đợi cuối cùng của tui. Vì nó, cho dù có phải giết người nào tui cũng không ngại, ai bảo nó là con tui làm chi!”

Nói xong lão lau lau mặt, sụt sịt mũi tiến tới thu cặp lồng cơm. Tôi lạnh lùng nhìn lão nói: “Con ông làm như vậy, kết quả chỉ có thể là chết không có chỗ chôn, nếu ông thực sự vì hắn thì đáng lẽ ra nên bảo ban hắn ngưng lại mới đúng. Chẳng lẽ ông tin rằng thứ tà thuật ma quỷ này có thể giúp người thành tiên thật sao?!”

Lão đầu tiên là ngẩn ra, dường như đây cũng là vấn đề mà lão không trả lời được, sau cùng chỉ cười một cách tuyệt vọng: “Giết một người cũng chết, giết một đống người cũng chết, nếu thực sự đúng như con tui nói, thứ trong ang kia có thể giúp thành tiên… vậy cũng coi như là một cơ hội. Còn nếu bị bắt, hai chúng tui chỉ có nước bị tử hình!”

Nói xong cũng không ở lại nhiều lời với tôi nữa, chỉ để lại hai bình nước với đồ dùng rửa mặt là lật đật chạy ngay. Lúc đi ra cửa, tôi để ý thấy lão cố hết sức tránh thật xa cái ang. Tôi có một cảm giác rất khó diễn tả, rõ ràng lão già này cũng không muốn làm ra những chuyện như vậy, bất quá lão lại rất bao che cho thằng con, coi lời đứa con trời đánh đó là thánh chỉ, cho nên chắc chắn sẽ không vì hối hận mà thả tôi ra đâu, mấy người đã chết trước kia chắc hẳn cùng từng cầu xin lão, kết quả chẳng phải đều mất mạng đó sao!

Chờ lão vừa đi khỏi, tôi lập tức bò lại bên cửa sổ, lão mập còn để lại cho tôi một tờ khăn giấy để lau miệng, cho nên tôi quyết định dùng nó làm giấy. Nhưng lại không có bút, chẳng lẽ bắt chước người xưa viết huyết thư? Tôi nhìn ngón tay mình một lúc, sau đó cắn răng há miệng cắn một cái thật lực vào đầu ngón tay, đau tới nỗi rớt nước mắt mà ngón tay chỉ bị xước một đường, không được bao nhiêu máu. Tôi thổi thổi ngón tay sưng vù, buông tha cách làm không thực tế này. Người cổ đại xem ra phải cắn đứt cả ngón tay mới đủ máu viết cả một bức huyết thư dài dằng dặc như thế ấy chứ. Mà đến mức đó thì tôi quả thực không đủ dũng khí, huống chi nếu vết thương quá lộ liễu sẽ bị hai tên kia phát hiện mất.

Đột nhiên tôi lại nhớ tới mấy que diêm mà tên biến thái A Hác kia dùng để đốt nhang lúc nãy. Có thể dùng đầu diêm đã đốt thành than thay mực để viết mà, chẳng phải đó chính là cây bút chì sơ khai sao! Tôi ngẩng đầu hướng về phía bàn thờ xa xa kia, muốn bò tới đó chắc chắn không tốn ít công sức, mà lại còn phải cẩn thận không để đụng vào thứ này thứ kia nữa chứ, nếu không ai mà biết được trong phòng này có thứ quỷ quái gì đang được nuôi hay không! Tôi cẩn thận nhích từng chút từng chút một, chỉ thoáng chốc trên người đã dính đầy bụi, bò một lúc lại nghỉ một lát, cứ như vậy rốt cuộc bò tới được bên bàn thờ, tôi ngồi phịch xuống đất thở hổn hển, xương đầu vai trầy xước do cọ sát với nền nhà thô nhám mà vừa đau vừa xót, hai tay bị trói khiến ngay cả đưa bàn tay lên xoa xoa vai tôi cũng không làm được. Tôi thở dài não nuột, ngẩng đầu cẩn thận khống chế thăng bằng mà đứng dậy, dựa cả sức nặng của mình vào cái bàn thờ. Vốn dĩ tôi hi vọng có thể phát hiện cả hộp diêm kia, nhưng quả nhiên là đã quá xem thường chúng rồi, ngoại trừ vài cây diêm đã đốt cháy đen đầu ra, còn thì chúng không hề để lại cây diêm mới nào. Tôi vớ lấy vài xác diêm nắm chắc trong tay. Lúc này mới có thời gian nhìn lại, thì thấy bàn thờ này thờ một thứ gì đó được trùm dưới một tấm vải đỏ thẫm, nhìn thấy thứ quái đản nọ, lòng hiếu kỳ nhất thời trỗi dậy, tôi định xốc tấm vải lên để nhìn cho rõ phía sau là cái gì, nhưng ngay lúc đó thì thứ đó bắt đầu rung lắc dữ dội dưới tấm vải, như thể vật sống nhận ra có người tới gần vậy! Tôi sợ hãi ngã vật ra sau, cả người đập thẳng xuống đất, đau tới mức nhăn nhó mặt mày.

Thứ này quá quỷ dị, nhất định là một thứ tà vật nào đó, cho nên tôi lập tức vội vàng tránh xa nó càng xa càng tốt. Tôi từ từ bò lại về phía cửa sổ, móc khăn giấy ra, gại gại đầu diêm lên khăn thử vài cái, không thấy chút vết đen nào, bèn dùng đầu lưỡi liếm liếm đầu diêm. Sau đó  nhân lúc nó còn ướt, vội vàng viết loáy ngoáy vài từ để cầu cứu. Trong lúc viết còn phải cố hết sức nương nhẹ, chỉ sợ miếng khăn giấy mỏng manh rách mất. Cuối cùng, mấy chữ xiên xiên xẹo xẹo thành hình rồi, tôi vội xếp cái khăn lại cẩn thận , dùng dây đeo cổ cột tấm bùa vào khăn, sao cho chỉ cần mở dây ra là có thể thấy được những chữ tôi viết. Tấm bùa này bằng vàng ròng, nên hi vọng có thể khiến cho người qua đường chú ý tới. Mọi thứ chuẩn bị xong, tôi bèn chờ, chờ cho tới sáng mai khi người qua lại chợ đông đúc một chút, sẽ thảy nó ra ngoài. Còn lúc này, nó được tôi giấu sau song sắt cửa sổ, dùng giẻ rách đắp lên che kín.

Chờ làm xong tất cả việc chuẩn bị này thì cả người tôi đều bủn rủn, mệt đến đứt cả hơi. Ngồi yên hồi lâu, lúc này tôi mới nhận ra là trong căn hầm này có cả hệ thống sưởi. Lại nhìn chung quanh một chút, mắt vô tình chạm phải đống đầu lâu xếp trong góc phòng, những gương mặt nhăn nhó hãi hùng thể hiện toàn bộ sự kinh hoàng cùng phẫn nộ của chủ nhân chúng trước lúc chết, tôi không còn cảm thấy sợ hãi như lúc nãy nữa, mà ngược lại, cảm thấy một cái gì gần như là đồng cảm. Nếu trốn không thoát, tôi cũng sẽ trở thành một trong số chúng ngay ngày mai thôi. Tôi liếm liếm đôi môi khô nẻ, để mặc cho bóng tối dần dần phủ kín ý thức.

[1] Con người thì có hai thứ quan trọng căn bản là “ăn” và… ờ… “sắc”

______________________________________________________

Chương 34 : Ăn thịt (Tam)

Mơ hồ cảm giác trong phòng có động tĩnh, nhưng cả người cứ như rã ra thành nước hết, cả mắt cũng mở không lên. Xung quanh cực kỳ ấm áp, ấm áp theo một kiểu giả tạo như thể được ai đó cố tình chỉnh nhiệt độ thật cao vậy, đâu đó trong góc phòng vang lên những tiếng loạt soạt khe khẽ, lắng nghe thật kỹ còn có thể nghe tiếng những con côn trùng ăn xác chết đang nghiến hàm rào rạo. Nằm giữa một đống đầu lâu đương nhiên đừng mong được ngủ ngon, nhưng ý thức cứ chập chờn thế nào, không sao tập trung nổi. Tôi cố tập trung tinh thần cho tỉnh táo hơn, lúc này mới cảm thấy trong phòng còn có một sự tồn tại khác. Ngọn nến lay lắt sắp tàn, hắt lên gian phòng một thứ ánh sáng ảm đạm đang dần dần bị bóng tối nuốt mất. Tôi nín thở nhìn chằm chằm khắp phòng, đột nhiên phát hiện ở góc đông nam cũng có một đôi mắt đang mở to trừng trừng nhìn lại tôi. Tôi lập tức rụt người, bản năng gào thét bỏ chạy, nhưng cơ thể lại đang bị trói chặt, ngay cả nhúc nhích còn khó. Tôi không trông rõ thứ nọ là gì, nhưng ánh mắt màu xanh lục đang phát sáng một cách quái đản kia nhất quyết không thể là người sống được! Trong tay không có lấy một tấc sắt, chỉ biết run rẩy lên tiếng hỏi: “Ngươi là ai? Là người… hay quỷ?”

Hỏi xong mới thấy bản thân thật quá mức khinh suất, lỡ như nó quả thực là thứ quỷ quái nào đó, mà nghe tôi gọi thẳng tên mình như vậy chẳng phải sẽ nổi điên lên sao? Nhưng ánh mắt nọ vẫn chằm chằm nhìn tôi không chớp lấy một lần, khiến tôi trong khoảnh khắc chợt nghĩ nó thật giống như hai cái bóng đèn. Lúc tôi còn đang mải nhìn nó, chợt bên cạnh người thình lình vang lên tiếng sột soạt rất khẽ, tôi vô thức cúi đầu nhìn xuống, lại lập tức hét lên lui về phía sau, run lẩy bẩy nhìn một cái… bàn tay tái nhợt đang viết lên mặt đất những chữ bằng máu đỏ thẫm. Tôi ngạc nhiên trong tích tắc, không hiểu đào đâu ra nhiều máu cho nó viết đến thế chứ, nhưng nhìn kỹ lại thì máu dường như đang chảy từ trong chính bàn tay ra. Tôi cảnh giác trừng trừng nhìn bàn tay đầy máu đang ngo ngoe trên đất, nó chỉ có một bàn tay, hay phải nói đúng hơn, tôi chỉ có thể nhìn thấy một bàn tay.

Nó viết: “Tôi là bạn học của Liên Vĩnh Hác, cũng là kẻ đầu tiên bị nó giết hại, tôi và cậu cũng như nhau, cũng bị bắt cóc. Nhưng điều khác biệt duy nhất là tôi thì đã chết, còn cậu thì chưa…”

Tôi nuốt nước miếng đánh ực, thầm nghĩ tên Liên Vĩnh Hác kia quả thực mất hết nhân tâm, phát rồ tới mức ngay cả bạn học cũng không tha. Lại đột nhiên liên tưởng tới Nghiêm Thừa, quả nhiên trên đời này lòng người là khó dò nhất.

Những chữ viết bằng máu phát sáng trong bóng đêm, trông cực kỳ phi thực, nó tiếp tục viết: “Chúng tôi đều là nghiên cứu sinh chuyên nghiên cứu về thực vật học và sự biến đổi gien của thực vật thời cổ đại. Lúc đó Liên Vĩnh Hác là một người rất cầu tiến, rất chăm chỉ, các thầy cô trong phòng nghiên cứu đều ưu ái nó. Nhưng trong lòng nó vẫn âm thầm tự ti về xuất thân của mình… cha nó lúc trước ở dưới quê nuôi heo, sau vì Vĩnh Hác mới theo nó lên thành phố. Nó vẫn luôn bị ám ảnh rằng người thành phố khinh thường những trí thức xuất thân nông thôn như mình, chỉ có điều, nó thực sự rất thương mẹ nó. Sau này nhà bọn họ xảy ra chuyện, tôi cũng không biết rõ lắm, chỉ biết mẹ nó qua đời vì nhiễm trùng đường tiểu, từ đó nó càng thêm khép kín, lời nói cũng trở nên rất cực đoan.

Tôi cứ tưởng nó từ từ sẽ biết tìm quên trong nghiên cứu, thoát khỏi nỗi đau khổ mất mẹ. Nhưng sau này nó chẳng biết từ đâu lại kiếm ra một thứ, thứ kia cực kỳ tà ác. Nó đến tìm tôi, muốn tôi cùng nó nghiên cứu thứ quỷ đó, nó nói thứ này có thể giúp con người thành tiên, trường sinh bất tử. Nó muốn tôi giúp nó một tay, nhưng tôi thực sự quá sợ thứ đó, tôi khuyên nó giao thứ đó cho phòng nghiên cứu, không nên giữ lại làm một mình. Nhưng nó không nghe. Tôi biết sự nguy hiểm của thứ này nên mới cảnh cáo nó, nói nếu nó không giao thứ đó ra cho quốc gia nghiên cứu tôi sẽ tố giác nó. Tuy lúc đó tôi đã thoáng thấy một tia tàn độc trong mắt nó, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng mình là người bạn thân nhất của nó, là người hiểu nó nhất, cho dù thế nào nó cũng sẽ không hại tôi, bèn không cảnh giác với nó… Thực ra chỉ một mình Liên Vĩnh Hác tuyệt đối không thể nghiên cứu được thứ đó… vì nó là hóa thân của ác ma… đáng lẽ ra đã bị chôn vùi trong lịch sử rồi mới phải… Nhưng không ngờ Liên Vĩnh Hác lại lừa tôi, nó nói thứ này xảy ra biến dị, nó đang gặp nguy hiểm, cho nên tôi đã chạy tới… Nhưng tất cả chỉ là quỷ kế của con quỷ Liên Vĩnh Hác, sau đó… tôi chết… mà thứ tà ác này vẫn còn tồn tại…”

Những dòng chữ bằng máu tới đây thì ngưng lại, tôi hồi hộp chờ đợi bàn tay viết tiếp, nhưng nó không nhúc nhích nữa. Thở mạnh cũng không dám thở, tôi chỉ nhìn chằm chằm vào cái tay, thì thào: “Sau đó? Sau đó thì thế nào? Thứ quỷ kia đang ở đâu?!”

Đột nhiên cái ang nước rung lắc dữ dội, làm như có vật gì đang đập kịch liệt muốn phá hủy khối đá to chặn trên mặt vậy. Tôi há hốc miệng, kinh hoàng nhìn cái ang, chẳng lẽ thứ tà ác nọ trước giờ vẫn nằm ngay trong đó sao?! Tôi cúi đầu định hỏi thêm vài câu với cái tay, nhưng những dòng chữ đã biến mất tự lúc nào, cả cái tay cũng không thấy nữa. Tôi hãi hùng ngẩng lên nhìn chằm chằm khối đá đang bị đẩy ra từng phân từng phân một… đôi chân như bị dán chặt xuống sàn, muốn chạy cũng không sao nhấc nổi chân lên mà chạy… tim đập thình thình đến phát đau cả lồng ngực, ngay cả sức gào to cứu mạng cũng không có, chỉ biết há hốc miệng thở dốc.

… Từ trong ang nước tuôn ra một dòng khói mù đen đặc, giữa đám khói vang lên rất nhiều tiếng kêu la khóc than thảm thiết của nhiều người, làm như thể cái ang chính là đường nối tới địa ngục nơi những ác quỷ đang  rít gào đòi thoát lên dương gian vậy. Tôi yếu ớt giơ tay lên, nhưng bàn tay vừa đụng vào khói đen lập tức rã thành xương cốt trắng xóa, tôi kinh hãi nhìn lại mình, cả nửa người dưới đã hóa thành xương khô tự lúc nào, xung quanh máu chảy đầm đìa. Tôi hoảng kinh muốn hét to lên, nhưng phát hiện cổ họng mình cũng không còn phát ra âm thanh được nữa, vì cả người tôi đã dần dần tan chảy thành xương trắng…

Đột nhiên đâu đó vang lên một tiếng mèo kêu não nùng trong đêm, cả người tôi lập tức nhảy dựng lên. Tôi vội vàng giơ tay lên xem, bàn tay vẫn bình thường. Vội vàng dùng tay vuốt vuốt mặt, tuy trán đầm đìa mồ hôi lạnh, nhưng gương mặt vẫn không mất đi miếng thịt nào, trên mặt đất không có những dòng chữ viết bằng máu, không có khói đen ở đâu cả. Lúc này tôi mới nhận ra là mình vừa gặp ác mộng. Tôi lập cập quệt mồ hôi, nhận ra cả lưng cũng đã ướt đầm, cổ họng như bị tắc cái gì, rất khó thở.

Theo bản năng co người thành một khối tròn, tôi bất chợt cảm thấy sợ từng ngóc ngách trong căn phòng này, sợ bất kỳ góc nào không thể nhìn thấy. Lúc này chỉ còn vài ngọn nến leo lét, tranh tối tranh sáng. Bên ngoài kia dường như lũ mèo hoang đang bắt chuột, tiếng kêu ầm ĩ náo động nên cũng khiến tôi an tâm hơn một chút. Nhưng chẳng bao lâu thì lũ mèo không còn kêu nữa, tất cả lại quay về sự an tĩnh lúc ban đầu, chỉ có tiếng sâu nhai rau ráu cùng với những tiếng quẫy đập trong ang nước. Tôi mở to mắt sợ sệt nhìn cái ang như thể đang nhìn vào hiện thân của ác quỷ, may mà cục đá to vẫn vững vàng chắn bên trên miệng ang, vẫn chưa dịch chuyển mảy may.

Giấc mộng này quá thực, thực tới nỗi làm tôi sợ đến hồn muốn lìa khỏi xác luôn, nếu còn bị dọa thêm vài lần thế này nữa thì tôi chết là cái chắc, dù sao cũng không dám ngủ lại nữa, tôi bèn tập trung đầu óc suy nghĩ về giấc mộng này, và cách nào để chạy trốn ngày mai. Vì bị trói quá lâu nên tay chân tôi lạnh cóng cả, tuy trong hầm có hệ thống sưởi nhưng vì máu không được lưu thông tốt nên hai tay tôi tái nhợt đi như tay xác chết, cái cảm giác bị trói gô như một con vật thế này quả thực không dễ chịu tí nào. Tôi dựa lưng vào tường, nghĩ đến thứ tà vật mà oan hồn trong giấc mơ đã nhắc tới, rõ ràng là nó đang nằm trong ang nước kia, nhưng đương nhiên là tôi sẽ không dại dột tới nỗi bước tới mở ra xem, tôi còn chưa muốn chết đến mức đó!

Cứ như vậy, tôi mở to mắt chập chờn suy nghĩ tới hừng đông, trong đầu hỗn loạn hàng trăm câu hỏi, rồi lại không biết mình đang tự hỏi cái gì. Thậm chí tôi còn ảo tưởng rằng, giá như tất cả những việc xảy ra hôm nay chỉ là một cơn ác mộng thì tốt biết bao, ước gì nghe thấy tiếng chuông báo thức ngay lúc này, nghe giọng Bạch Dực gọi tôi thức dậy… nhưng toàn bộ ước ao đã nhanh chóng bị cắt đứt bởi tiếng chìa khóa lanh canh tra vào ổ. Tôi ngẩng phắt đầu dậy, quả nhiên có người quay lại, nhưng không phải là lão bán thịt mà chính là tên biến thái Liên Vĩnh Hác chết tiệt. Gã nhìn thấy bộ dạng của tôi, tặc tặc lưỡi thương tiếc nói: “Tiểu mỹ nhân, sao chỉ qua một buổi tối mà đã sa sút thế này? Bộ đêm qua không ngủ ngon sao?”

Tôi cúi đầu không thèm nhìn gã, gã vẫn cứ tự lẩm bẩm: “Chậc chậc, mày cần gì phải phản ứng tiêu cực như vậy? Con người ai mà chẳng phải chết, còn mày chỉ cần hi sinh thân thể là có thể thành tiên, mày xem, đó chẳng phải là cơ hội ngàn năm một thuở sao?”

Tôi nghe tiếng cười hề hề điên dại của gã, liền cười khẩy đáp lại: “Cơ hội? Cơ hội mà mày đã đem ra ‘ban’ cho người bạn thân đầu tiên ấy à? Thực sự là quá tốt bụng nha.”

Vừa nghe tôi nói đến những lời này, gã lập tức biến sắc, trợn to mắt nhìn tôi, sau đó quay phắt lại nhìn đám đầu lâu trong góc phòng, trong mắt chợt xẹt qua những cảm xúc phức tạp, như sợ hãi, như kinh ngạc, lại còn có gì đó như là… hổ thẹn?

Gã tóm lấy cổ áo tôi kéo tôi lại gần, cau mày nhìn tôi một lúc, như thể muốn tìm cái gì đó trong mắt tôi, đột nhiên ánh mắt gã tối sầm lại, chỉ nghe gã lầm bầm gì đó trong miệng không rõ, sau đó gã đẩy tôi té sấp xuống đất, gầm gừ: “Không đúng, tất cả các người đều không hiểu, không hiểu, con người thực ra rất yếu ớt… bọn chúng không thể nào thắng nổi cái chết… tao có nói sao nó cũng không hiểu, không hiểu được ta… ta là… ta là…” Nói tới đây gã thét lên một tiếng, sau đó xông thẳng tới bên đống đầu lâu, sống chết đá đạp lung tung, nhưng không phải là vào đống đầu, mà chỉ giậm chân thình thình lên sàn nhà.

Tôi xem chừng gã đã muốn phát điên, nhưng lại không có cách chạy, cho nên chỉ len lén nhích người đến bên cửa sổ, nhẹ nhàng lấy tấm bùa hộ mạng giấu kín ra khỏi đám giẻ, dùng hết sức tàn ném nó thẳng ra ngoài qua chỗ cửa sổ vỡ, trong lòng cầu khẩn trời đất, có thể sống sót qua ngày hôm nay hay không chỉ còn trông vào nó, nếu không có ai chú ý tới nó, đầu của tôi nhất định sẽ rơi vào tay gã điên này.

Gã đột nhiên quay lại nhìn tôi trừng trừng, tôi giật thót mình, tưởng kế hoạch đã bị bại lộ nên chỉ biết mở to mắt nhìn gã từ từ tiến tới gần. Nhưng gã chỉ xốc tới kéo tôi đứng lên lôi xềnh xệch tới chỗ gần cái ang nước mà chỉ vào đó nói: “Mày có biết trong này là cái gì hay không?! Ha ha, một kẻ tầm thường như mày sẽ không thể tưởng tượng ra đâu, trong này là thần vật mà ngay cả Tần Thủy Hoàng cũng không mơ tới nổi đó!”

Tôi nín thở hỏi: “Trong này… là cái gì?”

Gã mỉm cười nhìn tôi, trả lời đầy thỏa mãn: “Trong này là tiên vật, chỉ cần bỏ thân thể của mày vào, là mày sẽ lập tức được trở thành một với nó. Ha ha, vui không nào?!”

Tôi dựng cả tóc gáy nhìn vào cái ang nước to, bên trong nó vẫn vang lên những tiếng quất vùn vụt chói tai, nghe mơ hồ như tiếng khóc của oan hồn. Gã cúi đầu, hưng phấn nhìn tôi: “Ha ha, tao đặc biệt ưu đãi mày, nói cho mày biết trong này là cái gì nhé!”

“Đây chính là Cửu Bộc Phệ Hồn Cức trong truyền thuyết của Điền quốc Vân Nam đấy! Năm xưa Tần Thủy Hoàng xây dựng ‘Ngũ xích đạo’, nói là để thông đường tới vùng Tây Nam, nhưng trên thực tế chỉ là để đi tìm bộ tộc Bộc tộc[1] huyền bí, mà loại thực vật này chính là ‘chủ thần’ của bộ tộc đó! Bọn họ từ xưa đã tôn sùng loại thực vật này, duy trì hình thức cúng bái cho nó, hơn nữa còn truyền nhau rằng kẻ nào có được trong tay quả của loại cây này——Huyết thảo linh chi, ăn vào thì có thể trường sinh bất tử, cho dù là kẻ sắp chết ăn vào, cũng lập tức cải tử hoàn sinh!”

Vì ở cạnh Bạch Dực cũng khá lâu nên tôi cũng tiêm nhiễm được một ít kiến thức lịch sử, nhắc tới Bộc tộc, tôi cũng biết quả thực có một bộ tộc thiểu số có cái tên này, bọn họ nổi tiếng trong lịch sử là nhờ tập tục Huyền quan (treo quan tài lên vách núi). Vào thời nhà Tần có tồn tại một nước chư hầu nhỏ là Bộc hầu quốc, ngày nay nằm ở địa phận Nghi Tân thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Chỉ biết trước đây Bộc tộc cũng từng giúp Chu Võ Vương trong trận chiến Mục Dã nổi tiếng. Thế nhưng, nhóm người Bộc cổ nhất có lẽ đã từng sống ở khu vực mà ngày nay gọi là Điền Trì thuộc Vân Nam. Trong tác phẩm “Lễ ký Vương Chế Thiên” có nhắc tới từ này đầu tiên, coi chữ “Bộc” đồng nghĩa với chữ “Cức”, bằng chứng là có câu “Bình định những nơi xa, nơi phía tây gọi là Cức”. Còn trong phong thủy cũng có câu “Hình như thành lũy, phía sau trải dài, phía trước khuất khúc lại, là đất cửu cức tam hòe”, tất cả đều biểu thị cho quan hệ sâu xa của Bộc tộc với thực vật[2].

Tôi lắc đầu nói: “Nhưng cho dù thật là như thế đi nữa thì tất cả cũng chỉ là truyền thuyết không có căn cứ, chẳng lẽ mày đoan chắc nó có thể giúp mày thành tiên hay sao?!”

Liên Vĩnh Hác liếc nhìn tôi cười lạnh: “Mày thì biết cái gì, Tần Thủy Hoàng đã có cả thiên hạ trong tay, ông ta còn thiếu cái gì nữa nào? Chính là phương pháp giúp ông ta có thể trường sinh bất lão, đắc đạo thành tiên! Cái cây Cửu Bộc Phệ Hồn Cức này chính là cây thần trời ban, trong sử ký thời Tần cũng có ghi chép lại, chỉ có điều muốn nuôi nó cần có một phương pháp hơi đặc thù một chút mà thôi… Hơn nữa tao đã thực sự nuôi được Huyết ngọc của nó, cũng đã thử lên thịt heo, sự thực đã chứng minh là nó có tính kháng oxy hóa rất mạnh, nói một cách đơn giản là nó có thể giữ tế bào của mày khỏi tiếp xúc với không khí, do đó tránh được hiện tượng lão hóa!”

Gã nói xong, tà ác nhìn tôi, sau đó tiến tới móc trong túi ra một cái khăn mặt lau lau mồ hôi trên trán tôi mà nói: “Mày xem mày kìa, thanh tú như vậy, trở nên chật vật thế này trông đáng thương lắm. Yên tâm, mày không cần phải sợ, sau này thành tiên rồi thì còn cần tới cái thân xác thối tha này làm gì?!”

Trong lòng tôi gào thét mắng to: Thối tha cái đầu mày, cứ luôn mồm nói không cần thân xác, trong khi bản thân cũng muốn trường sinh bất tử đó thôi? Cái gì mà thành tiên, tất cả đều là vớ vẩn, có mà thánh mới tin nổi mày!

Tôi không thèm nhìn gã nữa, chỉ trợn trừng mắt sống chết nhìn cái ang nước, bây giờ tôi đã biết bên trong nó là cái gì rồi, là Cửu Bộc Phệ Hồn Cức mà ngay cả Tần Thủy Hoàng cũng không chiếm được. Tôi chưa từng nghe nói đến loại cây này bao giờ, nhưng nếu nó cần tới thịt người để sinh trưởng thì không thể gọi là cây thần được, mà phải gọi là cây quỷ mới đúng.

Thừa lúc Liên Vĩnh Hác nắm cổ áo tôi, tôi nhìn thoáng qua cái đồng hồ trên cổ tay gã, biết lúc này đã hơn 9 giờ sáng. Người qua lại chắc hẳn rất đông đúc. Tôi chỉ không biết lúc nào bọn chúng định ra tay với mình, nên ngẩng đầu hỏi: “Ê, các người định tổ chức nghi thức đó lúc nào?”

Vừa nghe tôi hỏi thế, đầu tiên gã sửng sốt, nhưng sau đó lập tức ha hả cười: “Ha ha, khó có được một người như mày, biết phải trái lắm. Yên tâm, nghi thức cần phải chờ tới khi mặt trời vừa lặn được một khắc mới tiến hành, lúc đó nhật nguyệt cùng tồn tại, dương tàn mà âm thịnh, âm dương tương hòa, mới có thể bắt đầu nghi thức được.”

Tôi mặc kệ mấy lời lảm nhảm vô nghĩa của gã, chỉ quan tâm tới thời gian, ít ra tôi biết là mình còn một ngày để đợi, nếu cuối cùng vẫn không có ai tới cứu thì coi như tôi phải cam chịu chết. Lúc đang thấp thỏm bất an trong lòng thì lão bán thịt cũng vào, lão cúi đầu nói nhỏ gì đó với Liên Vĩnh Hác, gã nọ gật đầu, cũng nhỏ giọng đáp lại vài câu. Sau đó gã tiến tới bên bàn thờ, mở một cái ngăn kéo ngầm ra, lấy ra một cái chén đựng gì đó màu đỏ tươi như máu, cái chén vừa được lấy ra thì trong ang nước chợt vang lên những tiếng ầm ào như có thứ gì đó vừa thức giấc. Gã hờ hững nhìn cái ang, dường như tuyệt không có chút sợ hãi nào, chỉ chậm rãi tiến về phía tôi, ngồi xổm xuống trước mặt mà nói: “Nghi thức cần tiến hành theo đúng tập quán của người Bộc, đây là máu của ‘tế phẩm’ lần trước, tao cần dùng nó vẽ bùa lên người mày, như vậy mới đảm bảo sau khi mày chết rồi thì linh hồn có thể hòa làm một với Cửu Bộc Phệ Hồn Cức.”

Còn chưa kịp nghe hiểu gã nói gì thì gã đã sấn tới giật áo tôi ra! Tôi hoảng hốt nghĩ chứ không phải tên biến thái này đột nhiên nổi cơn thú tính muốn làm gì tôi đó chứ, tội nghiệp thân tôi hơn hai mươi năm chưa từng cầm tay con gái chẳng lẽ lại bị một tên tâm thần tiền dâm hậu sát hay sao?! Tấm thân đồng tử này chẳng lẽ hôm nay đành bị phá?! Đừng, đừng có hòng à, công lý nằm ở đâu chứ???

Tôi cố sống cố chết túm chặt áo, dùng cùi chỏ thúc thẳng vào mặt gã ngăn gã không thể tới gần. Gã thấy tôi tự nhiên phản kháng kịch liệt như vậy, cũng thúc thủ, đành đưa mắt nhìn lão mập. Lão mập lập tức rút ra một con dao nhỏ, roẹt một cái, cái áo mới toanh của tôi đã bị rách một đường dài. Lão tiến tới giữ chặt hai tay tôi, tôi không chống trả nổi cả hai người bọn chúng hợp sức lại, chỉ giãy dụa được vài cái rồi bị kìm chặt, nhanh chóng bị bọn chúng lột sạch, may mà chúng còn để lại cho tôi cái quần đùi, chưa tới mức bắt tôi trần như nhộng.

Tên Liên Vĩnh Hác thở hổn hển lập tức quăng cho tôi một cái tát như trời giáng, mắng to: “Mẹ nó, sớm biết thế đã bỏ đói mày cho mày biết thân rồi! Gì mà khỏe như trâu vậy! Giữ chặt nó cho tôi, nó mà còn cục cựa thì cứ đâm cho nó vài nhát!”

Vừa nghe bị đâm vài nhát là tôi lập tức sợ tới mức cả người cứng đờ, không dám nhúc nhích nữa, chỉ trợn to mắt hung hăng quát: “Chết tiệt! Đồ biến thái nhà mày, định làm gì tao?! Tao nói cho mày biết, mày mà dám đụng vào một sợi tóc của tao thì có thành quỷ tao cũng không tha cho mày!”

Nghe tôi dọa, gã chỉ cười khẩy một cái rồi đá ngay cho tôi một cái vào giữa bụng, sau đó nhúng ngón tay vào chén máu bắt đầu vẽ lên mặt tôi. Lão mập không hổ là tay mổ heo chuyên nghiệp, hai tay khóa cứng như thép nguội. Liên Vĩnh Hác vẻ mặt cực kỳ nghiêm túc chăm chú vẽ lung tung lên người tôi những thứ bùa chú kỳ dị, vừa vẽ vừa lầm bầm trong miệng như đang niệm chú. Còn tôi thì chẳng khác nào một con dê chuẩn bị đem hiến tế, chỉ biết để mặc cho gã bôi bôi trét trét lên người mình.

Trong lòng vừa tức vừa sợ, đến nỗi khóe mắt tôi cũng run lên. Cho đến khi hoàn tất, gã mới buông bút, tỉ mỉ kiểm tra lại một lần xem có vẽ sai chỗ nào không, sau đó mới bảo lão mập thả hai tay tôi ra, nhưng vẫn không quên đe dọa: “Nếu mày dám lau bùa chú vẽ trên mặt, lau một vệt nhỏ tao đâm mày một dao, lau một mảng lớn tao lập tức chặt tay, cho nên biết điều thì ngoan ngoãn đó!”

Cái cảm giác bị máu người dính nhơm nhớp khắp cơ thể này khiến tôi gớm đến muốn ói, chưa kể mùi máu tanh tưởi còn xông thẳng vào não khiến tôi xây xẩm, dù sao đây vẫn là máu người chết chứ không phải máu y tế, nên cảm giác sợ hãi cùng cấm kị thực sự không biết phải diễn tả thế nào. Chỉ lát sau, lớp máu này bắt đầu đọng lại, dính rin rít trên da, có cảm giác như có thêm một lớp màng trên da cần loại bỏ, hay như khi để lòng trắng trứng dây lên tay vậy. Lão mập thấy lớp máu đã khô hẳn, liền bọc tôi vào một cái chăn, sau đó quay sang Liên Vĩnh Hác hỏi: “A Hác… mày rốt cuộc còn muốn giết bao nhiêu người nữa đây…?”

Liên Vĩnh Hác đang ngồi tư thế thiền bên cạnh cái bàn thờ, nghe thế liền ngẩng phắt đầu lên gay gắt đáp: “Giết bao nhiêu nữa ấy hả? Hừ, ông quan tâm tới con số làm cái gì?! Chỉ cần Cửu Bộc Phệ Hồn Cức còn chưa có kết quả, thì còn phải tiếp tục giết nữa! Ông mà còn sợ giết người?! Đừng quên, nếu năm xưa ông chịu bỏ tiền ra ghép thận cho mẹ tôi, thì mẹ tôi đã không phải chết! Chính ông, chính ông là người đã hại chết mẹ tôi!!!”

Khóe mắt lão mập thoáng ướt nước, quay lại nhìn tôi một lần, thở dài một cái rồi cúi đầu ra khỏi hầm, khóa cửa lại. Liên Vĩnh Hác nhìn theo lão ta ra ngoài, ánh mắt thoáng một chút kỳ dị, nhưng cuối cùng vẫn tục tằn chửi một câu “lão mắc dịch” rồi quay đi tiếp tục ngồi thiền.

Nói cho đúng ra, mối quan hệ giữa cha và con trai là một mối quan hệ rất kỳ lạ. Tôi và ba tôi cũng vậy, có lúc hai bên tưởng chừng như đối lập với nhau một trời một vực, nói chuyện với nhau chỉ vài ba câu là bắt đầu nổi nóng; nhưng cùng lúc đó, tôi cũng rất muốn được ba thừa nhận, không muốn bị xem thường. Cho nên, giữa hai cha con dường như có vẻ rất gay gắt, nhưng cũng chỉ là vẻ ngoài mà thôi, kỳ thực, đứa con trai luôn luôn có một sự kính yêu và khâm phục nhất định dành cho cha mình. Trong lòng tôi, ba luôn luôn là trụ cột đáng tin cậy của cả gia đình, một trụ cột kiên cố không thể lay chuyển. Nhưng kẻ ở trước mặt tôi đây thì ngược lại, gã căm hận và khinh thường cha mình từ tận đáy lòng, cho nên có thể thấy Liên Vĩnh Hác đã đánh mất một chút lương tâm căn bản cuối cùng mà gần như hóa thành quỷ dữ luôn rồi.

Gã cũng không thèm lên tiếng, chỉ toàn tâm toàn ý ngồi thiền, dường như muốn chờ cho tới lúc giờ tiến hành nghi thức đến. Tôi nôn nóng cảm thấy từng giây từng phút chậm chạp trôi qua, tuy không biết chính xác bây giờ là mấy giờ, nhưng cứ lắng nghe tiếng tim đập từng nhịp từng nhịp một mà cảm nhận thời gian cứ từng khắc từng khắc rút dần đi, mà cứu viện tôi đang chờ đợi thì mãi không thấy đến, không thể tránh khỏi cảm thấy càng lúc càng tuyệt vọng. Nghĩ tới tấm bùa bằng vàng lớn như vậy, có lẽ nào không ai nhìn thấy? Lỡ như có ai cầm tấm bùa lên nhưng lại vứt tờ giấy đi thì thế nào? Lỡ như người đó tưởng là trò đùa của đứa nhóc nào đó thì thế nào? Mà khủng khiếp nhất, lỡ như không có ai bắt được thì làm thế nào?! Càng nghĩ càng thấy sợ, vẫn biết nếu chỉ dựa vào tấm bùa nhỏ bé kia thì hi vọng rất mong manh, nhưng mà… đầu tôi bắt đầu nhức bưng bưng, sợ tới bủn rủn cả người, tôi thử nhay nhay sợi dây, muốn giãy dụa lần cuối cùng.

.

Chương 35: Ăn thịt (Tứ)

Liên Vĩnh Hác nghe thấy động tĩnh, quay lại nhìn thấy tôi đang giãy dụa liền cười nhạo nói: “Mày khỏi cắn, dây này là dây leo núi chính hiệu đấy, mày nghĩ răng mày cắn đứt nổi sao?”

Tôi thở hổn hển, cảm giác lúc này dường như đã qua buổi trưa, khoảng 1, 2 giờ chiều gì đó, nói chung không còn cách giờ mặt trời lặn bao lâu nữa. Hi vọng sinh tồn càng lúc càng mỏng đi, tôi cũng càng lúc càng trở nên tuyệt vọng. Gã nhìn ánh mắt không cam lòng của tôi hồi lâu, lạnh lùng nói: “Dù sao cũng phải chết, cần gì phải làm khó coi như vậy! Yên tâm, khó có được một đứa xinh xắn như mày, mày chết rồi tao sẽ lo xử lý chống phân hủy cho cái đầu của mày, không để mày thối rữa đâu.”

Tôi không ngăn được bản thân muốn gào to lên, dù sao thế nào cũng phải chết thì còn sợ gì mà không chửi cho gã một trận đích đáng? “Đồ khốn kiếp, mày nghĩ mày có thể thành tiên thật sao? Chỉ vì để bản thân không chết, mà mày dễ dàng cướp đoạt mạng sống của người khác như vậy… mày có gì khác với súc sinh đâu?! Tao nói cho mày biết, mày không thành tiên được! Tao có chết cũng sẽ chờ mày trên đường xuống địa ngục! Tất cả mọi người mày đã giết cũng sẽ chờ mày dưới đó! Chờ mày xuống cắn xé mày tới chết!!!”

Tôi uất hận tới mức cả người run bần bật, nhưng tên khốn kia nghe thế chỉ cười nhạt, như thể hoàn toàn không lo lắng gì tới những lời đe dọa của tôi cả. Gã chỉ thương hại nhìn tôi như nhìn một kẻ ngu xuẩn, lắc lắc đầu với tôi như thể tôi là một đứa trẻ hư, mỉm cười nhìn đồng hồ rồi nói với tôi: “Lúc này là 4 giờ 45 phút, còn khoảng 3 tiếng nữa, mày thích thì cứ chửi cho đã đi, nhưng tao khuyên mày, mày yên tĩnh một chút thì trước giờ chết tao sẽ cho mày uống ít rượu. Hê hê, cái đứa trước mày trước lúc chết còn muốn hút một điếu thuốc nữa kìa, cho nên mày cứ yên tâm, tao có thể thỏa mãn chút yêu cầu nho nhỏ đó của mày.”

Nói xong, cả hai bên đều im lặng. Thời gian cứ tích tắc trôi qua, lòng tôi cũng cứ theo đó mà nhói lên từng cơn. Liên Vĩnh Hác đi vòng quanh cái ang vẽ vẽ gì đó, rồi lại ngồi xuống lẩm nhẩm, giống hệt như pháp sư chuẩn bị đăng đàn làm phép. Đột nhiên gã âm trầm mở miệng: “Cửu Bộc Phệ Hồn Cức không tiêu hóa được cái đầu, vì trong đầu có sóng điện. Cho nên đầu tiên tao sẽ chặt đầu mày trước, sau đó mới ném xác mày vào cho nó, mày không cần sợ bị đau.”

Gã nói rất thản nhiên, cứ như đang bàn việc làm thịt một con heo vậy, tôi nghe thế, tự nhiên nhớ tới một câu: khi con người bắt đầu không còn biết sợ hãi trước cái chết của đồng loại, cũng là lúc ác ma sinh ra. Đúng vậy, kẻ đứng trước mặt tôi quả thực đã đánh mất hết cả nhân tính. Làm xong công tác chuẩn bị, gã bước tới trước mặt tôi ngồi xổm xuống thở dài một cái, rút một điếu thuốc ra châm cho tôi: “Hút đi.” Nói xong bản thân cũng rút một điếu ra hút, ngồi bên cạnh tôi mà gã làm như là ngồi bên cạnh một người bạn lâu năm hút thuốc nói chuyện phiếm vậy, khiến tôi phải rùng mình tự hỏi không biết tính cách của gã còn có thể biến thái tới mức nào.

Gã phà một hơi dài, sau đó nghiêng đầu nói: “Cái đầu bên kia là thằng bạn tốt nhất của tao, tên là Sở Lỗi, là bạn cùng học chung đại học. Mục tiêu của chúng tao là phát triển ngành thực vật học nước ta, bổ khuyết những chỗ còn trống trong bảng thực vật cổ đại Trung Quốc.”

Gã điểm điểm lên điếu thuốc cho tàn thuốc rơi xuống đất rồi kể tiếp: “Tao không biết bằng cách nào mà mày lại biết chuyện của nó, có thể nó thực sự đã báo mộng cho mày. Nhưng giết chết nó là ngoài kế hoạch của tao, vốn tao chỉ định giam nó ở đây, ai ngờ trên người nó có vết thương hở, mà Phệ Hồn Cức rất mẫn cảm với mùi máu, cứ nghe thấy máu là xông ra tấn công. Cho nên hôm sau khi tao quay lại thì nó đã hóa thành một đống thịt bầy nhầy rồi, chỉ còn có cái đầu vẫn chằm chằm nhìn tao không nhắm mắt. Đó là lần thứ hai tao cảm thấy sự khủng khiếp của cái chết, lần đầu là khi mẹ tao qua đời. Cho nên tao chỉ có thể chờ, chờ cho tới khi nó sinh ra Huyết thảo linh chi, sau đó thứ nhất là tao có thể thành tiên, thứ hai là dạy cho đám nghiên cứu bất tài kia thấy, thế nào là nghiên cứu thực tiễn.”

Nói tới đây, gã trầm mặc một hồi lâu, chỉ cúi đầu hút thuốc, cuối cùng gã dập tàn thuốc, đứng lên chuẩn bị làm gì đó. Cùng lúc ấy, cánh cửa sắt nặng nề ngoài kia vang lên tiếng loảng xoảng của xích sắt bị kéo ra, tôi cả kinh nhìn lại, quả nhiên là lão mập, chứ chẳng phải quân cứu viện mà tôi đang mong đợi. Lão mang theo một bình rượu lớn, lần này lão mặc bộ quần áo lao động màu xanh thường mặc để giết lợn, sắc mặt rất u ám, từ từ rút trong túi plastic ra một con dao phay to. Tôi rùng mình một cái, xem ra số tôi đã tới lúc tận.

Liên Vĩnh Hác đứng đó nhìn lão mập hồi lâu, trên gương mặt lão là một cảm xúc rất bi ai, lão tự rót một chén rượu lớn uống một hơi sạch trơn, uống đến mặt mũi đỏ lựng lên như gan heo, sau đó rót một chén cho tôi: “Nhãi con, uống đi, uống rồi sẽ không thấy sợ nữa. Lúc tới chỗ Diêm Vương nhớ nói cho rõ là Liên Đại Dân này giết cậu, đến lúc đó cho dù có phải rơi xuống 18 tầng địa ngục, vào vạc dầu hay lên núi đao cũng là Liên Đại Dân này, không có quan hệ gì với con ta!”

Liên Vĩnh Hác nghe thế, đầu vai rõ ràng là cứng lại một chút, nhưng sau đó gã đã lập tức gắt lên: “Nói nhiều quá mà làm gì, nhanh nhanh kéo thằng nhãi này ra coi! Tới giờ cử hành nghi thức rồi!”

Nói xong gã bèn cung kính thắp một nén nhang lên bàn thờ, cúi đầu lầm rầm khấn vái gì đó hồi lâu, rồi giơ tay cẩn thận bưng cái bệ phủ vải đỏ ra. Vừa cảm thấy có người chạm tới mình, cái thứ quái dị dưới lớp vải lại lập tức giãy dụa. Liên Vĩnh Hác nhẹ nhàng giật tấm vải ra, phía dưới là một khối gì đó trông giống hệt như một cục đá lớn trong suốt màu huyết dụ, có cảm giác giống giống như ngọc, nhưng tỏa ra một mùi máu tanh hăng mũi. Gã nâng cục đá trong tay bái lạy đủ bốn phương tám hướng, nhìn thấy cái nhìn căng thẳng của tôi, liền mỉm cười độc ác nói: “Đây chính là hình thái đầu tiên của quả cây Cửu Bộc Phệ Hồn Cức – Huyết ngọc đấy. Nhờ có nó, tao mới có thể hoàn thành nghi thức này được.”

Liên Vĩnh Hác đốt hết số nến trong hầm, lại xông một thẻ đàn hương lên bàn thờ, bản thân thì lúi húi mặc ra ngoài một cái áo thụng màu vàng, trên tà áo thêu đầy phù chú quái gở. Gã nhìn về phía lão mập hất hất cằm, ý bảo lão lôi tôi sang bên kia.

Tôi bị ép uống quá nhiều rượu cùng một lúc, cổ họng lúc này như bốc cháy, lại bị lôi một cách thô bạo tới bên cạnh cái ang, cả người đều run lẩy bẩy như trúng gió, nước mắt nước mũi ràn rụa. Liên Vĩnh Hác thấy tôi khóc, bèn nóng nảy quát to: “Đừng có khóc trôi bùa của tao, coi chừng tao băm vằm mày ra ném vào ang bây giờ!”

Nói xong gã vận hết sức dời khối đá to nặng chặn trên nắp ang sang một bên, tiếng lục sục trong ang cũng theo đó mà ầm ĩ hơn, cùng lúc đó, trong không khí tản mát một mùi ngòn ngọt mà kỳ dị, một mùi lờ lợ khiến sống lưng lạnh toát, cả người phát run. Liên Vĩnh Hác dời khối đá sang một bên, rồi từ từ mở nắp ang ra, trong nháy mắt tôi đã hiểu ra cái tiếng quất vun vút và tiếng sục sạo nghe thấy mấy ngày nay là cái gì ———- hóa ra chúng là tiếng thực vật ma sát vào nhau, một đống dây leo xanh thẫm chen chúc uốn éo, loáng thoáng có thể nhìn thấy những bộ xương trắng ởn phía dưới, không dính một chút thịt nào.

Liên Đại Dân đá mạnh vào đầu gối tôi làm tôi quỳ rạp xuống đất, trong cơn hoảng hốt chỉ nghe lão hét to một tiếng vung dao lên, chuẩn bị chém thẳng xuống cổ tôi. Tôi nhắm chặt mắt, không còn can đảm lẫn khí phách để mà phản kháng, chỉ biết bất lực chờ đợi cái chết thê thảm sắp tới gần, như dê sắp bị đem ra hiến tế.

Nhưng ngay thời khắc sinh tử đó, tôi chợt nghe một tiếng nổ lớn, cửa hầm bị phá bung ra, gãy đổ loảng xoảng! Có mấy bóng người chạy ào vào, mà dẫn đầu… chính là Bạch Dực và Lục Tử! Vừa nhìn thấy hai người bọn họ, tôi đột nhiên có cảm giác như vừa gặp nhau ở kiếp sau, nước mắt cũng không ngừng được tuôn như suối, tôi vội hướng về phía bọn họ gào thét cầu cứu.

Bọn họ nhìn thấy thảm cảnh của tôi lúc này, cũng hoảng hốt mà sựng lại một giây, nhưng chỉ cần một giây đó đã đủ cho Liên Đại Dân kịp kéo xốc tôi lên kề sát dao vào cổ tôi. Liên Vĩnh Hác chỉ biết kinh hoàng ngơ ngác trốn tiệt sau lưng Liên Đại Dân, tôi nghe lão gào to: “Đừng tới đây! Tới đây tao lập tức làm thịt nó!!!”

Bạch Dực không thèm chần chừ một giây, vung tay bắn cái gì đó trúng cổ tay lão mập, dường như làm lão rất đau, nên tay cầm dao lập tức buông lơi, bàn tay còn lại đang giữ chặt tôi cũng lỏng ra một chút. Tôi thừa cơ hội, lập tức buông người ngã thẳng về phía trước, thoát khỏi gọng kềm của lão. Nhưng cả hai tay hai chân đều vẫn bị trói, nên cả người cứ té dài dưới đất, muốn chạy cũng chạy không thoát. Liên Vĩnh Hác thấy thế, nhanh chóng móc trong người ra một con dao nhỏ, không thèm nói nửa lời đã xốc tới định giải quyết tôi. Tôi vội dùng cả hai tay giữ chặt tay gã lại, chặn mũi dao trước mặt mình, nhưng vì hai tay bị trói chặt nên căn bản là không ra sức được. May mà Liên Vĩnh Hác cũng chỉ là một tên mọt sách yếu ớt, trong tình huống đó mà gã cũng không sao đâm thẳng vào người tôi được, mũi dao dừng lại cách ngực tôi vài tấc, run lẩy bẩy.

Tôi nghiêng đầu về phía đám người Bạch Dực, ra sức gào to: “Mau! Mau tới cứu tôi với, tôi không giữ được nữa!!!”

Bạch Dực thấy thế vội chạy tới, nhưng nửa đường lại bị Liên Đại Dân chặn lại, Lục Tử và mấy người còn lại cũng xông vào, nhưng Liên Đại Dân lúc này dường như đã hoàn toàn phát điên, lão hét lên một tiếng quơ dao xông thẳng vào bọn họ mà chém tới tấp. Trông lão lúc này thực sự không còn giống người, mà giống ác quỷ Atula phát cuồng vì say mùi máu vậy.

Chỉ một giây phân tâm, Liên Vĩnh Hác đã thừa cơ vung tay còn lại đấm cho tôi một đấm vào ngay giữa mặt làm cánh mũi tôi rát bỏng lên, nhất thời không còn sức chống cự. Ngay lúc gã định đâm vào ngực tôi, chợt Bạch Dực dùng ngón tay bắn thẳng một viên gì đó về phía tôi, không ngờ anh ta còn có tuyệt chiêu này? Thứ đó đập thẳng vào lưng Liên Vĩnh Hác, tôi cũng thuận đà cung tay đấm cho gã một cú vào cằm. Hai người chúng tôi cứ như dũng sĩ giác đấu La Mã cổ đại, lăn lộn đánh đấm hăng say dưới sàn, tôi còn bị trói cứng, chứ nếu không thì đảm bảo tôi đã cho gã ra bã từ lâu rồi!

Tình thế căng thẳng, tôi cũng không còn sức quan tâm tới cục diện bên kia, chỉ cảm thấy Liên Đại Dân quả thực có khiếu làm đồ tể, đám Bạch Dực đông hơn mà cũng không cách nào thoát khỏi lão ta mà chạy sang đây được. Ngược lại, Liên Đại Dân dường như có khuynh hướng càng lúc càng áp sát về chỗ chúng tôi hơn, tôi lo lắng vô cùng, chỉ một gã mọt sách trói gà không chặt mà tôi đã chật vật thế này, nếu có thêm ông bố kinh khủng của gã thì tôi làm sao mà thoát nổi? Ngay lúc đó, tôi đột nhiên cảm thấy có thứ gì đang sột soạt bò bên cạnh, bèn nhìn lên – và lập tức sững người: Mẹ nó ơi, đám dây leo uốn éo kia tự lúc nào đã bò ra khỏi ang mà vươn dài tới đây rồi?! Hoàn toàn rơi vào thảm cảnh trên đe dưới búa, đột ngột toàn bộ ý chí sinh tồn như bùng lên cùng một lúc, tôi gào to một tiếng nắm chặt tay cầm dao của Liên Vĩnh Hác mà đâm ngược con dao về phía gã! Ngay cả tôi cũng không ngờ mình có thể làm thế, mà Liên Vĩnh Hác còn kinh ngạc hơn, chỉ trố mắt nhìn con dao quay ngược về phía mình.

Liên Đại Dân thấy con trai sắp gặp nguy tới nơi, đột nhiên bứt khỏi những người khác mà xông tới vung dao định chém thẳng xuống người tôi. Tôi hốt hoảng tìm cách nghiêng người né, nhưng vẫn không thoát khỏi lưỡi đao sượt qua người, một dòng máu mảnh bắn tung lên, rơi thẳng vào đám dây leo quấn quít lúc nhúc dưới sàn. Trong tích tắc, đột nhiên cả căn hầm lặng đi, sau đó sắc mặt Bạch Dực tái mét, anh ta thét lên: “Chạy mau!!!”

Tôi nghĩ thầm, bộ anh tưởng tôi không muốn chạy sao, nhưng tay chân bị trói chặt thế này bảo tôi phải chạy thế nào? Nhảy như thỏ ấy à? Đang lúc còn đang mờ mịt không biết chuyện gì vừa xảy ra, thì đám dây leo trong ang vừa cảm nhận được mùi máu của tôi thì đã điên cuồng lồng lộn lên như rắn độc tỉnh giấc, “Vèo” một cái lao vút tới, quấn chặt lấy một bên cánh tay của tôi! Mà cánh tay bị cuốn lấy lập tức có cảm giác như bị axit tạt thẳng vào da, bốc khói trắng xèo xèo, sợi dây trói hai tay trong tích tắc bị ăn mòn đứt tung! Thoáng cái tôi đau tới thấu xương thấu óc, cảm giác như bị hàng nghìn lưỡi dao đâm thẳng vào da, cơn đau dữ dội như bị thiêu sống này làm tôi điên cuồng giãy dụa.

Tôi muốn dùng tay còn lại để kéo đám dây leo ra, nhưng tay còn lại thoáng chốc cũng bị chúng trói nghiến lại! Tôi hoảng loạn gào thét không ngừng, trong đầu chỉ còn duy nhất một cảm xúc: sợ, sợ quá, không ngừng giãy dụa như phát rồ, nhưng càng giãy lại càng bị quấn chặt hơn, cuối cùng gần như cả người tôi đều bị quấn cứng lại, chỉ còn chừa phần đầu không đụng tới. Vốn tôi tưởng rằng cái chết là rất đáng sợ, nhưng lúc này mới biết, được chết sớm là một ân huệ, vì cái cảm giác bị nhai sống từ từ này quả thực còn tuyệt vọng còn đau đớn hơn cả luyện ngục.

Cả người tôi toàn là dây leo, đau đớn rát bỏng đã thành chết lặng, chỉ mơ hồ nghe tiếng những sợi dây quất vun vút trong không khí như tiếng quỷ khóc thần sầu. Ngay khi tôi sắp buông tay phó mặc cho cái chết, thì chợt cảm thấy đám dây leo trên người buông lỏng ra, rụt lại, có những giọt gì đó rơi xuống mặt, cùng lúc đó, cảm thấy như mình được ai đó kéo ra. Tôi ra sức mở mắt, nhưng trước mắt đã thành một màn lờ mờ, mọi âm thanh cũng dường như bị vặn xoắn đi thành méo mó, chỉ có tiếng dây leo quất vun vút là rõ ràng, không ngừng rền rĩ trong đầu.

Phải cả phút đồng hồ, ý thức của tôi mới dần dần quay về, mới nhận ra cả cơ thể mình đau như vừa bị lột một lần da, khắp người đều là vết bỏng ngang dọc, đặc biệt là ở ngay động mạch cổ. Tôi ngẩng đầu nhìn kỹ lại, người đang ôm tôi trong lòng không phải ai khác, chính là Bạch Dực. Vẻ mặt của anh ta cực kỳ phẫn nộ, trên cánh tay là một vết thương sâu hoắm, chảy máu chưa cầm. Tôi cảm giác cả người anh ta đều đang run lên, anh ta cắn chặt răng, trong mắt bất ngờ lộ ra một loại sát khí âm u mà kinh khủng, nếu bảo anh ta sắp sửa giết người chắc cũng chẳng ai dám nghi ngờ.

Tôi yếu ớt nghiêng đầu nhìn sang bên kia, Lục Tử và hai người nữa tôi không nhận ra đang giằng co với hai cha con họ Liên, Liên Đại Dân sức khỏe kinh người, một mình mà áp đảo cả ba người bọn họ, còn Liên Vĩnh Hác chỉ đứng đó trân trối nhìn sang chúng tôi, trong mắt là kinh ngạc cùng không cam lòng.

Gã run rẩy hỏi: “Ngươi… ngươi là ai! Ngươi là ai mà máu của ngươi… lại có thể… lại có thể đẩy lùi cả Phệ Hồn Cức?!”

Bạch Dực hừ lạnh một tiếng, chỉ vào đám dây leo dưới sàn: “Chỉ bằng một cái cây Phệ Hồn Cức bé bằng cái lỗ mũi này của ngươi mà đòi tạo ra Huyết thảo linh chi?! Vậy ngươi có biết Bộc tộc năm xưa vì cái gì mà diệt cả tộc không? Đó là vì bọn họ dùng gần như toàn bộ sinh mạng của người trong tộc, cũng chỉ có thể sinh được một quả Huyết thảo linh chi duy nhất, mà cũng bị Tần Thủy Hoàng cướp lấy đem về luyện đan! Vậy mà cuối cùng thì Tần Thủy Hoàng có được trường sinh không?! Cái thứ này căn bản không phải là cây thần cây quỷ gì cả, mà chỉ là một thứ công cụ giết người thuần túy thôi!!!”

Hai cha con họ Liên run bắn lên, những lời này dường như đã khiến bọn họ hoàn toàn rơi vào tuyệt vọng.

Nhưng tôi chỉ cảm thấy dường như Bạch Dực có cái gì đó khác thường, không thể nói rõ là cái gì, nhưng dường như cảnh vật bốn phía cũng vì anh ta mà biến ảo theo. Tôi muốn mở miệng nói, nhưng vết thương trên cổ quá nặng, mở miệng là chạm tới vết thương, đau tới nỗi co quắp cả người, phải nhờ tới cánh tay Bạch Dực đang giữ chặt mới chống đỡ mà đứng được. Mà không chỉ có tôi, tất cả mọi người có mặt ở đó đều cảm thấy thần sắc dị thường của Bạch Dực, anh ta dường như không phải là Bạch Dực mà tôi vẫn biết nữa. Ngay cả Liên Vĩnh Hác cũng kiêng kị e dè, chỉ đứng nguyên một chỗ sợ hãi nhìn anh ta chằm chằm.

Cả người Bạch Dực tản mát ra một loại áp lực cực kỳ lạnh giá, ngay cả đám Lục Tử cũng sợ hãi mà rụt lại. Liên Đại Dân đỡ Liên Vĩnh Hác, người sau sợ hãi nhìn Bạch Dực, sắc mặt trắng bệch. Tôi vội vàng giật giật tay Bạch Dực, hành động đơn giản đó khiến cả người tôi không kìm được mà run bắn lên, vì sợ, mà còn là vì đau. Bạch Dực vẫn phớt lờ, chỉ lạnh như băng nói tiếp: “Muốn trường sinh bất tử, hừ, các ngươi nghĩ mình có đủ bản lĩnh sao?!”

Liên Vĩnh Hác dường như đã suy sụp hoàn toàn, những lời Bạch Dực nói đã thô bạo lôi gã ra khỏi giấc mộng ôm ấp bấy lâu, khiến niềm tin thâm căn cố đế trong lòng gã sụp đổ nát bấy. Gã thều thào hỏi: “Ngươi… rốt cuộc… là ai?”

Bạch Dực căm ghét liếc nhìn gã, trong mắt thấp thoáng một tia sát ý. Anh ta không trả lời, chỉ ôm tôi, rồi ra hiệu cho đám Lục Tử mau chóng thoát ra ngoài. Đám Lục Tử cũng cảm thấy sự tình không ổn lắm, lập tức chạy về phía cửa. Bạch Dực hất cằm về phía cái ang, nói: “Các ngươi không xứng đáng biết tên ta, đáng lý ra ta muốn các ngươi phải đền tội cách khác kia, nhưng nếu đám Phệ Hồn Cức này đã nếm được máu của cậu ta, thì…”

Bạch Dực còn chưa nói dứt lời, thì trong ang dường như có cái gì đó cuộn trào xông tới như vũ bão, Phệ Hồn Cức một lần nữa phát điên, tất cả đám dây leo đều điên cuồng giãy dụa lao vun vút tới trong không trung. Tôi sợ hãi ôm chặt Bạch Dực, tôi biết sự lợi hại của chúng, biết cảm giác như bị axit phun thẳng vào người ăn mòn mọi thứ của chúng! Không chờ tôi kịp phản ứng thì toàn bộ đám dây leo đã lao thẳng về phía cha con họ Liên, cũng có vài dây muốn tấn công chúng tôi, nhưng cứ tới gần Bạch Dực là lại tự động rụt lại.

Những phần xương còn thừa cũng theo đám dây leo mà bị hất tung ra ngoài, trên vài phiến lá còn sót lại những miếng thịt vụn chưa tiêu hóa hết, nhưng cũng lập tức bị cuốn chặt lấy, phân hủy, nuốt trọn. Liên Vĩnh Hác ôm chặt Huyết ngọc trong tay như bùa hộ mạng, nhưng vô ích, cái cây quái quỷ kia hoàn toàn không sợ thứ nắm trong tay gã.

Nhìn thấy tình cảnh đó, Liên Đại Dân bất thình lình hét lớn một tiếng, đẩy Liên Vĩnh Hác ra, lập tức bị đám dây leo quấn chặt lấy. Lão gầm rú điên dại, còn Liên Vĩnh Hác chỉ đờ ra đó, ngơ ngác nhìn Liên Đại Dân giãy dụa trong hoàn cảnh chết không bằng sống, vậy mà tới chết còn ra sức chặn hết những sợi dây leo muốn quấn tới Liên Vĩnh Hác. Gã run lẩy bẩy quay lại nhìn, đột nhiên run rẩy thốt lên một tiếng: “Ba!”

Liên Đại Dân nghe một từ đó, đột ngột phá lên cười, rồi nôn ra một vũng máu lớn, dùng hết sức bình sinh hét to: “Con trai! Chạy mau!” Chỉ một giây sau đó, lão đã bị chôn vùi trong tầng tầng dây leo chằng chịt, không còn thốt ra được một âm thanh nào nữa, chỉ còn những tiếng xiết chặt răng rắc của đám dây. Liên Vĩnh Hác nước mắt nước mũi ràn rụa, bủn rủn nhìn kết cục của cha mình, rồi đột nhiên quay người định chạy. Nhưng ngay lúc đó, một cái gì đó rơi đánh “Cộp” xuống sàn nhà, gã nhìn lại, hóa ra là cái đầu lâu của Sở Lỗi đã được xử lý chống phân hủy. Trên đầu lâu hé ra một nụ cười quái gở, lộ ra khoang miệng đen ngòm. Trong nháy mắt từ bên trong cái đầu, một thân cây Cửu Bộc Phệ Hồn Cức lao vút ra, trong nháy mắt quấn chặt lấy cái cổ Liên Vĩnh Hác, mà đám dây leo phía sau cũng đã đuổi kịp tới, nuốt trọn nửa người dưới của gã. Liên Vĩnh Hác trừng trừng nhìn cái đầu kia, biết rằng mình không thể thoát chết. Nhưng trong mắt tôi lúc này, đang bám chặt lấy gã, không cho gã chạy thoát không phải là đám cây, mà là linh hồn của tất cả những người gã đã giết hại, những cái bóng đen thui của bọn họ gào rú những tiếng thê lương, quấn chặt lấy tay chân Liên Vĩnh Hác kéo gã lại phía sau. Gã ngẩng đầu lên nhìn chúng tôi lần cuối, trong mắt đầy van xin, nhưng không thốt nổi tiếng nào. Đám Phệ Hồn Cức giống như một tấm lưới khổng lồ, úp chụp lên gã, sau đó, chỉ còn là những tiếng xiết chặt và gãy vụn.

Tôi trợn mắt nhìn chằm chằm cảnh tượng trước mặt, cả người như dại ra. Bạch Dực cảm thấy tôi đang run rẩy kịch liệt, liền thở dài nói: “Cũng không còn cách nào, gieo nhân nào gặt quả đó thôi. Con người không nên tham lam những thứ ngoài tầm với.”

Tôi nghĩ tới thân cây Phệ Hồn Cức cuối cùng vươn ra khỏi cái đầu lâu, đột nhiên cảm thấy như cổ họng nghẹn bứ lại, mãi mới thốt được nên lời: “Không thể nào… Liên Vĩnh Hác đã nói là trong đầu người có sóng điện… Phệ Hồn Cức không thể ăn đầu được kia mà…”

Bạch Dực nhìn xuống cánh tay mình, lắc đầu mệt mỏi nói: “Xem ra gã thực sự không biết gì. Đúng là Phệ Hồn Cức không ăn đầu người, nhưng đó là vì chúng luôn để lại hạt giống của mình trong não của những nạn nhân, dùng não người làm dưỡng chất, dần dần lớn lên thành một gốc Phệ Hồn Cức mới.” Nói xong nhẹ nhàng đỡ tôi ra ngoài, tôi ngoái đầu lại nhìn lần cuối, phát hiện giữa màu xanh lục ma quái trải rộng trong căn hầm, thấp thoáng một đốm nhỏ màu đỏ tươi, nhưng chỉ trong nháy mắt, lại biến mất giữa tầng tầng dây leo rậm rạp.

Chúng tôi nhanh chóng tiến tới cửa hầm ngầm, Bạch Dực nhanh chóng đóng cửa khóa lại, nghe thấy tiếng thực vật đánh lộp bộp lên phía sau cửa, anh ta liền dùng máu trên tay vẽ một ký hiệu gì đó lạ lùng lên cửa, đám thực vật lập tức yên tĩnh lại, chỉ còn tiếng quất vun vút không ngừng bên kia cánh cửa.

Bạch Dực cởi áo khoác khoác lên vai tôi, tôi lúc này trông kinh khủng cứ như vừa thoát khỏi chiến địa, cả người rách mướp, toàn thân không có chỗ nào lành lặn, có vài chỗ vẫn còn chảy máu, lại còn một đoạn dây vẫn còn cột lủng lẳng trên chân. Lục Tử vội vàng chạy tới: “Lão Bạch, em đã gọi 110 và 120 rồi, đợi lát nữa đưa Tiểu An tới thẳng bệnh viện luôn. Nhưng hai tên kia thế nào rồi? Mẹ nó, dám hành hạ Tiểu An ra tới mức độ này, có cảnh sát đó em cũng phải cho chúng nó một trận nên thân!”

Bạch Dực nhìn tôi một cái, rồi ngẩng lên đáp: “Lúc cảnh sát tới, nhớ nhắc bọn họ bên trong có thực vật ăn thịt biến dị, cần phải rắc vôi bột cho nó chết hẳn. Còn hai tên kia thì, ác giả ác báo, tự làm tự chịu rồi. Cảnh sát mà vào đó lúc này… chắc chỉ còn thấy thịt thừa với hai cái đầu của chúng thôi.” Nói xong, cúi đầu xuống ôn tồn hỏi tôi: “Cậu còn chịu nổi không?”

Tôi gật nhẹ đầu, nhìn cánh tay anh ta chằm chằm, rồi ngước lên nhìn anh ta, hi vọng anh ta hiểu được ý hỏi trong mắt tôi lúc này. Bạch Dực âu sầu nhìn tôi hồi lâu rồi mới nói: “Đáng lẽ ra tôi nên sớm đoán ra mới phải. Lúc đầu nhìn thấy mớ thịt thối đó, tôi đã ngờ là Cửu Bộc Phệ Hồn Cức, nhưng loại cây này chỉ có thể tồn tại ở Vân Nam, vì chúng cần khí hậu ấm áp, hơn nữa chỉ toàn ăn thịt những thanh niên trẻ tuổi. Đáng lẽ ra thứ cây qủy này phải biến mất cùng với tộc người Bộc ở sâu trong Vân Nam từ lâu lắm rồi mới đúng… Không ngờ bọn chúng lại có thể xây một ngôi nhà kính ươm được một gốc Phệ Hồn Cức trong đó…” Nói chưa hết câu đã che miệng ho khan.

Lục Tử nói gì đó với hai người đi kèm, hai người kia nhìn chúng tôi một chút, gật đầu rồi tản đi trước. Hắn quay lại chạy tới cạnh tôi hào hứng nói: “Trời đất quỷ thần ạ, không ngờ gặp phải chuyện thế này! Ây da, lão Bạch, vết thương trên tay anh cũng cần băng bó nhanh đi, chứ không để chảy máu nhiều quá không tốt đâu… Tiểu An, tớ nói cho cậu hay, toàn bộ là nhờ công của anh ấy hết đó, cậu mất tích anh ấy bỏ ăn bỏ ngủ chạy đi tìm cậu cả đêm, cuối cùng cũng chính là Bạch Dực nghĩ ra khả năng là cậu không chịu ăn mì với rau nữa mà chạy tới chợ rồi, cho nên tụi này mới tới đó tìm, mà ai ngờ tìm được cái xe đạp của cậu, với cái chìa khóa rơi dưới đất, tụi này sợ có chuyện không hay gì đó đã xảy ra, cho nên tớ mới đi kiếm thêm mấy anh em tới tìm phụ, cho tới khi tìm thấy cái bùa bằng vàng của cậu dưới đất đó nha! Tới chậm chút nữa chắc tớ mất một người anh em tốt rồi quá…!” Nói xong, khóe mắt cũng ươn ướt, tôi nghe thế, cũng cảm thấy trong lòng ấm áp hẳn lên, cảm động nhìn Bạch Dực và Lục Tử, khàn khàn giọng nói: “Lão Bạch… làm khổ anh rồi… còn Lục Tử nữa… nếu không có hai người, chắc lúc này tôi… đầu lìa khỏi cổ rồi… cả xác cũng chẳng còn nữa…”

Xe cảnh sát và xe cứu thương nhanh chóng hú còi chạy tới, vây chặt khu chợ nhỏ hẹp. Mấy y tá chạy ào tới đỡ tôi lên cáng chuyển thẳng vào xe cứu thương, Bạch Dực cũng đi theo, ngồi một bên tóm lược cho bác sĩ nghe một cách vắn tắt về tình trạng thương tích và tình huống đại khái của tôi, bác sĩ vừa nghe vừa sợ hãi than thở như đang nghe tiểu thuyết kỳ ảo.

Còn Lục Tử ở lại cho cảnh sát lấy lời khai, không theo kịp. Hắn là người biết ăn nói, hắn biết cái gì nên kể, còn cái gì nên giữ lại vì có nói ra cũng không có ai tin. Nhưng cho dù là vậy thì chắc chắn ngày mai chuyện này cũng phải leo lên trang nhất các báo mất thôi, nào là loại thực vật ăn thịt đã tuyệt chủng từ thời cổ đại, nào là mấy thanh niên dũng cảm chống trả bọn bắt cóc hung hãn…

Bác sĩ trên xe cứu thương giúp tôi khử trùng và băng bó đơn giản, một y tá giúp Bạch Dực băng bó cánh tay bị thương, vết thương quá sâu nên sau này chắc chắn để lại sẹo, nghe thế, trong lòng tôi cực kỳ áy náy. Bác sĩ nói với tôi, “May mắn là thương tích toàn là ngoài da. Mà cơ thể cậu cũng thật kỳ diệu, hình như có thể đặc biệt chịu được loại tổn thương này hay sao ấy, chỉ bị thương lớp biểu bì mà thôi, chứ nếu đổi lại là người khác thì coi chừng lúc này đã lâm vào tình trạng nguy kịch rồi.”

Tôi chớp chớp mắt ngạc nhiên, còn Bạch Dực ngồi một bên nhìn tôi, trong mắt dường như có chút suy tư. Tôi nghĩ đến giây phút cuối cùng, đã chuẩn bị tinh thần bị nuốt sống trong đám dây leo của Phệ Hồn Cức, nhưng nhờ có máu của Bạch Dực mà chúng nó thối lui, mới tránh được một kiếp. Thế nhưng sau đó đám thực vật lại đột nhiên phát cuồng, là vì cái gì? Lẽ nào máu tôi thực sự có tác dụng bất thường nào đó? Tôi thầm nghĩ, chuyện này nhất định sẽ tìm một dịp thuận tiện hỏi lại Bạch Dực cho rõ, anh ta chắc chắn biết điều gì đó. Nhưng bây giờ, điều quan trọng nhất là phải từ từ tĩnh dưỡng đã, lúc này tôi hoàn toàn không còn sức lực đâu mà truy cứu bất cứ chuyện gì nữa.

Tôi nhắm mắt lại, trong đầu vẫn là hình ảnh của giây phút cuối cùng đó, Liên Vĩnh Hác cuối cùng vẫn bị đám oan hồn tha đi mất. Gã có thể không tính toán sai, nhưng chỉ có một điều gã không biết, đó là những linh hồn bị Cửu Bộc Phệ Hồn Cức giết chết sẽ vĩnh viễn bám lại trên thân cây. Cho nên tôi mới ba lần bảy lượt nhìn thấy những cảnh tượng ma quái trước cửa tiệm, và cả giấc mộng do những nạn nhân báo mộng cho tôi nữa. Thế nhưng Liên Vĩnh Hác đã tìm thấy Phệ Hồn Cức ở đâu? Làm thế nào gã lại biết phương pháp trồng cây kinh khủng đó, chẳng lẽ gã lại là hậu duệ của Bộc tộc? Tổ tiên của gã phải chăng là tế tự của Bộc tộc?

Có quá nhiều nghi vấn cũng theo cái chết của cha con họ Liên mà mất đi đáp án, nhưng tiếng gọi “Con trai” cuối cùng đó, quả thực là tiếng lòng tuyệt vọng của người làm cha dành cho đứa con của mình. Không biết linh hồn méo mó của Liên Vĩnh Hác dưới địa ngục có vì thế mà được cứu chuộc hay không nhỉ? Không ai biết được. Nhưng con người, có đôi khi tuyệt đối không thể tham lam những thứ không thể thuộc về mình. Ví dụ như, trường sinh bất tử.

Ăn thịt – Hoàn

[1] Người Bộc vào thời Hán đại khái là coi như đồng nghĩa với người Đê (cũng là một bộ tộc cổ đại của Trung Quốc), tới thời Minh thì được coi như tổ tiên của dân tộc Bạch (một dân tộc thiểu số Trung Quốc) hiện nay. Ngoài ra có một số tài liệu nói người Bộc cũng nằm trong họ Bách Việt (tức là có quan hệ nhân chủng học tới người Việt chúng ta ha ha). Ngày nay hậu duệ của người Bộc xa xưa còn lại trong các dòng họ là Đoàn (Đoàn Dự Đoàn Dự ^^), Dương, Cao, Duẫn. Bộ tộc này nổi tiếng nhất là tập tục treo quan tài lên vách núi, gọi là huyền quan.

[2] Chỗ này có hơi khó hiểu một chút, cần nhìn vào nguyên bản thì mới hiểu được. Chữ “bộc” viết là

, còn chữ “cức” viết là

, tức là chỉ khác nhau bộ “nhân” chỉ người ở dưới. Ý của đoạn này là Bộc tộc có mối quan hệ cực kỳ mật thiết tới loại thực vật có tên là “cức” (tức là cây táo gai, thuộc họ dây leo). Trong câu của “Lễ ký Vương Chế Thiên”, câu này chỉ người

, nhưng lại viết chữ

thay thế cho người luôn. Còn câu dưới trong sách phong thủy thì lại ngược lại, viết là

nhưng thực ra lại là chỉ thực vật, cây

. Còn đất “cửu cức tam hòe” ý chỉ đất làm quan to.

_______________________________________________

Chương 36: Giường (Nhất)

Đung đưa bà ngoại đung đưa, bà gọi bé cưng bà ơi, kẹo một bao, quả một bao…

“Ha ha, trông này, con gái tôi có xinh không cơ chứ!” Một người đàn ông hưng phấn ôm chặt cô bé gái mới sinh trong tay, dường như cô bé chính là kết tinh của toàn bộ ước mơ cùng kỳ vọng của anh ta vậy. Trên chiếc giường bên cạnh, một thiếu phụ nằm yên, mái tóc dài màu hạt dẻ rối tung xõa trên gối, gương mặt còn nguyên vẻ mệt mỏi kiệt sức sau cuộc sinh nở khó nhọc, nhưng vẫn không thể giấu nổi sự vui mừng lẫn tự hào.

Thiếu phụ yếu ớt mỉm cười nhìn chồng, ánh mắt khẽ ra hiệu một cách kín đáo sang vị bác sĩ đứng bên cạnh, người chồng lập tức hiểu ngay ý vợ mình.

“Cảm ơn bác sĩ Triệu rất nhiều, ha ha, tôi được làm cha rồi!” Người đàn ông hào hứng nắm chặt tay vị bác sĩ – một người đàn ông trung niên mặc áo blouse trắng – mà cảm ơn rối rít, người kia cũng mỉm cười gật đầu, nói một lời chúc mừng khách sáo. Nhưng lúc ông ta rụt tay lại, trong tay đã lộ ra một góc phong bao lì xì đỏ tươi, bàn tay nhanh như chớp đút vào túi áo. Từ lúc đó, nụ cười của vị bác sĩ càng trở nên thân thiện, lời chúc mừng càng chân thành hơn.

Tôi nhìn qua cửa kính chứng kiến từ đầu đến cuối, trong lòng tự nhiên cảm thấy vui buồn lẫn lộn, chẳng biết là vui hơn hay buồn hơn. Dù sao đi nữa thì một sinh mạng mới được sinh ra trên đời luôn luôn là một chuyện đáng mừng. Đối với cặp vợ chồng trẻ kia, đứa con này là máu thịt của họ, là lời đảm bảo cho huyết thống và dòng họ của họ có thể tiếp tục truyền lại cho đời sau. Nhưng sống trên đời này quả thực không thể cứ mãi ngây thơ như khi còn bé được, con người luôn luôn bị hoàn cảnh thay đổi.

Tôi dựa nửa người trên gối, quay đầu đi, cặp mắt chăm chú quan sát bình nước biển nhỏ giọt chậm rãi đã hơn hai tiếng đồng hồ còn chưa truyền xong trên tay mình. Vậy mà ban đầu cô y tá hứa hẹn mới ngọt ngào làm sao chứ, nào là chỉ cần chưa tới một tiếng đồng hồ là đủ này nọ, bây giờ thì để nó chảy nhỏ giọt thế này… Tôi vươn tay lên, không nhịn được mà định chỉnh lại kim truyền cho chảy nhanh hơn, nhưng chợt nghe Bạch Dực ho khan một tiếng, lạnh lùng cảnh cáo: “Chỉnh nhanh hơn coi chừng bị đau tim bây giờ.”

Tôi thở dài não nề, tiếp tục quay đầu nhìn lên trần nhà đếm thời gian trôi. Từ lúc được cứu ra đã hơn hai ngày. So với dáng vẻ thảm hại như sắp vào quan tài nằm tới nơi lúc đầu thì bây giờ coi như đã tốt lắm rồi. Bạch Dực vì bị mất máu quá nhiều, hơn nữa vết thương có dấu vết bị nhiễm trùng nên cũng phải nhập viện theo dõi. Lúc đó anh ta vì xông vào cứu tôi nên cũng bị Cửu Bộc Phệ Hồn Cức làm bị thương, tuy không đến mức nghiêm trọng như tôi nhưng cũng không phải là nhẹ. Nghĩ tới đây lại thấy buồn, tôi nợ anh ta quá nhiều, cho dù có dùng cả kiếp sau cũng chưa chắc trả hết được.

Sau khi mọi chuyện kết thúc, nghe nói người ta đã đào ra được thi thể của cha con họ Liên ra khỏi đám cây, nhưng thực ra cũng chỉ còn là một đám thịt thừa, phải cho vào túi đem đi mai táng. Nhưng cái gốc Cửu Bộc Phệ Hồn Cức đầy mùi máu tanh kia thì lại được đám người của Sở nghiên cứu coi như bảo bối trời ban mà nâng niu đem đi mất rồi. Chuyện này được xếp vào dạng cực kỳ bí mật, nên bị chính phủ tìm mọi cách dìm xuống, không cho xuất hiện trên mặt báo. Báo chí cũng chỉ dám đăng một cách hời hợt là hai người chúng tôi vì dũng cảm chống lại bọn bắt cóc mà bị thương, chứ không dám nói thật. Bất quá cũng phải, một thứ như cái cây đó là một phát kiến vĩ đại của cả ngành khảo cổ lẫn sinh vật học, có thể khiến cho đám nghiên cứu của cả cái nước này phải phát cuồng. Nếu nó bị công khai, có thể sẽ thu hút mọi sự chú ý từ mọi thành phần, nếu không nói là có thể gây khủng hoảng trầm trọng trong xã hội.

Lợi ích duy nhất mà chúng tôi được hưởng là nằm viện miễn phí, bao nhiêu phí tổn tính hết trên đầu Sở nghiên cứu, hơn nữa hai ngày nay còn được đủ loại lãnh đạo các cấp mang hoa tươi trái cây tới thăm hỏi tới tấp. Tuy nói là thăm hỏi, nhưng thực ra là để điều tra xét hỏi một vài vấn đề, và bóng gió xa gần yêu cầu chúng tôi không được tiết lộ chuyện này ra ngoài. Tôi và Bạch Dực lại càng không muốn gây sự, nếu quan đã nói thế thì dân đen cũng chẳng ngu tới mức cãi lại. Tuy nói là miễn phí, nhưng lúc này các phòng bệnh đều đầy nghẹt bệnh nhân, nên chúng tôi đành phải chuyển xuống phòng bệnh đặc biệt dưới tầng một. Nói một cách đơn giản thì ở tầng này, mỗi khoa đều được dành cho một phòng bệnh bố trí đặc biệt, dùng trong trường hợp khoa đó hết phòng chính thức. Cho nên có thể thấy bệnh nhân khoa thần kinh nằm chung với khoa bỏng và khoa hô hấp vân vân. Nhưng đối diện phòng chúng tôi, trời ạ, lại chính là khoa sản! Ngẩng đầu lên nhìn kỹ có thể thấy các bà các chị mang thai nằm đủ dáng bên phòng bên cạnh, có nhiều lúc ngượng không chịu được.

Đang khi tôi suy tính xem có nên nằm xuống giả chết không thì chợt nghe ngoài cửa có tiếng người cao giọng gọi: “A Tung! Con bị thương làm sao?!”

Giọng nói rất quen thuộc, lại còn mang theo ngữ điệu thân thương. Tôi hơi ngẩn ra một chút, là mẹ, mẹ đã cất công đi từ Thượng Hải tới thăm tôi! Nhìn là có thể biết chắc chắn mẹ đã ngồi tàu chạy suốt đêm đến, bọng mắt sưng húp còn muốn to hơn cả mắt, thở hổn hển chạy vội tới bên giường tôi. Trong lòng tôi chợt đau thốn lên, để cho mẹ phải lo lắng đến mức này, làm con như tôi quả thực bất hiếu.

Tôi vội vàng xoay xở ngồi thẳng dậy, Bạch Dực nằm bên cạnh cũng lo lắng ngồi lên. Mẹ tôi tay xách nách mang một đống bao to bao nhỏ chạy tới, trên người tôi có không ít vết thương, tuy chưa tới mức thành xác ướp, nhưng mẹ tôi vừa trông thấy tôi lúc này thì cặp mắt đã ướt nước, muốn sờ mặt tôi, rồi lại sợ làm tôi đau, nên cuối cùng kích động tới mức tay chân lóng ngóng. Tôi vừa xấu hổ vừa đau lòng, bèn cười khẽ: “Mẹ, mẹ ở xa như vậy mà chạy tới đây làm chi? Ba đâu? Ba có tới với mẹ không?” Nói xong tôi vội nhìn ra cửa, chỉ sợ lúc này ba mẹ tôi mà tự nhiên quyết định họp đại hội gia đình trong phòng bệnh này thì xấu hổ với Bạch Dực chết mất.

Mẹ tôi thở dài: “Ai~ nhận được tin của mợ con báo, nói con đang nằm viện mẹ hết cả hồn, phóng lên xe lửa tới đây liền! Ba cũng muốn tới, nhưng đi rồi thì ai coi nhà sách? Cho nên chỉ có mẹ tới thôi.”

Tôi thở phào nhẹ nhõm, Bạch Dực vẫn chăm chú ngồi bên cạnh nhìn, không hề lên tiếng. Tôi xấu hổ quay sang nhìn anh ta cười cười giới thiệu: “Bạch Dực, đây là mẹ tôi, mẹ, anh ấy là…”

Mẹ tôi lập tức buông túi nói: “Mẹ biết, con là Bạch Dực đúng không, cảm ơn con cứu mạng con trai dì, con chính là đại ân nhân của cả nhà dì đó! Dì là dì coi con như con trai rồi, từ nay về sau chúng ta là người một nhà đó nha!”

Bạch Dực nghe thế, thoáng cái cũng ngẩn người, xấu hổ không biết nói sao mà quay lại nhìn tôi một cái, sau đó quay sang mẹ tôi khách khí nói: “Dì khách sáo rồi…”

Mẹ tôi không thèm nghe hết câu, lập tức cúi xuống mở hết túi này túi kia ra, lấy ra một đống bình giữ nhiệt mà nói: “Ai~ coi hai đứa đó, bị thương thảm như vậy ~ nhất định phải bồi bổ thật tốt nha. Bạch Dực, con đừng có khách sáo với dì, dì nhìn là biết con khỏe hơn thằng con nhà dì nhiều mà! Lại đây lại đây, đây là bột đậu đỏ dì tự sao đó, uống nhiều một chút, bổ khí huyết nha!”

Nói xong lập tức mở bình thủy định đút Bạch Dực ăn canh. Tôi nhìn bà mẹ yêu quý từ xưa tới nay có cái tật niềm nở thái quá dọa Bạch Dực sợ tới mức sắc mặt thoắt trắng thoắt đỏ mà thở dài ngao ngán, vội vàng ngăn lại: “Mẹ, mẹ đừng có kích động như vậy, tốt xấu con mới là con ruột mẹ đây này! Đúng đúng, mẹ đừng có kinh ngạc, con trai mẹ chưa mất cái chân cái tay nào đâu…”

Mẹ tôi vừa nghe tới đó, lập tức nghiêm sắc mặt xua tay lia lịa: “Phủi phui cái mồm mày đi, ai bảo nói gở thế hả con! Ai da~ sao mà chỉ có mày không làm cho mẹ bớt lo đi chút nào được vậy hả…”

Bạch Dực thấy bầu không khí thoắt trở nên nghiêm trọng, vội nói như dàn hòa: “Dì, thực ra chuyện này chỉ là tai nạn thôi. Hơn nữa cháu cũng có trách nhiệm…”

Tôi vốn cảm thấy nợ Bạch Dực đã đủ nhiều, bây giờ nghe anh ta nói thế lại càng thêm khó chịu, đành lập tức chuyển hướng câu chuyện: “Mẹ, con với Bạch Dực truyền xong nước biển rồi, mẹ gọi bác sĩ tới giùm tụi con đi.”

Mẹ tôi nhìn chai nước biển trên tay tôi, thực ra vẫn còn lại một chút, nhưng tôi thực sự sắp chịu hết nổi rồi, vẻ mặt cầu xin nhìn mẹ. Mẹ tôi biết tôi ghét nhất là truyền dịch, đành thở dài gật đầu: “Rồi được rồi, để mẹ đi gọi y tá tới, đừng nhúc nhích đó, coi chừng chạm tới vết thương.” Nói xong lập tức bỏ ra ngoài, mà không hề để ý trong phòng bệnh thực ra có tồn tại một thứ được gọi là cái chuông gọi.

Bạch Dực lập tức bật cười: “Ha ha, mẹ cậu cưng cậu thật đó!”

Tôi xấu hổ quay sang nói với anh ta: “Anh đừng để bụng, bị mẹ tôi dọa sợ rồi phải không, tính mẹ tôi vậy đó.”

Anh ta cười khẽ mấy tiếng, lắc đầu: “Không đâu, dì rất tốt. Nhưng đúng là cả nhà cậu giống tính nhau thật đó. Thực ra mẹ cậu lo cho cậu lắm.”

Nhưng có những lúc không cần phải thể hiện hết ra ngoài một cách… “mạnh mẽ” như vậy. Tôi hiểu ẩn ý của Bạch Dực, cúi đầu xấu hổ, ném cho anh ta một trái quýt: “Dù sao thì trong mắt mẹ tôi bây giờ anh mới chính là con ruột của bả rồi!”

Anh ta chụp trái quýt cười gian tà: “Thì lúc nào mẹ vợ chẳng thương con rể hơn!”

Tôi trừng mắt nhìn, vì trên người quá nhiếu vết thương nên đành thúc thủ, chứ nếu không nhất định tôi đã cho anh ta một trận nên thân rồi, nhưng lúc này thì đành gân cổ lên mắng lại: “Đừng có nói bậy à nha, con mắt nào của anh nhìn ra tôi là vợ anh hả!!!”

Trong miệng anh ta toàn là quýt, nên trả lời có hơi lúng búng: “Thì cả hai con mắt chớ mấy, tôi cũng đâu phải Độc Nhãn Long!”

Ngay khi tôi bưng tay chặn vết thương chuẩn bị đứng lên ăn thua đủ với Bạch Dực thì chợt bên ngoài vang lên tiếng nhốn nháo ồn ào, không phải là tiếng hoan hô ăn mừng, mà là vừa có tiếng chửi mắng đánh nhau vừa có tiếng khóc lóc nức nở, nghe cực kỳ chói tai. Trong phòng bệnh của chúng tôi cũng có nhiều bệnh nhân khác lập tức ngẩng đầu nhìn sang xem có chuyện gì, tôi cũng tò mò áp mặt vào tấm kính nhìn sang bên kia, thấy có mấy người mang bao tay đen, mặc sắc phục lam sẫm đang đứng đó cãi nhau với mấy bác sĩ, chẳng mấy chốc mà biến thành ẩu đả, màu sẫm màu trắng lộn xộn thành một nùi với nhau. Các y tá đứng bên cạnh muốn can nhưng không sao can nổi. Cô y tá trông chừng việc truyền dịch cho tôi đẩy cửa bước vào, vì bên ngoài có ẩu đả nên trông cô cũng cáu kỉnh hơn thường lệ.

Tôi giơ cánh tay ra cho cô ta, hỏi: “Bên ngoài có chuyện gì vậy? Sao lại khóc lóc đánh nhau như thế?”

Y tá mang một cái khẩu trang rất to, không thấy nửa mặt dưới của cô ta, nhưng trong mắt vẫn tràn đầy bực tức, cô ta đáp bằng một giọng không hài lòng: “Đối diện là phòng bệnh phụ sản, có một cô gái vừa qua đời, gia đình đang làm ầm lên.”

Cô ta nhanh chóng rút kim tiêm ra khỏi mạch máu của tôi, dùng đầu ngón tay đè chặt lên vết tiêm nói tiếp: “Thai ngoài tử cung nguy cơ cực kỳ cao, mà cô gái này hi sinh cả tính mạng mình cũng chẳng giữ nổi anh chàng đó. Cho nên mới nói đàn ông toàn là một lũ không dám nhận trách nhiệm, cuối cùng chịu khổ chỉ có người con gái thôi, một xác hai mạng.” Nói xong còn đặc biệt hướng về phía tôi và Bạch Dực một cái nhìn cảnh cáo, sau đó kín đáo đưa cho tôi miếng bông băng để chặn lên vết tiêm rồi đi ra ngoài. Tôi và Bạch Dực dở khóc dở cười nhìn nhau, tôi nghĩ thầm, cả hai chúng tôi đều độc thân, ngay cả bạn gái còn không có, đi chỗ nào mà làm mấy chuyện không có trách nhiệm đó được đây?

Mẹ tôi nhân lúc tôi thay thuốc mà đi rửa trái cây, lúc này mới mang mấy quả táo trở về, ngồi xuống bên cạnh giường vừa gọt táo vừa chậc lưỡi kể: “Chậc chậc, tội nghiệp quá. Bà mẹ bên đó khóc tới chết đi sống lại luôn rồi. Dường như cô gái đó cũng mới ngoài hai mươi thôi hà, ai ~ chết sớm quá ~”

Tôi hỏi: “Mẹ, xảy ra chuyện gì vậy?”

Mẹ tôi cắt quả táo làm hai phần, chia cho tôi và Bạch Dực mỗi người một nửa, sau đó kể tiếp: “À, là một cô gái, có thai trước khi cưới, ai ngờ thai lại là thai ngoài tử cung, cuối cùng không kịp cứu cả mẹ lẫn con!”

Mẹ tôi nhìn quanh một vòng, sau đó quay lại nhìn chúng tôi một cách thần bí mà thì thầm: “Thực ra còn có một tin đồn nữa nha!”

Tôi biết tính mẹ mình, bà thuộc cái loại tò mò, không biết hết đến chân tơ kẽ tóc là cảm thấy khó chịu, hơn nữa còn đặc biệt thích đưa chuyện. Tôi nhìn Bạch Dực cười khổ hỏi: “Vậy mẹ còn nghe được cái gì nữa?”

Mẹ tôi thấy chúng tôi chịu nghe, mừng rỡ kể: “Ai~ phòng bệnh bên đó nghe nói có một cái giường tuyệt đối nằm không được nha!”

Tôi cắn quả táo  một cái “rốp”: “Là sao?”

Mẹ tôi hất cằm về phía cửa phòng bệnh đối diện nói: “Cái giường gần cửa ra vào nhất bên ấy ấy mà, người ta đồn là ai nằm lên đó thế nào cũng chết! Người nào nằm lên cái giường đó, cho dù là đến chờ sinh hay đến chờ phá thai cuối cùng cũng sẽ gặp chuyện không may cho coi. Đám hộ lý xì xầm về chuyện đó suốt, bảo là nó vì thế mà lúc nào cũng trống, mà người nào không biết chuyện tới nằm giường đó, nhất định đừng mong còn sống mà xuất viện!”

Tôi nghe mẹ kể đến mức rởn da gà, nghĩ lại bản thân mình cũng đang nằm trên giường bệnh còn gì, Bạch Dực thấp giọng hỏi mẹ tôi: “Chẳng lẽ gia đình người vừa qua đời cũng nghe được tin đồn này nên mới tới làm ầm lên sao ạ?”

Mẹ tôi bóc quả cam đưa cho Bạch Dực rồi mới gật đầu: “Ừa, sau khi chết thân nhân phải tới nhà xác nhận mặt, đúng không nào? Người thân của cô gái đó vô tình nghe thấy các nhân viên nói chuyện với nhau, nên lúc này đang làm ầm lên ngoài kia, nói là bệnh viện cố tình hại con gái họ. Nhưng dì  

nghĩ chuyện này phần lớn là do số mạng cô gái đó không tốt thôi, chuyện sinh nở này ấy mà, vốn là chuyện sống chết trong đường tơ kẽ tóc.”

Tôi im lặng ăn trái cây, giữa không gian thinh lặng có thể nghe thấy tiếng phụ nữ khóc la không ngừng bên ngoài, trong ngực cũng có chút ám ảnh. Đúng thế, bệnh viện là một nơi sống chết là chuyện thường. Trong thế giới này, những người thường xuyên tiếp xúc với người chết nhất chính là nghề bác sĩ, bọn họ mỗi ngày đều nhìn thấy cái chết, đồng thời, cũng nhìn thấy sự sống mới được sinh ra. Thế nhưng có nhiều người nhìn quen một thời gian đã bắt đầu lạnh lùng với sống chết, chỉ cần người chết không phải là người thân của mình, các bác sĩ có lẽ có cái nhìn hơi khác người bình thường về cái chết một chút. Đối với bọn họ đó chẳng qua chỉ là một công việc, cứu người là một dạng nghĩa vụ.

Tôi gạt mớ suy nghĩ hỗn độn đó sang một bên, lại nghĩ đến cái giường bệnh vì vừa có người chết mà lại trống đó. Phải chăng sẽ sớm có một người khác vào nằm lên nó? Tuy nói những chuyện này có lo lắng cũng vô ích, nhưng những gì từng thuộc về người chết lúc nào cũng có chút kiêng kị. Bạch Dực lặng lẽ nhìn tôi nhẹ nhàng nói: “Đừng nhìn nữa, có cái giường nào trong bệnh viện mà chưa từng có người chết đâu. Chuyện này nghĩ tới sẽ cảm thấy khó chịu đó.”

Anh ta vừa nói thế, tôi lại càng cảm thấy nhột nhạt không nằm tiếp được, cứ vô thức mà xoay trở người. Bạch Dực nhìn tôi nhăn mặt, liền nghiêng người nhẹ giọng hỏi: “Nếu cậu sợ như vậy thì tối nay chúng ta ngủ chung?”

Trong đầu tôi vẫn còn trăn trở không ngừng về vấn đề giường bệnh nên không còn kịp suy nghĩ gì khác, chỉ thuận miệng ừ ngay: “Ừ, anh đừng nói nữa, tôi thực sự còn sợ lắm…” Đột nhiên nghe Bạch Dực phì cười, tôi mới kịp nhận ra là mình vừa bị anh ta chọc, bèn tức giận nói: “Tôi mà sợ cái gì! Có chuyện quái quỷ gì mà tôi chưa từng gặp đâu chứ! Ông đây chính là Vệ Tư Lý đời thứ hai đây!”

Mẹ nghe tôi và Bạch Dực cãi qua cãi lại một hồi, cũng vui vẻ cười. Bà chuẩn bị đồ ăn cho chúng tôi, thu dọn quần áo phẳng phiu xong, đột nhiên như sực nhận ra cái gì mà nhìn lên cái đồng hồ trên cổ tay, thở dài nói: “Ai, mẹ phải về bây giờ đây, đã xin nghỉ công ty mấy bữa nay rồi. Đáng lẽ ra không nên cho con đi xa như vầy mới phải, nếu không đêm nay mẹ có thể ở đây canh bệnh được rồi!”

Tôi biết mẹ thương tôi vất vả, lại càng cảm thấy đắng lòng, vội vàng nói: “Mẹ, mẹ đừng lo cho con làm gì, mẹ xem con cũng không có thương tích gì nặng nề lắm, hơn nữa con bị thương là vì làm chuyện phải làm, đấu tranh với bọn bắt cóc cơ mà! Lúc về nhớ đem khoe khắp nơi nha, coi chừng còn được thành ủy tặng huân chương chiến công cơ đấy! Hi hi…”

Mẹ tôi cười mắng tôi là nói hươu nói vượn, nhưng thấy tôi quả thực không bị thương nặng lắm, cuối cùng cũng dịu sắc mặt, yêu thương nhìn tôi vài lần rồi mới mặc áo khoác chuẩn bị đi. Đột nhiên nhớ ra cái gì, bà lại quay sang nói với Bạch Dực: “À, Tiểu Dực, con giúp dì trông coi A Tung với nha, nó làm cái gì cũng bộp chộp, đụng đâu hỏng đó, từ bé đã là như vậy rồi, lúc nào cũng phải cả người đầy bùn đất mới chịu về nhà, nói nó đừng chạy lung tung, vậy mà nó đi đứng thế nào để ngã vào đám cỏ cao, bị sâu cắn đầy người nữa cơ! Thật là…”

Tôi nhìn mẹ vẻ mặt cầu xin dừng lại, nhưng cái máy hát của mẹ tôi một khi đã mở đài thì trừ phi chính bà nói tới mức mệt rồi thì thôi, bằng không không ai cản lại nổi, cuối cùng tôi cũng chỉ còn biết cúi thấp đầu câm lặng chờ mẹ tôi nói cho hết. Dù sao đi nữa thì những bệnh nhân trong phòng này chắc cũng đã nhịn cười tới sốc hông cả rồi, lịch sử quang vinh hồi tôi còn nhỏ bị mẹ tôi thoáng chốc lột trần hết, Bạch Dực nghẹn ngào khó khăn nói với mẹ tôi: “Dì yên tâm đi, cháu sẽ… sẽ bảo vệ cậu ấy… không để… để cậu ấy rơi vào bụi cỏ nữa… đâu…”

Mẹ tôi còn muốn nói tiếp, nhưng lại sợ trễ xe lửa, cuối cùng đành luyến tiếc vừa nhìn tôi vừa đi ra cửa. An tĩnh chừng vài giây, chợt nghe Bạch Dực phá lên cười, vì chạm phải vết thương nên trông anh ta cười còn khó coi hơn cả khóc: ôm chặt cánh tay bị thương, cười tới mức cả người đều run lên bần bật. Tôi vớ lấy mớ vỏ quýt ném thẳng vào mặt anh ta.

Anh ta lau nước mắt nói: “Ha ha, Tiểu An ơi là Tiểu An, cậu lúc còn nhỏ đúng là hài thật đó! Ha ha, lần sau còn cơ hội nhất định phải nhờ dì kể nhiều thêm một chút, còn hơn coi tấu hài nhiều!”

Tôi không thèm đôi co với anh ta, hơn nữa chờ anh ta cười nhiều quá, não thiếu dưỡng khí, thế nào cũng có cơ hội bị đem xuống khoa thần kinh cho coi!

Tôi vỗ vỗ giường nói: “Đủ rồi đấy, anh còn cười nữa đừng trách tôi trở mặt đánh anh à!”

Anh ta nghe thế càng không nhịn được, cười càng dữ dội, vung vẩy nắm đấm trước mặt anh ta cũng không ăn thua gì. Tôi nhịn không được quát to: “Tôi không cho phép anh cười nữa! Mẹ tôi nói anh chỉ nên nghe một nửa thôi, biết chưa! Sở trường của mẹ tôi là phóng đại đó, chuyện nhỏ như con kiến mẹ tôi có thể kể thành con voi! Không chừng chuyện cái giường bệnh bên kia cũng chỉ là chuyện mẹ bịa ra mà thôi!”

Một hộ lý ngồi bên cạnh bưng cặp lồng ăn cơm, vốn cũng đang vừa nghe chúng tôi nói chuyện vừa cười phụ họa, nghe tới đây chợt nghiêm sắc mặt ghé sát vào chúng tôi thì thầm: “Cậu trẻ này, mẹ cậu kể chuyện đó không phải bịa đâu!”

Dù sao cũng có cơ hội nói lảng sang chuyện khác, tôi lập tức chớp thời cơ hùa theo bà ta: “Như vậy thật có chuyện ma quỷ gì ở đó sao?”

Bà hộ lý là một phụ nữ trung niên phốp pháp, bà ta húp mì một cái “rột”, nuốt xuống đánh ực rồi mới nói: “Chứ còn gì nữa, tui là tui sợ phát khiếp lên được ấy chứ, mấy cậu trẻ đây có thể không tin, chớ trong làng tui cũng có những chuyện như vầy, gọi là quỷ bám giường, tức là ma quỷ đứng ở đầu giường nhìn người ta chằm chằm đó, mà thường chỉ gặp khi người đó lâm chung sắp chết thôi!”

Tôi bật cười: “Tôi mới chỉ nghe qua người ngủ ngày không chịu rời giường, chứ chưa nghe quỷ mà cũng bám giường không chịu dậy bao giờ, hì hì.”

Bà ta thấy tôi có vẻ không tin, liền lườm tôi một cái rồi nói tiếp: “Cậu đừng có nói vậy, tui thực sự nhìn thấy rồi!”

Quay lại nhìn ông già mình có trách nhiệm trông nom một cái, thấy ông ta đang ngủ, mới an tâm kéo cái ghế xịch sang chỗ chúng tôi, trong mắt thoáng một tia sợ hãi mà chậm rãi kể: “Hồi trước tui từng trông coi một bệnh nhân nằm ngay cái giường đó luôn, cô gái đó rất là xinh, đáng tiếc nha, không biết suy nghĩ, ai đời lại bằng lòng làm bé cho một lão, cuối cùng cái bụng to lên. Nếu như chịu đi giải quyết sớm thì đâu có gì phức tạp, nhưng mà cô ta tính dựa vào cái thai làm áp lực bắt cha nội kia ly dị vợ mà cưới mình, mà cha kia nhứt định không chịu, cuối cùng vẫn là không cưới được, mà cái bụng cứ càng ngày càng lùm lùm lên, nếu không chịu phá thì đành phải sinh ra. Mà đến lúc đó thì còn đâu là danh dự nữa? Cho nên không còn cách nào, cô ta bị cha mẹ vừa đánh vừa mắng đưa đến bệnh viện nhờ phá thai, bác sĩ đã bảo không được, sợ có biến chứng vì thai quá to rồi. Nhưng cha của cô gái đó cũng là dân có tiền, nên hối lộ cho bác sĩ một cái phong bì đỏ chót, nhờ bằng bất cứ giá nào cũng phải phá đứa bé đó!”

Tôi  ngạc nhiên hỏi lại sao ở trong bệnh viện lại có thể có chuyện như vậy xảy ra? Chẳng phải đã nghiêm cấm không được tặng quà tặng tiền cho bác sĩ hay sao? Bà hộ lý khinh miệt xì dài một cái đáp: “Làm gì có ông bác sĩ nào lại đi chê tiền đâu? Nói cho các người biết, người ta lúc nào cũng đưa tiền nhận tiền ngay trong thang máy, các người nhìn không thấy được, chứ nếu không ai mà dám nhận? Cuối cùng bác sĩ đó đồng ý, bảo đầu tiên cứ để cô gái nhập viện theo dõi xem sao, sẽ có cách giúp cô ta giải quyết cái thai. Vì thế cô ta nằm lại trên cái giường đó, ngay ngày hôm đó đã nằm mơ thấy ác mộng, nói cả nửa người dưới của mình đều là máu, còn nói có người đứng dưới cuối giường cô ta hát nhạc thiếu nhi, cái gì mà bé cưng, cái gì mà đung đưa gì đó. Nhưng cha mẹ cô ta cho rằng cô ta không muốn phá thai nên mới nói dối, bèn mắng cô ta rất dữ, bảo nhất định phải phá đứa bé đi. Vào buổi tối ngay trước ngày cô ta vào phòng mổ phá thai, là tui trông nom cô ta. Thực ra vào ban đêm tui cũng tranh thủ chợp mắt một chút, nhưng không dám ngủ say, sợ bệnh nhân kêu mà mình không biết. Cho nên đêm đó tui thực sự nghe thấy, giọng nói rè rè như kiểu băng cũ vậy đó! Tui tưởng nửa đêm rồi còn có ai lén nghe đài, nên đứng lên định đi tới nhắc nhở. Ai dè… tui nhìn thấy từ phía sau… đứng trước giường cô gái là một người đàn bà mặc áo đen thui… bà ta chắc chắn không phải người, vì mặt mũi trắng bệch như vôi vậy đó, cái cổ lại dài thượt… Tui sợ quá đâu có dám bước tới! Chỉ thấy bà ta đứng trước giường cô gái cười khanh khách, mà tui còn nghe rõ ràng dưới giường cô ta có tiếng trẻ con khóc. Ngày hôm sau lúc cô ta được đẩy vào phòng giải phẫu, tui vẫn thấy bà ta đứng giữa đám đông y bác sĩ, vẫn khanh khách cười, nhưng dường như mọi người xung quanh đều không hề nhìn thấy! Cuối cùng cô gái đó bị xuất huyết ồ ạt, chết cả mẹ lẫn con. Chuyện xảy ra rất nhanh, tất cả những nhân viên tạp vụ khác mà tui hỏi thử đều bảo không nhìn thấy bà ta, hơn nữa cấp trên cấm nhắc lại chuyện này, cho nên cuối cùng càng nói càng mơ hồ. Đây là lần đầu tiên tui đem chuyện này ra kể với người khác đó, dù sao hai cậu cũng là thanh niên, sắp ra viện rồi, chắc cũng sẽ không đem chuyện này đi nói lung tung đâu.”

Bà ta nói xong, cả tôi lẫn Bạch Dực đều lâm vào trầm mặc, không ai tiếp lời, bà ta thấy chúng tôi không có phản ứng, lại vừa kịp ông già bên kia bỗng cất tiếng ho khan, bà hộ lý liền quay lại trông coi bệnh nhân. Tôi nhìn sang Bạch Dực thì thầm: “Người đàn bà mặc áo đen đó có thể là ai?”

Anh ta nằm xuống giường, nói một câu bâng quơ: “Thực ra một người mới sinh ra là do một linh hồn chuyển hóa mà thành. Nếu con người dùng biện pháp bên ngoài chặn lại quá trình chuyển hóa tự nhiên đó, sẽ khiến oan hồn ấy bị tắc lại ở ngay miệng cống sinh tử.”

Tôi cúi đầu suy nghĩ những lời anh ta vừa nói, sắc mặt cũng bất giác mà càng lúc càng trầm trọng hơn. Bạch Dực quay lại nhìn tôi nói: “Tiểu An, tuy tôi nói thế này có khi cậu không thích nghe, nhưng có nhiều chuyện cậu gặp phải không nằm trong tầm khống chế của chúng ta. Cậu đã không còn khả năng nắm chắc mọi thứ nữa, mà lại không ngừng bị những thứ kia hấp dẫn, cho nên, không nhìn tới, không thèm biết tới chính là phương pháp an toàn nhất đối với cậu lúc này đấy!”

Tôi cũng biết bản thân mình không có bản lĩnh đối phó với toàn bộ những nguy hiểm không biết tên này, nhưng không hiểu sao cứ thường xuyên gặp phải những chuyện quỷ ma như vậy chứ? Những lúc nguy hiểm nhất hầu như đều phải trông chờ Bạch Dực tới cứu, chỉ cần một điểm này thôi cũng đủ làm tôi phải mang nợ anh ta suốt đời. Tôi xấu hổ gật đầu nói: “Ừm, nhưng anh cũng biết đó, tôi từ xưa đã hay gặp mấy chuyện kỳ quặc rồi, thực ra còn sống đến ngày nay cũng đã là may mắn lắm rồi. Thực ra chính anh mới phải cẩn thận đó, đừng nên ở gần tôi quá, tôi chỉ sợ…”

Bạch Dực nghiêm mặt cắt ngang lời tôi: “Tôi vẫn sẽ cùng cậu đi tới cuối cùng, lời này trước đây tôi không nói, sau này cũng sẽ không nói lại, nhưng cậu nghe cho kỹ này, mạng của cậu tôi sẽ ra sức bảo vệ. Tôi tuyệt đối sẽ không để cậu lại một lần nữa bị…” Nói đến đây, chợt anh ta sực nhận ra mình vừa lỡ lời gì đó, cả người chợt ngẩn ra như chìm vào một hồi ức sâu xa nào đó, sau đó chậm rãi nằm xuống không nói thêm gì nữa. Nhưng tôi vừa nghe thế, trong ngực đột nhiên có một cảm giác gì đó thật an tâm, cũng thật ấm áp, liền mỉm cười, nhẹ nhàng nói cảm ơn, Bạch Dực chỉ ừ một tiếng nhẹ bẫng coi như trả lời.

Chiều hôm đó, Lục Tử mang cơm tới. Từ khi tôi và Bạch Dực nằm viện, hắn vẫn quan tâm đến chúng tôi, lo lắng trước sau hết sức chu đáo. Lúc trước đã nghĩ tên này cũng nghĩa khí, bây giờ càng nghĩ hắn quả thực là một trong số ít người tôi có thể coi như bạn bè thực sự. Hắn bảo thức ăn bệnh viện không ngon, người không có bệnh ăn vào cũng muốn đổ bệnh nữa là bệnh nhân, nên mỗi ngày đều chịu khó mang cơm nước tới. Nhưng khi tôi còn chưa kịp cảm động, thì đã thấy hắn buông hộp cơm, vội vội vàng vàng chạy sang chỗ mấy cô y tá. Đến lúc này tôi mới hiểu hắn chịu khó như vậy là vì cái gì, sự cảm kích trong lòng thoáng cái xẹp mất một nửa, không khỏi lầm bầm mắng thầm: “Đúng là giang sơn dễ đổi bản tính khó dời, suốt ngày đi kiếm con gái!”

Cơm nước xong, tôi định đi qua đi lại một chút cho dễ thở, dù sao người mà không chịu thường xuyên vận động sẽ bị lả người đi, nhưng Lục Tử mất tăm không thấy bóng dáng, cuối cùng Bạch Dực thở dài nói: “Để tôi đi với cậu, dù sao chân tôi cũng không bị thương. Hơn nữa tôi cũng muốn đi lại một chút.”

Tôi chủ yếu bị thương ngay cổ chân, còn Bạch Dực chỉ có vết thương ở trên cánh tay, nên hai kẻ thương tích chúng tôi anh không ra anh, em không ra em nâng đỡ lôi kéo nhau từ từ bước ra khỏi phòng bệnh.

_________________________________________

Chương 37: Giường (Nhị)

Nói là vận động, chứ thực ra cũng chỉ là đi qua đi lại vài bước ngoài hành lang mà thôi, cũng coi như giãn gân giãn cốt. Bạch Dực ôm một bên vai tôi, tôi dùng tay còn lại đỡ lan can chậm chạp bước từng bước, ở trong góc hành lang rốt cuộc phát hiện ra Lục Tử đang nháy mắt trêu ghẹo cô y tá, cô kia vừa tức vừa thẹn đỏ mặt mắng hắn “Đồ lưu manh”. Chúng tôi ngán ngẩm nhìn, cũng không muốn quấy rầy “nhã hứng” của hắn, liền đỡ lan can chậm rãi đi về. Nhưng lúc đi ngang qua cửa phòng khoa phụ sản, chợt nghe tiếng tranh cãi ầm ĩ. Tôi vừa chớm nghĩ chỗ này quả thực náo nhiệt không thôi, chắc các bác sĩ y tá cũng sắp ra giải quyết, vừa ghé mắt nhìn vào, hóa ra có một cô gái mới vừa vào viện. Đó là một cô gái trông tuổi còn rất trẻ, mặc áo lông màu đen bó sát người, vóc dáng cực kỳ thon thả cân đối, chỉ có ở chỗ bụng có hơi mập ra. Đứng bên cạnh cô ta là một người đàn ông trông có vẻ rất nhã nhặn. Gương mặt của cô gái vẫn còn vài nét ngây thơ của trẻ con còn chưa kịp tan hết, có khả năng chỉ mới là học sinh cấp ba, cô ta chỉ thẳng vào người đàn ông kia mà mắng: “Anh đi chết đi, đúng là đồ không có lương tâm!” Người đàn ông nọ đeo kính mắt, nghe thấy cô gái cao giọng mắng mình, trong mắt chợt lóe một tia hung ác, nhưng nhanh chóng bình tĩnh trở lại, gã thấp giọng nói vài câu, cô gái nghe xong chợt ngẩn người ra, sau đó bụm mặt nức nở khóc. Gã đàn ông cũng không có ý định đỡ cô ta, chỉ để mặc cô ta khóc, cuối cùng cô gái ngẩng đầu nhìn lên, lớp trang điểm trên mặt nhòe nhoẹt hết cả, trông cực kỳ đáng sợ. Cô ta nhìn thấy chúng tôi, chợt ngẩn người, sau đó nhìn Bạch Dực gọi to: “Đó không phải là Bạch đại ca sao!”

Tôi ngạc nhiên, cô gái, à không, cô bé này lại biết Bạch Dực? Cô bé chạy tới trước mặt chúng tôi nói với Bạch Dực: “Anh không nhớ em à, em là Hiểu Mai, Tần Hiểu Mai đây! Em ở lầu dưới phòng chị Nguyệt Linh đây mà!”

Bạch Dực chăm chú nhìn cô ta một lúc rồi đáp: “À, biết rồi, là cô bé nhà họ Tần ở dưới phòng chị Nguyệt Linh.”

Bạch Dực cũng không nói gì thêm, chỉ chăm chú nhìn cô gái một lúc, tôi thấy gã đàn ông kia trông có vẻ cực kỳ bối rối, đương nhiên là vì không ngờ gặp phải người quen trong này. Gã đang định bỏ đi thì đã bị Tần Hiểu Mai kéo lấy, cười cười giới thiệu với chúng tôi: “Đây là bạn trai em, tên là Triệu Hiên. Hì hì, còn đây là em trai của chị Nguyệt Linh ở trên lầu, tên là… tên là…”

Tôi bật cười, ngay cả cái tên cũng gọi không ra, vậy mà có can đảm tới nhận người quen, cô bé này thật đúng là thú vị. Bạch Dực nhẹ nhàng nhắc lời: “Tên là Bạch Dực.” Sau đó quay sang tôi giải thích: “Trước khi đến ở trong ký túc xá, tôi có ở nhờ nhà chị Nguyệt Linh một thời gian.”

Gã đàn ông tên Triệu Hiên kia thực lòng không muốn nói chuyện với chúng tôi trong hoàn cảnh này, nên chỉ xấu hổ chào một câu, sau đó rút tay khỏi tay Tần Hiểu Mai, nói có việc gấp mà nhanh như chớp chạy khỏi bệnh viện. Chờ gã đi khỏi, trong mắt Tần Hiểu Mai ánh lên một cái nhìn rõ ràng là đau khổ, cô bé cắn môi, đôi mắt hơi ươn ướt, nhìn chúng tôi cười gượng: “Ha ha… anh ấy bận rộn lắm…”

Sau đó cô bé nghiêng đầu nhìn tôi: “Anh đẹp trai này là ai thế ạ?”

Tôi lần đầu tiên mới có người khen là đẹp trai, lập tức đỏ bừng mặt, cảm thấy cả người như nhẹ bỗng đi, cười cười nói: “Anh là An Tung, đồng nghiệp của Bạch Dực. Em là…?”

Tần Hiểu Mai kỳ thực là một cô bé rất khả ái, mái tóc quăn dài xõa tung, gương mặt còn lấm chấm tàn nhang. Nhưng cái bụng hơi hở ra của cô bé cho tôi biết rất rõ, cô bé này vậy mà đã là mẹ của một mầm sống nhỏ. Tần Hiểu Mai luồn tay vào tóc mình, thở dài: “Ai~ không còn cách nào khác, không ngờ em lại lỡ có bầu. Triệu Hiên bắt em phải phá, anh ấy cũng đang là sinh viên, hơn nữa người nhà anh ấy không thích em với anh ấy quen nhau. Anh ấy nói chúng em còn trẻ quá, không nên có con. Chứ thực ra em muốn sinh nó ra cơ… dù sao thì…”

Cô bé hít một hơi thật sâu, làm ra vẻ dễ dãi mà nói: “Dù sao tụi em cũng vẫn còn trẻ mà! Chờ tốt nghiệp xong có công việc ổn định còn sinh được đứa khác mà!”

Tôi nhìn kỹ cô bé trước mặt, cảm thấy suy nghĩ của cô ta đúng là còn rất trẻ con, thế nhưng nếu đó là quyết định của chính cô ta thì cô ta cần phải trả một cái giá tương xứng với sự dễ dãi của mình. Bạch Dực không nói gì thêm, anh ta vốn rất lãnh đạm với những người chỉ quen sơ sơ, rất ít lời. Tần Hiểu Mai thấy chúng tôi cũng không phản đối gì, liền chỉ vào cái giường kê sát cửa mà nói: “Em ngủ trên cái giường đó. Vốn phá thai là một việc rất nhanh, nhưng cơ thể em lượng tiểu cầu quá thấp, nên bác sĩ yêu cầu phải nhập viện ít ngày theo dõi cho ổn định đã rồi mới phá thai sau.”

Quả nhiên là cái giường của thần chết. Tôi lo lắng nhìn Bạch Dực, thấy anh ta cũng nhăn nhíu mày. Tôi thấp giọng quay sang nói với cô bé: “Em không nên nằm cái giường đó đâu, bảo người ta đổi giường đi, thực sự không đổi được thì đừng phá thai nữa.”

Cô bé cười hì hì nhìn tôi, nháy mắt với tôi một cái ngọt ngào làm tôi thoáng cái xây xẩm cả mặt mày, may là có Bạch Dực đỡ sau lưng mới không bị té làm mất mặt. Cô bé dịu dàng nói: “Anh Tiểu An quan tâm tới em như vậy em cảm ơn, nhưng người ta không còn cách nào khác mà, không phá thai, lỡ như bị ba má biết thì em sẽ bị mắng thảm mất. Hơn nữa A Hiên cũng không chịu đâu, chẳng lẽ lại bảo đứa bé này là con anh Tiểu An?”

Tôi vừa nghe thì đã lập tức lắc đầu lia lịa như trống bỏi, nói nó là con tôi?! Chuyện nghiêm trọng như vậy tôi không dám nhận đâu nha! Cô bé bật cười ngây thơ nói tiếp: “Mặc kệ người ta nghĩ sao thì nghĩ, em chỉ cần A Hiên ở bên cạnh là đủ, con cái sau này còn có thể có mà.”

Đột nhiên tôi cảm thấy giọng nói của cô bé chợt biến đổi, đặc biệt là khi cô bé nói câu “con cái sau này còn có thể có”, rõ ràng trong giọng nói có điệp âm, như thể có ai đó đang đồng thanh cùng cô bé nói vậy. Tôi ngẩn người ra, Tần Hiểu Mai gọi tôi vài cái tôi mới giật mình tỉnh lại. Đang lúc định kể cho cô bé nghe tin đồn về cái giường kia thì bác sĩ đã tới kiểm tra cho cô bé, hai chúng tôi không thể cứ đứng hoài ngoài cửa phòng bệnh khoa phụ sản, đã có mấy bà mấy cô mang thai tò mò nhìn chúng tôi chằm chằm, chắc là nghi ngờ một trong hai chúng tôi chính là “tác giả” cái thai trong bụng Tần Hiểu Mai rồi. Để tránh nghi ngờ lung tung, chúng tôi cũng đành từ biệt Tần Hiểu Mai, sau đó vội vàng rời đi.

Trước khi đi tôi rõ ràng còn nghe thấy điệp âm vang vọng đâu đó trong không khí, con cái sau này còn có thể có…

Cánh tay Bạch Dực đang đỡ vai tôi chợt miết mạnh một cái, kéo tôi ra khỏi suy tư. Ánh mắt anh ta nhìn tôi rất phức tạp, dường như muốn nói gì, rồi lại thôi, chỉ thở dài mệt mỏi. Tôi biết anh ta lo lắng tôi đi gây sự, liền gãi gãi đầu ngượng ngùng nói: “Hì hì, lần này tôi hứa tôi sẽ không xen vào nữa đâu, yên tâm đi.”

Nửa đêm hôm đó, tất cả mọi người đều ngủ say, không gian yên tĩnh một cách đặc biệt. Bệnh viện là nơi không bao giờ có thể hoàn toàn yên lặng được, lúc nào cũng có những thứ tiếng động nho nhỏ nào đó, tiếng nước dịch truyền nhỏ tí tách, tiếng ho khan, tiếng ngáy, tiếng máy dưỡng khí, tiếng điện tâm đồ, và tiếng động của biết bao thứ máy móc không biết tên khác. Nhưng so với ban ngày, bệnh viện ban đêm mang theo một thứ cảm giác tĩnh lặng đến bất an, giống như sự chờ đợi phập phồng không ngừng, chờ cho đến khi có một biến cố kinh hoàng nào đó chợt xảy ra, ví dụ như một người bệnh chợt lâm vào tình trạng hiểm nghèo chẳng hạn, khi đó cả gia đình đều đổ xô tới phòng bệnh, ồn ào, náo nhiệt, hốt hoảng, rối rắm như ban ngày.

Cả ngày gần như đều dán chết lên giường bệnh, ăn, truyền nước biển, kiểm tra, ngủ. Lúc đầu tôi bị mất máu nhiều nên ban đêm còn mơ màng ngủ thiếp đi được, nhưng bây giờ khỏe hơn một chút lại đặc biệt mất ngủ. Chưa kể những vết khâu trên người bắt đầu kéo da non, cực kỳ ngứa ngáy khó chịu. Tôi xoay qua trở lại một lúc vẫn không ngủ đi được, đầu óc thảnh thơi lại bắt đầu nghĩ tới những chuyện ban ngày. Mẹ lúc này hẳn đã về tới nhà. Tên Lục Tử kia thực sự phải dạy dỗ lại, nếu không có ngày ra đường bị người ta đánh thì khổ! Nghĩ đi nghĩ lại, lại nghĩ tới chuyện cái giường và chuyện Tần Hiểu Mai. Cô bé con không hiểu sự đời, chưa kể tên Triệu Hiên kia nhìn cũng không phải người tốt, hiện tại Tần Hiểu Mai đã mang thai gã không thể hiện trách nhiệm làm đàn ông của mình, lại còn thực sự làm cho những người đàn ông phải mất mặt, loại bạn trai như vậy chẳng thà chia tay sớm một chút còn tốt hơn, đúng là loại ích kỷ nhỏ nhen chỉ biết có mình. Cuối cùng, tôi không nhịn được lại nhớ lại chuyện của người đàn bà mặc áo đen nghe lúc chiều, bà ta rốt cuộc là cái thứ gì? Lẽ nào là một bệnh nhân đã chết trên giường đó trong quá khứ, bây giờ quay lại ám những người tiếp theo?

Ánh trăng xuyên qua cửa sổ chiếu vào phòng, nhuộm căn phòng tối đen thành một màu xanh nhạt u ám. Ngoài hành lang đèn sáng trưng, nhưng chính vì thế mà càng khiến người ta cảm thấy chói mắt. Các y tá có trách nhiệm chỉ đi kiểm tra một hai lần lúc đầu buổi tối, còn lúc khuya khoắt này thì không còn thấy mặt mũi đâu, đúng như lời bà hộ lý ban chiều đã nói, ban đêm, mọi người đều ngủ. Bốn bề an tĩnh. Bạch Dực khẽ trở mình, đưa tay kia gãi gãi cánh tay bị thương, xem ra vết thương của anh ta cũng bắt đầu gây ngứa.

Nửa đêm ngủ không được có khả năng lớn nhất là do mắc tiểu, cần phải đi vệ sinh. Tôi ngẩng đầu nhìn bình nước biển còn chưa truyền hết, chậm rãi ngồi dậy định mang cả giá truyền theo. Có thể là do gây tiếng động, hoặc Bạch Dực căn bản là chưa từng ngủ, anh ta ngồi dậy nhìn tôi hỏi: “Cậu đang làm cái gì vậy?”

Tôi thấy anh ta cũng tỉnh, vừa lúc có thể giúp tôi cầm chai thuốc, hơn nữa WC cũng xa, muốn đi tới đó coi chừng vết thương trên chân chịu không nổi mất, liền bảo anh ta giúp tôi đi toa lét. Bạch Dực lau lau mặt, cầm lấy cặp kính để trên đầu tủ, mặc áo khoác bước xuống giường tới đỡ tôi.

Tôi cũng khoác một cái áo khoác, đồ mặc trong bệnh viện có nhược điểm là chống lạnh kém, tuy trong phòng bệnh có máy sưởi, nhưng ngoài hành lang thì cần phải duy trì sự thông gió, nên vừa ra khỏi cửa là lập tức không khí lạnh buốt ùa tới, lạnh tới mức cả hai lập tức run lẩy bẩy.

Tôi cà nhắc cà nhắc chạm từng bước nhỏ trên mặt đất, tay khoác qua vai Bạch Dực, cố hết sức đứng thẳng người. Sau đó quay sang xấu hổ cười với anh ta: “Xin lỗi anh nha, ngày mai tôi kiếm một cái xe lăn, khỏi cần phiền phức thế này.”

Dường như chạm phải vết thương trên tay, anh ta cũng cắn chặt răng thấp giọng nói: “Cậu cũng đừng dựa hết lên người tôi như vậy, cố gắng tự giữ thăng bằng một chút.” Nhưng cả hai chân tôi đều bị thương, bảo tự giữ thăng bằng là giữ thế nào cơ chứ?! Hừ, giá như mình mà là con gái thì chắc anh ta chẳng khó chịu như vậy đâu nhỉ, đau đến mấy vẫn có thể cười đến nở hoa ấy chứ! Nghĩ thế, tự nhiên tôi cảm thấy tức, liền cố tình đè cả nửa người dựa hẳn lên người anh ta. Dường như tôi đã làm hơi quá, vì tay Bạch Dực run lên, tôi thấy mình đùa quá trớn, liền vội vã dùng một tay đỡ tường, cố hết sức giảm sức nặng đè lên người Bạch Dực. Cứ như thế, hai kẻ tàn tật chúng tôi vừa dìu vừa đỡ nhau ra khỏi phòng bệnh. Mỗi tầng chỉ có hai nhà vệ sinh, tầng này có khoa sản nên WC nữ thì rất gần, nhưng WC nam thì xa tít tận cuối hành lang.

Ngọn đèn ngoài hành lang hắt ánh sáng lên lớp gạch men sáng bóng trên tường, tạo thành một thứ ánh sáng trắng lóa mắt. Giống như lúc nãy tôi đã nói, ngoài hành lang có hệ thống thông gió, nên trên đỉnh đầu chúng tôi gió lạnh cứ thế thốc qua dữ dội, tôi có mặc áo khoác mà còn thỉnh thoảng rùng mình vì lạnh. Nhưng đoạn đường này chỉ cần đỡ lan can mà đi, cũng khá thoải mái. Đi tới bên phòng y tá trực, phát hiện trong phòng chỉ có một cô y tá dường như đang cúi đầu xem tiểu thuyết, thỉnh thoảng thấy cô ta bật cười. Lúc chúng tôi đi ngang qua, cô ta chỉ hơi ngẩng đầu lên nhìn một cái, sau đó lại cúi đầu chăm chú đọc.

Đi qua phòng y tá trực không còn phòng bệnh mà là phòng kiểm tra và phòng chứa đồ tạp nham. Ngoài cửa để mấy cái giường đẩy, bên trên chất chăn và đệm dơ. Đoạn này không dễ đi chút nào, thường gặp phải chướng ngại vật, tôi phải tránh tránh né né rất khổ cực. Phải đến mười phút sau chúng tôi mới tới được cửa nhà vệ sinh, tôi không khỏi nghĩ thầm: may mà không gấp đi lắm, nếu không cầm chắc chết nửa đường rồi.

Ngoài cửa nhà vệ sinh chất một đống rác, trong bể nước có một cái thùng bằng nhựa, đồ lau nhà chất đống lộn xộn ngáng cả cửa ra vào. Tôi vừa nhìn thấy thế đã muốn khóc, cái này chẳng phải là thách thức cực hạn của tôi sao? Tôi đưa mắt nhìn Bạch Dực, anh ta nhìn lại tôi bằng ánh mắt “nhìn tôi làm cái gì”, tôi đáp lại bằng vẻ mặt tuyệt vọng. Cuối cùng tôi bĩu môi, đành từng bước tiến tới trước, bị Bạch Dực ngăn lại, anh ta thở dài, cầm theo bình nước biển tiến tới, vừa đi vừa dùng chân đá văng mấy thứ cản đường qua một bên. Tôi bội phục nhìn anh ta, cái loại biện pháp này mà cũng nghĩ ra cho được, không hổ là người có học thức nha (!)

Sau khi sàn nhà đã gọn gàng hơn, Bạch Dực cũng theo tôi vào nhà vệ sinh. Tôi xấu hổ nhìn anh ta cười cười, ý bảo anh ta quay lưng lại, nhưng anh ta đã nhướn mày giục: “Cậu mau mau lên đi, cái bình nước biển này cầm mỏi tay lắm đó.”

Tôi lườm anh ta một cái, nhưng nghĩ lại thấy anh ta nói không sai, đều là đàn ông con trai, tôi có anh ta cũng có, tôi không có anh ta cũng không có, mà lúc tôi dũng cảm tè bậy ngoài sông Hoàng Phố[1] thì chắc anh chàng này còn đang ru rú học trong nhà kìa! Vì thế lập tức quay sang giải quyết vấn đề cá nhân, cái này là thứ con người không nên nhịn, nếu không sẽ bệnh mất.

Khi tôi giải quyết xong định trở về thì chợt thấy ánh mắt Bạch Dực thốt nhiên biến đổi, tôi chỉ cảm thấy sau lưng mình một luồng khí lạnh toát xốc tới, tóc gáy lập tức dựng thẳng đứng lên. Mơ hồ từ xa nghe thấy tiếng bánh xe chuyển động, tôi vừa định quay đầu lại nhìn thì Bạch Dực đã kéo mạnh tay tôi một cái, trên tay còn kim tiêm nên tôi đau đến mức lạnh cả óc. Trong lúc hốt hoảng, lại nghe được một mùi thơm rất quen thuộc, mùi hương này… dường như đã nghe thấy trên người ai đó…

Tiếng bánh xe… mùi hương thơm… lẽ nào bà già quỷ đó đang lảng vảng quanh đây? Chết tiệt, bà ta muốn tìm tới tận nhà vệ sinh nam mà bán với buôn à?!

Tôi hoảng hốt hỏi: “Lão Bạch, chẳng lẽ lại chính là…?” Quả nhiên còn chưa hỏi xong thì đã nghe tiếng bánh xe từ xa vẳng lại lúc có lúc không. Nhất thời tôi quên béng cả cây kim cắm trên tay, cho tới khi Bạch Dực cúi đầu xuống áy náy hỏi: “Lúc nãy chạm phải kim trên tay cậu rồi à?”

Tôi nhìn lại cánh tay đã bắt đầu xuất huyết, bèn thẳng thắn yêu cầu Bạch Dực rút luôn cây kim ra, dù sao thì vị trí của kim đã bị lệch, nếu còn để nó ở đó thế nào lát nữa chỗ đó cũng sưng phồng lên thôi. Bạch Dực nheo nheo mắt, do dự hỏi: “Rút ra thật à?”

Tôi nghĩ thầm: có đau cũng là tôi chứ có phải anh đâu, nếu không rút ra lúc này, chờ tới lúc lão quỷ bà đó tìm tới tôi làm sao chạy cho kịp? Tôi cắn răng, cố tỏ ra anh hùng mà nói: “Rút đi, ông đây đã sớm muốn rút từ lâu rồi, thứ quỷ này cứ dán trên tay thật sự rất khó chịu…”

Nhưng Bạch Dực không chờ cho tôi diễn hết vở kịch anh hùng đã lập tức tóm lấy tay tôi, rút mạnh một cái. Lập tức máu và dịch truyền từ lỗ tiêm trào ra, đau tới mức tôi muốn rớt nước mắt, cắn chặt răng đóng tròn vai anh hùng cho tới phút cuối. Nhưng trong lòng thầm mắng: Chết tiệt, anh có thể nhẹ tay hơn được không chứ, chí ít cũng phải rút từ từ! Quả nhiên tay chân đàn ông thì không thể nhẹ nhàng như phụ nữ được mà! Bạch Dực không thèm nhìn tôi đau đớn, mà chỉ bưng kín miệng không cho tôi phát ra tiếng động mà nói: “Đừng lên tiếng, chúng ta coi như không nghe không biết gì hết, dù sao thì bà ta có thể xuất hiện ở khắp nơi mà, nơi nào có người bà ta đều sẽ có mặt.”

Tôi gật đầu, trên tay không còn kim tiêm nên di chuyển cũng thuận lợi hơn, Bạch Dực gần như bế hẳn tôi ra ngoài. Ngoài hành lang không có thứ gì khác, tiếng bánh xe cũng đã biến mất, tuy vẫn còn thấp thoáng hương thơm, nhưng cũng bị mùi cồn tiêu độc và vị thuốc át đi gần hết.

Tôi một tay vẫn đỡ lan can, tay kia khoát lên vai Bạch Dực. Nhưng đường trở lại của chúng tôi dường như có cái gì đó… không đúng, Bạch Dực hẳn cũng đã nhận ra sự khác thường ở đây. Vì màu ánh đèn đã thay đổi, lúc nãy là màu trắng sáng chói cả mắt, còn bây giờ là một màu da cam vàng vọt lại chớp tắt dường như thiếu điện hay bị hở dây gì đó.

Tôi trợn mắt nhìn quanh quất bốn phía, cảm giác sự thay đổi rõ rệt của cảnh vật xung quanh, trong lòng càng lúc càng hoảng, trên trán đã bắt đầu toát mồ hôi lạnh, tôi lắp bắp hỏi: “Lão Bạch… anh có cảm giác… bây giờ với lúc nãy không giống nhau lắm không…?”

Tôi đã từng nghe nói tới hiện tượng “quỷ đả tường”[2], nói nào ngay, chính tôi cũng từng gặp phải rồi. Nhưng nó toàn là xuất hiện ở những nơi đồng không mông quạnh, hay là ở những địa phương hẻo lánh, sao có thể gặp phải ngay trong bệnh viện được kia chứ? Lẽ nào muốn chúng tôi vừa chửi thật to vừa chạy ào ra? Bạch Dực không phản ứng gì, nhưng hẳn nhiên là anh ta cũng đã nhận thấy sự dị thường xung quanh, ở đây căn bản không phải là nơi chúng tôi đã tới, bởi vì nó đã biến dạng hoàn toàn rồi!

Tuy khung cảnh xung  quanh đã thay đổi nhiều, nhưng căn bản vẫn là bệnh viện, xung quanh tràn ngập một mùi thuốc gay mũi. Hành lang bệnh viện biến thành một màu xanh lá mạ cũ kỹ, đèn cũng là loại đèn bóng tròn cách đây mấy chục năm, tất cả làm tôi có cảm giác như thời gian đã lùi lại hai mươi năm trước vậy. Tôi nhìn Bạch Dực, cái này gọi là gì nhỉ? Trên internet bây giờ rất thịnh hành mốt “xuyên qua”, lẽ nào chúng tôi cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự rồi?!

Lúc này chúng tôi lại nghe tiếng bánh xe chuyển động, lần này gương mặt Bạch Dực hiện rõ vẻ tức giận lẫn mất kiên nhẫn, anh ta vỗ vai tôi nói: “Đi! Đi tìm bà lão quỷ kia hỏi chuyện! Tôi chịu hết nổi rồi, cứ để bà ta tự tung tự tác thế này có ngày chúng ta bị tâm thần phân liệt hết!”

Nói xong gần như túm tôi lôi đi xềnh xệch dọc hành lang dài. Chân tôi còn băng bó nên đi rất chậm, cho nên Bạch Dực tức đến mấy cũng không thể đuổi kịp tiếng bánh xe, mà tôi thì đã bị kéo đi đau hết cả hai chân rồi. Tôi bèn kéo tay anh ta lại: “Lão, lão Bạch… tha cho tôi đi, tôi đi không được nữa đâu, cứ thế này nữa thì hai chân gãy mất. Đừng đuổi theo nữa, nghĩ cách trở về đi…” Nói xong tôi trượt người ngồi bệt hẳn xuống đất. Bạch Dực cũng ngồi xuống, vuốt cằm suy nghĩ một lát rồi nói: “Cậu xem, cách bố trí chỗ này cũng không khác gì mấy, nói cho đúng ra chỉ có thiết bị là được đổi mới mà thôi. Có thể thấy nó vẫn là cái bệnh viện đó.” Nói xong ngẩng đầu nhìn lên những tấm áp phích dán trên tường, phong cách y hệt như những loại áp phích vẽ hồi những năm 70, tuyên truyền phòng chống bệnh đau mắt hột. Tôi ngẩng lên nhìn theo, mẹ ơi! Năm 1978! Năm đó tôi còn chưa sinh ra nữa kìa!

Tôi nhìn Bạch Dực trân trối lắp bắp: “Cái này… cái này không phải là một dạng hồi ức đó chứ? Anh lớn hơn tôi, có khi nào năm này là năm anh sinh ra, tiềm thức của anh muốn nhìn thấy cảnh bản thân mình ra đời cho nên cố tình đẩy chúng ta về thời điểm này hay không…?”

Tôi lúc này đúng là bị dọa cho đến hồ đồ, đầu óc rối tinh rối mù, nghĩ cái gì nói cái đó, căn bản không kịp có thời gian suy nghĩ xem khả năng đó có xảy ra được hay không. Bạch Dực chỉ lắc đầu: “Không phải, hm? Đừng lên tiếng, lắng tai nghe thử đi!”

Tôi im lặng lắng nghe, nghe mơ hồ vẳng lại từ ngoài hành lang một giọng hát của nữ giới, hát một bài đồng dao, giọng hát nghe cực kỳ mờ ảo, đặt trong hoàn cảnh hiện tại càng có vẻ kỳ bí hơn.

“Đung đưa bà ngoại đung đưa, bà gọi bé cưng bà ơi, kẹo một bao, quả một bao, bà ngoại mua con cá về nướng…”

Bài đồng dao này lúc còn nhỏ tôi cũng từng nghe qua, vào mùa hè bà nội tôi thường hay hát ru tôi ngủ. Đó là một bài đồng dao xưa lắm rồi. Bạch Dực đỡ vai tôi, khe khẽ nói: “Đi qua đó xem, chú ý sự thay đổi xung quanh đấy!”

Càng đến gần, tiếng hát càng vang vọng, cuối cùng chúng tôi phát hiện mình đã đứng trước cửa phòng bệnh khoa phụ sản, nhưng đối diện lúc này vẫn chưa có phòng bệnh mà chúng tôi đang nằm. Tôi và Bạch Dực nhìn nhau, rồi đưa tay từ từ đẩy cánh cửa phòng bệnh ra, cánh cửa cũ phát ra tiếng kẽo kẹt, ngay lập tức, tiếng hát ngưng hẳn.

Trong phòng bệnh có tổng cộng sáu cái giường, nhưng không hề có bệnh nhân, chỉ có những tấm rèm cửa sổ cùng màu chăn trắng muốt đơn điệu khiến thần kinh con người tự nhiên cảm thấy căng thẳng. Chung quanh tràn ngập mùi thuốc khử trùng kiểu cũ, sáu cái giường, bên trên chăn nệm đều được gấp gọn gàng.

Tôi đưa mắt nhìn Bạch Dực, ý hỏi tiếng hát liệu có phải thực sự phát ra từ đây hay không? Anh ta không trả lời, chúng tôi tự động chia nhau đi lục tung từng ngõ ngách trong phòng, nhưng căn phòng này thực sự chỉ là một căn phòng rất đỗi bình thường, có hơi cũ một chút, chậu rửa mặt in hoa văn kiểu xưa hơn hai mươi năm về trước, còn có một bình cắm hoa bằng thủy tinh màu đỏ rất thịnh hành thời bấy giờ. Ở thời hiện đại xem ra chúng đã rất lỗi thời, nhưng vào hai mươi năm trước, hầu như gia đình nào cũng có một bình hoa hình cầu như thế này. Đám hoa cẩm chướng cắm trong bình đã bắt đầu úa vàng.

Tôi buồn bực nói: “Căn phòng này chẳng có ai cả mà, hơn nữa tôi có cảm giác nó không được sử dụng từ lâu rồi, anh xem, hoa trong bình cũng héo rũ cả ra rồi!”

Bạch Dực đỡ tôi ra trước cửa sổ, cẩn thận từ từ vén rèm lên. Ngoài cửa sổ đen kịt một mảnh, không thể trông thấy bất cứ thứ gì, cảm giác tĩnh lặng đến đáng sợ, không hề có động tĩnh, có cảm giác như cả lá cây cũng không động đậy. Đột nhiên ngoài cửa chợt vang lên tiếng kẽo kẹt, Bạch Dực hoảng hốt túm tôi lôi ra trốn  vào góc phòng. Chúng tôi vừa kịp ngồi xuống thì đã có người đẩy cửa bước vào. Bước vào là một nam một nữ, người phụ nữ mặc áo blouse trắng, người đàn ông mặc quần kaki và một cái áo lông rất thịnh hành thời bấy giờ, cả hai đều trông có vẻ cực kỳ kích động. Người phụ nữ không kể đến hình tượng mà huơ chân múa tay loạn xạ, người đàn ông muốn tóm lấy cô ta nhưng không được. Cuối cùng người phụ nữ bật khóc nức nở lao người về phía người đàn ông, người kia không đề phòng, thuận tay đẩy người phụ nữ một cái, cô ta liền ngã đập đầu vào cạnh giường bệnh, máu tuôn lai láng. Cô ta kinh hoàng ôm trán, ánh mắt trong tích tắc đã thay đổi, thất vọng, tan vỡ cùng cực, cô ta mở to mắt chỉ vào gã đàn ông quát: “Tôi sẽ đi tố giác anh!” Gã nọ nghe thấy thế, đôt ngột sắc mặt tái mét đi, lập tức quay lại vớ lấy cái bình hoa điên cuồng đập lên đầu người phụ nữ. Cô ta vốn bị thương khá nặng lại còn bị đánh, cuối cùng gục chết ngay tại chỗ bên cạnh giường bệnh. Cái giường trắng phau trong nháy mắt nhuộm thành một một màu đỏ tươi gai người, ở giữa còn loang lổ sắc khô vàng của những cánh cẩm chướng đỏ đã ngả màu. Gã đàn ông đờ đẫn nhìn người phụ nữ đã tắt thở hồi lâu, mãi sau, dường như sực tỉnh, gã mới giật mình run run ôm chặt đầu ngồi sụp xuống đất, sau đó đưa ngón tay run lẩy bẩy từ từ tới bắt động mạch trên cổ người phụ nữ, chỉ thấy ngón tay gã vừa chạm vào cổ cô ta thì đã giật thót lên như điện giật mà rụt ngay lại. Gã hoảng hốt đứng bật dậy, đi qua đi lại trong phòng một lúc, cuối cùng như đã hạ quyết tâm, vội vội vàng vàng kéo xác người phụ nữ lên một cái giường, sau đó lập tức đẩy cái giường đó ra khỏi cửa. Tiếng bánh xe kin kít nghiến trên mặt sàn nghe đặc biệt chói tai, căn phòng trong khoảnh khắc chợt ngập tràn một mùi hương hoa cẩm chướng thơm ngát ma mị.

Đột nhiên tôi chợt nhận ra, tiếng cái giường bị đẩy đi lúc này rất giống với tiếng bánh xe ban đầu chúng tôi nghe thấy, còn mùi hương… đúng rồi! Mẹ tôi có một chai nước hoa mùi hoa cẩm chướng, trước khi ra khỏi nhà lúc nào cũng xức một chút… Lẽ nào khi nãy chúng tôi nghe thấy không phải là Tá Thọ bà, mà là… đầu tôi nhanh chóng rối thành một nùi, mãi mà không hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra. Chờ tiếng xe khuất hẳn, Bạch Dực mới kéo tôi ra khỏi chỗ nấp, hai chúng tôi nhìn nhau, phát hiện trong mắt đối phương biết bao nghi ngờ cùng hoang mang. Cuối cùng vẫn là Bạch Dực phản ứng trước, anh ta nhẹ nhàng vỗ vỗ vai tôi, chậm rãi đẩy cánh cửa ra nhìn ra ngoài. Trời ạ, lại một phen choáng váng nữa! Chẳng biết tự lúc nào mà tôi và Bạch Dực đã lại quay lại nhà vệ sinh nam, trên mặt đất vẫn còn bình nước biển và mớ dây truyền mà Bạch Dực giúp tôi rút ra lúc nãy, vẫn tiếp tục rỉ nước ra sàn. Bạch Dực nhặt bình nước biển lên, nhìn ngó bốn phía, lầm bầm cái gì đó trong miệng, sau đó quay lại đỡ tôi nói: “Đi thôi, ra ngoài trước rồi tính.”

Lần này chúng tôi đi cực nhanh, thậm chí tôi còn quên cả vết thương trên chân, chỉ sợ lại lạc vào không gian của hai mươi năm trước nữa thì khổ. Hành lang trở lại màu trắng tươi như cũ, đèn là đèn nê – ông chói mắt, không còn thứ ánh sáng vàng vọt tù mù, cũng không còn những tấm áp phích xưa nữa. Chúng tôi nhanh chóng nhìn thấy lại cô y tá xem tiểu thuyết trong phòng trực, lúc đó mới cảm thấy yên tâm hẳn, rốt cuộc đã trở về được rồi. Cô y tá ngẩng lên nhìn thấy chúng tôi, lập tức kinh hãi bỏ cuốn tiểu thuyết xuống mà chạy vội ra: “An Tung, anh đang bị thương ở chân mà, sao lại chạy? Còn anh Bạch Dực nữa, tay anh còn chưa lành mà, ối trời, sao hai người lại rút ống dịch truyền ra? Hai anh thật đúng là hồ đồ!”

Nói xong lập tức cùng Bạch Dực đỡ tôi về phòng, khi đi ngang qua cửa phòng bệnh khoa sản, tôi vô thức liếc mắt nhìn vào, thấy trong căn phòng tối đen lờ mờ một bóng người, không khí xung quanh tản mát một mùi hương cẩm chướng như có như không.

Tôi thầm mắng xui xẻo, lập tức cúi đầu đi một nước, lồng ngực lạnh toát như trong hầm băng, cái cảm giác này, dạo này trở nên cực kỳ quen thuộc với tôi thì phải? Lúc quay lại yên ổn nằm trên giường rồi, y tá giúp tôi nối kim dịch truyền lại. Tôi nhìn Bạch Dực một cái, rồi quay sang cô y tá sẽ hỏi: “Cô y tá, cho tôi hỏi… dường như phòng bệnh khoa phụ sản đối diện phòng chúng ta đã có từ hơn hai mươi năm trước thì phải?”

[1] Sông Hoàng Phố là tên một con sông nổi tiếng ở Thượng Hải, quê của Tiểu An.

[2] “Quỷ đả tường” là hiện tượng khi chúng ta đi một mình ở những nơi rộng rãi hoang vắng vào ban đêm, dễ bị mất phương hướng, cuối cùng có khuynh hướng đi thành một vòng tròn lớn. Nói là quỷ, thực ra là đi lạc. Trong tiếng Việt có một khái niệm tương tự là “bị ma dắt”.

.

Chương 38: Giường (Tam)

Nữ y tá treo lại bình nước biển lên giá đàng hoàng rồi quay lại nhìn chúng tôi một cái, sau đó mới nói: “Cũng không biết nữa, tôi mới về bệnh viện nên cũng không rõ lắm, chỉ có điều…”

Bạch Dực trừng trừng nhìn tôi một lúc, cuối cùng dường như chịu thua, đành thở dài quay sang cô gái hỏi lại: “Chỉ có điều thế nào?”

Cô y tá dường như rất thích Bạch Dực, chí ít bản thân tôi cảm thấy loại người như Bạch Dực rất xứng đáng làm bạch mã hoàng tử trong mộng tiêu chuẩn của các cô, đương nhiên, ngoại trừ những người có khiếu thẩm mỹ ngang bằng Đặng Thiền Ngọc[1] thì không nói làm gì. Cô gái làm ra vẻ bí ẩn mà nói: “Cách đây mấy năm lúc sửa chữa bệnh viện có phát hiện bên trong tường có một bộ xương khô của phụ nữ!”

Lòng tôi giật thót một cái, vội vàng hỏi lại: “Thật không? Chẳng lẽ ở đây từng có án mạng sao?”

Cô y tá có vẻ rất thích tán chuyện, thẳng thừng ngồi hẳn xuống bên giường hăng hái bàn luận: “Cái đó cũng không biết, vì giết người đâu có nhất định phải ở đây, cũng có khả năng là giết ở đâu đó xong mang vào đây phi tang cũng không chừng đó, trong tiểu thuyết trinh thám cũng thấy đầy mà, hiện trường phạm tội và hiện trường phát hiện thi thể không phải lúc nào cũng là cùng một chỗ đâu. Theo logic thì không ai dại tới mức bỏ xác lại chỗ cũ cả… Nhưng vấn đề quan trọng là ở chỗ, kể từ khi đào ra bộ xương đó, trong bệnh viện bắt đầu xuất hiện rất nhiều chuyện kỳ quái… lại còn sinh ra lời đồn đại về cái giường của tử thần nữa chứ!”

Tôi liếc sang Bạch Dực, thấy mắt anh ta cũng sáng rực lên, hẳn nhiên cũng đang nghĩ như tôi là hai việc này rõ ràng có liên quan với nhau. Tôi vừa định mở miệng hỏi thì Bạch Dực đã cướp lời: “Cái giường của tử thần chẳng phải chỉ là một lời đồn nhảm thôi sao? Lẽ nào nội bộ bệnh viện cũng tin?”

Tôi hiểu ngay là Bạch Dực đang có ý định khích tướng cô y tá này để cô ta kể thêm cho nên mới cố tình hỏi ngược lại như thế. Quả nhiên cô gái vội vàng phân bua: “Tin chứ, nói thật chứ không ai dám nói thẳng ra, nhưng ai cũng thấy quái dị hết, hơn nữa thỉnh thoảng có người còn nghe tiếng ai hát nhạc thiếu nhi nữa… Nói cho cùng, bệnh viện mà, những chuyện thế này… không thiếu gì. Nhưng trưởng khoa cứ bảo là tin đồn ác ý do các bệnh viện đối thủ khác cố tình tung ra để làm mất uy tín bệnh viện chúng tôi, nên không cho các bác sĩ y tá được bàn luận, cũng không cho chúng tôi hé răng với các bệnh nhân, bằng không sẽ bị đuổi việc mất!”

Nghe thế, tôi có hơi sợ, sinh mạng của con người mà lại có thể coi rẻ đến thế ư? Thế nhưng nghĩ kỹ lại thì cũng có thể hiểu được, nếu chuyện này đồn ra ngoài, lỡ như bị người khác hỏi “Vậy quỷ ở đâu?” thì ai mà trả lời cho được? Cho nên tốt nhất là đừng để lộ ra ngoài, đỡ phải gánh thêm phiền phức. Cô y tá còn hăng hái kể thêm mấy câu chuyện ma trong bệnh viện nữa, tới nửa đêm kìm không được một cái ngáp dài mới chịu đứng dậy ra ngoài, trước khi ra khỏi cửa dường như lại sực nhớ ra cái gì, vội quay lại hỏi: “À này, lúc hai anh đi vệ sinh, khi đi ra có phải phía sau lưng còn một người nữa đúng không?”

Tôi và Bạch Dực ngơ ngác nhìn nhau, sau đó cùng ngơ ngác lắc đầu, cô y tá cắn cắn môi, nhíu mày nói: “Thế thì lạ nhỉ, tôi thấy rõ ràng sau lưng hai anh còn một bóng người nữa cơ mà, tôi còn tưởng cũng là bệnh nhân nửa đêm đi nhà vệ sinh chứ!” Nói xong lập tức ra ngoài. Nhưng tôi và Bạch Dực đều rất rõ ràng, sau lưng chúng tôi tuyệt đối không có khả năng có thêm ai khác, vì nhà vệ sinh nam nằm ở đầu cùng hành lang, chúng tôi đi thẳng từ đó ra, mà trong nhà vệ sinh không hề có người thứ ba, như thế, trừ phi kẻ đó chui từ trong tường chui ra, hay rơi từ trên trời xuống, nhưng nói thế thì vô lý quá. Nói cách khác, đây là chuyện tuyệt đối không thể xảy ra theo logic thông thường…

Tôi nhìn tấm chăn trắng toát, trong đầu nghĩ tới hai con người trong không gian quái dị kia, có lẽ đó chính là người phụ nữ bị giết hại giấu xác trong tường bệnh viện. Như vậy, kẻ đã giết cô ta bây giờ ra sao, vẫn còn lẩn trốn trong bệnh viện này hay đã sớm bị bắt?

Mà chuyện xưa đó có liên quan trực tiếp gì tới câu chuyện cái giường bị ám kia? Chẳng lẽ là vì cô ta đã chết trên chính cái giường đó sao? Bạch Dực cũng chìm trong im lặng, mãi một lúc mới chợt thốt lên một câu không đầu không đuôi: “Chẳng lẽ là thuật gọi hồn? Dạo này chuyện quái dị thật đúng là chỉ có tăng chứ không có giảm!”

Tôi nghe mà không hiểu, nên hỏi lại: “Thuật gọi hồn là cái gì?”

Bạch Dực tháo kính mắt, lắc lắc cổ cho đỡ mỏi rồi nằm xuống gối như chực ngủ, nghe tôi hỏi liền hừ nhẹ nói: “Bây giờ có giải thích cậu cũng không hiểu, yên tâm, chỉ cần mình đừng xen vào thì không có gì nguy hiểm đâu, phải nghỉ ngơi thật khỏe để còn sớm sớm rời khỏi cái viện này cho lành.” Nằm xuống được một lúc, anh ta lại thêm: “Cậu cũng đi ngủ sớm đi, mai còn phải đi kiểm tra.”

Trong đầu tôi tuy tràn ngập thắc mắc, nhưng nhìn ra ngoài trời cũng thấy, nếu không tranh thủ ngủ một chút thì trời sáng bạch mất. Vì thế tôi cũng cởi áo khoác, đắp chăn thật kỹ. Không biết vì sao mà tự nhiên cảm thấy nhiệt độ xung quanh giảm hẳn, hay là máy điều hòa trong phòng không đủ ấm? Trong lúc còn đang mơ mơ màng màng, lại đột nhiên nghe văng vẳng đâu đó một vài đồng dao xưa cũ, nhớ lại lúc còn nhỏ, bà nội vừa dùng quạt hương bồ quạt cho tôi vừa hát ru tôi ngủ. Xung quanh thấm đẫm một mùi hương ngan ngát dễ chịu, dần dần đậm thành mùi hoa cẩm chướng nồng nàn, giọng hát ấm áp của bà nội tự dưng trở nên cao vút. Tôi nhìn thấy mình nằm gối đầu trên đùi của một người phụ nữ, cô ta có gương mặt rất đẹp, ánh mắt mơ màng nhìn xa xăm. Phía xa xa đó có một bóng người mờ ảo, không biết là chuẩn bị tiến tới gần hay sắp đi xa. Cô ta hát đi hát lại bài hát thiếu nhi kia, tôi cảm thấy trên mặt mình có cái gì đó nhỏ trúng, từng giọt từng giọt một, ngẩng đầu lên, tôi hoảng kinh phát hiện người phụ nữ kia cả gương mặt đầy máu, cười quái dị nhìn tôi.

Tôi hít sâu một hơi, cả người gần như giật phắt dậy, trợn mắt nhìn bốn phía, trời đã sắp sáng, tiếng chim kêu ríu rít khiến tâm trạng kinh hoàng của tôi dần dần bình tĩnh lại. Bạch Dực còn đang ngủ, trong phòng bệnh chỉ có mấy cô hộ lý làm việc buổi sớm đang nhẹ nhàng qua lại. Tôi thở hổn hển, dùng tay bưng kín miệng, trong đầu ngoại trừ người phụ nữ kinh khủng kia còn có cái bóng người xa xa nọ, cái bóng mờ mờ ảo ảo không trông rõ là người nào. Tôi nằm trở xuống, nhưng lần này không dám nhắm mắt lại nữa, mà trong đầu rối loạn hàng nghìn hình ảnh ký ức cùng những suy nghĩ lung tung. Dần dần ngoài hành lang bắt đầu vang lên tiếng người làm việc, nói chuyện ồn ã, các bác sĩ cũng bắt đầu công tác của mình, đến từng bệnh nhân khám sớm. Bạch Dực cuối cùng cũng tỉnh giấc, ánh mắt ngái ngủ nhìn tôi: “Sao thức dậy sớm thế?”

Tôi xoa xoa mặt, môi dưới giật giật, cuối cùng vẫn đem giấc mộng lúc nãy kể hết cho anh ta nghe. Bạch Dực vẫn không mang kính, đôi mắt sắc lạnh chằm chằm nhìn tấm chăn dưới chân mình không chớp, trông anh ta lúc này thực sự lạ lẫm, không giống như Bạch Dực mà tôi vẫn biết nữa. Chờ tôi nói xong, anh ta mới ngẩng đầu nhìn tôi nói: “Xem ra trốn tránh một cách tiêu cực hoàn toàn không phải là cách thích hợp đối với cái thể chất dính như nam châm này của cậu, chà…” Anh ta vò vò tóc, nhìn lên trần nhà suy nghĩ một hồi lâu rồi nói tiếp: “Thôi được rồi, để lát nữa sang tìm Tần Hiểu Mai hỏi xem, chắc con bé đó cả đêm qua cũng ngủ không yên.”

Tôi nghẹn ngào trân trối nhìn anh ta, lâu thật lâu mới dám hỏi: “Nếu như… nếu như tôi không gặp phải chuyện này, lẽ nào anh định… cứ thế bỏ mặc cô bé đó?”

Anh ta mang kính vào, nói bằng một giọng cực kỳ nghiêm túc nhưng tôi nghe xong chỉ muốn ói máu: “Tôi sẽ trực tiếp nói chuyện này cho cha mẹ của Tần Hiểu Mai biết, bọn họ sẽ biết phải làm thế nào.” Thông qua cách nói gián tiếp này, anh ta đã khéo léo thừa nhận với tôi, đúng, anh ta vốn không định nhúng tay vào…

Khi chúng tôi còn đang trù trừ không biết nên đi tìm Tần Hiểu Mai lúc nào thì cô bé đã tự động tìm tới trước, sắc mặt tái nhợt như tờ giấy, mái tóc rối bù, hôm nay không trang điểm nên nhìn gương mặt có vẻ nhẹ nhõm thanh thoát hơn, nhưng thần sắc hoảng loạn lại khiến người ta hiểu ngay rằng cô bé này đang sợ hãi tới cùng cực.

Vì đang có thai nên cô bé không chạy nhanh được, đành run rẩy xiêu xiêu vẹo vẹo bước vào phòng bệnh của chúng tôi, chưa kịp nói gì đã òa lên khóc trước, khiến các bệnh nhân nằm xung quanh đó đều hiếu kỳ quay lại nhìn. Tôi xấu hổ cười cười liên tục giải thích rằng cô bé là em gái, không phải vợ tôi!

Tần Hiểu Mai vẻ mặt cầu xin nức nở nói: “Bạch đại ca, An tiểu ca, hai anh nhất định phải cứu em với! Chính các anh nói em đừng nằm trên cái giường đó còn gì! Hu hu, đáng lẽ ra… em phải nghe lời các anh mới phải, cái giường đó, quả nhiên có… có ma!!!”

Phản ứng của cô bé hoàn toàn nằm trong dự tính của chúng tôi, chỉ có điều không ngờ nhanh như thế mà cô bé đã phải chạy tới đây khóc lóc kể lể rồi. Đôi vai gầy gò run lẩy bẩy, trên mặt trên cổ toàn là mồ hôi lạnh, tóc ướt dính bết vào má, rõ ràng là sợ đến thất hồn lạc phách.

Tần Hiểu Mai chùi chùi nước mắt, vừa nức nở vừa kể nhanh lại những gì đã gặp phải đêm qua, không ngoài dự đoán, quả nhiên vẫn là người phụ nữ quái dị mặc áo đen đứng đầu giường hát nhạc thiếu nhi cùng với tiếng khóc của trẻ con. Cô bé cắn chặt môi nói thêm: “Thực ra em không nhát, nếu chỉ có thế thì em cũng không tới nỗi sợ thành thế này, nhưng ngoài ra em còn trông thấy một cảnh tượng kinh khủng lắm kia!”

Tôi nhìn thoáng qua Bạch Dực, thấy anh ta vẫn ngồi im lặng mím chặt môi, không tỏ ra kinh ngạc, chỉ lẳng lặng chờ Tần Hiểu Mai kể cho hết. Tần Hiểu Mai thì dường như vừa nhớ ra thứ gì đó kinh khủng cực độ vậy, run run nói: “Em nhìn thấy… rất nhiều, rất nhiều người chết bò từ dưới gầm giường ra… các cô ấy cả người toàn là máu, sắc mặt tái nhợt như thạch cao vậy! Nhưng khủng khiếp nhất là… bọn họ tất cả đều đang có thai! Mẹ nó ơi, cả một đám phụ nữ có thai mặc áo đen như mực bò dưới gầm giường…!”

Nói xong dường như quá sợ hãi, cô bé khóc tướng lên, lần này ngay cả bác sĩ trực ngoài cửa cũng bị đánh động đi vào, quay sang trách cứ chúng tôi: “Các người đang làm gì vậy, mới sáng sớm đã gây chuyện ồn ào, các bệnh nhân khác làm sao mà chịu nổi?”

Chúng tôi vừa định mở miệng giải thích thì Tần Hiểu Mai đã đứng phắt dậy, hét lên với bác sĩ: “Tôi muốn đổi giường!!! Không! Tôi phải đổi phòng!!! Cái bệnh viện này là cái chỗ quỷ gì chứ, chỗ các người toàn là quỷ!!!”

Tiếng gào thét ồn ào của cô bé nhanh chóng thu hút một đám đông người quây xung quanh chỉ trỏ, bác sĩ thực tập tuổi còn quá trẻ, đương nhiên không thể lập tức xử lý vụ ồn ào này, cậu ta muốn lôi Tần Hiểu Mai ra ngoài, nhưng cô bé lại đang mang thai, không thể mạnh tay được, đành chỉ biết nghẹn tái mặt khuyên lơn van vỉ cô ta không được nói bậy bịa đặt lung tung. Nhưng Tần Hiểu Mai thuộc loại “cá tính mạnh”, lúc dịu dàng thì rất đáng yêu, nhưng lúc khóc lóc om sòm lên thì chẳng ai địch lại nổi. Cô bé tay chống nạnh chỉ thẳng vào phòng bệnh khoa phụ sản đối diện mà gào lên: “Tôi đã hỏi thăm hết rồi! Cái phòng đó có khác gì phòng chờ xuống địa ngục đâu?! Đã vào đó rồi có mấy ai lành lặn thoát ra nổi chứ?! Cuối cùng cũng chết tức chết tưởi chứ gì? Chết tiệt! Các người muốn hãm hại bà đây hả?! Nói cho các người biết, bà đây không thèm đợi trong này nữa, bà đây còn muốn đem chuyện này tung hê hết lên cho thiên hạ biết kìa! Tôi muốn đi tố giác các người!”

Câu nói cuối cùng của cô gái chợt lại nghe vang vọng như có tiếng trọng âm, tôi lập tức nhớ ra, người phụ nữ đêm qua cũng từng nói những lời này, “Tôi sẽ tố giác anh”. Lẽ nào là… Tôi quay phắt lại nhìn Bạch Dực, anh ta quả nhiên cũng nghĩ tới việc này, vì thế con người nãy giờ vẫn giữ im lặng là Bạch Dực lần đầu tiên lên tiếng: “Hiểu Mai, đừng kích động vội. Chắc là ban đêm cô nằm mơ thấy ác mộng, ác mộng quá chân thực làm cô có cảm giác có thật thôi.”

Tần Hiểu Mai lắc đầu muốn cãi, nhưng tôi đã nhanh trí kéo tay cô bé lại thì thầm vào tai: “Lúc này làm căng quá không có lợi đâu, sự tình thế nào, trong lòng chúng ta đều biết rõ mà, trước tiên cứ nhịn xuống đã, để Bạch Dực ra tay!”

Tôi vội vàng quay lại nhìn Bạch Dực van lơn, anh ta vội vàng quay qua nói với bác sĩ: “Bác sĩ, cô bé này là hàng xóm nhà tôi, để tôi khuyên cô bé cho. Cậu cứ đi đi, tôi đảm bảo cô ta không làm ầm ĩ nữa đâu.”

Cậu bác sĩ vốn đã chịu hết nổi Tần Hiểu Mai, nghe có người tình nguyện gánh đỡ cho mình thì vội vã gật đầu, mặt mày xám xịt quay sang khám cho những bệnh nhân khác. Nhưng cậu ta vừa xoay người thì Tần Hiểu Mai đứng phía sau lưng đã thốt lên một câu chửi tục “đúng tiêu chuẩn”, bác sĩ trẻ điên tiết quay phắt người lại, Tần Hiểu Mai liền lè lưỡi nhìn cậu ta trêu tức. Trông thấy cảnh đó, tôi lặng lẽ lắc đầu, trong lòng lo lắng không biết đứa bé do cô gái này sinh ra rồi sẽ thế nào.

Chuyện ồn ào trong bệnh viện tới nhanh đi cũng nhanh, chẳng mấy chốc mà đám người đã tản hết. Tần Hiểu Mai vẫn sợ chết khiếp nhất định không chịu quay lại phòng mình, tôi thấy cô ta có thai không tiện đứng tới đứng lui nên nhờ hộ sĩ mang tới cho một cái ghế, lại đưa cho cô bé ly sữa sáng nay tôi chưa kịp uống để cô ta bình tĩnh lại.

Uống xong ly sữa nóng, sắc mặt Tần Hiểu Mai dần dần hồng lên. Tôi và Bạch Dực vẫn giữ im lặng, tôi thì đem toàn bộ chi tiết từ đầu đến cuối xâu chuỗi lại, nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng nghĩ ra một câu chuyện có vẻ khả dĩ hơn cả, đó là người phụ nữ bị giết hai mươi năm trước nay đã biến thành hồn ma báo oán, trút hận lên tất cả những người phụ nữ nằm trên cái giường nơi cô ta bị giết hại năm xưa. Trước đây Bạch Dực từng nói cho tôi biết, lệ quỷ đáng sợ  nhất là ở chỗ, chúng chỉ có một mục đích duy nhất là khiến cho những người khác phải lặp đi lặp lại sự đau khổ và tuyệt vọng mà chúng từng gặp phải trước khi chết. Trong mắt chúng, ai nằm trên cái giường đó cũng vậy cả, chỉ cần không phải là những pháp sư cao tay ấn thì đều là “con mồi” hết.

Tôi đem ý nghĩ đó nói cho hai người còn lại nghe, Bạch Dực hơi gật đầu rồi lại chìm vào suy nghĩ, còn Tần Hiểu Mai thì hoàn toàn không còn khống chế được nữa, cô ta đem chuyện này kết chuỗi lại với chuyện hồi đêm, vong linh chú oán vân vân, cuối cùng kết luận là mình chết chắc rồi, môi run lên, rồi lại bưng mặt chực khóc.

Tôi vội vàng an ủi: “Cũng không nhất định là phải chết đâu mà, loại này thực ra quan trọng là ở chỗ giải quyết thế nào kia, toàn bộ đầu mối của chúng ta đều tập trung vào người phụ nữ mặc áo đen kia, cho nên tôi thấy chúng ta nên bắt đầu từ bà ta.” Nói xong tôi nhìn sang Bạch Dực ý hỏi nói thế có đúng không? Bạch Dực gật đầu: “Không sai, toàn bộ mũi tên chỉ đường đều chỉ về phía bà ta cả, nên bắt đầu giải quyết từ bà ta. Chỉ có điều… à mà thôi quên đi, dù sao hiện tại cũng chỉ có thể làm như thế…”

Vì vậy ăn cháo sáng xong, Bạch Dực và Tần Hiểu Mai đi tìm cho tôi một cái xe lăn, ngồi xuống rồi, tôi tự nhiên có một loại ảo giác như mình đang là quân sư quạt mo bày mưu tính kế, cảm giác hào hùng kích động như sắp làm nên nghiệp lớn tới nơi không bằng, nhưng trên thực tế, ba chúng tôi, một thì không đi được, một bị thương cánh tay, một là phụ nữ đang mang thai. Cái tổ hợp này… nếu là trên các phương tiện giao thông công cộng chắc chắn người ta đã đứng dậy nhường chỗ cho đám bệnh tàn chúng tôi ngay rồi.

Phương án đầu tiên là tìm cách hỏi chuyện từ những y tá lớn tuổi. Dựa vào khuôn mặt của Bạch Dực, chúng tôi hoàn toàn có lợi thế bắt chuyện, nhanh như chớp đã “tóm” được một nữ y tá nhìn rất có thâm niên. Bà y tá vừa chuẩn bị thuốc cho từng giường bệnh vừa hỏi chúng tôi: “Các vị hỏi về chuyện đó làm gì?”

Tôi liếc nhìn Bạch Dực, ý nói anh ta xuất trận đi. Bạch Dực cũng không từ chối, tiến tới mỉm cười một cái thật mê hồn mà nói: “Không có gì, chỉ là đêm qua chúng tôi gặp vài chuyện lạ, nên muốn hỏi thăm cho biết mà thôi.”

Bà y tá nhìn nụ cười của Bạch Dực, hai gò má hơi đỏ lên, nhưng nhìn sang Tần Hiểu Mai, dường như hiểu chúng tôi muốn hỏi gì, trong mắt lại hiện lên vẻ do dự. Tôi thấy đã đến lượt mình ra tay, liền cười tươi như hoa nở mà nói: “Chị y tá, em vừa nhìn là biết ngay chị đã có thâm niên ở đây mấy chục năm rồi, mấy chuyện này các cô y tá trẻ mới vào nghề làm sao mà rõ bằng chị được…” Càng nói tôi càng ngạc nhiên nhận ra sắc mặt bà ta tối sầm đi, đến lúc đó tôi mới sực nhận ra mình vừa lỡ miệng chê người ta già, vì vậy đành xấu hổ cười hì hì làm hòa, nhưng càng cười càng thấy mình ngớ ngẩn…

May mà bà y tá cuối cùng chỉ thở dài một cái, sau đó dẫn chúng tôi tới một góc tối của hành lang, ánh mắt kiên quyết như vừa quyết định chuyện gì trọng đại lắm mà nói: “Tôi biết, các vị là vì cô đây mới tới hỏi chuyện chứ gì?” Nói xong lại thở dài não nề: “Kỳ thực cấp trên ra lệnh giấu kín việc này, hôm nay tôi nói ra có khi bị đuổi việc cũng không chừng, nhưng quả thực chuyện này chỉ còn mấy người có thâm niên như tôi còn nhớ, người khác hoàn toàn không biết, tôi cũng chỉ là nghe những người đồng nghiệp cùng lứa kể lại, mà bọn họ thì đã sớm quyết định sẽ im lặng mặc kệ rồi.”

Hồi tưởng lại một chút, bà ta lại tiếp: “Người phụ nữ các vị muốn hỏi tới kia thực ra từng là một bác sĩ khoa phụ sản chúng tôi. Họ Lâm, tên gì tôi cũng quên mất rồi, chỉ nhớ là bà ấy từng là trụ cột của khoa phụ sản này hai mươi năm trước. Vốn bà ấy có cơ hội ra nước ngoài tu nghiệp nữa cơ, nhưng chẳng hiểu sao đột ngột mất tích, hai mươi năm trước, kỹ thuật phá án đâu có được hiện đại phát triển như bây giờ, nên tìm thật lâu mà vẫn không tìm được… Không ngờ mấy năm trước bệnh viện sửa sang lại, bất ngờ phát hiện ra bà ấy trong tường, xét nghiệm từ hàm răng thì đúng là bác sĩ Lâm.”

Bạch Dực hỏi: “Vậy chuyện cái giường xui xẻo kia bắt đầu từ lúc nào?”

Y tá đáp: “Cũng từ lúc sửa chữa bệnh viện xong. Vốn dĩ cái phòng đó không phải là phòng bệnh phụ sản, nhưng do bệnh viện sửa lại hết nên mới biến thành như thế.”

Tôi cảm thấy mọi việc càng lúc càng trở nên rõ ràng, toàn bộ chi tiết đều xâu chuỗi với nhau một cách hợp lý. Bạch Dực lại hỏi: “Vậy trưởng khoa phụ sản hiện tại là bác sĩ nào?”

“À, là bác sĩ Triệu, người lớn lớn tuổi, hơi mập mập ấy.”

Nhge thế, tôi lập tức nhớ tới con người ngày hôm qua tôi đã nhìn thấy thu tiền lì xì, trong lòng liền hơi có ngờ ngợ một đáp án, nhưng vẫn chưa dám khẳng định. Tôi ngẩng đầu nhìn Bạch Dực, thấy sắc mặt anh ta cũng dần dần giãn ra như đã hiểu ra cái gì.  Chúng tôi thấy không còn hỏi thêm được gì nữa, liền lục tục quay về. Tần Hiểu Mai tuy cá tính có hơi ngông cuồng, nhưng con gái dù sao vẫn có tính nhạy cảm của con gái, cô bé cau mày nói: “Em cảm thấy bà y tá này có vấn đề.”

Hai chúng tôi nghiêng người lại hỏi: “Vấn đề gì?”

Cô bé trả lời: “Không nói được rõ ràng, nhưng em cứ thấy bà ta quái quái thế nào ấy.”

Tôi không hiểu ý cô bé, định hỏi lại nhưng Bạch Dực đã chen vào: “Ý cô là làm sao bà ta lại có thể biết chuyện người phụ nữ áo đen kia, phải không?”

Tần Hiểu Mai gật đầu: “Đúng, em cứ có cảm giác là bà ta đang muốn dẫn dắt chúng ta theo ý mình vậy.”

Tới đây tôi liền hiểu, cho dù bà ta biết chúng tôi tới để hỏi về chuyện ma quái của căn phòng bệnh kia đi nữa, thì làm thế nào mà bà ta lại biết chúng tôi muốn hỏi về người phụ nữ áo đen cơ chứ? Lại còn trực tiếp kể lại chuyện hai mươi năm trước nữa. Điều đó chứng tỏ, người ngoài không có khả năng kể cho chúng tôi một câu chuyện logic đúng lúc như vậy, trừ phi bà ta biết nhiều hơn chúng tôi tưởng.

Tôi tự nhiên cảm giác tất cả chuyện này dường như là một vấn đề cấm kị của cả cái bệnh viện này, không ai dám nói tới cũng không ai dám ra giải quyết. Nhưng chết người hàng loạt là một vấn đề nghiêm trọng, chẳng lẽ bệnh viện không bị áp lực sao?

Bạch Dực đi bên cạnh tôi, Tần Hiểu Mai giúp tôi đẩy xe lăn, chúng tôi lần hồi quay trở lại phòng bệnh. Tần Hiểu Mai không muốn cũng phải quay lại phòng bệnh của mình để khám, còn chúng tôi cũng phải đi thay băng. Dù sao chúng tôi cũng chỉ là bệnh nhân mà thôi, bệnh nhân thì có trách nhiệm phải nghe lời bác sĩ nói, bằng không sẽ chỉ tự làm mình bị giam trong bệnh viện lâu hơn mà thôi.

Cô y tá thay băng lần này rất nhanh nhẹn lại khéo léo, chỉ chốc lát đã thay xong. Nhưng đang lúc cô ta đang thay băng cho tôi thì tôi nhìn thấy Bạch Dực len lén giấu một cuộn băng gạc xuống dới chăn, cô y tá đương nhiên không phát hiện ra, chỉ kiểm tra lại chúng tôi một lần rồi hài lòng rời khỏi phòng. Tôi chờ cô ta đi xa rồi mới hỏi: “Anh trộm cuộn băng đó làm gì?”

Bạch Dực liếc nhìn tôi tinh quái nói: “Trộm cái gì mà trộm, cái này gọi là mượn thôi, biết chưa, thứ này tối nay sẽ có tác dụng, buổi tối có lẽ chúng ta sẽ vất vả đấy, còn Tần Hiểu Mai nữa, lát nữa nói cho cô ta, tối nay 12 giờ đêm ra chờ chúng ta ngoài hành lang.”

Tôi nhìn bộ dạng đã chuẩn bị mọi thứ của anh ta, xem ra anh ta đã quyết định ra tay rồi. Nhưng Bạch Dực vẫn là Bạch Dực, tôi hỏi thêm mấy cũng không chịu hé răng nửa lời. Tôi cũng ngán ngẩm mặc kệ anh ta, nếu tối nay bận rộn thì lúc này chẳng thà cố ngủ thêm một chút, dù sao cũng là người bị thương, muốn giữ vững tinh thần phải nghỉ ngơi đầy đủ, tối nay mới có sức đương đầu với những chuyện chưa biết trước này.

Tôi vừa đặt mình xuống thì đã ngủ thẳng tới chiều tối, nếu không phải vì đói bụng thì chắc chắn còn có thể ngủ tiếp nữa. Đối với người bệnh, cảm giác thường xuyên nhất là thiếu ngủ, dường như ngủ nhiều thế nào cũng vẫn còn thiếu. Tôi vừa tỉnh lại đã thấy Bạch Dực từ ngoài đi vào, không biết trong lúc tôi ngủ anh ta ra ngoài đã điều tra ra thêm được cái gì, nhưng sắc mặt trông có vẻ cực kỳ nghiêm túc, như đang tự hỏi vấn đề gì đó cực kỳ quan trọng vậy. Anh ta cúi đầu nhìn tôi hỏi: “Lục Tử chưa tới nữa à?”

Tôi nghĩ anh ta hỏi Lục Tử vì muốn nhờ hắn giúp đỡ, liền đáp: “Còn chưa thấy, nếu anh cần thì để tôi gọi điện thoại cho hắn, bảo hắn mang thêm vài thứ phòng thân vào?”

Bạch Dực ngạc nhiên nhìn tôi: “Mang cái gì? Tôi chỉ hỏi hắn chừng nào đưa cơm vào thôi mà. Nhưng nếu cậu thích hắn ở lại hỗ trợ thì cứ việc.”

Tôi nghe anh ta hỏi ngược lại cũng cứng họng, xem ra là do tôi lo lắng thái quá rồi, sau đó xoa xoa miệng nói tiếp: “Toàn bộ chuyện này có vẻ đã hoàn chỉnh rồi, nhưng vấn đề cuối cùng là làm sao đối phó với nữ quỷ áo đen kia thôi!”

Bạch Dực lắc đầu: “Không, thực ra sự tình vẫn còn rất nhiều nghi vấn, tôi cảm giác như chúng ta đang bị người ta dắt mũi dẫn đi vậy!”

Tôi cũng gật đầu đồng ý: “Tôi cũng cảm thấy thế, dường như nội bộ bệnh viện này thực ra biết nhiều hơn chúng ta tưởng. Mà vĩ bác sĩ họ Lâm kia chẳng lẽ thực sự là nữ quỷ hay sao? Bởi vì chúng ta chưa từng chứng kiến tận mắt chuyện những người phụ nữ mang thai kia bị giết hại thế nào, chỉ nhìn thấy hiện trường vụ án của hai mươi năm trước mà thôi.”

Bạch Dực gật đầu khen ngợi: “Cậu đã chỉ ra những chỗ quan trọng nhất rồi đấy. Được rồi, cứ chờ tới tối nay khắc biết, mà Lục Tử lúc nào mới vào ấy nhỉ, tới giờ ăn cơm rồi còn gì!”

Quả nhiên ban ngày chớ nhắc tới người, ban đêm chớ nhắc tới quỷ[2]. Vừa nhắc tới Lục Tử là đã thấy hắn lò dò đi vào mang theo cặp lồng cơm, hắn vừa đặt cơm xuống bàn là lại định lượn đi ve vãn mấy cô y tá, nhưng lần này bị tôi kéo lại. Tôi phất phất tay nói với hắn: “Huynh đệ cần cậu hỗ trợ một chút, chuyện này có thể có hơi quái dị nha.”

Ánh mắt Lục Tử lập tức xuất hiện vẻ chần chừ, hiển nhiên là kinh qua bao chuyện, hắn đã dần dần trở nên sợ quỷ hơn ai hết. Đe dọa trực tiếp đánh đấm ầm ầm thì hắn có thể chịu được, chứ những chuyện mơ hồ kỳ lạ thế này, hắn hoàn toàn không làm được cái gì cả. Nhìn thấy hắn muốn chuồn, tôi lập tức bày ra bộ dạng khinh bỉ, cười nhạt với hắn: “Lục Tử à Lục Tử, không ngờ cậu lại hèn như vậy, thế nào? Sợ à? Không sao, huynh đệ đây cũng không ép cậu!”

Vừa nghe thế, hắn đã cố nói cứng: “Không phải là vấn đề sợ hay không sợ! Nếu cậu gặp phải lưu manh ác bá gì đó cần tớ giúp một tay, nói thật chứ tớ không bao giờ từ chối, nhưng nếu… nếu vấn đề là mấy chuyện khó hiểu này…”

Bạch Dực lắc lắc đầu: “Không sao, có lẽ cũng không nguy hiểm gì đâu.” Nhưng cách nói của Bạch Dực lại càng làm cho Lục Tử nghĩ bản thân mình không phải không có nghĩa khí, cũng không phải vì sợ, mà là không có năng lực.

Ngay lúc đó, Tần Hiểu Mai đã từ ngoài lặc lè đi vào, thấy một hộp đầy đùi gà cùng pizza thịt bò chất trên bàn đã vội vàng tiến tới lấy đôi đũa trong tay tôi ăn ngấu nghiến. Lục Tử ngẩn người nhìn Tần Hiểu Mai chằm chằm, Tần Hiểu Mai cũng tự biết đồ ăn là do hắn mang tới, nên mỉm cười quyến rũ hỏi: “Anh đẹp trai, em ăn ké một chút không sao chứ?”

Lục Tử hào hiệp cười toe toét: “Ây, người đẹp này trước giờ chưa từng gặp qua nha, cô em biết Tiểu An và Bạch Dực à? Cứ ăn hết mình đi, nếu thiếu tôi ra ngoài mua nữa cho, em là phụ nữ có thai cần phải ăn nhiều một chút!”

Tần Hiểu Mai lanh lẹ khua đũa, ngọt ngào nói: “Vâng, em là hàng xóm trước đây của Bạch đại ca, tên là Tần Hiểu Mai. Còn anh?”

Lục Tử lập tức bày ra dáng điệu ta đây đàn ông chân chính, nhưng chưa kịp lên tiếng đã bị tôi thừa dịp cắt ngang, không cho hắn có cơ hội ba hoa chích chòe: “Hắn tên Lục Tử, nghề nghiệp thì, nói cho văn hoa ra là phục chế tranh xưa, còn nói thẳng ra là buôn bán đồ cổ đó!”

Mặt Lục Tử nhăn nhúm lại, định phản bác, nhưng Tần Hiểu Mai căn bản là không quan tâm tới chuyện của hắn. Cô ta tới chỉ vì chuyện cái giường bệnh tử thần kia mà thôi. Ăn no rồi, cô ta mới nhỏ giọng nói với Bạch Dực: “Bạch đại ca, em không chờ được tới nửa đêm đâu, phòng đó thực sự không ở được nữa. Mà lúc này em cũng không thể về nhà được, anh xem em có thể chờ bên phòng các anh tới đêm được không?”

Lục Tử tới cạnh tôi thầm thì vào tai: “Đây là chuyện quái dị mà cậu nói tới đó hả? Cô bé xinh đẹp này gặp nguy hiểm? Hay là cô ta ban ngày là người, ban đêm biến thành quỷ thế?”

Tôi nhướn  mày đáp: “Có cậu ban ngày là người, ban đêm biến thành sói ấy! Cô nhóc này gặp chuyện không may, thế nào, có phải muốn làm anh hùng ra tay cứu mỹ nhân rồi không? Có chịu giúp tụi này không nào?”

Lục Tử nhìn tôi, rồi nhìn sang Tần Hiểu Mai: “Thế có nguy hiểm không?”

Đó cũng là chuyện tôi muốn biết nhất hiện giờ, cả hai cặp mắt của chúng tôi không hẹn mà cùng nhìn sang Bạch Dực. Anh ta đang ăn cơm, thấy bản thân trở thành trung tâm của mọi ánh nhìn, nhất thời cũng ngẩn ra, dừng một chút mới nói: “Cứ chờ đi, chờ đến tối khắc biết. Lúc này tôi có nói mọi người cũng không hiểu mà, với lại có vài chi tiết cần chứng minh lại cái đã. Được rồi, Hiểu Mai, về phòng mình nghỉ ngơi đi, cô ở lại chỗ này thực sự không tiện. Nếu sợ thì tụi tôi cho Lục Tử đi theo cô, được không Lục Tử?”

Lục Tử vội vã gật đầu, kỳ thực vừa biết chuyện này có liên quan tới người đẹp là lá gan của hắn đã to ra vài phần rồi. Tần Hiểu Mai vẫn không thoải mái lắm, nhưng rõ ràng để cô ta lại đây là chuyện hoàn toàn không thể. Bạch Dực không hổ là biết cách dùng người, chí ít thêm vào một người khỏe mạnh là chuyện tốt. Lúc cần thiết hắn hoàn toàn có thể giúp chúng tôi bảo vệ Tần Hiểu Mai, bằng không một người mang thai như cô ta kể ra cũng không được yên tâm lắm.

Thấy mọi chuyện đều đã được sắp xếp đâu ra đó, chỉ còn chờ tới lúc tìm ra đáp án cuối cùng, tôi cũng cúi đầu ăn thêm một chút, bổ sung thể lực mà lặng lẽ chờ đêm xuống.

[1] Là một nhân vật trong “Phong Thần bảng”, lấy một ông chồng vừa già vừa xấu vừa ục ịch. Khiếu thẩm mỹ ngang bằng Đặng Thiền Ngọc ý nói những người không có mắt thẩm mỹ, hoặc có nhưng hơi khác người.

[2] Vì nhắc Tào Tháo Tào Tháo sẽ tới liền ^^

____________________________________________________

Chương 39: Giường (Tứ)

Các bệnh viện buổi tối đều sẽ có người nhà bệnh nhân tới thăm hoặc tới ngủ lại, nhưng nói chung hễ cứ sau mười giờ đêm là không còn mấy ai qua lại nữa, ngoại trừ những y tá trực có trách nhiệm cứ vài tiếng đồng hồ lại phải đảo qua một lần, ngoài ra chỉ còn những bệnh nhân an tĩnh chìm trong giấc ngủ. Tôi và Bạch Dực nằm xuống giường giả bộ ngủ, còn Lục Tử canh bên phòng Tần Hiểu Mai. Tôi choàng kín chăn, mắt chằm chằm nhìn màn hình huỳnh quang phát sáng xanh lè trong đêm của màn hình điện thoại, y như đêm trước ngày đổ bộ Normandy, tôi vừa trách Bạch Dực trộm băng gạc, nhưng cuối cùng cũng nhân lúc y tá không để ý mà rút một cái nhíp giấu vào người. Kỳ thực cũng biết hành động này của tôi vừa buồn cười vừa vô dụng,  để đối phó với những thứ ma quỷ quái dị, những vật nhỏ như cái nhíp này phỏng có tác dụng gì? Nhưng dù sao có cái gì đó mang trong người vẫn cảm thấy an toàn hơn hẳn. Bạch Dực nẳm thẳng người nhìn lên trần nhà, không biết đang suy nghĩ cái gì, nhưng tôi cảm giác anh ta vẫn còn rất nhiều nghi vấn chưa có lời giải đáp, hay chuyện này quả thực còn nhiều điều người ngoài không biết tới?

Đêm đã điểm mười một giờ khuya, các y tá cũng không qua lại nữa, cả các hộ lý cũng lục tục lôi giường xếp ra ngủ lại. Rốt cuộc tới gần 0 giờ, Bạch Dực cẩn thận bước nhẹ xuống giường, giúp tôi ngồi lên xe lăn, hai người chúng tôi lén lén lút lút nhẹ nhàng ra khỏi phòng bệnh. Lục Tử và Tần Hiểu Mai đã chờ sẵn bên ngoài, nhưng điều làm tôi kinh hãi nhất là tên khốn kia đang hút thuốc! Thấy chúng tôi tới, hắn vội vã diệt tàn thuốc tiến tới, tôi  

mắng gắt: “Tôi biết cậu là tay nghiện thuốc nặng, nhưng cũng phải biết đường mà nhịn một chút chứ! Đây là bệnh viện, bệnh viện đó, muốn hút để kéo y tá

hộ lý tới hốt cả đám về đấy à!”

Hắn cười hềnh hệch xin lỗi, tôi cũng không thèm để ý, Bạch Dực nhìn đồng hồ rồi nói: “Lúc này chúng ta cần đi tiếp nữa, vừa qua lúc y tá thay ca, cho nên cần đi nhanh, nếu không bị phát hiện bây giờ!”

Chúng tôi gật đầu. Một đám đàn ông vào nhà vệ sinh nam là chuyện bình thường, nhưng một đám đàn ông cộng với một phụ nữ có thai đi vào nhà vệ sinh nam là chuyện không thể giải thích được. Bạch Dực đẩy xe cho tôi, Lục Tử đỡ Tần Hiểu Mai, bốn chúng tôi rón rén nhẹ nhàng đi hết dãy hành lang, lúc này nó vẫn là một hành lang phủ gạch men trắng đèn nê – ông chói mắt, nhưng cuối dãy, là một vùng đen kịt. Lúc đi qua phòng trực của y tá, quả nhiên phòng trực đang vắng người. Vì tôi ngồi xe lăn nên không hề mất thời gian, lần này chúng tôi nhanh chóng tiến được tới nhà vệ sinh nam. Tôi xấu hổ nhìn Tần Hiểu Mai một chút, không biết cô bé có dám vào hay không, nhưng hiển nhiên cô nàng hoàn toàn không có chút ý tứ nào, thản nhiên vào như không, trong mắt lại còn ẩn chứa cuồng nhiệt cùng kích thích vì được thám hiểm nữa chứ. Cô bé liếm liếm môi hỏi: “Vào được đến đây rồi thì làm gì? Gọi hồn? Chơi cầu cơ trong này à?”

Ba người đàn ông chúng tôi trợn mắt nhìn cô bé, đúng là trẻ con, tưởng là muốn gặp quỷ nhất định phải cầu cơ sao? Tuy cách nghĩ của Tần Hiểu Mai rất ấu trĩ, nhưng cả tôi cũng muốn biết phải làm gì tiếp theo, nên ánh mắt của tất cả chúng tôi lần thứ hai chĩa thẳng vào Bạch Dực. Cuối cùng nghe Bạch Dực bình tĩnh nói: “Cũng không phải, tôi cũng không chắc phải làm thế nào, nhưng có thể khẳng định người phụ nữ áo đen kia lúc nào cũng đi theo chúng ta, hay phải nói đúng hơn là bà ta lúc nào cũng ở cạnh chúng ta, chúng ta cứ làm theo đúng những gì đã làm đêm qua là được. Đầu tiên là chờ tiếng bánh xe, hoặc là tiếng hát đồng dao.”

Chúng tôi theo Bạch Dực quay lại nhà vệ sinh nam. Mùi trong này thực sự khó ngửi, vốn người chúng tôi đành nhịn, ngây ngốc chờ trong đó hồi lâu. Tần Hiểu Mai dù sao vẫn chỉ là một cô bé, thực sự chịu không được, nhăn mũi nói: “Chúng ta phải chờ trong này bao lâu vậy, hôi quá!”

Bạch Dực làm tư thế im lặng, ánh mắt chằm chằm nhìn ra cửa. Dần dần bốn phía im lặng hẳn đi, trong nhà vệ sinh ngoại trừ tiếng nước chảy nhỏ giọt thì không còn âm thanh nào nữa. Từng giọt nước tích toát rơi theo một nhịp điệu đều đều, dần dần như hòa làm một với nhịp đập của tim. Đột nhiên trong tiếng nước rơi, tôi dường như nghe thấy một tiếng bánh xe như có như không, tiếng động càng lúc càng rõ ràng, cùng một mùi hương hoa cẩm chướng nhàn nhạt theo tới. Vì thế tôi liền biết, người phụ nữ áo đen kia, bà ta đã tới.

Chúng tôi tám mắt nhìn nhau một cái, Bạch Dực gật nhẹ đầu, ý bảo chúng tôi chỉ chờ tới lúc này Anh ta móc ra một cuộn băng vải, cột một đầu vào vòi nước, sau đó kéo nó ra đồng thời quay lại nói với chúng tôi: “Chúng ta phải bám theo nó ra ngoài, bởi vì cuộn băng này là vật có thật, chỉ cần nắm chắc nó trong tay, chúng ta mới không bị lạc đường.” Hóa ra đây là lý do vì sao anh ta lại mang theo nó, mấy cuộn băng vải thế này dư sức đủ cho chúng tôi đi hết dãy hành lang và quay lại. Chúng tôi an tâm gật đầu, Bạch Dực đi đầu, Lục Tử thay anh ta đẩy xe cho tôi, Tần Hiểu Mai đi cuối cùng. Bốn người chúng tôi vừa ra khỏi cửa nhà vệ sinh, lập tức lại lạc vào không gian của hai mươi năm về trước.

Tôi và Bạch Dực không giật mình như hai người Lục Tử, vì đã tới một lần, hơn nữa lần này còn là cố tình. Cho nên hai chúng tôi dốc toàn lực chăm chú quan sát bốn bề, chỉ thấy xung quanh tĩnh lặng đến đáng sợ, tiếng bánh xe mơ hồ văng vẳng từ đâu đó, như đang dẫn đường cho chúng tôi. Bạch Dực dùng hết cuộn băng vải này lại thay một cuộn khác, cứ như thế chúng tôi nhanh chóng tiến về phía cửa phòng bệnh phụ sản. Tôi run run lấy cái nhíp trong túi ra, cảm giác tình huống hôm nay vẫn giống như hôm qua, nhưng lần này không có ai hát nhạc thiếu nhi nữa, điều đó làm tôi tự nhiên có cảm giác bất an. Bạch Dực cau mày đẩy cửa ra, bên trong vẫn là những dãy giường chăn nệm xếp chỉnh tề, bình hoa cẩm chướng khô vàng tỏa ra một mùi hương uể oải, đúng là khung cảnh ngay trước khi vụ án xảy ra.

Chúng tôi đợi mãi đợi mãi, nhưng không có ai tiến vào, tôi ngạc nhiên tự hỏi liệu mình có đi nhầm phòng hay không? Bạch Dực cũng ngạc nhiên lắc lắc đầu, rõ ràng anh ta cũng không hiểu ra làm sao. Nhưng chúng tôi cũng đã tới đây, chỉ có nước đợi hai đương sự tới hỏi cho ra lẽ. Lục Tử sớm đã muốn bỏ cuộc, đến lúc này liền run run nói: “Mọi người, nếu không thì chúng ta cứ về trước đi…” Nói xong hắn quay lại nắm cuộn dây định quay về, nhưng lại bất thình lình hét lên một tiếng kinh khủng. Chúng tôi bị tiếng hét của hắn làm cho kinh hãi, liền cũng quay lại nhìn, thấy Tần Hiểu Mai như thể bị trúng tà đứng đó, đôi môi méo xệch nhếch thành một nụ cười quỷ dị, tôi sợ tới mức cả người như muốn rúm lại, vì nếu nhìn kỹ thì chúng tôi mới phát hiện ra sau lưng Tần Hiểu Mai, hóa ra còn một người nữa! Chúng tôi hoàn toàn không phát hiện ra kẻ đó, vì kẻ đó trốn sau lưng Tần Hiểu Mai, không phát ra một tiếng động nào, mà cơ thể nó thấp hơn Tần Hiểu Mai một chút, nên chỉ lộ ra hai chân, nhìn không thấy bộ dạng. Nhưng điều kinh khủng nhất là chúng tôi nhìn thấy kẻ đó trong tay ôm một đống băng vải! Lúc này tôi mới cảm nhận được toàn bộ sự bất an nãy giờ của mình do đâu mà có, Bạch Dực dùng sức kéo dây vải, thoáng cái lôi ra từ phía sau lưng Tần Hiểu Mai một phụ nữ cả người mặc đồ đen, cái cổ vươn dài đến đáng sợ, bà ta đã trốn sau lưng Tần Hiểu Mai nãy giờ, trong tay ôm toàn bộ số băng vải dùng để trở về của chúng tôi!

Người phụ nữ nọ động tác cực nhanh, vội ném số băng vải xuống đất rồi phóng ra ngoài cửa, cử động cứ như một loại động vật họ mèo nào đó. Bạch Dực xoay người đuổi theo bà ta ngay lập tức, vừa đuổi vừa gào với chúng tôi: “Mau đuổi theo! Đó chính là bác sĩ Lâm đã bị giết đấy, theo bà ta đừng để bà ta chạy thoát!” Nữ quỷ áo đen vừa thoát khỏi sau lưng Tần Hiểu Mai thì cô bé đã hồi phục ý thức, còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra cũng theo bản năng chạy theo chúng tôi, tôi để Lục Tử chăm sóc cho Tần Hiểu Mai, đừng để cô bé chạy quá sức, còn bản thân dùng hai tay đẩy bánh xe vội vã theo sau Bạch Dực.

Tốc độ của nữ quỷ rất nhanh, trên người Bạch Dực có thương nên đuổi theo cũng khá vất vả. Nhưng tôi nghĩ bà ta cố tình muốn dẫn chúng tôi đi, quẹo ngang quẹo dọc một hồi, chúng tôi đã không còn biết mình đang ở đâu nữa. Tôi cảm giác nữ quỷ này có gì đó muốn nói với chúng tôi, vì muốn bỏ rơi chúng tôi giữa chừng là điều cực kỳ đơn giản, nhưng bà ta lại cố tình dẫn chúng tôi chạy theo mình. Lục Tử cắn răng chạy theo chúng tôi một lúc, nhưng dần dần mặt hắn tái nhợt đi, lộ ra vẻ cực kỳ kinh hoàng, hắn hét lớn một tiếng, chúng tôi đều dừng lại, hắn tức giận nói: “Không ổn, không ổn rồi! Chúng ta căn bản không còn ở trong bệnh viện nữa rồi! Bệnh viện thế quái nào mà lại có nhiều lối rẽ thế chứ! Cái này thì phải gọi là mê cung rồi chứ không à!”

Hắn nói tới đây chúng tôi mới nhận ra, quả đúng như vậy, chúng tôi không biết đã quẹo qua bao nhiêu ngã rẽ, quả thực không được bình thường! Nghĩ kỹ lại thì chẳng phải chúng tôi vừa đâm thẳng vào tường mà quẹo sang hay sao! Nghĩ tới đây da đầu tôi tê rần vì sợ, đầu óc cũng dại đi. Bạch Dực cũng ngừng lại suy nghĩ, Tần Hiểu Mai vừa sợ vừa rối, lại thêm đang mang thai nên cũng không chạy nổi nữa, chỉ dựa hẳn vào Lục Tử thở dốc. Chúng tôi quay đầu lại định quay về, thì phát hiện mình đã ở trong một dãy hành lang xa lạ, cuối hành lang có rât nhiều người qua lại, nhìn ra ngoài cửa sổ, thì thấy lúc này đang là ban ngày. Chết tiệt nó, đang nửa đêm kia mà, sao lại thành ban ngày rồi? Tôi ngẩn người nhìn xung quanh, nó mang dáng vẻ của bệnh viện thời hiện đại, nhưng không còn là dãy tầng trệt nơi chúng tôi đang nằm nữa. Bức tường trắng bệch cùng những ngọn đèn vô cảm hắt ánh sáng chói rỡ vào đó làm chúng tôi chói mắt.

Bốn người chúng tôi chỉ biết ngây người đứng nhìn, phía sau đột nhiên vang lên tiếng bánh xe, một đám bác sĩ y tá đang đẩy một phụ nữ trên giường bệnh, chúng tôi lập tức tránh sang hai bên. Cô gái nằm trên giường gào khóc đau đớn, chúng tôi cũng lần mò theo đoàn người tiến về phía trước. Lúc tôi đang định mở miệng hỏi một người trong số họ xem có chuyện gì đang xảy ra thì tôi chợt nhận ra, bọn họ căn bản không hề nhìn thấy chúng tôi! Chúng tôi có gọi thế nào bọn họ cũng không nghe không thấy! Tôi toát mồ hôi lạnh nhìn cánh cửa phòng giải phẫu chợt hé ra, một cánh tay vươn từ trong ra, hướng về chúng tôi ngoắc ngoắc.

Bạch Dực chậm rãi đẩy xe của tôi về phía đó: “Cứ vào xem sao, có lẽ sự thực đang nằm bên trong đó.”

Bốn người chúng tôi như bốn cái bóng vô hình lặng lẽ tiến vào phòng giải phẫu. Trên bàn phẫu thuật nằm một cô gái, cô ta kinh hoàng nhìn chúng tôi như thể có thể trông thấy chúng tôi vậy, nhưng miệng cô ta bị chụp ống thở, ngay cả việc hô hấp cũng đã đủ khó khăn rồi. Ánh mắt cô ta cố sức hướng về chúng tôi một cái nhìn cầu cứu cùng van xin, đột nhiên có một nam bác sĩ tiến tới, đeo khẩu trang nên không nhìn thấy rõ mặt mũi. Vẻ mặt cô gái tràn ngập sợ hãi, cô ta cố lắc đầu lia lịa như muốn phản kháng, hoặc như muốn cầu xin.

Người đàn ông ngừng lại một chút rồi nói: “Cô cũng đừng trách ta, cô không nên dùng cái thai này uy hiếp Trương tiên sinh, ông ấy đã nói với ta chỉ cần cô và cái thai này thần không biết quỷ không hay chết đi rồi, thì tất cả phiền phức của ông ta cũng sẽ kết thúc!”

Mấy cô y tá đẩy bàn đựng dụng cụ phẫu thuật tới, cô gái tuyệt vọng nhìn một đám người vây quanh mình, chỉ một lúc sau, máy đo điện tâm đồ vốn đang nhảy những nhịp lên xuống chợt giãn thành một đường dài thẳng tắp. Ánh mắt cô gái dần dần dại đi, cuối cùng chỉ còn một sắc đục nhờ nhờ của người chết. Mọi người mặt lạnh như tiền lặng lẽ thu dọn xung quanh, sau đó mở cửa phòng phẫu thuật thông báo cho những thân nhân của cô gái đang lo lắng chờ bên ngoài là cô ta đã chết. Tiếng khóc lập tức cất lên ngoài kia, nhưng trong đám người có một gã đàn ông thỏa mãn nhìn tên bác sĩ nọ gật đầu. Tên bác sĩ chậm rãi mở khẩu trang, đúng là trưởng khoa Triệu!

Bác sĩ Triệu lại tiến tới bên bàn giải phẫu, bắt đầu rửa tay. Trong miệng còn thầm thì cái gì, dường như là lần này gặp phải tên keo kiệt chỉ trả cho gã có bốn trăm ngàn, sau này phải đòi thêm nữa vân vân. Đột nhiên nước trong vòi tắc lại, bác sĩ Triệu ra sức lắc lắc vòi nước, nhưng từ trong vòi chỉ chảy ra máu loãng, cùng một đống tóc đen dài bít nghẹt cả bồn rửa. Gã kinh hoàng lui về sau mấy bước, run lẩy bẩy nhìn lại phía sau lưng. Đương nhiên gã không nhìn thấy chúng tôi, cho nên nhanh chóng xác định là trong phòng không có ai, đành lấy khăn lau vội tay định bỏ chạy ra ngoài. Chợt một mùi hương hoa cẩm chướng ùa tới tràn ngập cả căn phòng, trên bàn giải phẫu ngồi sừng sững một người phụ nữ mặc áo đen, trong tay bà ta ôm một đống thịt máu chảy đầm đìa, trong miệng lẩm nhẩm bài đồng dao quen thuộc. Bà ta đưa bàn tay vuốt ve đống thịt trong tay, còn bác sĩ Triệu thì kinh hãi nhìn bà ta như nhìn thấy ma, mà bà ta cũng thực sự chính là một con ma…

Gương mặt của tên họ Triệu nhăn nhúm, những đường nét trên gương mặt dúm dó vào nhau, gã xông tới cửa định đẩy cửa bỏ chạy, nhưng cửa đã bị khóa kín. Cúi đầu xuống nhìn dưới chân, rất nhiều rất nhiều những cái thai chết non đang nằm la liệt chặn ngang cửa, họ Triệu trông như một con chuột bạch lủi chạy khắp nơi, muốn tìm chỗ đào thoát, nhưng góc phòng nào cũng có hồn ma của những phụ nữ mang thai gương mặt tái nhợt nhìn gã cười âm hiểm. Đường cùng mạt lộ, bác sĩ Triệu đành quay hẳn người lại quỳ sụp xuống, cố sống cố chết dập đầu lạy nữ quỷ trên bàn giải phẫu như tế sao.

Ngay khi gã định mở miệng cấu xin, đột nhiên nghe thấy từ dưới bụng mình vang lên những tiếng động vô cùng kỳ quái, họ Triệu ôm bụng gào khóc ầm ĩ, chúng tôi nhìn thấy từ cái bụng của tên bác sĩ độc ác này có cái gì đó cứ lồi lên, trướng to, cựa quậy không ngừng, to đến nỗi xé rách cả y phục, hắn kinh hoàng nhìn cái bụng to như cái trống của mình, vội vàng dồn hết sức tàn bò tới bên bàn giải phẫu. Tôi nhìn thấy phía sau lưng gã có rất nhiều bóng dáng phụ nữ, tất cả đều xõa tóc rối tung, cười khanh khách nhìn theo gã. Còn nữ quỷ ngồi trên bàn giải phẫu vẫn vuốt ve cục thịt trong tay, trong miệng cũng phát ra những tiếng cười ghê rợn. Họ Triệu gian nan bò tới bên bàn giải phẫu, rống to: “Đau quá, ta đau… đau quá!!! Đau chết mất!!!” Nói xong tự cầm lấy dao mổ để trên bàn đâm thẳng vào bụng mình, từ trong ổ bụng gã tuôn ra từng dòng từng dòng tóc đen nhánh, gã tự lôi đám tóc ra khỏi bụng mình, cái áo blouse trắng nhuộm đầy máu đỏ ngầu.

Nhìn thấy cảnh tượng trước mặt, tất cả mọi người chúng tôi đều nghẹn ngào chỉ biết trân trối đứng nhìn, còn Tần Hiểu Mai thì ngay từ đầu đã bụm chặt mặt, không dám hé mắt ra nữa.

Chúng tôi định xông tới cản gã, dù sao nếu cứ để mặc gã như vậy chắc chắn gã sẽ đâm mình đến chết mất, nhưng Bạch Dực đã xông tới cản lại: “Đừng tới, đây là thứ mà nữ quỷ muốn chúng ta chứng kiến.” Nói xong anh ta nhìn sang nữ quỷ bên kia, nữ quỷ cũng ngẩng cái cổ dài thượt nhìn chúng tôi một cái, sau đó ánh mắt đọng lại chăm chú trên người Tần Hiểu Mai, cô bé cứ như bị chiếu tướng, thở cũng không dám thở. Nữ quỷ nhìn một lúc, sau đó lại cúi xuống vuốt ve cục thịt trong lòng, thanh âm khàn khàn hát đi hát lại một bài hát cũ rích:

“Đung đưa bà ngoại đung đưa, bà gọi bé cưng bà ơi,

Kẹo một bao, quả một bao, bà ngoại mua con cá về nướng,

Đầu đã chín, đuôi đã sém, cá nằm trong chảo xèo xèo kêu, ăn vào bụng lộp bộp nhảy

Nhảy nhảy đi, nhảy đến tận chân cầu, bé cưng thích thú ha ha cười…”

Hát xong, cúi xuống vặn vẹo cười với cục thịt trong tay, nhưng ánh mắt tràn ngập bi ai lẫn bất lực vô hạn.

Nhìn đến đây, Bạch Dực liền lặng lẽ đẩy tôi ra khỏi phòng. Tôi muốn mở miệng nói cái gì, nhưng phát hiện cổ họng như nghẹn đắng lại, không sao thốt nên lời. Lục Tử đi bên cạnh cũng mím chặt môi, xo xoa miệng rồi đỡ Tần Hiểu Mai. Ngoài cửa đã không còn những đứa bé chết non chặn cửa nữa, chúng tôi nhẹ nhàng đầy cửa ra, nhìn thấy bên ngoài chính là nhà vệ inh nam, một cuộn băng vải còn cột trên vòi nước, một đầu khác chơ vơ nằm ngoài cửa. Vậy mà Bạch Dực rõ ràng đã dùng hết cả bao băng vải chứ không ít. Ngoài cửa sổ vẫn tối đen như mực. Chúng tôi như vừa thoát khỏi một mảnh hỗn loạn, nhìn nhau trân trối mà không ai nói được câu nào. Chỉ có ánh mắt của Bạch Dực là cực kỳ bình tĩnh, dường như đã biết toàn bộ sự thực.

Đột nhiên lúc này Tần Hiểu Mai như bị cái gì đánh gục, cả người run bắn lên rồi nước mắt trào ra, cô bé bỗng nhiên kích động cắn chặt môi, sau đó chỉ vào bụng mình mà khóc nức lên: “Đứa bé trong bụng em là con cháu nhà họ Triệu đó! Vậy mà hắn, hắn đang tâm đưa em vào đây, là hắn muốn em chết cho rồi sao?! Ha ha ha, cái gì mà yêu với chả thương! Hắn là một tên khốn! Cả nhà hắn đều là một lũ khốn mà!”

Tôi thấy Tần Hiểu Mai tự nhiên trở nên kích động như thế, liền lo lắng hỏi: “Làm sao vậy?”

Tần Hiểu Mai nước mắt chảy dài, nhưng khóe môi lại vẽ thành một nụ cười tự giễu: “Làm sao ư? Tên đao phủ giết người không gớm tay trong kia chính là ông bố của Triệu Hiên anh à! Chính là ông bác Triệu lúc nào cũng ra vẻ đạo mạo nghiêm túc đó! Bây giờ em mới hiểu mọi chuyện, cái gì mà phòng bệnh tử thần, cái gì mà lời nguyền của nữ quỷ chứ! Toàn bộ đều là trò khỉ mà lũ khốn nhà họ Triệu bịa ra để che mắt chuyện giết người của mình thôi!”

Bạch Dực lạnh lùng gật đầu: “Không sai, ngay từ đầu tôi đã nghĩ chuyện này thật không bình thường, làm gì mà có con quỷ nào nghiêm túc tới nỗi phải chờ tới lúc vào phòng giải phẫu mới chịu ra tay giết người? Hơn nữa lúc tôi đi điều tra mới phát hiện ra, tất cả những ca bị chết đó đều là do bác sĩ Triệu tự tay điều trị. Nói cách khác là gã đó đã khéo léo dựa vào chuyện ma quái để ngụy trang cho tội ác của mình.”

Tôi lập tức liên tưởng tới vụ án hai mươi năm trước, liền hỏi: “Vậy có phải cũng chính là gã đã giết hại bác sĩ Lâm hai mươi năm trước không?”

Bạch Dực chỉ lắc đầu: “Không phải đâu, tên sát nhân kia không phải tay họ Triệu này, sau đó tôi có tìm được một bà lao công lớn tuổi làm việc lâu năm ở đây, bà ấy biết nhiều hơn những câu chuyện ma mị mà chúng ta đã nghe.”

Bạch Dực bắt đầu kể cho chúng tôi nghe sự thực đã xảy ra hai mươi năm trước là như thế nào. Lúc đó bác sĩ Lâm là một bác sĩ đỡ đẻ nổi tiếng số một số hai trong bệnh viện, tôn chỉ của bà là dốc hết sức mình để bảo vệ sự an toàn của từng bà mẹ từng em bé. Tính cách của nàng khiến các bác sĩ khác và toàn thể bệnh nhân đều phải kính phục, bà chưa bao giờ nhận tiền biếu xén, mặc kệ là cán bộ hay dân thường, nhà giàu hay nông dân, chỉ cần là phụ nữ có thai do bà điều trị, bà sẽ làm hết trách nhiệm không hề nề hà.

Nhưng ngay cả một người phụ nữ tài đức song toàn như vậy mà cũng có nỗi khổ riêng. Lúc còn rất trẻ bà đã gả cho một bác sĩ nhi khoa. Những ngày đầu tiên của cặp vợ chồng son cũng khá hạnh phúc, sau đó bác sĩ Lâm cũng mang thai. Vốn chuyện này nên là chuyện đáng mừng, nhưng không ai đoán được số trời, ông chồng của bà tự nhiên đâm ra nghiện ma túy. Những năm đó, chuyện nghiện hút cũng là một vấn đề khá phổ biến, nhưng có thể tiếp cận với ma túy cũng không phải là một điều đơn giản, chứng tỏ ông bác sĩ nhi khoa kia cũng thuộc loại có tiền có thế. Nhưng dẫu sao thì ma túy tàn phá cả gia đình, thân thích họ hàng biết nhà họ có người nghiện hút, liền tuyệt giao hết, cuộc sống của gia đình họ ngày một sa sút nhanh chóng. Bác sĩ Lâm thực lòng yêu chồng mình, yêu đến nỗi nhẹ dạ, đến nỗi chấp nhận tìm cách trộm thuốc giảm đau trong bệnh viện cho chồng mình. Nhưng bao nhiêu đó làm sao có thể thỏa mãn cơn nghiện càng ngày càng tăng của con nghiện nặng? Ông chồng kia bắt đầu tham ô công quỹ, bắt đầu dùng danh nghĩa của bác sĩ Lâm để thu tiền lì xì. Bác sĩ Lâm hoàn toàn tuyệt vọng, lúc này bà đã mang thai ba tháng. Bà muốn gặp chồng lần cuối để khuyên răn, mong hắn có thể vì đứa con chưa ra đời của bọn họ mà nghĩ lại, nhưng ai ngờ hắn ta không nghe lời vợ mình thì chớ, còn bảo bà tiếp tục trộm Dolatin[1] cho hắn. Cũng chính hắn đã ra tay sát hại vợ mình, giấu xác trong tường bệnh viện. Nghe nói sau đó cuối cùng hắn hít thuốc phiện quá liều, chết bên cạnh thùng rác bệnh viện, một gia đình đáng lẽ ra phải rất hạnh phúc lại thành nhà tan cửa nát. Mãi đến sau này khi bệnh viện sửa chữa, mới tìm được di hài của bác sĩ Lâm. Bệnh viện nghĩ chuyện này mà đồn ra ngoài thì thật không hay, nên mới tìm cách phong tỏa tin tức, ai ngờ càng cấm càng đồn bậy, chẳng mấy chốc mà hóa thành tin đồn giường bệnh có ma.

Còn tên bác sĩ Triệu kia mãi sau này mới xuất hiện, tay nghề rất cao lại biết cách “giao tế” nên nhanh chóng leo lên chức trưởng khoa. Ở vị trí đó, gã lại quen với rất nhiều nhân vật tai to mặt lớn trong thành phố, trong số đó có không ít những kẻ ăn chơi trác táng, nhưng ăn chơi thì thường để lại hậu quả. Cho nên gã trở thành công cụ giải quyết những cô gái lỡ có thai và những đứa con trong bụng họ thay cho những tên vô trách nhiệm kia. Họ Triệu không biết nghe ở đâu được chuyện của bác sĩ Lâm đã bị giết chết trong chính gian phòng đó, cho nên gã lập tức thêu dệt nên một câu chuyện ma quỷ về phòng bệnh có ma. Khi mọi người còn đang mải chú ý đến cái giường bị nguyền rủa, thì gã ở một bên ung dung giết chết những cô gái vô tại và những đứa con còn chưa kịp ra đời của các cô. Tần Hiểu Mai, là hậu quả cho chính thằng con Triệu Hiên của gã gây ra. Vì thế gã quyết định cho Tần Hiểu Mai nhập viện, muốn dựa vào tin đồn giải quyết luôn cô bé có khả năng uy hiếp đến tiền đồ của con trai mình. Chỉ có điều cuối cùng lại ra thế này…

Tôi nghi ngờ hỏi: “Vậy bà ta cần gì phải làm thế này? Ngay từ khi gã giết cô gái đầu tiên, bà ấy có thể hiện ra xử gã luôn cho rồi cũng được mà?”

Bạch Dực trầm ngâm một lát rồi mới nói: “Bà ta luôn luôn tìm cách cảnh báo cho các cô gái nằm ở đây, cô gái nào cũng gặp ác mộng, đó là một loại cảnh báo của bác sĩ Lâm. Bà ta muốn dùng cách đó để ngăn bọn họ đừng phá thai, nhưng lại không ai hiểu được… Bác sĩ Lâm, đến cuối cùng vẫn là một người nhẹ dạ… Bà ấy chỉ biết dùng những cách bị động đó để mong ngăn cản họ Triệu thôi, ai ngờ lại càng để lại nhiều hậu quả hơn.”

Tôi gật đầu đồng ý. Nhưng dù sao đó cũng chỉ là suy đoán của chúng tôi, không ai có thể hiểu nổi cách suy nghĩ của một con quỷ, mà quỷ, đôi khi thật sự là một loại tồn tại vừa bất lực vừa đáng thương. Nhưng ít ra, bà ấy cũng đã cứu được Tần Hiểu Mai, nếu không cả cô bé nữa cũng đã trở thành vật hi sinh cho câu chuyện ma quỷ về cái giường tử thần kia rồi. Người thường sợ ma, nhưng chính ma cũng rất sợ người, ví dụ như một kẻ độc ác lòng lang dạ sói như tên họ Triệu kia chẳng hạn, dám lợi dụng cả chuyện ma quỷ để giết người, những kẻ như gã chẳng phải còn đáng sợ hơn cả ma quỷ hay sao?

Bốn người chúng tôi đều im lặng quay về phòng, khi đi ngang qua phòng trực của y tá, nhìn thấy cô y tá trực hôm qua vẫn hăng say coi tiểu thuyết, lần này thậm chí còn không phát hiện ra chúng tôi. Trước mặt cô, một lọ hoa cẩm chướng đang nở rộ, Bạch Dực cười nhẹ nói: “Hoa cẩm chướng đại biểu cho tình thương bao la của người mẹ, là loài hoa dành cho mẹ.”

Tôi không thể cảm nhận rõ ràng bác sĩ Lâm là người thế nào, bà có mềm yếu, có vô tư, bà là một người mẹ, cũng là một bác sĩ có tấm lòng, nhưng lại không quyết đoán, dung túng cho cái ác, nếu từ đầu bà biết nghiêm khắc ngăn cản chồng mình, có thể mọi chuyện không đến mức này chăng?

Ngày hôm sau, trong bệnh viện nổi lên tin đồn bác sĩ Triệu chết bất đắc kỳ tử trong chính khu hoa viên nhà mình. Khi người làm phát hiện ra thì gã đang ghé người vào bên bàn ăn, cái bụng đã bị chính gã đâm nát, trong tay còn cầm một cái dao ăn, kết quả khám nghiệm pháp y là tự sát. Trong phòng ngủ của gã, người ta phát hiện một số lượng lớn tiền mặt và một đống băng ghi âm, tất cả là do chính gã chuẩn bị để tống tiền những “khách hàng” của mình sau này. Phòng bệnh có ma nhờ đó mà hoàn toàn sáng tỏ. Tần Hiểu Mai dứt khoát chia tay với Triệu Hiên, cô bé quyết định không phá thai nữa, mà chuẩn bị sinh hạ đứa bé ra, đàng hoàng chịu trách nhiệm về những lầm lỡ tuổi trẻ của mình.

Về phần bác sĩ Lâm, sau này nghe đồn một bệnh nhân cũ của bà, bây giờ là một thương nhân giàu có, biết được hoàn cảnh bi thảm của bà, liền bỏ tiền xây một pho tượng lớn đặt trong khuôn viên bệnh viện. Pho tượng của một phụ nữ rất trẻ mặc áo blouse trắng có đôi mắt cực kỳ dịu hiền, xung quanh bà, hoa cẩm chướng nở rộ. Bà cứ thế dịu dàng nhìn vào bệnh viện, như thể sẵn sàng bảo vệ cho tất cả mọi người bên trong.

Tôi và Bạch Dực hồi phục rất nhanh, chẳng bao lâu liền xuất viện. Khi chúng tôi mang đồ đạc xuất viện, lại nghe thấy một mùi hương cẩm chướng dìu dịu lan tới, tôi vừa hốt hoảng đề phòng quay lại thì phát hiện hóa ra là cô y tá thường xem tiểu thuyết trong phòng trực đang cầm một bó cẩm chướng lớn đặt trước bức tượng của bác sĩ Lâm. Chúng tôi đến sau lưng cô, chỉ nghe cô nói rất nhỏ: “Cảm ơn bác sĩ Lâm, em là đứa bé mà bác sĩ đã cứu khỏi tay thần chết hai mươi năm trước đây, nhờ có bác sĩ em mới lớn được thành người. Hôm nay em cũng là một y tá, em muốn giống như bác sĩ, hết lòng vì từng bệnh nhân!” Nói xong cúi đầu chào thật sâu.

Cô y tá trẻ quay đầu lại nhìn thấy chúng tôi, sửng sốt một thoáng rồi lập tức mỉm cười: “Hai anh xuất viện rồi sao, chúc mừng nha!”

Tôi mỉm cười: “Đúng vậy, còn cô, đang làm gì vậy?”

Cô y tá trẻ mỉm cười đáp: “Bác sĩ Lâm là bác sĩ đỡ đẻ của tôi, lúc đó mẹ tôi khó sinh, ai cũng bảo là nhờ bàn tay thần y của bác sĩ Lâm, nếu không giờ tôi cũng không thể đứng đây được rồi.

Bạch Dực gật đầu lặng lẽ nói: “Bà ấy là một bác sĩ tốt, cũng là một người mẹ tốt.”

Gió thổi qua bồn hoa, những cánh cẩm chướng khẽ gợn lên theo chiều gió, như những lời chúc phúc thầm lặng mà chân thành dành đến tất cả mọi người phụ nữ sắp được trở thành mẹ.

Giường – Hoàn

[1] Dolatin là một loại thuốc giảm đau được sử dụng trước đây, dược tính tương tự như morphin, có khả năng gây nghiện.

.

Chương 40: Khách dưới trăng (Nhất)

Mùa xuân là mùa trăm hoa đua nở, khoe sắc muôn hồng nghìn tía, mọi người vừa trải qua một mùa rét đậm, đến lúc này có thể ưỡn ngực hít sâu một hơi dài, tận hưởng hương thơm tràn ngập ấm áp khắp nơi. Nhưng tôi không có cái phúc đó, với một người bẩm sinh đã bị dị ứng với phấn hoa như tôi, mỗi lần đến mùa xuân, đi ngang qua bồn hoa hoặc dưới tàng cây đều phải nhắm mắt bưng mũi bỏ chạy thật nhanh, nếu lỡ hít phải dù chỉ xíu xiu phấn hoa thôi cũng đủ hắt hơi đến đầu óc quay cuồng mất.

Vì sao tôi lại đột nhiên nhắc tới bệnh dị ứng của mình ư, đó là vì bên cạnh tôi lúc này là một cặp tình nhân vô cùng tình tứ, anh chàng nọ cứ như muốn khoe của, tặng cho cô nàng của mình một bó hoa hồng còn to gấp ba cái đầu của cô ta, một mùi hoa nồng nặc tỏa lan tứ phía, khiến tôi hắt xì không ngừng. Cũng may bọn họ tới sớm hơn chúng tôi, ăn nhanh hơn chúng tôi, chỉ càng chịu đựng chừng nửa tiếng đồng hồ là cặp chàng chàng thiếp thiếp nọ đã dắt díu nhau ra khỏi quán cầm theo quả bom màu đỏ chót kia, nếu không người ta nhìn tôi vừa ho vừa chảy nước mắt vừa hắt xì dám hiểu nhầm tôi là trái tim bên lề lắm.

Ngày hôm nay họp mặt với mấy người bạn cũ, mọi người đều là thâm giao, hơn phân nửa lại cùng sống trong một thành phố, trong số đó đương nhiên cũng có Lục Tử. Mấy ly bia cạn sạch, tôi bắt đầu kể chuyện, đem mấy chuyện ma quái mình từng gặp ra thêm mắm dặm muối cho ly kỳ dự dội hơn để lòe đám bạn, đương nhiên phải làm nổi bật sự gan dạ thấy chết không sờn cùng anh minh cơ trí của mình lên. Bởi con người đều có bệnh chung là thích cái lạ, nên người trẻ tuổi gần như ai cũng thích nghe chuyện ma quái rùng rợn. Lục Tử ngồi bên cạnh cũng đốc vào, đáng tiếc thằng nhóc này chỉ rành buôn bán chứ không rành bịa chuyện ma, kể một hồi đầu với đuôi đánh lộn với nhau, mọi người nhanh chóng nghe ra là chúng tôi đang tấu hài. Nhưng không tin cũng chẳng sao, một đám người tụ họp, thích nhất là náo nhiệt. Các anh em lại đã lâu không được gặp nhau, uống tràn hát tràn kể chuyện trời nam đất bắc, hỏi thăm tình hình gần đây của nhau, không khỏi thổn thức trong lòng. Kỳ thực nếu không phải sáng mai còn phải đi làm, tôi còn muốn giống như khi học đại học, mang theo mấy chai bia chạy lên nóc nhà uống rượu bàn chính sự, nghĩ tới tương lai. Khi ấy trong đầu chỉ lo đàn ghita sao cho hay, hát sao cho vang, thời niên thiếu lông bông hoàn toàn không lo sầu năm tháng.

Rượu quá ba tuần, tôi bắt đầu buồn ngủ, mí mắt trĩu nặng xuống, nhìn sang đồng hồ treo tường trong quán thì cũng đã hơn 11 giờ. Chuyến tàu cuối cùng chắc chắn đã lỡ, lúc này phải chịu khó đi bộ thêm một quãng đường khá xa để bắt chuyến tàu đêm, nếu lúc này còn không chịu về, lỡ ngày mai ngủ quên một cái thì chắc chắn bị Phan hói cạo đầu mất. Vì vậy tôi bèn đứng dậy  khoác áo, vỗ vỗ vai mấy người bạn chúc họ ở lại vui vẻ, gọi phục vụ tới tính tiền phần mình rồi chia tay đám bạn ra về.

Vừa bước ra khỏi quán, bầu trời bên ngoài đã trải rộng đen đặc trước mắt, trên đường hầu như không còn người qua lại, có người cũng chỉ còn là những người làm ca đêm, nét mặt lạnh tanh qua lại như những cái bóng, tuy không có vẻ vội vàng lo âu như những người làm việc ban ngày, nhưng ngược lại, cái vẻ lạnh lùng đến gần như chết lặng này lại khiến người ta phải liên tưởng đến những cái xác không hồn. Một năm tứ quý mỗi mùa đều để lại cho đêm những hương vị riêng biệt, đêm mùa xuân mang theo một cảm giác ấm áp ôn hòa rất lạ, gió rất lạnh, nhưng trong không khí vẫn còn lưu luyến dư vị nắng ấm của buổi ban ngày.

Tôi kéo khóa chiếc áo khoác lại cho kín, vội vã băng mình vào đêm, chưa đi được bao xa thì trời bắt đầu rắc mưa bụi, lất phất rất nhỏ, chỉ dưới ánh đèn đường mới phảng phất nhìn thấy những hạt mưa mảnh như sợi chỉ khẽ giăng giăng trong không khí. Con đường này có nhiều quán ăn đêm, ngoài cửa chớp lóe những ngọn đèn chói mắt đủ màu, nhưng bên trong cánh cửa cũng tối thui, một vài cô phục vụ viên ăn mặc như chẳng có đứng ngoài cửa thản nhiên hút thuốc uống rượu, gương mặt hắt ánh sáng đèn đường nên trông có vẻ xám ngắt, đứng tựa cửa lạnh lùng nhìn ra ngoài đường. Nếu không nhờ ánh mắt thỉnh thoảng đảo qua lại thì trông bọn họ giống hệt như những con búp bê vô hồn. Có người không chờ được, ra hẳn ngoài đường đón khách, vừa nhìn thấy tôi lập tức xáp tới nháy mắt đưa tình. Tôi vừa nhìn thấy vẻ hung hăng như hổ cái của bọn họ, lập tức sợ tới mức quay đầu bỏ chạy trối chết, chỉ nghe văng vẳng phía sau tiếng con gái cười khanh khách chọc quê.

Trạm xe đêm nằm trong một góc đường hẻo lánh, nếu không phải trước đây đã nhớ kỹ vị trí của nó thì giờ này chưa chắc đã tìm ra. Tôi nhìn đồng hồ đeo tay, ngẩng đầu đối chiếu với bảng giờ tàu chạy, phát hiện còn phải chờ thêm mười phút nữa mới có một chuyến xe.

Vì vậy tôi đành bất đắc dĩ lôi cái MP3 trong túi ra, đeo tai nghe, đứng tựa vào bảng hiệu trạm xe mà chờ đợi. Nhạc toàn là nhạc không lời tải từ game online xuống, không biết rõ tên là gì, nhưng giai điệu nào cũng cực kỳ trữ tình, hợp tình hợp cảnh. Âm nhạc chậm rãi mà da diết gần như hòa làm một với bầu không khí bãng lãng xung quanh, làn mưa cứ rơi thánh thoát khi thưa khi mau, nhìn xa xa có thể trông thấy một lớp khói mờ sương phun ra từ ống khói của một nhà xưởng nào đó, trong không khí vẽ lên những hình thù kỳ lạ, rồi dần dần tan vào bầu trời đêm đen thẳm phía trên.

Tôi đưa ống tay áo lau mặt, cảm thấy trên mặt mình đã bám một lớp nước mỏng. Nhìn cảnh sắc ở xa một lúc cũng cảm thấy mệt mỏi, vì thế tôi quay đầu nhìn lại lối đi bộ bên kia đường, nhìn thấy một bãi cỏ mênh mông, tỏa vào không khí một mùi cỏ xanh sạch sẽ tươi mát hòa cùng mùi ngai ngái ẩm ướt của đất trồng. Tôi chợt cảm thấy không khí mùa Thanh minh càng lúc càng tới gần. Rất nhiều người không biết kỹ, chỉ biết Thanh minh là quỷ lễ, thực ra không phải. Vào thời cổ, tiết Thanh minh là lễ mừng mùa xuân mới đã tới, cũng là ngày lễ cúng trời đất vạn vật chuyển hóa âm dương, là một trong hai mươi tứ tiết, đối với nông nghiệp là một khoảng thời gian quan trọng cực kỳ vì nó bắt đầu vụ mùa mùa xuân. Lý do người ta liên hệ tiết Thanh minh với cõi âm là vì trước ngày Thanh minh chính là ngày Hàn thực, nghe nói là để tưởng nhớ chuyện Tấn Văn Công thương tiếc Giới Tử Thôi. Từ đó về sau mọi người có thói quen nhập hai ngày lễ Hàn thực cùng Thanh minh làm một, Đường Huyền Tông năm Khai Nguyên thứ hai mươi đã ra chiếu chỉ cho thiên hạ là “Hàn thực viếng mộ”, vào ngày này dân chúng lũ lượt tìm tới phần mộ tổ tiên hoặc từ đường của dòng tộc để dâng hương cúng bái, cho nên ngày Thanh minh tràn ngập những người đi tảo mộ, mà thức ăn cũng là thức ăn lạnh, không được dùng đồ ăn nóng. Cho tới ngày nay vẫn còn một món truyền thống là cơm nắm xanh, mang theo một mùi cỏ thơm nhàn nhạt. Từng nắm gạo nếp xanh mượt bao bên ngoài bột hoa hồng nhỏ mịn bên trong. Nghe mùi rất thơm, nhưng tôi không thích ăn, vì cứ có cảm giác thứ này chỉ nên cho người chết ăn mà thôi. Cảm giác “lạnh”, đối với người sống là một dạng trải nghiệm cảm giác của cõi âm. Cho nên tôi luôn luôn cảm thấy ngạc nhiên vì sao mọi người cứ đem ngày xuân ấm áp đầy sức sống cột chặt với truyền thống tế bái người chết? Chẳng trách mà tiết Thanh minh từ từ biến thành một ngày quỷ lễ, đây có thể nói là một trường hợp mà văn hóa truyền thống của Trung Hoa bị hiểu sai và xuyên tạc.

Đang khi còn suy nghĩ miên man, chợt thấy trong bụi cỏ bên kia dường có một người nào đó đang bước tới bước lui, phản ứng đầu tiên của tôi là chẳng lẽ lại là trộm? Nhưng cũng không phải chứ, đối diện là một công trường thi công, nhà còn chưa xây xong thì trộm cái gì? Chẳng lẽ muốn lấy cắp vật liệu xây dựng? Nhìn người nọ dáng người lom khom, lật từng tấc từng tấc cỏ nghe loạt soạt, tôi có phần nghi hoặc, nhưng lại nghĩ nếu thật là ăn trộm thì tôi nên đóng trọn vai trò công dân tốt, ra đó xem thử xem sao, nếu là đúng thì phải nhanh chóng đi báo cho dân phòng. Vì thế tôi chọn lúc đường vắng vẻ không có xe, nhanh như chớp chạy ào qua đường, sau đó từng bước từng bước tới gần người kia, trong lòng lúc này mới nghĩ nếu kẻ này thực là ăn trộm thì có khả năng mang theo vũ khí, bụng cũng hơi sợ nên đi rất rón rén. Nhưng khi tiến tới gần thì chợt mũi ngứa lên, một mùi hoa nồng nàn vừa xộc thẳng vào cánh mũi, lập tức nhịn không được đánh mấy cái hắt hơi liền. Người kia đang cúi rạp xuống đất vội đứng thẳng người lên nhìn tôi. Tôi run lên nghĩ mình xong đời rồi, chắc sắp bị diệt khẩu mất. Nhưng người kia hoàn toàn không có ý định tấn công tôi, cũng không có vẻ muốn chạy. Trái lại chỉ hơi ngẩn ra, sau đó chậm rãi tiến tới gần tôi. Nương theo ánh đèn, tôi mới nhìn người nọ được rõ hơn. Ánh đèn tù mù trong công trường hắt một thứ ánh sáng nhàn nhạt lên gương mặt hơi tái của anh ta. Đại khái là một thanh niên chừng ngoài hai mươi, nhìn còn rất trẻ, gương mặt khá điển trai. Nhưng trên người lại mặc một bộ quân phục cũ xì rách bươm, tôi không ngờ thời buổi này còn có người mặc quân phục màu xanh lá, khoác một cái túi xách vải buồm cũng màu xanh nốt, trông giống như những Hồng vệ binh trong tranh vậy. Động tác của anh ta rất chậm, khi anh ta đứng thẳng người dậy, tôi mới phát hiện anh ta to cao hơn tôi nhiều, cơ thể cường tráng rắn chắc lại thêm bộ quân phục trên người, trông giống như một anh lính biên phòng điển hình.

Thanh niên gãi gãi đầu, cười bẽn lẽn: “Ha ha, tôi đang tìm vài thứ thôi.”

Tôi vừa nhìn thấy bộ quân phục thì đã nhẹ nhõm hơn rất nhiều rồi, quần chúng nhân dân nên tin tưởng ai nhất? Đương nhiên là những chiến sĩ rồi. Tôi vừa nhìn thấy đây là một quân nhân liền lập tức cảm thấy kính trọng hẳn lên, vội hỏi: “Đại ca, anh đang tìm gì vậy?”

Trông anh ta có vẻ rất giản dị, là một vẻ hàm hậu mà đặc biệt các quân nhân hay có, giọng nói pha khẩu âm phương bắc rất nặng, khi cười cặp mắt híp thành hai đường bán nguyệt, vui vẻ đáp: “Cũng không có gì quan trọng, chắc đêm nay tìm không được rồi.” Nói xong nhìn tôi cười cười rồi chậm chạp bước qua đường. Tôi cũng đúng lúc muốn quay lại đó chờ xe, nên cũng theo anh ta sang đường. Cả hai chúng tôi cùng đứng chờ dưới trạm, nhưng tôi cũng không thích nói chuyện nhiều với người xa lạ lắm, nên lại tiếp tục mang tai nghe vào nghe nhạc tiếp. Lúc nãy không dừng máy nghe nhạc, nên lúc này đã nhảy qua mấy bài, đang phát một bài hát có tiết tấu cực kỳ chậm rãi, hát về một câu chuyện trên thảo nguyên, ca tụng công đức của Cách Tát Nhĩ Vương[1]. Tiếng hát ngân nga hào sảng, cùng tiếng đàn ngựa tung vó hí vang, mang theo âm hưởng hùng tráng mà trữ tình của thơ ca hàng nghìn năm về trước.

Đang lúc một giọng nữ cao vút ngân khúc Trường Sinh thiên, đột nhiên tôi nhận ra trong bài hát chợt lẫn vào một vài tạp âm nho nhỏ, tôi thử chỉnh lại tai nghe, nhưng vẫn không hết được. Ban đầu tôi cho rằng đây có thể là tạp âm rè rè của cái máy MP3, nhưng nghe thật kỹ có thể thấy đó là tiếng người đang nói chuyện, dùng một loại ngôn ngữ rất kỳ quái, hơn nữa thanh âm già nua khàn khàn, lại bị trộn với bài hát nên nghe càng khó, nghe không kỹ còn tưởng là do MP3 bị hư. Tôi nín thở lắng tai nghe để xem rốt cuộc ai đang nói cái gì, nhưng lại nghe không hiểu, chẳng lẽ là đang nói tiếng Anh? Tại vì nghe không giống như mật mã lắm. Chỉ nghe những tạp âm xè xè mà đứt đoạn, không thể hiểu được người đó đang nói gì. Tôi cau mày định thử nghe lại lần nữa thì anh quân nhân kia đã lên tiếng, báo cho tôi biết xe đã tới. Tôi ngẩng đầu lên nhìn, ngoài trời mưa bay lất phất nhìn không rõ, chỉ thấy hai ánh đèn xe như hai ngọn lửa ma trơi từ từ tiến tới gần. Chờ đến lúc xe tiến tới trước mặt, tôi mới thấy rõ nó là một cái xe buýt công cộng, vì thế cũng tắt máy nghe nhạc nhét vào túi, chờ đến lúc về tới nhà sẽ kiểm tra lại một lần, nếu lúc đó còn có tạp âm thì phải mang ra chỗ tiệm bán MP3 mắng vốn mới được!

Người quân nhân hơi nghiêng người nhường tôi lên xe trước, tôi vừa gật đầu cảm ơn vừa nhấc chân lên xe. Trong xe chỉ có vài hành khách, tất cả mọi người đều ngồi riêng mỗi người một ghế, cho dù bên cạnh còn chỗ trống cũng không ai tình nguyện ngồi xuống bên một người xa lạ. Đó chính là tính cách kỳ lạ của con người, rõ ràng là động vật quần cư không thể sống xa đồng loại, mà lại vẫn cảnh giác giữ một khoảng cách với những người khác. Có lẽ phải nói rằng ở một phương diện nào đó thì con người có bản năng bài xích những thứ xa lạ với mình. Tôi cũng thế, nên chọn một băng ghế sát bên cửa sau, để xuống xe cho dễ. Anh quân nhân kia cũng ngồi xuống bên cạnh.

Tài xế cho đóng cửa xe, bóp kèn hai lần rồi mới cho xe lăn bánh. Tôi biết hành động này thực ra cũng là một hành động mê tín của giới tài xế, bởi vì phải chạy xe ban đêm nên trước khi cho xe chạy, bóp kèn hai lần như để nhắc nhở các cô hồn dã quỷ trên đường rằng đây là xe của người sống, nên tránh ra không nên tìm cách làm phiền lái xe, coi như cũng là một loại cầu khẩn được lên đường bình an.

Xe chạy rất nhanh, dù sao cũng là đường đêm không lo bị kẹt xe. Dọc đường đi ngoại trừ mấy lần dừng lại vì đèn đỏ, còn thì xe chạy bon bon, trên xe tính luôn cả tài xế cũng chỉ có bảy người. Mọi người đều im phăng phắc, chỉ nhẹ nhàng lay động theo nhịp rung lắc của xe, ánh mắt bình thản mà vô cảm. Vị quân nhân bên cạnh tôi thì ngồi thật thẳng, so với anh ta, trông tôi thật là bê tha.

Anh ta mở miệng hỏi: “Đồng chí là người địa phương này à?”

Trong lòng tôi thầm buồn cười, dạo này người ta gọi nhau là anh đẹp trai, là anh em, là tiên sinh, chứ chẳng còn ai gọi nhau là đồng chí thế này nữa. Tôi lắc đầu: “Không, nghe khẩu âm của anh dường như là người miền bắc?”

Anh ta gật đầu: “Vâng, tôi người Trường Xuân.”

Đã thế này thì cũng phải hỏi han nhau một chút, nếu không thì mình quá lạnh lùng, hơn nữa đối phương rõ ràng là người trong quân ngũ, thật thà chất phác có gì mà phải sợ? Lúc nãy khi chờ xe anh ta đứng dưới tán cây nên lúc này trên tóc còn vương lại mấy chiếc lá khô khiến tôi có hơi buồn cười, ống quần vương đầy bùn đất, thoạt nhìn còn tưởng là nông dân trồng rau. Lúc này tôi mới phát hiện ra hai bàn tay của anh có hơi lạ, da tay nhăn  nheo lại trổ những vết tròn nâu nâu như những vết đồi mồi trên da người già.

Người quân nhân thấy tôi đang nhìn tay mình thì có hơi bối rối nắm chặt tay lại, sau đó chất phác cười: “Ha ha, tay tôi bị làm sao à? Mà tên tôi là Vi Thỏa, trước đây là lính pháo thủ, còn tiểu đồng chí tên là gì?”

Quả nhiên là cách nói chuyện của quân nhân, lúc nói chuyện cũng không quay đầu lại, tôi nghĩ thầm, hóa ra là lính pháo thủ, có lẽ do thường xuyên tiếp xúc với hỏa dược nên màu da mới bị biến đổi như thế, cho nên mới nói, mỗi chiến sĩ đều là một bức tường thành mà! Tôi lúc nhỏ cũng thích gia nhập quân đội, nhưng vóc dáng thể trạng không đạt yêu cầu, kiểm tra sức khỏe không đủ tiêu chuẩn nên đành thôi. Nghĩ đến đây, lại nhìn một người lính thực thụ trước mặt, trong lòng không khỏi cảm thấy kính phục. Vì thế cung kính đáp: “Tôi tên An Tung, lúc trước cũng từng muốn đi lính.”

Vi Thỏa cười to, nhưng vẫn không quay đầu lại. Xe chạy trên đoạn đường hơi gập ghềnh, ngoài cửa sổ đọng đầy nước mưa, tôi quay sang hỏi mấy thứ về quân sự, lại hỏi cảm giác cầm đại pháo trong tay thế nào vân vân, nghe tôi hỏi, Vi Thỏa bật cười ha hả, nói: “Tiểu đồng chí đúng thật là muốn đi lính nhỉ?”

Tôi gãi gãi tóc, ngượng ngùng nói: “Thì anh thấy thể chất của tôi rồi đấy, thấp bé nhẹ cân thế này nên không lọt qua vòng kiểm tra sức khỏe, trừ phi có ‘gửi gắm’, nếu không thì súng cũng không được cầm.”

Vi Thỏa đáp: “Cũng không phải là không được, trong quân của tôi lúc trước có một binh nhất, cậu ta cũng đặc biệt nhỏ con, ăn ít như mèo, nhưng cuối cùng vẫn trở thành một chiến sĩ xuất sắc đó.”

Tôi ước ao nhìn anh ta, nhưng lúc này tham gia quân ngũ cũng không còn là mơ ước thực tế nữa, tôi cũng không còn chấp nhận với nó như lúc còn nhỏ.

Chỉ thấy ánh mắt của anh ta trong thoáng chốc chợt trở nên mơ màng, như thể đang nhớ về quá khứ: “Lúc đó mọi người đều gọi cậu ta là Hạt Đậu, nhưng cậu ta cũng không giận, vì ở quê cậu ta, Hạt Đậu và Hạt Giống là đồng nghĩa, cho nên cậu ta luôn luôn tin rằng mình là một hạt giống sau này có thể trở thành một cây cổ thụ to lớn. Mà sau đó cậu ta quả thực trở thành một chiến sĩ khiến người ta phải nể phục.”

Tôi gật đầu, biểu lộ sự đồng tình. Nói đến đây cần phải nói thật là từ đầu tới giờ tôi luôn ngửi thấy một mùi là lạ tỏa ra từ người Vi Thỏa, không thể nói là mùi hôi, nhưng vẫn rất quái lạ. Cũng có thể là do lúc nãy anh ta cứ sục sạo trong bụi cỏ cũng không chừng. Tôi những muốn hỏi anh ta thực ra muốn tìm cái gì, lúc này đã là nửa đêm, nếu ánh sáng không đủ tìm không thấy thì chẳng bằng để sáng mai hãy tìm không được sao?

Anh ta nghe tôi nói thế cũng không nói gì, chỉ bảo là nếu kể cho tôi nghe tôi sẽ cười anh ta ngu ngốc mất. Mà nếu người ta đã không nói, tôi cũng không tiện hỏi lại. Tôi và anh ta nói chuyện phiếm dăm ba câu, chẳng mấy chốc xe đã băng ra đại lộ. Vi Thỏa đứng dậy báo xuống xe, trước khi đi anh ta trao cho tôi một cái gói nhỏ nói: “Coi như chúng ta hữu duyên, tôi không có gì tặng cậu được, thôi thì cái này là hạt giống hoa, trồng mùa này là hay nhất. Cậu xem…”

Tài xế xem chừng là người nóng nảy, cửa vừa mở một chút đã dợm muốn đóng. Vi Thỏa chỉ nói được tới đó liền vội vàng vẫy tay xuống xe. Tôi sững sờ ngồi lại, tình huống này rất giống như một bộ phim hoạt hình Nhật Bản mà em họ tôi lúc nhỏ thường hay xem, gọi là cái gì nhỉ… “Hana no ko Lunlun”[2]? Nhưng trong phim đó nhân vật chính là một cô bé tóc vàng cơ. Vì thế tôi càng hiếu kỳ bên trong cái gói nhỏ này là hạt giống của loài hoa gì. Cái gói được làm bằng giấy cũ rất bươm ngả vàng, bên trong là những hạt giống xanh lục như hạt đậu. Chỉ nhìn quả thực không biết là loài hoa gì, tôi định sẽ đem về cho Bạch Dực xem, có thể anh ta nhìn sẽ biết. Mà nếu anh ta cũng không biết thì cứ trồng thử vào chậu xem sao, nở hay không nở cũng tùy ý trời. Vì thế tôi nhét cái gói vào túi áo, quay đầu lại phía sau nhìn về phía Vi Thỏa vừa xuống xe. Xe chạy quá nhanh nên đang khi tôi còn nghiên cứu về cái bao hạt giống thì bóng dáng Vi Thỏa đã biến mất rồi, thế nhưng ở phía xa xa đằng sau có một bóng người màu trắng, lẳng lặng đứng ở vệ đường, không động đậy cũng không đi. Tim tôi hơi giật lên một cái, nhưng không nói gì. Trên xe kị nhất là nói ra những điều ma quái xui xẻo, coi chừng bị mọi người mắng chết.

Nhưng có vẻ như cả tài xế cũng đã nhìn thấy cái bóng trắng đó qua kính chiếu hậu, tôi thấy ông ta lầm bầm chửi một câu xui xẻo, sau đó nhấn chân ga cho xe phóng nhanh hơn. Hành khách vẫn đung đưa qua lại theo nhịp lắc của xe như mấy con lật đật, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ xe, ngoài trời vẫn tối đen như mực, những ngọn đèn đường không đủ để soi sáng cảnh vật bên ngoài. Xe chạy được một lúc lâu, tôi chỉ thấy những đường nét loang loáng chạy qua trước mặt, ngoài ra không trông rõ được gì. Nhưng chẳng hiểu sao tự nhiên tôi cảm thấy phập phồng bất an kỳ lạ, trong lòng có một dự cảm chẳng lành, tôi thử nhìn sang những hành khách khác, nhưng bọn họ dường như chẳng có vẻ gì là phát hiện ra cái thứ kia, chỉ lặng lẽ ngồi yên trên xe. Tôi đành ép mình ngồi yên, trong lòng không ngừng tự an ủi mình: “Không sao, sáng nay ra ngoài có nhìn lịch mà! Đại cát đại cát, không cần kiêng kị, không gặp chuyện xui mà!” Lại âm thầm niệm mấy câu A di đà phật.

Nhưng dần dần tôi nhận ra tốc độ của xe càng lúc càng chậm, chậm tới nỗi rề rề như sắp dừng hẳn lại vậy, nhưng vẫn không trông rõ khung cảnh trước đầu xe. Xe chạy chậm như thể một cái xe tang. Không khí xung quanh đột nhiên như lạnh đi hẳn, tôi ngồi đó mồ hôi lạnh đổ rần rần, cứ theo cái đà này coi chừng đến sáng mai cũng chẳng tới trạm nổi. Tôi nhìn xung quanh muốn biết chỗ này là chỗ nào, nên dùng bàn tay xoa xoa khung cửa kính mờ hơi nước, lại bất thình lình phát hiện, cái bóng trắng! Không biết tự lúc nào mà nó đã dán sát vào cửa sổ chỗ tôi ngồi rồi! Nhìn không ra hình dạng của nó là cái gì, chỉ thấy một tay của nó âm thầm vung vung rải rải xuống đường như đang rải tiền vàng mã cho người chết vậy! Chết tiệt, xe tụi tôi không phải là xe tang! Không ngờ theo tới đây. Trong mắt tôi ngập tràn bất an, nhưng những hành khách khác dường như chẳng nhận ra cái gì bất thường cả, chỉ có tài xế chạy xe cứ càng lúc càng chậm, hơn nữa, càng lúc xe càng rung lắc dữ dội. Cuối cùng tôi thực sự ngồi không nổi nữa, đành đứng lên đi tới bên cạnh tài xế nhỏ giọng hỏi có chuyện gì vậy?

Ánh mắt tài xế lúc này cũng đã kinh hoảng lên rồi, trên trán mồ hôi cũng đổ lấm tấm. Ông ta thì thầm nói: “Coi mòi bị ‘lộ quỷ’ bám theo rồi. Cậu muốn xuống xe bây giờ tôi cho cậu xuống?”

Tôi nghe không rõ lắm, nên hỏi lại: “Là thế nào cơ?”

Ánh mắt tài xế vẫn dán chặt trên đường như thể sợ rằng chỉ cần dời mắt đi một giây là đủ gặp tai họa vậy: “Cái thứ trắng trắng kia coi chừng là một con ‘lộ quỷ’, là thứ hay bám theo để gây tai nạn cho các tài xế. Hiện tại nó đang bám theo cái xe này.”

Tôi gào lên: “Vậy mọi người cùng nhau bỏ xe chạy thôi chứ!”

Tài xế ngạc nhiên hỏi lại tôi: “Cái gì? Hôm nay hành khách trên xe chỉ có mình cậu thôi mà…?”

[1] Là một anh hùng trong truyền thuyết của dân tộc Tạng, cả đời trừ gian diệt ác, truyền bá đạo Phật

[2] Là một bộ shoujo manga của Shiro Jinbo, được chuyển thể thành anime bởi Toei Animation năm 1979, có thể coi là tiên phong của thể loại anime có những nữ nhân vật chính biến hình thành anh hùng (kiểu kiểu như Sailor moon ấy, nhưng sớm hơn hẳn 10 năm). Chủ đề chính xoay quanh cuộc chiến của cô bé Lunlun Flower và ý nghĩa của các loài hoa

_______________________________________________

Chương 41: Khách dưới trăng (Nhị)

Câu nói đó của ông ta vừa thốt lên tóc sau gáy tôi đã dựng đứng lên hết, tôi không dám quay đầu nhìn lại sau xe, chỉ run run hỏi lại: “Ông… ông nói gì thế… còn tới 4 người khách nữa cơ mà…?”

Giọng nói của tài xế lúc này cũng trở nên hơi kỳ lạ, ông ta đáp: “Không có mà, từ đầu chỉ có một mình cậu thôi à. Cái xe này nhiều năm nay không có người sống nào bước lên cả…”

Lời này dường như một chậu nước đá tạt thẳng vào mặt tôi, nhất thời tôi cảm thấy xung quanh mình tối sầm lại như vừa rơi vào địa ngục. Người sống? Nói vậy tức là sao chứ? Lẽ nào ý ông ta là trên cái xe này không có ai còn sống cả sao…? Vậy còn chính bản thân tài xế thì sao…? Tôi cúi đầu len lén quan sát, không nhìn đã đỡ, vừa nhìn tôi đã sợ tới mức suýt nữa thì buột miệng hét lên! Ông tài xế hoàn toàn không còn bộ dáng như ban đầu nữa, cái đầu của ông ta đã thối rữa tới mức sắp lòi hết xương, thoạt nhìn tựa như một trái khổ qua thối… mấy sợi tóc thưa thớt dính lại trên trán, trên mặt còn mấy vết máu đen thui bết lại. Một bên tròng mắt đã lồi hẳn ra ngoài. Qua kính chiếu hậu, tôi nhìn thấy bốn hành khách còn lại mà lúc nãy tôi đã miêu tả là lắc lư như lật đật, thực ra chỉ là bốn khối thịt nhầy nhụa không ra hình dáng, chỉ có đôi tròng mắt vẫn nhìn thẳng trừng trừng về phía trước!

Cái miệng của tài xế đã gần như biến dạng hoàn toàn, làm giọng nói cũng méo mó hẳn đi: “Thôi xong, bị đuổi kịp mất rồi. Cậu xuống không thì bảo, đừng đứng đó nói chuyện  nữa. Gần đây có một cái miếu, có thể vào đó trốn một lúc.”

Tôi lúc này đã gần phát điên, ai mà ngờ chạy một hồi hóa ra xung quanh đây chỉ có mình tôi còn sống? Hay lẽ nào ngay cả tôi cũng đã chết mà không biết? Tôi lập tức đè hết mọi hoảng kinh cùng nghi ngờ trong lòng mà gào to một câu cốt tử: “Tôi muốn xuống! Cho tôi xuống mau!”

Tài xế quay cái đầu như trái khổ qua thối sang nhìn tôi một cái, cuối cùng chậm chạp dùng một bàn tay máu me bê bết bấm vào nút mở cửa xe. Tôi không dám ngoảnh đầu nhìn lại, cũng không quản mình đang chạy hay đang nhảy đại xuống xe, chỉ cốt làm sao thoát khỏi đó càng nhanh càng tốt. Trong đầu chỉ còn văng vẳng những lời Bạch Dực đã từng giảng về những chuyến xe ma, tất cả mọi người trong xe đều chết trong một tai nạn giao thông cùng nhau, cho nên bọn họ cứ dính chặt vào cái xe đó, vĩnh viễn lập đi lập lại chuyến xe cuối cùng của đời mình, lập đi lập lại tất cả những hành vi cùng những lời nói của mình ngày hôm đó. Cũng may số mạng của tôi tốt đến mức không thể tốt hơn được nữa, bởi vì lúc đó có khả năng từng có một người cũng từng nói với tài xế những lời như vậy, sau đó một hai đòi xuống xe, mà tài xế cũng mở cửa một lần cho người đó xuống. Nếu không thì tôi lúc này đã trở thành một hành khách vĩnh viễn của chuyến xe ma quái đó, làm hành khách ma thứ sáu luôn rồi.

Xe lại nhanh chóng chạy đi. Lúc này tôi mới để ý nó không có bánh xe, mà gần như là lướt trên mặt đường. Thân xe móp méo rỉ sét như thể đã từng bị tông một cú thật lực. Tôi nuốt nước miếng, đột nhiên lại nhớ tới cái bóng trắng vẫn đang bám theo cái xe nãy giờ, liền lập cập run rẩy đứng dậy rồi bất kể mọi thứ xung quanh mà chạy như bị ma đuổi, không cần biết là chạy đi đâu, chỉ cần sớm rời xa cái chỗ quỷ quái này là tốt rồi! Tôi chạy không ngừng trên đường, chỉ có tiếng tim đập như trống trận cho biết bản thân lúc này quả thực vẫn còn sống.

Trời mưa tầm tã, trước mặt nhòe nhoẹt một mảnh nhìn không rõ, tôi thỉnh thoảng đưa tay gạt bớt nước đập vào mặt, vất vả chạy như muốn chực té, hoàn toàn chỉ dựa vào bản năng mà bỏ chạy trối chết. Đột nhiên trước mặt tôi lại xuất hiện một cái bóng trắng, lòng tôi lạnh toát, chẳng lẽ bám vào cái xe ma kia chưa đủ giờ tới tìm tôi ư?! Tôi định quay đầu bỏ chạy về hướng ngược lại, nhưng chân tay tê cóng không sao cử động nổi nữa, chỉ biết đứng tại chỗ giậm chân không ngừng trong hoảng loạn như một thằng điên. Bóng trắng dường như đã nhìn thấy tôi, chậm rãi tiến tới gần, hình dáng cũng càng lúc càng rõ ràng, có chân có tay, còn che một… cây dù? Cây dù nọ nhìn lại cực quen mắt, cái bóng nhìn cũng cực quen mắt. Chẳng lẽ là yêu quái biến hình lừa người? Tôi thầm nghĩ thôi thế là xong đời rồi, quả nhiên là theo tôi tới. Nhưng ngay khi tôi chuẩn bị nhắm mắt chờ chết, chợt nghe giọng Bạch Dực lạnh lùng gọi: “Nhóc con này cậu có bệnh à? Mưa thế này mà chạy đi đâu vậy?”

Nghe thấy giọng nói thân thuộc đó tôi mới sực nhận ra quang cảnh xung quanh cũng rất quen thuộc, chính là trước cửa chung cư nơi chúng tôi ở. Lẽ nào bản năng của tôi tốt tới vậy, chạy loạn mà cũng chạy đúng về nhà? Bạch Dực một tay cầm dù, một tay xách túi rác. Hóa ra cái bóng trắng ma quái lúc nãy đúng là tên khốn này, ai dạy anh ta nửa đêm nửa hôm còn xách dù đi đổ rác vậy không biết?! Mà như thế chẳng lẽ là cái trạm mà tôi tông bừa xuống lúc nãy đúng là trạm dừng lẽ ra tôi nên dừng? Đúng đúng, miếu Hạ Hải, chính là trạm của tôi rồi! Đột nhiên tôi chỉ muốn quỳ rạp xuống đất gào to tạ ơn trời đất phù hộ mà thôi! Tôi gạt nước mưa trên mặt, mà cũng có thể là mồ hôi lạnh cũng không chừng, run run lảo đảo bước về phía Bạch Dực. Một chút men say lúc ban tối cũng bị một trận này làm cho tỉnh hẳn cả người. Sau khi xác nhận người này đúng là Bạch Dực, liền lập tức kích động nắm tay anh ta: “Người anh em, An Tung cuối cùng cũng sống sót quay về gặp được anh rồi!!!”

Nói xong lập tức nhào tới ôm chặt lấy người trước mặt, cái ôm nồng cháy không thua gì cái ôm chặt của người nhà gặp lại nhau sau mười năm nội chiến. Chỉ có điều lúc này cả người tôi bị nước mưa làm ướt như chuột lột, Bạch Dực lo lắng vỗ vỗ lưng tôi: “Làm sao mà trông thảm như vậy, bị lưu manh rượt theo à?”

Tôi nuốt nuốt nước miếng, lúc nãy một đường chạy liên tục không ngừng nghỉ, lúc này tôi đã gần như kiệt sức thở không ra hơi, chỉ còn đủ sức huơ huơ tay yếu ớt: “Vào nhà đã, từ từ… từ từ cho tôi thở… một cái…”

Vào được trong phòng ký túc xá, đến lúc này tôi mới có cảm giác đã đặt chân về lại dương gian, nhớ lại toàn bộ chuyện lúc nãy quả thực cứ như một hồi ác mộng xa xăm. Tôi muốn nằm vật xuống giường nghỉ ngơi, nhưng Bạch Dực đã xốc cổ áo tôi đứng lên, hừ giọng nói: “Cấm ngồi, trông cậu đó, ướt chẳng khác nào thủy quỷ vậy, đi thay quần áo trước cho tôi!”

Tôi vung vẩy tay: “Đừng, để tôi nghỉ ngơi cái đã, anh không biết tôi vừa nhìn thấy cái gì đâu, nếu không phải tôi hên tận mạng thì đêm nay chắc bỏ xác luôn rồi!”

Anh ta đẩy đẩy kính mắt nhìn tôi: “Lại có chuyện gì xảy ra nữa?”

Tôi dần dần hồi phục tinh thần, bình tĩnh lại mới cảm thấy cả người lạnh buốt, tôi rùng mình một cái, cầm mớ quần áo khô lên nói: “Đừng hỏi nữa, gặp phải xe ma đấy! Cụ thể để tôi tắm một cái đã rồi kể, lạnh thế này tôi bị cảm mất!” Nói xong lao vào nhà tắm tắm nước nóng.

Tôi vặn nước nóng hết cỡ, chà xát nhiều lần cho đến lúc toàn thân đỏ ửng lên mới ra. Dùng khăn lông xoa xoa tóc, có Bạch Dực ngồi bên cạnh rót cho chén trà nóng, tôi nhấp một ngụm, cuối cùng mới cảm thấy hoàn toàn quay về dương thế, liền vội vàng kể hết mọi chuyện rùng rợn lúc nãy cho Bạch Dực nghe.

Bạch Dực nghe được một lúc, tự nhiên đầu gục xuống ngực, tôi nhìn lên… chết tiệt! Anh ta đang ngủ?! Ông đây vừa mới trải qua một trận kinh hoàng sống không bằng chết, vội vàng ra kể cho anh nghe mà anh coi đó như chuyện cổ tích ru cho anh ngủ sao?! Tôi lay lay anh ta, thiếu chút nữa lay tới nỗi làm anh ta rớt kiếng. Anh ta thẳng thắn bỏ kính ra gạt gạt tay tôi nói: “Biết rồi biết rồi, chỉ cần biết cậu an toàn về được tới nhà là đủ chứ gì.”

Tôi trợn mắt một cái, anh ta sờ sờ cằm, lại cầm ly trà trên bàn lên uống một hơi dài mới hơi tỉnh tỉnh ra một chút. Tôi cũng nhận thấy lúc này đã quá muộn, mà người này tính thích ngủ sớm, có thể chờ tôi đến lúc này đã coi như là kỳ tích rồi. Đột nhiên lại nghĩ tới bao hạt giống hoa trong túi áo, nếu nói người trên xe đều là người chết, vậy Vi Thỏa chẳng lẽ cũng thế ư? Không thể nào, anh ta có xuống xe trước cả tôi cơ mà. Anh ta chắc chắn cũng là người sống… Dù sao tôi có ấn tượng tốt với con người thật thà đó, thực sự không hi vọng anh ta cũng là một oan hồn trong cái xe ma đó. Tôi móc bao hạt ra đưa cho Bạch Dực xem: “À này, có dịp thì thử trồng hạt này xuống xem nó thành hoa gì, cái tính già trước tuổi của anh chắc biết trồng hoa chứ?”

Anh ta nhận gói hạt giống mở ra, nói: “Ồ, là hạt giống hoa quỳnh đây mà. Thứ này không dễ trồng đâu, đặc biệt là ở giữa thành phố, trừ phi trong nhà có nhà kính trồng cây!”

Tôi đã biết là Bạch Dực thế nào cũng biết thứ này là thứ gì mà! Bèn vội vàng hỏi lại: “Hoa quỳnh? Là loài hoa mà tương truyền… hoàng đế Càn Long rất thích ấy à?”

Anh ta lắc đầu: “Không phải, thứ kia là quỳnh hoa, hay còn gọi là mộc tú cầu, chứ không giống loại này. Có một số nơi gọi hoa quỳnh và quỳnh hoa là một thôi, như quê của cậu chẳng hạn.”[1]

Anh ta gói bao hạt giống lại: “Thứ  này khó chiều lắm, hở chút là chết liền, nó yêu cầu độ ấm rất cao. Tôi không rảnh chăm sóc mấy thứ này, muốn trồng thì cậu tự trồng đi.” Sau đó trả lại cho tôi. Đột nhiên như nghĩ ra cái gì, anh ta lại hỏi lại: “Mà lúc nãy cậu có nhắc tới một quân nhân tên Vi Thỏa phải không? Cậu bảo anh ta đang tìm cái gì mà?”

Tôi gật đầu, nhớ lại gương mặt của anh lính pháo binh nọ, kể lại chi tiết cho Bạch Dực nghe. Anh ta trầm ngâm một lát, sau đó thì thầm: “Hoa quỳnh bừng nở, chỉ vì Vi Đà.”[2]

Tôi ngạc nhiên hỏi lại: “Là sao? Hoa quỳnh nở chỉ vì anh pháo binh kia ấy à? Anh cũng tưởng tượng quá lố rồi đi?”

Anh ta khinh bỉ nhìn sang tôi, ánh mắt y hệt như mấy gã đàn anh ỷ học lớp trên to con giỏi giang hơn mà bắt nạt đàn em: “Nói chuyện với cậu đúng là thà đi nói với cái đầu gối còn hơn. Câu kia rút ra từ điển tích Phật giáo, Vi Đà chứ không phải Vi Thỏa pháo binh, là Vi Đà tôn giả đệ tử của Phật tổ, biết chưa!”

Anh ta thở dài một cái rồi nói: “Mà thôi không nói nhiều nữa, đi ngủ đã, sau này còn về trễ thì nhớ báo trước một tiếng, khỏi chờ.”

Tôi đứng sau lưng anh ta làm mặt khinh bỉ, nhưng thực ra trong lòng vẫn có cái gì đó lấn cấn nghi hoặc không thôi, mà lại không thể nhớ ra là cái gì. Hoa quỳnh ư? Mặc kệ nó là loài hoa thế nào, nếu cả lão Bạch cũng không rảnh chăm cho nó thì tôi làm sao có thể siêng năng hơn được? Tôi vừa đặt mình xuống giường là lập tức ngủ ngay, trận mưa khi nãy đến cũng nhanh mà đi cũng nhanh, lúc này đã tạnh hẳn, ngoài trời, mảnh trăng lộ ra sau tầng tầng mưa bụi, tỏa ánh sáng nhàn nhạt dịu dàng.

Ngày hôm sau, quả nhiên dậy muộn. Dù sao đi nữa thì da mặt cũng dày lắm rồi, mặc kệ lão Phan hói cứ mắng cho đã, tôi ngoài mặt ra vẻ hối hận chăm chú tột cùng, nhưng trong lòng chỉ âm thầm chờ đến giờ nghỉ trưa. Cái “khả năng” này luyện thành chẳng biết có đáng tự hào không hay nên đáng buồn đây? Nói chung, cuối cùng Phan hói mắng nhiều quá rát cổ, cũng để tôi quay về làm việc tiếp.

Xuân miên bất giác hiểu[3], quả nhiên học sinh của tôi có quá nửa đang gục đầu xuống bàn tiếp tục say sưa giấc xuân còn bỏ lỡ, đến phút cuối gần như chỉ còn có mình tôi đối mặt với cái máy lọc nước phía cuối lớp mà giảng bài. Ngay cả bản thân cũng bị lây thành buồn ngủ, tôi cố hết sức giảng nốt mớ lý thuyết nhàm chán, sau đó nửa tiết còn lại cho học sinh lấy giấy ra tự vẽ. Tôi ngồi vào bàn thủng thẳng giở tờ báo ra liếc qua, báo chí là phần tiêu chuẩn do trường chuẩn bị mỗi sáng, nên cả tôi lẫn Bạch Dực đều có một tờ giống nhau. Đầu tiên liếc qua trang nhất một chút, thấy không có nội dung gì hấp dẫn, liền mở trang giữa ra xem mục tin tức xã hội.

Nói đến tin tức xã hội kể cũng lạ, những bài viết nào được giật tít ngoài trang đầu hầu hết đều là những bài nhàm chán chẳng ai buồn đọc, ngược lại những tin tức lặt vặt bên trong càng khiến cho người ta cảm thấy hiếu kỳ hơn, vì chính chúng mới gần gũi với sinh hoạt của người dân. Tôi liếc đám học sinh dưới lớp, sau đó yên tâm lật tờ báo ra một cách nhẹ nhàng nhất để tránh ảnh hưởng tới học sinh, bắt đầu bình yên đọc. Khi tôi xem sắp xong, nghĩ chẳng còn gì để xem nữa, định gấp báo lại xuống kiểm tra thành quả của đám học sinh, thì chợt nhìn thấy dưới góc trái tờ báo có một tin tức rất nhỏ, “mời nhận diện xác chết” như sau: Sáng sớm nay trên đường lộ gần miếu Hạ Hải, cảnh sát phát hiện một xác nam vô danh, suy đoán thời gian tử vong đã ngoài 12 tiếng đồng hồ. Bàn tay cầm báo của tôi run bắn lên, trong lòng kinh hoàng nghĩ: Gần nhà chúng tôi đến thế ư? Phát hiện ra thi thể, tức là dạo này tình hình an ninh không được ổn lắm không phải sao? Vì thế chăm chú xem tiếp, ở dưới viết: Đặc điểm nhận dạng: xác chết mặc quân phục xanh lục, cao 1.84m, trên người không có tài sản, chỉ có một túi hạt giống hoa. Trên người có mấy vết thương, không loại trừ khả năng bị giết hại, cảnh sát đang tiến hành điều tra.

Tôi vừa đọc những dòng miêu tả này lập tức lạnh toát sống lưng, sao lại giống hệt như Vi Thỏa thế này? Trong đầu không khỏi liên tưởng đến những chuyện ma quái đêm qua. Vì một người đang yên đang lành, sao tự nhiên trong một đêm có thể lăn ra chết đột ngột như vậy được? Chưa hết, kỳ quái hơn nữa là rõ ràng nửa đêm hôm qua tôi đã nhìn thấy anh ta yên bình xuống khỏi xe trước miếu Hạ Hải mấy trạm, mà trên báo lại bảo là anh ta đã chết được ít nhất là một ngày. Vậy chẳng lẽ cái tôi nhìn thấy đêm qua thực ra là hồn ma của anh ta?

Tôi cố gắng xua những ý nghĩ kinh khủng này ra khỏi đầu, đúng rồi, cứ cho là trang phục tướng mạo giống nhau, trên người mang theo hạt giống hoa như nhau đi nữa cũng đâu có nhất thiết phải đúng là cùng một người? Tôi vẫn bất an buông tờ báo xuống, trong đầu rối như tơ vò, ngay lúc đó, tiếng chuông tan học chợt đúng lúc vang lên, khiến tôi run bắn cả người, lập cập bảo học sinh nộp bài vẽ.

Trở về phòng giáo viên, tôi thấy Bạch Dực đã ngồi sẵn đó đọc báo, chân mày cau lại, bàn tay vuốt vuốt cằm trầm tư. Không cần hỏi cũng biết, anh ta nhất định cũng đang nghi ngờ cái xác chết vô danh kia có thể là Vi Thỏa.

Tin trên báo anh ta cũng đã đọc, chuyện đêm qua tôi cũng đã kể cho anh ta nghe, vì thế lúc này, tôi thực sự rất muốn nghe suy đoán của Bạch Dực.

Tôi buông sách vở xuống bàn làm việc hỏi Bạch Dực: “Lão Bạch, chuyện này anh thấy thế nào?”

Anh ta nhìn tôi chăm chú một hồi, dường như đang lo lắng cân nhắc, cuối cùng mới nói: “Xác chết kia, rất có khả năng chính là Vi Thỏa.”

Tôi vẫn không muốn tin, cho nên cố hỏi: “Nhưng không thể nào mà, tối qua… tối qua anh ta còn nói chuyện với tôi, hơn nữa còn xuống xe trước miếu Hạ Hải mấy trạm mà… Nếu anh ta chết rồi, hôm qua tôi chỉ nhìn thấy hồn ma của anh ta, vậy xác anh ta phải nằm ngay chỗ anh ta xuống xe chứ? Chẳng lẽ…”

Tôi lo lắng nhìn Bạch Dực, trong đầu lại xẹt qua hình ảnh cái bóng trắng toát vẫn bám theo xe đêm qua. Đột nhiên chợt nghĩ ra một khả năng, tim tôi hẫng một cái, bàng hoàng nhìn Bạch Dực, anh ta dường như cũng biết tôi vừa nghĩ đến cái gì, liền nhỏ nhẹ nói: “Đó cũng chỉ là một khả năng, nhưng chính là khả năng lớn nhất đấy…”

Tôi ngơ ngẩn lắc đầu, chuyện này chắc chắn có nhầm lẫn ở đâu đây mà, tuy tôi là con người, tôi không thể hiểu được suy nghĩ của những hồn ma, nhưng anh ta dù sao cũng từng là một con người kia mà, cần gì phải chạy theo sau xe như vậy, để làm gì kia chứ? Tôi nhất quyết phủ định suy đoán này, nhưng lại càng lâm vào thế bí chẳng hiểu ra làm sao nữa.

Ngay khi hai chúng tôi càng lúc càng rơi vào ngõ cụt thì chợt ngoài cửa xuất hiện một cái bóng mặc cảnh phục, vừa vào đã hỏi người nào là An Tung. Hành động đột ngột của người nọ làm cả phòng giáo viên ngẩng lên chú ý, tôi xấu hổ vội đứng dậy bước ra cửa: “Là tôi, anh tìm tôi có chuyện gì?”

Anh ta nhìn tôi chăm chú, trong mắt lộ ra vẻ đề phòng, như thể tôi làm anh ta cảm thấy khó chịu lắm vậy. Một lúc sau, anh ta mới ho khan vài tiếng, chỉ chỉ tay ra ngoài hành lang nói: “Chúng tôi có một vụ án, cần sự hợp tác của anh. Mời anh qua đây cho tôi hỏi vài vấn đề!”

Tôi quan sát anh ta vài giây, lại định mở miệng hỏi anh ta cần biết chuyện gì, nhưng ánh mắt của anh ta rõ ràng không phải đang nhìn một nhân chứng, mà là đang nhìn một kẻ bị tình nghi. Ngay lúc đó Bạch Dực cũng trờ tới định đi qua, tôi hướng về phía anh một cái nhìn cầu cứu, vì thế Bạch Dực lập tức ngừng lại hỏi: “Xin chào, xin cho hỏi đồng nghiệp của tôi xảy ra chuyện gì vậy?”

Viên cảnh sát mở to mắt nhìn Bạch Dực cả buổi, cuối cùng kích động thì thào: “Anh là… anh là Bạch Dực phải không? Sinh viên cao học ngành khảo cổ? Bạch Dực?”

Bạch Dực gật đầu đáp phải, ánh mắt của viên cảnh sát chợt trở nên hiền hòa vui vẻ hơn rất nhiều: “Tôi là bạn học của cậu đây mà, tên là Kỷ Thiên đây! Hai chúng ta hồi đó cùng tham gia Hội sinh viên, nhớ không?”

Bạch Dực không đáp lại, hiển nhiên là đang vắt óc tự hỏi cái tên “bạn học” này chui ở đâu ra, mà lại còn cùng tham gia Hội sinh viên nữa chứ? Tôi thấy hai người bọn họ không ai nhớ tới vấn đề của mình, liền tự mình tới hỏi cho xong: “Vị đồng chí cảnh sát này, anh tìm tôi tóm lại là vì cái gì thế? Tôi đâu có phạm tội gì đâu!”

Anh ta nhìn tôi nửa ngày, lại nhìn sang Bạch Dực, cuối cùng thấp giọng nói: “Có chuyện, mọi người cùng nhau ra ngoài hãy nói đi.”

Tôi rất ác ý đánh giá là anh chàng này nhất định có vấn đề, trong đầu có bế tắc gì đó. Chúng tôi đi thẳng xuống khỏi tòa nhà dạy học, đi tới ngã rẽ dưới cầu thang lớn, trong suốt khoảng thời gian đó, anh ta không ngừng lén lút quan sát tôi từ đầu xuống chân, lại từ chân lên đầu, phải đến bảy tám lần, cứ như thể tôi là một thứ quỷ ma gì đó biến thành người vậy. Đến cuối tôi nhịn không nổi nữa, không có người nào bị quan sát kiểu đó mà lại không nổi điên lên cả, bèn thẳng thừng dừng lại hỏi thẳng anh ta là rốt cuộc có chuyện gì thì cứ nói đại ra, không có thì biến.

Anh ta mở to mắt nhìn tôi vài phút, rồi mới chậm rãi hỏi: “Có biết một người tên Vi Thỏa không?”

Anh ta vừa hỏi, tôi đã lập tức xác nhận quả nhiên xác chết kia chính là Vi Thỏa. Nhưng sao cảnh sát lại biết tôi biết Vi Thỏa? Tôi cũng trừng to mắt nhìn lại anh ta hồi lâu, sau đó mới đáp: “Đúng, tôi biết một người tên như thế.”

Vẻ mặt của anh ta lập tức trở nên cực kỳ quái dị, dường như vừa xác định trước mặt mình lúc này không phải người mà chính là ác quỷ đội mồ sống dậy vậy, lại còn chập choạng lùi ra phía sau vài bước như sợ hãi, tôi nhìn sang Bạch Dực vẫn im lặng nãy giờ, thấy anh ta không phát biểu gì, cũng không thay tôi lên tiếng, cho nên đành tiếp tục: “Người này tôi mới chỉ gặp có một lần đêm qua, cũng chỉ làm quen nói chuyện hai ba câu mà thôi. Sau đó anh ta xuống xe mất tiêu, còn tôi…” Tôi không biết có nên nói chuyện chuyến xe ma ra không, dù sao cảnh sát thường không tin mấy chuyện này, hơn nữa bây giờ mà kể ra lại càng giống như tôi đang bịa chuyện để chối tội. Thế nhưng, câu hỏi tiếp theo của viên cảnh sát đã khiến tôi trong khoảnh khắc khiến tôi tức đến muốn ói máu.

Anh ta hỏi: “Cậu khẳng định là cậu có lên xe?”

Bạch Dực và tôi đều không hiểu ý câu này, cuối cùng cũng chính là Bạch Dực dường như đã ngộ ra cái gì đó, “À ~” lên một tiếng rồi quay sang viên cảnh sát hỏi: “Rốt cuộc mọi chuyện xảy ra thế nào?”

Kỷ Thiên nhìn chúng tôi hồi lâu, cuối cùng dường như đã khẳng định là chúng tôi thực sự không biết gì mới từ từ mở miệng nói. Mà nói thực lòng, tôi cứ có cảm giác anh ta là vì Bạch Dực nên mới khách sáo như vậy nãy giờ, nếu không thì tôi đã sớm bị tóm về đồn công an lấy lời khai từ đời tám hoánh nào rồi.

Nếu người ta đã là cảnh sát, thì chúng tôi – dân đen – tốt nhất chẳng nên cãi lại, mà cứ ngoan ngoãn ngồi nghe chuyện của anh ta cái đã.

Thế nhưng, câu chuyện của anh ta quả thực làm tôi không thể ngờ tới nổi.

Câu đầu tiên, anh ta nói trong tiếng thở dài: “Thực ra, suốt đêm qua, tôi luôn theo dõi phía sau Vi Thỏa.”

Tôi phải kiềm chế lắm mới không bật ra một câu chửi bậy, chỉ nhìn anh ta chằm chằm, nghĩ chẳng lẽ Vi Thỏa mới chính là kẻ bị tình nghi phạm tội? Vậy sao lại đột nhiên tử vong? Cảnh sát theo dõi suốt phía sau mà, chẳng lẽ cảnh sát đều là một đám vô dụng?

Anh ta nhìn cặp mắt trợn trừng như muốn lọt tròng của tôi, vội vã tiếp tục: “Xin đừng hiểu nhầm, toàn bộ chuyện này cực kỳ quỷ quái, có thể nói là nó đã phủ định hoàn toàn tư tưởng từ trước đến giờ, thay đổi hoàn toàn cách nhìn từ trước đến giờ của tôi.”

Bạch Dực cắt ngang: “Thế thì rốt cuộc lại là có chuyện gì? Tại sao cậu theo dõi người kia? Chuyện này thì có quan hệ gì tới An Tung?”

Viên cảnh sát lại bắt đầu cau mày lí nhí gì đó trong cổ họng, quả nhiên trong lòng có chuyện bế tắc. Tôi bắt đầu cảm thấy người này đáng ghét, có cái quái gì mà không thể nói thẳng ra cho rồi? Hai mắt anh ta nhíu chặt vào nhau hồi lâu, cuối cùng ngập ngừng nói: “Thực ra, thi thể của Vi Thỏa lần đầu tiên được phát hiện không phải ở gần miếu Hạ Hải, mà là ở một… thành phố khác kìa.”

Tôi chỉ hơi giật giật khóe mắt, còn Bạch Dực vẫn bình tĩnh im lặng lắng nghe, Kỷ Thiên thấy chúng tôi không phản ứng gì quá đáng, không biết là nhẹ nhõm hay là thất vọng mà dừng lại một chút, húng hắng vài cái lấy giọng rồi mới kể tiếp: “Thành phố kia cách chúng ta cũng một khoảng khá xa, lúc phát hiện thi thể là vào buồi sáng sớm. Theo đúng quy tắc, chúng tôi mang xác tới chỗ pháp y để xét nghiệm, thế nhưng đêm đó, cái xác đột nhiên… biến mất. Qua một đêm nữa, lại được phát hiện ở một địa phương khác.”

“Lúc đó mọi người đều nghi ngờ liệu có phải là một đường dây trộm xác hay buôn bán nội tạng không? Nhưng sau này, toàn bộ mọi chuyện dần dần chuyển thành một câu đố cực kỳ quỷ dị, cái xác đó… dường như là đứng lên tự làm một cuộc hành trình dài vậy. Hơn nữa… kể từ lần phát hiện đầu tiên tới nay đã ngoài nửa năm, theo lẽ thường thì…”

Bạch Dực tiếp lời: “…Thì xác chết lẽ ra phải phân hủy rồi mới đúng.”

Viên cảnh sát gật đầu: “Không sai, phải là như thế mới đúng. Cho nên ban đầu chúng tôi có điều tra theo hướng buôn bán nội tạng, nhưng sau khi xét nghiệm pháp y xong lại cho ra kết luận là Vi Thỏa chết vì nguyên nhân tự nhiên, hơn nữa nội tạng đều đã suy kiệt hết cả, anh ta từng bị bệnh tim rất nặng, các cơ quan đều thoái hóa nghiêm trọng, nói một cách đơn giản, là chết già.”

Tôi vừa nghe thế, lập tức phản đối: “Không thể nào! Lúc gặp anh ta tôi thấy anh ta rõ ràng còn rất trẻ mà?! Sao có thể là chết già được?”

Tôi nói đến đây, viên cảnh sát cuối cùng cũng chịu nhìn tôi một cách “bình thường”, nhẹ nhõm nói: “Chúng tôi cũng không sao hiểu nổi, nhưng kết quả khám nghiệm tuyệt đối không có nhầm lẫn. Nói thật, chúng tôi không tin chuyện hoang đường này lắm, cái xác không phải bị người ta giết, cũng không có người nhà tới nhận, lại thường xuyên tự biến mất, tất cả những yếu tố đó làm chúng tôi rối lên chẳng biết phải làm sao, cuối cùng những cảnh sát có kinh nghiệm nhất cũng đành mặc kệ nó, dồn quan tâm sang những vụ án khác.”

Bạch Dực hỏi: “Vậy vì sao đột nhiên cậu lại đi theo dõi cái xác đó?”

Người kia móc ra một gói thuốc lá, châm thuốc, rít mạnh vài hơi, cuối cùng mới kể ra nguyên nhân vì sao anh ta lại biết tôi có liên quan tới Vi Thỏa. Hóa ra sự tình là thế này, đêm qua, cái xác này cuối cùng được chuyển tới nhà xác của cục cảnh sát chỗ bọn họ. Ngày hôm đó đúng lúc là phiên trực của anh ta. Nói thật lòng, cảnh sát cứ mười người thì hết chín là nghiện thuốc lá nặng, anh ta cũng không phải ngoại lệ, nhưng trong phòng làm việc cấm hút thuốc, nên chỉ nhân lúc giữa đêm không người len lén chạy tói góc hành lang dưới tầng trệt hút vài điếu đỡ nghiện mà thôi, trong giới cảnh sát gọi là đi “điểm hương”. Đêm hôm qua lúc anh ta đi điểm hương, đang khi vui vẻ tận hưởng điếu thuốc, chợt nghe xa xa có tiếng bước chân. Phía đó là khu vực pháp y, chỉ có phòng pháp  y với nhà xác thôi. Dần dần anh ta lại thấy một bóng người tiến tới, ban đầu tưởng là nhân viên pháp y muốn tới “điểm hương” chung với mình cho vui, nhưng ngay khi anh ta định cất tiếng chào thì giọng nói đã tắc nghẹn đâu đó trong cổ họng. Bởi vì anh ta phát hiện người kia chính là Vi Thỏa, cái xác Vi Thỏa vừa được mang tới lúc chiều trong một cái bao bố trắng, do chính anh ta dùng cáng khiêng vào, vậy mà bây giờ lại đang đi đi lại lại thản nhiên trong cục cảnh sát!

Kỷ Thiên lúc đó kinh hoàng muốn chết ngất, làm cảnh sát cũng đã vài năm, thấy qua không ít chuyện kinh khủng, nhưng chưa bao giờ anh ta lại cảm thấy lạnh ớn xương sống dựng tóc gáy như lúc đó, mãi cho đến lúc đầu thuốc cháy tới sát ngón tay, anh ta mới giật mình phản ứng. Nhưng đến đây thì lòng hiếu kỳ lại đội nhiên trỗi dậy, anh ta chợt cảm thấy cực kỳ thắc mắc không biết cái xác này muốn đi đâu? Muốn đi gặp ai? Dù sao cảnh sát vẫn dũng cảm hơn người thường nhiều, hơn nữa anh ta lại thuộc loại có máu tò mò cùng ham thích chuyện lạ một cách đặc biệt. Anh ta suy nghĩ một lúc, rồi cũng lặng lẽ theo ra ngoài. Cũng may tốc độ di chuyển của cái xác rất chậm, anh ta chỉ chạy một lúc đã đuổi kịp Vi Thỏa.

Nói thật, nếu chỉ nhìn bề ngoài tuyệt không ai nhận ra trước mặt mình là một cái xác. Nhưng anh ta phát hiện cái “người” tên Vi Thỏa này rất kỳ quái, chỉ đi dọc theo những bãi cỏ ven đường, mà tư liệu trước giờ cũng nói rõ Vi Thỏa thường bị phát hiện gần những nơi có cây xanh. Đi gần nửa tiếng đồng hồ, người kia dừng lại trước một công trường đăng thi công, tiến vào bãi cỏ mà bắt đầu sục sạo. Kỷ Thiên trốn vào góc đường đối diện chăm chú theo dõi, sau đó mọi chuyện xảy ra đúng như những gì tôi đã biết, tôi cho rằng Vi Thỏa là ăn trộm tới trộm vật liệu xây dựng, cuối cùng cả hai đều leo lên chuyến xe ma nọ. Nhưng trong mắt Kỷ Thiên thì không có cái xe nào hết. Câu chuyện theo phiên bản của anh ta nghe còn kinh khủng hơn rất nhiều, theo anh ta nghĩ, tôi chính là người mà Vi Thỏa muốn hẹn gặp, hơn nữa cuối cùng lúc hai chúng tôi đi ra giữa đường, Kỷ Thiên chỉ thấy xung quanh chợt nổi lên một cơn gió lạ, thấy hai chúng tôi nhấc chân lên, sau đó… biến mất. Anh ta không kịp trở tay, chỉ biết sững sờ nhìn chúng tôi tan biến vào khoảng không. Đến bây giờ tôi mới hiểu vì sao anh ta lại nhìn tôi sợ hãi cùng đề phòng như vậy. Sau đó mọi chuyện lại đi theo quỹ đạo cũ, thi thể lại được tìm thấy. Anh ta tra cứu tư liệu, nhìn thấy Cửu Bộc Phệ Hồn Cức, liền đoán ngay trong đầu là tôi bị hóa thành quỷ rồi, cho nên hôm nay tới tìm tôi. Ai ngờ lại gặp lại được bạn học cũ là Bạch Dực.

Có thể thấy viên cảnh sát này có vẻ cực kỳ thân thiết với lão Bạch, nếu không nói là gần như sùng kính, thậm chí còn không ngần ngại mời Bạch Dực tới xem thử xác chết, còn bảo nó hiện tại đang ở trong hòm. Tôi nhìn sang Bạch Dực, hỏi anh ta nghĩ sao. Anh ta chỉ lắc đầu: “Cái này tôi cũng không hiểu, không giống như cương thi hay xác chết sống lại, nói thế nào nhỉ… Nếu không có hại gì tới ai thì tôi nghĩ cứ để mặc anh ta đi tiếp theo ý mình, thế nào cũng có lúc đến đích.”

Tôi có hiểu cảm giác của Bạch Dực lúc này, gặp phải quá nhiều chuyện lạ, sẽ hiểu rằng có vài thứ thực sự không nên dây vào là tốt nhất, cho nên lần này tôi hoàn toàn không phản đối. Nhưng không ngờ viên cảnh sát này nhiệt tình nhây nhưa hơn chúng tôi tưởng, có thể anh ta cho chúng tôi là những nhân vật thần bí cao thâm lợi hại lắm, nên cứ theo chúng tôi nói bóng nói gió mãi, hàm ý là yêu cầu chúng tôi ra tay. Tôi biết bản thân mình được bao nhiêu tài phép, nên từ chối ngay, dù sao tính mạng vẫn là quan trọng nhất. Tôi từ chối, cộng với bản lĩnh giả ngu của Bạch Dực, chỉ có một mình viên cảnh sát kia đương nhiên không sao địch nổi.

Tuy trước sau tôi vẫn rất thắc mắc rốt cuộc Vi Thỏa đang đi tìm cái gì, vì sao lại phải cố chấp như vậy, nhưng tôi không hề nói với Kỷ Thiên, cuối cùng, anh ta nhìn hai chúng tôi mặt trơ như đá, vững như đồng, đành không còn cách nào khác mà lạnh nhạt rút thêm một điếu thuốc. Nhưng vừa châm lên thì lại sực nhớ ra cái gì, vội vàng diệt đầu thuốc hỏi tôi: “Đúng rồi, tôi quên kể cho hai người thêm một việc, sau khi cậu đây và Vi Thỏa kia biến mất không bao lâu, tôi nhìn thấy một cái bóng trắng theo sau hai người.”

Tôi ngạc nhiên hỏi lại: “Cái bóng?”

Kỷ Thiên gật đầu: “Ừ, đúng thế, cái bóng, không thấy rõ là hình thù gì, không biết mặt mũi ra sao hay ăn mặc thế nào, dường như là cố tình làm cho không thấy vậy, hoặc cũng có thể là do tôi lúc đó sợ quá nên trong đầu có hơi rối loạn, nhưng…”

Tôi oán ghét nghĩ con người này quả nhiên làm người ta tức chết, chờ cả nửa buổi cũng không nói xong được đoạn kết thế nào, nhưng tôi không thể đùng đùng nổi giận với một cảnh sát, nên chỉ có nước nghẹn đỏ mặt chờ anh ta nói hết. Chỉ nghe anh ta rời rạc nói: “Việc này nói thế nào nhỉ, tôi nghĩ… cái bóng theo sau hai người đó là một cô gái…”

Nghe tới đây, không biết là do tức quá hóa nghẹn hay do bất ngờ quá hóa nghẹn, tôi cười nhạt hỏi ngược lại: “Đại ca, lời anh nói có mâu thuẫn kìa! Câu trước còn bảo nhìn không rõ, mà câu sau đã nói là một cô gái?”

Anh ta cũng lườm tôi: “Cậu đừng có gấp, tôi còn chưa kể xong mà!”

Tôi trợn trắng mắt, nãy giờ mà còn chưa kể xong? Muốn chờ anh kể cho hết còn phải chờ đến quá bữa trưa chắc?! Bạch Dực thấy không khí giữa hai chúng tôi càng lúc càng khó chịu, đành xen vào: “Thế rốt cuộc là chuyện gì xảy ra?”

[1] Quỳnh hoa là một loài hoa trắng, mọc thành cụm như cụm hoa tú cầu, tỏa hương thơm ngát (nghe nói vậy), thuộc họ cây gỗ nên rất cao to, nhìn từ xa như những đám mây hoa. Còn hoa quỳnh (đàm hoa) chỉ mọc về đêm nên còn có một cái tên mỹ miều là “Nguyệt hạ mỹ nhân”.

Đây là quỳnh hoa:

[2] Chữ “đà” âm đọc là [tuó] còn chữ “thỏa” âm đọc là [tuǒ] => đồng âm => Tiểu An nhà ta hiểu lầm

[3] “Xuân miên bất giác hiểu

Xứ xứ văn đề điểu

Dạ lai phong vũ thanh

Hoa lạc tri đa thiểu”

(Xuân hiểu – Mạnh Hạo Nhiên)

Bản dịch:

Giấc xuân không buồn thức,

Khắp nơi chim ríu rít.

Đêm qua gió mưa về,

Hoa rụng nhiều hay ít?

(Dịch :Lâm Xương Diệu)

______________________________________________

Các bạn có để ý Tiểu An rất ghét Kỷ Thiên không? Chuyện này rất ít khi xảy ra đúng không =)))))))

Theo chính tác giả giải thích (dưới cuối chương này, Lục Mịnh không chuyển ngữ phần “tâm sự” của tác giả bao giờ) thì đó là tại ai bảo Kỷ Thiên “dám” thân mật với Bạch Dực thái quá làm chi =))))) Thật chẳng biết nói gì hơn =)))))))))

.

Chương 42: Khách dưới trăng (Tam)

Kỷ Thiên bực tức không thèm nhìn tôi nữa mà chuyển hẳn người hướng về phía Bạch Dực mà nói: “Đó là tại vì tôi cảm thấy cái bóng đó cực kỳ thanh mảnh, một người đàn ông không có khả năng mảnh mai được như thế, ngoại trừ…” Nói đến đây, anh ta lén nhìn sang tôi một cái, tôi lập tức nổi điên chuẩn bị giơ nắm tay lên cùng anh ta ăn thua đủ, nhưng Bạch Dực đã kịp thời ngăn tay tôi lại: “Nếu theo đúng như cậu nói thì có một cô gái đi theo sau bọn họ?”

Kỷ Thiên định đáp lại thì chợt điện thoại di động của anh ta reo lên, anh ta gật đầu ý bảo chúng tôi chờ một chút, còn mình thì đứng lên đi tiếp điện thoại. Nói chuyện qua lại vài phút, anh ta quay lại nhìn chúng tôi nói: “Cháu gái của Vi Thỏa vừa tới, bảo là tới nhận xác ông nội.”

Tôi và Bạch Dực đều ngẩn ra nhìn anh ta, cháu gái? Nói vậy thì anh chàng Vi Thỏa thoạt nhìn còn rất trẻ kia quả thực là một ông già? Kỷ Thiên để ý thấy nét tò mò thoáng hiện trong mắt chúng tôi, lập tức nhướn mày nói như khiêu khích: “Thế nào? Muốn tới cùng không? Nên nhớ người bình thường tụi này không bao giờ cho vào dễ dàng thế đâu.”

Tôi trừng mắt lại với anh ta: “Anh nghĩ mình đang quảng cáo đấy à? Cái gì mà ‘người bình thường không được vào’ chứ? Xì, chung quy cũng chỉ là muốn người ta giúp mình một tay thôi chứ gì, đừng hòng, khỏi khích tướng vô ích!” Tôi vốn cũng rất tò mò chuyện lạ lùng này, nhưng lại thực sự không thích kẻ tên Kỷ Thiên, cho nên anh ta càng cần chúng tôi giúp đỡ tôi càng muốn từ chối.

Bạch Dực khẽ cau mày, có lẽ còn đang tự hỏi về sự xuất hiện của cô gái kia. Vì tôi la lối ồn ào quá nên anh ta mới sực tỉnh. Tôi thấy anh ta không muốn can thiệp vào chuyện này, nhưng dường như lại rất có hứng thú với bí ẩn phía sau nó. Đang lúc Kỷ Thiên chuẩn bị giơ cờ trắng đầu hàng quay về cục cảnh sát, đột nhiên điện thoại đi động của anh ta lại reo lên. Kỷ Thiên tiếp điện thoại, nghe một chút, đột nhiên trong mắt tràn ngập kinh ngạc, chỉ thầm thì nói vào điện thoại vài câu, rồi quay sang chúng tôi nói: “Cháu gái của Vi Thỏa muốn gặp cậu, nói là có chuyện cần bàn với cậu. Thế nào? Giờ thì đồng ý đi được chưa?”

Tôi nhất thời ngạc nhiên đờ người ra, trong đầu thông tin vừa nhiều vừa rối rắm, mà không có cái nào nối với cái nào cả. Sao cô cháu gái này lại biết tôi? Sao lại muốn gặp tôi? Nhưng dù sao con gái nhà người ta đã gọi đích danh tới gặp, nếu tôi không đi chắc chắn sẽ bỏ lỡ chân tướng sự thực ngay tại đây. Con người tôi có hơi khác thường ở điểm này, nếu người ta kéo tôi ra thật xa thật xa sự thực, tôi có thể bỏ qua không cần quan tâm tới nữa; nhưng nếu ngay khi chuẩn bị tiếp cận với sự thực mà tự nhiên kéo tôi ra, thì tôi sẽ có cảm giác cứ như ngậm đất trong miệng vậy, muốn nhổ ra cũng khó mà nuốt vào lại càng không được.

Tôi đành nhìn sang Bạch Dực mấy lần, anh ta vuốt vuốt cằm suy nghĩ một lát, cuối cùng nói: “Kỷ Thiên, cậu đi xin cho chúng tôi nghỉ nửa ngày đi, nhớ kỹ phải nói là chúng tôi là nhân chứng quan trọng đấy nhé, chứ đừng biến tụi này thành kẻ bị tình nghi!”

Kỷ Thiên có vẻ hơi ấm ức, dường như tức giận là tại sao mình năn nỉ ỉ ôi nửa ngày mà Bạch Dực không đồng ý, ngược lại chỉ cần một cái nhìn của tôi mà anh ta lại sẵn sàng nhận lời như vậy? Nhưng dù sao đây thực ra là sự tò mò chung của tất cả mọi người, nên anh ta cũng đành “Ừ” một tiếng chán nản rồi quay lại tìm Phan hói xin cho chúng tôi được nghỉ.

Ba người chúng tôi không kịp ăn trưa, hộc tốc chạy về đồn công an. Kỷ Thiên dắt chúng tôi đi thẳng vào một căn phòng nhỏ đặt ngoài đại sảnh. Trong phòng có một cảnh sát trung niên đang ngồi, thấy Kỷ Thiên vào liền tiến tới bắt chuyện. Ngồi đối diện là một cô gái trẻ cực kỳ xinh đẹp. Không cần phải giới thiệu cũng biết cô chính là cháu gái Vi Thỏa, vì trên gương mặt hai người có nhiều nét phảng phất giống nhau. Thấy chúng tôi, cô lập tức đứng dậy hỏi người nào là An Tung.

Tôi tiến tới trước đáp là mình, cô ta quan sát tôi một chút, rồi cười nói: “Thảo nào ông nội lại bắt chuyện với anh.”

Tôi nghe thế hơi ngẩn người ra ngạc nhiên, nhưng lập tức hiểu ngay, có lẽ là do tên ngốc Kỷ Thiên này đã đem chuyện của tôi giải thích sơ qua cho đồng nghiệp hiểu, cho nên bây giờ cả cháu gái nhà người ta cũng nhìn tôi như nhìn một nhân vật đặc biệt tầm cỡ! Cái này cũng quả thực quá oan ức cho tôi đi?! Nhưng chúng tôi cũng nhanh chóng nói vào chuyện chính, cô gái có tên là Vi Đàm, tôi vửa nghe tên này đã nhớ tới bọc hạt giống hoa quỳnh mà đêm đó Vi Thỏa đã cho mình, cùng với câu nói còn chưa nói hết kia.

Vi Đàm nhìn tôi nói: “Ông nội khi còn sống thích nhất là hoa quỳnh, mà nhà chúng tôi ở miền bắc, vốn dĩ không thích hợp trồng loại hoa này, nhưng ông nội vẫn kiên trì gieo hạt, dù nhiều lần thất bại, dù bao nhiêu năm hoa quỳnh vẫn không nở hoa. Sau đó ông nội lại bỏ công lai giống mãi, cuối cùng đã có thể tạo ra một loại hoa quỳnh có thể nở hoa ở phương bắc. Lúc đó ông nội cười tươi, gọi tên nó là Lãnh Mỹ Nhân.”

Sở thích trồng hoa của người già tôi có thể hiểu, nhưng có thể cố chấp đến mức đó cũng phải coi như một tinh thần thép, mà đằng sau nó chắc chắn còn phải có nội tình gì đó. Tôi kiên trì chờ Vi Đàm nói xong, cô gái thở dài một cái, hỏi chúng tôi: “Các vị có tin trên đời này thực sự có kiếp sau không?”

Tôi hoàn toàn không có ý tưởng gì về chuyện này, không biết thực sự có hay không, còn Kỷ Thiên thì khỏi nói, chắc chắn theo chủ nghĩa vô thần. Cho nên có thể trả lời câu hỏi này của cô gái chỉ có Bạch Dực, người hiểu rõ những chuyện thế này nhất. Anh ta chăm chú nhìn cô gái một lúc, sau cùng nhàn nhạt đáp lại: “Hồn cũ gửi nơi tam sinh thạch. Ngắm trăng đón gió chẳng buông lời. Lén ngắm người xưa xa típ tắp. Vẻ ngoài dẫu khác, vẫn là tôi.”

Ánh mắt cô gái ngưng đọng lại trong tích tắc, sau đó mỉm cười nói: “Đúng vậy. Kiếp trước kiếp sau đầy vấn vương. Nhân thế trần duyên lắm đoạn trường. Giang sơn Ngô Việt đà thay đổi. Mái chèo khua sóng mắt rưng rưng.”[1]

Tôi đứng bên cạnh vừa cảm khái học thức của cô gái, vừa nghĩ câu hỏi vừa rồi của cô ta chắc chắn có nguyên do đặc biệt; cho nên không xen vào mà chỉ kiên trì chờ hai người xướng họa xong. Kỷ Thiên rót cho chúng tôi ly trà, rồi cũng ngồi xuống cùng nghe chuyện. Cô gái lễ phép nhận ly trà, uống một ngụm rồi nói: “Tôi đã đi nhận mặt, cái xác đó đúng là ông nội tôi, người đã chết cách đây nửa năm.”

Tôi vuốt vuốt mặt, khẽ khàng cắt ngang: “Xin lỗi, cô Vi, cô nói ông nội mình đã qua đời cách đây nửa năm, vậy vì sao còn chưa hỏa táng? Còn nữa, nếu đó đúng là ông nội của cô thì hẳn hiện nay cũng phải trên dưới sáu mươi chứ nhỉ?”

Kỷ Thiên gật đầu đồng ý, mà cô gái cũng có vẻ hoàn toàn không ngạc nhiên với những nghi vấn của tôi, chỉ là trong mắt chợt lộ ra một thoáng thần bí. Tôi chợt nghĩ, cô gái tên Vi Đàm ngồi trước mặt chúng tôi đây thực ra không hề đơn giản. Suy nghĩ đó cũng đồng thời hiện lên trong mắt Bạch Dực. Cô gái mỉm cười nói: “Chuyện là thế này, ông nội tôi từng tham gia cuộc chiến viện trợ Triều Tiên chống Mỹ.”

Trong lòng tôi âm thầm thở dài, thảo nào Vi Thỏa lại mặc đồ quân nhân như vậy. Trước đây tôi giỏi nhất là phần lịch sử Trung Quốc cận hiện đại, cho nên cũng biết ít nhiều về trận chiến này. Ngày 25 tháng 6 năm 1950, nội chiến Triều Tiên bộc phát, Mỹ cùng một số nước phương Tây lập tức can thiệp. Ngày 19 tháng 10, lực lượng hải lục không quân của quân giải phóng Trung Quốc quyết định tham chiến ủng hộ Triều Tiên, chiến tranh kéo dài hơn hai năm. Tổng thống nước Mỹ lúc đó là Harry S. Truman ra lệnh cho hải quân không quân của Mỹ ở Viễn Đông đều tham chiến, trợ giúp cho Hàn Quốc, khí thế khủng khiếp đáng sợ. Có thể nói trận chiến này danh nghĩa là viện trợ Triều Tiên, nhưng trên thực tế là bảo vệ đường biên giới sông Áp Lục, coi như là bảo vệ lãnh thổ Trung Quốc. Lúc đó có rất nhiều thanh niên nghe theo lời hiệu triệu của Mao chủ tịch, tự nguyện tham gia đoàn dân quân tình nguyện.

Vi Đàm nói đến đây cũng có vẻ rất tự hào, quả nhiên trong mắt cô ấy, danh hiệu quân nhân của ông nội mình cũng là một danh hiệu đáng tôn kính cùng tự hào. Cô tiếp tục kể: “Ông nội tôi lúc đó tham gia quân tình nguyện khi còn rất trẻ, chia tay cha mẹ lao vào chiến trường, âu cũng là tâm lý chung của đa phần thanh niên khi đó. Nhưng chiến tranh dù sao vẫn là một hiện thực tàn khốc, chiến tranh chỉ mang tới tử vong cùng hủy diệt. Ngày 28 tháng 7 năm 1953, trận chiến tàn bạo này cuối cùng đã chấm dứt, rất may mắn là ông nội tôi còn sống sót quay về quê nhà, còn được tặng thưởng rất nhiều huân chương và bằng khen. Nhưng ông nội bắt đầu bộc lộ sự chán nản, lý do cụ thể tôi không biết, dù sao cũng là chuyện quá xưa rồi, chỉ biết lúc đó ông nội tình nguyện bỏ công tác đầy hứa hẹn trước mắt, lặng lẽ quay về quê làm một công nhân tầm thường, cũng chưa bao giờ tự hào khoe với ai mình từng đi lính. Sau đó ông quen bà nội tôi, lập gia đình, sinh con cái, ba tôi đặt cho tôi cái tên Vi Đàm, bởi vì ông nội yêu hoa quỳnh nhất.”

Vi Đàm lấy trong túi xách ra một cuốn sổ tay cũ sờn, trên trang bìa còn khắc mấy câu khẩu hiệu của Mao Trạch Đông. Cô có vẻ rất nâng niu trân trọng nó, còn dùng bao ny lông bọc lại cho khỏi bị hư. Cô nhẹ nhàng tháo bao ra, mở cuốn sổ, có vài trang giấy lập tức rơi ra bay xuống nền nhà, tôi phát hiện chất giấy giống hệt như tờ giấy đã dùng để bọc mớ hạt giống hoa quỳnh mà Vi Thỏa trao cho tôi hôm qua, trong lòng có hơi run lên một chút.

Vi Đàm mở cuốn sổ nói: “Đây là cuốn nhật ký ghi chép lại những chuyện mà ông nội gặp trong thời kỳ chiến tranh, trong đó luôn xuất hiện một nhân vật.”

Vi Đàm cẩn thận để cuốn sổ lên bàn, tiếp lời: “Năm đó vì vấn đề chính trị nên trong quân có rất nhiều loại người, miền nam miền bắc đủ cả. Có thể nói suy nghĩ của những thanh niên ấy trước khi tòng quân đều chỉ có lý tưởng viển vông, sau khi trực tiếp đối mặt với chiến tranh chết chóc rồi, mới biết sinh tử hoàn toàn không nằm trong tay mình quyết định.”

Cô gái mở ra một trang giấy ở giữa sổ, nói: “Sự thực các vị muốn biết nằm hết trong này. Vì cuốn sổ này kể lại rất nhiều chuyện, nên những chỗ quan trọng nhất tôi đã đánh dấu trước cả rồi, các vị có thể tự xem.”

Ba người chúng tôi lập tức châu đầu vào, những nét chữ đã nhòe mực, màu xanh lam của bút máy cũ không thể coi là đẹp mắt, nhưng được nhuộm thêm một tầng thời gian nên nhàn nhạt bi ai. Có thể thấy Vi Đàm là một cô gái cẩn thận tỉ mỉ tới mức nào, cứ chốc chốc lại thấy những chú thích và đánh dấu chu đáo của cô bên lề, theo hướng dẫn của cô, chẳng mấy chốc chúng tôi đã xem qua hết cả câu chuyện.

Trong cuốn sổ kể lại một đoạn thời gian dài trong chiến tranh, trong từng đoạn từng câu chữ đều xuất hiện một bóng người. Người này đối với Bạch Dực và Kỷ Thiên có thể hoàn toàn xa lạ, nhưng tôi vừa đọc thì đã nhận ra người đó rồi, đó chính là binh nhất Hạt Đậu trong câu nói lửng lơ đêm đó của Vi Thỏa, tên thật của người đó là Trần Kiến Quân. Thời đó tên tuổi của những cậu thanh niên quả thực như rút thẳng ra từ những khẩu hiệu tuyên truyền ngoài đường phố, thứ nhất là Kiến Quân, thứ nhì chắc hẳn là Kiến Quốc.

Cậu ta là người miền nam, còn Vi Thỏa đến từ phía bắc, nhưng cùng đi lính một chỗ, nên mọi người cũng thích tụ họp lại một chỗ nói chuyện phiếm. Giữa bầu không khí hạn hẹp mà đặc thù của thời kỳ đó, mọi người hầu hết đều nhanh chóng trở thành tri kỷ, bởi vì trên chiến trường, mọi người đều là chiến hữu cùng vào sinh ra tử. Vi Thỏa và Hạt Đậu nhanh chóng trở nên thân thiết, cũng là thanh niên, nhưng khác với những thanh niên thời đại chúng tôi, bọn họ nói chuyện với nhau theo một cách rất “chính trực”, ở giữa có ghi lại một đoạn trò chuyện của hai người bọn họ.

“Sao cậu cứ mang theo một túi hạt đậu bên người thế? Chả trách người ta gọi cậu là Hạt Đậu!”

“Anh không biết đó thôi, đây là hạt giống hoa, trồng xuống đất có thể nở thành những bông hoa rất đẹp rất quý!”

“Chậc chậc, nhìn cái mặt cậu kìa, đúng là cái vẻ tiểu tư sản mà! Tôi nói cho cậu biết, chúng ta bây giờ là Trung Quốc hiện đại, Mao chủ tịch bảo chúng ta phải ra sức phấn đấu, chủ nghĩa vô sản nhất định thắng lợi!”

“Đó là đương nhiên, chờ chiến tranh kết thúc, tôi nhất định trồng một loại hoa đẹp nhất quý nhất gửi ra Bắc Kinh! Tặng cho Mao chủ tịch, để ngài ấy cũng có thể ngắm được Nguyệt hạ mỹ nhân!”

“Gì mà mỹ nhân ở đây? Còn bảo là không phải tiểu tư sản? Cách nói chuyện của cậu chẳng ra dáng cách mạng tí nào cả! Đúng là giọng lưỡi cải lương!”

“Bởi vậy mới nói anh không có hiểu biết không có học vấn, nhìn là biết ngay chưa đọc được mấy quyển sách mà, nói cho anh biết, hạt này là hạt giống hoa quỳnh, còn có tên khác là Nguyệt hạ mỹ nhân, biết chưa! Loài hoa này chỉ nở trên quê hương của tôi thôi, khí hậu phương bắc nhà anh lạnh muốn chết, hoa không nở được!”

“Được rồi! Chờ khi khoa học kỹ thuật của chúng ta phát triển là có thể trồng ra loài hoa đẹp nhất thế giới, sau đó phổ biến đến khắp mọi nơi chứ gì! Đừng nói là hoa quỳnh, hoa thần hoa thánh gì cũng không thể làm khó được các đồng chí cách mạng vô sản chúng ta!”

“Đúng thế, tôi tin tưởng một ngày nào đó cũng có thể nhìn thấy hoa quỳnh nở giữa trời đông giá, ha ha.”

“Vậy còn mang theo nó trong người làm gì, ban đầu tôi cứ tưởng cậu mang theo một túi đậu nành để đem xào chứ, còn định lấy một mớ ăn cho đỡ thèm đây!”

“Không phải mà, thật là… Ai, không nói với anh nữa. Tôi cũng không biết vì sao, nhưng lúc nào cũng nghĩ chết chóc trong chiến tranh là chuyện thường, nếu tôi chết trận, tôi muốn làm theo truyền thống của quê tôi là nương theo bóng hoa tìm về nhà. Tôi mang theo hạt hoa quỳnh là vì trên đường có thể rải xuống cho nó tự nở, chỉ cần nó nở hoa, là tôi có thể nương theo bóng hoa tìm về quê nhà, không làm một vong hồn chết tha hương đất khách quê người.”

“Đồng chí Trần Kiến Quân! Tôi cực lực lên án tư tưởng ủy mị của đồng chí! Không bao giờ được nói là mình sẽ chết! Cái chết không dành cho giai cấp vô sản chúng ta! Còn nữa, cậu đã bảo hoa này không mọc được ở nơi khác ngoài quê cậu mà, cứ rải xuống thế lãng phí lắm, chi bằng chúng ta xuống bếp ăn hỏi có muối với tiêu không, đem xào ăn quách cho rồi! Nhìn nó cũng giống đậu nành, chắc ăn cũng không tệ đâu hả?”

“Đồng chí Vi Thỏa, đừng có hòng tưởng tượng đến cảnh đem xào mớ hạt giống của tôi đấy! Tôi nói cho anh hay, cấm động tới mớ hạt của tôi, nếu anh dám xào nó ăn, vậy từ nay về sau chúng ta phân rõ cách biệt giai cấp cho mà xem!”

Cả đoạn văn dài được viết lại dưới dạng đối thoại, cho thấy khi viết những dòng này Vi Thỏa đang hoài niệm cùng nhung nhớ tới mức nào. Nhưng chỉ cần đọc thêm vài trang nữa, sẽ nhìn thấy những đoạn kể lại cái chết của Hạt Đậu.

Giữa cuộc nội chiến Triều Tiên, quân Triều Tiên và Trung Quốc tiến hành một chiến dịch chuyển từ phòng ngự sang tấn công – chiến dịch Thượng Cam Lĩnh. Trong chiến dịch này, quân Mỹ Hàn sử dụng rất nhiều vũ khí hạng nặng, hơn 300 khẩu đại bác, 27 xe tăng, 40 máy bay, dưới làn đạn của những vũ khí này, không bị bắn chết cũng là bị dẫm nát. Lúc đó đại đội của Vi Thỏa đóng ở dưới chân núi Ngũ Thánh ở Sơn Nam, nhận được chỉ thị tới chi viện cho Cam Lĩnh. Tuy phải chiến đấu trước áp lực nặng nề của vũ khí từ đối phương, quân Trung Quốc vẫn theo đúng mệnh lệnh “phòng ngự vững vàng, đoạt từng tấc đất”, cho nên dù hỏa lực không đủ, vẫn nhất định giữ vững trận địa không chịu lùi.

Hạt Đậu và Vi Thỏa đều được ra lệnh ở lại cầm cự, nhưng đến cuối cùng không thể cầm cự hơn được nữa, cấp trên ra lệnh cho người trẻ nhất trong đơn vị là Hạt Đậu chạy về hậu phương báo cáo tình hình và tìm kiếm viện trợ. Hạt Đậu tự biết mình không biết lái xe, nên nhường cho Vi Thỏa vị trí lái xe, còn mình thì nhận vị trí pháo binh của Vi Thỏa, để Vi Thỏa đi làm liên lạc viên.

Sau này trong nhật ký có một đoạn Vi Thỏa bổ sung như sau: “Hành động của Hạt Đậu rõ ràng là muốn nhường quyền sống sót cho tôi. Vì pháo binh là phải cố thủ ngay tuyến đầu, bằng không không thể giữ vững thế giằng co với đối thủ được. Trong hoàn cảnh lực lượng hai bên chênh lệch đến ghê người như thế, pháo binh thật chẳng khác nào quân cảm tử, buông tha sinh mạng của mình để kéo dài thời gian cho đồng đội.”

Vi Thỏa ban đầu không đồng ý, nhưng cũng không còn cách nào khác, thời gian đã không cho phép bọn họ do dự thêm nữa. Hạt Đậu nắm lấy cây súng nhảy lên tiền tuyến, Vi Thỏa chấp hành mệnh lệnh lập tức chạy về báo cáo tình hình. Anh ta không có thời gian suy nghĩ gì, chỉ biết dốc hết sức chạy thật nhanh về hậu phương, cứ mỗi giây đánh mất, là có thể có thêm một đồng đội ngã xuống.

Nhưng Vi Thỏa rốt cuộc vẫn tới chậm. Đại đội của họ không còn một ai sống sót, nhưng đã thành công kéo dài thời gian, dù phải dùng toàn bộ mạng sống của các chiến sĩ! Vi Thỏa điên cuồng tìm kiếm trong đống thi thể, trong đầu tâm niệm một hi vọng có thể có cơ may Hạt Đậu còn sống. Nhưng đến khi đào ra được một xác chết máu me đầm đìa của Hạt Đậu, thì nước mắt cũng rớt xuống. Nếu không nhờ bộ quần áo cùng bao hạt giống Hạt Đậu luôn mang theo bên người thì quả thực Vi Thỏa không thể nhận ra đây chính là cậu ta. Anh ta giữ lấy bao hạt giống, đứng lặng giữa chiến trường ngập tràn tiếng khóc than, khói thuốc súng mù trời, cũng không thể tìm lại mạng sống cho bạn mình nữa.

Tôi đọc tới đoạn này, bàn tay lật sách cũng hơi run lên, chậm rãi lật thêm vài tờ nữa, đã thấy những dòng chữ cuối cùng. Chữ viết có vẻ mới hơn, dường như mới được thêm vào gần đây, viết rằng: “Cho tới bây giờ, trồng hoa quỳnh trở thành một cách an ủi tinh thần của tôi. Hoa quỳnh mỗi năm chỉ nở một lần, chỉ vài giờ đã tàn, nhưng mỗi lần nó nở bừng những giây phút rực rỡ nhất, tôi có thể phảng phất nghe thấy tiếng những đồng đội của mình cùng hát khúc hành quân dưới chân núi Ngũ Thánh, nhìn thấy cảnh tượng mọi người cùng nhau vui vẻ nói cười. Gần đây tôi cảm thấy cơ thể mình ngày càng suy bại, đêm nào cũng mơ thấy những chiến hữu đã chết, bọn họ vẫn y hệt như xưa, vẫy tay gọi tôi, trung đội trưởng ngồi ngay đó đàn một khúc rất dễ nghe bằng đàn accordion, ở giữa còn có Hạt Đậu. Hạt Đậu vẫn thấp bé như xưa, trong tay ôm một chậu hoa quỳnh còn chưa nở hoa. Tôi muốn đến gần bọn họ, muốn nói cho cậu ấy biết tôi bây giờ đã là một chuyên gia trồng hoa quỳnh rồi, nhưng bọn họ đều dần dần rời xa tôi, cây hoa trong tay Hạt Đậu vẫn không nở…”

“Gần đây tôi đã cảm thấy cái chết đối với con người là một thế lực kinh khủng tới mức nào. Tôi thường xuyên nhìn thấy những cái bóng đen đi lại trong nhà, có lúc hình dạng không rõ, có lúc mặt mũi giống hệt như những chiến hữu đã chết, tôi biết tôi đã sắp đi hết cuộc đời mình. Tôi đột nhiên nghĩ không biết linh hồn Hạt Đậu đã về được quê cũ hay chưa? Hay vẫn còn lang thang ở đâu đó? Không, tôi muốn đi tìm cậu ta, cho dù có chết, tôi cũng muốn muốn nói với cậu ấy tôi đã thành chuyên gia trồng hoa quỳnh rồi, tôi muốn nói cho cậu ấy biết, tôi đã làm cho hoa quỳnh nở hoa ở phương bắc này rồi…”

Đó là những câu cuối cùng. Chúng tôi khép lại trang nhật ký, không khí chợt trầm xuống đến khó thở, cuối cùng Vi Đàm lên tiếng: “Thực ra lúc đó ông nội tôi đã bị bệnh tim rất nặng, cũng là do di chứng chiến tranh, nhưng ước nguyện của ông vẫn là làm sao đến Triều Tiên một lần. Trong nhà đều phản đối, vì mọi người đều biết với sức khỏe của ông, lần này ra đi có thể vĩnh viễn không về nữa. Nhưng từ đó chuyện lạ cũng bắt đầu xảy ra…”

Cô gái dừng lại nhìn tôi một chút rồi kể tiếp: “Ông nội bắt đầu trẻ lại, chúng tôi phát hiện mái tóc bạc phơ của ông dần dần trở lại màu đen. Chúng tôi đều giật mình, nhưng ban đầu lại nghĩ là sức khỏe của ông đang hồi phục, bác sĩ vẫn chẩn đoán ông bị bệnh tim nặng, nhưng chỉ có chúng tôi chứng kiến ông càng ngày càng trẻ lại, như thể cải lão hoàn đồng vậy…”

Bạch Dực “À” lên một tiếng, dường như đã nghĩ ra cái gì, nhưng vẫn không lên tiếng, Vi Đàm tiếp tục kể hết: “Sau đó ông nội đột ngột bỏ nhà ra đi, chỉ để lại một phong thư, bên trong là di chúc phân chia tài sản vân vân. Nói cách khác, ý ông là chúng tôi đừng đi tìm ông nữa, ông bảo muốn đi tìm một vị cố nhân, lại nói có thể sẽ tìm được.”

Tôi im lặng một lát rồi lên tiếng hỏi: “Vậy làm sao cô biết được ông nội mình đã chết thế nào?”

Ánh mắt Vi Đàm trở nên cực kỳ bi thương: “Đó là bởi vì tôi cũng nằm mơ thấy hoa quỳnh, trong mơ có một thiếu niên tay ôm một chậu hoa quỳnh còn chưa nở hoa, người đó nói ông nội tôi vẫn còn đang lang thang trên đường…”

Tôi và Bạch Dực nhìn nhau, cùng đồng thời ngầm hiểu rằng Vi Đàm còn giấu gì đó chưa nói hết, bất quá người ta không muốn nói, chúng tôi cũng không thể cố hỏi được. Bạch Dực lại hỏi tiếp: “Vậy cô tìm An Tung làm gì?”

Vi Đàm lặng lẽ nhìn chúng tôi: “Tôi hi vọng hai người có thể giúp ông nội tôi hoàn thành tâm nguyện, giúp ông được thấy thứ ông vẫn đang tìm, để ông có thể an tâm yên nghỉ.”

Chúng tôi từ lúc nào đã chuyển nghề làm nghề siêu độ linh hồn thế này? Nhưng dù sao mọi thứ đã có Bạch Dực chuyên gia, tôi chỉ cần nghe đâu làm vậy là được. Nhưng Kỷ Thiên thì khác, vừa nghe đến đây anh ta lập tức mở to mắt, vội vàng hỏi lại: “Giúp thế nào? Làm cái gì bây giờ?”

Tôi ho khan một tiếng, quay sang Bạch Dực nói: “Lão Bạch, lại phiền tới anh ra tay rồi.”

Bạch Dực bật cười hỏi lại: “Chẳng lẽ cô muốn chúng tôi làm cho hoa quỳnh nở hoa trong tiết trời này hay sao? Ha ha, cái này, cô không nên tìm chúng tôi mới phải.”

Vi Đàm suy tư một lát, cuối cùng làm như đã quyết định, mói nói: “Tôi có một gốc hoa quỳnh, là cây hoa cuối cùng mà ông nội trồng trước khi ông mất, nhưng dù sao hoa quỳnh vẫn là hoa quỳnh, không trồng xen với những cây cỏ tầm thường khác được, cho nên tôi hi vọng các vị có thể giúp tôi dẫn ông nội tới nơi đó, chỉ cần để ông được nhìn thấy nó là tốt rồi.”

Kỷ Thiên xen vào: “Nhưng vấn đề là nếu ông nội cô không chịu theo chúng tôi thì sao?” Tôi cũng gật đầu: “Đúng vậy, nếu ông nội cô cứ nhất quyết chỉ đi về phía trước thì thế nào? Ông ấy lúc này đang là cái xác nằm trong kia, cô có thể đem cái xác đó đi thẳng tới chỗ cây hoa đặt ông ấy bên cạnh nó, để ông ấy vừa vùng dậy là… Tada~ tìm được rồi, như vậy không phải đơn giản hơn nhiều sao?”

Bạch Dực bình thản nói: “Nhưng ý cô là muốn cho ông ấy có thể tự mình tìm thấy hoa quỳnh, đúng không?”

Vi Đàm gật đầu: “Đúng, cho nên tôi mới muốn các vị dẫn đường cho ông, chỉ cần để ông nhìn thấy hoa, thì có thể ngủ yên rồi.”

Tôi lại hỏi: “Cần dẫn ông ấy về đâu? Cục cảnh sát này à?”

Vi Đàm nhìn ra ngoài cửa sổ, giọng nói xa xăm: “Không, tôi mong muốn ông nội có thể tìm thấy hoa quỳnh ông muốn gặp ‘trên đường’.” Nói xong cô chỉ vào một vị trí trên tấm bản đồ treo trên tường trong phòng, nói, là ở đây, tôi muốn các vị dẫn ông nội tới đây.

Tôi vội vàng hướng ánh mắt về phía Bạch Dực hỏi ý, anh ta không nói gì, chỉ lẳng lặng nhìn Vi Đàm hồi lâu, cuối cùng hỏi: “Cô làm như thế, có đáng không?”

Vi Đàm nhàn nhạt nở nụ cười, trong mắt thoáng một tia xao động ươn ướt: “Không cần biết có đáng hay không, hoa quỳnh bừng nở, chỉ vì Vi Đà.”

[1] Truyền thuyết về “Tam sinh thạch” (Đá ba kiếp) thực ra là một câu chuyện tình đầy xúc động. Ẩn sĩ Lý Nguyên đời Đường làm bạn tri kỷ cùng trụ trì Viên Trạch. Có một ngày, bọn họ hẹn nhau cùng đi du ngoạn núi Thanh Thành và Nga Mi ở Tứ Xuyên. Lý Nguyên muốn đi bằng đường thủy, còn Viên Trạch lại đòi đi bằng đường bộ. Lý Nguyên không chịu đi đường bộ, nên Viên Trạch không còn cách nào khác ngoài việc bằng lòng. Tới bên bờ Nam Phổ, thuyền dừng lại, hai người nhìn thấy một người phụ nữ mang thai mặc áo hoa ngồi bên sông giặt áo, Viên Trạch liền khóc, nói với Lý Nguyên: “Đây chính là lý do vì sao ta không muốn đi bằng đường thủy, vì sợ gặp phải bà ấy. Ta vốn phải đầu thai làm con trai bà ấy, nhưng lại không chịu đi, cho nên bà ấy mang thai đã ba năm mà chưa sinh được. Nay đã gặp phải, chắc chắn không thể tránh khỏi, xin ngươi dùng phù chú giúp ta đầu thai nhanh, ba ngày sau tắm cho đứa trẻ, ngươi nhớ đến thăm ta, ta sẽ cười để chứng minh. Mười ba năm sau vào đêm trung thu, hẹn ngươi tới Hàng Châu ngoài chùa Thiên Trúc, ta nhất định tới cùng ngươi gặp mặt.” Nói xong, lập tức viên tịch. Ba ngày sau Lý Nguyên vào làng thăm hỏi, qua nhiên đứa bé mới sinh nhìn thấy ông liền mỉm cười.

Mười ba năm sau, Lý Nguyên đi khắp núi non sông hồ, chờ đến lúc gặp lại Viên Trạch. Lúc đi tới tảng đá lớn dưới chân đỉnh Phong Hoa, tinh thần còn đang hoảng hốt thì chợt thấy xa xa một mục đồng chậm rãi đi qua, xướng một bài thơ: “Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn, thưởng nguyệt lâm phong bất yếu luận. Tàm quý tình nhân viễn tương phóng, thử thân tuy dị tính thường tồn.” (Bài trên do Bạch Dực ngâm lại, Lục Mịnh tạm dịch)

Mục đồng nói mình đúng là Viên Trạch, nhưng nay trần duyên còn chưa hết, không thể ở lại lâu cùng Lý Nguyên, nên xướng bài thơ thứ hai: “Thân tiền thân hậu sự mang mang, dục thoại nhân duyên khủng đoạn trường. Ngô Việt giang sơn du dĩ biến, khước hồi yên trạo thượng cù đường.” rồi lặng lẽ quay người bỏ đi. (Bài dưới do Vi Đàm ngâm, Lục Mịnh tạm dịch)

Từ đó, “tam sinh thạch” liền trở thành vật tượng trưng cho ước hẹn ba kiếp, nhiều người Trung Quốc coi tình yêu không phải là tình cảm bắt đầu từ lúc gặp nhau, mà là duyên nợ từ kiếp trước, cho nên ngày nay, chúng ta mới có cụm từ “duyên định tam sinh” (ước hẹn tam sinh).

Lời người biên tập: Cái truyền thuyết “ước hẹn tam sinh” này chẳng phải rất đậm chất Đam mỹ sao? *mắt tròn mắt dẹt*

___________________________________

Chương 43: Khách dưới trăng (Tứ)

Đến lúc này tôi vẫn chưa hiểu đầu cua tai nheo gì cả, nhưng nếu Bạch Dực đã nhận lời vậy cũng không còn gì phải suy nghĩ nữa, vạn sự có anh ta gánh vác. Huống chi có những điều không phải cứ hỏi tới cùng, biết tới cùng là có thể giải quyết được. Vi Đàm tạm biệt chúng tôi, nói cần phải đi chuẩn bị một chút, buổi tối sẽ quay lại gặp chúng tôi, lúc đó cô ta hi vọng chúng tôi đã dẫn ông nội cô tới chỗ bông hoa quỳnh sẽ nở rồi.

Ba người còn lại trong phòng đều nhìn nhau, anh nhìn tôi tôi nhìn anh một lúc, cuối cùng đều nhìn hết sang Bạch Dực, Bạch Dực mỉm cười: “Nhìn tôi làm gì chứ?”

Tôi đáp: “Sao cô ta biết chắc chúng ta có thể giúp được cô ta chứ? Rốt cuộc vì nguyên nhân gì mà cô ta tìm tới chúng ta?”

Kỷ Thiên lúc này mới xấu hổ cười cười: “Tại đêm qua tôi thấy cậu với Vi Thỏa cùng biến mất, cho nên cứ cho là… cậu thuộc loại… thuộc loại có năng lực khác thường chứ, hì hì…”

Trong lòng tôi âm thầm chửi bới, quả nhiên là tên khốn này truyền ra, liền lạnh lùng hỏi lại: “Đừng bảo là anh đi tuyên truyền khắp nơi rồi nha!”

Nụ cười của anh ta lại càng thêm đáng ghét: “Đâu có, mới nói cho mấy đồng nghiệp với nhân viên pháp y thôi à.”

Bạch Dực khoanh tay nói: “Nhưng cảnh sát các người cũng thản nhiên thật đó chứ, để mặc cho một cái xác đi lang thang nhiều ngày như vậy, nói ra thì đây cũng thuộc loại hồ sơ mật Xfiles của Trung Quốc chứ chẳng chơi.”

Tôi cũng thừa cơ chọc Kỷ Thiên thêm vài câu, anh ta tự biết đuối lý, đành cười gượng bỏ đi làm công việc của mình. Cả phòng khách chỉ còn tôi và Bạch Dực, tôi mới gãi gãi tóc hỏi: “Bây giờ phải làm thế nào đây?”

Bạch Dực tháo kính, vuốt vuốt sống mũi nói: “Không khó lắm, nhưng lại hơi phiền phức một chút. Nhưng lần này quả thực là trong họa có phúc đấy.”

Nói xong mấy câu không đầu không đuôi này, anh ta lập tức bỏ ra khỏi phòng. Chúng tôi đã xin nghỉ nửa buổi nên buổi chiều nay coi như được nghỉ, chúng tôi trở về ký túc xá. Bạch Dực nấu cơm ăn uống xong xuôi, bèn nói có việc biến ra khỏi cửa. Tôi ở nhà một mình cũng buồn, nên lên mạng chơi trò chơi, dạo một vòng tin tức trên diễn đàn. Nhưng dù bận rộn đến mấy, trong đầu vẫn băn khoăn nghĩ đến những chuyện tối nay, dù sao hôm qua nói chuyện với Vi Thỏa là vì cứ nghĩ anh ta là người, còn hôm nay thì đã xác định anh ta là một cái xác chết kỳ quái rồi.

Thế nhưng một cái xác làm thế nào mà có thể cử động được chứ? Đáng lẽ ra phải già cỗi nhăn nheo, đầu tóc trắng xóa, thì lại là một người trông còn trẻ đến thế, chuyện này không phải quá bất bình thường sao? Bạch Dực thực sự có bản lĩnh, nhưng tôi vẫn tự hỏi anh ta sẽ giải quyết chuyện này thế nào. Dù sao anh ta là loại người chưa bao giờ nói cho tôi biết cách làm của mình, cho nên tôi không cần phí sức đi hỏi thăm, đến lúc cần thì sự thực sẽ tự mình hiện ra. Đó dường như đã thành quy ước ngầm trong cuộc sống chung của chúng tôi, tôi không hỏi nhiều, anh ta không nói nhiều, mọi chuyện cứ theo một quy luật bất di bất dịch nào đó mà tự phát triển.

Lên mạng làm thời gian trôi qua rất nhanh, khi Bạch Dực quay về trời đã về chiều. Tôi dụi dụi mắt hỏi anh ta đã đến giờ chưa, anh ta chỉ lắc đầu: “Vẫn chưa, nhưng bây giờ chúng ta đi cũng vừa rồi, đi giúp Kỷ Thiên một tay.”

Vừa nghe lại sắp phải đi gặp tên cảnh sát hâm hâm kia, lòng tôi đã khó chịu, liền dằn dỗi nói: “Vậy anh đi một mình đi, tôi ở đây chờ.”

Bạch Dực ngồi xuống bên cạnh tôi hỏi: “Dường như cậu không thích bạn học cũ của tôi lắm thì phải?”

Tôi không thèm ngẩng đầu lên: “Không nói tới thích hay không thích, chỉ cần vừa gặp đã thấy tên này có vấn đề thần kinh!” Tôi đột nhiên sực tỉnh, liền ngẩng lên nhìn anh ta hỏi lại: “Mà anh hỏi nhiều như vậy làm gì? Tôi không ưa cái mặt anh ta, quan hệ gì tới anh?”

Bạch Dực nhướn mày nhìn tôi một lúc, cuối cùng buông lại một câu rồi đứng lên: “Đúng là không thành thật, rõ ràng là ghen mà.”

Lòng tôi đang sẵn khó chịu, nghe anh ta nói thế, tự nhiên lại mọc đâu ra một cơn tức lạ lùng, bèn cau mày sẵng giọng hỏi: “Anh nói cái gì?”

Anh ta không đáp lại, chỉ lấy một cuốn sách trên giá, lật qua lật lại vài trang rồi mới nói: “Còn nhớ điển tích Phật giáo mà đêm qua tôi nói cho cậu nghe không?”

Tôi cũng không có tâm tình đi gây sự, thấy anh ta chủ động nói sang chuyện khác cũng vội vàng hưởng ứng: “Nhớ gì mà nhớ chứ, anh có nói hết đâu?”

Anh ta ngẩng lên nhìn tôi, ho khan vài tiếng để thể hiện sự xấu hổ, rồi nói: “Chưa nói thật à? Có lẽ là do đêm qua mệt quá nên quên mất, thực ra điển tích đó có ý nghĩa là những thứ chỉ xuất hiện trong một chớp mắt rồi biến mất.”

Tôi ngạc nhiên: “Câu đó có ý gì?”

Anh ta mở cuốn sách trên tay, chỉ vào một đoạn trong đó: “Cậu đọc sẽ hiểu, câu đó có nghĩa là cậu có thể vì người ta mà làm những gì, mà người ta có thể hiểu được sự hi sinh của cậu bao nhiêu. Cả hai bên đều là ý trời, có khi chờ đến khi người kia hiểu ra những gì cậu đã làm cho mình, thì vật đã đổi mà sao cũng đã dời.”

Tôi bật cười, cầm lấy quyển sách mà nói bâng quơ như chọc quê: “Ôi trời, lão Bạch thực sự không đơn giản nha, có phải là đã từng thất tình, hôm nay nhớ về chuyện tình xưa lâm li bi đát cho nên cảm thán thốt lên những câu rợn da gà như thế hay không?”

Nhưng Bạch Dực lần này không nói gì, chỉ cúi đầu chăm chú nhìn hai bàn tay mình. Tôi giật mình nhận ra lần này dường như mình đã thực sự đâm trúng chỗ đau của người ta, liền vội vàng sửa lời: “Chuyện này ấy mà, cũng không phải tuyệt đối là như thế đâu, ví dụ như điển tích này tôi xem không hiểu lắm, cổ văn cũng không phải thế mạnh của tôi, nhưng tôi nghĩ, tình cảm trên đời này một khi đã cho đi thì tốt nhất đừng nên cố chấp phải được nhận lại, dù sao cũng phải thứ buôn bán được kia mà… được rồi người anh em, nếu thực sự anh có chuyện bi thương như vậy thì tốt nhất là nên quên hẳn đi, con người phải luôn nhìn về phía trước mới được…”

Bạch Dực vẫn không thèm ngẩng lên, tôi thầm nghĩ chứ không phải nghiêm trọng đến thế đấy chứ, bèn bỏ sách đến định vỗ vỗ vai anh ta, nhưng anh ta đột nhiên ngẩng phắt đầu lên nhìn tôi, làm tôi sợ tới cứng lưỡi, cuối cùng chỉ nghe anh ta lạnh lùng nói một câu: “Có một số việc một người đã quên hết, nhưng không có nghĩa là người khác cũng đã quên.” Anh ta dùng tay áo gạt qua mặt mình, thay đổi giọng mà ôn hòa nói: “Có nói bây giờ cậu cũng không hiểu, được rồi, tôi đi nấu cái gì ăn, ăn xong chúng ta cùng đi tìm Kỷ Thiên.”

Nói xong lập tức bỏ đi nấu cơm, còn tôi cả người vẫn cứng đờ, ngẩn ngơ vài giây mới hoàn hồn, lại nghĩ dường như mình vừa bị anh ta đùa giỡn, liền quay đầu lại gào to: “Chết tiệt! Cái gì mà tôi không hiểu còn anh hiểu rõ chứ, đại ca, có phải tiếp theo anh sẽ nói là vì anh ăn muối còn nhiều hơn tôi ăn cơm hay không vậy hả?!” Bạch Dực không trả lời, tôi nhỏ giọng lầm bầm một câu “Đồ điên!” rồi tiếp tục xem sách. Nhưng phải nói thật, không biết tại sao nhưng những gì anh ta vừa nói dường như tôi đã nghe ở đâu đó rồi, có lẽ phải nói là đâu đó trong… tiềm thức cũng nên. Tôi lắc mạnh đầu, không muốn nhìn đám chữ dày đặc chi chít trước mắt nữa, nên cũng bỏ sách sang một bên tiếp tục chơi game.

Ăn cơm tối xong, hai người chúng tôi vội vã đến cục cảnh sát. Bảo vệ vừa nghe nói chúng tôi tới tìm Kỷ Thiên là lập tức không hỏi hai lời đã cho chúng tôi vào thẳng bên trong. Chúng tôi lại đi vào căn phòng khách ban sáng, Vi Đàm chưa thấy đâu, chỉ có một mình Kỷ Thiên vừa hút thuốc vừa dậm dậm chân sốt ruột trong phòng. Thấy chúng tôi vào, anh ta lập tức tiến lên hỏi dồn: “Hai người chuẩn bị thế nào rồi? Có cần tôi mang theo súng không? Hay là dùi cui điện cũng được?”

Bạch Dực lắc đầu: “Không cần, cậu thích thì cứ đi theo, nhưng tuyệt đối không được lên tiếng. Nếu lần này chúng ta may mắn, có thể sẽ được nhìn thấy Nguyệt hạ mỹ nhân thực thụ đấy.”

Tôi đứng bên cạnh tuyệt không xen miệng vào, thứ nhất là vì tôi không thích Kỷ Thiên, thứ hai là trong lòng tôi vẫn còn nhiều nghi vấn, nhưng lại không dám đi hỏi. Cách làm việc của Bạch Dực từ trước tới nay vẫn là như vậy, chỉ cắm cúi làm chuyện của mình, nếu không phải vạn bất đắc dĩ sẽ không bao giờ giải thích cho người khác mình sắp làm gì. Cho nên tôi đã tập thành thói quen chỉ cần lặng lẽ đứng cạnh nhìn, sau đó cứ hành động tự nhiên theo diễn tiến của sự việc. Cho dù là chuyện đơn giản hay phức tạp, chỉ cần biết thân biết phận hành động theo từng bước từng bước, thì cuối cùng nhất định sẽ nhìn thấy kết quả, ít ra, không phải xấu mặt như Kỷ Thiên bây giờ.

Khi chúng tôi đang nói chuyện thì Vi Đàm bước vào phòng, tay ôm một chậu hoa quỳnh chỉ thấy toàn lá. Chậu hoa là sứ Thanh Hoa trấn Cảnh Đức, bên ngoài dùng vải lụa trắng bao kỹ xung quanh, lá cây gần như bị lớp vải trong mờ bao kín. Tuy chưa nhìn thấy hình dáng hoa quỳnh thế nào, nhưng chỉ cần nhìn lá cây cũng có thể thấy chắc chắn cây hoa này rất hiếm quý. Cô gái cẩn thận từ từ tiến về chúng tôi, nói: “Đây là chậu Lãnh Mỹ Nhân cuối cùng mà ông nội lưu lại, nó nở hoa sớm hơn những cây hoa quỳnh thông thường, lại còn có thể nở hoa trong khí trời giá lạnh. Nhưng chỉ đáng tiếc là nếu những cây hoa quỳnh khác có thể ra hoa mấy tiếng đồng hồ, thì loại quỳnh này chỉ duy trì nở hoa được chừng mười phút thôi, có cố kéo dài lắm cũng chỉ được không quá hai mươi phút.”

Tôi vừa nghe thế đã lập tức hiểu ngay vấn đề: “Ý cô là chúng tôi phải làm sao để cho Vi Thỏa nhìn thấy nó trước khi nó kịp tàn?!”

Vi Đàm gật đầu: “Đúng vậy, chỉ có mười phút đồng hồ ngắn ngủi, tôi đã ủ nước nóng dưới gốc và dùng vải bao kín hoa lại, để nó có thể nở lâu hơn một chút, nhưng vẫn rất vội.”

Bốn người chúng tôi đều không ai nói câu nào, tất cả mọi người đều hiểu muốn dẫn đường cho một cái xác gần như chỉ còn một ý thức đi tìm thực vật đơn thuần đến bên cạnh một gốc hoa quỳnh chỉ nở vỏn vẹn có mười phút, chỉ nghe thôi đã cảm thấy bất khả thi rồi. Cuối cùng Bạch Dực hỏi: “Vậy cô biết hoa chừng nào sẽ nở không?”

Vi Đàm chăm chú nhìn cây hoa một lát, nói: “Ừm, tôi nghĩ là tôi biết.” Cô gái nhẹ nhàng xốc lớp vải trắng bao chung quanh chậu hoa lên, chúng tôi nhìn thấy một nụ hoa quỳnh chênh vênh nở ngay trên lá cây, trông mong manh tới mức dường như chỉ cần chạm vào là rơi. Thảo nào mà hoa quỳnh lại yếu ớt khó trồng đến như vậy. Cô gái nhẹ nhàng nói: “Có lẽ mười hai giờ đêm nay hoa sẽ nở, khi nó vừa nở tôi sẽ gọi điện báo ngay cho các vị, các vị nhất định phải dẫn ông nội tôi tới đúng giờ nở hoa của nó nhé.”

Nhiệm vụ này quả thực quá trắc trở đi, chúng tôi chăm chú nhìn Vi Đàm hồi lâu, cô gái chỉ tập trung nhìn Bạch Dực, lặng lẽ nói: “Nếu là anh thì chắc chắn làm được, mang ông nội tôi tới nơi tôi đã chỉ.”

Bạch Dực mím chặt môi không nói gì, nhìn chăm chú vào chậu hoa một lúc rồi thận trọng đáp: “Có thể.”

Tôi và Kỷ Thiên đều nhìn lại Bạch Dực một cách hoài nghi, nhưng anh ta không nhìn sang chúng tôi, chỉ nhìn chậu hoa. Kỷ Thiên dường như không nhịn nổi, định mở miệng hỏi lại, nhưng đã bị tôi nhanh chóng ngăn lại, tôi lắc đầu với Kỷ Thiên, ý bảo đừng có hỏi, dù sao có hỏi cũng vô dụng mà thôi.

Vi Đàm lại chỉ vào một điểm trên bản đồ, đó là một công viên mới xây dựng, nhắc lại: “Chính là ở chỗ này, xin hãy mang ông nội tôi tới đây.”

Sau khi nói xong, cô gái bỏ ra ngoài trước, trước khi cô kịp đi, Bạch Dực lại tiến tới sát bên cạnh cô hỏi nhỏ: “Cô thực sự cho là đáng làm sao?”

Vi Đàm vẫn chỉ mỉm cười: “Đáng. Bởi vì hoa quỳnh bừng nở, chỉ vì Vi Thỏa.” Sau khi nói xong đã bỏ đi mất. Tôi nhìn Bạch Dực, thấy ánh mắt anh ta đầy đăm chiêu, nhưng rất nhanh đã quay sang chúng tôi nói: “Thời gian còn lại không ít không nhiều, chúng ta cứ chờ tới khi Vi Thỏa sống dậy, Kỷ Thiên cứ theo sau anh ta như lần trước, Tiểu An, cậu đi theo tôi.”

Tôi còn chưa kịp hỏi gì thì Bạch Dực đã dợm ra khỏi phòng, cho nên chỉ biết vội bước theo anh ta. Bên ngoài sắc trời đã tối sầm, Bạch Dực vừa đi vừa hỏi tôi: “Còn nhớ trạm dừng xe của chuyến xe ma kia không?”

Sao lại nhắc tới chuyến xe đó nữa? Tôi hơi run trong lòng, ngập ngừng đáp lời: “…Còn, nhớ kỹ. Nhưng anh hỏi làm cái gì?”

Bạch Dực mỉm cười: “Đương nhiên là muốn nó mang chúng ta tới chỗ Vi Đàm rồi.”

Mặt tôi thoáng chốc trắng bệch ra, hình ảnh những cái xác thối rữa của ông tài xế và đám hành khách một lần nữa hiện lên trong óc, tôi hoang mang hỏi: “Có thể không lên được không?”

Bạch Dực vỗ vỗ vai tôi, tiếc nuối đáp lại: “Không thể.”

.

Đến khi tôi đưa Bạch Dực tới trạm chờ xe bus nọ thì trời đã tối đen như mực. Tôi nhìn đồng hồ đeo tay, biết còn một lúc nữa chuyến xe ma đó mới tới, nên hai chúng tôi người ngồi người đứng lặng lẽ chờ xe trong đêm. Một chiếc xe bus sáng trưng từ trong nhà ga nhẹ nhàng lướt qua, nhưng chuyến xe chúng tôi đang chờ còn chưa tới.

Gió càng lúc càng lạnh, tôi kéo cao cổ chiếc áo khoác, cố rụt cổ thật sâu vào lớp lông cổ áo. Người qua đường càng lúc càng thưa thớt, công trường đối diện cũng ngừng làm việc, ở xa xa, những lọn khói xám nhờ tuôn ra từ ống khói nhà máy, tất cả như chìm đi, tĩnh hẳn lại trong đêm. Thỉnh thoảng mới có một hai người vội vàng lướt qua, liếc qua hai chúng tôi một cái rồi lại lập tức đi mất. Tôi cảm thấy cả người gần như chết lặng, bèn đưa tay lau mặt, rồi cũng đứng dậy dựa vào bảng hiệu trạm chờ.

Dần dần, chúng tôi nhìn thấy từ xa một bóng người cao lớn từ từ tiến lại, trong lòng tôi bất chợt căng thẳng vì đã đoán được người đó là ai. Quả nhiên chính là Vi Thỏa đang thong thả chậm rãi bước trên đường, ngày hôm qua không chú ý nên không thấy, hiện tại mới phát hiện, cử động của anh ta thực sự chậm chạp hơn người thường rất nhiều, bảo là tập tễnh cũng không sai. Tôi nhìn sang Bạch Dực ra ý bảo người kia đã tới. Bạch Dực gật đầu nhìn Vi Thỏa chằm chằm, tôi còn phát hiện xa xa phía sau đó là Kỷ Thiên cũng đang lén lút đi theo. Anh ta mặc cảnh phục màu sẫm nên gần như chìm trong đêm, nhìn không ra.

Dáng điệu của Vi Thỏa rất kỳ quái, chỉ chọn đi bên cạnh những bồn cây hoặc thảm cỏ xanh, thoạt trông giống như một người làm vườn tận tụy. Cuối cùng anh ta băng qua đường, sục sạo trong bụi cỏ một lúc, bộ dáng giống hệt như đêm qua, chỉ có điều lần này trông có vẻ nôn nóng hơn. Bạch Dực thấy sắp tới lúc, bèn kéo tay tôi băng qua đường tới bên cạnh Vi Thỏa lên tiếng hỏi: “Anh đang tìm cái gì vậy?”

Giống như đêm qua, cơ thể Vi Thỏa cũng hơi run lên, chậm rãi quay đầu lại, khi nhìn thấy tôi liền mỉm cười: “Tiểu đồng chí lại tới nữa à, hạt giống hoa đã trồng xuống chưa?”

Tôi hôm qua có thể nói chuyện bình thường với anh ta là vì vẫn nghĩ anh ta là người bình thường, còn bây giờ nhìn sao cũng thấy anh ta là một xác chết, trên cổ hiện cả những đường mạch máu màu than chì, da cũng màu trắng bệch tái ngắt, chưa kể cái mùi kỳ quái toát ra từ trên người anh ta nữa, tôi chỉ biết ậm ừ cả nửa ngày mà run rẩy không sao thốt nên lời, cho nên Bạch Dực thẳng thắn chen ngang: “Anh vẫn còn đang tìm hoa quỳnh sao?”

Câu hỏi này quả thực cực kỳ thẳng thừng, cực kỳ có phong cách của lão Bạch. Ánh mắt Vi Thỏa bỗng chốc lạc đi, môi mím chặt không nói gì. Tôi có phần lo lắng, dù sao anh ta cũng không phải là người sống, nhưng anh ta chỉ đáp lại Bạch Dực: “Tiểu đồng chí, cậu không hiểu một người lính già đã từng lăn lóc trên chiến trường như tôi muốn nhìn thấy cái gì nhất trước khi chết đâu.”

Vi Thỏa quay sang nhìn tôi, trên tay đều là bùn đất và cỏ dại, anh ta chỉ vào một phương trời xa xa mà nói: “Năm đó chiến trường của chúng tôi nằm ở hướng đó, chiến tranh đã trôi qua, nhưng những người đã chết chưa bao giờ bị quên lãng. Hạt Đậu nói chỉ cần nhìn thấy hoa quỳnh nở rộ, là có thể tìm được đường về nhà. Cậu ấy thực ra rất nhớ nhà, đêm nào cũng trốn trong chăn âm thầm khóc…”

“Vậy anh nghĩ mình có thể tìm thấy hoa thật sao?” Bạch Dực hỏi lại.

“Tìm được, tôi cảm thấy thế, trồng xuống biết bao hạt giống như vậy chẳng lẽ lại không có hạt nào nảy mầm đơm hoa sao? Chỉ cần một bông cũng đủ mà!”

Nói xong ánh mắt Vi Thỏa như nhòe đi, giọng nói của anh ta thực ra đã có hơi nghèn nghẹn, nhưng anh ta đã là người chết, người chết thì không có nước mắt để rơi như người sống.

Bạch Dực thở dài: “Vậy để chúng tôi tiễn anh một đoạn cuối cùng được không?”

Vi Thỏa không nhận lời, nhưng cũng không cự tuyệt, ngược lại, vẻ mặt của anh ta tràn đầy sự thản nhiên. Anh ta lau hai bàn tay đầy bùn rồi ra khỏi bụi cỏ. Bạch Dực và tôi cũng không nói gì, chỉ lẳng lặng theo sau. Lúc này Kỷ Thiên cũng bước ra từ sau phòng đợi, trong mắt anh ta nhìn Vi Thỏa tràn đầy sự cấm kị cùng sợ hãi, nhưng Vi Thỏa cũng không thèm để ý tới. Kỷ Thiên bắt kịp chúng tôi, nhỏ giọng hỏi: “Có chuyện gì vậy? Hai người đã nói gì với ông ta?”

Chúng tôi cũng không buồn trả lời, nên ba người một xác cứ thế không nói với nhau tiếng nào mà im lặng qua đường, cùng nhau chờ chuyến xe ma đi qua.

Bạch Dực vẫn chăm chú quan sát vòng quay của mặt trăng trên bầu trời, nhà máy đàng xa lại một lần nữa nhả khói, nhuộm bầu trời đen thẳm trong khoảng khắc thành một màu xám mông lung. Xa xa chợt truyền tới tiếng động cơ xe xình xịch chậm rãi, chỉ có mình Kỷ Thiên không nghe thấy cũng không nhìn thấy gì. Xe càng lúc càng tới gần, khi nó xịch lại cạnh chúng tôi, Vi Thỏa nhìn hai chúng tôi một cái, Bạch Dực ra hiệu cho anh ta cứ lên trước, rồi quay sang nói gì đó với Kỷ Thiên, sau đó chỉ vào điện thoại di động ý bảo giờ xuống xe, rồi nắm tay tôi leo lên xe.

Trong xe giống hệt như ngày hôm qua, vẫn là mấy người hành khách cũ, tài xế lúc này vẫn còn bình thường, nhưng tôi biết chỉ cần cái bóng trắng xuất hiện một cái là dáng vẻ của ông ta sẽ lập tức thay đổi rất thê thảm. Cho nên tôi tuyệt không dám nhìn thẳng vào ai, Bạch Dực bỏ vào máy tính tiền bốn đồng xu, chúng tôi ngồi phía sau Vi Thỏa, một mình anh ta ngồi băng trênt, ánh mắt anh ta vẫn tập trung nhìn thẳng về phía trước, dáng ngồi thẳng băng, cứng ngắc.

Trong lòng tôi biết không qua mấy trạm nữa Vi Thỏa sẽ xuống xe sớm, đến lúc đó có kịp dẫn anh ta tới chỗ hoa quỳnh không đây? Mà dù sao đây cũng là một cái xe ma, chúng tôi có thể an toàn thoát khỏi nó không? Tôi cũng tự nghĩ chuyên lúc này thật là buồn cười, may mắn lắm mới thoát khỏi cái xe này một lần, rồi hôm nay lại tự động đâm đầu lên. Thật đúng với cái câu “thiên đường có cửa không thèm đi, địa ngục không lối tự chui đầu” mà. Không, cũng không đúng, thiên đường cũng không phải nơi để cho người sống tìm đến… Tôi chăm chú quan sát động tĩnh bốn phía, nhìn những hành khách lắc lư theo nhịp xe như những con rối, rõ ràng là hoàn toàn không có tri giác. Tôi thở dài chán nản, không hiểu hôm qua vì sao mãi không nhìn ra bọn họ không bình thường nhỉ? Ngay lúc đó, chợt điện thoại của tôi rung lên, tôi vội mở ra nhìn, là Vi Đàm, cô nhắn cho chúng tôi là hoa quỳnh sắp nở.

Không thể chần chừ thêm phút giây nào nữa, tôi đưa tin nhắn cho Bạch Dực đọc, anh ta nhìn đồng hồ, sau đó lấy điện thoại của mình ra nhanh chóng nhắn một cái tin gửi đi. Tài xế vẫn lái xe câm lặng như lái một cái xe tang, hành khách vẫn lung lay ngồi, ánh mắt không nhúc nhích một mảy may, trong xe hơi lạnh thấu xương. Hai người chúng tôi như thể hai kẻ túc trực bên linh cữu trong một chuyến xe tang, nhìn một đám người chết la liệt bên cạnh. Cảnh sắc bên ngoài nhòe nhoẹt, không biết là vì mặt kính cửa sổ hay là vì chúng tôi đang thực sự đi qua một không gian khác, chỉ biết ngồi yên tại chỗ nắm chặt điện thoại di động trong tay, cùng đợi tới phần tiếp theo của câu chuyện.

Điện thoại di động rung lên lần nữa, Vi Đàm gửi thêm một tin nhắn, nói hoa đã nở. Cảm giác gấp gáp lo lắng tràn ngập trong tôi, tôi nghĩ mình căng thẳng muốn đổ mồ hôi hột, nhưng bên trong cái xe lạnh âm u này thật sự không sao thoát mồ hôi nổi, tôi liếm liếm đôi môi khô khốc, nhìn sang Bạch Dực, thấy anh đang nhìn ra ngoài cửa sổ, chẳng biết nghĩ cái gì.

Tôi thấp giọng lên tiếng: “Đại ca, còn chưa có động tĩnh gì sao, hoa quỳnh nở rồi kìa! Làm sao mà để trễ giờ đi!”

Tôi có cơ sở để mà lo lắng, vì tôi phát hiện chuyến xe lần này không giống như hôm qua, tài xế không hề dừng lại ở bất kỳ trạm nào, mà cứ cho xe chạy mãi. Cái bóng trắng phía sau cũng không thấy đâu. Xe có vẻ an tĩnh hơn hôm qua rất nhiều, thế nhưng thời gian vẫn cứ lừ lừ trôi đi. Nếu như nó không chịu dừng lại, thì chắc tôi  phải dẫn Vi Thỏa ra hẳn ngoại ô ngắm ruộng hoa cải dầu đỡ quá.

Bạch Dực nheo mắt nhìn tôi lo lắng quá mà cắn môi mình tới trắng bệch, nhẹ giọng an ủi: “Sắp tới rồi. Nói đúng ra là chúng ta còn phải cảm ơn cái xe ma này đó, nếu không thật không biết phải đi làm sao cho kịp giờ nữa.”

Bạch Dực vừa nói xong, tài xế đã nhẹ nhàng dừng xe lại, Vi Thỏa đứng bật dậy chuẩn bị xuống xe. Tôi lúc này chỉ hận không thể túm lấy anh ta sống chết kéo lại, nhưng Bạch Dực rất thản nhiên, nhanh chóng theo chân Vi Thỏa xuống xe luôn. Tôi không còn cách nào, cũng chỉ biết theo sau, ba người chúng tôi lần lượt xuống xe. Chân vừa chạm đất, tôi ngẩng lên nhìn, lập tức ngơ ngác nhận ra đây không phải là nơi cái xe này đáng lẽ nên dừng.

Vi Thỏa cũng có hơi kinh ngạc, nhưng vẻ mặt anh ta bất chợt trở nên đầy kích động, cả thân thể đều run lên. Tôi nghĩ anh ta bị trúng gió, cơ thể (già nua) chịu không nổi, nên tiến tới định đỡ anh ta, nhưng bị Bạch Dực ngăn lại.

Tôi lúc này mới quan sát bốn phía, không sai, đây chính là công viên nơi Vi Đàm đã hẹn với chúng tôi ban chiều, ở chính giữa có một cái hồ nhân tạo rất lớn, vì trời quá tối nên thoạt đầu tôi nhận không ra. Ban ngày, cảnh vật ở đây chắc chắn cực kỳ hữu tình hợp lòng người, nhưng lúc này chỉ đen thui một màu, tôi vừa nghĩ tới bệnh dị ứng phấn hoa của mình, lập cập bưng kín mũi. Nhưng xung quanh chỉ tản mát một mùi hương lạ lùng mơ hồ, không nồng nàn đập thẳng vào mũi như những loài hoa khác nở vào mùa xuân, trái lại còn nhạt tới mức gần như không thể nghe thấy, nhưng chỉ cần nghe được một lần, sẽ lập tức ghi khắc ngay mùi hương đặc thù ấy. Tôi hoàn toàn không có cảm giác gì với mùi của những loài hoa khác, nhưng lại bị mùi hương lạ lùng này quyến rũ ngay lập tức.

Chúng tôi theo sau lưng Vi Thỏa, cử động của anh ta vẫn cực kỳ chậm chạp, nhưng có thể thấy anh ta đang nôn nóng tới mức nào, chỉ mong đi sao cho thật nhanh. Rốt cuộc ba chúng tôi bước tới một sườn đồi mọc đầy cỏ, giữa bãi cỏ xanh rờn, vươn cao một đóa hoa quỳnh độc nhất. Đây chính là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy hoa quỳnh, và ngay lập tức bị vẻ diễm lệ tuyệt đối của nó làm cho sửng sốt đến không sao thốt nên lời. Dưới ánh trăng, một đóa hoa cô độc trắng tinh trắng mịn như không nhiễm lấy một hạt bụi, phảng phất như trên đời này không có bất kỳ một sợi màu sắc mỏng manh nào có thể mảy may chạm tới hoa, sắc trắng thuần của nàng không thèm pha tạp với bất kỳ màu sắc nào khác, chỉ có ánh trăng thuần khiết trong sáng vô trần may ra mới có thể xứng với vẻ cao nhã thuần túy của nàng. Thảo nào có người gọi hoa quỳnh là khách tiên dưới trăng, quả nhiên không có chút nào quá đáng.

Vi Thỏa gần như không còn bước tiếp nổi nữa, ánh trăng kéo cái bóng của anh ta lan dài lan dài trên mặt đất, tựa như chính sinh mệnh bất thường của anh ta vậy. Dưới ánh trăng, đóa hoa quỳnh lẳng lặng phô sắc trắng, không sáng lạn, không phô trương, không xa hoa, không lộng lẫy. Chỉ có cao thượng, cùng thuần thành.

Lúc này Kỷ Thiên cũng đúng lúc chạy tới, trán đầy mồ hôi, có thể thấy anh ta đã phải chạy rất lâu. Trong tay anh ta còn cầm một đống nến và một cái chìa khóa xe đạp. Nhưng khi vừa nhìn thấy đóa hoa đẹp đến không gì sánh nổi đàng kia, Kỷ Thiên cũng sững ra, chỉ biết dùng ngón tay run run chỉ vào hoa, rồi lại nhìn chúng tôi, Bạch Dực phải ra dấu cho anh ta im lặng. Dưới ánh trăng tĩnh lặng, Vi Thỏa lặng lẽ tới gần hoa, không dám đụng vào, mà chỉ ngồi bệt xuống đất, sau đó bật cười to sang sảng, lấy từ trong cái túi vải buồm cũ kỹ ra một cái kèn armonica cũ xì, anh ta nhìn hoa quỳnh, trong mắt tràn đầy sự thỏa mãn. Dùng tay áo lau sơ qua cái kèn, anh ta đưa nó lên môi, một khúc nhạc êm ái chợt vang lên trong đêm sâu tĩnh lặng. Tôi đã từng nghe thấy bài hát này, là một bài hát Liên Xô rất xưa, tên là “Cây bạch dương”, bài hát kể chuyện một đôi tình nhân yêu nhau mãnh liệt giữa thời chiến tranh, trải qua những năm dài đằng đẵng, cho dù cả hai đều qua đời, nhưng linh hồn của hai người yêu nhau cuối cùng vẫn tìm lại nhau dưới tán cây bạch dương xưa. Lúc nghe bài hát này, tôi chợt nghĩ, có thể với chúng tôi nó chỉ là một bài hát cảm động, nhưng với Vi Thỏa, nó còn là một bài hát chất chứa kỉ niệm cùng đồng cảm sâu sắc.

Anh ta thực lòng yêu thương những chiến hữu cũ của mình. Có đôi khi cố chấp không phải là vì một lời thề, nhưng là vì một tình cảm không sao bỏ xuống được. Nỗ lực không phải vì mong được nhận lấy, nhưng là vì muốn thông qua nỗ lực thể hiện tình yêu của mình. Vi Thỏa không phải là một người thổi kèn xuất sắc, ở giữa có nhiều lỗi vấp váp, nhưng hoàn toàn không làm ảnh hưởng tới tâm tình xúc động của những người ngồi đây lắng nghe. Thời gian cứ thế chậm rãi trôi qua, tiếng kèn cũng sắp đi hết bài hát, mà đóa hoa quỳnh duyên dáng yêu kiều kia, đúng như lời Vi Đàm nói, chỉ có thể nở tươi được hơn mười phút. Hoa quỳnh thoáng cái mất đi ánh sáng tinh tuyền rực rỡ của mình, không còn đẹp tới đoạt hồn câu phách, mà dần dần trở nên tàn úa nhạt nhòa. Tiếng kèn armonica cũng ngưng bặt, Vi Thỏa cúi thấp đầu không hề động đậy, dường như còn chìm đắm trong tiếng nhạc và hương hoa thoang thoảng đâu đây.

Chúng tôi cứ thế đợi mãi đợi mãi, rất lâu vẫn không thấy Vi Thỏa nhúc nhích, cảm thấy có vấn đề, liền tiến tới xem sao. Vi Thỏa xoay lưng về phía chúng tôi, trong đêm đen không trông rõ mặt mũi anh ta lúc này, Kỷ Thiên bèn ngồi xổm xuống tỉ mỉ quan sát một chút, bất chợt kinh hoàng hét lên một tiếng, trong mắt tràn đầy ngạc nhiên. Tôi và Bạch Dực chạy tới nhìn, mới thấy trước mặt chúng tôi không còn là Vi Thỏa mà chúng tôi quen thuộc hai ngày nay nữa, mà là một ông lão tóc bạc phơ, vẻ mặt tang thương, đôi môi chuyển màu tím ngắt, trên người lấm tấm thi ban, nhìn là biết chết đã lâu.

Bạch Dực bình tĩnh nói: “Đừng kêu to, đây mới chính là Vi Thỏa đấy. Là Vi Thỏa đã từng tham gia trận chiến Triều Tiên mấy chục năm về trước, rốt cuộc đã có người đến đưa ông ấy đi rồi. Ông ấy đã hoàn thành tâm nguyện của mình.”

Trong lòng tôi đã biết sẽ có chuyện này từ trước, nhưng nhìn tới dáng vẻ tiều tụy của Vi Thỏa lúc này cũng cảm thấy vô cùng đau lòng. Cố gắng nghĩ tới  những chuyện mà mình còn chưa hiểu, tôi quay đầu lại hỏi Bạch Dực: “Sao chúng ta lại theo xe ma mà đến được tận đây?”

Bạch Dực ngồi bệt xuống cỏ, vỗ vỗ chỗ bên cạnh ra hiệu cho tôi cũng ngồi xuống. Kỷ Thiên vẫn còn sợ tới mất hồn bên kia, không còn nghe chúng tôi nói gì.

Bạch Dực xoa xoa trán nói: “Chiều nay tôi đi tìm hiểu lộ trình trước đây của chuyến xe ma này, sau đó làm một chút thủ thuật che mắt ở ngay những trạm xe của nó, nói cách khác là phải làm sao cho tài xế ma kia chạy theo lộ trình của chúng ta. Tài xế chỉ là một hồn ma, hoàn toàn không có khả năng tự nhìn đường mà chỉ chạy theo những tín hiệu có sẵn mà thôi. Thủ thuật này cần tới sự giúp đỡ của Kỷ Thiên, đó chính là những ngọn đèn chong. Đèn chong cần xuất hiện liên tục trước mặt dẫn đường, cho nên tôi mới nhờ Kỷ Thiên chạy trước chúng ta một đoạn, cắm những cây nến trên đường để dẫn lối cho xe chạy.”

Tôi hoàn toàn không ngờ mọi việc chỉ có thế, liền sửng sốt hỏi lại: “Chỉ đơn giản thế thôi ư?”

Bạch Dực nhìn chăm chăm vào chậu hoa quỳnh đã héo tàn mà đáp: “Đúng, chỉ có như vậy. Bởi vì đã có một người nguyện hi sinh cả tính mạng của mình trong đêm nay chỉ để hoàn thành tâm nguyện của một hồn ma rồi.”

Tôi ngơ ngác một chút, rồi lại hỏi tiếp: “Như vậy vì sao anh ta lại trẻ lại?”

Bạch Dực nhìn ánh trăng nhẹ nhàng đáp: “Có rất nhiều, rất nhiều khả năng. Sức mạnh tinh thần của con người rất kinh khủng, nếu đạt tới một trình độ nhất định, có khả năng có thể đem toàn bộ sinh mệnh một đời, thậm chí cả kiếp sau chỉ để dùng vào một việc.”

Tôi không hỏi thêm gì nữa, qua hồi lâu, Bạch Dực đứng lên vươn tay ra cho tôi nắm: “Về thôi, lúc nào rảnh rỗi thử trồng những hạt giống hoa kia xem sao. Xem ra cũng không khó lắm.”

Tôi nhìn lại những cánh hoa héo rũ bên cạnh cái xác khô còng cứng queo mà thở dài một hơi, nắm tay Bạch Dực đứng lên rồi cùng nhau về nhà. Xe cảnh sát đang tới, mà lần này, Vi Thỏa sẽ không còn đi tìm kiếm cái gì nữa.

Ngày hôm sau, tôi ngủ quên dậy muộn, nhưng viện cớ giúp đỡ cảnh sát phá án nên Phan hói không sao nói được câu nào, dù sao hôm qua quả thực có cảnh sát tới xin nghỉ cho chúng tôi thật kia mà! Lão vừa tò mò định hỏi chuyện thì tôi đã lập tức giả ngu bảo mình chỉ là một nhân chứng, làm hết phận sự của công dân mà thôi. Phan hói vừa nghe tới cảnh sát liền ngậm miệng ngay, trong lòng tôi lúc đó sung sướng không sao kể xiết!

Tôi an toàn thoát khỏi phòng làm việc của Phan hói, tâm tình cực kỳ khoái trá, nhưng vừa vào phòng giáo viên thì đã thấy Kỷ Thiên đang ngồi đúng chỗ của tôi nói chuyện với Bạch Dực. Không biết vì sao tự nhiên tôi cảm thấy khó chịu, lạnh lùng bước tới bên cạnh bọn họ nhạt nhẽo hừ một tiếng, bảo Kỷ Thiên xê ra cho tôi chấm bài. Kỷ Thiên thấy tôi, sắc mặt cũng đen đi, nhưng cuối cùng vẫn nói với tôi: “Nói cho cậu biết một chuyện cậu không thể ngờ nổi đâu!”

Tôi chẳng buồn ngẩng đầu lên: “Chuyện gì?”

Anh ta hỏi tiếp: “Còn nhớ Vi Đàm không?”

Tôi ừ một tiếng cụt ngủn.

Anh ta hạ giọng thì thào: “Cô gái có tên Vi Đàm kia, thực ra đã chết từ lúc mới lên mười hai tuổi rồi… Có cả giấy chứng tử đầy đủ kia!”

Đến lúc này tôi mới ngẩng lên, đầu tiên là nhìn Bạch Dực, sau đó mới quay sang Kỷ Thiên: “Cái gì? Chết từ lâu rồi? Vậy cô gái chúng ta đã gặp là ai?”

Anh ta lắc đầu: “Có trời mới biết, còn tôi quyết chí làm theo phương châm của các đàn anh, mấy chuyện này quyết không đi tìm hiểu làm gì cho mệt óc, chỉ tới báo với hai người một tiếng.”

Nói xong liền đứng dậy đi. Tôi chăm chú nhìn Bạch Dực, trong một thoáng, có cái gì như vỡ ra trong đầu. Bạch Dực chỉ im lặng nhìn xa xăm, cuối cùng buông một câu: “Hoa quỳnh bừng nở, chỉ vì Vi Thỏa. Cô ấy cũng chỉ làm việc mà bản thân cô ấy cảm thấy đáng làm mà thôi.”

Khách dưới trăng – Hoàn

_______________________________________________________

Câu chuyện đằng sau chuyện này là một câu chuyện khá điên cuồng, nhưng cũng là lối rẽ quan trọng cho mối quan hệ của hai bạn Bạch – An. Đang suy nghĩ có nên cho Bạch thiếu gia gọi Tiểu An là “em” không?

.

Chương 44: Linh viên (Nhất)

“Yến yến oanh oanh” là cụm từ người Trung Quốc thường dùng để hình dung giọng nói thánh thót ríu rít của các thiếu nữ, thế nhưng nếu cùng lúc có một đám đông các cô gái trẻ tụ lại với nhau cười nói, chắc chắn người ta phải nhăn mặt gọi là “tạp âm”. Lỗ tai tôi tuy đã được nhét kín bằng tai nghe máy nghe nhạc, nhưng vẫn bị các thanh âm lúc cao lúc thấp ấy dội vào đến phát đau. Đột nhiên trong đám thanh âm líu ríu chợt một chất giọng cất cao vút lên, một tiếng hét tông giọng cực cao đủ sức làm rách màng nhĩ người bình thường, tôi nhăn mặt quay hẳn lại nhìn, hóa ra là các cô nàng tụ lại với nhau dưới cuối xe kể chuyện ma, cô bé vừa cao giọng hét lên cũng tự biết mình thất thố, vội che miệng lè lưỡi thấp giọng giục người kể kể tiếp mau.

Tôi dùng ngón tay gõ gõ lên đệm ngồi, nói: “Lục Tử, đừng kể chuyện nhảm nhí nữa đi, các cô bé này đều là học sinh, cậu mà nói bậy là tôi cho cậu xuống xe đi bộ về nhà bây giờ! Thật là, không biết bao nhiêu tuổi rồi mà còn không biết đàng hoàng, cư xử như người lớn xem nào!”

Người đang hăng say kể chuyện không phải ai khác, chính thị là tên khốn vô công rồi nghề Lục Tử. Có thể là do trong xe quá ồn nên Bạch Dực đang ngồi ngủ bên cạnh tôi cũng chậm rãi cựa mình, mắt nhíu nhíu như muốn dậy. Lục Tử nhô đầu lên đáp: “Tớ chỉ đang kể lại những chuyện tụi mình mắt thấy tai nghe thôi mà, chuyện nào cũng có thật trăm phần trăm, nói bậy là nói bậy thế nào được!”

Vừa nhìn thấy tên khốn này ló mặt ra, tôi vội vàng vươn người tới nói nhỏ: “Đừng có cái quỷ gì cũng nói lung tung, nói cho cậu biết, các cô bé này đều là học trò của chị Nguyệt Linh cả đấy, nếu lỡ có chuyện gì không may thì cậu tự mình tới tìm mỹ nhân cao quý kia mà xin lỗi, đừng trông cậy vào tụi này!”

Lục Tử vừa nghe nhắc tới Bạch Nguyệt Linh, cặp mắt lập tức sáng lên như đèn pha, cười hềnh hệch thật bỉ ổi: “Đừng nói nữa mà, tớ thật không biết lão Bạch có một thân nhân xinh đẹp tới mức đó đó nha, mẹ nó chứ, tớ gặp qua không biết bao nhiêu nàng rồi, mà thực chưa có ai đẹp đến được như vậy nha!”

Tôi điên tiết ghì chặt cổ áo của Lục Tử tới gần, xém chút nữa làm hắn té sấp về phía trước mà gầm gừ: “Đừng có mà tìm cách dở trò, ta nói cho mi biết, mi tán tỉnh bao nhiêu cô nàng rồi ta không quan tâm, nhưng mở to mắt ra mà nhìn đi! Đạo hạnh cỡ như mi có khi chỉ bằng cái móng tay của người ta, đừng có mà nhắm mắt nhắm mũi xông bừa vào làm xấu mặt! Huống chi chị ấy là cô họ của Bạch Dực, chúng ta tuy gọi chị ấy là chị, nhưng xét thân phận mi còn phải gọi người ta một tiếng ‘dì’ kia! Chết tiệt nhà mi, chẳng lẽ mi với dì của mình mà cũng sinh nổi tà tâm hả?!”

Lục Tử cười gượng định nói thêm cái gì, chợt Triệu Vân Vân lúc trước gặp phải Tang Hỉ quỷ sát cũng ló mặt lên, hỏi chúng tôi đang nói gì mà lâu thế. Tôi thấy cô bé, cũng không tiện nhe nanh múa vuốt nữa, đành cười hì hì nói: “Không có gì, các bạn kể chuyện tiếp đi.” Sau đó thuận tay vỗ vỗ vai Lục Tử, chỉ có điều vỗ rất thật lực, coi như cho hắn lời cảnh cáo cuối cùng.

Triệu Vân Vân nhìn Bạch Dực đang ngủ gà ngủ gật bên cạnh tôi, sau đó quay sang nói với tôi: “Vậy anh Tiểu An cũng sang đây nói chuyện với tụi em đi, Bạch đại ca hình như ngủ say rồi mà.”

Tôi khoát khoát tay: “Thôi khỏi, xe chạy xóc quá, tôi muốn ngồi chứ không muốn đứng lên đâu. Các bạn cứ nói chuyện đi, chừng nào tới nơi gọi tôi một tiếng, tôi giúp các bạn xách hành lý.”

Triệu Vân Vân nhìn tôi cười cười rồi rụt đầu xuống, những tiếng cười lanh lảnh như băng tan ngọc chạm lại dần dần vang lên. Tôi đang chuẩn bị đeo tai nghe nhắm mắt ngủ một chút, chợt nghe tiếng Bạch Dực vang lên, chẳng biết đã dậy từ bao giờ: “Tới đâu rồi?”

Tôi nhìn ra cảnh vật bên ngoài, phát hiện đã ra khỏi thành phố, xung quanh là những ruộng hoa cải dầu vàng rực, có lẽ sắp qua ngoại thành, đi đến miền quê rồi, bèn đáp: “Còn chưa tới đâu, chắc phải ít lâu nữa.”

Bạch Dực ừm nhẹ một tiếng, hơi vươn thẳng người dậy cầm chai nước khoáng tu một hơi, im lặng ngắm nhìn màu hoa vàng rực ngoài cửa sổ, rồi đưa tay mở cả cửa kính ra. Gió lập tức thổi thốc vào, không lạnh lắm, vừa vặn thổi đi mọi phiền toái ồn ào lúc nãy, còn mang theo một mùi hương cỏ xanh mát dịu. Một hồi lâu mới nghe anh ta nói nhỏ: “Lễ một tháng năm còn phiền cậu đi làm cu li, xin lỗi.”

Tôi biết anh ta đang nhắc tới đợt lưu diễn của đoàn kịch lần này, vốn dĩ khó khăn lắm mới có một kỳ nghỉ dài nhân dịp mùng một tháng năm, tôi định về nhà thăm ba mẹ, nhưng khi tôi chuẩn bị đi mua vé xe lửa thì Bạch Nguyệt Linh đã xuất hiện, nói muốn nhờ chúng tôi theo hỗ trợ đợt lưu diễn của đoàn kịch Lê Viên của chị ấy. Mà chúng tôi một là không biết hát, hai là không biết diễn, vừa nghe là biết ngay đi theo chỉ có làm phu khuân vác.

Bất quá mỹ nhân cao quý vừa mỉm cười một cái, tôi đã theo phản xạ gật đầu, thậm chí còn chẳng kịp suy nghĩ được cái gì. Bạch Dực là vai cháu, đương nhiên không thể chối từ, nhưng chưa hết, Bạch Nguyệt Linh tới tìm chúng tôi cũng thật đúng lúc, nhằm ngày Lục Tử tới nhăm nhe ăn chực. Thế là mọi sự xong xuôi, trong mắt Bạch Nguyệt Linh, Lục Tử là lực lượng lao động bổ sung; còn trong mắt tên ngốc Lục Tử, đây là cơ may chuột sa chĩnh gạo trời cho.

Nói là đi lưu diễn nhưng số người không nhiều, còn chưa bằng một lớp học sinh trường tôi đi tham quan viện bảo tàng, nói thẳng ra là tổng cộng chỉ có bảy tám cô nương. Trong số đó có Triệu Vân Vân đã từng được chúng tôi giúp đỡ lúc trước, cô bé có vẻ là một học sinh được Bạch Nguyệt Linh yêu thích. Huống chi loại trình diễn nhỏ lẻ này cũng chỉ là trình diễn vài trích đoạn ngắn, không cần tập những vở Kinh kịch dài nên cũng không cần nhiều diễn viên. Ngay cả ban nhạc cũng không mang theo, chỉ cần tới nơi trình diễn tập với ban nhạc của sân khấu địa phương vài lần là được. Vì thế chị Bạch Nguyệt Linh đã đến chỗ đó trước để sắp xếp chỗ ăn chỗ nghỉ cho cả đoàn, còn chúng tôi chịu trách nhiệm theo xe hộ tống các cô bé này tới nơi chuẩn bị trình diễn.

Tôi thấy Bạch Dực cũng đã tỉnh, liền tháo tai nghe tò mò hỏi: “Lão Bạch, các cô bé này cũng chỉ mới là học sinh, vậy mà đã đi trình diễn rồi sao?”

Bạch Dực dường như còn chưa tỉnh táo hẳn, lắc lắc đầu mấy cái mới có sức trả lời: “Chị Nguyệt Linh thỉnh thoảng tự mình tổ chức mấy hoạt động trình diễn phục vụ quần chúng, trường học cũng tán thành, thứ nhất là có thể giúp các học sinh tích lũy thêm kinh nghiệm diễn xuất, thứ hai là có thêm một chút thu nhập. Chỉ có điều không phải là sân khấu chuyên nghiệp, toàn là biểu diễn nhỏ, cho nên có lúc chị Nguyệt Linh còn phải tự bỏ tiền túi thuê xe và chỗ trọ nữa.”

Tôi ngẩn ra một chút, thảo nào mà cần đến đó trước chuẩn bị, hóa ra là do chị ấy tự mình tổ chức tất cả, đúng là một giáo viên mẫu mực! Tôi ho khan một chút đầy xấu hổ, trong lòng tự hỏi có nên chọn một ngày nào đó đưa học sinh của mình ra công viên vẽ cây xanh không nhỉ? Bạch Dực thức thời liếc nhìn tôi một cái: “Đừng mơ mộng lung tung, cậu cho Phan hói là ông phỗng đá à? Nhưng dù sao cũng cảm ơn cậu hôm nay nhận lời giúp đỡ, nếu không một mình tôi khiêng đám rương hòm này chắc chết mất.”

Tôi nghe anh ta nói khách sáo, tự nhiên cảm thấy xấu hổ, liền khẽ huých khuỷu tay vào người anh ta một cái bông đùa: “Anh em bạn thân bao lâu nay, anh còn khách sáo như thế làm gì! Huống chi đây có thể coi như một chuyến du lịch không tồi, đúng không?” Tiền bạc không phải lo, hơn nữa còn có một đám thiếu nữ xinh xắn làm bạn, tôi còn tưởng mình vừa lạc vào Đại Quan Viên trong Hồng Lâu Mộng kia.

Bạch Dực cũng lặng lẽ mỉm cười, đột nhiên lại nghĩ ra cái gì, bèn móc một vật từ trong túi áo sơ mi ra nói: “À phải, lúc trước cái bùa hộ mệnh bằng vàng của cậu bị tôi làm hư rồi, tôi đền cho cậu cái này, cầm lấy.”

Tôi cầm lấy nhìn, phát hiện đó là một thứ trông rất kỳ quái, không phải những loại bùa hộ mệnh làm bằng vàng bạc thường bán ở thành phố, mà là một loại hóa thạch nào đó, có hình tròn, ở giữa còn có những đường rạn mảnh, màu vôi xỉn nhàn nhạt, còn có vài chỗ ngả vàng. Bạch Dực đã dùng một sợi dây xuyên qua thành dây đeo. Tôi cầm lấy thứ đó hướng về phía ánh mặt trời nhìn cho kỹ, nhưng vẫn không nhận ra đây là cái gì. Bèn hỏi: “Lão Bạch, thứ này là cái gì vậy? Sao cứ có cảm giác như là một miếng xương thế? Đừng nói là anh kiếm một khúc xương gà về làm bùa hộ mệnh cho tôi đó nha!”

Tôi cũng không nhìn sang Bạch Dực mà chỉ chăm chăm nhìn vào vật nhỏ bé đặt trong tay, chợt nghe Bạch Dực lên tiếng: “Ừ, nó là một miếng xương. Nhưng nó tuyệt đối có công hiệu hơn cái bùa cũ của cậu đấy, mà có lẽ trên thế giới này chỉ có được một mảnh như thế này mà thôi.”

Tôi vừa nghe cục xương này đáng giá như vậy, lập tức dúi nó lại vào tay Bạch Dực: “Thôi đi, đại ca, thứ này quý giá như vậy, tuy cái bùa cũ của tôi bằng vàng nhưng mà e là chẳng đáng gì so với cái này hết, đúng không? Mất rồi thì thôi đi, lần sau để tôi bắt Lục Tử kiếm cho một cái mới, thứ quý giá như vầy anh giữ lại là hơn.”

Anh ta nhìn tôi một lát, rồi cởi sợi dây đeo ra đeo vào cổ cho tôi, sau đó nói: “Cứ mang đi, nói nó đáng giá là vì nó hữu hiệu, chứ thứ này mà đem đi bán thì may ra chỉ có chợ đồng nát nó mua!”

Nghe anh ta nói thế tôi càng thêm tò mò với cái bùa này, liền hỏi: “Vậy đây rốt cuộc là cái gì? Đừng nói là… là… xương người chết đó nha…”

Bạch Dực lắc đầu, đưa sát mặt tới nhìn sâu vào mắt tôi nói: “Không phải xương người chết đâu, tôi còn chưa thiếu đạo đức tới mức đó, cứ yên tâm mà mang, dù sao thì bây giờ nói ra cậu cũng không hiểu. Chỉ có điều sau này tuyệt đối không được cởi nó ra, có đi tắm cũng phải mang nó trên cổ, nói chung cấm không được cởi ra, biết chưa?”

Bạch Dực luôn luôn làm việc rất bí hiểm, nhưng có thể khẳng định một điều là anh ta không bao giờ làm những việc vô ích không đâu. Ở cùng anh ta biết bao lâu, gặp không biết bao nhiêu chuyện quái dị, nhưng trong mắt Bạch Dực mọi thứ đều chuyển động theo một quy luật hết sức rõ ràng và chắc chắn, một người như anh ta, về phương diện tình cảm có thể hơi khô khan, nhưng nếu xét những vấn đề thuộc về phạm trù phân tích và xử lý thông tin thì dám cá đầu óc anh ta hoàn toàn có thể so sánh với một bộ vi xử lý lõi kép hai nhân. Huống chi ngay chính tôi cũng cảm thấy những chuyện quái dị xảy ra bên cạnh mình càng lúc càng nhiều, có cảm giác như một thứ gì đó vừa bị khởi động, một cái bánh xe quan trọng nào đó vừa bắt đầu quay đều. Thế nhưng Bạch Dực không nói gì với tôi, có thể là không muốn tôi sợ hãi, hoặc cũng có thể anh ta cũng như tôi, chỉ có cảm giác mơ hồ thế thôi. Chỉ có là anh ta không làm được như mấy diễn viên nam chính trong phim truyền hình, nói một câu vừa nghiêm túc vừa đáng đánh: “Ta có cảm giác không ổn.” mà thôi. Nhưng nói gì thì nói, trên cổ đeo một mảnh xương vẫn thấy rất kỳ cục, tôi phải đưa tay vuốt vuốt nó mấy lần mới tạm cảm thấy quen.

Tài xế cho xe leo lên đường cao tốc, tốc độ lập tức tăng lên, gió thổi cũng rát hơn. Hai bên đường là những thảm xanh trải dài liên tiếp, chỉ trồng một loại cây duy nhất, trên lá cây phủ bụi trắng xóa, che lấp cả màu xanh nguyên bản. Bạch Dực cho tôi cái bùa hộ mệnh xong, lại ngoẹo đầu chuẩn bị ngủ tiếp. Tôi thay anh ta đóng cửa sổ lại, cũng sửa lại tư thế nằm ra ngủ một lúc, dù sao khi tới nơi đám Lục Tử cũng sẽ biết đường mà hú chúng tôi dậy thôi mà, đến lúc đó còn phải ra sức khiêng đồ, chi bằng lúc này tranh thủ nghỉ ngơi một chút.

Xe khẽ khàng lắc lư qua lại, tôi cũng theo đó mà lúc tỉnh lúc mơ, không biết đã bao lâu, tới khi bị Bạch Dực lay tỉnh, tôi ngồi dậy dụi dụi mắt nhìn ra ngoài cửa sổ thì trời đã sắp về chiều. Xe dừng trước một dãy nhà cổ kính, nhìn dãy phòng trước mặt là biết đã có tuổi, lớp sơn son ngoài cổng lớn đã tróc lở gần hết, nhìn cánh cổng vì thế mà lem nhem nham nhở như một kẻ bị bệnh da liễu. Những lớp sơn mới cũ nguệch ngoạc chồng chất lên nhau cho một cảm giác rất khó chịu. Bốn phía trồng rất nhiều cây cối, xanh tươi um tùm như muốn bao kín cả tòa nhà trong cái bóng âm u của nó, lại thêm sắc trời loang lổ chiều tà càng khiến cho cả tòa kiến trúc mờ nhạt thành một cái bóng xám nhòa nhòa. Tôi vuốt vuốt mặt, Bạch Dực đã bắt đầu cùng mọi người vận chuyển hành lý vào trong, tôi cũng vội vàng tới xách hai cái túi du lịch to theo bọn họ xuống xe.

Bước chân xuống khỏi xe rồi mới có thể ngắm kĩ toàn bộ tòa nhà, có vẻ là một tòa tư gia xưa, không rộng lắm, quy mô cũng không khác mấy với những tòa nhà xung quanh, nhuộm thêm ánh hoàng hôn nhàn nhạt càng thêm có vẻ tiêu điều. Chung quanh đưa tới mùi cơm chiều và mùi bánh trái, mùi thức ăn hòa cùng thứ mùi ẩm mốc đặc trưng của những căn phòng cũ thành một thứ mùi lạ lùng, mang cảm giác ngầy ngậy cực kỳ khó chịu. Bạch Nguyệt Linh đang đứng nói chuyện với một bà lão mặc xường xám bằng lụa màu đen, thấy chúng tôi đã xuống xe liền ngưng lời mà tiến về phía chúng tôi. Chị ấy nói cho chúng tôi biết căn nhà này chính là nơi chúng tôi sẽ nghỉ lại, ở sân sau còn có một khu sân trống để cho các cô bé có thể tập luyện.

Lục Tử nhìn vào căn nhà cũ nát, nhíu mày nói: “Chị Nguyệt Linh, căn nhà này có thể chứa nổi bằng này người không? Tôi cứ tưởng chúng ta sẽ tìm một khách sạn hay quán trọ nào đó chứ?”

Bạch Nguyệt Linh cười tươi: “Đây là chỗ rạp hát giới thiệu, ưu điểm là miễn phí đó. Đừng thấy nó xập xệ như vậy mà coi thường, bên trong thực ra rất rộng, sương phòng ở hai bên đông tây đều rộng rãi, để chị sắp xếp một chút, một phòng ở hai người chắc không vấn đề gì. Ba cậu đều là đàn ông, ở chung một phòng cũng được chứ?”

Lục Tử quay lại nhìn hai chúng tôi: “Ba chúng ta cùng ở một phòng?” sau đó không biết vì sao lại cúi xuống cắn cắn môi lầm bầm gì đó nghe không rõ. Tôi xách hai cái túi đi ngang qua hắn nói: “Chị Nguyệt Linh cứ xem rồi sắp xếp đi, ở chung thì ở chung, nếu bí quá tụi em có thể trải chiếu ra sàn nằm đỡ cũng được mà.”

Bạch Nguyệt Linh thấy chúng tôi không ai phản đối, liền cười cười giới thiệu bà lão đứng sau lưng mình với chúng tôi, bà ta vẫn mỉm cười ôn hòa nhìn chúng tôi tay xách nách mang mà không hề lên tiếng hỏi câu nào, khiến tôi tự nhiên có cảm giác hơi cách biệt. Nhưng dường như đây cũng là hiện tượng chung của những người lớn tuổi mà thôi. Nhìn bà ít nhất phải ngoài bảy mươi, những nếp nhăn như hằn sâu trên gương mặt, nhưng sắc mặt cũng khá tươi tắn hồng hào, cộng thêm cách ăn mặc rất trang nhã, một bộ xường xám lụa màu đen, không đeo thêm trang sức, chỉ cài thêm một cái gài áo hình hồ điệp trước ngực làm bà trông như một quý phu nhân tao nhã của một thời thư hương xưa cũ.

Bạch Nguyệt Linh nói với chúng tôi: “Đây là bà Trương, căn nhà này cũng có thể coi như là của bà ấy, các cậu có cần gì thì cứ hỏi bà, nhớ cẩn thận đừng để hư hao món nào trong nhà, vì ngôi nhà này ngày xưa từng là phủ trạch của một vị quan to thời Quốc dân đảng đấy. Xưa hơn nữa vào thời Đạo Quang[1] đời Thanh nó có tên gọi là ‘Linh viên’, là tài sản của một phú thương buôn bán muối họ Trần, nghe nói ông ta cất tòa nhà này để tặng cho một người thiếp của mình, cho nên bài trí trong nhà rất có giá trị lịch sử đó nha.”

Nghe thế, tôi bèn ngẩng đầu tỉ mỉ quan sát lại tòa nhà một lần, tuy cũ thì rất cũ, nhưng quả thực những chi tiết kiến trúc thì lại rất tinh xảo, trên hoành phảng (cái xà ngang trên cổng hoặc cửa ra vào, cách gọi theo trường phái kiến trúc Huy phái) khắc hình bách tử hi hí (các trẻ em vui đùa), các em bé được điêu khắc rất sinh động, hai bên khuông cửa khắc tích bát tiên mừng thọ, trên vách tường đá xanh cũng khắc những hình hoa cỏ bốn mùa hoặc chim thú, trên những đầu hồi cong vút và những lớp ngói âm dương tỉ mỉ khắc những hoa văn cực kỳ tinh tế, nào là chim sa cá lặn, nào là hoa nhường nguyệt thẹn, lại còn đủ loại thi từ hoa cảnh mà tôi có thể nhớ được tất tất đều tề tựu cả trong một khu đình viện con con, quả thực là điển hình phong cách kiến trúc Huy phái. Giá như được bảo tồn tôn tạo một chút, nhất định ngôi nhà này có thể tỏa sáng toàn bộ vẻ quý phái kiêu sa của một tư dinh sơn son thiếp vàng từ mấy trăm năm trước. Trong nhà, nhiều nhất là hình vẽ hoặc tượng của những mỹ nhân xinh đẹp đủ mọi dáng vẻ phong tư, quả xứng là lầu son gác tía của một mỹ nhân.

Lục Tử không hổ là dân chuyên nghiệp, xem con mắt hắn thì có lẽ đang bắt đầu đi một vòng đánh giá xem trong nhà có đồ cổ nào đáng giá hay không, sờ sờ mấy viên ngói, gõ gõ khung cửa gỗ, trong miệng không ngừng lầm bầm gì đó. Nếu tôi không nhanh tay túm hắn kéo đi thì không chừng hắn còn mê mẩn cả một ngày đêm. Bạch Dực không nói gì, chỉ xắn tay áo vắt đầu công cuộc vận chuyển hành lý rương hòm. Bạch Nguyệt Linh đã mang đám cô nương đi vào phòng từ lúc nào, trong sân chỉ còn chúng tôi và ông tài xế, ông ta cũng là người dễ tính, thấy chúng tôi nhiều đồ đạc liền hào sảng ở lại giúp cả bọn khiêng đồ.

Bạch Dực xách một cái bao bố vĩ đại đi ngang qua người chúng tôi nói: “Dọn mau lên, nhìn sắc trời sợ lát nữa đổ mưa mất.”

Thế là chúng tôi vội vàng khuân hết đống hòm xiểng vào tới đại sảnh. Thực ra hành lý không tính là nặng, ngoại trừ mấy cái rương đựng đạo cụ diễn xuất ra thì còn lại đều là quần áo, chỉ hơi cồng kềnh chứ không nặng lắm. Chỉ cần chuyên tâm một lát là xong ngay. Lục Tử kín đáo dúi cho ông tài xế một bao thuốc nguyên, thanh toán tiền xe rồi tiễn ông ta về.

Đám cô nương dường như rất thích khu nhà cũ này, tốp năm tốp ba cùng nhau đi thăm thú xung quanh. Nhưng ba chúng tôi sau khi làm cu li khiêng đồ xong thì quả thực mệt muốn đứt hơi, không còn sức chạy qua chạy lại nữa, chỉ lê thân vào tới phòng khách rồi liền kiếm chỗ ngồi bệt xuống. Tôi nhìn một vòng quanh phòng, cảm thấy trong này còn lạnh hơn ngoài sân vài phần, nóc nhà rất cao lại còn tối, nhìn không thấy trên rầm nhà có những gì, mà trần nhà cao thế này thực sự cũng không phù hợp treo đèn. Ánh sáng mặt trời lúc này đã chớm tắt, phòng khách càng thêm u ám lạ, dưới rầm nhà dường như có treo một tấm ảnh trắng đen cũ, hình người trong ảnh mờ mờ nhạt nhạt, thậm chí còn không rõ là nam hay nữ. Lục Tử gạt gạt mồ hôi trên trán, nói: “Căn nhà này quả thực đặc sắc, rõ là phong cách điển hình của kiến trúc Huy phái thời cuối đời Thanh, chỗ chúng ta đang ở đây hẳn là phòng khách.” Hắn chỉ vào cánh cửa ba gian nói: “Tuyệt vời chưa, cánh cửa này không ngờ làm bằng gỗ hoàng lê hảo hạng cơ đấy, nếu có cơ hội nhất định tớ phải mang được nó về mới cam lòng.”

Bạch Dực rũ rũ bụi trên cánh tay bổ sung: “Nhưng hai người không thấy có điểm gì kỳ lạ hay sao?”

Lục Tử và tôi đều nhìn quanh quất, nhưng mãi mà không thấy gì bất thường. Cuối cùng, cũng là Lục Tử có kinh nghiệm hơn, phát hiện ra trước, “A!” lên một tiếng rồi nói: “Là bố cục không đúng, vì sao trong phòng không có cái gương nhỉ?”

Lúc này tôi mới sực nhận ra, đúng vậy, trong một căn nhà bày biện theo lối Huy phái có một điểm đặc thù quan trọng, đó là trong phòng khách nhất định phải bày một cái gương, một cái chuông đồng và một bình hoa. Trong những phong cách kiến trúc khác, cái gương và cái chuông là hai thứ cấm kị không nên bày biện trong phòng khách, nhưng với Huy phái thì cách bài trí này có ý nghĩa đặc biệt, hầu như đã là kiến trúc Huy phái là nhất định không thể thiếu. Bởi vì mỗi khi tiếng chuông vang lên, sẽ cùng với cái gương xếp bên trái và bình hoa xếp bên phải nó hình thành một cụm từ có ý nghĩa rất tốt lành: “chung thanh bình kính” (đồng âm với “chung thân bình tĩnh”, có nghĩa là một đời bình yên), dùng để cầu cho gia đình một đời bình an phú quý. Nhà này chỗ nào cũng chiếu theo kiến trúc Huy phái mà xây dựng, lại không phạm phải cấm kị gì về phong thủy, vậy mà tại sao trong phòng khách lại quên không đặt gương nhỉ?

Khi ba chúng tôi còn đang nhìn quanh nhìn quất một cách tò mò như già Lưu ngày nào vừa vào phủ Đại Quan Viên thì Bạch Nguyệt Linh và bà lão lúc nãy đã đẩy cửa bước vào, trong tay bà lão còn bưng theo một khay trà mời chúng tôi uống. Đây cũng là lần đầu tiên nghe bà lên tiếng, giọng nói rất dịu dàng. Chúng tôi nhận ly trà, uống một ngụm, rất ngon, quả nhiên là trà Kim Ngân hảo hạng, có thể thấy bà ta là người rộng rãi lại chí tình. Tôi hỏi: “Chị Nguyệt Linh, hành lý đưa vào nhà hết rồi, còn cái gì cần giúp nữa không?”

Bạch Nguyệt Linh mỉm cười lắc đầu: “Hết rồi, để bà Trương đưa các cậu về phòng đi. Chị còn phải dặn dò các em vài điều trước khi biểu diễn, nên các cậu tắm rửa xong thì cứ ăn cơm trước đi nhé.”

Bạch Dực nhấp thêm một ngụm trà rồi đứng dậy xách hành lý ý bảo chúng tôi cũng nên theo bà Trương đi về phòng là vừa. Bạch Nguyệt Linh vỗ vỗ vai tôi ra ý cảm ơn, tôi khoát tay ý bảo không có gì, rồi vội vàng lật đật chạy theo sau Bạch Dực. Trước khi đi, nhìn ra phía sau, tôi thấy Lục Tử còn có ý muốn quấn lấy Bạch Nguyệt Linh, nhưng tôi cũng mặc kệ không lo lắng lắm. Bạch Nguyệt Linh tuyệt không giống như các cô nàng tầm thường hắn từng quen trước đây, chị ấy dư sức đối phó với con khỉ Lục Tử này. Còn với Lục Tử mà nói, lần này cũng nên cho hắn đạp gai một lần cho nhớ, nghĩ đến đây, tôi cũng thở phù một cái, thản nhiên theo Bạch Dực đi.

Bà lão này già thì có già, nhưng đi đứng lại cực kỳ nhẹ nhàng nhanh nhẹn. Tôi gần như phải chạy theo hai người bọn họ. Vừa đi, bà ta vừa nói: “Ba cậu là đàn ông con trai không tiện ở gần các cô gái, cho nên tôi dọn cho các cậu một căn phòng hơi xa một chút ở mé sau nhé.” Giọng nói của bà rất trầm, nhưng không mang theo sự lạnh lùng xa cách, mà lại có cảm giác thập phần ôn hòa tử tế, chỉ có điều bà mặc một màu đen từ đầu đến chân nên thoạt nhìn có hơi tối tăm mà thôi. Ngoại trừ phòng khách, các gian phòng còn lại đều có bắt đèn điện, nhưng trông vẫn không sáng sủa hơn được chút nào. Tôi cảm thấy có hứng thú với căn nhà tràn đầy hơi thở lịch sử này, liền hỏi bà ta: “Bà Trương, cả căn nhà này là của bà sao ạ? Bà có thể kể cho chúng cháu nghe một chút về lịch sử của nó được không ạ?”

Bà Trương mỉm cười trả lời: “Không phải của tôi đâu, tôi chỉ là người trông coi nó mà thôi. Căn nhà này vốn thuộc về tiểu thư nhà tôi, chỉ có điều tiểu thư đã qua đời từ lâu rồi.”

Tôi hơi giật mình một cái, bà ta lại tiếp: “Tiểu thư nhà tôi là em họ của vị quan thời Quốc dân đảng ấy, cả căn nhà này là tài sản của cô ấy. Nhưng sau này cô ấy nhiễm bệnh… rồi đột ngột qua đời…”

[1] Là niên hiệu vua Tuyên Tông nhà Thanh (1821 – 1850)

.

Chương 45: Linh viên (Nhị)

Cơ mặt tôi giật giật, chẳng lẽ ý bà ta là cái chết của của cô tiểu thư nọ thực ra có nhiều điều uẩn khúc? Hay là bà ta không có chuyện gì làm cố tình kiếm mấy chuyện ma quái làm chúng tôi sợ? Chỉ có điều đối với tôi lúc này mà nói, chuyện cỡ này hoàn toàn không có chút đáng sợ nào nữa, chỉ khiến có phần tò mò mà thôi, dù sao cũng là rảnh rỗi, để thời gian nghe chuyện xưa cũng thú vị. Bà Trương thấy chúng tôi không sợ, liền hăng hái kể tiếp: “Ha ha, dù sao cũng chỉ là một tin đồn mà thôi, nói tiểu thư bị hồn ma người thiếp thời nhà Thanh kia giết chết.”

Quả nhiên… thế nào cũng thành ra thế này mà… nội dung cũ xì. Trong lòng tôi có hơi… thất vọng, nhưng bà lão dường như không hề phát hiện ra, cứ thế kể tiếp: “Người tiểu thiếp kia nghe nói có dung nhan cực kỳ xinh đẹp, vốn được chọn đưa vào cung làm tú nữ, nhưng sau này cảnh nhà suy tàn, đành phải gả cho thương gia buôn muối nọ làm vợ bé, vào nhà rồi lại suốt ngày hục hặc với chính thất. Thương gia kia cũng chiều nàng ta, bèn xây cho nàng ta tòa dinh thự này để một mình nàng ta ở, tránh cho việc ngày ngày va chạm với vợ chính. Nhưng sau này thương gia nọ lại cưới thêm một người vợ bé nữa, mà người mới này còn đẹp hơn, còn trẻ trung hơn người thiếp cũ, cho nên địa vị của nàng ta nhanh chóng bị người mới chiếm mất.”

Tôi dựa trên suy đoán thông thường hỏi tiếp: “Vậy có phải cuối cùng người thiếp đó đau khổ quá đã thắt cổ tự tử trong căn nhà này không?”

Bà lão chợt nở một nụ cười âm u quái dị: “Cậu nhóc này xem nhiều phim truyền hình quá nên bị lậm rồi sao? Làm gì có chuyện dễ dàng thắt cổ tự tử như vậy? Sau này nàng ta bị ghẻ lạnh, nhưng thương gia kia vẫn nhớ tình xưa nghĩa cũ, cho nên cũng cho nàng ta một căn phòng đàng hoàng, hàng tháng cấp bạc cho chi tiêu. Nàng ta có tiền, lại có thời gian, mà lại hận không đủ xinh đẹp để hấp dẫn đàn ông, nên dùng toàn bộ tiền bạc để chăm sóc quần áo trang điểm, cho nên người thương gia kia phát hiện nàng thiếp của mình càng ngày càng đẹp lên, xinh đẹp phong vận hấp dẫn hơn hẳn các thiếu nữ trẻ, cho nên nàng ta một lần nữa chiếm được sự sủng ái của phu quân, thương gia nọ lại càng không tiếc tiền điểm trang cho nàng ta.”

Tôi nhìn sang Bạch Dực, thấy anh ta chỉ điềm tĩnh nghe, không tỏ ra hứng thú cũng chẳng lộ vẻ quan tâm. Vì thế tôi chán nản hỏi: “Một lần nữa chiếm được tình cảm của thương gia kia, vậy chẳng phải là vạn sự thái bình, kết thúc có hậu sao?”

Bà lão cười híp mắt, đưa tay đẩy cánh cửa một gian phòng nhỏ ra mà nói: “Ha ha, mọi chuyện cũng không đơn giản như vậy. Sau nữa, nàng ta không biết gây ra chuyện gì mà làm cho thương gia kia nổi trận lôi đình, bị đánh chết tươi ngay tại chỗ. Lúc nàng ta chết, nghe nói đang mặc một bộ quần áo đỏ rực từ đầu đến chân. Cho nên từ đó về sau trong căn nhà này chưa từng yên tĩnh ngày nào, thường xuyên có người nhìn thấy một cái bóng phụ nữ mặc áo đỏ mang giày đỏ đi lại trong nhà. Thương gia kia có tiền nên thỉnh đạo sĩ về nhà trừ tà, nhưng cũng không được, cho nên cuối cùng đành phải đóng chặt cửa ngôi nhà này lại không cho ai ở nữa. Mãi cho đến lúc tiểu thư nhà tôi dọn vào. Dù sao mấy chuyện này cũng là chuyện xưa mà những người già kể lại, chuyện cụ thể tôi cũng không biết rõ lắm… Được rồi, gian phòng của ba cậu là ở đây nhé, đi thẳng xuống dưới cuối hành lang là nhà vệ sinh, các cậu sắp xếp một chút rồi xuống ăn cơm đi nhé.”

Nói xong bà ta lập tức xoay người bước ra ngoài, không lưu lại nửa tiếng bước chân. Tôi thầm nghĩ bà lão này quả là có hơi kỳ lạ, người khác thường tự hào nhà mình sạch sẽ thoải mái, còn bà ta ngay từ câu đầu tiên lại cố tình kể chuyện ma cho chúng tôi nghe. Bước vào phòng, tôi mới thấy căn phòng này nằm trong góc sâu nhất của dãy phòng phía tây, lúc này mới chỉ hoàng hôn mà trong này không có lấy một tia ánh sáng, ngay cả mọi âm thanh cũng dường như tan biến đi mất. Bạch Dực mở đèn điện mới có thể nhìn rõ quang cảnh bên trong hơn. Căn phòng có thể coi như rộng rãi, trong ngoài kê hai cái giường. Cái giường ở gian trong rõ ràng là lớn hơn, sang trọng hơn, trên đầu giường khắc hoa văn hoa cỏ, vách giường treo một vài xâu tiền cũ dường như để trừ tà, bên cạnh giường có một chiếc bàn trang điểm nhỏ kiểu cũ. Tôi mở thử ngăn kéo ra xem, bên trong chỉ có mấy tờ giấy lộn cùng mạng nhện giăng tứ tung, xem ra đã lâu trong phòng không có hơi người.

Bạch Dực lôi mấy thứ đồ dùng cá nhân ra để lên mặt bàn trang điểm, còn lại để nguyên trong bao. Hiếm khi được ở trong một căn phòng cổ thế này, đáng lẽ tôi phải rất hào hứng mới đúng, nhưng chỉ vì câu chuyện vừa nghe được lúc nãy mà tự nhiên cũng có hơi chột dạ, cuối cùng người thiếp kia là phạm vào tội gì mà lại bị người chống đang sủng ái mình như vậy đánh đến chết? Chẳng lẽ là có tình nhân bên ngoài? Người thời xưa khe khắt nhất là vấn đề trinh tiết của phụ nữ, mà thậm chí cho dù có là thời hiện đại đi nữa đây cũng là chuyện đàn ông khó tha thứ.

Tôi cười nói với Bạch Dực: “Này, anh nghĩ cô vợ bé kia cuối cùng đã làm ra chuyện gì vậy? Chẳng lẽ lại là tương tư một anh kép hát nào đó, hồng hạnh xuất tường sao?”

Bạch Dực khinh bỉ liếc tôi một cái: “Cậu đúng là thừa hơi, có khi chuyện này chỉ là do người ta bịa ra để câu khách thôi. Sau này đừng ăn nói vớ vẩn như vậy nữa.” Anh ta xếp gọn quần áo sạch lên đầu giường, sau đó quay lai nói tiếp: “Đừng suy nghĩ nữa, cái đầu của cậu không thể dùng để lo lắng chuyện khác được sao, sao mà y như con gái, suốt ngày hóng chuyện vậy!”

Tôi vừa nghe tới câu cuối cùng, lập tức lạnh lùng nói: “Anh nói cái gì, có gan nói lại lần nữa xem nào?” Mắng tôi thế nào cũng được, nhưng tuyệt đối không được nói tôi giống con gái, chỉ cần chạm tới điểm này là tôi y như bom đã bị kích nổ vậy. Bạch Dực thấy vẻ mặt nghiêm trọng của tôi, biết đã hơi quá lời, bèn vội vàng dàn hòa: “Rồi rồi, là tôi sai, là tôi ngu dốt không phân biệt được nam nữ, được chưa, thu dọn mau mau rồi đi ăn cơm.”

Chạy qua chạy lại cả ngày, lúc này tôi nhắm chừng bản thân chẳng còn sức lực mà đi ra khỏi căn phòng này nữa, liền xua xua tay: “Anh đi mua cái gì về phòng mình ăn đại đi, tôi không ra ngoài nổi nữa đâu.”

Bạch Dực thực sự cũng không muốn đi ra ngoài, bất quá hai chúng tôi đều đói mềm, nhìn thấy tôi nằm dài trên ghế với tư thế chết sống cũng không chịu nhấc chân lên, anh ta đành thở dài đi mua đồ ăn. Bạch Dực vừa ra khỏi cửa, tôi lập tức cảm thấy hai bên mí mắt mình díp cả lại, xa xa từ đâu không rõ dường như văng vẳng tiếng hát, nhưng nhòe nhoẹt lùng bùng như nghe qua một tầng bông dày, càng có vẻ quái dị thế nào. Tôi bước tới nằm lên chiếc giường lớn, mơ màng nhắm mắt lại.

Bất tri bất giác lại nằm mơ một giấc mơ thật kỳ dị. Bên tai không còn tiếng hát mơ hồ như có như không, mà là một thứ tiếng ù ù rào rạt như tiếng thác đổ. Tôi chậm rãi mở mắt, trong mơ không nhận ra mình đang ở nơi nào, không khí xung quanh âm trầm mà nặng nề. Bước một bước về phía trước, cảnh vật xung quanh lập tức thay đổi, trời đất quay cuồng một trận, tôi nhận ra mình đang ở trong một căn phòng kỳ quái, mọi thứ xung quanh làm bằng đá, còn có một ngọn đèn lạnh như băng và một tên hầu cứng ngắc không có lấy một hơi thở. Tôi lập tức nhận ra đây là một ngôi mộ, tôi… đang ở trong một ngôi mộ? Một cảm giác tịch mịch trống trải tới vô cùng, dường như những ý nghĩ đang quay cuồng trong đầu cũng có thể phát thành tiếng dội vào lòng vách đá thinh lặng tuyệt đối. Tôi quay đầu lại nhìn con đường sau lưng mình, chỉ thấy xung quanh một màu đen tuyền không có lấy một tia ánh sáng, nhưng ngay khi khóe mắt tôi lướt qua thăm chừng động tĩnh chung quanh, chợt phát hiện phía sau tên hầu giả còn có một bóng người đứng đó. Tuy biết rõ đây hoàn toàn không phải là hiện thực, vẫn không thể ngăn mình thôi hoảng sợ, không thể không tự hỏi người này đã đứng sau lưng mình từ bao giờ? Y (Nàng) ta là ai? Sao không hề phát ra nửa tiếng động nào? Tôi nghĩ đây có thể là người đất thường hay được đặt trong các lăng mộ để tống táng theo người chết làm người tiếp đón dưới âm cho linh hồn người đã khuất. Nhưng người đất sao có thể để lung tung thế này được? Cái này không thể gọi là tiếp đón, mà phải gọi là canh chừng mới đúng! Nhưng dù sao tôi cũng không dám bước tới gần xác minh lại, vì nơi này quả thực cho tôi một cảm giác quá sức quỷ dị. Cứ như thể có hàng ngàn hàng ngàn cặp mắt xuyên thấu qua trần nhà, qua vách tường nhìn tôi chằm chằm. Đột nhiên vang lên tiếng cánh cửa đá bị đẩy sang một bên, ngoài cửa truyền tới tiếng người hít thở. Tôi nhẹ nhàng lùi lại một bước, đề phòng nhìn về phía bóng người vẫn đứng im lìm ở góc phòng mà từ từ nhích người về phía cửa.

Thế nhưng khi tôi vừa di chuyển thì khung cảnh xung quanh lại một lần nữa thay đổi, cảm giác choáng váng làm tôi có huyễn tưởng như đang chơi vơi trong những chiều không gian khác nhau, đang khi còn lắc lư thì cả người đã bị đẩy vào một cảnh tượng hết sức quái dị, là một nơi tôi chưa từng nhìn thấy bao giờ, nhưng chẳng hiểu sao lại có cảm giác thân thiết đến kỳ dị. Một đám hình ảnh quay tròn xung quanh tôi như lồng đèn kéo quân, tôi hoa mắt một trận, chân cũng lảo đảo đứng không vững, cả người lập tức ngã nhào xuống đất. Tôi vội vàng quờ quạng muốn ngồi dậy, thấy mọi thứ xung quanh cuối cùng cũng chịu dừng lại, trong lòng không khỏi thầm mắng: Chết tiệt, nếu còn quay quay nữa thì đến phải ói ra mất. Tôi day day trán, định thần lại mới phát hiện đây là một căn phòng, đúng, không còn là huyệt mộ nữa, mà đang nằm trên một cái giường lớn. Khi tôi vừa định đứng lên tìm đường ra cửa, phía sau lưng đột nhiên vươn tới một cánh tay, kéo tuột tôi trở lại.

Tôi ngẩng mặt lên nhìn, không trông rõ gương mặt của người kia, nhưng mái tóc dài thượt, còn dài hơn cả Bạch Nguyệt Linh, chẳng lẽ là một cô gái? Tôi định nhấc người dậy nhìn cho rõ hơn, nhưng không ngờ người trông không rõ mặt mày đó đột nhiên đẩy tôi ngã ra rồi nhanh như chớp khóa chặt lên trên. Tôi sợ tới mức suýt chút nữa cắn nhằm phải đầu lưỡi mình, bất quá lúc này có thể xác nhận rõ người nọ tuyệt đối là một gã đàn ông, phụ nữ không thể có sức lực khủng khiếp đến thế này, trừ phi là vận động viên cử tạ hay nữ siêu nhân. Mà nếu y đã là đàn ông, vậy không cần phải thương hương tiếc ngọc làm gì nữa, có đánh cho sưng mặt cũng không cần áy náy. Nghĩ thế, tôi lập tức nắm chặt tay chuẩn bị cho y một đấm giữa mặt, thế nhưng tốc độ của y còn nhanh hơn, nhanh tới mức làm tôi phải nghi ngờ chẳng lẽ y là bộ đội đặc chủng, y nhẹ nhàng tránh khỏi tay tôi, đồng thời khéo léo ghì chặt cả hai tay tôi xuống phản. Cả hai chân tôi cũng bị ép chặt không thể cục cựa, kỹ năng này nếu không phải được huấn luyện bài bản tuyệt không thể làm được. Trong lòng tôi hốt hoảng nghĩ thầm: tiêu, gặp phải võ lâm cao thủ trong đám lưu manh rồi…

Y cũng hoàn toàn không có ý định muốn tấn công tôi, nhưng một tay nặng nề vuốt dọc lên ngực tôi… Hành động này… Mồ hôi lạnh lập tức túa ra sau lưng, loại hành động này chẳng phải chỉ xuất hiện trong những mối quan hệ nam nữ, tục xưng là “bá vương ngạnh thượng cung” (cưỡng bức) hay sao?! Hay là y chuẩn bị móc đâu đó ra một cái dao sau đó cho tôi vài nhát? Trong hoàn cảnh này, tôi thực sự ao ước đó là khả năng thứ hai… Tôi gian nan nuốt nước miếng, trong lòng suy tính cách thoát thân, nhưng thực ra trong lòng cũng không quá sợ, vởi lý trí cho tôi biết mình chỉ đang nằm mơ mà thôi, dù cho đó là một giấc mơ quái dị, nhưng tôi không khỏi tự hỏi làm thế nào lại mơ thấy mình bị một gã đàn ông khác áp đảo thế này?! Chỉ cần tỉnh lại, chỉ cần tỉnh lại sẽ vô sự – tôi tự an ủi chính mình. Nhưng vấn đề là lúc nào mới tỉnh kìa! Kẻ kia đã to gan tới mức sờ tới mông tôi rồi! Tôi cảm thấy một cảm giác ghê tởm dâng đầy trong miệng mình như vừa phải nuốt cả trăm con ruồi, những nơi bị y sờ tới lập tức nổi da gà da vịt rần rần. Nếu lúc này mà còn không tỉnh lại thì chẳng thà cho tôi chết đi còn hơn! Có thể thấy y đang lầm bầm cái gì đó, tôi muốn nghe cho rõ, nhưng cứ như đang ở trong lòng nước nghe âm thanh dội lại từ trên, thực sự không nghe được cái gì. Y đang nhẹ nhàng… cởi áo của tôi ra, lúc này tôi mới phát hiện mình đang mặc một bộ đồ tang, thứ quần áo mà chỉ có người chết mới mặc. Lẽ nào tôi đã chết? Tôi ngơ ngác nhìn lại cơ thể mình, dường như cũng không giống cơ thể của tôi lắm… rất xa lạ… đây mà lại là tôi sao? Tôi hỗn loạn tới mức không thể suy nghĩ gì thêm, cũng không kịp nhận ra mình đã bị cởi hết, y cũng không khách khí nhoài người tới cắn lên cổ tôi. Cảm giác phẫn nộ trào tới làm cho cả cơ thể phát run, nếu có vũ khí trong tay tôi sẵn sàng giết y chết ngay tại chỗ, sau đó có phải ngồi tù cũng đáng! Cắn răng dồn sức giãy khỏi người y, nhưng người kia cứ như một khối đá nặng trình trịch, không sao nhích nổi một ly. Tôi hoảng hốt cố trấn tĩnh, cuối cùng cũng run lẩy bẩy thốt ra một câu rời rạc không đầu không đuôi: “Đồ… biến thái chết tiệt… ngươi… ngươi là ai…?” Người kia dừng động tác, bàn tay nhẹ nhàng vuốt ve má tôi, đôi mắt dừng lại nhìn tôi thật lâu, không thể trông rõ gương mặt của hắn, nhưng chẳng biết vì sao trong lòng chợt ngập đầy một nỗi bi ai khó hiểu… Khung cảnh chung quanh lại chập chờn chao đảo muốn thay đổi, cuối cùng chỉ nghe y nói như thở dài: “Tứ khổ rơi xuống, cục sắp động rồi…” Tôi còn chưa kịp hiểu y nói gì, thì cả người dường như cũng biến thành khói sương mà tan mất, gương mặt của y cũng nhòe đi trước mắt.

Tôi muốn vươn tay ra nắm lấy, dù không biết mình muốn giữ lại cái gì, thì đột nhiên cảm thấy có người đang nắm lấy tay mình, bàn tay ấm áp, còn có mồ hôi. Tôi mở choàng mắt, rồi đột nhiên kinh hoàng hét to lên, cái mặt của Lục Tử đang kề sát mặt tôi, cười nhăn nhở. Tôi đẩy mạnh hắn ra, gào lên: “Nhãi con, làm gì đó?!”

Hắn ngơ ngác nhìn tôi: “Chết tiệt, tớ thấy cậu nằm mơ rên rỉ cái gì mà biến thái chết tiệt nên mới tới coi cậu bị làm sao thôi mà!”

Tôi bưng chặt trán, mắt trái ẩn ẩn đau đớn, trả lời: “Không sao hết, gặp ác mộng thôi. Lão Bạch chưa về sao?”

Lục Tử tự rót một ly nước oán giận nói: “Còn chưa về đâu. Người anh em, đáng lẽ tớ phải nghe lời cậu từ đầu mới phải, mẹ nó, Bạch Nguyệt Linh thật đúng là biết cách sai phái người khác nha, ông đây một ngụm trà còn chưa được uống, mà nay khiêng rương hòm mai đi giúp bọn họ sửa cái này chỉnh cái kia, còn phải rửa đạo cụ, phát truyền đơn túi bụi cả lên. Mãi mới có một lúc rảnh rỗi, vừa định ngỏ lời cùng các cô ấy ăn tối thì Bạch Nguyệt Linh đã bị một cuộc điện thoại tha đi mất dạng! Ai… quả nhiên đạo hạnh cao cường hơn tớ nhiều…”

Tôi liếc hắn một cái, bước xuống giường định đi rót ly nước uống mới phát hiện hai chân mình vẫn còn run lẩy bẩy, đành ngồi sụp xuống ghế, dùng cả hai bàn tay đè lên đầu gối mình mà trả lời: “Lúc này mới biết à? Cậu cũng phải ngậm chút vị đắng cho biết chứ, bằng không chắc còn tưởng con gái trên đời này đều là ngực bự não rỗng hết!”

“Ngực có bự hay không không quan trọng, nhưng con gái càng cao ngạo càng khiến con trai cảm thấy thêm kích thích, biết không? Nhưng mà thôi, trông sắc mặt cậu trắng bệch như giấy kìa, đi ngủ sớm đi, mà cậu với lão Bạch ngủ cái giường lớn bên trong nhé, để tớ ngủ giường ngoài cho.”

Tôi khoát khoát tay, cầm ly trà lên uống một ngụm, bình ổn lại tinh thần, lại nhớ tới huyệt mộ cùng bóng người bí ẩn kia, càng nghĩ lại càng thấy rờn rợn. Tôi muốn tìm cái gì để tự kéo mình khỏi ám ảnh, nên tìm cách lôi kéo Lục Tử nói chuyện phiếm thêm một lúc. Hồi lâu sau Bạch Dực đẩy cửa và, tay cầm một cái túi nylon lớn. Thấy sắc mặt tôi, anh ta ngẩn ra, rồi hỏi: “Sao sắc mặt tệ quá vậy?”

Tôi vô thức sờ sờ lên mặt: “Chỉ gặp ác mộng thôi, không có gì. Anh mua cái gì vậy?”

Anh ta mở bao, bên trong là mấy hộp mì xào với một vài món ăn khác. Lục Tử không khách khí vớ lấy một cái đùi gà nhai rau ráu, làm tôi đột nhiên liên tưởng tới cái cảnh bị tên biến thái trong mơ cắn vào cổ, lập tức cảm giác chán ăn ùa tới, tôi cau mày quát Lục Tử ăn uống đàng hoàng.

Bạch Dực mở to mắt nhìn sang tôi, tôi xấu hổ nhìn sang chỗ khác, lập cập mở hộp thức ăn cắm cúi ăn. Lục Tử dường như nhớ ra cái gì, đột nhiên lên tiếng: “Phải rồi, lúc nãy khi đang làm cu li cho các cô nàng tớ có nghe tin đồn về cái nhà này, hai người có hứng thú nghe không?”

Tôi cũng cầm lấy một cái đùi gà hỏi: “Nói nghe xem thử nào, có phải cũng là chuyện về cô vợ bé thời nhà Thanh không?”

Lục Tử ngẩn ra một chút rồi lắc đầu: “Không có vợ bé nàng hầu nào cả, chỉ có chuyện cô em họ của vị quan thời Dân quốc thôi.”

Tôi nhìn sang Bạch Dực, không ngờ Lục Tử vừa vặn lại nghe được phần kế tiếp của câu chuyện dở dang ban chiều, liền hăng hái hỏi: “Ồ? Tức là chủ nhân của tòa nhà này ấy à?”

Lục Tử lau miệng, rót một ly nước vừa uống vừa trả lời: “Nghe nói chủ nhân của căn nhà này cũng là một vị mỹ nhân, lúc chiến tranh bộc phát, vùng này bị Nhật xâm chiếm, mà quân Nhật trước khi vào đóng quân đã thả vào vùng này mấy trái bom, cô tiểu thư kia vừa vặn ở ngoài đường, cho nên bị bom tạc nát bấy cả gương mặt, sau đó may mắn giữ được mạng, nhưng gương mặt xinh đẹp thì bị biến dạng thành như ma như quỷ vậy, nghe nói cuối cùng còn bị hủy hôn.”

Tôi tò mò hỏi: “Cũng tức là dung nhan của cô tiểu thư đó từ đó về sau bị hủy hoàn toàn?”

“Không! Không những bị hủy, mà sau này lại trở nên càng lúc càng xinh đẹp!”

Tôi cười nhạt: “Lẽ nào ở thời đại đó mà nước ta còn giỏi hơn ngành giải phẫu thẩm mỹ của Hàn Quốc bây giờ sao?”

Lục Tử có vẻ rất thỏa mãn khi nghe tôi hỏi vậy, hắn gật đầu: “Cái đó thì không biết, nghe đồn cô ta gặp được hồ ly tinh, được nó giúp cho càng ngày càng đẹp ra. Còn có tin đồn cô ta gặp đạo sĩ, được truyền cho phép thuật. Nhưng chuyện kỳ quái nhất lại không nằm ở đó…”

Hắn nhìn chúng tôi đăm đăm một lúc, cuối cùng nhìn sang Bạch Dực: “Hai người không biết sao, ở vùng này có một truyền thuyết, là ở đây từ trăm năm trước đã có hồ ly tinh quậy phá rồi! Cho nên cái thôn này năm xưa có tên gọi là Hồ trấn. Mọi người còn nói, kẻ nào dám bước vào căn nhà này sớm muộn sẽ bị Hồ tiên quyến rũ thành kẻ chết thay hết!”

Hắn uống một ngụm trà rồi cười tiếp lời: “Nhưng cũng không cần lo lắng, đây chỉ là đồn đãi thôi mà, thôn nào trấn nào mà chẳng có vài câu chuyện ma quái bí hiểm chứ!”

Tôi gãi gãi đầu, quay sang nhìn Bạch Dực cười gượng: “Ha ha, tới mới thấy đây quả là một nơi thú vị đấy nhỉ?”

Bạch Dực vẫn nhìn tôi chằm chằm một lúc, cuối cùng lạnh lùng nói: “Đi ngủ sớm một chút, đừng suy nghĩ lung tung nữa!” Nói xong soạn đồ dùng vệ sinh vào phòng tắm. Lục Tử nhìn tôi hỏi: “Anh ấy làm sao vậy? Sao có cảm giác sợ sợ thế nào ấy?”

Tôi lườm hắn một cái: “Cái gì không nên hỏi thì đừng có mà hỏi, không nên nghĩ tới thì đừng có nghĩ! Còn nữa, sống an phận một chút, đừng có hòng nổi tà tâm, nghe đây, đêm nay cấm tìm tới dãy phòng phía đông của mấy cô bé, hiểu chưa? Dám cả gan đến đó thì chuẩn bị tinh thần mà lê lết tàn tật cả đời đi!”

Đêm đó, đúng như lời Bạch Dực dự đoán, trời đổ mưa như trút. Gian nhà xưa không có người sửa sang tôn tạo cũng bị dột lỗ chỗ, ba người chúng tôi thay nhau tìm đủ thứ thau chậu hứng nước mưa, trong phòng tí tách tiếng nước rơi không ngừng. Nằm trên chiếc giường ván cổ xưa, mỗi lần trở mình lại nghe tiếng gỗ kẽo ca kẽo kẹt, cửa sổ cũng không sao đóng kín vào được, thỉnh thoảng giữa đêm khuya thanh vắng lại vang lên một tiếng “rầm” rất to của cánh cửa gỗ bị gió thổi đập vào khung cửa trống hoác. Vì thế cho dẫu mệt đến sắp chết, tôi vẫn không sao chợp mắt nổi, cứ thế mở to mắt nhìn trân trân lên trần nhà. Bên ngoài chỉ nghe tiếng mưa ào ạt không ngớt, tôi nằm đó, lại vẩn vơ nhớ tới ác mộng kỳ lạ lúc nãy. Dường như giấc mộng này muốn cảnh báo điều gì đó cho tôi thì phải… Thứ nhất là nơi chốn trong mộng cực kỳ xa lạ, tôi dám khẳng định mình chưa bao giờ đặt chân tới đó. Thứ hai, kẻ xuất hiện trong mộng là ai, chẳng lẽ y tưởng nhầm tôi là con gái? Không thể nào, trên đời này làm gì có cô gái nào ngực phẳng lì như vầy, nếu thực sự có thì chắc cô gái đó cũng đau khổ đến chết mất? Nếu đã là không hiểu nhầm, vậy cớ gì lại làm thế với tôi? Hơn nữa, đối với y, chẳng hiểu sao tôi lại có một cảm giác căm hận khó giải thích… Thứ ba, vì sao tôi lại ăn mặc quái dị như vậy? Giống hệt như một người đã chết?

Đang lúc não tôi sắp mệt đờ ra, chuẩn bị “tắt nguồn” đi ngủ thì từ sau lưng chợt nghe Bạch Dực thầm thì từ phía sau lưng: “Rốt cuộc có chuyện gì xảy ra với cậu vậy?”

Tôi giật mình vì phát hiện anh ta chưa ngủ, có lẽ là muốn chờ cơ hội hỏi lại giấc mơ lúc nãy, nhưng biết phải giải thích với anh ta làm sao đây? Nói tôi đường đường là đàn ông con trai lại bị một gã đàn ông khác đè xuống trong mơ sao? Chết tiệt, chuyện mất mặt như vậy làm sao có thể nói ra được?! Vì thế tôi chỉ biết ậm ừ: “Không có gì đâu… ác mộng thôi mà… có thể có chuyện gì được kia chứ?”

Bạch Dực không chờ tôi nói hết câu đã mạnh tay kéo cả người tôi xoay lại đối mặt với anh ta, tôi ngạc nhiên nhìn vào mắt anh ta, phát hiện đôi mắt đó dường như tỏa ra một thứ cái nhìn hết sức kỳ lạ, trong phút chốc tôi chợt cảm thấy Bạch Dực lúc này quá xa lạ, không phải là nỗi sợ hãi một thứ hoàn toàn xa lạ, mà là nỗi sợ một thứ mà mình cứ tưởng là đã quen thuộc  từ lâu chợt nhen nhóm trong tôi, Bạch Dực lúc này cho tôi một cảm giác âm u cực kỳ hãi hùng! Tôi bất an nhìn anh ta, bốn mắt cứ thế trừng trừng nhìn nhau hồi lâu, cho tới khi một cơn gió to chợt thổi thốc tới, mở bung cả hai cánh cửa sổ, tiếng mưa gió ào ạt từ ngoài tràn vào, phảng phất như tiếng quỷ khóc thần gào. Tôi giật thót mình, vội ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy ngoài cửa bầu trời đen kịt một mảnh tựa như một cái động sâu không đáy. Tôi trừng trừng nhìn nó hồi lâu mới dần dần lấy lại bình tĩnh, chậm rãi nằm lại, kéo chăn che kín đầu, không buồn nhổm dậy đóng cửa sổ cũng không dám nhìn mặt Bạch Dực nữa, trong lòng chợt âm ỉ oán hận tiếng mưa. Bạch Dực không nói gì thêm, chỉ cảm thấy cơ thể anh ta đang run lên nhè nhẹ, như đang sợ cái gì. Mãi một lúc mới nghe anh ta nói một cách khó khăn: “Nếu có chuyện gì nhất định phải cho tôi biết, tôi đã nhận lời nhất định sẽ bảo vệ cậu!”

Tôi nghe anh ta lải nhải mãi cũng có phần khó chịu, liền mau miệng đáp: “Biết rồi khổ lắm nói mãi, anh đừng lải nhải nữa được không? Tôi không phải con gái liễu yếu đào tơ trói gà không chặt, anh có lòng như vậy thì để dành sau này mà đối đãi với chị dâu tương lai ấy!” Vừa nói chưa hết câu đã lập tức hối hận, nhưng cái cảm giác bực tức vì sự quan tâm thái quá đến gần như canh chừng của Bạch Dực vẫn làm tôi khó chịu không thôi… Đột nhiên tôi chợt nghe tiếng hát mơ hồ từ đâu vẳng lại, phản ứng đầu tiên là tức giận, chẳng hiểu là kẻ nào điên rồ tới nỗi chờ tới nửa đêm ra luyện giọng? Thế nhưng tôi dần dần phát hiện ra, đó không phải là tiếng hát từ bên ngoài… mà là một thứ tiếng động quái dị sinh ra từ ngay trong tai tôi, tiếng động như thể xuyên thẳng qua màng tai mà dội thẳng vào não!

Khi tôi định đưa tay ngoáy ngoáy lỗ tai để nghe rõ hơn, tưởng mình bị viêm tai giữa hay sao đó, thì Bạch Dực chợt thình lình xốc chăn của tôi lên, xoay người một cái khóa chặt trên người tôi! Mọi việc xảy ra quá nhanh, tôi còn chưa kịp phản ứng thì gương mặt Bạch Dực thoáng một cái đã dán sát tới, ánh mắt anh ta làm tôi sởn cả gai ốc. Đôi môi lạnh băng nhanh như chớp đặt lên cổ tôi… không thể gọi là hôn mà phải gọi là cắn mới đúng… Chờ tới lúc hai tay anh ta lần tới định cởi áo tôi thì tôi mới sực tỉnh, vội vã lấy tay ngăn anh ta lại. Bạch Dực thẳng thừng hất tay tôi ra, tôi nổi điên định cho anh ta một đấm, nhưng đôi mắt của anh ta lúc này rất vô hồn, dường như bị thứ gì đó khống chế vậy, tôi do dự nửa buổi vẫn không đành xuống tay, kết quả là chỉ vài giây do dự đã làm bản thân bị rơi vào thế hạ phong, chân tay không sao cục cựa nổi nữa, chỉ còn biết cố hết sức ngăn chặn Bạch Dực, không cho anh ta lấn tới.

Tiếng động quái lạ trong tai tôi lúc này nghe càng thê lương, nghe như tiếng gào thét thảm thiết tê khàn của một người con gái. Tiếng nàng ta càng thê lương, Bạch Dực càng có vẻ điên cuồng hơn, tôi chỉ còn biết mở mắt trừng trừng nhìn anh ta như đang phát điên trên người mình. Đánh anh ư, chúng tôi đến lúc này đã như anh em bằng hữu vào sinh ra tử, hơn nữa anh ta lúc này rõ ràng là bị người ta điều khiển, bản thân anh ta cũng đâu có biết mình đang làm gì, tôi làm sao có thể đành lòng ra tay? Nhưng cũng không thể duy trì cục diện đáng xấu hổ này được nữa… thế nhưng lại không biết chuyện này là do cái gì gây ra… trong đầu tôi lúc này quay mòng mòng, không biết ngoài cách đánh anh ta ngất xỉu thì còn cách gì cứu vãn tình hình được hay không?!

… Đúng rồi, còn Lục Tử! Tôi đột nhiên nhớ ra, trong phòng còn có Lục Tử còn gì? Bị hành động của Bạch Dực dọa sợ tới mức quên mất sự hiện diện của hắn! Tôi định gọi hắn dậy kéo Bạch Dực ra, nhưng vừa chực mở miệng lại lập tức do dư, để Lục Tử nhìn thấy tư thế của chúng tôi lúc này, chẳng biết hắn sẽ còn hiểu lầm tới mức nào nữa! Tên khốn kia giỏi nhất là suy diễn lung tung, sau này làm sao có thể ngày ngày nhìn mặt Bạch Dực được nữa chứ? Xấu hổ chết đi được!

Đang khi còn cân nhắc xem có nên gọi Lục Tử dậy hay không, bất thình lình tôi nhìn thấy bên ngoài cửa sổ có bóng một người con gái mặc áo đỏ rực đứng đó nhìn chúng tôi chằm chằm, ánh mắt lạnh lùng, nhưng ban đêm không đủ ánh sáng, tôi chỉ có thể nhìn thấy một bóng người mờ nhạt.

Chẳng lẽ là do con quỷ này bày trò? Là vong hồn của nàng thiếp kia hay chính là hồ ly tinh?  Giọng hát trong tai chợt yếu đi, sau đó truyền tới tiếng đánh thùng thùng, tôi nhìn lại thì thấy Bạch Dực đang dùng nắm tay tự đánh vào đầu mình, dường như tỉnh ra chút ít, đã khống chế lại được bản thân…?

Tôi vội vàng nắm tay anh ta lại: “Đừng… đừng đánh nữa… anh… anh làm sao vậy…?”

Anh ta khó khăn đáp lại: “Tiếng hát đó… không ổn… Trước tiên, tìm cách… đánh tôi ngất xỉu đi… mau lên…”

Tôi đã sắp bật khóc, nhưng lại không dám làm ồn, chỉ cố hạ thấp giọng nói: “Anh… anh muốn tôi… phải làm sao…?!”

Anh ta  khốn khổ nói: “Cậu nghĩ… tôi có cách tự… tự đánh mình được sao…? Cứ… cứ đánh đại lên đầu tôi ấy… nhanh nhanh lên… nếu không tôi cũng chỉ có nước… xin lỗi cậu…”

Loại đối thoại này nếu đặt trong phim truyền hình nhiều tập thì quả thực nghe muốn nổi da gà, nhưng tôi biết rất rõ, Bạch Dực có thể khống chế đến mức này đã là cực hạn rồi, ngay cả tôi còn phải kính nể nghị lực của anh, vừa định mở miệng khuyên anh ta cố nhịn xuống, thì ánh  mắt tôi lướt qua cửa sổ, phát hiện người con gái kia dường như đang tiến sát tới bên cửa sổ, động tác nhanh tới mức không thể gọi là người mà phải gọi là một con thú mới đúng. Thanh âm thê lương lại bắt đầu vang lên, Bạch Dực đột ngột cúi xuống, môi ép chặt lấy môi tôi,  làm tôi chỉ biết gào khóc trong lòng: Anh quả thực là cầm thú mà!

Tuy Bạch Dực không được tính như thầy trừ tà chuyên nghiệp, nhưng ít nhiều cũng được coi như có bản lĩnh, vì sao lần này lại bị khống chế dễ dàng đến thế? Quả thực kỳ quái, lẽ nào có liên quan gì đó tới “tứ khổ chi cục” nhắc tới trong giấc mơ của tôi sao?

Nhưng nếu anh đã bảo tôi cứ ra tay vậy tôi không cần lo lắng nhiều nhé! Tôi nắm tóc Bạch Dực cố sức kéo anh ta ra, nhưng anh ta chẳng hề có ý dừng lại chút nào, dường như đã mất hẳn cảm giác đau đớn thì phải?! Miệng tôi bị anh ta bưng kín, cũng không thể cắn được, mà anh ta cũng hôn tôi tới mức làm tôi muốn xỉu vì thiếu dưỡng khí rồi, anh ta mà ép thêm chút nữa thì phiền phức là cái chắc! Trong tai không còn nghe ra âm điệu gì nữa, chỉ toàn giọng nữ chói tai gào thét vô nghĩa. Tôi thực sự không còn cách nào, không biết làm gì khác hơn là nắm chặt tay hướng về phía trung khu thần kinh sau gáy Bạch Dực đánh mạnh một cái. Chiêu này có thể làm cho não của người bị đánh bị chấn động tạm thời, mạnh hơn chút nữa là có thể đánh cho người ta ngất xỉu, là một đòn cực kỳ nguy hiểm, ra tay không biết nặng nhẹ có thể làm đối phương bị liệt như chơi. Chính ba tôi đã dạy tôi làm đòn tự vệ trong trường hợp nguy hiểm, nhưng lần này ra tay, người bị đánh là Bạch Dực nhưng cuối cùng vẫn là tôi bị thiệt, vì chỉ nghe anh ta kêu lên một tiếng đau đớn, sau đó cả người đã đờ ra đè thẳng lên người tôi. Qua hai ba giây, tiếng hát trong tai hoàn toàn biến mất, bên cửa sổ cũng đã vắng bóng người, nhưng vẫn văng vẳng nghe tiếng cười hiểm ác của người con gái nọ ở đâu đây. Tôi vội vàng đẩy Bạch Dực ra, anh ta vẫn cứ đờ ra nhìn tôi như bệnh nhân tâm thần, làm tôi hết hồn tưởng mình đã đánh quá mạnh. Tôi lo lắng nhìn anh ta, vài giây sau, thấy anh ta đưa tay sờ sờ lên gáy, đột nhiên lại như sực tỉnh mà chửi thề một câu, nhưng nhìn sang tôi lại phá lên cười. Bạch Dực đứng lên mặc áo, quay lại nhìn tôi thấp giọng nói: “Đòn này hay đấy, nhưng sau này đừng dùng nữa nhé, lỡ như tôi bị cái gì thì hại cậu phải vào tù đấy. Tôi còn có chuyện phải làm, đi ngủ trước đi!”

Tôi nắm tay anh ta kéo lại: “Quay lại đây! Anh đang nghĩ cái gì vậy? Chuyện này rốt cuộc là sao hả?!”

Anh ta quay đầu lại đáp: “Việc này có hơi hỗn loạn một chút, ở yên đây đợi, đừng chạy lung tung!” Sau đó vỗ nhẹ má tôi mấy cái, quay người đi thẳng. Rõ ràng có vẻ rất vui, chí ít là vui hơn tôi!

________________________________________________

Chương 46: Linh viên (Tam)

Tôi không ngăn cản anh ta, mà thực ra cũng không biết phải mở miệng nói gì. Tất cả những chuyện vừa rồi xảy ra quá nhanh, đầu óc tôi lúc này trắng xóa, chẳng suy nghĩ được cái gì cả. Cho đến khi nghe tiếng Bạch Dực đóng cửa lại sau lưng một cái “cạch”, tôi mới sực tỉnh nhận ra anh ta đã đi ra ngoài. Lục Tử vẫn nhắm mắt ngáy khò khò, không biết trời trăng mây gió gì, nhưng cũng may, may mà hắn ngủ như chết, nếu không để hắn nhìn thấy bộ dạng tôi lúc này chẳng biết sẽ bị trêu chọc tới mức nào nữa. Tôi mệt mỏi ngã người xuống gối, trên cổ lộ ra cái bùa Bạch Dực đeo cho ban sáng. Chẳng lẽ căn nhà này thực sự có ma như lời bà lão họ Trương đã nói lúc chiều ư? Người con gái đứng bên cửa sổ ban nãy là nàng thiếp thời nhà Thanh? Nhớ lại… lúc nãy giả như Bạch Dực không tự tỉnh lại thì… chắc tôi cuối cùng cũng sẽ không chống cự được… Tôi vội vàng tự tát mình mấy cái, thầm rủa bản thân không ra gì.

Tiếng mưa rơi bên ngoài càng lúc càng lớn, trong căn phòng vắng lặng ngoại trừ tiếng mưa ầm ù cũng chỉ còn tiếng kéo gỗ của Lục Tử. Gian nhà cũ nát càng lúc càng ẩm thấp, tỏa ra một mùi hôi mốc nghèn nghẹt. Đang khi còn đang suy nghĩ vẩn vơ, đỏ mặt tía tai đầu óc mông lung, chợt bên ngoài vang lên tiếng đập cửa khẩn thiết, ngay cả Lục Tử ngủ như lợn chết mà cũng bị đánh thức. Tôi hấp tấp trở dậy chỉnh lại y phục lộn xộn, mặc thêm áo khoác ra mở cửa, phát hiện ngoài cửa chính là Bạch Nguyệt Linh chỉ mặc mỗi một cái áo ngủ phong phanh đứng đó, mái tóc dài ướt đẫm nước mưa lẫn bùn đất. Tôi vội vã kéo chị vào phòng, Lục Tử vừa nhìn thấy Bạch Nguyệt Linh lúc này đã trợn to mắt há hốc miệng nhìn say đắm, tôi điên tiết tát cho hắn một cú như trời giáng để hắn tỉnh lại, rồi lập tức quay sang hỏi: “Chị Nguyệt Linh, đã khuya thế này, làm sao vậy?”

Nguyệt Linh lo lắng đáp: “Tiểu Nghiên biến mất rồi, nó tự đi đâu đó không rõ nữa!”

Tiểu Nghiên tên thật là Chu Nghiên, là một cô bé rất xinh đẹp. Giữa đám bạn bè xinh tươi như hoa, cô bé vẫn là một nhan sắc nổi bật. Nhưng lại là một cô bé rất nhút nhát, ngại nói ngại cười, lúc nói giọng cũng lí nhí như muỗi kêu, ngay cả Lục Tử cũng chưa nói được với cô bé quá hai câu.

Tôi nhìn sang Lục Tử, thấy hắn cười hề hề nói: “Chị à, có thể nào cô bé đi vệ sinh rồi không?”

Nguyệt Linh lắc đầu: “Không, không phải, nó mặc một bộ quần áo đỏ rực, cả đôi giày cũng đỏ thẫm, cứ như vậy đi thẳng ra ngoài mà…”

Đầu óc vốn đã rất lẫn lộn của tôi nghe đến đây càng thêm mù mịt, càng lúc càng có cảm giác như mình đang ngu đi, chết tiệt, chẳng lẽ mốt mùa xuân năm nay của các cô là y phục cổ trang màu đỏ sao?! Tôi đờ đẫn nhìn chị Nguyệt Linh: “Có thể nào là cô bé tự ra ngoài tập kịch một mình không?”

Nguyệt Linh cả người đang run lên bần bật, tôi bèn cởi áo khoác ngoài khoác lên cho chị, Lục Tử thoáng nhìn thấy dấu hôn đỏ thẫm trên cổ tôi bèn “Oái!” một tiếng, tôi xấu hổ bưng kín cổ áo, tàn bạo nhìn hắn: “Nhìn cái gì hả!” Bạch Nguyệt Linh nắm chặt tà áo, nói một cách âm u: “Thật sự rất quái dị… Tiểu Nghiên không ngủ cùng phòng với chị, nhưng lúc nãy chị đi vệ sinh thì thấy nó mặc một thân đỏ hồng chói lọi đi qua đi lại ngoài sân. Chị tưởng là nó đang luyện tập, bèn gọi nó… nhưng khi nó quay lại nhìn chị thì ánh mắt nó… lạ lắm… cứ như… cứ như ánh mắt của hồ ly tinh vậy… Vì thế chị vội đuổi theo, nhưng ai ngờ từ phía sau lưng có ai đó đột ngột đẩy chị một cái rất mạnh, chị té sấp xuống đất, lúc ngẩng đầu lên thì Tiểu Nghiên đã biến mất rồi.”

Lục Tử vuốt vuốt cổ, tặc lưỡi nói: “Chuyện này hai đứa em đâu có rành, chị hỏi cháu trai chị ấy, có vẻ còn dễ hơn… Mà ủa, Bạch Dực đâu rồi? Còn ngủ sao?” Nói xong nhìn sang tôi một cách mờ ám.

Vừa nghe nhắc tới Bạch Dực là da mặt tôi đã như căng ra, gượng gạo nói: “Anh ấy… đi ra ngoài rồi… đi vệ sinh… Mà thôi thì chúng ta cứ đi xem cô bé đã trở về phòng chưa, có thể là cô bé bị mộng du, lúc này có khi đã về phòng ngủ ngon rồi mà chúng ta không biết đấy.”

Thế là ba người chúng tôi men theo mái hiên đi, không cầm theo dù mà quay lại căn phòng của cô bé Tiểu Nghiên. Gõ mãi gõ mãi mà không thấy ai ra mở cửa, vậy là thực sự cô bé chưa về? Đến lúc này thì cả ba bắt đầu cảm thấy lo lắng thực sự. Bạch Nguyệt Linh muốn chạy đi báo cảnh sát, nhưng tôi kéo chị lại nói: “Chị Nguyệt Linh, lúc này chị có báo cảnh sát cũng không nhận vụ này đâu, Tiểu Nghiên cũng không phải người thiểu năng hay khuyết tật không có năng lực điều khiển hành vi dân sự, nếu chưa quá 24 tiếng thì người ta không coi là mất tích đâu. Em thấy hay là thế này, chúng ta cứ tự đi tìm cái đã, vừa tìm vừa hỏi, để xem cô bé có chạy sang phòng những bạn khác hay không?”

Bạch Nguyệt Linh gật đầu đồng ý, tôi bèn cho Lục Tử theo chị ấy, để bọn họ đi sang các phòng khác hỏi thăm, còn bản thân thì một mình chạy sang khu phòng khách xem thử. Một cô bé không thể đi đâu quá xa trong màn mưa xối xả này, nhưng tôi vẫn không an tâm, vì căn nhà này quả thực không “an toàn”, hơn nữa, theo đúng như lời chị Nguyệt Linh kể, thì kẻ nào đã đứng sau lưng đẩy chị ấy? Tôi chau mày, trong tay không có đèn pin, chỉ có cái điện thoại di động trong túi áo, nhưng ánh sáng của nó thì quả thực có cũng như không, mọi vật xung quanh bị thứ ánh sáng nhàn nhạt này chiếu thành một màu xám ngắt, lạnh lẽo ghê người.

Đại sảnh tĩnh lặng tới mức ngay cả tiếng chuột kêu cũng không nghe thấy, tôi vừa chạy quanh tìm kiếm vừa nhỏ giọng gọi tên Tiểu Nghiên, nhưng vì bản thân cũng rất sợ nên âm thanh phát ra cũng run run. Gọi liền mấy tiếng mà không có ai thưa, tôi bèn im lặng luôn cho đỡ phiền. Qua lại mấy vòng mà một bóng người cũng không thấy, nên tôi chuẩn bị chuyển sang chỗ khác, nhưng khi vừa đi ngang qua phòng khách, chợt từ trên trần nhà rớt xuống một đống gì đó nhằm thẳng vào đầu. Tôi không kịp tránh, chỉ biết theo bản năng đưa tay bắt lấy, cảm giác vừa mềm vừa nhẹ, khi tôi vừa đưa điện thoại chiếu tới xem thì, mẹ ơi, là một đống tóc người!!! Tôi kinh hoàng lật bật ném nó đi, nhưng trong đầu lại sực nhớ ra, Tiểu Nghiên cũng có một mái tóc rất dài, vì thế lại lập tức quỳ rạp xuống lom khom tìm kiếm, nhưng lạ lùng là sờ soạng cả nửa ngày mà chỉ vơ thấy bụi với rác, còn thì không thấy gì nữa. Một đám tóc lớn như vậy, mà ném đi một cái là biến mất ngay sao? Ngay khi tôi còn đang quỳ rạp trên nền nhà sờ soạng lung tung như thầy bói mù, thì khóe mắt chợt liếc sang cái ghế bành rộng dành cho chủ nhân ở giữa nhà… dưới chân ghế là một đôi chân thiếu nữ, trên chân mang hài đỏ tươi, gấu váy dài bằng lụa đỏ thướt tha phủ kín hết cả bàn chân… Một màu đỏ rực rỡ đến chói mắt…

Mồ hôi lạnh trong phút chốc đổ như mưa, tôi cúi đầu không dám nhìn lên trên, cũng không dám nhúc nhích một ly. Mà người con gái mặc váy đỏ mang hài đỏ không biết là người hay quỷ kia cũng vẫn ngồi im không động đậy. Cứ như thế giằng co một lúc, đột nhiên từ dãy nhà sau vang lên một tiếng hét chói tai của con gái, giọng đúng là giọng của cô bé nghe chuyện ma mà hét lên trên xe lúc ban chiều. Tôi hoàn hồn nhìn lại ghế bành thì, bóng người váy đỏ hài đỏ kia đã biến mất! Lòng tôi thầm mắng: Chết tiệt! Đây rốt cuộc là cái chốn quỷ ma nào vậy chứ! Vẫn không tìm lại được đám tóc kinh dị kia, mà lại lo lắng cho các cô bé ở nhà sau, tôi bèn đứng dậy chạy bổ đi.

Vừa đẩy cửa phòng ra thì đã thấy đây chính là phòng của Tiểu Nghiên, lần này cửa không có khóa. Cô bé vừa hét lên nhìn thấy tôi lập tức chạy ùa tới gục vào lòng tôi, cô bé chỉ mặc một cái áo ngủ lụa mỏng tang có dây đeo, cơ thể xinh xắn sau lần áo ngủ nửa kín nửa hở khẽ run lên, tôi thoáng cái cũng bối rối không biết phải nhìn vào đâu chạm vào đâu cho ổn. Dù sao các học sinh mà Bạch Nguyệt Linh mang theo cô bé nào cũng quá xinh xắn đáng yêu, nhưng lúc này cô bé tóc tai bù xù, quần áo xộc xệch mếu máo, ngón tay run run chỉ vào bệ cửa sổ: “Quỷ… có quỷ!!!”

Tôi vội vàng nhìn qua, nhưng không thấy gì bên cửa sổ cả, bèn vỗ vỗ vai cô bé ôn tồn nói: “Không có quỷ mà, có phải em nhìn nhầm rồi không?”

Nhưng cô bé chỉ lắc đầu như trống bỏi, không dám nhìn thẳng lên mà chỉ run rẩy nói: “Có mà, có quỷ đó! Một con nữ quỷ mặc áo đen như than, có quỷ mà! Nó muốn giết em!”

Tôi nghĩ thầm có phải cô bé này đã sợ tới mức thần kinh bấn loạn rồi không nhỉ, nếu là có quỷ thì phải là một con quỷ mặc áo đỏ mới đúng chứ nhỉ? Sao lần này lại là áo đen? Chẳng lẽ con quỷ này muốn trình diễn thời trang cho chúng tôi xem? Hay đây mới chính là kẻ đã bắt Tiểu Nghiên đi? Lúc này Nguyệt Linh và Lục Tử nghe tiếng la cũng ùa tới, cô bé vừa nhìn thấy Nguyệt Linh thì lập tức bỏ tôi lại mà chạy ùa tới bên cô giáo. Tôi nhìn hai bàn tay trống trơn run lẩy bẩy của mình, cảm thấy có hơi hụt hẫng, rồi vụng về đút tay vào túi áo. Lục Tử quẳng cho tôi cái áo khoác, hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy?”

Tôi lắc đầu: “Cô bé này bảo là có quỷ, mà bạn cùng phòng của cô ta cũng không thấy đâu.”

Bạch Nguyệt Linh nhìn cảnh tượng trước mắt cũng bần thần cả người, tôi mặc thêm áo khoác vào rồi nói: “Thôi thế này, tất cả mọi người tụ tập lại một chỗ đi, không nên đi lung tung nữa, chị Nguyệt Linh, vậy còn bà Trương kia đâu? Có ở ngay đây không?”

Lục Tử xen vào: “Đừng nhắc tới bà ta nữa, thật chẳng hiểu ra làm sao cả, phòng bà ta khóa trái, mà tớ cảm thấy trong phòng dường như cũng không có ai cả!”

Tôi nghe thế liền cau mày, sau đó đem những chuyện đã nhìn thấy ngoài đại sảnh kể lại cho họ nghe, các cô gái vừa nghe vừa run người, tôi cũng hiểu không nên kể thêm nữa, liền bảo tất cả mọi người tập trung lại trong một phòng. Vẻ mặt tất cả mọi người đều hoang mang sợ sệt. Tôi không dám nói thêm nhiều, sợ mọi người càng nghe càng sợ, mà con người nếu sợ quá không khống chế được bản thân có thể điên lên lao bừa ra ngoài, đến lúc đó càng khó tập trung lại. Huống hồ lúc này đã thiếu một người… Chợt tôi sực nhận ra một việc, cả người dường như trong nháy mắt bị dầm trong một hồ băng buốt giá, cả người tôi run lên, nắm chặt tay Lục Tử mà lắc: “Còn… Bạch Dực… Cậu có thấy Bạch Dực đâu không?! Có thấy anh ấy đâu không hả???”

Lục Tử cũng bị tôi dọa thất thần, mặt thoáng chốc trắng bệch đi, lắc lắc đầu: “Không… chẳng phải cậu nói lão Bạch đi vệ sinh sao…? Chẳng lẽ anh ấy chưa về…?”

Tôi đau khổ chỉ muốn tự cho mình một đấm, nhưng lại không dám nói thật với bọn họ. Lúc này trong đám con gái đã có mấy cô bé bật khóc nức lên, có người bảo nhìn thấy yêu quái, có người kể nhìn thấy ma ngồi bên đầu giường trừng trừng nhìn mình, còn có người bảo nhìn thấy bóng ma thắt cổ trắng toát đung đưa trên xà nhà giữa phòng, ánh mắt ai nấy đều như dại đi, tràn ngập kinh hoàng lẫn bất an.

Nguyệt Linh cố gắng trấn an các cô bé, nhưng vô ích, cứ như một cơn đại dịch, các cô đều lần lượt rơi vào hoảng loạn, có mấy cô còn ôm chặt nhau cùng gào khóc nức nở. Tiếng khóc của bọn họ làm tôi căng thẳng, nhớ tới tiếng khóc la của người con gái đã nghe thấy trên giường, lúc này lại nghe thấy, càng khiến tâm lý tôi lâm vào bất ổn. Nguyệt Linh quay lại bất lực nhìn chúng tôi: “Kinh khủng quá. Gần như ai cũng nhìn thấy mấy thứ ma quỷ kinh dị này nọ, có người còn nằm mơ thấy ác mộng nữa chứ! Chẳng biết rốt cuộc là chuyện gì đã xảy ra? Còn Bạch Dực nữa, nó đi đâu rồi không biết?”

Vừa nghe đến hai chữ “ác mộng”, tôi liền nhớ đến giấc mơ quái dị của mình, cùng với chuyện hoang đường xảy ra sau đó với Bạch Dực. Hoàn cảnh hiện tại thực sự làm tôi muốn tuyệt vọng, nhưng ở đây chỉ có tôi và Lục Tử là đàn ông, lẽ nào có thể để bản thân mình rơi vào hoang mang lo sợ như các cô bé ở đây được? Tôi cố vắt óc suy nghĩ, mà nói là suy nghĩ chứ thực ra là đờ người ra một lúc, cuối cùng quay lại nói với Bạch Nguyệt Linh: “Bạch Dực tự mình ra ngoài, lúc này em cũng không biết vì sao anh ấy chưa trở về, thôi thì thế này, để Lục Tử ở lại trông coi mọi người, em… em ra ngoài lần nữa tìm hai người kia…”

Bạch Nguyệt Linh lập tức lắc đầu: “Không được không được, nếu lỡ như cả cậu cũng không thấy về thì biết phải làm sao? Bằng không để chị đi với cậu, chị là giáo viên, lại cũng là người thân của Bạch Dực, chị có trách nhiệm.”

Tôi không muốn cả Bạch Nguyệt Linh cũng gặp nguy hiểm, nhưng lúc này tìm không ra hai người kia tôi quả thực không thể ngồi yên, bèn nhìn sang Lục Tử căn dặn: “Lục Tử, cậu trông coi các cô bé cho tốt, tôi và chị Nguyệt Linh đi tìm hai người còn lại, cậu phải cam đoan bảo vệ các cô bé không để lạc thêm bất kỳ ai nữa hiểu không, là anh em thì hứa với tôi đi!”

Hiếm có khi nào trông Lục Tử lại nghiêm túc như lúc này, hắn móc khối cổ ngọc đeo trong người ra đưa cho tôi: “Cầm lấy, cái này có khả năng trừ tà rất tốt, tớ hứa với cậu, có chết cũng không để các cô bé ở đây gặp phải bất kỳ nguy hiểm gì!”

Tôi lắc lắc đầu: “Cậu cứ cầm đi, căn nhà cổ này chỗ nào cũng ma quái, tất cả các cô bé ở đây đều cần cậu trông nom, không thể để xảy ra bất kỳ sơ suất gì, hai chúng tôi sẽ tìm khắp một vòng, nếu tìm không được thì chúng ta thoát ra báo cảnh sát, nói chung mặc kệ là có chuyện gì, chỉ cần nhất quyết không để thiếu thêm ai nữa là tốt rồi!”

Bạch Nguyệt Linh cũng gật đầu dặn dò vài câu rồi cùng tôi ra khỏi phòng. Bên ngoài trời vẫn mưa xối xả, hơn nữa trời lại tối tới mức giơ bàn tay lên không nhìn thấy ngón, chúng tôi chỉ biết tìm loanh quanh từng chỗ từng chỗ một. Tôi lại không dám để Bạch Nguyệt Linh đi một mình, nên chúng tôi di chuyển rất chậm, tới mức chúng tôi phải lao ra giữa sân hét gọi to tới khan cả cổ, nhưng chỉ nghe tiếng bản thân mình vang vọng lại từ bốn bức tường, ngoài ra không còn giọng của bất kỳ ai khác. Tôi quay lại nói với Bạch Nguyệt Linh: “Cách này không được rồi, gọi to như thế mà không có ai đáp lại, chắc là không có ở đây thật. Vầy đi, trước tiên vào đại sảnh tìm một lần, sau đó lần lượt vào từng phòng kiểm tra một cái. Dù sao trời cũng sắp sáng, đến lúc đó chắc an toàn hơn.”

Tôi đợi mãi, nhưng không nghe chị Nguyệt Linh trả lời, bèn quay đầu lại nhìn, phát hiện đứng bên cạnh mình hoàn toàn không còn là Bạch Nguyệt Linh nữa, mà là một phụ nữ mặc quần áo đời nhà Thanh, cô ta rất đẹp, nhưng gương mặt trắng bệch như thạch cao, hốc mắt lại tối ngòm ngòm, trên cổ có một dấu dây siết bầm tím, mặc áo ngoài đỏ rực đứng nhìn tôi trân trân. Tôi kinh hoàng thét to một tiếng, chưa kịp làm gì thì người phụ nữ nọ đã dợm chạy về phía tôi, mà tôi làm sao dám dừng lại chờ, chỉ biết lật đật sấp ngửa bỏ chạy thục mạng.

Chạy hồi lâu, tôi đẩy mạnh một cánh cửa lớn ngã thẳng vào, mới phát hiện đây chính là gian phòng ngủ của mình, lúc này toàn thân tôi đã ướt đẫm, lạnh buốt tới mức hàm răng đánh vào nhau lập cập. Tôi vội vã chạy thẳng vào trong, bên trong phòng vẫn y nguyên như  lúc chúng tôi ra ngoài, trên bàn còn dính vụn mì xào. Lúc này bình tĩnh lại được một chút, tôi mới sực tỉnh nhận ra là Bạch Nguyệt Linh cũng đã mất tích, lúc này coi như chỉ còn một mình tôi chiến đấu, vốn tưởng muốn đi tìm người, ai ngờ tìm không được lại còn mất thêm một người… Tôi mệt mỏi đưa tay cào cào tóc để rũ hết nước mưa khỏi đầu, cố gắng sắp xếp lại mọi việc theo trình tự, sau đó cố suy nghĩ xem vì sao mọi chuyện lại ra nông nỗi này. Nhưng càng nghĩ càng thấy rối, hoàn toàn không thấy tia sáng cuối đường hầm.

Tôi gõ gõ trán, chuyện này ngay từ đầu đã vô cùng lộn xộn, hoàn toàn không thể dự đoán nổi, mọi người dường như đều bị lên cơn, ngay cả Bạch Dực cũng như phát điên.. không, chuyện nay hoàn toàn không đơn giản chút nào. Tôi nuốt nuốt nước miếng, nghĩ tới nhóm Lục Tử, không biết Bạch Nguyệt Linh có khi nào đã tìm về lại đó rồi hay không? Nghĩ thế, tôi liền rời khỏi phòng mình, tìm lại căn phòng nơi mọi người tập trung lúc nãy.

Tôi vừa băng qua hành lang vừa cảnh giác nhìn chằm chằm xung quanh, chỉ sợ có gì đó biến hóa trước mặt, nhưng hoàn toàn không có chuyện gì lạ xảy ra cả, tôi nhanh chóng tìm về được căn phòng cũ, gõ cửa mong chờ Lục Tử xuất hiện, nhưng lạ thay, chẳng có ai ra mở cửa cả! Lúc này thần kinh tôi đã căng tới mức cũng sắp suy sụp, không còn lo lắng được nhiều nữa bèn dùng vai đẩy mạnh cửa, may mà cửa gỗ kiểu xưa không còn chắc mấy, vừa chạm vào là bung ra ngay, làm cả người tôi cũng mất đà té sấp xuống sàn, xém chút nữa là đập đầu xuống đất.

Tôi quỳ rạp trên mặt đất ngẩng mặt lên nhìn, không nhìn thấy đám người Lục Tử. Lúc này mới nhận ra căn phòng này hoàn toàn không phải là phòng của bọn họ, nhưng tôi rõ ràng đã đi đúng đường kia mà, vậy đây là đâu?! Tôi thử đứng lên, nhưng chưa kịp đứng vững thì lại té sấp xuống đất. Nhờ khoảng thời gian dài tìm kiếm trong đêm mà lúc này mắt tôi gần như đã quen với bóng tối hoàn toàn, dù trong phòng không có đèn đóm gì, nhưng tôi có thể nương theo những tia sáng mờ nhạt hắt vào mà nhìn thấy những đường viền lờ mờ của đồ vật bên trong. Phòng này thực sự không phải căn phòng mà cả đám đã tập trung lại lúc nãy, có cảm giác như thư phòng hay đại loại như thế. Tôi vận hết sức đứng lên, nhưng căn phòng bé tối om om này lại chất quá nhiều đồ đạc, vừa đứng thẳng người thì đầu gối đã đụng phải một thứ gì như cái rương vậy, tôi vội vàng đưa tay sờ thử, hóa ra đây là căn phòng ở dãy nhà ngang mà chúng tôi để đạo cụ diễn xuất ban chiều. Lẽ nào tôi chạy ngược đường? nghĩ tới đây, tôi liền ngồi hẳn xuống, không đi lung tung nữa mà bắt đầu tập trung suy nghĩ.

Dựa theo logic mà nói thì chuyện chúng tôi gặp phải từ tối tới giờ hoàn toàn không đi theo bất kỳ một lý lẽ nào cả, nói cách khác dường như chúng tôi vừa lọt vào một vòng xoáy chết luẩn quẩn, tôi soát lại một lần mọi chuyện xảy ra kể từ lúc đặt chân vào căn nhà này, nhưng hoàn toàn không thấy có gì khác thường, chỉ duy nhất có bà lão mặc sườn xám kia là có hơi quái dị, nhưng cảm giác bà ấy đem lại cho chúng tôi là cảm giác hiền hòa ôn nhu, đâu có giống như ma quỷ yêu quái gì, như vậy nếu bà ấy đã là người, thì chỉ còn lại hai khả năng: một là có sự tồn tại của một con quỷ khác, hai là có ai đó giả ma giả quỷ dọa người, tuy nhiên, có thể làm giống y như thật đến mức này thì phải gọi là sư phụ.

Tính tới tính lui, chỉ còn cách nghi ngờ bà lão kia. Đặt giả thiết thực sự là do bà ta làm, vậy mục đích của bà ta là gì? Viêc bà ta cố ý tiết lộ quá khứ của ngôi nhà này cho chúng tôi có ý nghĩa đặc biệt gì không? Câu chuyện cũng không hoàn chỉnh lắm, trên căn bản là còn thua xa những câu chuyện ma ghê rợn trong các trường học. Nhưng chỉ vì vậy mà chúng tôi bắt đầu sinh ra những hành động quái dị, như cơn ác mộng của tôi, như thái độ bất bình thường của lão Bạch chẳng hạn. Nhân phẩm của Bạch Dực tôi hiểu rất rõ, tuyệt đối không phải là loại người làm những chuyện kỳ quái như vậy, bằng không làm sao tôi còn có thể an bình tới giờ này? Đó là chuyện đáng ngờ thứ nhất, tiếp theo là chuyện tất cả moi người đều nhìn thấy quỷ, mà lại không phải chỉ có một con quỷ. Những người mất tích không biết có nhìn thấy gì không, nhưng nếu theo như lời Nguyệt Linh nói thì cô bé Tiểu Nghiên là tự động chạy ra ngoài. Vì sao? Cả Bạch Dực cũng tự ý rời khỏi phòng. Mà nếu nhìn từ một góc độ khác thì tôi cũng là tự mình chạy ra ngoài, dưới con mắt của những người còn lại, tôi lúc này cũng đã trở thành một người mất tích.

Lúc này ngạc nhiên nhất là tôi hoàn toàn không còn cảm giác sợ hãi nữa, mà đầu óc càng lúc càng sáng suốt hơn, nếu giả thiết trên không sai, vậy những người kia chắc hẳn cũng giống như tôi mà thôi, chỉ là bị vây trong một căn phòng trống đâu đó trong căn nhà chằng chịt này. Đã là như vậy thì cứ bình tĩnh mà chờ, không nên đi lại lung tung nữa, cứ chờ tới hừng đông, chỉ cần trời sáng thì mọi mưu ma chước quỷ xảo thuật che mắt cũng sẽ tự động mất tác dụng.

Tôi cố gắng ngăn mình không suy nghĩ vẩn vơ nữa mà dựa thẳng vào cái rương, ngồi nhắm mắt nghỉ ngơi. Nhắm mắt lại rồi có cảm giác lỗ tai cũng thính hẳn lên. Bà nội từng nói với tôi, năm giác quan có liên quan với nhau, mà điều khiển chúng lại chính là tâm, hiện tại tôi đem toàn bộ cảm giác của mình đặt lên thính giá, nên có thể nghe thấy rất nhiều âm thanh mà bình thường không nghe thấy. Ngoài gian phòng mưa vẫn trút ào ạt, nhưng giữa tiếng mưa ồn ã không ngớt còn loáng thoáng nghe thấy những âm thanh khác, có tiếng như ai đó thở dài, cùng tiếng bước chân rất nhẹ.

Những tiếng động ấy rất nhạt, nhưng lại lần chần không dứt hồi lâu. Tôi tập trung lắng nghe tới mức nhăn cả mặt lại, nhưng thanh âm ấy vẫn cứ chơi vơi thế nào. Cuối cùng, có cảm giác trời đã ngớt mưa, một lúc sau, tiếng gà gáy chính thức đánh vỡ sự thinh lặng chết chóc đầy bất an trong gian nhà. Tôi chậm rãi mở mắt ra, cảnh vật xung quanh đã sáng lên trong ánh bình minh đầu ngày. Cả đêm bao trong mớ quần áo ướt sũng, nên lúc này cả người tôi lạnh toát mà nặng như chì, cổ họng đau như bị lửa đốt. Tôi ho khan mấy tiếng, lúc đứng lên cả người lập tức loạng choạng như muốn té, chỉ có cách chống tay vào tường lần từng bước ra ngoài sân. Vừa bước ra ngoài, đã phát hiện Bạch Nguyệt Linh ngã sóng soài ngoài góc vườn, nhìn còn thê thảm hơn tôi gấp mấy lần, tôi vội vã chạy tới nâng chị dậy, phát hiện trán chị nóng hầm hập. Lại vội vã day day huyệt Nhân trung cho chị, mới thấy Nguyệt Linh vì đau mà từ từ mở mắt, vừa tỉnh dậy đã hét toáng lên: “Có ma! Nhà này có ma!!!”

Tôi cố sức giữ chặt chị lại, cảm giác có được lúc này khi nghe thấy hai chữ “có ma” không phải là sợ hãi, mà là tức giận tới cực độ. Tôi hỏi: “Có chuyện gì xảy ra vậy? Chẳng lẽ chị đã nằm đây cả đêm sao?!”

Nhưng chị ấy dường như không còn khả năng nói chuyện nữa, tôi thấy chị sắp ngất xỉu tới nơi, liền vừa kéo vừa dìu chị về căn phòng chung. Vừa bước vào phòng đã thấy tất cả mọi người đều ngồi đó, mắt ai cũng đỏ ngầu, thấy Nguyệt Linh như vậy, các cô bé vội ùa tới chăm sóc. Lục Tử nhìn tôi nói: “Chết tiệt, đây là đêm kinh khủng nhất đời tớ! Cái nhà này tuyệt đối có vấn đề, nếu không làm sao chỉ trong một đêm mà các cô ấy đem toàn bộ phim kinh dị coi được từ trước tới giờ ra thấy hết một lần như vậy! Tớ cứ như bị xích cùng với một đám người điên ấy!” Nói xong hắn giơ cánh tay lên cho tôi xem, trên tay có mấy vết rướm máu, sau đó nói với tôi bằng giọng đầy oán thán: “Các cô nàng này xem tớ như cái bao cát để luyện võ không bằng, cứ hễ nhìn thấy bất kỳ cái gì là bắt đầu xông tới vừa đánh vừa cào tớ túi bụi! Nếu cậu không trở về thì dám tớ bị đánh chết tươi mất!”

Tôi vỗ vỗ vai hắn an ủi: “Không sao! Để khi nào về rồi tôi nhất định bắt các cô bé này mỗi người xướng cho cậu nghe một khúc, mà nếu không được thì cùng lắm… tớ hát cho cậu nghe một bài anh hùng ca, hả!”

Hắn tàn bạo lườm tôi một cái, sau đó làm bộ làm tịch vuốt vuốt cánh tay mình. Tôi lại vỗ vỗ vai hắn, chứ thực ra lúc này tôi cũng sắp xỉu tới nơi rồi, đừng nói là hát, chỉ hừ hừ mấy cái tôi còn phải gắng hết sức nữa là.

Trời đã sáng hẳn. Bạch Nguyệt Linh cũng từ từ tỉnh lại, câu đầu tiên là hỏi tôi đã tìm được người chưa. Tôi điểm danh lại một lượt, người mất tích vẫn hoàn mất tích, nhưng cũng may là không còn ai biến mất nữa. Lúc này đúng là chỉ còn nước báo cảnh sát, các cô bé vừa nhìn thấy trời đã sáng, lập tức nhấp nhổm muốn bỏ căn nhà quái dị này. Tôi thấy các cô bé cũng như sắp phát điên hết cả, liền đập đập vai Lục Tử nói: “Sự tình lúc này có vẻ không ổn rồi, cậu nghĩ cách an bài cho các cô bé này với chị Nguyệt Linh nhé, tôi quay vào tìm lần nữa, nếu như tìm vẫn không được thì cho dù chưa đủ 24 tiếng cũng cứ báo cảnh sát.”

Nói xong tôi yêu cầu mọi người thu dọn đồ đạc, Bạch Nguyệt Linh vừa làm vừa nói với tôi: “Để Lục Tử lại giúp cậu đi, một mình chị ở đây cũng được.”

Tôi đáp: “Chị hai ơi là chị hai, chị cũng đừng làm mọi người lo lắng nữa, lúc nãy có chị cùng đi lại hóa thành thế này còn gì. Chị cứ yên tâm đi, lúc này trời sáng rồi kia mà, em nghĩ sẽ tìm được thôi, dù sao em vẫn nghĩ họ còn kẹt trong nhà.”

Bạch Nguyệt Linh trầm ngâm một chút, dường như nhớ ra cái gì, lập tức nói: “Phải rồi, lúc đó khi hai chúng ta loanh quanh ngoài sân ấy, cậu tự nhiên trông như phát rồ lên, chị ngăn không được, mà cậu còn hét tướng lên là ‘Có quỷ, có quỷ’ nữa chứ! Lúc đó sau lưng cậu tự nhiên chị cảm thấy có một bóng con gái mang giày màu đỏ nha…”

Chết tiệt! Lẽ nào… Tôi hấp tấp hỏi: “Sau đó, sau đó thì thế nào ạ?!”

______________________________________________

Chương 47: Linh viên (Tứ)

Bạch Nguyệt Linh suy nghĩ một chút rồi nói: “…Trông cậu lúc đó cũng kỳ quặc lắm, không bình thường như lúc này…”

Tôi ngờ nghệch nhìn chị hồi lâu, đột nhiên nghĩ ra một việc, vội vàng kéo Lục Tử lại khẩn thiết nói: “Người anh em, cậu giúp tôi một việc với, mau mau đi hỏi thăm lai lịch của bà lão kia, xem bà ta có phải là người từ nơi khác đến đây không! Biết rồi thì lập tức gọi điện thoại cho tôi biết nhé!”

Tôi lại nhìn sang Bạch Nguyệt Linh, cuối cùng cũng có cảm giác như mọi chuyện dần dần sáng tỏ hơn, tuy nhiên vẫn cần phải chứng minh lại. Tôi có hơi kích động quay sang Bạch Nguyệt Linh nói: “Chị Nguyệt Linh, chị mang các cô bé tới chỗ khác ở tạm đi. Nếu em không nhầm thì chỉ cần rời khỏi chỗ này là mọi người an toàn ngay.”

Bạch Nguyệt Linh vẫn áy náy lo lắng cho Bạch Dực và Tiểu Nghiên, lòng tôi cũng sốt ruột không kém, nhưng lúc này có gấp cũng không làm được chuyện gì, chi bằng trước tiên đi kiểm tra lại giả thiết vừa nảy ra trong đầu cái đã. Tôi vỗ vỗ nhẹ vai chị: “Chị yên tâm đi, em sẽ tìm được bọn họ.”

Vì thế mọi người chạy như chạy giặc ra khỏi nhà, cuối cùng chỉ còn một mình tôi ở lại. Kỳ thực tôi cũng không biết làm thế này có đúng không, nhưng chỉ cần mọi người rời khỏi đây an toàn, thì tôi cũng sẽ không còn phải lo lắng vướng bận cho ai khác nữa. Trong lòng tôi lúc này cực kỳ bình tĩnh, hay phải nói đúng hơn, là tức giận tới cực điểm.

Hiệu suất làm việc của Lục Tử quả nhiên cao cường, chỉ một chút đã nhắn lại cho tôi. Tôi quay lại gian phòng đêm qua đã ngủ, lấy giấy bút ra ghi chép lại những thông tin đến trong tin nhắn của hắn, phát hiện ra căn nhà này có mấy điểm quan trọng sau: thứ nhất là chuyện người thiếp đời Thanh, chuyện này đúng là có thật, nhưng nơi này hoàn toàn không phải là nhà riêng của người thiếp nọ, mà phải gọi đúng hơn là nhà riêng của một cô kỹ nữ. Kỹ nữ cuối cùng bị bệnh hoa liễu mà chết, hoàn toàn không giống chút nào với câu chuyện của bà lão kia, điểm chung duy nhất là cô kỹ nữ này cũng càng ngày càng đẹp ra.

Thứ hai là chuyện của cô tiểu thư em họ vị quan thời Dân quốc, chuyện này Lục Tử đã từng kể qua, so với chuyện thật cũng không khác mấy, điểm tương tự của nó với câu chuyện thứ nhất là cô tiểu thư này cũng càng ngày càng đẹp lên.

Thứ ba là xuất thân của bà lão. Bà ta đúng là sinh ra ở đây, nhưng tổ tiên không phải là người Hán mà là người dân tộc Duy Ngô Nhĩ. Ngày xưa dường như làm nghề thương nhân chuyên buôn bán cây cỏ và da thuộc. Mọi chuyện dần dần ngả về phía giả thiết của tôi.

Tôi một lần nữa xốc lại tinh thần đi tìm một vòng quanh nhà, vẫn không thấy bóng dáng ai. Nhưng khi đi tới dãy nhà chính, lại thấy cánh cửa lớn ở phòng khách đã mở tự lúc nào. Trong đại sảnh dường như truyền tới tiếng thở dài nhè nhẹ của phụ nữ. Tôi tới gần đẩy nhẹ môt cái, phát hiện cửa bị khóa trái từ bên trong, tôi thử huých vài cái, dường như bên trong cài then, có đẩy cũng vô dụng. Vì thế tôi bèn nheo mắt lại, thẳng thừng nhìn trộm vào trong qua khe cửa hẹp. Trong phòng rất tối, toàn bộ ánh sáng chỉ lọt vào phòng qua khe mái ngói cong cong. Căn phòng vẫn giống hệt như những gì chúng tôi đã nhìn thấy hôm qua, dường như không có bóng ai, ngay lúc tôi chuẩn bị bỏ đi chỗ khác, đột nhiên giữa khe cửa… xuất hiện một gương mặt tràn đầy tử khí của một người phụ nữ! Tôi chỉ vừa cảm giác dạ dày mình co thắt đau đớn một trận, sợ tới mức không thốt nên nổi một tiếng kêu la, chỉ biết đờ người ra mà nhìn. Gương mặt từ từ lùi ra xa, lúc này tôi mới nhận ra đó chỉ là một tấm hình chụp, chính là tấm di ảnh để trên xà nhà, gương mặt của một bà lão, tóc búi sơ sau gáy, tóc phía trước gần như rụng hết, nhìn thoáng qua có thể nhầm là bị trọc. Ánh mắt của bà ta không lạnh không nhạt nhìn thẳng về phía trước, vừa lúc chạm phải mắt tôi, lúc này tôi đột nhiên cảm thấy bà ta thực sự rất giống một ai đó, gương mặt này đã gặp ở đâu nhỉ… rất giống, rất giống bà lão họ Trương mặc sườn xám kia! Chết tiệt! Vậy là bà ta đã chết?!

Khi tấm hình lùi lại càng lúc càng xa, tôi mới nhận ra một đôi bàn tay gầy gò xương xẩu đang cầm tấm ảnh, cảm giác như thể con cháu đang nâng di ảnh của người quá cố đi trong đám tang… nhưng chỉ có điều người đang cầm tấm hình không phải ai khác, mà chính là người đàn bà mặc sườn xám đen đó! Tôi lật đật lùi tuốt ra sau, vấp chân té ngửa ra đất, ra sức hít thở thật sâu thật sâu, nhưng trên mặt trên lưng toàn là mồ hôi lạnh, lạnh tới mức cả người như sắp nhũn ra, nhiệt độ cơ thể giảm hẳn. Tôi đưa tay lên trán, chết tiệt, sợ tới mức cả người gây gây sốt mất rồi. Cái nhà này quả thực càng lúc càng điên loạn, nếu tấm ảnh chụp cũ kỹ kia chính là bà ta, vậy… vậy bà ta thực sự là ma sao? Nhưng nếu là ma quỷ sao có thể thoải mái giao tiếp với con người như vậy?

Khi tôi sắp ngất xỉu đến nơi thì đại sảnh truyền tới tiếng cửa gỗ kẽo kẹt, cửa đã mở.

Bà lão vẫn ôm tấm di ảnh đứng trong đại sảnh lạnh lùng âm u nhìn tôi, cuối cùng, méo mó nở nụ cười: “Cậu nhóc đến đây làm gì?”

Tôi há hốc miệng nhìn bà ta từ từ từng bước bước ra khỏi cửa mà vuốt vuốt ngực âm thầm chuẩn bị, lúc này mà bà ta tự nhiên phun ra cái gì thì tôi cũng đến nôn ra mật xanh mật vàng mất.

Bà lão cười khục khặc vài cái rồi lên tiếng: “Sao lại chỉ còn mình cậu? Những cô bé kia đâu cả rồi? Đi biểu diễn hết rồi sao?”

Tôi khó khăn chống cả người đứng lên, thấy trong tay bà ta cầm một mảnh vải bố, bèn lạnh lùng hỏi: “Những chuyện ma quái xảy ra trong nhà này, bà có biết không?”

Bà ta nở nụ cười nhạt, dùng vải bố lau lau tấm hình trong tay, sau đó trở vào phòng khách treo lai tấm ảnh lên xà nhà, rồi mới quay lai nói: “Chuyện ma quái? Ở đây không có ma quỷ.”

Tôi nhìn bà ta hồi lâu mới tiếp: “Nhưng tất cả chúng tôi đều nhìn thấy, bà giải thích thế nào?”

“Cậu nhóc hoa mắt đó thôi. Trên đời này làm gì có quỷ.”

“Đúng vậy, nếu trên đời này không thể có quỷ, vậy tức là có người giở trò. Đúng không, bà Trương? Hay tôi phải gọi bà là thưa tiểu thư?”

Tôi cảm thấy rõ ràng bà ta hơi run lên, nhưng lập tức mỉm cười quay đi: “Tôi không biết cậu đang nói gì, tôi chỉ là một bà lão trông coi căn nhà này mà thôi.”

Tôi nhìn theo bà ta chằm chằm, chỉ sợ có sai lầm: “Được, bà nói bà chỉ là người trông coi căn nhà này, vậy bà bắt Tiểu Nghiên và Bạch Dực đi để làm gì?”

Bà lão xoay lại, trong tay đã cầm một cái chổi lông gà nhẹ nhàng phủi bụi cho đồ vật xung quanh: “Tôi không hiểu cậu nói gì, tôi chỉ là một bà lão già cả, làm gì được ai chứ?”

“Đúng, bà không làm gì cả, nhưng bà có thể đầu độc những gì chúng tôi uống tối qua. Hôm qua khi chúng tôi vừa mới tới, bà đã cho chúng tôi uống trà.”

“Khách đến nhà thì phải mời trà chứ, sao vậy, uống không ngon sao?”

Tôi cười nhạt một tiếng, gật đầu: “Uống ngon, ngon lắm, ngon tới nỗi sau đó mọi người đều nhìn thấy ảo giác, ngon tới nỗi sau đó mọi người đều như phát điên! Tất cả quỷ ma trong nhà này trước sau vẫn chỉ là trò tiêu khiển bà dành cho chúng tôi chứ gì?!”

Bà lão bật cười: “Cậu thanh niên, bệnh đa nghi của cậu nặng quá đó, đó chỉ là trà Kim Ngân thông thường, sao có thể làm cho các cậu thấy ma thấy quỷ được chứ?”

“Kim Ngân trà, bà Trương, đừng biện hộ vô ích nữa. Thứ kia, nếu tôi không nhầm thì chính là một loại thực vật rất đặc thù chỉ có trên sa mạc Gobi, dân bản xứ gọi là ‘Túy Mê Thảo’. Có rất nhiều người đi qua sa mạc lúc đói khát đã tưởng nhầm nó là loại thực vật ăn được, cuối cùng nhìn thấy đủ mọi ảo giác kinh khủng, bị ảo giác giết chết.”

Loại cỏ này tôi cũng chỉ mới nghe ông nội kể lại. Ông tôi năm xưa sống trên sa mạc mấy năm, nghe được về loại cỏ này từ dân địa phương, loại cỏ này bị dân chăn nuôi sa mạc gọi là “Hoa ác mộng”, qua cái tên có thể tưởng tượng nó có hại tới thần kinh người ăn nhằm phải đến mức nào. Tuy nhiên nó chỉ tồn tại trên sa mạc, những nơi khác không xuất hiện. Mà người nhà của bà lão này lại chính là người Ngô Duy Nhĩ, dân chăn nuôi trên sa mạc chuyên buôn bán những sản phẩm từ cây cỏ. Có thể suy ra ngay bà ta kiếm thứ cỏ này từ đâu.

Tôi tiếp tục: “Đáng lẽ chúng tôi phải phát hiện ra mình đang gặp ảo giác từ đầu mới phải, chỉ là một căn nhà nho nhỏ, làm sao có thể sinh ra đủ mọi loại ma quỷ yêu quái như thế được? Ngay từ đầu bà đã cố tình kể câu chuyện ma kia cho chúng tôi nghe là vì muốn gieo sẵn sự sợ hãi trong lòng chúng tôi, để chúng tôi trong tiềm thức nghĩ rằng ngôi nhà này có ma. Đương nhiên, tôi và Bạch Nguyệt Linh chẳng hề nhìn thấy ma quỷ gì cả, mà chỉ là nhìn thấy nhau mà thôi, nhưng ý thức bị ảo giác che kín, không sao khống chế bản thân được. Người duy nhất chưa từng có cơ hội được uống trà là Lục Tử, đó là lý do hắn hoàn toàn không thấy ảo giác gì cả, chỉ nghe thấy từ chúng tôi mà thôi!”

Bà lão nhìn tôi săm soi hồi lâu, nụ cười trên môi vẫn không tắt, cuối cùng mới lãnh đạm nói: “Cậu nhóc rất thông minh, không sai, ta đã cho các ngươi uống loại cỏ đó. Các ngươi vốn không nên ở lại đây, ta chỉ muốn các ngươi sợ quá mà bỏ chạy thôi.”

Tôi không còn muốn cùng bà lão này chơi trò trinh thám, nên nóng nảy nói: “Hừ, sợ chạy cái gì mà sợ chạy chứ, mọi người đã đi thì còn có tôi ở lại đây, bà đừng nói nhiều nữa, giao Bạch Dực và Tiểu Nghiên ra đây cho tôi mau!”

Bà lão lắc lắc đầu: “Ta không bắt ai cả, ta chỉ hi vọng các ngươi đừng có mặt ở đây thôi.”

Tôi cố gắng kìm lửa giận trong lòng, gằn từng chữ: “Vì sao?!”

Bà lão thản nhiên đáp lại: “Vì tiểu thư sắp trở về rồi.”

Tôi nghe đến đây, đột nhiên có cảm giác như bị người ta coi như con nít mà lừa gạt chạy vòng vòng, bèn trợn mắt hỏi lại: “Bà đừng có nói nhảm, muốn dọa ma người khác cũng phải nói cho thuyết phục vào chứ, chẳng phải bà bảo tiểu thư nhà bà đã treo cổ tự vẫn rồi sao? Sao bây giờ còn quay về? Hiện hồn về chắc?!”

“Đúng, cô ấy đã trở về.”

Tôi chắn ngang đường bà ta, nôn nóng nói: “Đừng ăn nói lung tung nữa, tóm lại bây giờ tôi chỉ muốn tìm hai người bạn của mình thôi, nếu không tìm thấy là tôi lôi bà lên cảnh sát nói chuyện đấy! Có lẽ cảnh sát cũng sẽ thích nghe chuyện tiểu thư nhà bà trở về thế nào!”

Lần đầu tiên trên gương mặt của bà ta mất đi vẻ tươi cười, mà lạnh hẳn đi như thể trút khỏi một lớp mặt nạ. Tôi cảnh giác nhìn chằm chằm bà ta, bà ta vẫn chỉ đứng im như tượng, nhưng thoắt một cái, bàn tay bà ta vẩy ra một thứ bột gì đó thẳng vào mắt tôi. Tôi không ngờ bà ta còn có chiêu này, hất tro vào mắt người khác, nên chờ khi tôi dụi được mắt mở ra binh thường thì bóng dáng bà ta đã sớm mất tích. Tôi vội vã chạy thẳng ra hành lang nhìn qua nhìn lại, nhưng quả thực bà ta đã biến mất hoàn toàn, như một bóng ma tan vào không khí. Tôi điên cuồng lật tung cả mấy căn phòng gần đó lên, chạy qua chạy lại một lúc đến không còn sức mà chạy nữa, đành ảo não dụa người vào tường, trong lòng chỉ tự hận bản thân vô dụng. Nhưng ít nhất hiện giờ có thể xác định, sự… bất thường của lão Bạch đêm qua chỉ là do tác dụng của Túy Mê Thảo mà ra thôi, nó và Kim Ngân có mùi vị giống nhau, lại còn là loại thực vật hiếm có như vậy, nó có khả năng biến những nỗi sợ hãi sâu kín nhất trong lòng mỗi người thành hiện thực, có thể đem những cơn ác mộng của con người hóa thành ảo giác, cũng có thể khiến cho người ta không sao khống chế được bản thân mình nữa. Hơn nữa, Bạch Dực tuy rất minh mẫn với những vấn đề siêu nhiên, nhưng đây lại thuộc về lĩnh vực ức chế thần kinh, đương nhiên không thoát được. Nếu như lúc ấy ngăn anh ta lại thì có phải tốt hơn nhiều rồi không… tự nhiên cảm thấy mình sao mà yếu ớt đến đáng khinh…

Càng nghĩ càng giận, tôi nắm chặt tay đấm thẳng vào bức tường trước mặt. Đột nhiên nghe tiếng động vang vọng bên trong, rõ ràng bên kia tường rỗng ruột! Tôi dán sát tai vào vách, gõ gõ thêm vài cái, rõ ràng là rỗng, dường như bên trong còn có một gian phòng ngầm nữa. Tôi lui lại phía sau một chút, phát hiện bức tường này quả thực không giống như những chỗ khác, nếu như không có nó tồn tại ở đây thì quả thực chỗ này phải là một gian phòng. Thảo nào bà lão kia biến mất nhanh như vậy, hóa ra là chơi trò địa đạo!

Vì thế tôi bèn cẩn thận men theo tường, từng tấc từng tấc một kiểm tra những nơi mép tường giao nhau, cuối cùng phát hiện ra một khe hở gần như không thể thấy được. Tôi bèn vội vàng cố sức xô bật tường ra, bức tường giả này chỉ là mấy tấm ván ghép lại với nhau, nên chỉ cần dùng sức một chút là vỡ nát ra, để lộ một khoảng trống đen ngòm, bên trong quả nhiên là một lối đi nhỏ. Bước xuống vài bước là thấy một cái cầu thang khác làm bằng gỗ, tôi chưa từng bao giờ thấy một loại hành lang ngầm nào thế này, nhưng cũng đoán chắc là bà lão kia nhất định phải xuống đây, hơn nữa, Bạch Dực và Tiểu Nghiên cũng nhất định phải ở đây. Hành lang cực kỳ chật hẹp, nếu gặp người nào to con một chút chắc chỉ có nước nghiêng người mà đi vào, nhưng nếu là một phụ nữ thì đúng là không cần phải lo lắng gì, tôi tuy rất sợ có bẫy rập hay gì đó, nhưng cũng không còn cách nào khác là phải xuống tới cùng.

Lối đi ngầm này hoàn toàn ngoài mọi dự đoán của tôi, vì chỉ cần đi bốn năm bước là bắt đầu ngửi thấy một cái mùi gì đó rất kinh khủng, vừa ngậy vừa thối. Tôi bóp chặt mũi cố gắng đi tiếp, có cảm giác như vị trí của mình lúc này là nằm ngay dưới tầng ngầm của ngôi nhà bên trên. Cuối con đường chật hẹp là một cánh cửa, tôi sờ soạng một chút, trên mặt cửa cũng dính đầy mỡ ghê ghê tay, khi đẩy cửa ra tôi phát hiện phía sau cửa là một cái nhà kho, dường như đã được xây dựng cùng thời với căn nhà. Có nhiều gia đình giàu có danh giá thời xưa xây dựng những căn phòng ngầm thế này để trữ thực phẩm vân vân, nhưng trong căn phòng này hoàn toàn không thấy bóng thịt cá rau quả gì cả, chỉ có một dãy vò rất to sơn màu đỏ sẫm, cái nào cũng được làm rất khéo, có mấy cái còn to như cái ang.

Còn có rất nhiều y phục và tóc giả, mà nổi bật nhất là một tấm gương đồng cực lớn dựng trong góc nhà. Toàn bộ căn nhà rõ ràng không có lấy một mảnh gương, vậy mà dưới này lại có hẳn một cái gương to khủng khiếp như vậy. Tôi đến đứng trước gương, nhìn gương mặt mình phản chiếu trong đó, trông tôi lúc này cực kỳ chật vật, có thể thấy buổi tối hôm qua đã hành hạ tinh thần tôi đến mức nào. Tôi nghĩ rằng căn phòng này có người ở, vì cả căn nhà to lớn trên kia quả thực trống rỗng, nhưng ở đây, chẳng hiểu sao lại có cảm giác như đang lọt vào giữa một đống người, cứ như thể trong căn phòng tí tẹo này có rất nhiều, rất nhiều người khác nhau đang cùng ngồi một chỗ vậy.

Tôi lại nghĩ tới lời của bà lão kia nói, rằng tiểu thư đã sắp trở về. Lẽ nào thực sự có ma?… Đột nhiên nghe tiếng bước chân chậm rãi từ cái cầu thang hẹp té trên kia bước xuống, trong phòng không có chỗ nào để trốn, tôi bèn thẳng thừng đứng nguyên đó, mở to hai mắt trừng trừng nhìn bóng người đang tới gần, nhưng lại không phải là ai khác, mà chính là… cô bé Tiểu Nghiên đã mất tích từ hôm qua? Cô bé mặc một bộ y phục đỏ chói, thấy tôi, lập tức chạy ùa tới ríu rít: “An… tiểu ca, rốt cuộc cũng tìm được anh rồi!”

Tôi nhìn thấy Tiểu Nghiên đương nhiên cực kỳ vui mừng, mà trông cô bé cũng có vẻ rất kích động, cô bé bảo mình đã ở trong căn nhà này chờ từ lâu rồi. Tôi hỏi cô bé gian phòng này của ai, cô bé trả lời là của bà lão họ Trương. Thấy cô bé an toàn, có vẻ không bị thương không bị làm sao cả, tôi cũng yên tâm không ít, vội hỏi: “Vậy em có nhìn thấy Bạch Dực không? Anh ấy có ở đây với em không?”

Tiểu Nghiên lắc đầu: “Không, em vừa tỉnh dậy thì đã thấy mình nằm trên giường của bà lão, y phục cũng bị thay. Em đi ra tìm mọi người, nhưng không còn ai ở đó cả. Sau đó em tìm thấy ở đây có một con đường ngầm nên đi vào xem sao.”

Tôi vỗ vỗ vai cô bé, chuẩn bị đem cô ra ngoài, Bạch Dực có thể quay lại lần nữa tìm sau. Nếu không tìm ra anh ấy, cả đời về sau của tôi có lẽ sẽ phải sống trong bất an cùng tự trách mất. Tiểu Nghiên rất ngoan ngoãn, không khóc lóc không tức giận không làm ầm ĩ, tôi cũng để cho cô bé đi trước. Bất chợt dưới góc áo của cô bé rơi xuống cái gì đó, tôi chợt cảm thấy da đầu tê dại đi, vì nhận ra đó là một cọng Túy Mê Thảo. Tôi lập tức trở nên cảnh giác, cô gái này quả thực rất khả nghi, đột nhiên lúc này điện thoại di động lại rung lên, khiến tôi bất giác sợ đến run người. Chu Nghiên đứng lại. Tôi lấy điện thoại ra đưa lên tai nghe, bên kia, là giọng chị Bạch Nguyệt Linh thảng thốt kích động: “An Tung, lập tức rời khỏi nơi đó mau!!! Nơi đó không ở được!!!”

Tôi còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì đầu dây bên kia đã vang lên những tiếng ồn ào xôn xao, rồi nghe tiếng Lục Tử truyền tới, trong giọng nói của hắn đầy lo lắng: “Tiểu Tung, đừng ở trong đó nữa! Nhà đó có ma thật đấy! Bà lão họ Trương đó kỳ thực đã chết từ lâu rồi! Bạch Dực đã mang Tiểu Nghiên đang hôn mê thoát ra ngoài từ đêm qua kia! Cậu mau mau chạy đi!”

Vừa nghe đến đấy, đầu tôi thoáng cái như muốn nổ tung! Vậy đứa con gái này… là ai?! Vì sao lại trông giống hệt Tiểu Nghiên như vậy?! Tôi run rẩy nhìn vào cái bóng chập chờn của người trước mặt, thấy cô ta cũng dừng lại 

rồi từ trên cầu thang, bà Trương kia chậm rãi hiện ra, trong tay cầm một cái hộp từ từ bước xuống. Lúc này tôi mới nhận ra là từ cơ thể của cô ta tản mát ra một thứ mùi rất thối, tựa như mùi hôi chồn vậy.

Tôi cảm thấy cơ mặt mình giật giật một cách căng thẳng, đừng nói người con gái này chính là cô “tiểu thư” đó đó nha! Trong điện thoại vẫn truyền tới tiếng Lục Tử la hét, tôi cố lấy hết bình tĩnh giơ điện thoại lên tai, bình tĩnh đến mức ngay cả tôi cũng phải kinh ngạc: “Đừng làm ồn nữa, bọn họ đang đứng trước mặt tôi đây này.” Nói xong tắt điện thoại ngay. Cô gái cũng quay người bước xuống, nhìn bà lão ra vẻ oán giận: “Bà Trương, bà cũng sơ sẩy quá đó, làm người ta đuổi theo tới tận đây này.”

Bà lão để lộ một nụ cười hết sức quái dị, sau đó kính cẩn đáp lại: “Tiểu thư, đáng tiếc để để cho đám người đó chạy mất rồi, cả Bạch Dực lẫn cô gái kia đều thoát hết.”

Bà ta quay lại nhìn tôi, trong mắt không hề mang theo chút ý cười nào. Nhưng cô nàng “Chu Nghiên” kia thì cười tươi như hoa, khiến tôi trong khoảng khắc nhớ tới Anh Ninh[1] trong “Liêu trai chí dị”, nhưng người này hiển nhiên không đáng yêu được như nhân vật trong sách kia. Chần chừ hồi lâu, tôi quyết định lên tiếng lần đầu tiên: “Các người… rốt cuộc là ai?”

Tiếng cười của cô gái lại lanh lảnh vang lên như chuông bạc, cô ta mỉm cười nói: “Đám người kia bỏ chạy rồi thì thôi, chẳng phải còn một anh đẹp trai ở đây sao?”

Cô ta không lúc nào ngưng nụ cười, nhưng ánh mắt cứ lạnh như băng: “Chỉ có điều không ngờ hai người các ngươi lại có quan hệ đó… ai… vì sao những người đẹp trai một chút đều là như vậy nhỉ?”

Quả nhiên bóng người đứng đầu giường ngoài cửa sổ không phải là ảo giác, mà chính là cô ta.

Rồi quay lưng thoải mái bước vào gian phòng một cách quen thuộc, tôi định thừa cơ hội bỏ chạy, nhưng cầu thang đã bị bà lão kia chặn kín. Cô gái mở một cái hộp gỗ sơn son nhỏ, bên trong có thứ gì đó trông như dầu nhờn, cô ta chấm một chút lên đầu ngón tay út rồi cẩn thận điểm lên đôi môi đỏ mọng như anh đào, lập tức trong gian phòng xông lên một mùi hôi thối lợm mửa. Cô ta lẩm bẩm: “Thứ duy nhất mà con gái không thể thiếu… chính là nhan sắc. Điểm này những thằng đàn ông như các ngươi đương nhiên không thể hiểu, cũng không cần hiểu làm gì…”

Cô ta mỉm cười với bóng mình trong gương: “Ngươi có muốn nghe câu chuyện hoàn chỉnh nhất không? Bà Trương, lấy cho y cái ghế đi, trông y có vẻ như nhấp nhổm đứng ngồi không yên kìa, ha ha~ Nhìn bộ dạng này, chắc Bạch Dực sẽ thương tâm lắm đó nha~”

Cô ta buông mái tóc dài xuống, rồi cẩn thận chải từng nhát lược một. Nhìn thẳng vào trong gương, cô ta bắt đẩu nói: “Ngày xưa có một thời gian ta sợ nhất là nhìn vào gương, trong nhà của ta tuyệt đối không cho phép để bất kỳ một cái gương nào cả. Nhưng bây giờ thì ta lại rất thích. Rồi, ta nên kể cho ngươi nghe từ đoạn nào đây…?”

Cô ta buông lược, khéo léo cài lên đầu một cây trâm bằng bạc, nghiêng nghiêng mặt ngắm bóng mình trong gương hồi lâu, sau đó cứ giữ nguyên tư thế xoay lưng về phía tôi mà bắt đầu kể, kể một câu chuyện hoàn chỉnh.

Chương 48: Linh viên (Ngũ)

“…Lan Linh, ả kỹ nữ kia có tên gọi là Lan Linh. Ả là chủ nhân đầu tiên của ngôi nhà này, giống như tất cả những ả kỹ nữ đê tiện khác, chỉ cần ai cho ả tiền là có thể  ngủ với ả, một con đàn bà dơ bẩn như vậy mà lại có một sắc đẹp phi phàm, đúng là chuyện đáng căm hận, đúng không? Sau này có một thương gia muốn chuộc thân cho ả, hỏi xin ả ngày sinh tháng đẻ để mang về nhà làm thiếp, nhưng Lan Linh cho không được. Ngươi có biết vì sao không?”

Cô gái cầm lấy một cây bút vẽ chân mày, cẩn thận đưa lên mắt: “…Đó là bởi vì tuổi thật của ả ta tuyệt đối có thể xứng đáng làm bà cố nội của thương nhân kia nha~ Lúc đó ả ít nhất cũng đã ngoài sáu mươi rồi, ha ha. Nhưng ả hoàn toàn không già đi, mà ngược lại, càng lúc càng xinh đẹp hơn. Chuyện này tuyệt đối không thể nói cho thương nhân kia biết, vì chỉ có ả ta cùng với một bà lão bộc thân tín biết rõ mà thôi. Huống chi ả cũng không cần hoàn lương, thực ra ả hoàn toàn không hứng thú với cuộc sống bình lặng yên ả làm thiếp cho người ta, cái ả muốn là một cuộc đời ngập trong vàng son, loại đàn bà này đương nhiên không thể chết tử tế được. Nhưng ả ta không ngờ còn có một đứa con gái, sau cùng bà lão bộc kia bán con gái ả cho một thương nhân chuyên buôn bán da thuộc, ông ta mang theo con gái của Lan Linh chạy ngược xuôi khắp nơi sinh sống, tuy vất vả, nhưng đứa con gái đó vẫn từng ngày lớn lên, cuối cùng kết hôn với thương nhân nọ định cư ngoài đại mạc, sinh con đẻ cái, trôi qua những tháng ngày gian khổ mà đơn điệu. Nhưng vậy cũng tốt… đứa con gái đó thành phụ nữ, sinh mấy đứa con, dần dần quên mất ngôi nhà cũ nơi cố hương, quên cả người mẹ thường bị người ta gọi là hồ ly tinh kia… Dòng máu của bà ta tiếp tục sống từng đời từng đời ngoài sa mạc, cho đến khi nhà Thanh bị diệt, Quốc dân đảng làm cách mạng, đến lúc đó hậu duệ của Lan Linh ma xui quỷ khiến thế nào lại quay lại thành phố này, sống tại căn nhà này. Vì thế những chuyện quái dị lại tiếp tục phát sinh, khắp nơi đều đồn đãi là linh hồn của Lan Linh quấy phá. Chỉ có cô tiểu thư em họ của vị quan Quốc dân đảng kia là ở được trong ngôi nhà ma ám này. Nhưng thời đó quá mức khốc liệt, Nhật Bản xâm chiếm, hậu duệ của Lan Linh ở trong ngôi nhà này bị đạn tạc hủy hết dung mạo xinh đẹp, nàng không còn ý chí sống sót nữa, bèn thắt cổ tự tử ngay trong nhà. Thế nhưng nàng không chết hẳn, giữa lúc hấp hối, nàng đã phảng phất nhìn thấy lịch sử suốt mấy trăm năm của căn nhà này, Lan Linh lừa những kẻ lạc đường vào nhà thế nào, lúc đang cùng họ mây mưa liền dùng trâm gài tóc trên đầu giết chết họ ra sao, cuối cùng, bí mật bất lão bất tử của Lan Linh đã bị hậu duệ của ả nhìn thấy…”

Cô ta quay đầu lại, trang điểm xong, dung nhan của cô ta trông như một bông hoa thuốc phiện đang nở rộ, ngay cả tôi cũng phải đờ cả người, cô ta mỉm cười: “Chỉ cần ăn vào mỡ của những con người đó, có thể giữ mình mãi mãi ở độ tuổi xuân sắc, hơn nữa, còn có thể càng ngày càng xinh đẹp hơn!”

Nghe cô ta nói, tôi lập tức cảm thấy buồn nôn đến choáng váng, lẽ nào… cái mùi mỡ ngây ngấy tanh tanh ở đây chính là mỡ người?! Tôi ghê tởm nhìn cô gái vẫn tươi đẹp như đào lý kia, nhưng cô ta chỉ tiếp tục kể: “Bí mật đó đã dùng cách này mà quay về trong tay của hậu duệ Lan Linh. Mang theo lòng nửa ngờ nửa tin, hậu duệ của ả lại đi theo đúng con đường của tổ tiên mình, đi giết chết một quả phụ vừa mới chết chồng. Quả phụ đó là một người đàn bà béo núc, vừa đâm cho một dao thì máu hòa cùng với mỡ cũng tuôn ra hết. Người hậu duệ đó dùng những cái vò sơn son giống như Lan Linh chứa hết đống mỡ đó, sau lại dùng phương pháp riêng để chế chúng thành son môi và thuốc bôi ngoài da. Phần còn lại chỉ cần ném ra ngoài chỗ chiến địa là xong, thời đó quân Nhật giết chóc nhiều như vậy, không ai nghi ngờ nàng. Sau đó hậu duệ Lan Linh dần dần thay đổi, lớp da bị hoại tử càng ngày càng hồi phục, lại thêm một thời gian nữa ăn mỡ càng nhiều, nàng càng xinh đẹp hơn cả lúc trước. Hơn nữa, trong quá trình này, nàng lại phát hiện thêm một khả năng kỳ diệu của thứ thuốc này nữa, đó là nàng có thể khống chế cả dung mạo bên ngoài của mình, chỉ cần nghĩ tới gương mặt của một người là có thể biến thành cho giống hệt, ví dụ như… ta của lúc này vậy.”

Tôi bưng chặt miệng trừng trừng nhìn cô ta, cố hết sức để không ói hết ra, sau đó khó khăn lên tiếng: “Cô thật quá biến thái, làm như thế còn là con người sao!”

Cô ta mỉm cười mê hồn: “Sao lại không được? Ở nước ngoài có Bloody Mary[2] còn gì, nhưng bà ta chỉ có thể giữ cho mình chậm già yếu, còn ta, ta có thể vĩnh viễn bất lão, chẳng lẽ không lợi hại hơn sao?”

Cô ta nhìn chằm chằm đôi bàn tay mình, nhẹ nhàng nói: “Có thể ta thực ra cũng không còn là ta nữa, lúc treo cổ trên xà nhà có lẽ ta thực ra đã chết, ta lúc này thực ra là Lan Linh, mà Lan Linh chính là ta! Cho nên ta có thể tiếp tục giữ gương mặt xinh đẹp của mình rồi, ha ha! Ta chính là Lan Linh!”

Tôi hoàn toàn không quan tâm kẻ biến thái trước mặt mình lúc này rốt cuộc là ai, tôi chỉ nghĩ cách làm sao để chạy thoát. Cho nên làm bộ lo lắng hỏi: “Các người muốn làm gì với ta?”

Cô ta nghiêng đầu sang nhìn tôi: “Đúng vậy… Ta nên làm gì với ngươi bây giờ…?”

Tôi ghét bỏ nhìn cô ta, cười lạnh lùng đáp lại: “Trong mắt ngươi có lẽ những người khác bất quá chỉ là nguồn cung cấp mỡ người cho ngươi mà thôi, nhưng trong mắt ta, ngươi cũng chẳng khác nào một thứ quái thai!”

Cô ta nhìn tôi rồi chợt phá lên cười, sau đó quay sang nói với bà lão: “Bà Trương, y gọi ta là quái thai kìa. Còn bà thì sao, có muốn thứ son ngon lành này của ta không nào?”

Ánh mắt bà lão chợt hóa thành cực kỳ tham lam, bà ta gật đầu lia lịa: “Có, có, tiểu thư, xin ban cho tôi một chút đi, để tôi cũng không phải già đi, xin coi như niệm tình tôi đã làm nhiều việc đến thế cho tiểu thư…”

Cô gái khinh bỉ nhìn bà già, chỉ sờ sờ cái vòng tay trên tay mình, sau đó đứng lên, mỉm cười nhìn tôi nói: “Ta không thể ở mãi một chỗ này, vì ta bất lão bất tử, nếu không già đi thì sẽ làm cho người ta nghi ngờ, cho nên ta chỉ biết lưu lạc khắp nơi. Tuy nhiên cũng may ta có thể biến thành bất kỳ gương mặt nào ta nghĩ tới trong đầu, điểm đó thực sự rất có lợi. Lần này trở về ta vốn định bắt con bé Chu Nghiên kia lấy mỡ, ai ngờ lại bị Bạch Dực của ngươi nửa chừng phá hỏng tất cả.” Cô ta bước tới bên một cái hộp sơn rất to, mở ra rồi cười tươi: “Nhưng dù sao ta vẫn còn rất nhiều mỡ dự trữ, mỡ người rất dễ bảo quản, hơn nữa ta cũng không cần phải tự tay giết người, bà Trương đây là trợ thủ đắc lực của ta.”

Trong hộp đầy mỡ màu ngà ngà, ghê tởm không thể nói hết. Thứ quỷ quái này đừng nói là ăn vào người, chỉ nhìn thôi cũng đã đủ buồn nôn rồi.

Tôi hỏi thẳng thừng: “Vậy ngươi muốn làm gì ta? Biến ta thành đống mỡ này để sử dụng dần sao?”

Vóc dáng của cô ta cực kỳ thướt tha, dường như rất thích y phục màu đỏ tươi, thỉnh thoảng lại điệu đàng phất làn váy dài, nếu không phải như chuyện trước đó đã thổ lộ, chắc chắn cô ta trong mắt mọi người là một cô gái xinh đẹp tuyệt trần quyến rũ vô hạn. Cô ta mỉm cười nhìn tôi, sau đó quay sang bà Trương: “Đem y đi giết đi, ta không muốn nhìn thấy mặt y nữa, kinh tởm lắm, một gã đàn ông mà lại để cho một gã đàn ông khác đè mình ra. Còn nữa, giết xong nhớ giữ mỡ lại.”

Khi nói những lời tàn nhẫn này, gương mặt cô ta vẫn giữ nguyên vẻ tươi cười. Bà lão dạ một tiếng, chuẩn bị ra tay. Chết tiệt, một bà già và một con nhóc mà đòi giết tôi?! Nếu để cho bọn chúng ra tay thì hoặc là tôi bị khùng hoặc là bọn họ nằm mơ! Hơn nữa cái gì mà để cho đàn ông đè mình ra? Con ả này dám sỉ nhục tôi, hoàn toàn đủ lý do để tôi đánh chết nó rồi! Tôi vội vàng thối lui về phía sau mấy bước, đường thoát thân đã bị bà già chặn mất, muốn chạy về phía trước là hoàn toàn không thể, huống chi bà ta còn rút từ trong hộp ra một con dao kiểu xưa, trên dao loang lổ vết máu đông, có vẻ đã kết liễu tính mạng của không ít người. Bà ta nhe răng quái dị cười, nói là người, không bằng phải gọi là hồ ly mới xứng.

Tôi thấy bà ta đã đụng tới dao thớt, mà bản thân mình không có gì để chống lại trực tiếp, lập tức thay đổi chiến thuật chuyển sang kế “rút củi dưới đáy nồi”, nghiêng người một cái lập tức lao tới giữ chặt con bé kia, cùng lúc nhanh tay rút cái trâm cài tóc của cô ta ra kề ngay vào cổ chủ nhân nó, quát to: “Đừng làm bậy, ta chỉ cần run tay một chút là cái cổ chủ nhân nhà ngươi có thêm một lỗ thủng ngay bây giờ!”

Bà già thấy tôi uy hiếp chủ nhân của mình nên cũng không dám tiến tới nữa, nhưng trong mắt hoàn toàn không có vẻ tức giận như tôi chờ đợi, mà là hoàn toàn lạnh lùng lãnh đạm nhìn. Điều này làm tôi có hơi chột dạ, bèn bóp chặt cái cổ của cô ả kia mà quát: “Mau mau tránh ra cho ta! Bằng không ta cho chủ nhân nhà ngươi đi theo tổ tiên biến thái của ả!”

Cô ả chỉ mỉm cười ngước lên nhìn thẳng vào tôi, thậm chí còn dựa hẳn vào người tôi nữa chứ, chỉ cần cúi đầu là nghe thấy một mùi mỡ tanh ngây ngấy rờn rợn từ người cô ta vẳng tới, nhưng cô ta lúc này chính là bùa hộ mệnh của tôi, cho dù có hôi hơn nữa cũng không được thả ra. Cô ta chợt bật cười: “Tiểu An ca, anh làm thế này với con gái có phải hơi quá đáng không? Còn nữa, đừng cho là con gái bọn em dễ đối phó như vậy ~”

Tôi còn chưa kịp phản ứng kịp thì đã nghe bụng mình đau nhói lên, cúi đầu nhìn xuống mới thấy chẳng biết cô ta đã đâm cho tôi một dao tự lúc nào, tôi đau tới xây xẩm mặt mày, té thẳng xuống đất, máu tuôn xối xả. Cả hai tay tôi đều là máu, tôi đưa ngón tay run run chỉ thẳng vào con ả kia, không thốt lên được lời nào, còn cô ta vẫn chỉ đứng đó đắc ý mỉm cười.

Bao nhiêu sức lực của tôi như cũng thoát hết ra ngoài qua vết thương vậy, dường như bắt đầu nghe thấy ảo thanh, tiếng cười chói tai của con gái hóa thành tiếng niệm chú rì rầm, âm thanh trầm đục như tiếng chuông chùa, như muốn kéo cả linh hồn tôi cũng thoát khỏi xác mà bay đi mất, thần kinh tôi bắt đầu mụ mị đi, cơn đau kinh hoàng làm tôi gần như không trông thấy gì trước mắt nữa, thế nhưng lúc này chỉ cần nhắm mắt lại, chắc chắn mất hoàn toàn cơ hội sống sót… Vì thế tôi giữ chặt chỗ bụng mình, cố hết sức không để cho ruột chảy ra ngoài mà đỡ tường lần mò đứng lên nhìn đứa con gái kia, trong đầu bắt đầu quay cuồng một tiếng nói kỳ quái, tiếng nói đó dường như bắt tôi phải mở miệng nói theo nó, chứ tôi của bây giờ thực ra ngay cả sức lên tiếng còn không có nữa là.

Tôi bắt đầu ngơ ngẩn lầm bầm những câu mà ngay cả bản thân cũng hoàn toàn không sao hiểu nổi, nhưng trực giác nhận biết tất cả chúng đều quay xung quanh những chuyện quái dị đã gặp phải gần đây. Tôi lẳng lặng thì thầm: “Tử, nước mắt người chết; sinh, đau khổ luân hồi; lão, oán niệm cố chấp…”[3]

Đứa con gái thấy tôi còn có thể đứng lên, cũng kiêng kị mà không dám tới gần, chỉ gào thét bà già mau tới bắt tôi, tôi vẫn cố gắng trụ vững, dù trước mặt lúc này đã là một màu đỏ hỗn loạn không rõ, dưới bụng không còn cảm giác đau, ngược lại trong đầu lại đau đớn kịch liệt, còn dữ dội nhức nhối hơn cả một dao lúc nãy, tôi có cảm giác như đầu mình như bị ai đó dùng sức xé đôi ra, cả người nghiêng ngửa bên này bên kia, trên căn bản là không còn sức đâu mà quan tâm tới hai kẻ đang muốn ra tay giết mình trước mặt cả.

Tôi ngẩng đầu mờ mịt nhìn bọn chúng, thấy cả hai người đều kinh hoàng nhìn tôi, con dao trong tay còn run lên. Tôi hoàn toàn không hiểu vì sao, nhưng phát hiện đứa con gái cũng không còn mang hình người nữa mà như một khối sáp trắng sắp tan chảy thành nước tới nơi, gương mặt méo mó chảy dài, nó hét lên: “Bà Trương, mau giết y, giết y!!!”

Tôi lại nhìn sang bà Trương kia, thấy bà ta dường như cũng sợ tới cứng cả người, đứa con gái gào mãi gào mãi bà ta mới giơ dao lên định bổ xuống đầu tôi. Tôi vội vã dùng tay còn lại cố ngăn, bà ta đột nhiên rú lên một tiếng khủng khiếp, sau đó điên cuồng la hét dữ dội, đứa con gái thấy thế liền quay lưng định bỏ chạy. Bà Trương kinh hoàng hướng về phía nó kêu gào không ngớt, nhưng chủ nhân của bà ta căn bản là bỏ mặc bà ta tự sinh tự diệt. Tôi nhân cơ hội lập tức chộp lấy con dao trong tay bà ta, vừa xoay người nhìn lại bóng hình mình trong gương, mới phát hiện trong đó là một cảnh tượng vô cùng kinh dị. Bóng hình tôi trong gương… là một bóng đen đặc, nắm trong tay không phải một con dao mà là một đống hài cốt. Tôi kinh hãi giật ngược lại nhìn bà già, thì thấy từ mắt mũi miệng của bà ta thoát ra một đóng khói đen ngòm, đồng thời xông tới một mùi hôi thối tanh nồng lợm mửa. Tôi chết sững tại chỗ không biết phải làm gì nói gì, thất thần buông cánh tay bà già ra. Bà ta  lập tức giống như một cái túi da chứa chất độc đen thui trượt dài trên sàn, tôi ngồi xuống lật bà ta lên kiểm tra: bà ta đã tắt thở.

Tôi lại nhìn vào gương, trong gương bản thân vẫn chỉ là một cái bóng đen không trông rõ hình hài, trên mặt đất là một đống xương trắng. Tôi lật bật lui về phía sau, bưng chặt hai mắt mình, đôi mắt đau đớn đến muốn khóc. Con bé kia cũng chưa chạy thoát, vì xung quang không hiểu sao chợt ngập đầy mỡ, nó trốn trong góc phòng, ôm mặt kinh hãi nhìn tôi, cứ như thể trông tôi lúc này còn đáng sợ hơn cả nó vậy. Tôi sờ xuống bụng mình, không có vết thương, không có đau đớn, làm như cơn đau lúc nãy chỉ là một cơn ác mộng.

Ngay lúc đó, tất cả những cái vò trong phòng bắt đầu rung lên dữ dội, từ bên trong tràn ra một thứ chất lỏng trắng ngà ngà nhầy nhụa, từ vách tường cũng trào ra cùng một thứ, con bé muốn chạy trốn, nhưng không sao nhấc chân lên chạy được, cuối cùng ngã lăn ra té nhào xuống bên cạnh thi thể của bà già, trong gương phản chiếu hình ảnh bộ xương khô kia đưa bàn tay xương xẩu của mình ra nắm chặt lấy cổ chân đứa con gái, như thể ôm chặt một đống thịt. Nhưng nó chạy không được không có nghĩa là tôi cũng không chạy được, tôi vội vã tuôn người về phía cầu thang, cả gian phòng lúc này đã ngập chìm trong thứ chất lỏng ghê sợ kia, mùi mỡ thối càng nồng nặc gấp mấy lần ban đầu.

Thế nhưng sàn nhà lúc này đã nhầy nhụa mỡ, thực sự rất khó đi, bước một bước lại bị đống chất lỏng đó nhấn chìm dìm lại, như thể tất cả những oan hồn bị giam giữ ở đây không muốn thả cho bất kỳ kẻ nào còn sống thoát ra vậy. Tôi quay đầu lại nhìn đứa con gái, trông nó còn thê thảm hơn tôi lúc này, vì bao nhiêu chất lỏng đều tập trung vây quanh nó, nó đưa tay về phía tôi như muốn được cứu mạng, nhưng bàn tay đầy mỡ, nắm không được bất kỳ thứ gì. Toàn bộ cảnh tượng như một loại phản ứng lên men quá đà… Tôi thấy chất lỏng càng lúc càng nhiều, trên tường đã đóng lại một lớp màng nhầy nhầy, thấy trước mắt mình chính là cầu thang, bèn cố sống cố chết với tới cánh cửa cứu mạng phía trước… nhưng cả căn phòng đầy mỡ đột nhiên như nghiêng đi, tôi mất đà, té sấp xuống sàn, cả người ngập trong đám chất lỏng lầy nhầy.

Nửa tỉnh nửa mơ co người chết lặng trên sàn, toàn thân dính đầy mỡ, may mắn nhất là không té xuống gần chỗ hai kẻ kia, bằng không có lẽ càng thêm ghê người mất… Có cảm giác như xung quanh là một đống người, ai cũng ngồi xuống tham lam ngấu nghiến đám mỡ trên sàn, lẽ nào đã lọt vào dạ tiệc của một đám ma đói sao…? Muốn đứng thẳng lên, nhưng cả người nặng trĩu… trong não vẫn quanh quẩn tiếng niệm chú không ngừng, càng nghe càng đau đầu, cuối cùng, tôi nhắm mắt, hoàn toàn chìm vào hôn mê.

Lần thứ hai mở mắt ra, tôi vẫn nằm trong căn nhà cũ đó, nhưng nằm trên giường, quần áo đã được thay mới sạch sẽ. Tôi chậm chạp mở mắt, ánh mặt trời chói chang xuyên thấu qua cửa sổ ùa vào phòng, căn phòng đầu tiên mà chúng tôi ở. Từ từ cử động tứ chi, đầu lập tức đau thốn lên, tôi thấp giọng mắng một câu, Bạch Dực ngồi trên ghế nhìn tôi, chỉ có điều ngược sáng nên tôi không nhìn thấy vẻ mặt của anh lúc này.

Tôi thử gọi một tiếng, anh ta mới đứng dậy từ từ bước tới, tôi có rất nhiều, rất nhiều điều muốn hỏi, nhưng cuối cùng câu thốt ra khỏi miệng lại là: “Anh không sao chứ?”

Anh ta nhìn tôi lặng lẽ nói: “Tôi trước sau vẫn rất an toàn.”

Quả nhiên vẫn đáng đánh như trước, tôi che mặt hỏi: “Sao anh trốn được vậy? Mọi người thế nào rồi?”

Anh ta lắc đầu: “Chuyện dài lắm, nói chung mọi người vẫn an toàn.”

Tôi rùng mình một cái, nghĩ tới đống mỡ dưới sàn, liền sốt ruột hỏi: “Vậy còn hai con quái vật kia thì sao? Anh có nhìn thấy không?”

Anh ta trả lời: “Lúc tôi tìm tới căn phòng ngầm đó thì chỉ thấy một mình cậu nằm úp sấp ở đó…” Ánh mắt anh ta thoáng qua một chút kiêng kị, không biết anh ta đã nhìn thấy thứ gì, nhưng anh ta rõ ràng có ý định giấu diếm.

Tôi vẫn trân trân nhìn Bạch Dực: “Lẽ nào hai kẻ đó bỏ chạy rồi sao? Rốt cuộc là có chuyện gì?”

Bạch Dực tiến tới trước mặt tôi, ánh mắt không giống như bình thường, anh ta lạnh lùng nói: “Cục đã bị khởi động rồi, tôi đến chậm một bước. Chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo đến tôi cũng không biết nữa.”

“Cục gì? Anh đừng có đem mấy cái thế trận quân sự ra dọa tôi nha? Mà thôi, đừng lo chuyện đó, trước tiên nói cho tôi biết hai người… à không, hai con quái vật kia biến đâu mất rồi? Chạy trốn rồi à?” Kỳ thực tôi cũng muốn biết liệu “thế cục” mà anh ta nhắc tới có phải “Tứ khổ chi cục” đã nhìn thấy trong mơ hay không, nhưng mối quan tâm đầu tiên của tôi lúc này là tung tích của hai con quái vật kia.

Bạch Dực dùng tay đỡ mắt mình, thở dài nói: “Tôi cũng không biết phải nói sao, lúc tôi tới không thấy ai khác cả, chỉ có một mình cậu mà thôi. Lúc đó… tôi đã biết trong trà có vấn đề, nên ra ngoài đi tìm bà già kia, vừa kịp lúc thấy bà ta bắt Chu Nghiên, nên cố tình theo bà ta đi. Ai ngờ lại bị phát hiện, bị một kẻ nào đó đánh cho một cú vào sau đầu, mãi đến sáng nay tôi mới thoát ra được. Cho nên tôi nghĩ những gì tôi biết chưa chắc nhiều bằng cậu đâu. Tôi vất vả lắm mới cứu được Chu Nghiên chạy ra ngoài, ai ngờ gặp được đám Lục Tử mới biết kẻ ngốc nhà cậu vẫn còn đang lòng vòng trong nhà, thế là lại phải quay lại tìm…”

Tôi nghi ngờ nhìn Bạch Dực, câu chuyện này sơ hở nhiều như sao trên trời, trình độ bịa chuyện của Bạch Dực từ lúc nào lại xuống cấp như vậy? Nhưng tôi cũng không vặn lại, vì đầu lúc này vẫn quá đau, lại hỗn loạn vô cùng. Đành co tròn người lại, vùi đầu vào giữa hai cánh tay. Kỳ thực chuyện lúc đó chỉ còn nhớ lõm bõm, rất nhiều chi tiết đã quên mất. Đột nhiên lại nhớ tới những câu lúc đó mình đã thốt lên, bèn thì thầm lại một lần: “Tử, nước mắt người chết; sinh, nỗi khổ luân hồi…”

Bạch Dực nghe thế, lập tức bật dậy nắm chặt tay tôi: “Cậu nói cái gì?!”

Tôi nhìn anh ta, có lẽ anh ta cũng không ngờ tôi biết tới đây, nhưng dù anh ta che giấu tôi rất nhiều chuyện, tôi vẫn đem toàn bộ những gì mình biết kể lại cho anh ta nghe, ngay cả câu chú ngữ quái dị này nữa. Bạch Dực nghe xong, thẫn thờ buông tay tôi thì thầm: “Lão, oán niệm cố chấp; cầu bất đắc, tội lỗi đam mê…”

Tôi ngước mắt nhìn anh ta, cùng lúc chạm phải ánh mắt anh ta cúi xuống nhìn mình, chúng tôi cứ thế nhìn nhau hồi lâu, cuối cùng anh ta nói: “Thế cục này… tránh không được nữa rồi, chỉ còn biết trông theo ý trời thôi…”

Tôi há hốc miệng “A?” cả nửa ngày vẫn không hiều gì. Bạch Dực hơi cau mày, bước đến ngồi xuống bên cạnh tôi, ngước mắt nhìn lên trần nhà mà nói: “Chí ít vẫn có tôi theo cậu tới cùng, điểm ấy cậu không cần lo lắng.”

Tôi biết có một số việc thể nào cũng phải xảy ra, thế nhưng không biết bản thân phải làm gì bây giờ, tôi suy nghĩ hồi lâu vẫn không biết mình muốn nói gì, mà cũng hiểu bản thân không còn lời nào để nói, đành im lặng gật đầu. Anh ta tiếp tục nói: “Tôi có một câu muốn hỏi cậu.”

“Hỏi đi.”

“Lúc đó, tại sao lại không phản kháng?”

Tôi cũng đưa mắt nhìn lên trần nhà: “Ai biết, chắc là sợ quá hóa ngu đó.”

Bạch Dực vuốt vuốt tóc tôi: “Ừ, cái đó tôi tin… thói quen đó sau này cứ giữ lại nhé, đừng đổi.”

Tôi quay lại khó hiểu nhìn anh ta, suy nghĩ mãi cả nửa ngày mới hiểu ra, lập tức đỏ bừng mặt hét lớn: “Anh đừng có mà vọng tưởng!”

Anh ta cũng nhìn tôi chằm chằm, cuối cùng nhịn không được phì cười, rồi thẳng thừng phá lên cười ha ha, cười đến nước mắt giàn dụa. Anh ta vỗ nhẹ lưng tôi nói: “Đó, cậu phải như vậy tôi mới thấy yên tâm. Ha ha, đứng dậy đi thôi nào, đi gặp đám người Nguyệt Linh, cậu lúc này đã thành anh hùng trong lòng bọn họ rồi đó nha!” Sau đó, lại đột ngột lấy lại vẻ mặt nghiêm túc, nhẹ giọng thì thầm: “Về phần thế cục kia, cứ xem số mạng chúng ta liệu có đủ để vượt qua kiếp nạn này hay không…”

Linh viên – Hoàn

[1] “Anh Ninh” là tên nhân vật chính trong một câu chuyện cùng tên nằm trong “Liêu Trai chí dị” quyển thứ 12, là con gái của hồ ly, có tính thích cười và cực kỳ yêu hoa.

[2] Ở đây dường như tác giả có sự nhầm lẫn, nếu tác giả muốn nhắc đến nữ bá tước dùng máu con gái tắm để giữ dung nhan tươi trẻ thì phải là Elizabeth Báthory ở Hungary mới đúng. Còn Bloody Mary là truyền thuyết về bóng ma sẽ hiện ra trong gương nếu bạn đứng trước gương và gọi tên cô ta ba lần.

[3] “Bát khổ” của Phật giáo: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly (yêu thì chia lìa), oán tăng hội (ghét thì gặp mãi), cầu bất đắc (muốn mà không có được), ngũ ấm xí thạnh (phải đương đầu với dục vọng).

_________________________________________

Chương 49: Quỷ chú (Nhất)

Đã là con người đều phải đau khổ, ý niệm vưa sinh ra đã khổ, khi tâm hồn dao động càng khổ hơn. Khi truy tìm hoan lạc, tất đến ngày phải vì chính dục vọng của mình mà trả giá. Vì thế sinh ra làm người, đến thế giới này khác nào sa vào cõi hồng trần ta bà, thế sự vô thường, chớp mắt đã qua, không có chút nào thuộc quyền khống chế của con người. Do đó mà trên đời này mới có bát khổ: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly khổ, oán tăng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ.

Đây là ý niệm chung của cả Phật giáo lẫn Đạo giáo, là con người thì tất yếu cần phải chấp nhận đau khổ. Bà nội khi xưa từng dạy tôi, con người luôn luôn bị ràng buộc, không ai có khả năng thoát khỏi số phận, bởi vì kể từ ngày được sinh ra đời thì con người đã bị định trước kết cục sẽ là cái chết, buông tay cũng là chết, không buông tay cũng vẫn là chết.

Cuối cùng khi về tới được phòng ở, vừa buông hành lý xuống là tôi lập tức gục luôn, không còn muốn làm gì nữa, chỉ nằm ườn trên giường như một con mèo lười, lúc này mới biết, hóa ra được an toàn nằm trên giường của mình lại hạnh phúc và yên bình đến thế. Tôi nhắm mắt lại, muốn cảm nhận trong chốc lát sự thah bình hiện tại, nhưng khi nhớ tới "thế cục" vừa được mở ra kia, lại lâm vào sự bất an thường trực, nằm trên giường mà vẫn thấy cả người không yên.

Thế nhưng tình huống cũng không phát triển theo hướng tôi phán đoán. Những ngày sau đó cứ thế trôi qua trong bình tĩnh. Bạch Dực sắp xếp xong chuyện của Bạch Nguyệt Linh và đám cô nương rồi, chúng tôi lại quay về với sinh hoạt bình thường, không ai nhắc tới thế cục vừa mới bị khởi động kia, tất cả dường như lại quay về như khi chưa tới Linh viên. Kỳ thực, sự yên ổn này của chúng tôi hoàn toàn dựa vào sự bình thản của Bạch Dực, nếu như anh ta không có phản ứng gì quá lớn đối với những chuyện trong tương lai, thì tôi cũng có thể an tâm bỏ đi lo lắng canh cánh trong lòng, nếu không, sống trong lo âu quả thực quá căng thẳng. Bạch Dực cũng không bao giờ giải thích vì sao lần ấy lại làm thế với tôi, chỉ có điều tôi cảm thấy mối quan hệ giữa chúng tôi càng lúc càng trở nên khác lạ, có nhiều lúc tôi cứ bất giác mà để tâm đến từng lời nói từng cử chỉ nhỏ của Bạch Dực, dù vẫn biết như thế là rất buồn cười - mình dù sao cũng không phải là con gái, cái loại cảm giác bối rối rụt rè như thế thật không giống bản thân chút nào. Nhưng anh ta không nói ra, tôi cũng không có cách nào chủ động mở miệng hỏi. Cả hai bên đều đã trưởng thành, tình cảm không thể cứ ngây ngây thơ thơ như hai đứa trẻ con, huống hồ... chúng tôi cùng giới tính, nói thật lòng, điều này vẫn làm tôi có phần lấn cấn. Có rất nhiều điều, mộ

t khi nói ra thì tuyệt không còn đường lui, hơn nữa tôi cũng hiểu rõ, sống chung với nhau như thế này lại hợp với chúng tôi nhất.

Hai từ "huynh đệ" vì thế mà trở nên chênh vênh.

Cứ thế mà mấy tháng chớp mắt đã trôi qua, bên cạnh tôi hoàn toàn không có lấy nửa chuyện quái dị, khiến tôi trở nên hoài nghi không biết "cục" mà Bạch Dực nhắc tới thực sự có tồn tại trên đời hay không? Con người là như thế, rất sợ tai nạn sắp đến, nhưng khi nó không đến đúng hẹn, thì không hiểu sao lại cảm thấy có hơi mất mát.

Ngày hôm nay là ngày nghỉ của tôi, Bạch Dực đã đến trường. Tôi một mình trong phòng mở máy vi tính, sau một trận đánh đấm tưng bừng, BOSS đã bị hai mươi lăm chiến sĩ oai hùng đánh ngã. Kỳ thực dạo gần đây tôi bắt đầu có cảm giác như mình đã già, không thể vui chơi bất cần như thời còn trẻ tuổi lông bông được nữa, chỉ cần chơi game vài tiếng đồng hồ đã thấy muốn bệnh. Vì thế bèn châm một điếu thuốc, ngả đầu vào thành ghế phía sau mà nhắm mắt nghỉ ngơi. Thực ra, tôi cũng biết hút thuốc, nhưng không thích, cũng không nghiện, lúc còn học đại học ở trong ký túc xá thỉnh thoảng hút với bạn một điếu nói chuyện phiếm, hoặc vào những khi đặc biệt mệt mỏi mới tự châm một điếu nhả khói cho vơi bớt phiền muộn trong lòng. Nhưng kể từ khi đến đây, thấy Bạch Dực dường như không bao giờ hút, nên tôi cũng gần như bỏ luôn. Cho đến hôm nay, chẳng biết vì cái gì, tự nhiên lại thấy thèm một điếu thuốc.

Muốn vào phó bản một lần nữa cần chờ thêm một lúc, tôi ngậm điếu thuốc đứng dậy vào nhà vệ sinh. Nhìn vào cái gương trong nhà tắm, mới phát hiện tóc mình càng lúc càng dài. Mái tóc này dài ra cũng quá là nhanh đi? Mới mấy ngày trước vừa đi cắt về kia mà, chẳng lẽ bây giờ phải đi cắt đầu đinh? Nhưng nghĩ lại cũng không phải không thể... chẳng thà nhìn bặm trợn một chút còn hơn bị người ta nhìn nhầm thành con gái! Chăm chú quan sát bản thân một chút, thấy mình trông có vẻ như gầy đi, nhưng thực ra khi cân thử thì có tăng cân một chút... xem ra hoàn toàn là nhờ công chăm bẵm ăn uống của Bạch Dực.

Quay lại bàn vi tính mở mấy trang mạng ngẫu nhiên, thấy nội dung cực kỳ nhàm chán, không có thứ gì đáng để quan tâm, bèn lặng lẽ quay đi rít một ngụm khói, lại bỗng chốc nhớ tới thế cục kia. Tôi lúc này đã hoàn toàn không còn cảm thấy chút sợ hãi bất an nào, dù sao chỉ cần không có chuyện quái dị gì xảy ra là đủ an toàn rồi, nguyên tắc sống của tôi trước giờ vẫn rất đơn giản, không hề muốn làm phức tạp hóa mọi chuyện lên. Cho nên, nếu có cơ hội nói chuyện với Bạch Dực thì hỏi thử xem sao, lúc này rảnh rỗi dư thời gian thì tranh thủ lên internet tra cứu thêm vài tư liệu có ích là được.

Tôi và Bạch Dực tính cách không giống nhau, anh ta luôn luôn tìm tòi tra cứu trong sách cổ, còn tôi trực tiếp lên Baidu, Loogle và Yahoo để tìm kiếm thông tin, có thể nói, internet chính là nguồn thông tin duy nhất của tôi. Tôi dùng từ khóa "tứ khổ" để tìm kiếm thử, nhưng không thấy thứ mình thực sự muốn tìm, vì thế thay đổi một chút, tìm bằng từ "bát khổ". Quả nhiên tìm được rất nhiều kết quả, nhưng mở một vài trang ra xem thì thấy chúng chẳng có quan hệ gì tới những chuyện tôi đã gặp phải cả... Nghĩ rằng chương trình tra cứu tư liệu này không có hiệu quả, thử mở cửa sổ của những chương trình kia lên xem thử, nhưng kết quả hiện ra vẫn là như nhau.

Mãi đến chập tối Bạch Dực mới trở về, vừa kịp lúc nhìn thấy tôi tra cứu mấy thứ này trên máy, nhưng anh ta chỉ nhìn hồi lâu mà không nói gì, chỉ theo thói quen ngồi xuống cái ghế sau lưng tôi đọc sách.

Tôi tra Baidu cả buổi trời vẩn chỉ thấy vài ba tin tức chẳng rõ ràng gì, chỉ biết đây là tám loại đau khổ mà con người bắt buộc phải chấp nhận theo quan niệm của Phật giáo và Đạo giáo, nhưng hoàn toàn không có liên hệ gì tới cái gọi là "cục" cả. Phàm là con người nhất định phải chịu khổ, nào có gì đáng phải tìm hiểu đâu, cùng lắm chỉ có thể biết thêm ít kiến thức về tôn giáo thôi.

Nếu internet đã không thể trả lời cho tôi, vậy đương nhiên phải tìm người nào có thể trả lời rồi... ví dụ như Bạch Dực, anh ta chắc chắn phải biết ít nhiều vấn đề trọng tâm. Tôi quay đầu lại gọi Bạch Dực, anh ta ngẩng đầu lên nhìn tôi đầy nghi hoặc, cái nhìn của anh ta làm tôi chẳng biết phải làm sao để mở lời, nhưng không hỏi thì lại thấy cả người khó chịu. Vì thế, tôi đành ho khan vài tiếng, rụt rè hỏi: "Còn nhớ 'thế cục' mà anh nói cho tôi biết mấy bữa trước không? Thứ đó rốt cuộc là cái gì vậy? Dù sao nó cũng là xảy ra với tôi, tôi nghĩ mình có quyền được biết."

Bạch Dực chắc không ngờ đã qua mấy ngày tôi còn nhắc lại chuyện này, nên nhất thời cũng đờ ra. Bất quá suy tư một chút rồi, anh ta cũng thẳng thắn đóng cuốn sách cầm trên tay lại, rồi cứ thế chằm chằm nhìn hai bàn tay mình. Tôi không thúc giục anh ta, chỉ im lặng chờ đợi anh ta tự lên tiếng, cứ thế vài phút sau Bạch Dực mới ngẩng đầu lên nói: "Nó chính xác là một 'cục', nhưng thực ra nên gọi nó là một lời nguyền thì đúng hơn."

Nghe đến hai chữ "lời nguyền", tôi lập tức ớn lạnh toàn thân, lời nguyền luôn luôn làm tôi liên tưởng tới ác quỷ, phim kinh dị Nhật Bản, nào là Juon, nào là Ringu này nọ... Mà kết thúc luôn luôn là tâm trạng chờ chết của nhân vật chính, quả thực còn khủng khiếp hơn cả việc nghe lãnh án tử hình. Tôi ngơ ngác hỏi lại: "Không phải gọi là cục sao? Sao lại biến thành lời nguyền rồi? Anh nói rõ lại xem nào!"

Anh ta liếc nhìn tôi cười khẩy: "Cậu nghĩ cứ là lời nguyền là phải chết người à? Đừng ngắt lời, nghe tôi cho hết đã. Thực ra cái số xui xẻo của cậu phải gọi là tới cực hạn luôn ấy, kinh khủng tới nỗi ngay cả tôi cũng phải bái cậu làm sư phụ luôn. Bởi vì thứ cậu gặp phải lần này chính là 'Bát khổ khởi niệm trận' mà ngày xưa chỉ có những vị chân nhân tu sĩ mới gặp phải thôi. Mà người ta là dùng nó là để đắc đạo, còn cậu chỉ là một người phàm cho nên nó mới biến thành một loại lời nguyền cực kỳ khủng khiếp, hơn nữa, bản thân cậu cũng... rất hấp dẫn mấy thứ quỷ quái này."

Mật mã, anh ta nhất định là đang nói bằng mật mã, hoặc là đang kể chuyện cổ tích! Cái gì mà tu chân? Cái gì mà đắc đạo? Anh ta còn nói nữa thì tôi phải nghi ngờ không biết anh ta có lôi cả Thục Sơn quần hiệp truyện ra kể hết lại một lần hay không! Tôi trong lòng nghi ngờ, nhưng lại không dám cắt lời, chỉ đành im lặng nghe anh ta đến cuối, bằng không với cá tính của Bạch Dực chắc chắn lần sau có cậy miệng cũng đừng hòng anh ta nói thêm lời nào nữa. Tôi khoanh tay ôm đầu gối hỏi: "Theo cách nói của anh thì dường như nó cũng không có gì nguy hiểm? Vậy sao lúc đó trông anh dễ sợ vậy?"

Bạch Dực nhìn thấy tôi đang hoài nghi, liền ho khan nói: "Cậu không tin tôi tôi cũng đành chịu, nhưng trận pháp này là khảo nghiệm cuối cùng dành cho một người tu chân chân chính, sau khi người đó ngũ cốc giai tị rồi, thì phải nghênh tiếp trận pháp này. Trận pháp chia làm tám giai đoạn, dùng để loại trừ lần lượt tám loại đau khổ của con người, cuối cùng giúp người đó đạt được tới cảnh giới vô ngã vô tướng, thoát khỏi lục đạo luân hồi, cũng tức là thành tiên đấy."

Tôi càng nghe càng nhập tâm, thể loại huyền huyễn trước giờ vẫn là sở thích của tôi, nhưng nói đến đây thì Bạch Dực lại đột nhiên ngừng lại, nhìn tôi chằm chằm. Tôi không phản ứng kịp, chỉ biết nghệt mặt ra hỏi: "Chuyện đúng là rất hay, nhưng có liên quan gì tới tôi?"

Bạch Dực nhíu nhíu mày, dường như có vẻ rất bất mãn với thái độ của tôi, tôi vội vàng lấy vẻ mặt nghiêm túc chân thành học hỏi nhất mà nhìn anh ta, anh ta đành lắc đầu: "Ngay từ đầu tôi cũng không ngờ chúng ta sẽ gặp phải loại trận pháp này, vì nó chỉ gặp phải nơi những cao nhân đạ đạt tới cảnh giới cao nhất của việc tu hành mà thôi, nếu xảy ra với người thường chẳng phải sẽ hại chết người đó sao? Mà thực ra loại trận pháp này cũng chỉ có những người tu đạo mới có thể tự mở ra, nếu cảm thấy không vượt qua nổi thì cũng chính họ sẽ đóng nó lại, tuy phải trả giá bằng toàn bộ tu vi tích tụ được từ trước tới giờ. Đây là một loại tu hành cực kỳ nghiêm khắc, nhưng cậu - cậu lại đụng phải nó, làm tôi cũng chẳng biết phải nói thế nào." Trằm lặng một chút, anh ta lại tiếp lời: "Nhưng dù sao thì chúng ta cũng đã bình yên vượt qua được bốn trận rồi, còn bốn nữa thôi, chà chà, nói không chừng cậu còn có cốt tiên thì sao?"

Tôi bật cười, hậm hực nói: "Tiên cốt? Anh hai ơi, theo cách mà anh nói thì thứ này chỉ dành cho các vị cao nhân mà thôi, tôi đây chỉ là người trần mắt thịt, làm sao mà chịu nổi? Hơn nữa người ta còn có cách tự dừng nó lại, còn tôi gọi nó dừng nó sẽ chịu dừng sao?!"

Bạch Dực cũng không phản đối, chỉ im lặng gật đầu chứng tỏ đồng ý với cách nhìn của tôi. Thái độ trầm lặng này của anh ta làm tôi tự nhiên bất an, vốn dĩ muốn chờ anh ta ra tay cho tôi một con đường sống, nhưng xem ra chuyện này càng lúc càng mơ hồ. Tôi ngẫm nghĩ một chút rồi hỏi: "Vậy trên đời này không biết đã từng có ai vượt qua trận pháp này chưa nhỉ? Đương nhiên là trừ các vị thần tiên ra..."

Bạch Dực sờ sờ cằm nhướn mắt nhìn lên trần nhà suy nghĩ rất lâu, tôi cũng cứ thế kiên nhẫn chờ, cuối cùng anh ta nhìn xuống thản nhiên đáp: "Không có, ít ra là trong trí nhớ của tôi không hề có người nào như vậy. Cho nên tôi mới cứ thắc mắc tại sao nó lại tìm đến cậu... Nhưng chắc cũng không phiền phức đến mức mất mạng đâu nhỉ..."

Tôi có cảm giác anh ta còn gạt mình điều gì đó, vì thế vẫn hỏi tiếp không thôi: "Vậy anh có tính toán được trận pháp kế tiếp sẽ xảy ra lúc nào không?"

Bạch Dực thoáng nhìn tôi một cách khinh bỉ, lắc lắc đầu: "Cậu nghĩ tôi là ai, thầy tướng số chắc? Tuy nhiên nếu muốn tính thì thực ra cũng có thể tính được..."

Nói xong vỗ vỗ vai tôi, ý bảo tôi cùng anh ta tiến tới bên bàn làm việc. Anh ta lấy trên giá sách ra vài quyển sách, sau đó rút ra một cây bút, mở cuốn sách chỉ vào một đoạn trong đó mà nói: "Trong này có nhắc tới 'Bát khổ' của Phật giáo, thực ra Đạo giáo cũng thế, chỉ có cái khổ cuối cùng là có hơi khác nhau mà thôi. Cái gọi là 'Bát khổ', cậu cứ hiểu như là một quá trình liên tục vậy, chúng lần lượt phát sinh trong đời một con người. Ví dụ như một sinh linh, sinh ra làm người, sau đó lần lượt chịu bệnh tật, chịu già nu

a, sau cùng là cái chết, trong quá trình đó sẽ có thêm các loại khổ ái ly biệt, oán tăng hội, cầu bất đắc, ngũ âm xí thịnh các loại, nhưng tổng thể vẫn có quy luật nhất định, cho nên những người tu hành đầu tiên vẫn là chịu trận pháp 'Sinh', thể nghiệm nỗi khổ thai ngục..."

Nghe đến đây tôi bất chợt cảm thấy không đúng, liền lập tức cắt đứt lời anh ta: "Nếu đúng như anh nói thì trận pháp đầu tiên nhất định phải là 'Sinh' sao? Nhưng tôi chưa từng cảm nhận được cái gì như là nỗi khổ thai ngục mười tháng cả?"

Anh ta ngẩn ra, sau đó nghi hoặc hỏi tôi: "Trước giờ cậu chưa từng trải nghiệm cảm giác vị giam giữ trong một nơi chật hẹp suốt một thời gian dài bao giờ sao? Cảm giác giống như quỷ đả tường các loại ấy?"

Tôi vắt óc suy nghĩ cả nửa buổi, quỷ đả tường cũng từng gặp phải, nhưng không giống như cách Bạch Dực miêu tả... vì thế tôi lắc đầu: "Không có đâu, nếu có tôi đã nhớ kỹ rồi, anh nghĩ xem, những chuyện khủng khiếp như thế nhất định sẽ để lại ấn tượng rất sâu đậm, làm sao nói quên là quên được?"

Bạch Dực ngẩn người há hốc miệng hồi lâu, dường như là do không ngờ đến câu trả lời của tôi, cuối cùng anh ta hoàn hồn, lại bắt đầu lầm bầm gì đó trong miệng một lúc, vẫn chưa từ bỏ hi vọng mà hỏi lại tôi lần nữa: "Thực sự chưa từng gặp qua?"

Tôi cũng không trả lời, chỉ mím chặt môi nhìn anh ta. Rốt cuộc Bạch Dực chịu thua thở dài một tiếng, lại cau mày viết đủ "Bát khổ" xuống tờ giấy trên bàn, rồi dùng nhiều mũi tên gạch ngang gạch chéo nối từ cái này sang cái kia, vẽ ra rồi lại xóa đi, rồi lại thử cách nối tiếp khác, rồi lại viết ra những từ khó đến nỗi tôi cũng không đọc được, rồi lại gõ gõ bút xuống bàn, cau mày xóa đi.

Tôi cũng thở dài não nuột: "Có khi nào chúng ta đều hiểu lầm rồi không, có thể hoàn toàn không có thế cục nào cả, chỉ là do ở Linh viên chúng ta bị trúng Túy Mê Thảo nên gặp ảo giác thôi...?"

Nghe thấy những lời này của tôi, sắc mặt của Bạch Dực lại đột nhiên tái nhợt đi, tôi thậm chí có thể cảm thấy cơ thể anh ta đang run lên nhè nhẹ, mà trong miệng không ngừng lẩm bẩm: "Không phải cục, không phải trận pháp..." Cuối cùng anh ta buông bút, đỡ trán mà nói: "Tôi sực nghĩ tới một khả năng... mà khả năng này quả thực có thể xảy ra với cậu. Nếu tôi đoán không nhầm, thì thứ cậu gặp phải không phải là trận pháp 'Bát khổ' tu chân, mà là một lời nguyền thực sự... Một loại quỷ chú đáng lẽ ra không được quyền tồn tại! Trời đất quỷ thần ơi, nếu quả thực là 'thứ đó', vậy lần này chúng ta gặp rắc rối to rồi!"

Bạch Dực lập tức đứng lên lục tung mớ sách của mình lên, lại rút từ dưới giường ra một quyển sách dày cộp, đọc đọc hồi lâu rồi lại nhìn nhìn tôi. Cuối cùng cau mày lẩm bẩm: "Không thể nào... Tại sao lại có thể như vậy chứ... Thứ quỷ quái này lẽ ra không thể nào tồn tại kia mà..!"

Theo đà lật sách càng lúc càng nhanh, trông anh ta lại càng thêm hoảng loạn, trán cũng bắt đầu rịn mồ hôi lạnh. Nhìn anh ta căng thẳng, tôi cũng bất giác mà sợ hãi theo, trong lòng bất an suy nghĩ lung tung... Thứ mà ngay cả Bạch Dực cũng không có tự tin đối mặt, quả nhiên sẽ là một trở ngại kinh khủng. Cuối cùng chỉ thấy anh ta buông sách xuống, vớ lấy áo khoác nói: "Cậu đi nghỉ trước đi, tôi ra ngoài một chút, có lẽ đến khuya nay mới về... Không, có thể tới sáng mai mới về cũng không chừng, nói chung không cần lo lắng." Nói xong vỗ nhẹ vai tôi một cái rồi đi mất.

Tôi ngơ ngác nhìn theo bóng lưng của Bạch Dực, vội vàng đi tới mức ngay cả cửa cũng không thèm đóng, vừa định mở miệng nói với anh ta vài câu thì đã nghe tiếng chân anh ta đi xuống thang lầu. Tôi đành quay lại bàn làm việc, cầm lấy tờ giấy Bạch Dực đã viết khi nãy lên xem, trên tờ giấy ngang dọc mũi tên, trông cực kỳ lộn xộn, thoáng nhìn tưởng như một bức tranh trừu tượng, tất cả các mũi tên sau rốt đều chỉ vào cái "khổ" cuối cùng, nhưng Bạch Dực cũng đã dùng bút mà thô bạo gạch hết đi, chứng tỏ anh ta cảm thấy nó không đúng. Nói cách khác thứ trận pháp mà anh ta giảng cho tôi nghe lúc đầu thực tế là chưa từng xảy ra, vậy anh ta hoảng hốt như vậy là vì cái gì? Tôi buông tờ giấy, vẫn cảm thấy mơ hồ như cũ.

Trên ghế còn ngổn ngang đám sách mà Bạch Dực đã đem ra để tra cứu nãy giờ, vì thế tôi cũng thuận tay cầm lên liếc qua một chút, phát hiện đây là một cuốn sách nói về thuật kỳ môn độn giáp thời cổ đại. Tôi nhớ lại lời Bạch Dực nói, ban đầu bảo đây là một trận pháp, sau đó lại đổi giọng bảo là một lời nguyền thực thụ. Lật qua vài trang, cũng chỉ có thể đọc nổi một đoạn nhỏ trong đó, viết rằng: "Thiên cửu, địa nhất, phong nhị, lôi bát, sơn lục, trạch tứ, thủy thất, hỏa tam, vạn vật đều có lưỡng nghi mà biến hóa, sau thành tứ tượng, lại thành bát quái. Mà vạn vật đều có thể thay đổi không ngừng, núi non sông ngòi, càn khôn cấn ly, tất đều vì biến hóa mà biến, vô chừng vô hạn, vì thế con người mới có bát khổ, khó khăn không ngừng, không thể tính toán, cũng không thể nắm bắt, nếu nhập vào mà không bị diệt, cũng chỉ có thần."

Nói thật lòng là tôi cũng không hiểu ý nghĩa của mớ từ này lắm, nhưng theo tôi giải nghĩa từ vốn hiểu biết của bản thân cùng thiên can địa chi bát quái mà nói thì, dường như ý của nó là "tất cả mọi thứ trên thế gian này đều liên tục biến hóa, mọi vật đều là vì biến hóa mà vận động. Điều này cũng giống như con người gặp phải bát khổ vậy, cũng không theo bất kỳ một quy luật nào, bởi vì bát khổ vốn không có quy luật, nó chỉ là một loại biến hóa của vận động thế giới, chỉ có cách bài trừ toàn bộ bát khổ, lý giải những vi diệu bên trong nó, mới có thể thực sự đắc đạo thành tiên."

Tôi đóng cuốn sách để sang một bên, dù sao đối với phong thủy tôi cũng chỉ hiểu biết sơ sơ, không thể sánh bằng Bạch Dực. Cho nên rất có khả năng những gì tôi hiểu trên này cũng là hiểu nhầm, vì người thời cổ đều nói năng rất mơ hồ, chỉ mười mấy chữ cũng có thể khiến cho người ta phải hao hết tinh lực cả một đời, sự uyên thâm đó không phải là thứ mà những người sử dụng tiếng Hoa hiện đại đơn giản có thể hiểu thấu được, cho nên cũng không cần phải lãng phí thời gian làm chuyện mất công đó. Tôi bất đắc dĩ ngẩng lên nhìn đồng hồ, phát hiện đã tới giờ ăn tối, vì thế ngao ngán xuống lầu mua đại một chén hoành thánh coi như cho xong bữa. Trong lòng tôi lúc này nghi hoặc vẫn nhiều hơn sợ hãi, mãi cho đến tận thật lâu sau này nhớ lại, mới cảm thán bản thân lúc đó quả thực quá ngờ nghệch không biết lo lắng không biết nghĩ suy, bởi vì những chuyện sau đó đã phát triển theo một hướng hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi, bất quá, đó là chuyện sau này.

Ăn no xong trở về phòng, trời đã tối tự lúc nào. Trong phòng vẫn tối đen, chứng tỏ Bạch Dực vẫn chưa về, vì thế tôi lại mở mạng chơi game thêm một lúc. Được cùng đám bạn game cười nói vui vẻ một hồi, cũng tạm quên tất cả những chuyện quỷ quái sau lưng. Cho đến khi khuya trờ khuya trật, đám bạn cũng lần lượt nói lời tạm biệt logout đi ngủ, tôi mới bất đắc dĩ tắt máy vi tính đi tắm. Thực ra có nhiều lý do tôi không muốn tắt máy, thứ nhất là vì không dám nghĩ tới thứ cục quái dị kia, thứ hai là vì thực lòng có hơi sợ, Bạch Dực không có nhà, trong phòng chỉ có một mình tôi, cảm giác như trống trải vắng vẻ đi rất nhiều, lại dường như cảm giác có ai đó đang đứng sau lưng mình chằm chằm nhìn theo. Tuy tôi không phải loại đặc biệt yếu bóng vía, nhưng thái độ và vẻ mặt kinh khủng của Bạch Dực ban ngày đã làm tôi sợ chết khiếp, thực sự không dám nghĩ tới có thứ gì trên đời này có thể làm một Bạch Dực luôn lạnh lùng bình tĩnh như một khối băng lại phải sợ đến thế!

Xem ra, chuyện này tuyệt không đơn giản.

Tôi vừa nói câu được câu chăng với những bạn chat trên QQ vừa ghi lại những chuyện đã xảy ra từ sáng tới giờ vào blog riêng của mình làm nhật ký. Cho tới khi cái nick cuối cùng trên QQ cũng mờ đi, tôi đành bỏ máy chuẩn bị đi ngủ. Nằm trên giường lại bắt đầu không nhịn được mà suy nghĩ về những chuyện khiến bản thân bất an, cũng may quả thực đã quá mệt mỉ, nên suy nghĩ không được bao lâu liền thiếp đi.

... Hoặc cũng có thể là do mệt quá, nên ngủ chỉ được chốc lát lại đột nhiên bừng tỉnh. Cảm giác này quả thực rất khó chịu, vì suy nghĩ quá nhiều, nên không ngủ được thẳng giấc, chỉ cần gió thổi cỏ lay cũng đủ làm cho giật mình. Tôi nhíu nhíu mắt, định xuống giường uống một ly nước rồi quay lại ngủ tiếp. Mệt mỏi cầm lấy cái ly, "ừng ực" uống hai ba ngụm nước lạnh, cánh cửa sổ dường như bị gió thổi hé ra một chút, phát ra tiếng kẽo kẹt nhè nhẹ. Bạch Dực vẫn chưa trở về, lúc này đã là hơn 2 giờ đêm, tôi không khỏi có chút lo âu không biết anh ta ra ngoài làm gì, nhưng rồi lại lập tức thương mình, lăn lộn cả một ngày, mà đêm đến ngủ chưa được một tiếng đồng hồ đã tỉnh.

Đêm đó gió bất chợt thổi mạnh, làm những cánh cửa sổ chưa khép kỹ ngoài hành lang không ngừng vang lên những tiếng cành cạch. Tôi gãi gãi tóc, than thở vài câu rồi lại mơ màng quay về giường. Nhưng có lẽ là do uống nước lạnh, nên bất giác mà cảm thấy lạnh buốt trong bụng, tôi vô thức dém chăn thặt chặt, chỉ để lộ nửa gương mặt để hô hấp. Qua hồi lâu, tiếng động ngoài hành lang dịu đi dần, gió cũng ngớt, nhưng trên nóc nhà lại không ngừng truyền tới những tiếng lách cách như có thứ gì tròn rơi trên nền nhà, giữa màn đêm yên tĩnh càng đặc biệt điếc tai. Tôi trở mình một cái, bất mãn nghĩ thầm: "Tên nào ở tầng trên cũng thật điên, nửa đêm rồi còn chơi bắn bi?!" Nhưng không ngờ khi tôi vừa nghĩ thế, thì tiếng động cũng bất thình lình biến mất, dường như người bên trên nghe thấy câu nói bất mãn của tôi vậy. Tôi thấp giọng làu bàu: "Đúng là kỳ lạ", nhưng rồi chẳng mấy chốc mà cảm thấy ý thức mình bắt đầu dần dần trôi đi, từng chút một tiến vào cõi mộng. Lần này, tôi biết mình sắp ngủ rất sâu, sẽ không thức dậy nửa chừng nữa mà có thể một giấc tới hừng đông, nghĩ thế rồi, cảm thấy vô cùng thỏa mãn.

Lại trở mình một cái. Cảm giác thân thể hoàn toàn thả lỏng, tôi thoải mái duỗi thẳng hai chân. Nhưng lần này lại phát hiện mình không thể duỗi chân ra được, dường như có thứ gì chặn dưới chân vậy. Tôi vô thức đá đá vào nó mấy cái, nhưng thứ kia cứng như đá, cứ lù lù ở đó không dịch chuyển một ly. Tôi thử vươn cao đầu, nhưng phát hiện trê

n đầu mình là đầu giường không nhích lên được nữa. Chẳng lẽ trong một đêm tự nhiên cao lên? Cái này phải nói là phép màu trời ban rồi? Tôi bị ý nghĩ của mình làm cho vui vẻ, liền bật cười mở mắt nhìn xuống, nhưng trong tích tắc đó, nụ cười vừa thoáng hiện trên môi cũng lập tức đông cứng lại, cặp mắt trong thoáng chốc mở to, không dám tin vào những gì mình đang thấy.

Trời đất ạ, không phải là do tôi cao lên, mà là do dưới chân tôi có một người đang ngồi kia!

Ánh sáng quá mờ nhạt chỉ có thể nhìn thấy đại khái, nên tôi lại dùng chân thử chọc chọc vào nó, phát hiện thấy nó cứng như một khối đá. Bằng cảm giác của mình, tôi dám thề kẻ đó không phải là Bạch Dực, vóc dáng cũng không giống. Nó cho tôi cảm giác rất nhỏ, như là một đứa bé... Một đứa bé?!

Chương 50: Quỷ chú (Nhị)

Tôi lập tức giật nảy cả người lên như bị điện giật. Thật kỳ quái, tôi lăn qua lăn lại trên giường nãy giờ, nếu đứa nhỏ này là một đứa bé... bình thường thì nó phải đánh động tôi chứ, sao chỉ biết im lìm ngồi một chỗ như vậy? Lẽ nào... nó cũng là một phần của tứ khổ? Vậy, nó có thực là con người hay không? Đau khổ nhất là, Bạch Dực lại nhè đúng lúc này mà vắng mặt, bên cạnh tôi hoàn toàn không có ai hỗ trợ... Nhưng mà nghĩ lại thì cho dù lúc này anh ta có mặt ở đây chắc cũng chẳng giúp được gì, lẽ nào muốn hai chúng tôi đem đứa bé này đến công viên chơi đu quay ngựa gỗ?

Tôi chỉ có thể nhìn thấy đứa trẻ nọ từ sau lưng, tấm lưng vừa gầy vừa nhỏ, lúc ngồi còn hơi còng xuống. Lúc này đột nhiên tôi cảm thấy bóng lưng này sao có phần quen thuộc đến thế, dường như đã từng gặp qua ở đâu... tự nhiên lại nghĩ chẳng phải rất giống Nhạc Lan sao... Không! Không thể nào! Cô bé đã qua đời rồi kia mà, sao có thể quay lại ngồi trên đầu giường nhà tôi được!

Tôi kinh hoảng ngồi bật dậy, không dám tiến tới xác nhận suy đoán của mình... Nhiệt độ trong phòng đột nhiên trong khoảnh khắc chợt hạ xuống đột ngột, tôi thậm chí có thể cảm thấy gió ngoài cửa sổ cũng ngừng bặt, trên nóc nhà, lại bắt đầu vang lên những tiếng lạch cạch khe khẽ. Bóng người nhìn rất giống Nhạc Lan kia bỗng nhiên ngẩng đầu nhìn lên trần, chợt vang lên những tiếng gào thảm thiết như tiếng vượn hú, sau đó, những tiếng lạch cạch cũng biến mất. Tôi thấy nó không làm hành động nào khác, liền nhỏ giọng run rẩy hỏi: "Là... là Nhạc Lan đấy à?"

Nhưng bóng lưng kia không hề động đậy, chẳng lẽ không phải cô bé? Tôi vô thức liếm liếm môi định hỏi lại, chợt từ bóng lưng nọ truyền tới giọng nói quen thuộc: "Vâng..."

Quả nhiên là cô bé... Nhưng không thể nào! Cô bé thực sự đã chết rồi mà, lúc hỏa táng cho cô bé, tôi cũng có mặt ở đó mà! Chết tiệt, chẳng lẽ là chết rồi còn hiện hồn về thăm tôi? Hay là... hay là muốn dẫn tôi theo? Trong lúc tôi còn đang hoảng loạn suy nghĩ lung tung, thì cô bé vẫn cứ im lìm ngồi yên đó, không hề có ý định quay đầu lại. Tôi suy tính mãi, cảm thấy cảm tình của mình với cô bé không tệ, nếu có oán có hận tuyệt đối cũng không đến tôi phải gánh, vậy bây giờ quay lại tìm tôi là vì cái gì? Vì thế, tôi cố tỏ ra bình tĩnh hỏi lại: "Em... em không phải đã chết rồi sao...?"

Thân thể Nhạc Lan không hề động đậy một ly, nhưng giọng nói vẫn cứ đều đều phát ra: "Vâng..."

Sao chỉ có một từ "vâng" duy nhất thế này? Tôi muốn hỏi kỹ hơn, nhưng lại sợ hỏi phải những câu không nên, nên đành im lặng nhìn bóng lưng của cô bé.

Qua một hồi, bất chợt Nhạc Lan lên tiếng: "Thưa thầy... thầy có khả năng sắp gặp nguy hiểm, hơn nữa có khả năng sẽ mất mạng... Lần này em đến là để nói cho thầy biết những điều cuối cùng em đã nhìn thấy..."

Tôi nhớ lại lúc đó khi cô bé nói với chúng tôi là nhìn thấy cái chết của chính mình, tiếp theo đó là tôi và Bạch Dực dùng hết mọi cách muốn cứu cô bé mà không thành công, cô bé vẫn là một nữ thần báo tử đáng sợ. Vì thế lần này chỉ một lời của cô bé, đã khiến cho tôi như nghe phải án tử hình, cả người lạnh toát như nhiễm sương, một nỗi sợ hãi chậm rãi từ đáy lòng sinh sôi, lặng lẽ lan tràn. Bất quá, hay ý của cô bé là cái chết của nó còn có uẩn khúc gì khác? Nó đến đây, là để nói cho tôi biết oan ức của mình?

Nghĩ thế, tôi vội vàng hỏi: "Cái gì? Em còn nhìn thấy cái gì nữa? Có gì em cứ nói đi,   có thể giúp được em thầy nhất định sẽ cố gắng hết sức..."

Nhạc Lan đáp: "Là về cái chết của thầy."

Mặc dù đã có chuẩn bị tâm lý, nhưng lòng tôi vẫn run bắn lên. Mặc dù cũng đã đoán đến mức này, vì dẫu sao thì toàn bộ những chuyện quái dị gần đây đều xoay xung quanh trận pháp đáng sợ kia, lần này Nhạc Lan tới đây, có lẽ, cũng là để mang tôi theo? Tôi cúi đầu, lần đầu tiên trong đời cảm nhận trực diện nỗi kinh hoàng khi đối mặt với cái chết dần dần tới gần mà không sao ngăn cản nổi, giống như một kẻ phạm tội vừa lãnh án tử hình. Một thứ cảm giác gần như là căm hận số phận bất công chợt trào lên đắng nghét trong lòng, khiến tôi không khỏi tự giễu mà nghĩ thầm: A, quả nhiên cái số của mày chỉ đưa đến đường này thôi mà, không biết có nên đem chuyện đời viết thành kịch bản bán cho mấy nhà làm phim hay không?!

Nghĩ đến đây, tôi vuốt mặt cười nhẹ: "Nếu em bảo thầy sắp chết, vậy lần này em đến là để làm gì? Định đưa thầy đi cùng sao?"

"Thầy là người cuối cùng em nhìn thấy, cũng là người duy nhất em không thể nói rõ hoàn cảnh thời gian khi chết, nên em đến nói cho thầy biết cảnh tượng mà em nhìn thấy."

Tôi dùng bàn tay đè chặt lên huyệt Thái Dương đang âm ỉ đau đớn mà hỏi: "Vậy thầy chết như thế nào?"

Giọng nói lạnh như băng của cô bé lại cất lên, kể lại những gì cô bé đã nhìn thấy trước khi chết: "Em thấy một đám khói đen khổng lồ, giữa đám khói có rất nhiều rất nhiều những gương mặt vàng như sáp nến, bọn họ mang theo đủ loại biểu cảm trên gương mặt, cả đám khói đen đều vây chặt xung quanh thầy, những gương mặt đó cũng vây lấy nhìn chằm chằm thầy... Cuối cùng thầy bị một cây trường mâu rất lớn đâm xuyên qua cơ thể, rồi dần dần bị khói đen biến hóa thành một trong số những gương mặt kia, mặt của thầy... cũng xuất hiện trong số những gương mặt thống khổ chìm trong đám khói đen đặc..."

Tôi chỉ biết ngơ ngác nghe cho hết những lời của Nhạc Lan, nhưng lần này giọng của cô bé không biến khàn như những lần tiên đoán khi còn sống, mà vẫn giữ chất thanh tao bình thường, chỉ có điều trong giọng nói vẫn lạnh lùng thờ ơ như thế, không có lấy một chút cảm tình.

Nói xong, Nhạc Lan lại im lìm ngồi yên lại bên đầu giường, không cử động thêm nữa, tôi chợt nghĩ, vì sao cô bé không chịu quay lại nhìn tôi nhỉ? Nói chuyện phải đối diện mà nói, nó ngồi xoay lưng lại như thế làm tôi bất chợt nảy sinh lòng nghi ngờ, không biết đứa bé này có thực là Nhạc Lan hay không? Hay phải nói đúng hơn là, kỳ thực, tận đáy lòng tôi vẫn là không muốn tin những gì nó nói. Vì thế, tôi cảnh giác hỏi lại: "Nhạc Lan, sao em cứ quay lưng về phía thầy như thế?"

Nhạc Lan lặng im hồi lâu, mãi sau mới nói: "Vì em đã chết rồi... Thầy sẽ sợ..."

Tôi không đáp lại, vì lúc này tôi càng hoài nghi hơn, người này tuy có giọng nói rất giống Nhạc Lan, nhưng dù sao tôi cũng chỉ mới quen biết cô bé có vài tháng, huống chi bóng người này quả thực không giống như một "con người" bình thường, có thể nào là một kẻ khác giả dạng Nhạc Lan tới truyền lệnh chết cho tôi, hay là, hay là chính nó là một phần của "thế cục"? Tôi vừa cố gắng bắt chuyện với nó, vừa cẩn thận nhích từ từ tới gần, nếu như không thể xác nhận thân phận của đứa bé này, vậy không cần phải tin nửa chữ nó nói rồi!

Tôi hỏi: "Vì sao lại phải sợ? Thầy và em cảm tình không tệ, em cũng đâu có oán hận thầy phải không? Còn nữa, em nói thầy sẽ chết ở chỗ nào?"

"Thầy sẽ chết, nhưng chết ở một nơi rất kỳ quái, nơi đó không nằm trong thành phố này. Nơi đó tứ phía đều là khói đen, giống như một ngôi mộ..."

Nghe đến đây, bất thần nhớ tới giấc mộng đáng sợ đã từng gặp, làm tôi cực kỳ kinh ngạc. Nếu chính là nơi đó, vậy đứa bé này nếu không phải Nhạc Lan thì nhất định cũng biết rất nhiều bí mật, nghĩ đến đây, tôi kích động nắm chặt vai nó mà xoay người nó về phía mình. Một gương mặt vô cùng quỷ dị đập thẳng vào mắt tôi. Tôi lập tức há hốc miệng hét to một tiếng, thiếu chút nữa trật cả khớp hàm. Đó là một gương mặt vàng vọt nhăn nheo như giấy cũ, mà trên đó kinh khủng nhất chính là đôi mắt, bởi vì nó hoàn toàn không có đôi tròng mắt, chỉ có hai hốc đen tối sẫm xung quanh trải đầy tơ máu, và một đôi môi nhăn nheo như vỏ quýt khô không có chút sắc máu.

Thế nhưng, cũng chính là gương mặt của Nhạc Lan.

Cho dù đã biến thành tình trạng vô cùng khủng khiếp, nhưng đường nét gương mặt vẫn không hề thay đổi, chỉ là đổi thành một sắc vàng ệch như sáp mà thôi. Tôi lắp bắp "Em... em..." cả nửa buổi vẫn không sao thốt lên được một câu hoàn chỉnh. Nhạc Lan lại nhẹ nhàng xoay lưng lại: "Em không còn đôi mắt nữa, cho nên cũng không còn bị nguyền rủa nữa đâu ạ. Vì vậy thầy không cần phải thương cảm cho em, em đã được giải thoát. Nếu em mà còn sống, thì đã thực sự biến thành quỷ mất rồi..."

Nhạc Lan vẫn cứ quan tâm đến người khác như thế, cho dù đã qua đời vẫn không làm thay đổi bản tính lương thiện của cô bé. Tôi lặng người ngồi thẫn thờ sau lưng Nhạc Lan, lúc này đã biết chắc chính là cô bé, cũng hiểu rõ bản thân mình quả thực đã gặp phải kiếp nạn chết người. Không biết là vì sợ đến điếng hồn, hay là vì biết chắc không có ai cứu nổi mình nên đành phó mặc buông xuôi, mà tôi chỉ cảm thấy cả hơi thở của mình cũng dường như yếu hẳn đi, cảm giác vô tư lự ban ngày cũng bị quét sạch chẳng còn lại chút tự tin nào, thay vào đó, là một sự kinh hoàng ngấm ngầm mà độc địa chưa từng cảm thụ bao giờ. Cả cơ thể chợt không rét mà run, máu trong huyết quản cũng như đông cứng hoàn toàn thành đá, lạnh đến mức tôi chỉ còn biết nắm thật chặt hai tay, dùng hết toàn bộ sức mạnh tinh thần mà ngăn cản bản thân đừng kích động hay phát điên.

Nhạc Lan vẫn cúi thấp đầu, đều đều nói: "Thế nhưng em còn biết thêm một việc nữa, là cảnh tượng em nhìn thấy khi lần đầu tiên gặp thầy. Lúc trước em không hiểu nó có nghĩa là gì, nhưng lúc này em nghĩ, có thể nó liên quan tới một cách có thể cứu mạng thầy cũng không chừng. Em đã đem nội

 dung cụ thể của nó viết thành một bức chúc thư gửi lại cho thầy, sau đó vì ngây thơ tin rằng mình đã thoát được cái chết, nên em lại đem bức thư đó đặt dưới tấm bia mộ của cha em rồi. Lúc đó em chỉ nghĩ, nếu thực sự thoát nạn, em nhất định đưa thầy tới thăm mộ cha em, sau đó, chọn một thời điểm thích hợp đưa cho thầy xem. Vì em cứ sợ... sợ nếu em nói ra, thầy cũng sẽ giống như những người khác ghét bỏ em..."

Tôi muốn đưa tay xoa đầu cô bé, nhưng không biết vì sao chợt cảm thấy do dự, cuối cùng, lại bỏ tay xuống. Chỉ nhẹ nhàng nói: "Không đâu, em vĩnh viễn là cô học trò ngoan của thầy, là người bạn tốt của thầy, có thể quen biết em, thầy cảm thấy rất vui."

Cô bé sẽ gật đầu, rồi chậm rãi đứng lên. Đến lúc này tôi mới nhận ra là Nhạc Lan mặc bộ quần áo ngày khâm liệm đã mặc, trong tay còn nắm chặt một khối đá to. Viên đá Thái Sơn này là do thân thích của cô bé bỏ vào mộ, vì nghĩ cô bé khi còn sống không được bình thường, nói là để chôn cùng, nhưng thực ra là do sợ cô bé hóa thành quỷ quấy phá. Nhạc Lan chết đi rồi cũng vẫn không được người đời chấp nhận, viên đá nắm chặt trong tay cô bé mang theo một thứ cảm giác bất đắc dĩ vô cùng thê lương. Nhạc Lan khẽ nói đã đến giờ, rồi tiến ra mở cửa phòng, nhưng lại dừng lại một chút ngay trước thềm. Cô bé khẽ nghiêng người cúi thấp đầu, nhẹ nhàng nói một câu: "Thầy, bảo trọng."

Tôi vốn muốn đáp lại một câu gì đó, nhưng cổ họng cứ như bị thứ gì chặn tắc nghẹn, không sao thốt nên lời. Tôi biết mình không có khả năng gặp lại Nhạc Lan lần nữa, trừ phi là chết, nhưng đến lúc đó mà gặp lại chẳng biết đã thành cái dạng gì rồi? Tôi cảm thấy từng đợt đau thắt dâng lên trong lòng, đến mức gần như phát điên, chỉ biết điên cuồng cào rứt tóc, trong lòng không ngừng gào thét: Không, không muốn chết, không thể chết, không muốn không còn được nhìn thấy ánh mặt trời, không muốn không thể tiếp tục nở nụ cười, không muốn... không muốn không thể ăn cơm Bạch Dực nấu nữa... Không muốn chỉ còn lại một bình tro tàn cốt lạnh, làm một u hồn mờ mịt chốn hư vô!

Cái chết thật quá khủng khiếp, quá đáng sợ, tôi nằm co mình trên giường vừa run lẩy bẩy vừa tưởng tượng miên man. Gió ngoài cửa vẫn gào thét lạnh căm căm, cánh cửa sổ ngoài hành lang theo gió đập lạch cạch, từng tiếng từng tiếng một như đập thẳng vào đáy lòng. Hóa ra, tôi cũng là một kẻ sợ chết đến vậy...

Cứ như thế mơ mơ màng màng, nửa tỉnh nửa mê đến buổi trưa hôm sau tôi vẫn nằm trên giường, cả đi làm cũng không màng. Cuối cùng miễn cưỡng xốc lại tinh thần uể oải rời giường, tôi mới nhận ra bản thân mình lúc này thê thảm đến thế nào. Cả cơ thể giống như mất ngủ trọn một đêm, mệt mỏi hư thoát lảo đảo bước trên sàn nhà như đang bước trên mây. Tôi lau mặt một cái, rồi nhìn vào gương, phát hiện bóng phản chiếu trong gương của mình như thực sự bị nguyền rủa không bằng, sắc mặt tái nhợt đến dọa người, mái tóc dài thượt che khuất cả một bên mắt. Tôi không khỏi chút giật mình thảng thốt, gương mặt này mà thực là mình sao? Vội vàng vớt nước dấp thật nhiều lên mặt, tự nhắc nhở bản thân phải thật tỉnh táo thật bình tĩnh, nếu không còn chưa kịp chết vì bị lời nguyền đeo bám thì đã chết vì sợ hãi quá mức rồi. Lại nắm chặt tay cố sức đấm một cú vào tấm gương, đương nhiên cũng không dám dùng hết sức, chỉ là tìm cách giải thoát những cảm xúc tiêu cực trong người mà thôi. Chỉ có những cơn đau đớn từ nắm tay truyền tới mới chứng minh cho tôi biết, mình vẫn còn đang sống. Một hồi lâu sau, rốt cuộc đã khôi phục lại được sự điềm tĩnh bình thường, tôi bèn lấy khăn lau khô nước trên mặt, tỉ mỉ vệ sinh lại một chút, mới ra khỏi nhà vệ sinh.

Bạch Dực không hiểu sao vẫn chưa thấy về.

Tôi rót một ly sữa uống vài hớp, thấy bao thuốc đêm qua còn để lại trên bàn vi tính, liền rút ra một điếu châm lửa rít mạnh vài hơi, nhất thời cảm thấy bình tĩnh hơn hẳn. Chậm rãi ngồi xuống ghế, đầu óc lập tức tự động nhớ tới những chuyện xảy ra đêm qua, gặp lại Nhạc Lan có lẽ chỉ là báo mộng, vì cửa trước vẫn khóa chặt, cô bé chắc chắn không thể vào được. Nhưng cũng chính vì thế mà tôi vẫn còn chút nghi hoặc, Nhạc Lan đã biết được những gì, mà giấc mộng đó liệu có đáng tin hay không?

Hút thêm vài hơi, cảm thấy cổ họng đắng nghét, tôi bèn uống thêm chút sữa rồi mở máy vi tính. Vừa mở tài khoản QQ, liền thấy có mấy tin nhắn nảy ra, nào là sao không thấy vào trò chơi, hoặc nói dăm ba câu chuyện phiếm. Duy chỉ có một tin nhắn làm tôi cảm thấy cực kỳ có hứng thú, là của một người bạn cùng học trung học, vì xa nhau đã lâu nên bình thường ít khi liên lạc. Tin nhắn của cậu ta là thấy trong blog QQ của tôi có viết những điều thú vị, nên muốn tìm tôi kể cho nghe một chuyện.

Đêm qua tôi đem mấy chuyện về "Bát khổ", "Khởi niệm trận" vân vân viết hết lên QQ, thứ nhất là để bớt buồn chán, thứ hai cũng là để lưu lại những thông tin cho bản thân sau này phòng khi cần tới. Cậu bạn này thấy nhật ký của tôi, bèn cũng gửi lại một ít tư liệu mà cậu ta có được. Hóa ra sau khi tốt nghiệp, cậu ta liền vào bảo tàng làm hướng dẫn viên, cậu ta nhớ là gần đâu có một cuộc triển lãm, trong đó có thứ có liên quan tới những nội dung tôi đã ghi trong nhật ký. Cuộc triển lãm chủ yếu trưng bày một thứ lễ khí (đồ dùng để tế lễ) làm bằng Thanh đồng (đồng xanh) và thời Thương Chu, trên lễ khí có khắc những nội dung có liên quan tới "Bát khổ khởi niệm trận" mà tôi muốn tìm hiểu. Phía dưới trận pháp này có ghi lại rất nhiều cái tên, nhưng không phải tên của những vị tiên đắc đạo, mà toàn là tên của những ác quỷ đã hóa thành oán quỷ. Những cái tên của quỷ này bị khắc lên lễ khí Thanh đồng, dùng để trấn giữ ở ngay giữa đoạn sông nguy hiểm phong ba nhất. Người xưa cho rằng ác quỷ là những loại tồn tại mà ngay cả thần linh cũng phải kiêng dè ba phần, cho nên đây giống như là một cách đáp trả lại những vị thần "thờ ơ" làm con người cầu nguyện mãi mà vẫn không linh nghiệm. Cách suy nghĩ này cũng là thông thường đối với người cổ đại, ví dụ như những khi đại hạn dữ dội thì đem Long vương ra phơi nắng chẳng hạn.

Theo ý kiến của cậu ta thì những con ác quỷ này đã bị con người bắt được bằng cách nào đó, sau đó bị nhốt trong trận pháp đời đời không được siêu sinh, cho nên oán khí của chúng cực kỳ khủng khiếp. Lũ ác quỷ này khi còn sống đều đã sắp đắc đạo thành tiên, nhưng chỉ vì sai một ly mà đi một dặm, từ thiên đường hạ thẳng xuống địa ngục. Kết quả là không thể thành thần, mà chỉ thành quỷ.

Vừa đọc thấy tin nhắn này tôi lập tức nhắn tin lại cho cậu ta, hỏi cậu ta có thể nói rõ hơn được không. Hai mươi phút sau di động của tôi reo lên, vội vàng mở ra nghe, quả nhiên là cậu ta. Cậu ta bảo giải thích bằng QQ không rõ ràng lắm, nên muốn nói chuyện trực tiếp.

Bên kia điện thoại vang lên giọng cậu ta: "A lô, là An Tử đấy à?"

Tôi bước tới bên cửa sổ nói: "Tớ đây, Ngưu Bì Đường (da trâu đường - ý nói dai như kẹo kéo)

 đấy à... Ờ rồi rồi khi nào có thời gian nói chuyện nhảm hãy cãi nhau sau, lúc này tớ có chuyện quan trọng cần hỏi đây. Cậu bảo cái lễ khí Thanh đồng khắc tên ác quỷ đó còn ở lại viện bảo tàng chỗ cậu đúng không? Vậy cậu chịu khó chụp cho tớ một tấm hình, nếu có thêm ít tư liệu thì càng tốt, được không? À, gửi tới địa chỉ mail của tớ ấy!"

"Cái này... ừ thôi cũng được, khi nào tan ca tớ sẽ thừa dịp chụp cho cậu một tấm, nhưng mà tớ nói trước, cái thứ quỷ đó thực sự rất là tà đạo nha. Từ lúc nó tới đây cái viện bảo tàng này chưa có ngày nào được yên cả... Mà cậu cần nó là vì cái lời nguyền gì đó trên blog của cậu đúng không? Ban đầu tớ còn tưởng cậu chán chơi game mà chuyển qua viết tiểu thuyết huyền huyễn chứ!"

Tôi thực sự không muốn nói nhiều về chuyện này, nhưng dù sao cũng là có việc phải nhờ người ta, nên tôi cũng úp mở vài câu cho qua chuyện, những gì quan trọng nhất thì giữ kín. Dù sao đi nữa thì có thêm cậu ta biết chuyện cũng chẳng giúp được gì, nhưng ngược lại, thứ lễ khí Thanh đồng kia có thể lại giúp tôi được rất nhiều.

Cậu ta nói: "Thôi được, nếu cậu cần giúp đỡ thì tớ cũng sẵn lòng, nhưng cậu phải chờ một lúc đấy. Dù sao thì quy định cũng đã nói rất rõ ràng là trong viện bảo tàng không được phép chụp ảnh, cho nên tớ cũng chỉ phải chờ đến khi mọi người về hết rồi mới có thể lén chụp cho cậu một tấm được. Cho nên cậu đừng có hối, chờ tớ chụp được rồi sẽ gửi cho."

Tôi vội vàng cảm ơn cậu ta rối rít, hứa sau này nhất định sẽ đền ơn xứng đáng.

Quả nhiên có quan hệ rộng rãi cũng là một chuyện rất tốt, cuối cùng cũng có được chút đầu mối, tôi cũng từ từ khôi phục lại được sự bình tĩnh thường lệ. Chuyện này vẫn cần bản thân phải tự tìm cách giải quyết là chính, chỉ có chủ động tìm hiểu, mới không lo sau này bị rơi vào thế bị động. Ngay lúc đó Bạch Dực cũng nhắn tin về, bảo là anh ta sắp về tới nhà. Anh ta xem chừng rất vất vả, nghe nói là đang ở trên xe lửa, đang trên đường về. Tôi không biết phải nói sao, chỉ đành đáp là ở đây tôi cũng đã tìm ra vài điều, chờ anh ta nhanh nhanh trở về cùng nhau nghiên cứu.

Tắt điện thoại di động, tôi lại xuống nhà tìm đại thứ gì đó ăn đỡ, sau đó lại quay lại dán mắt vào máy vi tính bồn chồn chờ tin tức từ người bạn. Nhưng ai ngờ cậu ta cũng thật lề mề, tôi đợi mãi từ trưa đến chiều khi mặt trời sắp tắt mà cậu ta vẫn chưa hề có nửa phần tin tức. Cuối cùng, khi tôi sắp đợi hết nổi chuẩn bị đi ngủ, thì màn hình QQ im lìm mới nhảy ra một tin nhắn với file đính kèm. Tôi kích động lập tức tải xuống, nhưng tốc độ tải hơi chậm, tôi nôn nóng đến mức muốn cắn răng cắn lợi, chân nhịp nhịp căng thẳng chờ nó tải xong. Tải xong rồi, lập tức vội vã giải nén, mở file ra xem, bên trong có vài bức ảnh chụp một thứ đồ Thanh đồng, cậu chàng này chụp hình vốn không chuyên nghiệp, nhiều tấm vì ngắm sai tiêu cự nên nhìn cứ nhòe nhòe lệch lệch, rõ ràng là chụp trong tình trạng cực kỳ khẩn trương. Cuối cùng tôi phải đem hết mớ hình vào chương trình photoshop chỉnh lại độ nét, mới có thể nhìn thấy những chi tiết trên hình. Trong hình là một cái vò hoa văn rồng cuộn, bốn phía chạm bốn con quỳ long[1]

 đuôi dài, trên thân vò cũng có những hoa văn quỳ long biến thể. Hai bên hông vò có khắc rất nhiều văn tự cổ, tôi đọc không được, nhưng ma

y mắn là bạn tôi có gửi theo một số tài liệu nội bộ của viện bảo tàng bọn họ, trong đó giải thích tất cả những điều mà cậu ta có thể biết được.

[1] Quỳ long: một loại động vật có hình dáng giống rồng trong truyền thuyết xưa.

Quả nhiên đây là một loại lễ khí dùng để tế tự, khai quật được từ khu vực khảo cổ ở Trúc Ngõa huyện Bành tỉnh Tứ Xuyên, niên đại khoảng đầu thời Tây Hán, trong số những cái tên trên hông vò thì chỉ mới tìm hiểu được một cái tên, là Phàn Nhuế, là một người tu hành hơn 70 tuổi. Truyền thuyết nói ông ta có khả năng hô phong hoán vũ, lên trời gặp tiên, ông ta được ghi chép lại trong lịch sử là vì ông ta là một cao nhân cực kỳ có tiếng tăm thời bấy giờ, triều đình từng nhiều lần muốn vời vào làm quan, nhưng những văn nhân kẻ sĩ thời xưa hầu như đều có cùng một cái bệnh, là "không ăn thóc nhà Chu" [2]

. Cho nên một con người lợi hại như vậy mà chỉ thoáng lướt qua trong lịch sử như một ánh nhàn nhạt, sau đó lập tức tan biến, không ngờ đến bây giờ lại xuất hiện trên cái vò này.

[2] Bá Di và Thúc Tề trung thành vua Trụ, không chịu ăn thóc nhà Chu mà ăn rau để sống. Sau có người bảo rau đó mọc trên đất Chu, cũng là của nhà Chu, liền nhịn đói mà chết.

Bạn tôi còn đính kèm một bản báo cáo tình hình lúc khai quật được cái vò này. Nó được phát hiện ở sông Vị Thủy, từ lúc khai quật trời đột nhiên đổ mưa không ngừng, có nhiều nông dân ở trong vùng đều nói rằng đã nhìn thấy rất nhiều bóng người mờ mờ ảo ảo lướt qua trong mưa, còn nói có thể là âm binh mượn đường, nên đều đổ về nhà tìm vải đỏ cột ngang thắt lưng rồi mới dám quay lại đào. Khi đào ra được thứ nọ, họ bèn giao lại cho chuyên viên nghiên cứu, nhưng không ngờ khi mở ra thì cất giữ bên trong không phải là rượu ngon rượu quý gì cả, mà là một đống lầy nhầy không biết là cái gì màu đen thẫm, mùi hôi thối đến lợm mửa, làm không biết bao nhiêu người có mặt ở đó phải nôn thốc nôn tháo. Mọi người chịu không nổi, bèn đổ hết đám đen đen đó ra phong kín lại chờ xét nghiệm sau, còn cái vò thì mang về nghiên cứu. Nhưng chuyện lạ cũng từ đó mà liên tục phát sinh. Nhóm chuyên gia đầu tiên bắt tay vào nghiên cứu cái vò nọ đều lần lượt gặp tai nạn trong quá trình khai quật, không có một ai còn sống trở về. Nhóm chuyên gia thứ hai được phái tới lại gặp phải tai nạn xe cộ trên đường. Cho nên không ai phái thêm nhóm thứ ba nào nữa. Nhưng dù sao cái vò vẫn là một món văn vật quan trọng, huống chi sau đó cũng không xảy ra chuyện gì đáng tiếc nữa, bèn được đưa tới viện bảo tàng triển lãm, nhưng từ khi nó xuất hiện ở bảo tàng, những người ở đó chưa từng có một ngày yên ổn. Đôi khi sẽ nhìn thấy bóng rất nhiều người vây quanh nó khóc lóc, nhưng những kẻ đó lại hoàn toàn không phải là người, chưa kể thỉnh thoảng từ cái vò còn phát ra những trận hôi tanh tưởi. Giám đốc bảo tàng cũng là người hiểu biết, nhận ra cái vò này sát khí quá nặng, liền dùng hai thanh kiếm Thanh đồng thời Tây Chu trấn hai bên, mũi kiếm chĩa thẳng vào cái vò, mới chặn lại được những chuyện kỳ quái nọ.

Tôi vừa đọc xong hết mớ tài liệu thì Bạch Dực cũng vừa vặn đẩy cửa bước vào, trông anh ta như đã vất vả cả đêm nên nhìn có vẻ rất mệt mỏi. Tôi thực sự cảm thấy áy náy, liền ân cần ngã cho anh ta một ly trà, để anh ta nghỉ ngơi. Nhưng vừa uống một hai hớp, Bạch Dực liền mở miệng hỏi ngay: "Cậu bảo có phát hiện mới quan trọng, là cái gì thế?"

Tôi cho anh ta xem mấy tài liệu trước, sau đó cả hai chúng tôi cùng châu đầu vào quan sát mấy tấm hình trong máy tính. Anh ta chỉ vừa nhìn lướt qua, đã lập tức khẳng định: "Thứ này quả thực là một loại 'trấn hà quỷ khí' (dụng cụ ma quỷ dùng để trấn áp các con sông dữ)

. Ngày xưa người ta rất sợ cũng rất ghét nạn hồng thủy, cho nên thay vì dập đầu cúng tế cầu xin các vị thần linh cho khỏi nạn, thì bọn họ lại chọn cách thẳng thừng uy hiếp thần linh. Trấn hà quỷ khí là một phương pháp uy hiếp thần linh điển hình. Đúng thế, thế cục kia hoàn toàn không phải là 'Bát khổ khởi niệm trận', mà là một loại lời nguyền làm cho một người hoàn toàn hóa thành ác quỷ... Không giúp cho người ta thành tiên, mà là đẩy người ta thành ma."

Tôi cau mày nhìn hình một lúc lâu, cuối cùng lại nghĩ vẫn còn một vấn đề, liền hỏi: "Tức là thứ tôi gặp phải chính là lời nguyền này đó sao? Nhưng ở đây cũng rất kỳ quái này, anh xem, cái tên duy nhất mà chúng ta còn tra cứu được trên cái vò ấy mà, trong số tư liệu về ông ta tôi cảm thấy có một điểm rất bất thường. Đó là ông ta vốn là một tương táng... Tôi tìm hiểu thì thấy nghề tương táng tức là giúp người ta chọn đất để mai táng người chết hoặc xem phong thủy, nói thẳng ra là một ông thầy địa lý chuyên xem đất. Tuy tôi không hiểu lắm, nhưng tôi nghĩ những cái tên này chắc hẳn phải có điểm chung gì đó với nhau, nếu không sao lại bị chôn cùng nhau một chỗ thế này?"

Bạch Dực gật đầu, bổ sung thêm: "Nói đúng lắm, từ đó mà suy ra, giữa bọn họ chắc chắn có điểm chung nào đó, nhưng tiếc là những cái tên khác chúng ta không biết là ai. Đám khảo cổ không phải là không có năng lực, nếu bọn họ không tìm ra thì chúng ta cũng khó mà tra ra được. Nhưng hiện tại ít ra có thể xác định, thứ cậu bị trúng phải chính là Bát khổ chú biến dị này."

Xem tài liệu xong, tôi lại nhớ đến đầu mối thứ hai, chính là giấc mộng mà Nhạc Lan thác cho tôi, còn phong thư cứu mạng mà cô bé nhắc tới nữa. Tôi vội vã kể sơ lược cho anh ta biết, nhưng ai ngờ Bạch Dực vừa nghe thế thì bao nhiêu bình tĩnh nãy giờ đều như bay biến đâu mất, anh ta gần như nhảy dựng lên, lo lắng hỏi tôi: "Còn gì nữa, nó còn nói gì nữa không?!"

Chương 51: Quỷ chú (Tam)

Tôi lắc đầu trả lời: "Đó chỉ là một giấc mộng thôi mà, có nhiều chi tiết tôi cũng không nhớ kỹ lắm, chỉ nhớ cô bé dặn tôi nhất định phải đi lấy bức thư đó. Nó nói đó là hi vọng sống còn duy nhất của tôi, có thể thoát hiểm hay không là phải dựa vào đấy."

Bạch Dực cau mày nâng chén trà uống cạn, vớ lấy áo khoác nói: "Đi, đi lấy thư."

Tôi há hốc miệng "A..." hồi lâu mới hoàn hồn kéo tay anh ta giật lại: "Đại ca, anh biết bức thư đó nằm đâu không?"

Anh ta đã khoác xong áo, gật đầu nói: "Thì ở trong nghĩa trang... À, quên mất hỏi mộ của cha Nhạc Lan nằm ở khu nào rồi..."

Nghe anh ta thản nhiên nói thế, mắt tôi cũng muốn trợn trắng theo, vội vã nhắc nhở: "Người anh em à, anh nhớ bây giờ là mấy giờ rồi không vậy? Lúc này mà tìm tới nghĩa trang là tối mịt mù luôn ấy, lẽ nào anh định ra mộ tìm đồ giữa đêm tối sao?"

Nhưng anh ta dường như chẳng buồn nghe vào tai, chỉ khoát khoát tay ra vẻ không sao. Tôi định khuyên thêm vài câu, nhưng anh ta đã đưa ngón tay lên môi ra hiệu im lặng, sau đó gọi điện thoại đi đâu đó, thầm thì vài câu rồi quay lại nhìn tôi: "Ngày hôm nay bỏ dạy à? Cậu thật là... Tôi ít ra còn xin nghỉ, còn cậu mới đúng là càng ngày càng to gan đấy!"

Lúc này tôi mới nhớ ra là cả ngày hôm nay đều trốn trong nhà không đi làm, cả xin nghỉ cũng không xin, chắc chắn lúc quay về thế nào cũng bị mắng tơi tả, nhưng lúc này trong lòng tôi quan trọng nhất vẫn là chuyện làm thế nào để tìm ra bức thư ngoài mộ kia hơn. Bạch Dực mặc xong áo rồi bèn lục ra một cây đèn pin rồi hất cằm với tôi ra hiệu cùng đi. Tuy nghĩ đến nghĩa trang giờ này trong lòng cũng có phần hốt hoảng, nhưng dù sao cũng là chuyện sống còn của bản thân, Bạch Dực cả ngày hôm nay vì tôi mà đã bôn ba khắp nơi rồi, lẽ nào lúc này tôi có tư cách co vòi rụt cổ?

Tôi hít sâu một hơi lấy can đảm, đi rửa qua mặt rồi vơ áo khoác, tắt máy vi tính cùng Bạch Dực ra cửa. Trong lòng tự trấn an mình, lúc dầu sôi lửa bỏng này không nên đem hai chữ "cấm kỵ" ra tự hạn chế mình, không hành động lúc này sẽ không còn cơ hội nữa đâu. Tôi liếc sang Bạch Dực, thấy vành mắt anh ta đã viền đen, mái tóc rối bù, chẳng biết cả đêm qua đã lăn lộn những đâu. Thấy sắc mặt mệt mỏi của anh ta, tôi thực sự cảm thấy băn khoăn, chần chừ mãi vẫn chỉ dám hỏi một câu: "Lão Bạch... đã ăn tối chưa?"

Anh ta dường như không ngờ tôi sẽ hỏi như vậy, ngẩn ra một lúc mới trả lời: "Chưa. Cậu cũng chưa ăn phải không, thôi để lên xe rồi mua đại thứ gì đó giải quyết tạm thôi. Lúc này không phải lúc lo lắng mấy thứ đó, chúng ta đã gặp phải một loại quỷ chú rất xưa rồi, thứ này vô cùng nguy hiểm, nếu không xử lý tốt sợ cậu thực sự không qua khỏi mất."

Tôi vô thức gật gật đầu, kỳ thực tôi cũng không muốn hỏi câu kia, nhưng cụ thể muốn nói gì thì ngay cả bản thân tôi cũng không rõ nữa. Chúng tôi tạt qua siêu thị mua vài thứ ăn vặt cùng mấy ổ bánh mì, khi vừa lên xe đã mở ra ăn, không quản ánh mắt của mọi người xung quanh. Bạch Dực ăn rất vội, trông dáng vẻ như thể cả ngày hôm nay chưa có cái gì vào bụng. Nhìn anh ta như thế lòng tôi chợt đau nhói, cả mắt cũng thoáng ướt đỏ. Những lúc thế này còn có được một người tốt như vậy ở bên cạnh, quả thực là ông trời quá biệt đãi tôi rồi. Tôi sụt sịt mũi vài cái, quay sang nói với Bạch Dực: "Bạch Dực, thật sự cảm ơn anh, tôi không biết phải nói thế nào nữa... tôi, tôi thực lòng..."

Bạch Dực đang gặm cái bánh bao, nhìn tôi nhẹ cười: "Không cần phải suy nghĩ nhiều như vậy, cũng đừng nói những câu khách sáo rợn da gà nữa, dù sao tôi cũng có quan hệ tới chuyện này mà. Chúng ta lúc này đều ở trên cùng một con thuyền, thuyền lật thì ai cũng không thoát chết. Hơn nữa cậu là nương tử của tôi mà, không giúp cậu tôi còn giúp ai nào?"

Nghe anh ta nói thế mặt tôi thoáng chốc đỏ bừng, bèn loay hoay mở cửa sổ để mong thoát khỏi bầu không khí xấu hổ. Tuy ngoài miệng mắng anh ta ăn nói lung tung, nhưng trong lòng tôi thực ra vẫn rất đau khổ. Bạch Dực nói không sai, chuyện này làm không khéo cũng sẽ ảnh hưởng tới anh ta, nếu cả hai muốn sống sót thì quả thực không nên khách sáo với nhau. Người một nhà không cần phải khách khí, chính vì Bạch Dực chưa bao giờ coi tôi như người ngoài, cho nên anh ta không muốn tôi cảm ơn, cũng không cần tôi báo đáp. Nghĩ tới đó, lòng tôi chợt dâng lên chua xót, không thể nói rõ là cảm giác gì, chỉ biết miếng bánh mì trong miệng cũng hóa ra nhạt nhẽo hẳn, ăn mà cứ như nhai rơm.

Xe nhanh chóng đến trạm nghĩa trang, bình thường không có mấy ai dừng lại ở đây nên tài xế cũng không định ngừng, n

hưng chúng tôi đã vội vã đứng bật dậy xin xuống xe. Tài xế nhìn chúng tôi kinh dị hồi lâu rồi mới từ từ mở cửa, còn chúng tôi cũng chỉ cắm cúi lo xuống xe, không nói thêm gì. Đi được một đoạn, nhận thấy gió ở đây mạnh đến rát mặt, chúng tôi bèn khỏa chặt áo rồi vội vã hướng về phía nghĩa trang. Ở đầu nghĩa trang có cổng lớn, nhưng không cần mua vé này nọ mà cứ thế bước qua là được. Cổng xây thành hình đền thờ, trên bức hoành có khắc hai chữ "Tưởng nhớ" rất to. Trước cổng xây ba cây cầu đá, hai bên bày mười hai bức tượng cẩm thạch tạc hình mười hai con giáp, làm tượng giữ lăng. Tuy nói lúc này đã cách thời Cải cách văn hóa cũng vài thập kỉ rồi, nhưng xem ra người Trung Quốc vẫn giữ nếp truyền thống ma chay cưới hỏi của tổ tiên, bằng chứng là những cây cầu và những bức tượng này đều là phỏng theo lối cổ mà làm. Ngày xưa, ở những khu mộ lớn người ta vẫn khắc những bức tượng thần thú giữ lăng bằng đá thế này, những cây cầu hàm ý chỉ hai bờ thế giới.

Hai người chúng tôi rón rén bước qua cầu vào cổng, bên trong có một căn phòng nhỏ dành cho bảo vệ, nhưng lúc này không thấy ai ở trong trông coi. Có lẽ là do lá gan kinh qua bao thử thách đã dày dạn lên nhiều, nên chúng tôi cũng cứ thế mà thẳng lưng bước tới phía trước. Phía bên trong có rất nhiều căn đình tạ bằng đá cùng với những bãi cỏ xanh mướt nhân tạo, nếu chỉ nhìn sơ qua quả thực sẽ cảm thấy hóa ra nghĩa địa cũng không có gì đáng sợ lắm, ngược lại còn có phần u nhàn thanh tĩnh nữa.

Tôi không dám to tiếng, chỉ dám hỏi thì thầm: "Lão Bạch, cha của Nhạc Lan nằm ở khu nào nhỉ?"

Bạch Dực nhìn quanh hồi lâu mới mở đèn pin chiếu đường đi mà trả lời: "Hình như đây mới chỉ là khu bên ngoài dành cho bảo vệ, nghe nói cha cô bé nằm ở lô số M - 12 khu Ngọc Lan. Chúng ta trước tiên vào trong khu vực chôn cất cái đã, rồi tìm khu Ngọc Lan."

Đúng như Bạch Dực đã nói trước, vừa vượt qua khu đất bên ngoài, chúng tôi liền thấy ngay từng dãy từng dãy bia mộ, cùng với từng dãy từng dãy cây cối trồng ngay hàng thẳng lối tách những khu mộ khác nhau ra. Ở đây hoàn toàn không có đèn, giơ bàn tay lên chắc cũng chẳng nhìn thấy ngón. May mà Bạch Dực có mang theo đèn pin, bằng không hai người còn sống đường hoàng mà lại sờ soạng trong bóng đêm giữa nghĩa địa đi tìm thứ này thứ kia quả thực là một hình ảnh quá mức quái đản cùng kinh dị.

Thế nhưng đây không phải khu Ngọc Lan. Chúng tôi lại lén vào nên không dám đi trên lối đi thẳng thớm bên ngoài sợ có bảo vệ đi kiểm tra, chỉ dám men theo những loại cây trồng xung quanh mà đoán khu mộ, quá trình này quả thực đã làm thần kinh tôi căng thẳng. Sắp mò mẫm cả mười lăm phút đồng hồ, mà lại phải lom khom cúi thấp người vừa đi vừa tìm, nên không ít lần phải nhìn thẳng vào những tấm ảnh chụp khảm trên bia. Ban ngày nhìn thôi đã đủ thấy lành lạnh, huống chi đến ban đêm thì những nụ cười cứng ngắc méo mó của những người chết này thực sự khiến tôi dựng hết cả tóc gáy.

Tôi kéo tay Bạch Dực nói: "Lão Bạch, chúng ta ra ngoài lối đi mà tìm bảng chỉ đường thôi, đi kiểu này sợ quá!"

Bạch Dực ngẩng đầu nhìn ánh trăng, thấy mặt trăng hôm nay chỉ còn là một quầng sáng mờ mờ ảo ảo, mà gió thì càng lúc càng lớn, thổi tóc chúng tôi bay tán loạn, liền gật đầu: "Nói phải, tôi cũng có cảm giác mình lạc đường rồi... Vầy đi, chúng ta ra ngoài đường nhìn một chút, nếu không có ai thì cứ theo đường lớn mà đi vậy. Chứ cứ nhấp nhổm thế này sợ tìm đến sáng mai cũng chẳng ra."

Thế là hai chúng tôi quay ngược lại, trở về con đường lớn nơi có bảng chỉ dẫn. Thực ra khu này cũng không khác gì một cái công viên, đều chia thành từng khu từng khu riêng biệt nối tiếp nhau, cho nên chỉ cần nhìn bảng chỉ dẫn một cái là sẽ rất dễ dàng tìm được vị trí cần tìm. Nhưng lúc này điều tôi lo lắng nhất chính là không biết lá thư kia có còn ở lại chỗ cũ hay không, dù sao từ đó đến nay cũng đã qua một thời gian, mà khu mộ này thể nào cũng có người tới quét dọn thường xuyên, lỡ như bức thư bị bọn họ lấy đi mất rồi thì tôi đây quả thực chỉ có tàn đời. Nhưng nghĩ đi rồi lại phải nghĩ lại, nếu Nhạc Lan vốn ghi bên ngoài bức thư là gửi cho tôi, thì người nào bắt được hẳn đã gửi đến chỗ tôi rồi? Tôi chưa nhận được thứ gì, có lẽ là bức thư hãy còn ở đây.

Khi chúng tôi trở lại đường lớn vẫn thấy vắng tanh không một bóng người, bèn an tâm thoải mái ra xem bảng chỉ đường. Kết quả là phát hiện khu Ngọc Lan hóa ra nằm ngay phía sau cái khu mộ lúc nãy chúng tôi đã đi qua, đành phải lần nữa ngược trở lại. Nhưng lúc này không cần cúi người men theo mộ tìm kiếm, mà là thẳng đường mà bước thẳng lưng mà đi, cho nên chẳng mấy chốc đã tìm tới lối rẽ nhỏ dẫn vào khu Ngọc Lan bên trong. Lối rẽ này rất hẹp chỉ vừa một người bước, nhưng tôi không có can đảm đi phía sau Bạch Dực, nên cứ kiên gan sóng bước bên cạnh anh ta. Vì lối đi hẹp quá, nên mấy lần sẩy chân đạp cả lên những ngôi mộ hai bên, tôi đành phải vừa đi vừa âm thầm cầu xin: "Các vị đừng trách tôi, tôi không còn cách nào khác, đắc tội đắc tội..."

Bạch Dực nhìn thấy bộ dạng thấp thỏm của tôi, thở dài một cái rồi quàng tay qua vai tôi kéo sát tôi vào lòng anh. Tôi thành ra dựa sát vào lồng ngực Bạch Dực mà đi, tuy thoạt nhìn tư thế có vẻ hơi kỳ quái vì trông giống một cặp tình nhân đi dạo, nhưng khác chính là chúng tôi không dạo công viên mà lại dạo nghĩa địa; huống chi quả nhiên cách này làm tiết kiệm được không ít thời gian, hơn nữa vì kề sát nhau mà cảm thấy trong lòng yên tâm hơn hẳn. Tôi cảm kích ngẩng đầu nhìn Bạch Dực, anh cũng cười cười vỗ nhẹ vai tôi, ý bảo đi mau.

Khu nghĩa địa vốn đã hoang vắng, mà bia mộ bốn phía dường như lại còn hút hết mọi âm thanh gây ra, xung quanh chỉ còn tiếng bước chân và hít thở khe khẽ của chúng tôi. Đây là lần đầu tiên tôi dám ra thăm mồ vào ban đêm, nên nhịp thở rất gấp gáp, trống ngực đập bình bịch, nhưng đáng ngạc nhiên là vì sợ hãi thì ít mà vì hưng phấn thì nhiều. Chung quanh tối đen như mực, ánh sáng của đèn pin chỉ đủ soi rọi khoảng hai thước trước mặt, còn xa xa chỉ có một màu đen u ám nhè nhoẹt. Được chôn dưới này là tro cốt đã được hỏa thiêu, nên trong nghĩa địa không có những ánh lửa ma trơi lập lòe như những nghĩa địa chôn xác ở nông thôn, nhưng xa xa vẫn thấp thoáng những cái bóng nhập nhòe loang loáng, nhìn lại lần nữa thì lại chẳng thấy cái gì. Tim tôi trầm xuống, quả nhiên vẫn là chạm phải những thứ không nên, vì thế tôi không nhìn lên nữa, chỉ chăm chú xuống lối đi dưới chân mình phó mặc cho Bạch Dực dẫn đi.

Rốt cuộc cũng tới được khu Ngọc Lan, khu này dành cho những phần mộ độc táng (chôn một mình) nên khác xa với khu phu thê hợp táng ở phía trước, cũng có nhiều phần mộ là của những người chưa kết hôn hoặc ra đi khi còn trẻ. Chúng tôi lại len sát vào từng tấm bia mà tìm kiếm, nhưng khu này cách đường ngoài rất xa, có lẽ bảo vệ cũng hiếm khi tìm tới, cũng không sợ nửa chừng bị quấy rầy. Tra theo từng tấm từng tấm bia một, chỉ chốc lát đã tìm thấy phần mộ của cha Nhạc Lan. Ánh mắt của ông ta đúng là giống con gái như đúc, chỉ có điều còn lạnh lùng và cố chấp hơn nhiều, đây chính là người đã tạo ra bi kịch cả đời cho mình và cho con gái mình. Tôi không muốn nhìn di ảnh của ông ta nữa, lẳng lặng quay tứ phía tìm chỗ có thể cất bức thư.

Mà nhắc tới cũng cảm thấy thật thê lương, một người sống rành rành khỏe mạnh như vậy, sau khi tạ thế rồi lại chỉ gửi toàn bộ những gì còn lại của mình vào một cái hộp con con, tro bụi bám đầy, không nhang đèn cũng chẳng hoa tươi cúng bái, chỉ còn lại một tấm bia cẩm thạch trơ trụi, sao mà thê thảm.

Nhưng tìm quanh mộ một lúc, vẫn không thấy gì.

"Cậu xem kìa, chỗ kia có phải tự nhiên dư ra một ngôi mộ không?"

Tôi khẽ run lên một cái, quay đầu nhìn lại, rồi lập tức hít mạnh một hơi, giữa một khu đất bằng phẳng lẽ ra phải trống trơn, quả nhiên dôi ra một nấm mộ. Vì mộ xung quanh đều được sắp xếp quá sức chỉnh tề, nên khi tự nhiên dư ra một phần giữa khu đất trống trải, tự nhiên có cảm giác thật quỷ dị.

Tôi run run định nói gì đó, nhưng lại không thốt nổi nên lời. Chỗ đó dù sao cũng chỉ là thêm một phần mộ thôi, nên nói cái gì bây giờ? Có khi chỗ đó sắp khai phá cũng không chừng... Vì thế lại vỗ vỗ mặt mình quay lại tiếp tục công cuộc tìm kiếm. Cuối cùng, ở cái khe giáp giữa tấm bia với cái bệ đá, tôi mò được một cái gì đó gói cẩn thận trong bao nylon, lấy ra xem, quả nhiên là một bức thư. Tôi thấy đã tìm được bèn mừng rỡ quay đầu lại phía sau định nói cho Bạch Dực biết, chợt rợn người phát hiện... sau lưng không có ai cả. Tôi run bắn người, lúc nãy rõ ràng còn nghe tiếng anh ta sau lưng kia mà, sao bây giờ lại biến đâu mất?! Bất thình lình ai đó vỗ mạnh vào vai tôi một cái, tôi nhất thời kinh hoảng đến giật nảy cả người, cơ thể mất cân bằng ngã chúi về phía trước. May thay có ai đó kịp ôm tôi lại, tôi mới không tới nỗi dùng lỗ mũi ăn trầu tế bái cha Nhạc Lan. Từ phía sau nghe tiếng Bạch Dực kinh hoảng gọi: "Nhìn đi đâu vậy hả, tìm được rồi thì đi thôi chứ!"

Tôi còn chưa kịp đứng vững đã bị Bạch Dực kéo mạnh lên, thấy tôi có vẻ lạ lùng, anh ta dường cũng hiểu ra cái gì đó, cúi đầu mắng nhỏ một câu rồi ôm chặt lấy vai tôi kéo đi. Tôi nhịn không được quay lại đằng sau len lén nhìn ngôi mộ lẻ loi kia một cái, phát hiện trước mộ lúc này... có một bóng người đang ngồi xổm ở đó, đang nhìn về phía hai chúng tôi! Tôi hấp tấp quay phắt đi, trong dạ dày trào lên cảm giác như muốn nôn. Bèn run run hỏi: "Lúc nãy anh ở bên trái tôi kia mà, sao sau đó lại đổi thành bên phải?"

Bạch Dực dừng lại một chút: "Không, từ đầu tôi vẫn luôn ở bên phải cậu."

Câu trả lời của anh ta làm gương mặt tôi cứng đờ, mãi sau mới rặn ra một nụ cười méo xệch: "Nhưng sau lưng tôi khi nãy đúng là có người mà, còn nói cho tôi biết chỗ kia có một ngôi mộ..."

Tôi đợi Bạch Dực lên tiếng giải thích, nhưng anh ta chỉ nhìn tôi mà kiên trì lập lại: "Tôi chỉ ở bên phải cậu."

Đủ rồi, tôi cũng không quan tâm bên trái hay bên phải nữa, lúc này chỉ mong làm sao sớm thoát ra khỏi đây. Chúng tôi đi gần như chạy ra khỏi khu mộ, cho tới khi đứng trước cổng nghĩa địa, Bạch Dực chợt dừng lại hỏi tôi: "Có mang tiền lẻ không?"

Tôi móc trong túi

ra mấy đồng tiền xu, Bạch Dực cầm trên tay lầm rầm mấy câu thần chú, lại rút bật lửa ra hơ hơ mấy cái trên đồng tiền rồi ném thẳng ra sau lưng. Nhưng tôi chờ mãi mà không hề nghe thấy tiếng tiền rơi, nên định quay đầu lại nhìn xem. Bạch Dực vội vã nắm chặt vai tôi, rít khẽ: "Đừng quay đầu lại, đó là tiền mãi lộ tặng cho bọn cô hồn dã quỷ để chúng đừng theo chúng ta nữa!"

Nói xong liền túm chặt tay tôi lôi ra ngoài, cho đến khi thoát hẳn khỏi cánh cổng nghĩa địa, chúng tôi mới thở phào được một cái. Thực ra lá gan của tôi có thể nói là được Bạch Dực tôi luyện qua nhiều phen nay cũng đã lớn hơn nhiều, gặp chuyện kinh khủng thế này cũng không quá sợ hãi, chứ nếu là ngày xưa thì e là đã sớm chạy ra đây ngồi nôn thốc nôn tháo rồi. Nghĩ vậy, tôi lại vô thức siết chặt thêm cái bao đựng lá thư trong tay. Bạch Dực chà chà hai tay vào nhau cho đỡ lạnh và bảo tôi: "Gọi taxi thôi, chứ ở đây sợ không có phương tiện giao thông công cộng."

Đúng vậy, tuyến xe bus đã chở chúng tôi tới đây hết xe rất sớm, lúc này đã không còn chạy nữa, nếu muốn về quả thực chỉ có nước đón xe taxi. Chúng tôi đứng ra bên vệ đường lớn chờ mãi, gần hai mươi phút đứng chịu gió lạnh mới có một chiếc xe trờ tới. Tài xế nhìn chúng tôi đầy vẻ nghi ngại, có lẽ rất thắc mắc vì sao hai người chúng tôi khuya thế này còn lảng vảng gần nghĩa địa, từ vẻ mặt của anh ta thậm chí còn có thể thấy anh ta rõ ràng đang nghi ngờ chúng tôi có phải là người hay không nữa. Tôi bèn vội vàng giải thích: "Anh ơi, tụi tôi là nhân viên bảo vệ nghĩa trang, ngày hôm nay phải tăng ca nên mới ra trễ thế này."

Anh ta còn bán tín bán nghi, nhưng chúng tôi cũng không quan tâm nữa, chỉ mau mau lên xe cho anh ta địa chỉ bảo anh ta đi nhanh nhanh, chứ đứng trước nghĩa địa quá lâu quả thực không tốt.

Về tới nhà rồi cũng không buồn nghỉ ngơi, tôi vội vã tháo bao nylon lấy bức thư ra, lúc này mới nhớ lại là khi Nhạc Lan còn sống, đã mấy lần tôi nhìn thấy cô bé cặm cụi viết viết xóa xóa cái gì đó, tờ giấy khi ấy rất giống phong thư này... lẽ nào kể từ lúc đó nó đã chuẩn bị bức thư này cho tôi sao?

Bạch Dực cầm thư bắt đầu đọc ngay. Cả ngày anh ta đã phải khẩn trương vất vả một hồi, lúc này trên trán hãy còn mồ hôi lấm tấm. Tôi dù sao vẫn còn đỡ hơn vì được ngủ tới trưa, nên lúc này tôi bèn đi rót cho Bạch Dực một ly trà, sau đó ngồi xuống bên cạnh cùng đọc thư.

Nét chữ của Nhạc Lan rất ngay ngắn đường hoàng, từng nét từng nét cứng cỏi rõ ràng viết đầy cả trang giấy.

Dưới đây là nội dung bức thư:

Thưa thầy An,

Khi thầy đọc thấy bức thư này thì có lẽ em đã không còn trên đời này nữa. Em là một đứa trẻ không hạnh phúc, những người đã từng tiếp xúc với em cũng không may mắn. Vì em nhìn thấy trước cái chết, giống như đã nhìn thấy cái chết của cha, và cả cái chết của chính mình, nhưng lại chỉ có thể đứng một bên bất lực, cho nên mọi người xung quanh đều nhìn em ghét bỏ và khinh bỉ.

Thầy An là một trong số rất ít người đối xử tốt với em nhất, cho nên em thực sự không muốn nói cho thầy biết chuyện này, nhưng lại không thể không nói. Em dằn vặt rất lâu rất lâu, nhưng nếu không nói cho thầy biết, em nghĩ em sẽ có lỗi với thầy. Cho nên trước khi chết, thể nào cũng phải viết bức thư này, đây là di chúc của em, cũng là dự báo cuối cùng của em.

Em nhìn thấy cái chết của thầy... Đúng, em đã nhìn thấy thầy chết, hơn nữa còn là chết vô cùng quái dị. Ngay lúc này đây nhớ lại em còn cảm thấy đáng sợ, em không thể xác định thời gian, cũng không thể xác định nơi chốn hay nguyên nhân vì sao thầy chết. Nhưng em đã nhìn thấy một cái bóng đen, nó vẫn luôn theo sát bên cạnh thầy.

Nó ở bên cạnh thầy, luôn luôn ở bên cạnh.

Tiếp theo em sẽ kể cho thầy biết những gì em nhìn thấy. Em thấy rất nhiều rất nhiều nước, trong nước đầy tràn tiếng khóc than; còn có rất nhiều cánh cửa, từng cánh từng cánh lần lượt mở ra; bên trong là một cái động sâu rất đen rất tối. Trong động chất đống thi thể, tất cả đều đã thối rữa đen ngòm, không khí chung quanh lạnh như băng, lạnh tới nỗi làm người ta nghĩ tới mộ phần. Thầy nằm trên một cái quan tài bằng đá, cả người đều là máu, mắt mở trợn trừng, miệng há hốc cũng toàn máu, giống như đã nhìn thấy thứ gì đó rất kinh khủng trước khi chết vậy... Trên bốn phía vách động đều là những bức họa kì quái màu đỏ rực, nhìn không hiểu là cái gì. Em muốn tiến đến gần quan tài chỗ thầy, nhưng không sao bước về phía đó được, mà kinh khủng nhất là bên cạnh thầy có một con quái vật... Một con quái vật rất đáng sợ. Nó cứ chờn vờn xung quanh đó, nhìn thầy chằm chằm, nhưng em không nhìn thấy rõ diện mạo của nó, vì xung quanh nó phủ đầy khói đen. Ở trong động còn một người nữa, là thầy Bạch Dực, thầy ấy ngồi dưới đất, cả người cũng đầy máu, thầy ấy bị thương rất nặng, nhưng chưa chết. Thầy ấy cũng cố gắng hướng về phía thầy mà nhích đến nhưng cũng không thể tới gần được. Còn một người nữa, trong động còn một người nữa! Em nhận không ra người này, nhưng anh ta cũng sắp chết.

Em nhìn thấy một điều rất quái lạ, đó là, em đã thấy đôi mắt của mình! Không sai, trong số những hình vẽ quái lạ trên vách, em đã nhìn thấy một đôi mắt mà từ trong đó vươn ra rất nhiều rất nhiều bàn tay, xung quanh nó đều là xương khô, thực sự rất giống đôi mắt của em.

Những bức họa ấy đều được sắp xếp theo một trình tự nào đó, bên cạnh đôi mắt của em là hình vẽ một gốc cây rất to, trên cây treo đầy đầu lâu. Có hai người cúng bái trước cái cây.

Bức họa thứ ba vẽ rất nhiều phụ nữ mang thai bò từ trong một cái động đen ngòm đi ra, trên mặt họ đầy vẻ tuyệt vọng. Bọn họ giống như bị trói chặt ở ngay cuống rốn của mình, muốn trốn mà trốn không thoát.

Em muốn nhìn bức thứ tư, nhưng nó đã bị máu đồ đỏ lòm rồi, chỉ có thể loáng thoáng nhìn thấy một cô gái, một cô gái đang ngồi trước gương trang điểm. Sau đó không nhìn thấy cái gì nữa.

Khi em tỉnh lại từ trong ảo giác thì thấy bản thân vẫn còn ngồi trong lớp học, thầy đang giảng bài bên trên, chủ đề là học về những bức bích họa (tranh trên tường) trong hang động... Màu đỏ của những bức họa thầy giảng quả thực giống hệt như những bức họa em đã thấy...

Đó là toàn bộ những gì em nhìn thấy. Tuy nói ra có thể thầy không tin, nhưng xin thầy hãy nghe em: tuyệt đối đừng tới gần nước, tuyệt đối đừng rời xa thầy Bạch Dực. Thầy ấy là người duy nhất có thể cứu thầy, còn nữa, cái bóng đen kia vẫn luôn ở bên cạnh thầy, có thể là bất kỳ ai xung quanh. Vì thế thầy đừng nên dễ dàng tin tưởng người nào, hãy dùng chính mắt mình mà xét đoán mọi việc. Những việc này liên tiếp với nhau, tiếp theo còn có thể có nhiều chuyện phát sinh. Có thể thầy sẽ thoát, vì em cảm thấy cái chết của thầy quá kỳ quái, dường như một thứ nghi thức vậy, loại này, cứ như thể tế thần ngày xưa!

Cuối cùng, em muốn cảm ơn thầy vì thầy đã luôn giúp đỡ em, dù rằng có lẽ em cũng không còn cơ hội trực tiếp nói với thầy lời cảm tạ nữa...

Nhạc Lan vĩnh biệt.

Bạch Dực chậm rãi buông bức thư xuống nhìn chằm chằm nền nhà như muốn dùng ánh mắt mình đào một cái lỗ thủng trên đó luôn vậy. Tôi cầm lấy thư xem xét, thấy Nhạc Lan còn vẽ lại những hình ảnh mà mình đã nhìn thấy nữa, nhưng cảnh trong tranh đều rất mơ hồ, dưới con mắt của tôi chẳng khác nào những đồ án kỳ quái của các dân tộc thiểu số. Nhưng nội dung của chúng thì có thể đại khái nhìn ra được. Xem hết thư xong, chỉ cảm thấy đầu nhức bưng bưng, cảm giác như bị ai đó thít chặt cổ không sao thở được vậy. Vì thế, tôi cởi bớt cổ áo, xoa xoa cái cổ đã toát đầy mồ hôi lạnh mà hỏi Bạch Dực: "Anh có ý kiến gì không?"

Chương 52: Quỷ chú (Tứ)

Qua hồi lâu, Bạch Dực mới chậm rãi trả lời: "Có biết cả ngày hôm qua tôi đã đi đâu không?"

Tôi lắc đầu. Anh ta gấp lá thư lại bỏ vào trong bì thư, thở dài: "Tôi đến chợ quỷ, tìm Tá Thọ bà."

Đây là câu trả lời tôi hoàn toàn không ngờ tới, vì thế liền nhìn Bạch Dực chằm chằm run run hỏi: "Anh đi tìm bà ta làm gì?!"

Anh ta đáp: "Vì tôi biết 'quỷ chú' không phải là thứ thuộc về nhân gian, sự tồn tại của nó đã cách đây lâu lắm rồi, thậm chí còn xưa hơn cả thời Tây Hán rất nhiều. Khi ấy thuật phù thủy vô cùng hưng thịnh, các biện pháp liên lạc với thần linh ma quỷ đều bị sử dụng triệt để, trong đó, có cả những phương pháp cực đoan dùng ác quỷ khống chế thần linh."

Anh nhấp một ngụm trà, ngưng một chút rồi hỏi tôi: "Tiểu An, tôi hỏi cậu, cậu nghĩ 'thần' là một loại tồn tại thiện hay là ác?"

Tôi vốn không có hứng thú với những vấn đề tâm linh thế này, nhưng chẳng phải người ta thường nói: ngẩng đầu ba thước hướng thần linh đó sao? Như vậy, thần linh làm sao có thể là ác được?

Dường như cảm nhận được suy nghĩ của tôi, Bạch Dực liền lắc đầu nói: "Không hẳn đâu. Thần hay quỷ, thực ra cũng như nhau cả thôi, đều chỉ hành động vì lợi ích của riêng mình, không có trách nhiệm tạo phúc cho bất kỳ ai cả. Nhưng con người thì nghĩ rằng, thần sở dĩ được gọi là thần, là vì bọn họ có được sự sùng bái và cung phụng của con người, vì thế bọn họ cũng phải có trách nhiệm thực hiện những mong muốn của con người. Nếu họ không đáp ứng nguyện vọng của con người, vậy thần linh cũng chẳng khác gì ác quỷ, đối với con người mà nói, chẳng có gì khác nhau."

Tôi đồng ý gật đầu, nghĩ thầm quả thực như thế, con người cầu thần bái phật, rốt cuộc cũng chỉ vì lợi ích của riêng mình mà thôi, nếu không được đáp ứng, cũng chẳng ai thèm cúng bái nữa.

Bạch Dực lại tiếp: "Vì thế mới sinh ra những thứ 'quỷ chú' dùng để uy hiếp thần linh, mà 'Bát khổ quỷ chú' chính là một loại trong số đó. Người đã sáng tạo ra nó, chẳng phải ai khác mà chính là Chu Văn Vương Cơ Xương. Ông ta có một sức mạnh đáng sợ, thậm chí đạt tới mức thông thần (liên lạc được với thần linh)

. Cho nên cũng chỉ có ông ta mới nghĩ ra loại chú pháp uy hiếp thần linh khủng khiếp đến vậy, đó là chọn ra ba mươi sáu người có năng lực thật tài giỏi, dùng tám cách thức cực kỳ tàn khốc giết chết, sau đó đem nhốt tất cả oán linh của bọn họ vào một 'quỷ khí' (dụng cụ của quỷ)

. Phương pháp này thực sự không khác nào một quả bom, vì con số 36 là con số của chòm sao Bắc Đẩu, mà 36 linh hồn này lại là của những địa linh nhân kiệt thiên tà

i hiếm có, cho nên người ta bảo, lượng oán khí sinh ra từ đó thì quả thực cả thần linh cũng không thể chịu nổi.

Nhưng ngược lại cũng không thể tìm 36 người tình nguyện chịu chết, nói cách khác phải tìm những kẻ nào không muốn chết nhất, thì mới có thể sinh ra oán hận. Cho nên sau này phương pháp này chỉ truyền lại một cách bí mật trong vương thất, cái vò ban ngày cậu cho tôi xem chính là một 'quỷ khí' chứa lời ác chú này, ai bắt được là kẻ đó phải gặp xui."

Tôi nhớ lại cái vò đen thui dơ dáy ban chiều, nghi hoặc hỏi: "Nhưng cho dù là vậy thì anh tìm tới chợ quỷ để làm gì chứ? Lúc trước anh đã bảo người sống không nên tìm tới đó mà."

Anh ta nhìn tôi xấu hổ ho khan vài tiếng: "Vì tôi nghi ngờ chuyện lần này có liên quan tới vụ Huyền Hoàng Bích lần trước."

Tôi nhíu mày cố gắng nghĩ xem có thể có dây mơ rễ má nào giữa chuyện lần này với cái thứ kia hay không, nhưng chỉ nhớ tới cảm giác kích thích đáng sợ mà nó mang lại, Huyền Hoàng Bích lạnh như băng, lạnh đến xương tủy cũng muốn đông cứng lại, may mà cuối cùng cũng chính nó cứu chúng tôi một mạng.

Bạch Dực hỏi: "Cậu có nhớ khi bắt được Huyền Hoàng Bích trong tay, có cảm giác gì bất thường không?"

Tôi lắc đầu: "Lúc đó lạnh quá, đầu óc tôi lại đang bị kích thích cao độ... Thực sự tôi không còn nhớ rõ chuyện khi đó như thế nào nữa kia, thực sự không biết có gì bất thường không."

Bạch Dực vuốt nhẹ cái ly trong tay: "Nhưng tôi thì chú ý tới một chi tiết."

Tôi vội vàng hỏi lại: "Là cái gì?"

Bạch Dực ngẩng đầu lên nhìn tôi: "Khoảnh khắc đó, ánh mắt cậu hoàn toàn không còn là bản thân cậu nữa, nó cực kỳ oán độc."

Tôi ngơ ngác nhìn anh ta, anh ta tiếp tục nói: "Ban đầu tôi tưởng là do cậu bị kích thích quá nên mới làm ra vẻ mặt như vậy, nhưng sau này nghĩ lại, ánh mắt đó hoàn toàn không phải là thứ cảm xúc mà một con người có thể thể hiện được. Cần phải mang trong lòng biết bao nhiêu oán hận mới có thể mang ánh mắt thâm độc tàn nhẫn tới như vậy? Nhưng tôi không nói cho cậu biết, thứ nhất là để khỏi dọa cậu sợ thêm, thứ hai là bản thân tôi cũng không chắc."

Tôi sờ sờ hai mắt của mình, chờ Bạch Dực nói hết.

"Lần này tôi đi tìm quỷ bà bà kia cũng là để xác nhận lại chuyện này. Quả nhiên vấn đề không phải ở Huyền Hoàng Bích, mà là nằm tại cái hộp chứa nó kia. Cái hộp đó... cũng là một 'quỷ khí', hơn nữa bà ta cũng biết con người tuyệt đối không thể chạm vào hộp, nhưng bà ta bảo là vì không ngờ chúng ta sẽ đi mở nó ra, cho nên cũng không biết gì nhiều hơn chúng ta. Tuy tôi nghĩ bà ta thực ra còn giấu diếm chúng ta rất nhiều việc, nhưng ít nhất có thể khẳng định một việc là cái hộp này ban đầu không thể dùng để chứa ngọc. Vậy thì ai là kẻ đã đánh tráo nó? Mà nếu đó là một loại ngòi nổ, vậy quả bom nằm ở đâu? Cũng chỉ biết vậy, vì tư liệu trong tay chúng ta còn ít quá."

Vẻ mặt anh ta tràn đầy ảo não nhìn tôi: "Ai... lúc đó tình hình quá gấp gáp, chúng ta chỉ chăm chăm quan tâm tới Huyền Hoàng Bích mà không để ý tới gì khác, huống chi nếu trên mặt 'quỷ khí' không khắc tên 36 ác quỷ, thì quả thực trông chúng chẳng khác nào những đồ cổ Thanh Đồng bình thường. Tôi trước đó không hề ngờ tới chuyện này... nên khi cậu cầm lấy cái hộp đó, cũng đồng thời mở ra 'Bát khổ chú' mất rồi."

Tôi "Ừ" một tiếng, sau đó trầm ngâm suy nghĩ. Nếu sự thực đúng như lời Bạch Dực nói, vậy quả thực tôi là kẻ xui tám kiếp, đụng trúng ngay một tai họa dễ sợ như vậy. Những người đã phát hiện ra cái vò khắc hình rồng cuộn kia có lẽ cũng là vì 'Bát khổ' khởi động mà chết, thật giống như lời nguyền Tutankhamen bên Ai Cập vậy. Nhưng những gì tôi đã gặp phải và bọn họ cũng không giống nhau.

Tôi đem nghi vấn đó nói với Bạch Dực, anh ta cũng ngẩn ra một chút rồi mới nói: "Cũng có thể là do từng người khác nhau có lời nguyền khác nhau chăng, hoặc là thứ quỷ chú trên cái vò kia không phải là loại quá lợi hại. Còn Huyền Hoàng Bích thì khác, bản thân nó là thần vật, thậm chí còn cao hơn Hòa Thị Bích[1]

 trong truyền thuyết một bậc, cho nên thứ quỷ chú chứa trong cái hộp kia chắc chắn cũng không thể tầm thường."

[1] Hòa Thị Bích (viên ngọc nhà họ Hòa) là tên một viên ngọc trong truyền thuyết, là nguyên nhân gây ra cái chết cho người đã tìm ra nó. Sau này danh từ này trở thành một thứ ước lệ cho những loại vàng ngọc quý giá và... xui xẻo.

Tôi nghĩ dường như Bạch Dực còn giấu mình cái gì, anh ta không dám nói hết, có lẽ là vì sợ nếu nói thật ra thì tôi sẽ không chịu nổi chăng? Bất quá nếu anh ta đã không nói thì cũng là vì tốt cho tôi mà thôi, tôi cũng không muốn ép anh ta, liền quay về hiện thực: "Vậy chúng ta phải làm gì bây giờ?"

Bạch Dực thở dài một cái, đứng lên bước tới bên bàn làm việc lấy tờ giấy hôm qua đã viết ra, chọn một chỗ giấy trống rồi viết tên của tôi vào giữa. Sau đó cầm bút nói: "Nếu suy đoán của tôi không sai, Bát khổ mà cậu gặp phải không tuân theo thứ tự bình thường, mà là theo một loại quy tắc đặc thù nào đó. Đầu tiên, tôi đoán chính là tử. Tử ứng với chuyện của Nhạc Lan. Cậu có nhớ những dòng thơ đã nghe được trong lúc đầu óc rối loạn không?"

Tôi ngẫm nghĩ hồi lâu: "Có phải ý anh là câu, tử, nước mắt người chết... hay không?"

Anh ta gật đầu, viết vài chữ "Tử", "nước mắt người chết", "Nhạc Lan" lên giấy. Rồi tiếp tục nói: "Đây là bước đầu tiên của lời nguyền, ứng thẳng vào tử vong, cho thấy nó gần như trái ngược hẳn với 'Bát khổ khởi niệm trận' thông thường. Cơn ác mộng phải từ tử vong mà sinh, theo đó như những gì Nhạc Lan đã ghi trên giấy, thì tiếp tục là cầu bất đắc, tội lỗi đam mê. Ứng với tội này không ai khác chính là hai cha con thờ cúng cây Cửu Bộc Phệ Hồn Cức. Chuyện sau đó là về cái giường có ma, cũng tức là sinh, nỗi khổ luân hồi. Chuyện cuối cùng chúng ta gặp phải là hai người phụ nữ trong khu Linh viên, đó chính là lão, oán niệm cố chấp. Phần còn lại trong thư nói đã bị máu đồ loang lổ không xem được nữa, có thể nói là quá sức xui xẻo. Vì bốn kiếp nạn này chúng ta đều đã trải qua cả rồi, cho dù lần nào cũng hung hiểm nhưng chung quy cũng đã qua, chỉ là không biết tương lai còn có thể xảy ra những gì... Bức thư này, thực ra chẳng có mấy tác dụng."

Đột nhiên điện thoại di động của tôi reo vang, khiến cả hai chúng tôi cùng giật nảy người.Tôi tức giận nhấc điện thoại, nhưng vừa a lô thì bên kia đã vang lên giọng nói gấp gáp của Ngưu Bì Đường, cậu ta dường như đang cực kỳ hoảng loạn, giọng nói cứ như lạc cả đi, gần như hét vào điện thoại: "A lô, An Tử hả... cái... cái vò đó kinh khủng quá! Còn nhớ ông giám đốc viện bảo tàng tớ kể không, tối nay ông ấy vừa chết rồi, chết bên cạnh cái vò đó rồi! Lại còn là dùng chính thanh kiếm Thanh Đồng bên cạnh nó mà tự sát chứ! Lúc chết... ông ấy trông còn như đang cười ấy, tớ sợ... cả đời tớ cũng không quên được nụ cười ấy mất... dễ sợ lắm... cậu, cậu thực sự đang có phiền phức gì với cái thứ đó sao? Cậu phải cẩn thận đấy, cái vò đã bị sở nghiên cứu quốc gia mang đi rồi... chuyện này bị phong tỏa rồi, giấu kín rồi, cậu... cậu nhớ đừng nói với ai... tớ chỉ muốn cho cậu biết..."

Ngay lúc cậu ta còn định nói gì đó, chợt bên kia điện thoại vang lên một tiếng rít rất chói tai, nghe như đường truyền tín hiệu có vấn đề, sau đó, điện thoại cũng bị cắt đứt. Tôi vội vàng tìm cách gọi lại, nhưng bên kia đã tắt máy. Tôi sững sờ quay lại nhìn Bạch Dực trân trối, Bạch Dực cũng chằm chằm nhìn tôi nhưng không nói gì. Kỳ thực cũng không cần phải nói gì, nhìn vẻ mặt tôi lúc này chắc chắn anh ta cũng đã đoán được chuyện vừa xảy ra hoàn toàn không phải là chuyện tốt. Tôi dứt dứt tóc kể lại cho Bạch Dực nghe, ánh mắt anh ta càng nghe càng lạnh đi. Cuối cùng cả hai chúng tôi đều chìm vào im lặng, bầu không khí cũng lạnh như băng.

Một lúc lâu sau, Bạch Dực dứt khoát đứng lên nói: "Đừng nghĩ nữa, đi ngủ cái đã. Mọi chuyện tính sau."

Tôi vội vã gật đầu, cởi áo ngoài lên giường nằm, vừa đặt lưng xuống mới cảm nhận cả cơ thể mình cứ như bị mấy trăm cân đè lên, cứ nặng trĩu như chì. Tôi uể oải nhắm mắt, dần dần chìm vào giấc ngủ.

Ngày hôm sau tôi quả thực không muốn dậy, nhưng bị Bạch Dực kiên trì tha lôi vào nhà vệ sinh, rửa cái mặt u ám như u hồn. Bạch Dực dường như cũng không ngủ ngon lắm, tròng mắt đỏ ngầu, nhưng vẫn theo đúng như lệ thường ngày ngày dậy sớm để còn ra ngoài mua báo. Tôi thần người ngồi bên cạnh anh ta, cầm một cái bánh quẩy nhét vào miệng, sau đó ngoắc ngoắc tay ra hiệu cho tôi mượn tờ báo. Nhưng Bạch Dực chỉ nhìn tôi một cái mà không đưa. Tôi mệt mỏi, bèn mở miệng hỏi: "Không mua báo mới à?"

Anh ta chằm chằm nhìn thẳng vào mắt tôi rất lâu, cuối cùng mới mở miệng: "Cậu bạn học làm ở viện bảo tàng của cậu... chết rồi."

Cái tin này đến làm tôi cứ như bị sét đánh trúng, máu trong người thoáng chốc như muốn chảy ngược, cái bánh trong tay rớt xuống đất lúc nào cũng không hay. Chỉ biết run rẩy hỏi: "Cái gì? Chết? Đã chết? Chết thế nào?!"

Anh ta mở tờ báo ra, chỉ vào một cái tin trong đó mà nói: "Cậu đọc đi, tối hôm qua, tại khu triển lãm đồ Thanh Đồng, một nhân viên viện bảo tàng đã đánh vỡ lồng thủy tinh rút trong đó ra một thanh kiếm Thanh Đồng cổ tự sát chết."

Tôi lập tức vồ lấy tờ báo, quét qua một lần, sau đó ngẩng đầu lên kinh hoàng nhìn Bạch Dực: "Nhưng không thể nào! Tối qua cậu ta còn gọi điện cho tôi mà! Thực sự quá kỳ quặc rồi, cậu ta bảo người tự sát là giám đốc cơ mà?! Sao bây giờ lại thành cậu ta?!"

Bạch Dực gỡ kính mắt xuống, vuốt vuốt mũi, nói: "Có nhớ tối qua cậu ta nói gì không? Cái chết của giám đốc đã bị bưng kín."

Tôi nghĩ ra một khả năng, vội hỏi: "Ý anh là... cả hai cùng chết, mỗi người dùng một thanh kiếm tự sát?!"

Anh ta im lặng nhìn tôi, cuối cùng mới nói: "Đó cũng chỉ là một suy đoán, tình huống cụ thể thế nào tôi cũng không dám chắc. Nhưng cái chết của cậu ta quá mức đột ngột, ngay khi cậu ta định nói cho chúng ta biết cái gì đó, cậu không thấy... việc này quá mức quái dị sao?"

Tôi đờ đẫn nhìn tờ báo trong tay, thực tình không còn muốn nhìn thấy gì nữa, trong đầu chỉ còn văng vẳng những lời Bạch Dực đã nói: việc này quá mức quái dị. Hơn nữa, trong lòng tôi còn là cảm giác vô cùng ân hận, giống như chính tay

 tôi đã hại chết người bạn cũ của mình. Ngưu Bì Đường là một đứa bạn tốt, lúc trước có thể coi như bạn thân. Tuy tốt nghiệp rồi mỗi đứa đi một hướng, nhưng lúc nào cũng giữ liên lạc, vậy mà chỉ trong phút chốc, thành ra biển trời cách mặt. Tôi đột nhiên cảm nhận sâu sắc nỗi khổ "Bát khổ" của con người, nỗi khổ nhìn thấy vận mệnh của mình lại không nằm trong tay mình.

Đây là lần đầu tiên từ khi ra đời, tôi cảm thấy sự khủng khiếp của số phận. Trước đây cũng có nhiều chuyện đáng sợ xảy ra, nhưng chỉ cần có Bạch Dực ở bên, tôi liền vô thức mà an tâm rằng chuyện gì rồi cũng sẽ qua. Nhưng lần này thì không phải. Lần này, tôi cảm thấy một cảm giác gần như là tuyệt vọng, đột nhiên lại chỉ muốn phá lên cười thật to, vì thậm chí còn không biết sau hôm nay có còn an lành mà đón ngày mai tới hay không.

Nghĩ tới đây, tôi giật mình hoảng hốt nắm chặt tay, cố làm bản thân bình tĩnh lại, bằng không ngoại trừ ngồi chờ chết thì quả thực không còn cách nào khác nữa. Tôi nhìn sang Bạch Dực, thấy ánh mắt anh ta cũng như ngời sáng. Bạch Dực gật nhẹ đầu như muốn an ủi tôi: "Đường có gian nan cũng phải đi cho đến hết, hơn nữa tôi nghĩ, chúng ta đang càng lúc càng tới gần chân tướng hơn. Chẳng lẽ cậu không muốn biết mục đích cuối cùng của lời nguyền này là gì ư?"

Nghe anh ta nói thế, giống như đột ngột bị xối cho một chậu nước lạnh, tỉnh hẳn người. Đúng vậy! Lời nguyền ban đầu bị phong trong cái hộp chứa Huyền Hoàng Bích, nhưng rõ ràng đã từng bị ai đó đụng vào. Tuy tin tức này là do Tá Thọ bà nói, nhưng cũng có thể thấy nó khá đáng tin. Bởi vì nếu là bà ta muốn chúng tôi chết, vậy căn bản không cần phải vòng vèo như thế làm gì. Còn cái bóng đen mà Nhạc Lan nhắc tới trong thư nữa, đó là ai? Chẳng lẽ là kẻ chủ mưu thực sự? Hắn sẽ xuất hiện khi tôi sắp chết, hay là đã sớm ở bên cạnh tôi rồi? Vậy kẻ đó là ai? Tuy những đầu mối chúng tôi biết được lúc này vẫn còn là quá ít, nhưng đã trải qua tứ khổ, chúng tôi cũng có thể phần nào tìm hiểu được cách "vận hành" của quỷ chú này, bằng không thì đến chết cũng không biết vì sao mình chết mất. Cho nên việc có thể làm lúc này chỉ là chờ đợi... chờ tứ khổ tiếp theo, hay phải nói cho đúng là, thử thách kiên nhẫn, thử thách lòng tin với một con quái vật vô hình... Để xem, trước khi cái chết đến, chúng tôi có thể kiên trì vạch trần chân tướng sự thật hay không...

Bạch Dực vỗ nhẹ lên tay tôi, tôi ngẩng đầu lên nhìn anh ta, thấy vẻ mặt anh ta cũng tràn đầy kiên định. Chúng tôi không biết nguy hiểm kế tiếp sẽ là cái gì, không biết nó khi nào sẽ đến, thế nhưng vì sống sót, chúng tôi phải chờ; chỉ cần có một tia hi vọng, sẽ tuyệt đối không buông tay.

Quỷ chú - Hoàn

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro