Quá trình gia nhập WTO của Việt Nam

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

MỤC LỤC

Chương 1. QUÁ TRÌNH GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM

..

3

1.1. Giới thiệu chung về Tổ chức thương mại thế giới (WTO)

3

1

.1.1

. WTO là gì?

.

3

1.1.2. Mục tiêu của WTO

..

3

1.1.3. Chức năng của WTO

..

4

1.1.4. Những nguyên tắc cơ bản của WTO

..

5

1.2. Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam

..

5

Chương 2. NHỮNG MẶT “ĐƯỢC” VÀ “MẤT” CỦA VIỆT NAM SAU 5 NĂM GIA NHẬP WTO

..

7

2.1. Những mặt “được”

.

7

2.1.1. Mở rộng thị trường xuất khẩu

.

7

2.

1

.2. Thu hút mạnh mẽ nguồn vốn FDI

8

2.1.3. Kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ

.

10

2.1.4. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo chiều hướng tiến bộ

.

12

2.1.5. Nâng cao năng lực cạnh tranh

.

17

2.1.6. Đời sống dân cư được cải thiện

.

19

2.2. Những cái “mất”

.

20

2.2.1. Mất cân bằng cán cân thương mại

20

2.2.2. Cơ cấu FDI không hợp lý

.

23

2.2.3. Những lời cáo buộc bán phá giá

.

24

2.2.4. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thấp và chưa ổn định

.

25

2.2.5. Những vấn đề về môi trường và an sinh xã hội

26

Chương 3. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH HỘI NHẬP WTO

..

30

3.1. Kiểm soát nhập siêu, góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững

.

30

3.2. Hợp lý hóa cơ cấu FDI

32

3.3. Hạn chế tối đa những thiệt hại của hàng xuất khẩu khi bị cáo buộc bán phá giá

34

3.4. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp

.

36

3.5.

Bảo vệ môi trường và đ

ảm bảo an sinh xã hội

38

Chương 1. QUÁ TRÌNH GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM

1.1. Giới thiệu chung về Tổ chức thương mại thế giới (WTO)

1

.1.1

. WTO là gì?

WTO là tên viết tắt từ tiếng Anh của Tổ chức thương mại thế giới (

W

orld

T

rade

O

rganization). WTO được thành lập theo Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới ký tại Marrakesh (Marốc) ngày 15/4/1994. WTO chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995.  

Có thể hình dung một cách đơn giản về WTO như sau:  

-

WTO là nơi đề ra những quy định để điều tiết hoạt động thương mại giữa các quốc gia trên quy mô toàn thế giới hoặc gần như toàn thế giới. Đến nay, WTO có tất cả 150 thành viên.

-

 WTO là một diễn đàn để các quốc gia, các thành viên tiến hành thoả thuận, thương lượng, nhân nhượng nhau về các vấn đề thương mại, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ... để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa các bên.  

-

WTO gồm những quy định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế

làm căn cứ để mỗi thành viên hoạch định và thực thi chính sách nhằm mở rộng thương mại, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống nhân dân các nước thành viên.

-

 WTO giúp giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại phát sinh giữa các thành viên theo các quy định đã thoả thuận, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế và luật lệ của WTO.

1.1.

2. Mục tiêu của WTO

Nâng cao mức sống, bảo đảm đầy đủ việc làm và một khối lượng thu nhập và nhu cầu thực tế lớn và phát triển ổn định; mở rộng sản xuất, thương mại hàng hoá và dịch vụ, trong khi đó vẫn đảm bảo việc sử dụng tối ưu nguồn lực của thế giới theo đúng mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ và duy trì môi trường và nâng cao các biện pháp để thực hiện điều đó theo cách thức phù hợp với những nhu cầu và mối quan tâm riêng rẽ của mỗi bên ở các cấp độ phát triển kinh tế khác nhau.  

Bảo đảm rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia kém phát triển nhất, duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế của quốc gia đó;          

Giảm đáng kể thuế và các hàng rào cản trở thương mại khác và theo hướng loại bỏ sự phân biệt đối xử trong các mối quan hệ thương mại quốc tế;

Xây dựng một cơ chế thương mại đa biên chặt chẽ, ổn định và khả thi hơn; quyết tâm duy trì những nguyên tắc cơ bản và tiếp tục theo đuổi những mục tiêu đang đặt ra cho cơ chế thương mại đa biên này. 

1.1.

3. Chức năng của WTO

Theo ghi nhận tại Ðiều III, Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, WTO có 5 chức năng sau:

1. WTO tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và điều hành và những mục tiêu khác của Hiệp định thành lập WTO, các hiệp định đa biên của WTO, cũng như cung cấp một khuôn khổ để thực thi, quản lý và điều hành việc thực hiện các hiệp định nhiều bên;

2. WTO là một diễn đàn cho các cuộc đàm phán giữa các nước thành viên về những quan hệ thương mại đa biên trong khuôn khổ những quy định của WTO. WTO cũng là diễn đàn cho các cuộc đàm phán tiếp theo giữa các thành viên về những quan hệ thương mại đa biên; đồng thời WTO là một thiết chế để thực thi các kết quả từ việc đàm phán đó hoặc thực thi các quyết định do Hội nghị Bộ trưởng đưa ra;

3. WTO sẽ thi hành Thoả thuận về những quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp giữa các thành viên (''Thoả thuận'' này được quy định trong Phụ lục 2 của Hiệp định thành lập WTO);

4. WTO sẽ thi hành Cơ chế rà soát chính sách thương mại (của các nước thành viên), ''Cơ chế'' này được quy định tại Phụ lục 3 của Hiệp định thành lập WTO;

5. Ðể đạt tới sự thống nhất cao hơn về quan điểm trong việc tạo lập các chính sách kinh tế toàn cầu, khi cần thiết, WTO sẽ hợp tác với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới và các cơ quan trực thuộc của nó.

1.1.

4. Những nguyên tắc cơ bản của WTO

WTO hoạt động dựa trên một số nguyên tắc làm nền tảng cho hệ thống thương mại thế giới, bao gồm:

1. Thương mại không phân biệt đối xử;

2. Thương mại ngày càng tự do hơn (bằng con đường đàm phán);

3. Dễ dự đoán nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch;

4. Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn;

5. Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế bằng cách dành ưu đãi hơn cho các nước kém phát triển nhất.

1.2. Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam

1

1995

: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. Ban Công tác xem xét việc gia nhập của Việt Nam được thành lập với Chủ tịch là ông Eirik Glenne, Đại sứ Na Uy tại WTO (riêng từ 1998–2004, Chủ tịch là ông Seung Ho, Hàn Quốc)

8/1996

: Việt Nam nộp “Bị vong lục về chính sách thương mại”.

Bị Vong lục không chỉ giới thiệu tổng quan về nền kinh tế, các chính sách kinh tế vĩ mô, cơ sở hoạch định và thực thi chính sách, mà còn cung cấp các thông tin chi tiết về chính sách liên quan tới thương mại hàng hóa, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ.

1996: Bắt đầu đàm phán Hiệp định Thương mại song phương với Mỹ (BTA)

1998 - 2000

: Tiến hành 4 phiên họp đa phương với Ban Công tác về Minh bạch hóa các chính sách thương mại vào tháng 7-1998, 12-1998, 7-1999, và 11-2000. Kết thúc 4 phiên họp, Ban công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ bản kết thúc quá trình minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm phán mở cửa thị trường.

7/2000: Ký kết chính thức BTA với Mỹ

12

2001: BTA có hiệu lực

4/2002

: Tiến hành phiên họp đa phương thứ 5 với Ban Công tác. Việt Nam đưa ra Bản chào đầu tiên về hàng hóa và dịch vụ. Bắt đầu tiến hành đàm phán song phương.

2002 – 2006

: Đàm phán song phương với một số thành viên có yêu cầu đàm phán, với 2 mốc quan trọng:

10/2004

: Kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn nhất

5/2006

: Kết thúc đàm phán song phương với Mỹ - đối tác cuối cùng trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương.

26/10/2006

: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng, Ban Công tác chính thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng đã có 14 phiên họp đa phương từ tháng 7-1998 đến tháng 10-2006.

7/11/2006

: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva để chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO.

11/1/2007

: Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của WTO.

Chương 2. NHỮNG MẶT “ĐƯỢC” VÀ “MẤT” CỦA VIỆT NAM SAU 5 NĂM GIA NHẬP WTO

2.1. Những mặt “được”

2.1.1. Mở rộng thị trường xuất khẩu

Là thành viên của WTO, vị thế của Việt Nam được nâng lên, có điều kiện để mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, trước hết là đối với các nước thành viên của tổ chức này.

Trong 5 năm 2007 - 2011, kim ngạch xuất khẩu, nhìn chung, diễn biến theo xu hướng năm sau cao hơn năm trước: năm 2006 đạt 39,8 tỷ USD, tăng 22,7%; năm 2007 đạt 48,57 tỷ USD, tăng 23%; năm 2008 đạt 62,7 tỷ USD, tăng 29,5%; năm 2009 đạt 57 tỷ USD; năm 2010 đạt 71,6 tỷ USD, tăng 25,5% (gấp 3 lần mục tiêu đề ra) và năm 2011 ước đạt 85 tỷ USD, tăng 21% so với năm 2010. Trong bốn tháng đầu năm 2012,

kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 33,4 tỷ USD, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 12,8 tỷ USD, tăng 4,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 20,6 tỷ USD, tăng 36,4%.

T

rong bối cảnh khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, những thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, EU, Nhật Bản... bị ảnh hưởng nặng nề, thì kim ngạch xuất khẩu đạt được trong những năm qua là rất đáng ghi nhận. 

 Xuất khẩu không chỉ tăng về lượng mà cơ cấu mặt hàng cũng có những khởi sắc theo hướng tiến bộ, tuy mới chỉ là bước đầu. Bên cạnh các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dầu thô, dệt may, giày dép, các mặt hàng máy tính, điện tử, điện lạnh, hàng thủ công mỹ nghệ, ba lô túi xách, đồ gỗ, dây điện và cáp điện... cũng có xu hướng tăng dần về giá trị và tỷ trọng. 

Cụ thể hơn, kim ngạch một số mặt hàng xuất khẩu bốn tháng đầu năm 2012 đạt mức tăng cao là: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 3,5 tỷ USD, tăng 154% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 2,1 tỷ USD, tăng 98,6%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 1,7 tỷ USD, tăng 58,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1,4 tỷ USD, tăng 95,2%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,4 tỷ USD, tăng 20,5%.

 Thị trường tiêu thụ hàng nông sản của Việt Nam ngày càng được mở rộng và vươn tới những thị trường được coi là khó tính như Nhật Bản, EU và Mỹ. Nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu không chỉ tăng ở các thị trường truyền thống mà đã thâm nhập ngày càng mạnh hơn vào các thị trường mới như Nam Mỹ, châu Phi, Nam Á và giá các mặt hàng cũng tăng dần

. Trong bốn tháng đầu năm 2012, EU là thị trường lớn nhất của Việt Nam với 5,7 tỷ USD, chiếm 17,1% tổng kim ngạch xuất khẩu và tăng 20,2% so với cùng kỳ năm 2011; tiếp đến là Mỹ đạt gần 5,7 tỷ USD, chiếm 16,9% và tăng 17,5%; ASEAN đạt 4,9 tỷ USD, chiếm 14,7% và tăng 16,6%; Nhật Bản đạt 4,3 tỷ USD, chiếm 12,7% và tăng 51,3%; Trung Quốc đạt 3,8 tỷ USD, chiếm 11,3% và tăng 24,6%; Hàn Quốc đạt 1,7 tỷ USD, chiếm 5,1% và tăng 7%...

2.

1

.2. Thu hút mạnh mẽ nguồn vốn FDI

Một tác động nữa sau khi trở thành thành viên của WTO là các nhà đầu tư nước ngoài, nhiều tập đoàn kinh tế lớn của các nước công nghiệp và dịch vụ phát triển yên tâm đầu tư vào Việt Nam những dự án lớn. Đầu tư mới và tăng vốn của các dự án cũ tại Việt Nam được thể hiện qua các con số sau: Tổng số vốn FDI đăng ký năm 2006 đạt 12 tỷ USD; năm 2007 đạt 21,3 tỷ USD, tăng 75% so với năm 2006; năm 2008 đạt 64 tỷ USD, tăng gấp 3 lần năm 2007; năm 2009 đạt trên 21,6 tỷ USD; năm 2010 đạt 18,6 tỷ USD; năm 2011, ước đạt trên 15 tỷ USD (9 tháng đầu năm đạt 9,9 tỷ USD). Vốn FDI thực hiện năm 2006 là 4,1 tỷ USD, tăng 24% so với năm 2005; năm 2007 đạt 8 tỷ USD, gấp 2 lần năm 2006; năm 2008 đạt 11,6 tỷ USD, tăng 45% so với năm 2007; năm 2009 đạt 10 tỷ USD, bằng 47% vốn đăng ký; năm 2010 đạt 9,5 tỷ USD; và năm 2011 ước đạt 9 tỷ USD.

Nét mới của FDI đăng ký và thực hiện thời kỳ 2007 - 2011 là có nhiều dự án lớn. Các vùng thu hút nhiều vốn FDI gồm có Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng và duyên hải Nam Trung Bộ. Cơ cấu vốn đầu tư cũng thay đổi, chuyển từ công nghiệp sang dịch vụ khách sạn, nhà hàng, căn hộ cho thuê, bất động sản, tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, phù hợp với các cam kết của WTO. Vai trò của nguồn vốn FDI trong việc tăng chất lượng tăng trưởng cũng được thể hiện khá rõ nét. Nhiều sản phẩm của khu vực FDI đạt chất lượng cao, làm thay đổi cơ cấu mặt hàng tiêu dùng và xuất khẩu theo hướng tiến bộ, tạo thêm nhiều việc làm mới, thu hút lao động dư thừa, tăng thu nhập cho dân cư, tăng thu ngân sách nhà nước.

Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ 01/01/2012 đến thời điểm 20/04/2012 đạt 4267,1 triệu USD, bằng 68,5% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn đăng ký của 169 dự án được cấp phép mới đạt 3099 triệu USD, bằng 44,1% số dự án và bằng 72,6% số vốn cùng kỳ năm 2011; vốn đăng ký bổ sung của 73 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước là 1168,1 triệu USD. Trong tổng vốn đăng ký của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 2374,3 triệu USD, ngành kinh doanh bất động sản đạt 1576,5 triệu USD, ngành vận tải, kho bãi đạt 180 triệu USD của 01 dự án cấp phép mới. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện ước tính đạt 3,6 tỷ USD, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước.

Trong bốn tháng đầu năm 2012, cả nước có 27tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp phép, trong đó Bình Dương có số vốn đăng ký lớn nhất với 1264,3 triệu USD, chiếm 40,8% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hải Phòng 612,6 triệu USD, chiếm 19,8%; Quảng Ninh 347,4 triệu USD, chiếm 11,2%; Ninh Bình 184,4 triệu USD, chiếm 6%; Khánh Hòa 180 triệu USD, chiếm 5,8%; Tiền Giang 152,6 triệu USD, chiếm 4,9%; Hưng Yên 79,5 triệu USD, chiếm 2,6%...

Trong số 28 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp phép mới vào Việt Nam bốn tháng đầu năm 2012, Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất với 2360,7 triệu USD, chiếm 76,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Đặc khu hành chính Hồng Công (Trung Quốc) 349,9 triệu USD, chiếm 11,3%; Hàn Quốc 200,1 triệu USD, chiếm 6,5%; Hà Lan 46,1 triệu USD, chiếm 1,5%; Xin-ga-po 38,3 triệu USD, chiếm 1,2%...

2.1.3. Kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ

Xuất khẩu tăng góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh  tế; tạo điều kiện thuận lợi để cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ. So với các nước thành viên ASEAN, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta trong 5 năm qua đạt mức cao hơn với xu hướng khá ổn định, chất lượng tăng trưởng kinh tế được cải thiện từng bước. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2007 tăng 8,45%, năm 2008 tăng 6,18%, năm 2009 tăng 5,32%, năm 2010 tăng 6,78% và năm 2011 ước tăng 5,89%. Năm 2010, tuy mới thoát khỏi khủng hoảng nhưng kinh tế Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn 2 năm trước đó, vượt kế hoạch được đề ra từ đầu năm (6,5%). Năm 2011, để tập trung vào mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, Chính phủ hạ chỉ tiêu tăng trưởng so với kế hoạch đầu năm nên tốc độ tăng GDP ước sẽ đạt thấp hơn năm 2010, tuy nhiên vẫn cao hơn năm 2009. Quý I năm 2012, t

ổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 4,00% so với cùng kỳ năm 2011, thấp hơn mức tăng 5,57% của cùng kỳ năm trước. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,84%, đóng góp 0,33 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 2,94%, đóng góp 1,27 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 5,31%, đóng góp 2,40 điểm phần trăm.

Một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế là thu - chi ngân sách nhà nước, nhất là cơ cấu thu - chi, tỷ lệ bội chi so với GDP. Trong những năm qua, cân đối thu - chi ngân sách nhà nước được cải thiện. Tổng thu ngân sách nhà nước các năm 2007 - 2011 luôn đạt, thậm chí vượt dự toán hằng năm và theo xu hướng tốc độ tăng năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể là: Thu ngân sách năm 2006 vượt dự toán 9,8%; năm 2007 vượt 15,2%; năm 2008 vượt 23,8% và tăng 26,3%; năm 2009 tăng 29%; năm 2010 vượt dự toán 9,3%; và năm 2011 ước vượt dự toán 10%. Cơ cấu thu ngân sách có chuyển biến tích cực: Thu nội địa tăng từ 52,1% năm 2006 lên 55,17% năm 2007; 55,13% năm 2008; 60,96% năm 2009; 60,5% năm 2010 và ước đạt 61% năm 2011. Các khoản thu có tỷ trọng lớn đều đạt mức khá. Các năm 2008, 2009 và 2010, mặc dù chịu ảnh hưởng lớn của mưa lũ ở miền Trung, Tây Nguyên... song nhiều khoản thu chủ yếu, như thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh, phí và lệ phí, thu từ khu vực kinh tế quốc doanh, thu từ nhà, đất đều đạt mức tăng khá. Trong đó, một số khoản thu đạt khá so với dự toán là: Thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thu từ nhà và đất. Đặc biệt, mặc dù thực hiện lộ trình giảm thuế xuất nhập khẩu theo cam kết WTO, nhưng thu từ cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đều vượt dự toán và năm sau cao hơn năm trước. Năm 2010 vượt 20% dự toán và dự báo năm 2011 có thể còn vượt cao hơn do xuất khẩu tăng cao.

Tổng thu ngân sách nhà nước từ đầu năm đến 15/4/2012 ước tính đạt 198,9 nghìn tỷ đồng, bằng 26,9% dự toán năm, trong đó thu nội địa 127,9 nghìn tỷ đồng, bằng 25,9%; thu từ dầu thô 31 nghìn tỷ đồng, bằng 35,7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 38,6 nghìn tỷ đồng, bằng 25,1%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 30% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 23,2%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 24,8%; thuế thu nhập cá nhân bằng 28,2%; thuế bảo vệ môi trường bằng 25,3%; thu phí, lệ phí bằng 21,2%

Tổng chi ngân sách nhà nước các năm 2007 - 2011 luôn đạt dự toán cả năm của Quốc hội. Đặc biệt trong 3 năm 2009 - 2011, mặc dù có nhiều khoản chi đột xuất để hỗ trợ các vùng bị thiên tai nặng, khiến tổng mức chi cả năm tăng, nhưng bội chi ngân sách vẫn dưới 7%. Cơ cấu chi có chuyển biến tích cực, tỷ trọng chi đầu tư phát triển tăng cao hơn chi thường xuyên. Cả năm 2008, chi đầu tư phát triển tăng 14,8%, chi đầu tư xây dựng cơ bản tăng 14,7%. Việc bảo đảm lương thực và kinh phí để hỗ trợ các vùng bị thiệt hại do thiên tai tàn phá trên diện rộng như năm 2009, năm 2010 ở miền Trung và Tây Nguyên đã góp phần quan trọng ổn định đời sống dân cư, khôi phục sản xuất, không để tái nghèo. Tổng chi ngân sách nhà nước từ đầu năm đến 15/4/2012 ước tính đạt 234,2 nghìn tỷ đồng, bằng 25,9% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 46,9 nghìn tỷ đồng, bằng 26% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 45,6 nghìn tỷ đồng, bằng 26,2%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể 157,5 nghìn tỷ đồng, bằng 26,2%; chi trả nợ và viện trợ 29,9 nghìn tỷ đồng, bằng 29,9%.

2.1.4. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo chiều hướng tiến bộ

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng GDP của khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản; tăng dần tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ. Trong 2 năm 2008 và 2009, cơ cấu GDP theo ngành chịu tác động của suy thoái kinh tế thế giới nên có sự chuyển dịch chậm hơn; tuy nhiên, về cơ bản, vẫn diễn ra theo chiều hướng tích cực. Kết quả đó một phần không nhỏ do tác động của WTO thể hiện qua các cam kết về mở rộng thị trường, giảm thuế hàng nghìn sản phẩm hàng hóa xuất khập khẩu, tạo thế bình đẳng cho hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam trên thị trường thế giới. 

Nông nghiệp có sự khởi sắc toàn diện, chất lượng tăng trưởng khá ổn định.

Tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực này bình quân thời kỳ 2007 - 2011 tăng trên 2,59%/năm, trong đó, năm 2009 tăng 1,83%, năm 2010 tăng 2,78% và năm 2011 ước tăng 3%. Sản xuất nông nghiệp phát triển góp phần quan trọng vào việc bảo đảm an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia trong mọi tình huống, đặc biệt vào thời điểm trên thế giới diễn ra khủng hoảng lương thực, giá lương thực tăng cao. Sản lượng lương thực có hạt năm 2010 đạt 44,6 triệu tấn, tăng 4 triệu tấn so với năm 2007 (10%); năm 2011 ước đạt 45 triệu tấn. Lượng gạo tiêu dùng trong nước ổn định mặc dù dân số tăng bình quân 1 triệu người/năm; lượng gạo hỗ trợ đồng bào vùng bị thiên tai tăng cao nhưng vẫn đáp ứng đủ nhu cầu cơ bản của đời sống dân cư, không để dân đói. Lượng gạo xuất khẩu bình quân 5 năm qua đạt trên 5,9 triệu tấn/năm, trong đó năm 2009 và 2010 đạt trên 6 triệu tấn, năm 2011 ước đạt 7 triệu tấn. Các mặt hàng khác như cà phê, cao su, hạt tiêu, chè... cũng có xu hướng tương tự. Nhờ tác động của WTO, thị trường xuất khẩu nông sản được mở rộng, các loại thuế bán phá giá mang tính áp đặt như trước đây bị bãi bỏ hoặc hạn chế, chất lượng nông sản tăng lên nên nhiều mặt hàng xuất khẩu Việt Nam đã đứng vững trên các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, EU. 

Tính đến 15/4/2012,

các địa phương phía Nam đã thu hoạch 1718,9 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 104,3% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1523,4 nghìn ha, chiếm 96,4% diện tích gieo cấy và bằng 104,3%. Theo báo cáo sơ bộ, sản lượng lúa toàn vùng ước tính đạt 10,8 triệu tấn, tăng 280 nghìn tấn so với vụ đông xuân trước, chủ yếu do năng suất tăng 1,2 tạ/ha. Năng suất lúa tăng một mặt do thời gian ngập lũ trước đó kéo dài mang lại lượng lớn phù sa, làm đất đai thêm màu mỡ; mặt khác do các địa phương thực hiện các khâu đúng lịch thời vụ như đã được khuyến cáo và sử dụng các giống lúa năng suất cao, đồng thời ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong quá trình chăm bón, đặc biệt là sử dụng bảng so màu lá lúa, cũng như thực hiện tốt công tác phòng trừ sâu bệnh nên hạn chế được

dịch bệnh, giúp lúa sinh trưởng và phát triển tốt.

Tại khu vực Duyên Hải miền Trung, thời tiết diễn biến khá thuận nên năng suất lúa đông xuân của các tỉnh tăng so với năm trước, trong đó một số địa phương có năng suất lúa tăng cao là: Quảng Nam tăng 5 tạ/ha; Phú Yên tăng 3,2 tạ/ha; Bình Định tăng 0,8 tạ/ha.

Cùng với việc thu hoạch lúa đông xuân, các địa phương phía Nam đã gieo sạ được 575,2 nghìn ha lúa hè thu, bằng 85,3% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long gieo sạ 569 nghìn ha, bằng 88,2%.

Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá cao.

Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2007 tăng 16,7%; năm 2008 và 2009 do suy thoái kinh tế thế giới nên có mức tăng thấp hơn, nhưng đến năm 2010 đã hồi phục và tăng trên 14%; năm 2011 ước tăng 13%. Nét khởi sắc đáng ghi nhận là, giá trị sản xuất công nghiệp khu vực ngoài nhà nước và khu vực công nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng nhanh trong 5 năm qua. Thí dụ: năm 2007, khu vực công nghiệp ngoài nhà nước tăng 20,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18%. Cơ cấu sản phẩm, và chất lượng sản phẩm công nghiệp có nhiều chuyển biến tích cực: tỷ trọng công nghiệp chế biến tăng dần từ 78% năm 2000 lên 83,2% năm 2005; 84,5% năm 2007 và 89% năm 2010 và 2011. Trong thời gian đó, tỷ trọng công nghiệp khai thác giảm dần từ 15,7% năm 2006 xuống còn 9,6% năm 2009 và 11% năm 2010. Nhiều mặt hàng công nghiệp Việt Nam đã đứng vững trên thị trường trong nước, nhiều mặt hàng đã được xuất khẩu ra thị trường các nước, trong đó có thị trường EU, Mỹ, Nhật Bản. Sản phẩm công nghiệp phục vụ nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng nhanh cả về số lượng, chủng loại, mẫu mã, chất lượng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các tầng lớp dân cư, giảm tỷ trọng hàng nhập khẩu, giảm nhập siêu hàng tiêu dùng... 

C

hỉ số sản xuất công nghiệp

bốn

tháng đầu năm 2012 tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước (Tốc độ tăng cùng kỳ các năm 2010 và 2011 là 7,9% và 10%). Trong đó, c

ông nghiệp khai thác mỏ

tăng

2,6

%; công nghiệp chế biến

tăng

3

,

8

%; sản xuất, phân phối điện, ga, nước tăng

14

%.

Một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất

bốn

tháng

đầu năm

tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Đóng và sửa chữa tàu tăng

173

%;

chế biến và bảo quản rau quả tăng 46,1%;

sản xuất sản phẩm bơ, sữa tăng 1

9,1

%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng

17,9

%; sản xuất thức ăn gia súc tăng 1

7,2

%; sản xuất, tập trung và phân phối điện tăng 1

4

,

5

%; chế biến, bảo quản thủy sản và sản phẩm từ thủy sản tăng 1

4

,

4

%; sản xuất đường tăng

13

,

7

%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 1

0,

6%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp bốn tháng đầu năm 2012 so với cùng kỳ năm trước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Vĩnh Phúc tăng 12,3%; Đồng Nai tăng 6,7%; Hải Dương tăng 5,9%; Bình Dương tăng 5,7%; Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 5,7%; Hà Nội tăng 4,1%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 3,7%; Cần Thơ tăng 3,6%; Đà Nẵng tăng 2,4%.

Chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến

ba

tháng đầu năm 2012 tăng

3

,5% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Chế biến và bảo quản rau quả tăng 43,1%; sản xuất đường tăng 42%; sản xuất xe có động cơ tăng 33,4%; sản xuất gạch, ngói và gốm, sứ xây dựng không chịu lửa tăng 26,9%; sản xuất sản phẩm bơ, sữa tăng 26%.

Các ngành sản xuất và dịch vụ tăng trưởng khá.

-

Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 4/2012 tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 21,1%so với cùng kỳ năm trước. Tính chung bốn tháng đầu năm 2012, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 762,2 nghìn tỷ đồng, tăng 21,6% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 6,1%. Trong tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng bốn tháng, kinh doanh thương nghiệp đạt 593,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,9% tổng mức và tăng 20%; khách sạn nhà hàng đạt 87,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,5% và tăng 23,4%; dịch vụ đạt 73,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,7% và tăng 35,1%; du lịch đạt 7,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,9% và tăng 13,2%.

-

Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách bốn tháng đầu năm 2012 ước tính đạt 1089,2 triệu lượt khách, tăng 14,7% và 45,9 tỷ lượt khách.km, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Vận tải trung ương đạt 15,7 triệu lượt khách, tăng 10,1% và 10,7 tỷ lượt khách.km, tăng 9,4%; vận tải địa phương đạt 1073,5 triệu lượt khách, tăng 14,9% và 35,2 tỷ lượt khách.km, tăng 12,6%.

Vận tải hàng hóa bốn tháng đầu năm 2012 ước tính đạt 288 triệu tấn, tăng 11,1% và 66,3 tỷ tấn.km, giảm 5,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vận tải trong nước đạt 275,8 triệu tấn, tăng 12,4% và 25,5 tỷ tấn.km, tăng 3,2%; vận tải ngoài nước đạt 12,2 triệu tấn, giảm 8,5% và 40,7 tỷ tấn.km, giảm 7,2%.

-

 Bưu chính, viễn thông

Số thuê bao điện thoại phát triển mới bốn tháng đầu năm 2012 ước tính đạt 3,5 triệu thuê bao, tăng 20% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: 10,2 nghìn thuê bao cố định, bằng 38,1% cùng kỳ và 3,5 triệu thuê bao di động, tăng 20,8%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 4/2012 ước tính đạt 134,4 triệu thuê bao, tăng 2,5% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 15,3 triệu thuê bao cố định, giảm 1,7% và 119,1 triệu thuê bao di động, tăng 3,1%.

Số thuê bao internet trên cả nước tính đến cuối tháng 4/2012 ước tính đạt 4,4 triệu thuê bao, tăng 20,4% so với cùng thời điểm năm trước. Số người sử dụng internet tại thời điểm cuối tháng 4/2012 ước tính đạt 32,2 triệu người, tăng 13,9% so với cùng thời điểm năm 2011.Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông bốn tháng đầu năm 2012 ước tính đạt 45,8 nghìn tỷ đồng, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm 2011.

-

Khách quốc tế đến Việt Nam

Khách quốc tế đến nước ta trong bốn tháng đầu năm 2012 ước tính đạt 2493,7 nghìn lượt người, tăng 22,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 1482,6 nghìn lượt người, tăng 23%; đến vì công việc 429,5 nghìn lượt người, tăng 26,7%; thăm thân nhân đạt 441,5 nghìn lượt người, tăng 20,6%.

Trong bốn tháng đầu năm 2012, một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Trung Quốc 513,2 nghìn lượt người, tăng 23,3%; Hàn Quốc 274,6 nghìn lượt người, tăng 49,3%; Nhật Bản 211,9 nghìn lượt người, tăng 25,3; Đài Loan 155,9 nghìn lượt người, tăng 30,2%; Ma-lai-xi-a 93,4 nghìn lượt người, tăng 28,3%; Nga 74,7 nghìn lượt người, tăng 50,9%.

2.1.5. Nâng cao năng lực cạnh tranh

Cạnh tranh vừa là động lực, vừa là điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tự khẳng định vị trí của mình, tự hoàn thiện và phát triển vươn lên giành ưu thế so với các đối thủ. Chính vì vậy, cạnh tranh thực chất là một cuộc chạy đua không có đích cuối cùng của các doanh nghiệp, qua đó đưa ra các biện pháp kinh tế tích cực, sáng tạo nhằm tồn tại và phát triển trên thương trường. Với động lực cạnh tranh, con người, doanh nghiệp được tự do sáng tạo và cống hiến nhiều hơn, xã hội được sử dụng nhiều của cải hơn.

Nhìn một cách tổng thể, sau 5 năm gia nhập WTO, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam được cải thiện ở một số mặt sau:

Thứ nhất,

số lượng doanh nghiệp Việt Nam tăng lên, chất lượng doanh nghiệp được nâng lên một bước. Theo số liệu của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, năm 2011, doanh nghiệp ở nước ta tăng 2,3 lần về số lượng và tăng 7,3 lần về số vốn đăng kí so với thời điểm năm 2007. Nhiều doanh nghiệp chú trọng xây dựng kế hoạch sản xuất - kinh doanh dài hạn, đầu tư cho nghiên cứu thị trường, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn… Nhiều doanh nghiệp tích cực áp dụng tiến bộ khoa học – kĩ thuật, công nghệ mới vào sản xuất – kinh doanh, cải tiến công tác quản lý, mở ra những phân khúc thị trường mới.

Thứ hai,

sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhiều doanh nghiệp nước ta đã từng bước xác lập được chỗ đứng trên thị trường khu vực và thế giới. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân 5 năm 2007 – 2011 là 19,25%/năm, cao hơn mức 18,1%/năm của thời kì 5 năm 2001 – 2005 trước khi nước ta gia nhập WTO. Kim ngạch xuất khẩu bình quân theo đầu người năm 2010 đạt 914,4 USD/người so với 559,2 USD/người của năm 2006, tăng gấp gần 2 lần. Thị trường tiêu thụ hàng hóa của Việt Nam ngày càng mở rộng, vươn tới những thị trường được coi là khó tính, đồng thời thâm nhập mạnh hơn vào các thị trường mới, giá nhiều mặt hàng xuất khẩu cũng tăng hơn trước. Không chỉ tăng về lượng, mà cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng có những thay đổi theo hướng tích cực. Có thêm nhiều mặt hàng xuất khẩu mới, như trái cây, hoa, rau… Quy mô thị trường truyền thống cũng được mở rộng. Đến năm 2010, có 19 thị trường mà Việt Nam xuất khẩu đạt từ 1 tỷ USD trở lên.

Thứ ba

, nhiều loại hình dịch vụ mới được mở ra, thu hút nhiều loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư phát triển một số ngành công nghệ mới, công nghệ cao.

Thứ tư

, cùng với sự lớn mạnh của doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng trưởng khá tốt. Trong 5 năm qua, tổng vốn FDI thực hiện đạt 45 tỷ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch; tổng số vốn FDI đăng kí mới và bổ sung đạt 146 tỷ USD, gấp 7 lần so với giai đoạn 2001 – 2005. Nét mới của FDI đăng kí và thực hiện thời kì 2007 – 2011 là có nhiều dự án lơn, cơ cấu vốn đầu tư chuyển từ công nghiệp sang dịch vụ, như khách sạn, nhà hàng, căn hộ cho thuê, bất động sản, tài chính – ngân hàng, bảo hiểm, tức các ngành có lợi thế cạnh tranh cao. Doanh nghiệp trong nước tích cực liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài để tăng nguồn lực vốn, khoa học – công nghệ, máy móc thiết bị, thị phần.

2.1.6. Đời sống dân cư được cải thiện

Tăng trưởng kinh tế đã giúp cải thiện đời sống của người dân cả về vật chất và tinh thần; tình hình an sinh xã hội cả nước 5 năm 2007 - 2011 ổn định và có nhiều mặt phát triển. GDP bình quân đầu người (giá thực tế) năm 2006 đạt 723 USD, năm 2007 đạt 835 USD, năm 2008 đạt trên 1.027 USD, tăng 22,9%, năm 2009 đạt 1.030 USD, năm 2010 đạt 1.168 USD và năm 2011 ước đạt 1.250 USD, cao hơn mức của các nền kinh tế có thu nhập trung bình. Thu nhập bình quân đầu người của dân cư năm 2010 tăng 39,4% so với năm 2008. Đời sống của người dân được cải thiện rõ nét, nhất là ở khu vực nông thôn (tăng 40,4%). Với mức thu nhập như trên, Việt Nam lần đầu tiên ra khỏi danh sách các nước nghèo của thế giới.

Mỗi năm bình quân tạo thêm 1,5 triệu việc làm mới, góp phần xoá đói, giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm nhanh trong thời gian qua: từ 20% năm 2001 xuống còn 18,1% năm 2004; 15,5% năm 2006; 14,8% năm 2007; 13,5% năm 2008; 12,3% năm 2009 và 9,5% năm 2010 (theo chuẩn nghèo cũ của Chính phủ giai đoạn 2006 - 2010). Năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo mới là 14,5% nhưng theo chuẩn nghèo cũ chỉ còn 8,5%. Với kết quả đó, Việt Nam luôn được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những nước giảm tỷ lệ nghèo đói nhanh nhất thế giới với tốc độ 2%/năm.

 Tóm lại, những thành tựu trên đây đạt được do nhiều nguyên nhân, trong đó nổi lên là vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội. Nhiều chủ trương, chính sách và luật pháp đã được ban hành để thực hiện các cam kết WTO. Sau 5 năm ký Nghị định thư chính thức gia nhập WTO, Việt Nam đã thực hiện những nghĩa vụ của mình theo đúng các cam kết mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ, giảm thuế nhập khẩu, hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai, minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, hoàn thiện môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. 

2.2. Những cái “mất”

2.2.1. Mất cân bằng cán cân thương mại

Nhìn lại quá trình xuất nhập khẩu của Việt Nam, không chỉ 5 năm vừa qua mà thậm chí trong 20 năm qua, một bức tranh chung mà nhiều chuyên gia kinh tế đã phác họa là tình trạng nhập siêu ngày càng diễn biến phức tạp, điều này đã dẫn đến nhiều khó khăn cho Chính phủ trong việc vận hành con tàu kinh tế Việt Nam phát triển bền vững. Thật vậy, Việt Nam luôn nằm trong tình trạng nhập siêu lớn. Nếu như năm 2000, mức nhập siêu mới chỉ dừng ở mức 1.153,8 triệu USD thì đến năm 2008 đã lên tới 18.028,7 triệu USD. Năm 2009, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, xuất khẩu và nhâp khẩu của nước ta đều giảm mạnh, mức nhập siêu giảm xuống còn 12.852,5 triệu USD. Đến năm 2010, khi nước ta đã dần thoát khỏi cuộc khủng hoảng thì cả xuất và nhập khẩu đều đã tăng trưởng trở lại, trong đó mức nhập siêu là 12.375 triệu USD. Mặc dù mức nhập siêu 2 năm trở lại đây đã giảm xuống, nhưng thực tế cho thấy khó có thể giảm một cách bền vững, mà ngược lại, tình trạnh nhập siêu liên tục như vậy làm ảnh hưởng đến cán cân thanh toán, dẫn đến nợ nước ngoài ra tăng và làm suy yếu sức mạnh của nền kinh tế nước ta.

Bảng 1: Tình hình xuất nhập khẩu và nhập siêu của Việt Nam giai đoạn 1990 – 2010 (ĐVT: Triệu USD)

Năm

Xuất khẩu

Nhập khẩu

Nhập siêu

1990

2.404,0

2.752,0

348,0

1995

5.449,0

8.155,0

2.706,0

2000

14.482,7

15.636,5

1.153,8

2005

32.477,1

36.761,1

4.314,0

2006

39.826,2

44.891,1

5.046,9

2007

48.561,4

62.764,7

14.203,3

2008

62.685,1

80.713,8

18.028,7

2009

57.096,3

69.948,8

12.852,5

2010

71.629,0

84.004,0

12.375,0

Nguồn: Niên giám Thống kê 2009 và Tình hình kinh tế - xã hội năm 2010, Tổng cục Thống kê.

Nếu xét về nguồn nhập siêu của Việt Nam, chúng ta rất dễ nhận thấy, nhập siêu của Việt Nam quá tập trung vào một số ít quốc gia và vùng lãnh thổ Đông Á, Đông Nam Á, đặc biệt là Trung Quốc. Từ xuất siêu sang Trung Quốc 73 triệu USD vào năm 1999 thì đến năm 2009 Việt Nam đã nhập siêu khoảng 11,53 tỷ USD, chiếm gần 90% tổng nhập siêu của Việt Nam. Như vậy, có thể nói, nếu Việt Nam giải quyết được bài toán nhập siêu từ Trung Quốc, thì có thể giải quyết được bài toán nhập siêu hiện đang là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác điều hành xuất nhập khẩu hàng hóa.

Bảng 2: Tình hình cán cân thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc (ĐVT: Triệu USD)

Năm

Giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc

Giá trị nhập khẩu từ Trung Quốc

Cán cân thương mại

(+) Xuất siêu;

(-) Nhập siêu

1999

746

673

+73

2006

3.030,0

7.390,9

- 4.360,9

2007

3.356,7

12.502

- 9.145,3

2008

4.535,7

15.652,12

- 11.116,4

2009

4.909

16.440,9

- 11.513,9

Nguồn: Niên giám Thông kê 2009

Nếu xét về cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam thì dễ nhận thấy rằng trong khi Việt Nam chủ yếu nhập khẩu từ ASEAN, Hàn Quốc và đặc biệt từ Trung Quốc thì các thị trường xuất khẩu của nước ta lại tập trung vào Mỹ, Nhật, EU… Số liệu từ Bộ Công Thương cho thấy, năm 2009, Việt Nam xuất siêu vào Mỹ, EU lần lượt là 8,4 và 3,8 tỷ USD, trong khi nhập siêu từ Trung Quốc, Hàn Quốc và ASEAN lần lượt là 11,3; 4,2 và 4,9 tỷ USD. Ngoài ra, xét riêng về xuất khẩu, Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào một nhóm nhỏ các quốc gia. Năm 2009, kim ngạch xuất khẩu vào năm thị trường lớn này đã lên đến 74,2%, riêng Mỹ đã chiếm tới 20,8%. Đến năm 2010, con số này vẫn còn rất lớn (63,2%), trong đó Mỹ chiếm 17,9%. Việc tập trung vào một số ít thị trường sẽ làm cho Việt Nam phải chịu nhiều tác động từ những biến động ở các thị trường này, đồng thời, điều này dẫn tới Việt Nam dễ bị các thị trường này áp dụng những biện pháp phòng vệ thương mại, từ đó gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam bởi hầu hết các doanh nghiệp này còn khá non trẻ và thiếu kinh nghiệm trên thị trường quốc tế.

Bảng 3: Xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2010 phân theo thị trường (ĐVT: %)

Thị trường

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Mỹ

20,4

20,8

17,9

EU

18,6

17,2

13,9

ASEAN

17,5

15,7

13,0

Nhật

14,6

11,5

9,6

Trung Quốc

7,8

9,0

8,8

Thị trường khác

21,1

25,8

36,8

Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ Công Thương

Phân tích theo cơ cấu ngành hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam cho thấy, trong khi Việt Nam nhập siêu ở ngành công nghiệp và dịch vụ thì lại xuất siêu trong ngành nông nghiệp. Phần lớn các sản phẩm xuất siêu chủ lực hiện nay là các sản phẩm thô và sơ chế trên cơ sở khai thác các lợi thế về tài nguyên và nhân công rẻ (dầu thô, gạo, cao su,…) và các sản phẩm gia công cho nước ngoài, thực hiện khâu có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị (dệt may, giày dép, linh kiện điện tử…). Các nhóm hàng nhập siêu của Việt Nam không chỉ dừng lại ở lĩnh vực mậu dịch hàng hóa mà còn nhập siêu cả trong lĩnh vực dịch vụ như dịch vụ giáo dục, y tế, du lịch… và tỉ lệ nhập siêu của các ngành này có xu hướng tăng rõ rệt qua các năm. Nếu như năm 2005, nhập siêu từ hoạt động dịch vụ là 185 triệu USD, thì đến năm 2009 con số này đã tăng lên đến 1.134 triệu USD.

2.2.2. Cơ cấu FDI không hợp lý

Những lĩnh vực không mong muốn (sản xuất với công nghệ thấp, bất động sản, khai thác tài nguyên...) tiếp nhận lượng FDI lớn trong khi những lĩnh vực cần đầu tư (hạ tầng, nông nghiệp, công nghệ cao) lại không hấp dẫn dòng FDI này.

 Số liệu thống kê đến hết năm 2011 cho thấy: vốn FDI đăng ký theo dự án tập trung tới gần 120 tỷ USD trong lĩnh vực bất động sản, cao hơn 20 tỷ USD so với lĩnh vực dịch vụ cung cấp điện, gas và cao hơn gần 100 tỷ USD so với lĩnh vực sản xuất. Cụ thể, hiện tại lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư vốn FDI nhất (với 8,8 tỷ USD vốn cấp mới và tăng thêm). Trong đó, có 32 dự án cấp mới (tổng vốn đầu tư là 4,9 tỷ USD) và 8 dự án tăng vốn (với số vốn tăng thêm là 3,8 tỷ USD). Đứng thứ hai là lĩnh vực bất động sản (7,6 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm), với nhiều dự án quy mô lớn được cấp phép như khu du lịch sinh thái Bãi biển Rồng tại Quảng Nam, dự án Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Galileo Investment Group Việt Nam. Đầu tư vào khai thác tài nguyên có xu hướng tăng. Vốn FDI đầu tư vào khai thác mỏ đã tăng từ 0,8% năm 2005 lên 1,2% năm 2006 và lên tới 18,5% năm 2008.

Trong khi đó, FDI vào lĩnh vực công nghệ chế tạo và chế biến đã bị giảm liên tục từ năm 2005 (70,4% năm 2005 xuống 68,9% năm 2006, 51% năm 2007, 36% năm 2008 và còn 13,6% năm 2009). Không những thế, trong lĩnh vực này, vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào công nghiệp lắp ráp nhằm tận dụng lao động rẻ, có giá trị gia tăng thấp. Đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vốn dĩ đã ít lại đang có xu hướng giảm (năm 2006 chiếm khoảng 6% tổng vốn đăng ký, nhưng đến tháng 11-2008 chưa đạt tới 1%).

Một cơ cấu đầu tư như vậy khó có thể bảo đảm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước theo hướng bền vững.

2.2.3. Những lời cáo buộc bán phá giá

Gia nhập WTO, Việt Nam buộc phải chấp nhận việc bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong vòng 12 năm. Trên thực tế, quy chế phi thị trường (NME) đã gây ra nhiều bất lợi cho Việt Nam những năm gần đây: Việt Nam bị cáo buộc bán phá giá nhiều hơn. Việt Nam phải chịu nhiều thiệt hại về xuất khẩu khi các mặt hàng cá da trơn, xe đạp, da giầy, v.v… bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Tính đến tháng 2/2012, Việt Nam đã bị các đối tác nước ngoài đưa vào diện điều tra chống bán phá giá 42 lần, trong đó có các xu hướng cần quan tâm như:

-

Số lượng các vụ điều tra chống bán phá giá có liên quan đến Việt Nam ngày càng tăng.

-

Trước đây chỉ có những nước phát triển như Mỹ, EU, Ca-na-đa, Bra-xin… kiện chống bán phá giá hàng hóa Việt Nam nhưng trong những năm gần đây, ngay cả những nước đang phát triển như Ấn Độ, In-đô-nê-si-a, Ai Cập… cũng đã đệ đơn kiện. Nếu thời gian trước, hầu hết các vụ kiện phòng vệ thương mại đối với hàng hóa Việt Nam chỉ tập trung vào những mặt hàng xuất khẩu mà chúng ta có thế mạnh, hay ở những thị trường lớn, thì nay đã xuất hiện nhiều vụ kiện với những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu không lớn và ở những thị trường mà thị phần của chúng ta còn rất nhỏ.

-

Các sản phẩm mục tiêu thường tập trung trong các lĩnh vực lợi thế cạnh tranh của EU, Mỹ và các nước khởi kiện bị giảm dần, ví dụ nguyên liệu thô, sản phẩm đầu vào công nghiệp và dệt may…Các mặt hàng bị kiện phá giá trước đây ngày càng mở rộng hơn, trong khi trước đây thường là các mặt hàng Việt Nam có khả năng, lợi thế xuất khẩu.

-

Khi đã khởi xướng điều tra chống bán phá giá, các biện pháp chính thức thường được áp dụng và mức độ đánh thuế thường cao hơn nhiều so với biên độ thuế quan, đặc biệt là với những công nghệ tối tân.

Các nước tiến hành điều tra chống bán phá giá hàng hóa Việt Nam phần lớn là các quốc gia chưa công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường (NME)

2.2.4. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thấp và chưa ổn định

Sau 5 năm gia nhập WTO, doanh nghiệp Việt Nam đã cải thiện được năng lực cạnh tranh, khẳng định vị thế của mình trên thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta sau 5 năm gia nhập WTO vẫn còn thấp, độ ổn định chưa cao. Cụ thể:

Một là, đa số các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ, thị phần hạn hẹp, tiềm lực khoa học – công nghệ yếu, chưa có thương hiệu nổi tiếng.

Hai là, chất lượng nhân lực của doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu. Tỷ lệ người lao động qua đào tạo thấp. Đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp thiếu kiến thức, kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp hoát động toàn cầu.

Ba là, đa số các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất hàng xuất khẩu chủ yếu làm gia công, nên phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào.

Bốn là, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được chiến lược cạnh tranh hiệu quả, chưa khẳng định được uy tín, chất lượng và thị phần trên thị trường khu vực và thế giới. Chiến lược phân phối, chiến lược truyền thông và xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam còn hiều yếu kém.

2.2.5. Những vấn đề về môi trường và an sinh xã hội

Về môi trường

Theo báo cáo môi trường toàn quốc 2010, quá trình phát triển nhanh, mạnh của nền kinh tế, đặc biệt là quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá đã gây ra sức ép không nhỏ đối với môi trường và tài nguyên, làm cho môi trường bị ô nhiễm hơn và tài nguyên bị suy thoái hơn.

Những năm qua, Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm cao, bình quân 7,2%, tuy nhiên nước ta vẫn đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức, trong đó có vấn đề suy thoái môi trường gay gắt.

Quá trình đô thị hoá nhanh kéo theo vấn đề di dân từ nông thôn ra thành thị, làm cho quá trình phát triển theo hướng bền vững của đất nước đang phải đối mặt với những khó khăn trong việc đảm bảo chất lượng môi trường và ngăn chặn, giảm suy thoái tài nguyên, đặc biệt là môi trường sống tại đô thị. Theo số liệu thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, chất thải do dân đô thị thải ra cao gấp 2 – 3 lần người dân nông thôn.

Sự phát triển kinh tế xã hội một mặt rất tốt nhưng mặt khác lại gây sức ép lên môi trường. Những sự cố môi trường, thiên tai tác động không nhỏ đến phát triển kinh tế.

Báo cáo chỉ ra rằng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua chủ yếu là theo chiều rộng, nghĩa là chủ yếu dựa vào tăng đầu vào (vốn, nguyên vật liệu, năng lượng, lao động), cơ cấu sản xuất còn nặng về khai thác, chưa đầu tư vào gia công, chế biến, kéo theo sự gia tăng về lượng thải, chất thải ô nhiễm ít được xử lý ra môi trường.

Ô nhiễm môi trường là nguyên nhân gây ra hàng loạt những xung đột về môi trường, điển hình là xung đột lợi ích giữa các nhóm cộng đồng trong khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản, giữa những nhóm gây ô nhiễm và cộng đồng bị ô nhiễm.

Ô nhiễm môi trường đã tác động xấu tới sức khoẻ cộng đồng, sản xuất nông nghiệp, gây ra những thiệt hại không nhỏ về kinh tế và ảnh hưởng tới các hệ sinh thái.

Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (World Bank), Việt Nam có thể phải chịu tổn thất do ô nhiễm môi trường lên tới 5,5% GDP mỗi năm. Theo kết quả nghiên cứu gần đây của Cục Y tế, Bộ Giao thông Vận tải, ước tính thiệt hại kinh tế do ô nhiễm không khí đối với dân nội thành Hà Nội là 66,33 triệu USD/năm, thành phố Hồ Chí Minh 70,96 USD/năm.

Bên cạnh ảnh hưởng do ô nhiễm không khí tại các khu vực sản xuất công nghiệp thì ô nhiễm không khí xung quanh các tuyến đường giao thông cũng có những tác động tiêu cực đến sức khoẻ của cộng đồng.

Về an sinh xã hội

-

Tình trạng thất nghiệp

Năm 2007, ngay sau khi gia nhập WTO, số lượng người thất nghiệp là 1,031 nghìn, giảm 155 nghìn người so với năm 2006.

Tuy nhiên, trong các năm tiếp theo, số lượng người thất nghiệp đã gia tăng nhanh chóng:

tăng thêm 59 nghìn người vào năm 2008 và thêm 420 nghìn người vào năm 2009. Đến năm 2010, số người đăng ký thất nghiệp là 4.192 nghìn, năm 2011, con số này tăng vọt lên là 16.100 nghìn người. Số người bị mất việc chủ yếu thuộc các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu như may, mặc, giày da, hàng thủ công mỹ nghệ.

Đáng chú ý là số lượng lao động nông thôn bị thất nghiệp đã tăng rất nhanh,

từ mức 47,7% năm 2006 lên đến 58% năm 2009, đặc biệt từ sau khi gia nhập WTO, do các tác động đồng thời của việc giảm đất canh tác và mất việc làm do tác động của khủng hoảng kinh tế

cũng như các khó khăn của lao động nông thôn khi tìm việc làm tại đô thị do trình độ tay nghề kém.

Thanh niên chiếm tỷ lệ cao trong số những người thất nghiệp

, đặc biệt đối với nhóm thanh niên nông thôn không có trình độ đào tạo.

-

Bất bình đẳng xã hội

Tăng trưởng kinh tế đã chia sẻ lợi ích cho đông đảo các tầng lớp xã hội, những vẫn còn nhiều nhóm không được hưởng lợi một cách tương xứng.

Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, chênh lệch giữa nhóm thu nhập cao nhất với nhóm thu nhập thấp nhất đã tăng từ 7,0 lần năm 1995 lên 8,9 lần năm 2009. Đến

năm 2010, tỷ lệ này đã tăng lên 9,2

. Trừ Tây Nguyên, mọi khu vực kinh tế khác đều có mức chênh lệch giàu nghèo gia tăng.

Mặt khác hệ số Gini (chỉ số phản ánh sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập) của Việt Nam cũng tăng từ 0,35 năm 1994 lên đến 0,46 năm 2009 và 0,43 năm 2010 .

Bất bình đẳng cũng thể hiện ở khả năng tiếp cận không đồng đều các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế… đặc biệt đối với các nhóm nghèo, yếu thế và dễ bị tổn thương. Hiện tại, có ba nhóm nghèo (chiếm tới 60% số người nghèo của cả nước): (i) Người nghèo sống ở vùng Duyên hải ven biển, vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long; (ii) Người nghèo sống ở vùng núi (bao gồm vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên); (iii) Người nghèo ở khu vực thành thị và người lao động chuyển đến khu vực thành thị để tìm việc làm. Thời kỳ 2007 – 2010, người nghèo trở nên đặc biệt yếu thế trong quá trình kinh doanh toàn cầu. Họ trở thành những người đầu tiên trong danh sách “dôi dư” do trình độ học vấn thấp, khả năng thích nghi với công nghệ mới còn yếu, đa số không có cơ hội tham gia mạng lưới an sinh xã hội.

Bất bình đẳng xã hội chịu ảnh hưởng trực tiếp của hội nhập kinh tế quốc tế. Chẳng hạn các nguồn vốn, đặc biệt là FDI và ODA, thường tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm, các khu vực đô thị, hay các ngành mà Việt Nam có lợi thế.

FDI cũng ảnh hưởng tới bất bình đẳng xã hội thông qua việc khai thác sử dụng đất, chuyển đổi đất nông nghiệp cho các doanh nghiệp FDI, khiến cho một bộ phận nông dân bị mất đất và kéo theo những vấn đề xã hội.

-

Vấn đề lao động di cư 

Sự gia tăng và tập trung nguồn lực FDI, ODA, xuất khẩu lao động đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tạo ra các dòng di cư tới các khu vực kinh tế trọng điểm.

Thực tế cho thấy luồng lao động di cư từ nông thôn ra thành thị đang ngày càng tăng lên. Gia nhập WTO cũng có nghĩa là nhiều cơ hội việc làm được mở ra, nhất là ở thành thị và các khu công nghiệp. Vấn đề đáng chú ý ở đây là lực lượng lao động di cư từ nông thôn ra thành thị hầu hết phải làm những công việc không đòi hỏi tay nghề cao và có mức thu nhập thấp.

Đa số người di cư vẫn gặp nhiều khó khăn như thiếu chỗ ở thích hợp, thiếu điện, nước sinh hoạt và việc làm. Rất nhiều người dân di cư không có hộ khẩu, họ gặp phải các khó khăn về vay vốn, tìm việc làm, đăng ký xe máy, thuê nhà và học hành của con cái.

Hơn thế nữa, việc di cư từ nông thôn ra thành thị dẫn đến tình trạng quá tải về cơ sở hạ tầng và các dịch vụ cơ bản ở những đô thị lớn, đòi hỏi phải có những giải pháp toàn diện.

Chương 3. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH HỘI NHẬP WTO

3.1. Kiểm soát nhập siêu, góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững

Một số giải pháp cần đượ thực thi để kiểm soát nhập siêu, góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững, đó là:

Thứ nhất

, tái cấu trúc thị trường xuất nhập khẩu. Đây là giải pháp cực kỳ quan trọng đối với Việt Nam. Để có thể phát triển bền vững và hiệu quả, cần tái cấu trúc thị trường xuất nhập khẩu theo hướng đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu. Để tránh các rào cản pháp lý thương mại và chia sẻ rủi ro, Việt Nam không nên tăng trưởng xuất khẩu quá nhanh vào một số ít thị trường. Cần nghiên cứu kỹ, nắm được những đặc điểm, thế mạnh của từng thị trường, chẳng hạn như Mỹ, EU, Nhật Bản, ASEAN hay Trung Quốc để có những bước đi phù hợp. Bên cạnh đó, cần tích cực nghiên cứu và tìm hiểu về các thị trường tiềm năng như UAE, Trung Đông, Châu Phi, Trung và Nam Mỹ để có những biện pháp thích hợp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường này, đồng thời từng bước giành lại vị trí trên thị trường Nga, các nước SNG và Đông Âu.

Thứ hai

, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu theo hướng tăng dần các sản phẩm của ngành công nghiệp chế tạo có hàm lượng chất xám cao như phần mềm, linh kiện điện tử, điện… và giảm dần các mặt hàng xuất khẩu thô, chưa qua chế biến. Thực tế cho thấy rằng, việc phát triển kinh tế theo chiều rộng nhờ vào lợi thế tài nguyên và nhân công rẻ đã không còn thực sự phù hợp với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, do đó, phát triển kinh tế nên tập trung vào chiều sâu, đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại hóa, áp dụng các phương pháp quản lý tiên tiến vào việc nâng cao năng lực cho chủ doanh nghiệp và chất lượng cho nguồn lao động có trình độ cao. Làm tốt vấn đề này, trước hết đòi hỏi phải tăng đầu tư, đầu tư tập trung có trọng tâm, trọng điểm, tuân thủ quy hoạch và hiệu quả.

Thứ ba

, từng bước phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ và xem đó như là một giải pháp cốt lõi nhất để giảm nhập siêu. Với điều kiện cụ thể của Việt Nam, việc phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ không thể thực hiện dàn trải cho các ngành mà phải phân chia thành các nhóm ngành để xác định bước đi thích hợp cho từng thời kỳ phát triển. Đặc biệt, cần tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng cho các doanh nghiệp, cụ thể là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì đây là những nhà sản xuất có thể phát triển mạnh ở những loại công nghiệp hỗ trợ có nhu cầu lớn nhưng trình độ công nghệ không cao và mức đầu tư không lớn, chẳng hạn các cơ sở sản xuất bao bì, nhãn mác được sử dụng rộng rãi cho nhiều ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp sản phẩm cuối cùng (may mặc, giày dép, chế biến…). Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lớn hoạt động và phát triển để kích cầu cho các ngành công nghiệp hỗ trợ.

Thứ tư

, để kiểm soát nhập siêu nói chung và nhập siêu từ Trung Quốc nói riêng, Bộ Công Thương có thể tiến hành tăng các rào cản thuế quan và phi thuế quan hoặc các quy định nhằm hạn chế xuất khẩu các mặt hàng không thiết yếu. Tuy nhiên, việc tăng thuế phải tuân thủ theo lộ trình giảm thuế đã cam kết với WTO. Cụ thể, cần rà soát lại tất cả các khoản thuế với các mặt hàng nhập khẩu và có thể áp dụng đến mức thuế cao nhất mà lộ trình đã cam kết cho phép; bên cạnh đó cần nghiên cứu áp dụng các rào cản kỹ thuật, biện pháp vệ sinh và an toàn thực phẩm hoặc một số biện pháp đối kháng theo đúng các điều kiện mà WTO đề ra. Ngoài ra, Chính phủ có thể hạn chế nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu từ Trung Quốc các mặt hàng là thế mạnh của Việt Nam hoặc Việt Nam có thể sản xuất được. Đồng thời chủ trương kêu gọi mọi người dân, mọi doanh nghiệp đề cao tinh thần dân tộc trong việc sử dụng hàng nội địa, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho các hàng hóa trong nước.

Thứ năm

, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Đây có thể được xem là giải pháp tổng thể của nhiều giải pháp bởi lẽ muốn nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hóa, phải giải quyết nhiều vấn đề về giá cả, chất lượng, hậu mãi… Đặc biệt, các doanh nghiệp xuất khẩu cần chủ động tìm hiểu các nhu cầu, những thói quen tiêu dùng của khách hàng nước ngoài cũng như luật lệ hay các rào cản kỹ thuật mà đối phương có thể đưa ra để từ đó sớm có các giải pháp kịp thời cho hàng hóa của mình.

Cuối cùng và quan trọng nhất

trong việc hạn chế nhập siêu là cần tập trung khai thác thị trường trong nước. Cơ cấu nhập khẩu các yêu tố đầu vào và hàng tiêu dùng đã cho thấy sự phát triển của thị trường nội địa chưa thực sự được quan tâm đúng mức, dẫn đến tình trạng nhập siêu liên tục tăng cao. Thêm vào đó, trong những năm qua, Chính phủ đã quá chú trọng vào xuất khẩu, và việc phụ thuộc quá nhiều vào các nước nhập khẩu đã dẫn đến hệ quả là Việt Nam đã phải chịu tác động mạnh từ cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu vừa qua. Chính vì vậy, để đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững, Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam các đảm bảo sự cân đối giữa việc khai thác thị trường nội địa với thị trường xuất khẩu.

3.2. Hợp lý hóa cơ cấu FDI

Thứ nhất,

thể chế kinh tế của nước ta phải được hoàn chỉnh nhanh và đồng bộ. Cần công khai, minh bạch mọi cơ chế, chính sách quản lý đầu tư, trong đó có rà soát lại những văn bản pháp quy liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế để sửa đổi các văn bản cho phù hợp với quy định của WTO.

Thứ hai

, nâng cấp kết cấu hạ tầng, nhất là các cảng biển, nhà máy điện, hệ thống đường bộ cao tốc, chất lượng dịch vụ đường sắt, cơ sở y tế, trường học… Khuyến khích áp dụng những hình thức đầu tư như BOT, BTO, BT, PPP trong đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật. Sớm mở cửa một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu như bưu chính viễn thông, hàng hải, hàng không… để nhà đầu tư có thể được sử dụng kết cấu hạ tầng tốt và đồng bộ phục vụ sản xuất, kinh doanh của họ có hiệu quả.

Thứ ba

, đẩy mạnh hơn nữa cuộc cải cách hành chính, xóa bỏ những giấy phép và thủ tục không cần thiết trong đầu tư.

Thứ tư

, từng bước đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo để phát triển nguồn nhân lực, tăng được nguồn lực có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu của hội nhập và phát triển đất nước. Muốn vậy, cần tránh việc đào tạo tràn lan nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng của thực tế như hiện nay. Cần có kế hoạch đào tạo lâu dài, bài bản, tiên lượng được trước nhu cầu nhằm đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, đạt được chất lượng cao phục vụ cho sự phát triển lâu dài của nền kinh tế.

Thứ năm

, tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài như cập nhật, bổ sung nội dung thông tin mới về môi trường, chính sách đầu tư, danh mục dự án gọi vốn FDI trên các trang thông tin điện tử, sách, đĩa CD-ROM hay tổ chức các cuộc xúc tiến tại các nước đang và có triển vọng trở thành nhà đầu tư lớn vào Việt Nam, thường xuyên tổ chức các cuộc hỏi đáp và đối thoại với các nhà đầu tư…

Thứ sáu

, đối với lĩnh vực nông nghiệp là lĩnh vực hiện nay vốn FDI đang bị giảm sút nhiều, rất cần xây dựng một chiến lược tổng thể phát triển ngành cũng như định hướng đầu tư của vốn FDI vào ngành để các nhà đầu tư có thể xác định được phương hướng phát triển lâu dài và có những quyết định hợp lý. Ngoài ra phải có chính sách ưu đãi đối với những nhà đầu tư quan tâm đến lĩnh vực này như miễn thuế nhập khẩu đối với công nghệ, miễn thuế giá trị gia tăng, ưu đãi tín dụng nhà nước, thuế sử dụng đất và các hỗ trợ đầu tư khác.

Thứ bảy

, đối với vấn đề "lỗ giả, lãi thật" hiện nay của các doanh nghiệp FDI, thì các cơ quan chức năng cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát nhiều hơn. Gấp rút xây dựng một hệ thống theo dõi giá cả thị trường thế giới và ngành thuế cần kiểm tra những báo cáo tài chính, kiểm toán chặt chẽ hơn để tránh tình trạng "lách luật" của các doanh nghiệp FDI.

3.3. Hạn chế tối đa những thiệt hại của hàng xuất khẩu khi bị cáo buộc bán phá giá

Trước những bất lợi do địa vị nền kinh tế phi thị trường mang lại, các doanh nghiệp Việt Nam và các cơ quan hữu quan cần đưa ra các giải pháp ngắn hạn và dài hạn, vi mô và vĩ mô nhằm hạn chế tối đa những thiệt hại của hàng xuất khẩu khi bị cáo buộc bán phá giá.

Đối với các doanh nghiệp

, cần xây dựng chiến lược xuất khẩu để có kế hoạch chủ động phòng ngừa các mặt hàng và thị trường có nhiều nguy cơ bị kiện và xử lý khi không phòng ngừa được, ví dụ như đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tránh phát triển quá nóng một thị trường, tăng cường cạnh tranh bằng chất lượng và giảm dần cạnh tranh bằng giá rẻ… Trong mọi vụ kiện, việc kê khai các thông tin chi tiết về sản xuất là yếu tố quyết định khi xác định mức thuế, vì thế doanh nghiệp cần quan tâm thực hiện đúng và đảy đủ chế độ sổ sách kế toán. Ngoài ra, dù các vụ kiện có thể không liên quan đến việc hiểu biết pháp luật thị trường nước ngoài, nhưng để đối phó với các vụ kiện này, thì việc phải hiểu biết pháp luật để từ đó có hành động đúng là rất quan trọng, nên doanh nghiệp cần hiểu đúng về bản chất của nguy cơ này và coi đó như một loại rủi ro trong kinh doanh để có chiến lược đối phó thích hợp và kịp thời. Việc bị coi là nền kinh tế phi thị trường làm giảm hình ảnh của Việt Nam trong thương mại quốc tế. Nhiều nước dựa vào lí do Việt Nam chưa có nền kinh tế thị trường để đưa ra những điều kiện phi lý trong buôn bán với Việt Nam, làm cho nước ta ở vào thế bất lợi trong cạnh tranh thương mại quốc tế. Tuy nhiên, theo cam kết trong WTO, nếu Việt Nam khẳng định được rằng các điều kiện của kinh tế thị trường đã tồn tại trong một ngành cụ thể chiểu theo luật quốc gia của nước nhập khẩu là thành viên WTO, các quy định trong tiểu mục liên quan tới kinh tế chưa phải là kinh tế thị trường sẽ không còn áp dụng được trong ngành đó. Điều này có nghĩa một số ngành kinh tế của Việt Nam có cơ hội chứng minh tính chất thị trường của mình ngay cả khi Việt Nam vẫn chịu quy chế phi thị trường. Đó là cơ hội quan trọng cho các doanh nghiệp hạn chế rủi ro khi hướng vào các vụ kiện phá giá.

Chính phủ

cần đẩy mạnh cải cách kinh tế theo định hướng thị trường, đồng thời tích cực vận động các thành viên WTO sớm công nhận quy chế thị trường và không áp dụng điều khoản trong Nghị định thư gia nhập WTO về kinh tế phi thị trường. Đẩy mạnh cải cách kinh tế thị trường là cách đối phó tích cực và lâu dài nhất. Để hình thành đồng bộ các cơ cấu thị trường của nền kinh tế Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách, đặc biệt là các lĩnh vực liên quan trực tiếp tới việc xem xét quy chế thị trường, bao gồm cả việc bỏ cơ chế bộ chủ quản, chính sách đất đai, cơ chế tuyển dụng và lương cho lao động… Các nhà sản xuất và cung ứng dịch vụ có quyền tự định giá là một tiêu chí quan trọng để xác định một nền kinh tế có là kinh tế thị trường hay không. Quyền tự do định giá, bảo đảm cạnh tranh, ngăn chặn độc quyền, đảm bảo quyền tự do lựa chọn hàng hóa và dịch vụ của những người mua, nhà nước có quy chế buộc tất cả các nhà sản xuất và cung ứng dịch vụ (kể cả bản thân các tổ chức và các doanh nghiệp của mình với tư cách người cung cấp dịch vụ, người bán hay người mua) phải minh bạch trong hoạt động, có cơ quan tư pháp độc lập, vô tư và hữu hiệu giúp giải quyết các tranh chấp về giá… là những nhân tố chính để đảm bảo hệ thống giá cả vận hành suôn sẻ.

Trong lúc chờ đợi thời hạn 12 năm chấm dứt theo cam kết khi gia nhập WTO, Việt Nam cần chấp nhận những thách thức mà một nước bị coi là kinh tế phi thị trường khi tham gia thương mại quốc tế phải đối mặt, đặc biệt trong quan hệ thương mại với những nước thường xuyên sử dụng công cụ chống bán phá giá. Như vậy, doanh nghiệp và chính phủ vẫn chủ động chấp nhận những thách thức nảy sinh từ việc bị coi là nền kinh tế phi thị trường để chuẩn bị các biện pháp đối phó với tình trạng áp đặt thuế chống phá giá và trợ cấp của các nước như Mỹ, EU và các nước khác đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường các nước nói trên. Quá trình hình thành đồng bộ các cơ chế thị trường đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững đồng thời là tiền đề để Việt Nam đấu tranh, vận động các đối tác sớm công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam

3.4. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp

Để có thể đứng vững và tăng sức mạnh trên thương trường, Nhà nước cũng như doanh nghiệp cần coi đầu tư vào đổi mới và nâng cao trình độ khoa học công nghệ của doanh nghiệp là một trong những việc làm có tính chiến lược. Mỗi doanh nghiệp phải nắm vững, hiểu biết thấu đáo, cặn kẽ các cam kết và rào cản trong khuôn khổ WTO để đầu tư cho đúng và theo đó phòng tránh rủi ro và thực hiện đầy đủ các cam kết. Đồng thời, mỗi doanh nghiệp phải tự xây dựng chiến lược phát triển, lộ trình hội nhập cho mình một cách thích ứng và an toàn nhất.

Xây dựng được bộ tiêu chí xác định thế nào là một doanh nghiệp Việt Nam có khả năng cạnh tranh, để căn cứ vào đó đánh giá, phân loại được một cách chính xác những doanh nghiệp nào là doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh.

Cần tạo dựng môi trường kinh doanh bình đẳng, thống nhất khuôn khổ pháp lý cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, không phân biệt loại hình sở hữu, đặc biệt trong việc tiếp cận vốn ngân hàng. Chính phủ, các bộ, ban, ngành cần tiếp tục hoàn thiện và đưa ra các văn bản pháp luật thực thi vào cuộc sống, tránh việc ùn tắc và hạn chế các khoảng trống trong quản lý nhằm xây dựng một chiến lược hội nhập WTO lâu dài định hướng cho phát triển của các ngành kinh tế mũi nhọn. Thêm vào đó, Chính phủ cũng cần tích cực đẩy mạnh các hợp tác ở cấp quốc gia với các nước và tổ chức kinh tế để cập nhật thông tin về thị trường. Đồng thời, Chính phủ tiên phong “mở cửa” các thị trường mới thông qua các hoạt động ngoại giao kinh tế. Sự quan tâm, chỉ đạo và phối hợp kịp thời với trách nhiệm cao của các cơ quan quản lý cũng như những cán bộ công chức sẽ trở thành nguồn động viên tinh thần rất lớn cho các doanh nghiệp vượt lên.

Các doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh với tầm nhìn trung và dài hạn dựa trên nghiên cứu thị trường và dự báo biến động thị trường, tìm hiểu đối thủ và đối tác trong kinh doanh; xây dựng quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước; xây dựng chiến lược hình ảnh và thương hiệu để có thêm nhiều thương hiệu Việt Nam được đăng ký bản quyền trong nước và thế giới nhằm quảng bá hình ảnh đất nước, thương hiệu trên thị trường các nước tiêu thụ sản phẩm đó.

Nâng cao tính liên kết hợp tác chặt chẽ trong cộng đồng doanh nghiệp để cùng phát huy lợi thế cạnh tranh và phát triển. Các doanh nghiệp cần xây dựng tinh thần sẵn sàng liên kết, hợp tác, hiến kế làm giàu, giành thế cạnh tranh đi lên cùng với đồng đội một cách vững chắc, hiệu quả, an toàn trên con đường hội nhập quốc tế và WTO nói riêng. Điều đặc biệt quan trọng là các doanh nghiệp cần phải liên kết, hợp tác với nhau thông qua hiệp hội, ngành hàng để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ bằng các yếu tố thị trường như chất lượng tốt hơn, giá cả cạnh tranh hơn, dịch vụ hậu mãi thuận tiện và hoàn hảo nhất, v.v.. và hơn nữa, yếu tố có tính quyết định, bền vững trong kinh doanh là các doanh nghiệp Việt Nam phải giữ "chữ tín" trên thương trường.

3.5. Bảo vệ môi trường và đảm bảo an sinh xã hội

Bảo vệ môi trường

Chủ động, tích cực phối hợp với các đơn vị chức năng trong và ngoài bộ tổ chức rà soát, đánh giá lại các chỉ tiêu về môi trường trong Nghị quyết số 56/2006/QH11 của Quốc hội Khóa XI về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010; nghiên cứu, đề xuất đưa bộ chỉ tiêu mới về môi trường vào Chiến lược quốc gia bảo vệ môi trường giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, đảm bảo phản ánh đúng vai trò môi trường là một trong ba trụ cột của phát triển bền vững, đồng thời làm rõ cơ quan chịu trách nhiệm theo dõi, thực hiện các chỉ tiêu đó.

Tập trung tiến hành nghiên cứu, xây dựng Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi và các văn bản hướng dẫn thi hành, bảo đảm khắc phục ngay những tồn tại, bất cập hiện nay để có thể kịp trình Quốc hội Khóa XIII xem xét trong năm 2013 với mục tiêu xây dựng một hệ thống pháp luật về môi trường hoàn chỉnh, qua đó tăng cường hiệu lực và hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.

Tập trung triển khai quyết liệt các đề án bảo vệ môi trường lưu vực sông trên cơ sở phối hợp chặt chẽ hoạt động của các đơn vị trực thuộc Tổng cục, phát huy vai trò của Ủy ban nhân dân các tỉnh trên địa bàn các lưu vực sông và các đơn vị có liên quan trực thuộc bộ. Trong năm 2012, phải quyết tâm tạo ra sự chuyển biến đột phá về công tác bảo vệ môi trường tại các lưu vực sông. Kiện toàn lại mô hình hoạt động của các ủy ban bảo vệ môi trường lưu vực sông theo hướng tăng cường hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.

Tăng cường các hoạt động kiểm soát ô nhiễm trong toàn quốc, tập trung vào các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp và làng nghề, đẩy mạnh hợp phần KSON và cải thiện môi trường tại làng nghề.

Đẩy mạnh công tác truyền thông về môi trường so với các năm trước, tăng cường ứng dụng tối đa công nghệ thông tin; phối hợp chặt chẽ trong việc cung cấp thông tin lên Cổng thông tin điện tử Tổng cục; triển khai hệ thống thông tin điều hành tác nghiệp trên toàn Tổng cục.

 Cần phát huy vai trò của tư vấn về công nghệ môi trường, xây dựng các mô hình nhằm thu hút các đối tượng khác nhau trong xã hội tham gia. Tăng cường các hoạt động nghiên cứu khoa học về môi trường; nâng cao công tác hợp tác quốc tế và mở rộng đối tượng hợp tác quốc tế, phục vụ tốt công tác của Tổng cục; tiếp tục chú trọng nâng cao hiệu quả quan trắc tại Tổng cục cũng như các địa phương, phổ biến rộng các mô hình quan trắc tại địa phương.

Đảm bảo an sinh xã hội

Một là

, tiếp tục thực hiện chính sách khuyến khích về tài chính, tín dụng, thuế, hỗ trợ dạy nghề, thông tin thị trường, cải cách thủ tục hành chính... nhằm ổn định và phát triển sản xuất, kinh doanh của các lĩnh vực, các thành phần kinh tế đảm bảo ổn định việc làm cho người lao động và tạo việc làm trong nước cho 1.510 người lao động, trong đó: với khu vực công nghiệp, xây dựng cơ bản thì chú trọng đầu tư phát triển, khuyến khích, hỗ trợ vào các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, làng nghề sử dụng nhiều lao động, tạo việc làm cho khoảng 630.000 người; với khu vực dịch vụ thì khuyến khích, hỗ trợ phát triển các dịch vụ phục vụ du lịch, văn hóa, dịch vụ nông nghiệp, nông thôn, đầu tư phát triển dịch vụ chất lượng cao, tạo việc làm cho khoảng 580.000 người; khu vực sản xuất nông nghiệp thì khuyến khích phát triển các vùng chuyên canh theo cây, con chất lượng cao gắn với sản xuất hàng hóa đặc biệt chú trọng hỗ trợ có hiệu quả dạy nghề cho lao động nông thôn theo các mô hình cây – con để tạo việc làm, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập; đối với các vùng khó khăn, sản xuất nhỏ lẻ cần kết hợp giữa hỗ trợ vốn với phát triển các hoạt động dạy nghề, chuyển giao kỹ thuật, khuyến công – nông – ngư đảm bảo ổn định việc làm, tăng thu nhập và tạo việc làm cho khoảng 350.000 người.

Hai là

, tăng cường các hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm của hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm, đa dạng hóa các hoạt động giao dịch việc làm, tiếp tục phát huy và nâng cao năng lực hoạt động sàn giao dịch việc làm, góp phần tích cực kết nối cung – cầu lao động; thực hiện việc thu thập cơ sở dữ liệu về thị trường lao động cũng như quản lý cung – cầu lao động. Đẩy mạnh thực hiện dự án cho vay vốn tạo việc làm với lãi suất thấp thông qua Quỹ quốc gia về việc làm, đồng thời phải đảm bảo cho vay đúng mục đích, đúng đối tượng.

Ba là

, theo dõi kịp thời, cập nhật tình hình biến động lao động trong các doanh nghiệp, đặc biệt là tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, các thành phố lớn; lao động người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, kịp thời đề xuất giải pháp xử lý những vấn đề mới phát sinh. Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, phấn đấu đưa 90.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, nhất là các thị trường có thu nhập cao, an toàn cho người lao động; nâng cao năng lực các doanh nghiệp, cơ sở sự nghiệp có chức năng, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài đảm bảo hiệu quả, công khai, minh bạch; đổi mới công tác tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện lao động trước khi đưa đi làm việc ở nước ngoài. Theo dõi chặt chẽ tình hình lao động làm việc ở nước ngoài, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động khi làm việc ở nước ngoài, đi đôi với việc theo dõi, hỗ trợ và phát huy lực lượng lao động này khi về nước.

Bốn là, mở rộng quy mô, đi đôi với nâng cao chất lượng dạy nghề, gắn dạy nghề với giải pháp tạo việc làm, tự tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động trên cơ sở thực hiện Đề án đổi mới và phát triển dạy nghề, đề án dạy nghề cho người lao động nông thôn, huy động nguồn lực đầu tư cơ sở vật chật, thiết bị, giáo viên dạy nghề đồng bộ theo từng nghề đạt chuẩn, trong đó lựa chọn một số nghề đạt cấp độ quốc tế, khu vực; đa dạng hóa các hình thức, các phương pháp dạy nghề phù hợp với đối tượng học nghề và yêu cầu sản xuất; phát triển mạnh các hình thức dạy nghề cho lao động nông thôn để chuyển dịch cơ cấu lao động, đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, mở rộng hình thức dạy nghề theo hợp đồng đào tạo hoặc đặt hàng giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm đảm bảo cho người học nghề xong có việc làm.

Năm là

, rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống các chính sách giảm nghèo theo hướng hiệu quả, người nghèo tiếp cận thuận tiện khơi dậy ý chí vươn lên của người nghèo, hạn chế tính ỷ lại. Nâng mức hỗ trợ người nghèo người cận nghèo mua bảo hiểm y tế; hỗ trợ tiền điện sinh hoạt, kêu gọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia mạnh mẽ hơn nữa trong việc giảm nghèo; đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về Định hướng giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 – 2020. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về giảm nghèo; đổi mới phương pháp đánh giá, xác định hộ nghèo theo từng nhóm nguyên nhân nghèo để có giải pháp hỗ trợ thoát nghèo cho từng nhóm đối tượng; lập sổ theo dõi hộ nghèo đến từng huyện, xã, ấp làm căn cứ cho việc hoạch định chính sách, kế hoạch theo dõi giám sát và đánh giá hộ thoát nghèo.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro