Quán Cầu Hồn

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Quán Cầu Hồn 

_Người khăn trắng_

CÔ GÁI TRÊN BÈ CHUỐI

Trời mưa như trút nước, gió thổi mỗi lúc một mạnh thêm, bên ngoài trời tối đen như mực. Thỉnh thoảng, những tia chớp chỉ đủ cho Thái nhìn thấy được những lùm cây lờ mờ chứ không nhìn rõ được dòng sông. Thái vô cùng sốt ruột, bởi nếu đợi trời hết mưa thì làm sao con tim của anh chịu đựng nổi, trong khi hình bóng của Tuyết Mai vẫn bặt tâm. Tính đến lúc đó thì Mai đã mất tích đúng nữa ngày rồi.

Đối với người khác thì nửa ngày không là bao. Nhưng đối với Tuyết Mai xưa nay chưa từng rời khỏi nhà dù chỉ một giờ mà không có lý do. Nhất là sáng sớm nay đã xảy ra một biến cố trong gia đình: Cha của Mai sau khi thức trắng một đêm, ngồi uống hơn một chai rượu whisky đã nổi điên lên, khoá chặt cửa phòng con gái lại rồi nói như một lời thề:

- Nếu ai mở cửa cho nó ra khỏi phòng thì coi như đã xoá mạng thằng Tư Quang này!

Tư Quang là tên tục của Monsteur Directeur Trần Đại Quang, mà có người còn gọi trịnh trọng là quan lớn Đại!

Đã nổi tiếng là sát thủ khi giữ chức giám đốc Nha cảnh sát, mà ngoài đời thường lão Quang còn là khắc tinh của con cái trong nhà. Không ai không sợ mỗi khi nghe tiếng đằng hắng của ông ta, vậy mà trong nhà chỉ có cô con gái út Tuyết Mai là không hề bị ông ta khuất phục! Cụ thể như chuyện chiều qua, lúc ông đi làm về và gọi Tuyết Mai ra bảo:

- Con chuẩn bị thay quần cho thật đẹp, thật sang trọng, rồi bảy giờ tối nay đi với ba dự buổi tiệc chiêu đãi của ngài Thống sứ Pháp.

Lập tức ông ra nhận được câu trả lời của con gái:

- Ba đi một mình đi, con không bao giờ tới gặp họ. Bởi chẳng có việc gì con phải gặp ông ta cả!

- Gặp thằng Robert chứ ai bảo con gặp lão già đó làm gì!

- Dứt khoát không!

Nói xong, Tuyết Mai bỏ ra sân định lấy xe đi, lập tức lão Quang đã gầm lên:

- Mày nói chuyện kiểu đó với ai vậy, con ranh kia!

Bà vợ ông ta từ trên lầu bước xuống, thấy vậy thì hoảng hốt, nhào tới kéo tay lão ta lại. Bởi bà thừa hiểu, chọc giận lão cỡ đó thì chỉ có nước tự sát!

Nhưng Tuyết Mai vẫn ngang bướng quay lại nói:

- Ba bảo con đi đâu cũng được, nhưng đi tới nhà tên Tây đó thì con thà chết chứ không bao giờ đi!

Lão Đại Quang không còn dằn được, bước thẳng ra sân, dang thẳng cánh tay và tát mạnh một cái, khiến cho cô con gái bé bỏng của lão ta đang ngồi trên xe đã phải ngã nhào xuống đất, trước sự hoảng sợ của bà mẹ:

- Trời ơi, ông giết con sao!

Bà định lao ra thì lão Quang đã như một con mãnh thú, cúi xuống nắm búi tóc dài của Mai, lôi xềnh xệch vào nhà. Nhìn đôi mắt lão long lên, bà Thanh Nguyệt biết khó mà cản nổi cơn giận, nên chỉ biết đứng yên, gào lên trong vô vọng:

- Nó là con mình mà, ông ơi.

Lão Quang hầu như điên cuồng, chẳng còn nghe ai nói gì nữa, lão lại dang tay tát liền mấy cái nữa vào mặt con gái. Tuyết Mai lúc ấy chỉ còn như một cánh hoa nghiêng ngả trước gió bão, chỉ vài chục giây sau thì cô đổ nhào xuống sàn nhà, cùng lúc là tiếng quát to của lão sát thủ:

- Nhốt nó lại trong phòng!

Rồi từ đó đến hết đêm, lão Quang đuổi hết người nhà ra, đóng cửa phòng lại và ngồi uống rượu một mình. Cho đến sáng thì người nhà phát hiện lão Quang gục tại chỗ, say đến không còn biết trời đất gì nữa, còn cửa phòng của Tuyết Mai thì mở toang. Cô con gái út của lão Quang đã biến mất.

Người nhà của Tuyết Mai ngầm báo tin cho Thái biết, thay vì chạy theo mọi người đi nhiều hướng để tìm, Thái lại chọn ngôi nhà bên dòng sông La Ngà này để ngồi đợi. Nó có lý của nó, bởi nơi này chính là chỗ hẹn đầu tiên, cũng là điểm mà mỗi khi cần gặp nhau thì anh và Tuyết Mai thường tới.

Cơn mưa đột ngột khiến Thái phải chôn chân ở trong căn nhà lá mà thường khi Thái vẫn gọi đó là Thảo Mai quán (quán lá của Mai), bởi quán rất vắng khách, đôi khi suốt buổi chỉ có anh và Tuyết Mai là khách. Chủ quán có lần giải thích với Thái:

- Vợ chồng già chúng tôi ở đây, nên sẵn đó mở quán bán, khách nào tiện đường thì ghé uống nước, nghỉ chân, chứ thật ra nơi này vắng và khuất, có mấy khách lui tới đâu!

Do vì quán vắng và là nơi quen biết, nên từ đầu cơn mưa đến giờ, Thái chưa thấy chủ quán đâu, nhưng anh cũng không quan tâm, anh chỉ nôn nao trong dạ về sự biệt tăm của Tuyết Mai mà thôi...

Có những tiếng động bất thường ở phía ngoài, hướng bờ sông, Thái căng mắt nhìn ra, nhưng không thấy gì, phải đợi đến lúc một tia sấm chớp nữa, anh mới thoáng thấy có một bóng người đang khệ nệ ôm vật gì đó vừa chạy rất nhanh vào quán.

Lúc tông cửa quán vào, người đó lên tiếng:

- Mưa gì mà mưa như điên thế này, may mà quán chưa sập!

Đó là ông chủ quán. Thái lên tiếng ngay:

- Bác Hai hả, cháu là Thái đây!

Nghe tiếng anh, ông chủ quán reo lên:

- Mav rồi! có cậu đây rồi!

Ông đặt vật trên tay xuống một cách cẩn thận, vừa hướng về phía Thái:

- Sao cậu còn ở đó, có biết ai đây không?

Thái chưa kịp chuyển động thì lão chủ quán đã gắt lên:

- Nhanh lên, cô ấy chưa biết sống chết thế nào nữa!

- Ai?

- Cô bạn cậu! Tôi đang bơi xuồng từ bên kia sông sang thì may trông thấy cô ấy đang chới với sắp chìm. Vớt lên xuồng rồi tôi mới lờ mờ nhận ra là cô bạn của cậu.

Như bị điện giật, Thái bật ngay dậy lao tới và hốt hoảng lên tiếng:

- Có đúng là cô ấy không? Cô ấy...

- Đang bị ngất đi sau khi tôi kéo lên khỏi mặt nước, như vậy không phải chết đuối. Chắc là do sợ và lạnh quá.

Vừa chạm vào cánh tay của cô nàng, Thái suýt rút tay về, bởi hơi lạnh khác nào băng giá.

- Tuyết Mai!

Thái nghe một tiếng ư nhỏ, rồi bàn tay nàng nắm lấy tay anh, tuy yếu, nhưng đủ để xác định mình còn sống. Thái quên hết cả mệt, anh ôm chầm lấy người yêu mà quên là nàng đang ướt đẫm và lạnh.

- Cậu tìm cách thay quần áo khô cho cô ấy ngay đi!

Thái tuột phăng quần áo ngoài của mình ra và nhân cơ hội ông chủ quán bước vào trong nhà, lột quần áo ướt của Mai ra, thay thật nhanh. Vừa lúc ngọn đèn dầu được chủ quán đốt lên và giọng thúc giục của ông ta:

- Cậu mau đưa cô ấy vào trong đi, có chiếc giường đó, cho cô ấy nằm đỡ. Có cả mền nữa, tuy không sạch lắm, nhưng lúc này cần phải trùm để cô ấy ấm, tránh cảm lạnh. Chờ tôi đốt bếp lửa lên, cậu hơ cho cô ấy.

Thái nghe theo, nhưng vừa bế Tuyết Mai vào tới phòng trong thì anh nghe nàng thỏ thẻ bên tai:

- Em tỉnh rồi, nhưng cứ làm như em còn mệt, anh ôm em đi!

Thái thở phào nhẹ nhõm, cất đi gánh lo ngàn cân từ cả buổi vừa qua. Anh bảo cũng thật khẽ:

- Cứ nằm yên đó.

Khi ông chủ quán Hai Lượm bưng bếp lửa vừa nhóm xong vào thì giọng ông vẫn còn lo lắng:

- Tôi mà tới chậm chừng nháy mắt nữa thì cô ấy đã chìm rồi, mưa quá lớn và gió cũng mạnh nữa. Người cỡ tôi đây mà trầm mình dưới nước như thế cũng chịu không nổi nữa là...

Không đợi bếp lửa cháy rực lên thì người của Tuyết Mai đã ấm lại rồi. Chính Thái cũng ngạc nhiên:

- Em rơi xuống nước lâu chưa mà người không lạnh?

Nàng đáp khẽ:

- Sao không lạnh. Hồi nãy bộ anh không thấy sao..

Thái nhớ lại lúc mới chạm vào cánh tay của Mai anh suýt kêu lên, nên anh càng ngạc nhiên hơn:

- Bây giờ hầu như chẳng còn chút gì là lạnh lẽo nữa. Kỳ vậy?

- Nhờ anh đó!

Thấy trong hoàn cảnh này mà nàng còn đùa được, Thái hỏi nhỏ:

- Nói cho anh nghe coi, em biến đi đâu mất từ đêm qua đến giờ?

Nói chuyện vô cùng hệ trọng mà giọng Mai dửng dưng như không:

- Em đi tự tử!

- Kìa, Tuyết Mai!

Thái nghĩ nàng trong tâm trạng bất an nên nói năng không kiểm soát, anh đem chuyện nghe thấy ở nhà thuật lại cho Tuyết Mai nghe. Nhưng vừa nghe xong, Mai chỉ nói gọn lỏn:

- Cha mà ác tâm với con, thì coi như con nó đã chết!

- Mai...

Nàng đưa tay bụm miệng anh lại:

- Tốt hơn hết là anh đừng nói gì chuyện nhà em hết. Chỉ biết bây giờ em đang ở bên anh là tốt rồi! Mà điều này thì cách đây vài giờ tưởng chừng như em đã...

Thái nghe chừng như trong cách nói năng của Mai có chút gì đó khang khác. Anh định hỏi, nhưng lúc đó ông Hai chủ quán đã bước vào, nên anh thôi. Bấy giờ ông mới hỏi:

- Sao cậu thì ở đây, còn cô thì chìm dưới sông là sao? Bộ đi bơi xuồng rồi cô bị rớt sông, trời mưa cậu tìm không được phải không?

Thấy Mai chừng như không muốn giải thích, nên Thái đỡ lời:

- Dạ, đúng vậy thưa chú.

- Cậu chọn cách ngồi ở quán đợi cũng là cách khôn ngoan. Chứ nếu không thì...

Rồi chợt ông đổi giọng:

- Cũng may cho cô cậu, nếu chuyện xảy ra ngày mai thì quán này đóng cửa, không có ai ở đây, cậu đâu vào quán ngồi đi được.

Thái ngạc nhiên:

- Sao chú đóng cửa quán? Chú bận việc gì sao?

- Không phải bận, mà đóng cửa luôn. Chờ đến khi nào bán cho chủ khác, họ thích mở quán nữa thì mở cửa bán, còn không thì tuỳ họ.

Thái tắc lưỡi:

- Chú bỏ quán này uổng quá. Rồi còn chỗ đâu để tụi này...

Ông chủ quán hỏi một câu bất ngờ:

- Cậu có biết ai mua quán không, tôi bán rẻ?

Thái cười, lắc đầu:

- Cháu đâu biết.

- Hay là cậu mua đi, làm nơi hóng mát!

- Dạ, cháu...

Chợt giọng Tuyết Mai rót nhẹ vào tai anh:

- Anh mua đi!

Thái định hỏi lại, nhưng sợ lộ chuyện nàng tỉnh lại, nên anh phải lúng túng:

- Dạ...

Ông Hai quả quyết:

- Tôi nói thật đó. Nếu cậu mà mua thì tôi bán thật rẻ. Để cho cậu tôi thích hơn là bán cho người khác, họ sẽ phá nơi này làm lại, tôi thấy uổng...

Thái còn lưỡng lự thì nàng lại giục:

- Ừ đi!

- Dạ...

Thái ậm ừ như vậy, nhưng ông Hai thì ngỡ anh đồng ý, nên quyết ngay:

- Bán cho cậu giá chỉ bằng tiền mua hai chiếc xuồng thôi! Tôi gom tiền mua chiếc ghe đủ hai vợ chồng chèo lên chèo xuống con sông này, chứ bây giờ tôi cũng không còn thích sống một chỗ nữa. Vậy nghe, cậu cứ đưa trước cho tôi phân nửa cũng được.

Thái lại bị thúc ngầm, cuối cùng anh phải gật đầu:

- Thôi, cũng được. Cháu cũng cần một nơi để tới lui.

- Rồi, sáng mai mình nói chuyện cụ thể hơn. Bây giờ cô cậu có thể nằm giường đó ngủ đi, tôi ra ngoài này. Nhớ, nếu cô có bệnh hoạn gì thì kêu tôi liền.

Trời đã ngớt mưa...

Nhưng đêm cũng khá khuya. Thái hỏi khẽ:

- Anh ngủ chung, có tiện không?

Nàng bất ngờ ôm chặt lấy Thái, khiến anh gần muốn ngạt thở, cố đẩy ra thì Mai dỗi:

- Bộ không muốn gặp người ta hả?

- Bậy, Anh chỉ ngại...

- Yêu nhau đã hơn ba năm, đây là lần đầu tiên Thái mới biết mùi vị của cơ thể người yêu. Anh lóng cóng mãi mới đánh bạo ôm lại và đặt một nụ hôn nhẹ lên môi nàng. Bất ngờ Thái bị nàng gì chặt, môi anh gần như dính vào môi nàng, khó mà rời ra được!

Ở ngoài kia, ông già Hai hình như cũng chìm vào giấc ngủ...

Khoảng một canh giờ sau...

Chợt Thái nghe nàng nức nở khóc! Quá đỗi ngạc nhiên, anh hỏi khẽ:

- Chuyện gì vậy?

Nàng thổn thức đáp:

- Người ta đã là vợ anh rồi, đã bỏ nhà đi rồi, nếu anh bỏ em thì... em đi luôn!

Thái kề sát tai nàng, rót vào những lời bằng tất cả chân tình:

- Anh thề mà. Anh chẳng bao giờ thay đổi. Chỉ sợ em thôi.

- Em thì chỉ có mình anh. Em trốn nhà đi cũng chỉ vì ba em bắt ép gả cho người mà em không yêu. Ba đã hành hạ em như không phải tình máu mủ, cho nên bây giờ em chỉ còn trông cậy vào anh thôi. Anh mà bỏ em nữa, em sẽ...

Bụm miệng nàng lại, Thái nghiêm giọng:

- Đừng nói gở. Anh thề với em.

Người ta thường nói sau cơn mưa trời lại sáng, hôm sau quả đúng như thế. Bầu trời buổi sáng thật trong lành, rạng rỡ. Chừng như sau một cơn mưa lớn đã gột rửa những bụi bặm, u ám đi hết, bình minh chào đón hai tâm hồn trẻ vừa vượt qua cơn sóng dữ bằng ánh nắng sớm xuyên qua khe cửa sổ vào phòng. Thái bật dậy thì không thấy Tuyết Mai đâu, anh lo lắng cất tiếng gọi:

- Mai ơi, em ở đâu?

Có tiếng đáp của chú Hai chủ nhà:

- Cô ấy thức sớm và đi ra ngoài sông, có lẽ hít thở không khí trong lành buổi sáng. Cậu cũng nên ra đó.

Thái vừa bước ra thì ông già bảo:

- Lát nữa tôi có việc phải đi, hai cô cậu cứ ở lại đây rồi ít hôm tôi trở lại mình tính toán chuyện cái nhà cũng được. Xem ra cô ấy cần phải có thì giờ nghỉ ngơi nhiều đó cậu Thái.

Thái cám ơn ông rồi đi thẳng ra ngoài bến sông. Tuyết Mai đang ngồi đó với dáng vẻ ưu tư, khác hẳn với sự tươi tắn, linh hoạt của đêm qua.

- Sao em không gọi anh dậy?

- Mai nhìn lại anh với vẻ buồn buồn. Thái lo ngại:

- Có chuyện gì vậy em?

Nàng không đáp, chỉ nhẹ lắc đầu rồi kéo Thái ngồi xuống bên cạnh. Một lúc sau, nàng đưa tay chỉ một đám lục bình trôi từ xa lại, hỏi:

- Anh nhìn kỹ xem, có phải là chiếc bè chuối không?

Thái nhìn rồi đáp:

- Không phải, lục bình đó, Nhưng sao em quan tâm tới bè chuối làm gì?

Nàng nhẹ lắc đầu:

- Thì em hỏi vậy mà...

- Sao em không vui? Hay là đã hối hận chuyện đã... cho anh?

Nàng siết chặt tay Thái:

- Điều đó làm cho em vui hơn thì có. Chỉ có điều...

Nàng lại có vẻ lo lắng, chỉ tay về phía xa và hỏi:

- Có phải cái bè chuối không?

Thái nhìn lại và vẫn lắc đầu:

- Không phải...

Tuyết Mai đột ngột hỏi:

- Nếu bây giờ em xa anh thì anh làm gì?

Thái trố mắt nhìn nàng trân trối:

- Nãy giờ em toàn nói chuyện gì đâu, em sao vậy Tuyết Mai?

- Nhưng câu em hỏi anh chưa trả lời?

- Còn làm gì nữa. Anh sẽ đi theo em!

Mai lại lắc đầu:

- Không được, trong chúng ta chỉ có một người phải xa thôi. Người đó là em. Em hỏi thật, anh có dám ở lại đây ròng rã vài ba năm không?

Thái kêu lên:

- Em lại nói lăng nhăng nữa rồi!

Nàng nghiêm giọng:

- Em hỏi thật đó. Anh sẽ làm gì nếu ở lại đây một mình? Hay là sẽ đi tìm người con gái khác về cùng chung sống?

Thái siết chặt nàng trong vòng tay:

- Tìm người này nè.

- Anh có chắc vậy không?

- Chắc chắn là vậy. Anh thề...

Nàng ngả vào lòng Thái, hai khoé mắt ươn ướt. Thái hốt hoảng:

- Em sao vậy?

- Em...

Đột nhiên Tuyết Mai ôm lấy ngực, không nói được lời nào, nhưng trông dáng vẻ thì đau đớn lắm. Thái sợ hãi:

- Em sao vậy, Tuyết Mai? Em đừng làm anh sợ.

Nàng nói qua hơi thở gấp:

- Đỡ lấy em. Cho em nhìn ra ngoài sông...

Vừa khi ấy nàng reo lên, giọng ghe rất yếu:

- Cái bè chuối!

Quả nhiên, khi nhìn ra sông Thái thấy một chiếc bè chuối trôi giữa dòng. Nàng hốt hoảng:

- Vớt nó lên, đừng để nó trôi đi!

Chưa biết là chuyện gì, nhưng Thái thấy người yêu nói như thế cũng định đứng lên, vừa lúc đó có tiếng của ông già Hai chủ quán:

- Trên bè chuối hình như có cái gì đó, để tôi bơi xuồng ra vớt lên coi!

Sẵn xuồng, ông bơi nhanh ra và chặn được hướng trôi của chiếc bè. Lát sau ông Hai vào tới, ông gọi từ dưới bến:

- Hai người xuống coi nè, có một đứa bé trên bè!

Dù đang rất mệt nhưng nghe nói thế Tuyết Mai giục:

- Anh đưa em xuống đó coi.

Thái phải dìu mới đưa Mai đi được. Vừa nhìn thấy đứa bé nằm gọn trong chiếc khăn trùm kín, Tuyết Mai reo lên:

- Đúng rồi!

Và đột nhiên nàng ngã ra ngất đi. Thái hốt hoảng:

- Tuyết Mai! Em... em sao vậy? Em...

Ông già Hai bảo:

- Chắc cô ấy xúc động khi nhìn thấy cảnh này. Vậy cậu đưa cô ấy lên nhà đi, để tôi bế đứa bé.

Ông bế đứa bé lên, nó giật mình khóc thét, đồng thời từ miếng tã lót trên lưng nó rơi ra một mảnh giấy, Thái không để ý, nhưng một cách ngẫu nhiên, mảnh giấy ấy bị gió thổi tung lên, rồi bay đáp đúng vào giữa ngực của Tuyết Mai, tức nằm đúng tầm mắt Thái, anh đọc được rõ ràng:

- Hãy nuôi nấng nó chu đáo. Còn mạng sống của nó tức là còn mạng em!

Đang mang nặng, bỗng Thái dừng ngay lại, anh buông một tay ra và đưa lên mũi của nàng.

- Trời ơi, Tuyết Mai.

- Thái phát hiện nàng không còn thở nữa!

- Chú Hai ơi, cô ấy đã chết rồi!

Đưa Mai vào trong nhà, xem kỹ lại thì đúng là nàng đã tắt thở, tim ngừng đập!

- Sao vậy chú Hai? Sao vậy Mai?

Thái cứ lặp lại câu hỏi mà chẳng ai trả lời cho anh. Hồi lâu ông Hai mới lên tiếng:

- Để tôi qua bên kia ông rước thầy về xem cô ấy bị bệnh gì.

Thái lắc đầu:

- Không cần đâu chú, cháu đã nghĩ ra rồi, cô ấy đã biết trước mình sẽ chết nên đã chuẩn bị rồi. Đứa bé này, mảnh giấy viết sẵn này.

Anh đưa cho ông Hai đọc tờ giấy. Ông già đồng tình:

- Cậu nói đúng. Nhưng phải tìm hiểu nguyên do nào khiến cô ấy làm điều này? Tự tử phải không cậu?

Thái quả quyết:

- Không phải. Hình như...

Thái nhớ lại từng cử chỉ, lời nói của Tuyết Mai suốt đêm qua. Mọi việc đã báo trước mà anh không để ý.

Anh quay sang ông chủ quán:

- Cháu sẽ mua ngay quán này. Cháu sẽ ở cùng cô ấy nơi đây.

Ông Hai buồn bã nói:

- Tôi cũng không nỡ lấy tiền cậu. Hay là...

Thái móc ngay số tiền đang có trong túi:

- Chú cứ cầm lấy trước số này, còn lại bao nhiêu một tuần nữa cháu sẽ đưa luôn.

Ông Hai đưa tiền lại cho Thái:

- Tôi chưa cần ngay, cậu cứ để lại đó lo cho cô ấy, chừng nào tiện tôi sẽ nói cậu đưa. Tôi cũng ở lại đây giúp cậu một tay cho xong việc rồi mới đi.

Nhờ ông nên việc hậu sự cho Tuyết Mai được chu tất. Ban đầu Thái muốn về báo cho cha mẹ Tuyết Mai hay, nhưng nhớ lại những cơn giận dữ điên cuồng của ông Tư Quang thì Thái bỏ ngay ý định. Anh phân trần với ông già Hai:

- Có bác làm chứng cho về cái chết của cô ấy, để sau này tránh người ta nghĩ là cháu.

Ông Hai hiểu ý:

- Cậu yên tâm, cứ mai táng cô ấy ở phần đất phía sau nhà này, đất đó của riêng cậu về sau, không ai tranh chấp cả.

Thái để xác của người yêu qua đến ngày hôm sau mới chôn. Lạ một điều là đã chết rồi mà sắc mặt của Tuyết Mai vẫn tươi nhuận, y như đang nằm ngủ! Thái lưỡng lự mãi rồi mới cho xuống huyệt. Tuy nhiên, trước giờ hạ huyệt thì đứa trẻ bỗng khóc thét lên như phản đối! Thái phải dừng tay, anh bảo ông già Hai:

- Chú Hai để ý xem, có phải đứa bé không muốn mình chôn xác cô ấy xuống mộ?

Thái thử một lần nữa, lần này anh đích thân ôm xác Mai ra, cho cỗ quan tài xuống trước, rồi mới đặt nàng trở lại. Vẫn tiếng khóc thét còn lớn hơn lúc nãy! Thái chưa biết phải làm sao thì bỗng một cơn gió thật mạnh thổi lên, rồi cát bụi bay mịt mù. Lúc lặng gió trở lại, bỗng Thái kêu lên thảng thốt:

- Tuyết Mai. Cô ấy...

Không còn thấy xác của Mai đâu, mà cỗ quan tài thì đã bị cát đất lấp kín lại, như vừa mai táng xong. Thát ngỡ ngàng một lúc rồi hỏi ý ông Hai:

- Mình có nên đào trở lên không chú?

Suy nghĩ một lúc, ông Hai nói:

- Nếu trời đất khiến không để cho cậu đích thân chôn cất thì cậu cũng không nên cãi lại. Thôi, dù gì thì cô ấy cũng đã ở dưới rồi, ai chôn cũng được.

Sau khi đắp mả cẩn thận, Thái trở vào nhà và anh muốn đứng tim khi nhìn thấy cái xác của Tuyết Mai đang nằm yên như đang ngủ trên giường.

- Tuyết Mai!

Thái kêu lên rồi đứng như trời trồng...

° ° °

- Dô!

- Dô trăm phần trăm mày!

Tám Lành và Năm Sự đã cụng đến ly thứ năm, nên giọng điệu có phần chếnh choáng. Họ uống chưa hết ly rượu vừa cụng thì bỗng nghe tiếng ai sau lưng:

- Dô bằng ly đó mà cũng dô. Có ngon thì chơi mỗi lần một chén coi!

Ba Tàng mặt mày đỏ gay, chắc là đã nhậu lâu rồi, anh ta nhắc lại:

- Thằng nào dám chơi với ta hai chén không? Ai thua thì phải làm chuyện mình thách đố ngày hôm qua!

Tám Lành vốn không ưa tật châm chọc của Ba Tàng, nên trợn mắt nhìn anh ta:

- Mày có dám chắc là làm được không? Hay là thua rồi rút êm?

Ba Tàng tu môi:

- Thằng này chưa từng làm thỏ đế nghe! Chơi không?

Tám Lành quay vào trong quán gọi lớn:

- Cho mượn cái tô múc canh chủ quán!

Chủ quán Tư Son mang tô ra liền, mụ ta nói khẽ với anh chồng đang xớ rớ cạnh đó:

- Ba cái rượu ông mua về bán cho ai cũng chê, bữa nay có mấy thằng này thách đố, đem ra cho nó uống hết!

Thật ra sức của mấy tay này chỉ chịu nổi nửa tô là bò càng rồi! Ba Tàng la lớn:

- Mày thua rồi, Tám Lành! Mày...

Anh ta nói chưa dứt câu đã lăn kềnh ra, chẳng còn biết trời trăng gì nữa. Tám Lành cũng chẳng khá hơn, anh ta làm rơi tô rượu, tô vỡ tan tành, rồi cũng ngã nhào như cây chuối bị đốn!

Còn lại mình Năm Sự, anh ta ra vẻ ngon:

- Mấy thằng nhóc, tửu lượng bao nhiêu mà cũng bày đặt!

Ông già Hai nãy giờ ngồi im ở góc nhà giờ mới bắt đầu lên tiếng:

- Có phải tụi nó thách đố chuyện đứa nào dám qua quán của thằng Thái bên kia sông chứ gì?

Năm Sự vỗ ngực:

- Anh nó đây mà dám múa rìu qua mắt thợ à!

Ông già Hai dò hỏi:

- Vậy chú mày dám làm chuyện đó?

- Chuyện gì ông già?

- Thì chuyện đột nhập quán Bảy Thái!

- Dư sức qua cầu.

Chợt ông già phá lên cười:

- Tao thấy mắc cười tụi bay quá trời! Ai đời chuyện của người ta, chẳng mắc mớ gì mình, lại cá độ với nhau rồi uống đến chết lên chết xuống thế này, có phải ngu không!

Năm Sự tỏ ra rành chuyện:

- Sao lại không mắc mớ! Ông Hai không nhớ là cái quán cũ của ông, sau khi ông sang lại cho thằng trẻ tuổi đó nó dẫn về con vợ trẻ măng, để rồi con vợ lăn kềnh ra chết. Tưởng đâu vợ chết nó sẽ bỏ đi, để tụi này kiếm cái quán đó làm chỗ chứa cờ bạc ai dè nó vẫn bám trụ, ở lì. Mà còn gay go hơn nữa, hình như nó

có vợ khác hay sao đó... Có người đồn đêm nào họ cũng nghe trong buồng nhà nó có tiếng rù rì thủ thỉ kỳ lạ lắm!

Ông già Hai nghe tên nọ nói thế thì có vẻ lo trong lòng, ông nghĩ hắn ta biết khá nhiều chuyện, như vậy Thái sẽ không ổn. Mà điều đó không làm sao yên tâm, nên tìm cách nói dạt ra:

- Tụi bay toàn nghĩ tào lao! Tao biết thằng đó, nó là học trò mới ra trường, có con vợ trẻ bị chết nên thua buồn ở lại đó để tưởng nhớ con vợ chớ có rước ai khác đâu, đừng nghĩ bậy!

Năm Sự vẫn không thôi:

- Người ta còn đồn là không thấy anh chàng ấy đi chợ bao giờ, nhưng bữa nào cũng ăn ngon, có người dọn ăn cho. Như vậy không rước đàn bà khác về thì ai làm?

Ông già Hai gắt giọng:

- Mà ví dụ nó có vợ khác đi nữa thì cũng đâu mắc mớ gì mình. Tụi bay rõ là kiếm chuyện.

Năm Sự cười hô hố:

- Ông Hai quên là tụi này đang muốn lấy hoặc mua lại rẻ căn nhà đó để chứa bài hay sao? Tôi nói thật, bằng mọi cách tụi này cũng làm cho thằng đó phải dọn nhà đi mới thôi!

Nghe giọng nói của hắn, ông già Hai ghét lắm, nhưng ông biết nói ra sự chống đối lúc này không có lợi, nên ông chỉ tìm cách lái câu chuyện đi hướng khác:

- Tụi bay không nghe đồn gì sao?

Là chuyên gia nghe ngóng những lời đồn thi, nên Năm Sự chú ý ngay:

- Chuyện gì ông Hai?

- Chuyện con heo quay của nhà Hương cả Thạnh thả trôi sông trưa nay!

Quả là tin quá hấp dẫn, Năm Sự hỏi tới:

- Sao tới bây giờ ông già mới nói, bây giờ là mấy giờ rồi?

- Sắp sửa thôi chớ chưa tới. Tụi bay mà đón ở cửa Hội đồng thì thế nào cũng lấy được. Tao nghe tụi thằng Sáu Lùn cũng quyết cướp con heo đó, nghe nói heo thật lớn, đến gần một tạ!

Năm Sự vỗ đùi:

- Tổ cha thằng Sáu Lùn cũng không ăn được con heo này nữa là nó! Nhưng mà...

Anh ta nhìn lại hai thằng bạn mình thì thất vọng:

- Chiến hữu mà như vậy thì còn làm ăn gì được nữa.

Chợt hắn ta búng tay nghe cái tróc và reo lên:

- Có cách rồi!

Hắn quay sang ông già Hai:

- Ông cho tôi mượn cái dây lưới giăng dài của ông đi!

Biết cho mượn thì coi như đi đời tay lưới kiếm cơm của mình, nhưng ông già Hai đành phải chiều lòng hắn:

- Lưới cơm của tao nghe mày, làm gì cũng phải giữ cho kỹ, đừng để rách nghe chưa.

Năm Sự nheo mắt:

- Trăm phần trăm ngon lành mà ông già!

Đã đoán biết là hắn mượn tay lưới dài để làm gì rồi, kiểu đó thì còn gì là lưới của ông, nhưng già Hai chỉ khẽ lắc đầu rồi đi lấy lưới ra đưa cho hắn.

Đợi cho Năm Sự đi rồi, ông già Hai gọi thằng con út ra:

- Con chèo xuồng qua sông liền, tìm gặp anh Thái mày, nói ba dặn như vậy... như vậy...

Thằng út Hơn rất khoái, mỗi lần sang chỗ Thái để được anh dạy cho vẽ hình, cho nên nó phấn khởi đi ngay.

Còn riêng Năm Sự, sau khi có được tay lưới, hắn trở ngay về nhà, lấy chiếc xuồng nhỏ, bơi ngược dòng sông về hướng nhà Hương cả Thạnh. Đi ngang qua khúc cua Hội đồng, hắn thoáng thấy lố nhố mấy bóng người đang tụ nhau dưới gốc cây bần, trong số đó có bọn thằng Sáu Lùn.

Năm Sự khéo léo mọp người khi đi ngang qua đó, và nhờ vậy hắn không bị bọn kia phát hiện. Hắn lên trên đó khoảng vài trăm bước, neo xuồng lại rồi cột một đầu lưới vào gốc cây dừa. Xong, hắn lặn xuống và băng qua sông, tránh không để ai phát hiện. Qua bờ bên kia, hắn trồi lên và cột một đầu lưới vào một

gốc bần. Như vậy hắn đã có được một cái bẫy, mà bất cứ vật gì như chiếc bè chuối trôi ngang qua cũng sẽ bị vướng lại, và...

Tự cho là mình thông minh khi nghĩ ra cách này nên Năm Sự cười đắc ý, rồi nấp kỹ để chờ...

Quả nhiên, đúng ngọ thì một chiếc bè chuối thật lớn, cỡ như một chiếc xuồng ba lá từ trên trôi xuống. Năm Sự hồi hộp khi nghĩ tới con heo quay béo ngậy, vàng ươm đang nằm trên bè... Bữa nay sau khi tụi thằng Tám Lành, Ba Tàng tỉnh lại sẽ phải phục lăn hắn ta, và đêm nay bọn hắn sẽ tha hồ mà chè chén tới sáng luôn!

Bè chuối trôi mỗi lúc một gần hơn, và rõ ràng trên bè có một vật to như con heo trăm ký đang được phủ bằng mấy tàu lá chuối, trông hấp dẫn làm sao!

Và đúng như Năm Sự mong đợi, chiếc bè trôi tới rồi vướn vào dây lưới giăng ngang, dừng lại giữa dòng! Mắt Năm Sự sáng lên, hắn lao ra ngay và kéo chiếc bè vào bờ, lựa một chỗ khuất, vừa định giở lá chuối phủ con heo ra thì đã nghe giọng lè nhè cất lên:

- Thằng khỉ đột, định ăn một mình à!

Nhìn lên, thấy Tám Lành và Ba Tàng chân hươu chân nai vừa trờ tới. Năm Sự giục:

- Mau tiếp một tay coi, hai thằng quỷ, tụi bay còn dậy nổi sao?

Ba người kéo chiếc bè lên bãi bùn một cách dễ dàng và Năm Sự người lẹ tay nhất, tốc ngay tàu lá chuối lên.

- Trời ơi!

Tiếng thét lên của ba tên cùng lúc! Trước mặt chúng, không phải là con heo quay béo ngậy, mà đó lại là... một xác chết. Xác một cô gái!

Ba Tàng vẫn còn chưa tỉnh rượu, vậy mà lúc này hắn đã vùng đứng lên và co giò chạy. Tám Lành cũng làm theo. Chỉ còn Năm Sự, do hai chân đang bị lún sâu dưới bùn, chưa rút lên được nên đứng yên mà hai mắt trợn tròn, mồm há hốc và... tất cả ba tên chẳng hẹn mà cùng gục ngã tại chỗ.

Chiếc bè chuối lúc ấy tự dưng như được đẩy ra, trong phút chốc đã trôi ra giữa dòng và... vượt qua dây lưới một cách dễ dàng, để tiếp tục trôi về phía hạ lưu...

° ° °

Khi mọi người hay tin bọn Ba Tàng, Năm Sự và Tám Lành bị nạn ngoài bãi bồi, họ chạy ra đưa được cả ba về thì ba tên đã ở trong tình trạng hầu như hôn mê. Sau khi được hơ lửa, thoa dầu thì may sao bọn họ hồi tỉnh.

Vừa mở mắt ra, Năm Sự đã thét lớn:

- Ma! Bớ người ta!

Hai tên kia cũng tình trạng như vậy, bọn chúng chưa hoàn hồn, nên nhìn chung quanh cứ ngỡ như chúng đang ở địa ngục. Tám Lành lắp bắp:

- Đừng... đừng bắt hồn tôi. Tôi không cố ý...

Ba Tàng còn tệ hơn, hắn tiểu tiện ra quần và bò càng trên đất, vừa la khóc, vừa van xin ai đó:

- Tha cho tôi, từ nay tôi xin chừa...

Có mặt ở đó, ông già Hai lên tiếng:

- Tụi bay đã được cứu sống rồi, còn làm gì vậy?

Vẫn chưa tin, Năm Sự đưa mắt nhìn ông già và hỏi với giọng thảng thốt:

- Cô... cô ta đâu... đâu rồi?

Ông già Hai hỏi lại:

- Cô nào?

Năm Sự líu cả lưỡi:

- Ở... ở trên... trên bè...

Ông già Hai cười lớn:

- Mấy thằng này chỉ giỏi tài ăn nhậu, quậy phá thiên hạ chứ không làm chuyện gì cho ra hồn! Chỉ cho đi lấy con heo quay mà cuối cùng cũng để cho tụi thằng Sáu Lùn xóm dưới nó lấy được. Thật là nhục cho tụi trai tráng xóm mình!

Vừa nghe đến điều đó, tỉnh hẳn người ra, hắn hỏi lớn:

- Thằng Sáu Lùn làm gì?

Chỉ tay về phía sân đình, ông già Hai nói nhanh:

- Ra đó mà coi tụi nó đang xẻ con heo quay ra chia phần cho mọi người, phần còn lại cả bọn gần hai chục đứa ăn nhậu đã đời cả buổi rồi mà vẫn chưa hết!

Tám Lành và Ba Tàng cũng đã nghe, bọn hắn đưa mắt nhìn nhau ngỡ ngàng, hồi lâu mới hỏi nhay:

- Sao kỳ vậy?

Năm Sự lắc đầu lẩm bẩm:

- Không thể có chuyện đo... Chính là tôi đã thấy...

Ông già Hai bỏ đi vừa nói với lại:

- Tụi bay có thèm heo quay thì ra mà chia phần với người ta!

Dù cảm thấy nhục nhưng bọn Năm Sự cũng nháy mắt cho nhau rồi cùng chạy ra sân đình. Trước mặt chúng, chiếc bè chuối được kéo nguyên chiếc lên để giữa sân, trên bè vẫn còn một phần ba con heo quay đang ăn dở dang. Bọn sáu Lùn vừa nhác thấy mấy tên chạy tới đã reo lên:

- Các chiến hữu đi đâu mà tụi này kiếm cả buổi không thấy? Vào, vào đây làm tiếp đi, bọn này ăn không hết!

Năm Sự nổi máu du côn:

- Tụi bay có biết là chính tai đã vớt được con heo này không? Sao tụi bay...

Sáu Lùn đâu có vừa, đứng lên cười hềnh hệch:

- Có muốn ăn ké thì tụi này cho ăn, còn nói giọng đó thì coi chừng... ăn đòn đó!

Tám Lành kề miệng nói khẽ:

- Rõ ràng hồi nãy mình thấy... xác chết, mà sao bây giờ bọn chúng lại ăn ngon lành vậy? Hay là tại mình xỉn?

Tám Lành cãi:

- Chứ thằng Năm Sự có say đâu?

Năm Sự chỉ tay vào con heo quay:

- Mày coi lại coi, tụi bay đang ăn giống gì vậy?

Sáu Lùn điên tiết lên:

- Thằng này bữa nay tới số rồi chắc!

Hắn lao tới định thoi vào mặt Năm Sự, nhưng vừa đưa tay lên thì bụng quặn đau như bị ai cắt đứt, khiến hắn co quắp người lại. Bọn em út thấy vậy ngạc nhiên hỏi:

- Sao vậy anh Sáu?

Một người lớn tuổi đứng gần đó lên tiếng:

- Chắc là tại ăn nhiều quá chớ gì! Một mình hắn mà ăn hết cái đùi heo, hèn gì!

Vừa khi ấy, bỗng có người thét lên:

- Xác người!

- Thì ra trước mặt họ, trên chiếc bè chuối lúc ấy là một nửa xác người!

Chưa bao giờ tưởng tượng nổi cảnh này, cho nên mọi người vừa nhìn thấy đã ù té chạy, một số thì đứng tại chỗ thi nhau nôn mửa liên hồi!

Năm Sự là người đã chứng kiến từ lúc nãy, nhưng giờ đây nhìn thấy lại cũng phải tối tăm mặt mày, lảo đảo muốn ngã khuỵu! Còn phần Sáu Lùn thì sau khi lăn lộn bởi cơn đau, đã nằm im không có dấu hiệu gì của sự sống.

Bọn đàn em của hắn đứa thì co giò chạy, đứa sợ quá kêu la khóc um sùm. Còn những người lúc nảy trót nhận phần chia thịt heo quay thì sợ đến gần chết ngất. Cũng may là hầu hết họ đều chưa có người nào ăn miếng nào! Tất cả không ai bảo ai, đã cùng nhau đem quăng bỏ số thịt ấy và rời khỏi sân đình tức khắc.

Tin tức loan truyền rất nhanh, chưa đầy một giờ sau thì hầu như chuyện bọn Sáu Lùn ăn xác chết đã rao khắp làng. Người sợ thì không dám tới sân đình để xem lại cảnh tượng hãi hùng lúc nãy. Nhưng còn những người không biết sợ và tò mò thì rủ nhau kéo tới nhìn cho tận mắt. Trong số này có người đã chứng kiến, giờ nghĩ lại, thấy cần phải coi lại cho chính xác, nên cũng tháp tùng theo nhóm người mới.

Nhưng khi họ kéo tới sân đình thì tất cả đều ngẩn người ra, bởi trên chiếc bè chuối vẫn là... gần nửa con heo quay ăn dang dở!

Mấy người mới tới bàn tán:

- Làm gì có chuyện ăn xác người! Có lẽ mấy người kia giành con heo quay nên tung tin nhảm. Mà cũng có thể là họ bị mờ con mắt bởi... ăn nhiều quá!

Mặc ai nói gì thì nói, nhưng bọn Sáu Lùn thì vẫn bị quằn quại rên la. Riêng Sáu Lùn sau một lúc mê man đã tỉnh lại, nhưng khi nhìn thấy mọi người thì bỗng quỳ và lạy bất kể ai. Anh ta vừa lạy vừa lùi như muốn chạy trốn mà chạy không được. Đến lúc anh ta lùi tới mé sông thì ngã nhào xuống đó và... mất hút!

Những người chứng kiến vội hô hoán lên rồi vài người nhảy theo mò, nhưng sau hơn một giờ tìm kiếm vẫn chẳng thấy xác của Sáu Lùn đâu.

Chính Năm Sự cũng lạnh sống lưng về chuyện này. Hắn ta nói riêng với Tám Lành:

- Tao nghĩ chuyện này có dính tới... ma quỷ gì đó phải không mày, Tám?

Tám Lành run giọng đáp:

- Chắc vậy quá.

Ba Tàng thì tỏ ra rành hơn:

- Hồi nãy tao để ý thấy lúc đầu cái xác chỉ còn lại một phần ba, nhưng bây giờ sau khi mọi người tới coi thì nó còn gần phân nửa mà lại là phần đầu, chớ không phải phần chân như lúc nãy!

Năm Sự cũng nhận ra điều đó:

- Đúng rồi.

Rồi cả bọn họ đều lẳng lặng rút lui khỏi nơi ấy. Một lúc sau, cũng chín Năm Sự hỏi bạn:

- Tụi bay còn giữ ý định qua thám thính nhà của thằng Bảy Thái không?

Hai tay kia đều tán thành:

- Sao lại không? Cũng tại mày tào lao dính vào vụ con heo cúng nên mình mới gặp rắc rối. Bây giờ mình lén qua sông đi.

Họ thực hiện ngay ý đồ, và hơ nửa giờ sau đã có mặt ở quán Thảo Mai. Vẫn ít khách như thường lệ, vẫn chỉ một mình anh chủ quán chứ không hề có ai phục vụ. Đã có chủ ý trước nên bọn Năm Sự đã hỏi ngay khi vừa ngồi xuống quán:

- Có gì nhậu không ông chủ? Mà sao chỉ một mình ông đứng bán, bà chủ đâu?

Bảy Thái chủ quán giờ đây đã già hơn nhiều so với ba năm trước, khi anh tới đây để sang lại quán này của ông gìa Hai, anh vẫn nụ cười hiền hoà, trả lời:

- Quán ế ẩm mà mướn người phụ việc làm gì cho tốn kém, còn bà chủ thì... có đâu mà chủ với tớ!

Thấy anh cũng biết nói đùa, nên bọn Năm Sự cũng dễ dò la:

- Không có bà xã sao anh về đâu bao năm trời nay mà chịu nổi? Sao không kiếm bà nào về hủ hỉ cho vui lại đỡ đần công việc?

- Thái không hứng thú trả lời chuyện này, nên anh quay trở vào trong. Hai Lành gọi giật lại:

- Chưa cho gọi thức uống mà ông chủ!

Thái quay lại hỏi:

- Quý anh dùng gì?

Ba Tàng lớn giọng:

- Cho một chai đế!

- Thái lắc đầu:

- Quán tôi không bán rượu từ nào tới giờ, mong quý anh thông cảm uống thứ khác. Có cà phê mới đem từ chợ về, ngon lắm.

Hai Lành sừng sộ:

- Quán mà gọi cái gì cũng không có, vậy mở quán để làm gì?

Thái vẫn nhẹ giọng:

- Dạ, mở cho vui, bán vài thứ giải khát thôi còn rượu thì tuyệt đối không có.

Ba Tàng đứng dậy, hai tay chống nạnh, hất hàm hỏi:

- Chú mày biết bọn này là ai không mà dám nói giọng đó, hả?

Thái vẫn tỉnh bơ:

- Là ai thì cũng không có rượu. Bởi lẽ đơn giản là từ mấy năm nay tôi không hề có rượu trong nhà.

- Hỗn láo.

Hắn ta quát lên, vừa lao tới như muốn ăn thua đủ.

Chợt có tiếng của Năm Sự vang lên:

- Nóng nảy có ích gì đâu, đây cũng là chỗ quen biết mà. Mày phải thông cảm cho chú ấy, vợ chết con đang buồn mà, làm sao nhìn thấy kẻ khác say sưa be bét trong nhà mình. Vả lại chú ấy còn để thì giờ để... rước bà nhỏ về nữa chớ!

Bị chạm chuyện riêng tư, Thái nghiêm giọng:

- Các anh tới uống nước thì tôi cám ơn, còn chuyện riêng tư thì xin các anh tôn trọng cho, đừng chạm tới.

Biết thế nào Ba Tàng cũng nổi điên, Năm Sự chặn lời ngay:

- Thôi, xin lỗi vậy. Bạn tôi không có ý đó, chẳng qua thấy ông chủ một mình cực khổ lại buôn bán ế ẩm, nên chỉ có ý là...

Hắn ta ngừng lại, có ý dò phản ứng của Thái trước khi tiếp lời:

- Hay là ông chủ sang lại quán này cho tụi tôi đi!

Đang mềm mỏng, bỗng Thái đổi ngay thái độ, gắt lên:

- Ai cho phép các anh vô cớ hỏi sang quán của người ta?

Hơi bất ngờ về thái độ của Thái, nhưng chỉ sau vài giây thì Năm Sự đã lên giọng:

- Hỏi sang quán thì có gì không phải. Bởi bọn này biết trước sau gì chú mày cũng phải bỏ của chạy lấy người thôi! Ở đây làm sao nổi khi một thân một mình mà tuổi đi thì còn quá trẻ.

Thái không còn chịu nổi trước thái độ khiếm nhã đó, anh thẳng thừng:

- Nếu không còn chuyện gì khác để nói nữa thì xin mời các anh đi cho!

Thái đi thẳng vào phòng trong, cứ ngỡ như vậy là bọn họ sẽ tự động bỏ đi. Nhưng anh đã lầm. Đã có ý đồ trước khi tới đây thì đời nào chúng chịu thua. Năm Sự ra dấu cho hai bạn hắn, cùng nhau rón rén cheo chân Thái đi vào trong.

Không đề phòng nên Thái không phát hiện có người theo mình. Anh mở cửa phòng, rồi cứ để vậy không đóng lại bước tới bên giường, vừa đưa tay vặn ngọn đèn dầu đầu ở giường lên. Căn phòng sáng hẳn, đủ cho ba kẻ tò mò ngoài cửa nhìn vào và thấy một người đang nằm trên giường! Đó lại là một... phụ nữ!

Đầu tiên là Năm Sự, rồi Tám Lành và Ba Tàng, lần lượt cả ba tên đều quỵ xuống tại chỗ miệng như bị ai bóp cứng không kêu lên được tiếng nào. Rồi chẳng ai bảo ai, chúng cùng bò, lết, nhắm hướng ra ngoài mà thoát thân.

Gần 5 phút sau, cả bọn đã tới ngoài vườn. Lúc này Năm Sự mới có thể nói được, tuy giọng còn thất thần:

- Tụi bay có thấy... thấy gì không?

Ba Tàng đáp trong nỗi sợ hãi tột cùng:

- Xác... xác chết trên bè chuối!

Tám Lành thì vẫn chưa hoàn hồn:

- Ma... ma thật rồi!

Năm Sự bình tĩnh hơn:

- Xác chết thôi, chớ chưa chắc là ma. Nhưng tại sao mới lúc nãy nó ở trên kia sân đình mà bây giờ lại ở đây? Mà lại ở trong phòng của thằng này là sao?

- Hay là...

Ba Tàng vừa nghĩ ra điều gì đó, hắn định nói, nhưng Năm Sự đã cắt ngang:

- Theo tao thì tụi mình chạy nhanh cho rồi! Tao thấy vụ này có cái gì đó ghê ghê.

Bà Tàng nhún vai:

- Tao hiểu rồi, chính thằng cha già Hai có liên hệ với thằng chủ quán này! Có thể thằng cha già ấy nó bày ra vụ này chăng?

- Vụ gì?

- Thì cái xác con nhỏ kia!

Càng bàn thì lại càng rối thêm. Cuốt cùng Năm Sự bảo:

- Tốt hơn hết là đừng dính tới vụ này nữa. Rút nhanh lên!

Hai tên kia vẫn còn chần chừ thì bỗng Ba Tàng cảm thấy lưng mình có vật gì đó lành lạnh luồn từ lưng quần đi lên, giống như con rắn chui vào áo hắn.

- Cứu... cứu tao?

Hắn chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi mắt gần như đứng tròng! Năm Sự và Tám Lành chẳng biết chuyện gì xảy ra, chúng hỏi:

- Mày sao vậy Ba Tàng?

Cũng vừa khi ấy vật làm cho Ba Tàng chết khiếp đó xuất hiện ngay từ ống quần của cả hai. Chúng nhận ra và chưa kịp kêu lên tiếng nào thì đã trợn trừng và... ngưng thở! Vật đang làm chúng khiếp sợ đó là... một cánh tay trần từ dưới đất nhô lên, như con rắn trườn.

° ° °

Ông già Hai nhìn Thái với sự ái ngại:

- Tôi lo cho cậu. Vừa rồi nếu không có những chuyện kì lạ đó xảy ra thì e rằng bọn quỷ côn đồ ấy đã phát hiện ra chuyện riêng của cậu rồi.

Thái thắc mắc hỏi:

- Cháu vừa nhìn thấy họ đứng ở cửa phòng nhìn vào và thấy vợ cháu đang nằm, cháu lo quá chưa kịp phản ứng gì thì chẳng hiểu sao họ lại hoảng sợ bỏ chạy vậy chú Hai?

Không phải tự nhiên đâu. Chính vì chúng nó thấy vợ cậu ở đây nên hoảng sợ đó. Bởi mới cách đó không lâu chúng đã nhìn thấy trên chiếc bè chuối.

Thái lại ngạc nhiên:

- Bè chuối gì nữa chú Hai?

Ông già Hai đem chuyện xác chết trên bè chuối kể cho Thái nghe. Anh càng càng rối thêm:

- Sao lại có chuyện đó chú Hai? Mà đó là xác của ai vậy?

Ông già Hai biết là Thái thật sự không rõ chuyện đã xảy ra, ông nói:

- Xác ấy là của cô Mai, vợ cậu!

Thái tròn mắt:

- Chú Hai nói gì cháu không hiểu?

- Ban đầu tôi cũng không hiểu. Nhưng sau khi chuyện xảy ra, tình cờ tôi nhìn thấy chính con bé Thu, con nuôi của cậu đã dìu cô Tuyết Mai lướt trên mặt sông!

Thái hoảng kinh:

- Con bé Thu! Nó... nó đã chết đuối cách đây trên một năm rồi, chú không nhớ sao?

Ông Hai gật đầu:

- Sao tôi lại quên, bởi chính tôi là người đã vớt nó và đem chôn ở sau vườn này. Nhưng rõ ràng tôi thấy nó.

Thái lẩm bẩm:

- Vậy là nó không bỏ đi như mình nghĩ.

- Nếu thật sự nó đi thì xác của cô Tuyết Mai đã rã từ lâu rồi, chứ đâu còn nguyên vẹn sau hơn ba năm lìa đời. Cậu không nhớ lời cô ấy dặn trong mảnh giấy để lại sau lưng con bé Thu ngày ấy sao?

Thái gật đầu, giọng buồn bã:

- Sao cháu lại không nhớ. Và đó là nỗi ray rứt của cháu cho đến bây giờ. Năm đó nếu cháu không mải lo ngày đêm ngồi bên xác người yêu cháu trong phòng, quên cả con bé, để cho nó bò ra bờ sông rồi chết đuối... Cháu tự trách mình, nhưng chỉ còn biết cầu nguyện vong linh Tuyết Mai tha thứ cho lỗi lầm đó của cháu.

Ông già Hai tỏ ra rành chuyện đến nỗi Thái phải ngạc nhiên:

- Nếu không có chuyện đó xảy ra thì những ngày cầu hồn của cậu không kéo dài quá ba năm như bây giờ đâu. Cậu không để ý những chi tiết về cái chết của bé Thu ngày đó sao, đâu phải tự nhiên mà con bé bò ra ngoài sông, nếu khi đó cô Tuyết Mai không dẫn đường cho nó đi. Cậu nhớ lần cậu hốt hoảng chạy đi tìm cô Mai lúc nửa đêm không?

Thái gật đầu:

- Khi cô ấy chết được gần một năm thì vào một đêm trời mưa, do quá buồn ngủ nên cháu đã ngủ quên bên cạnh giường nằm của cô ấy, lúc chợt giật mình thì không thấy Tuyết Mai đâu, cháu hoảng hốt chạy đi tìm thì gặp chú Hai từ

dưới sông lên, tên tay ẵm bé Thu. Chú báo tin con bé bị chết đuối thì cháu không chú ý lắm, bởi cháu còn mải lo không biết Tuyết Mai đi đâu?

- Và thật ra cô ấy chẳng hề đi đâu phải không?

- Dạ đúng. Sau khi tìm một hồi, cháu trở vào phòng thì xác cô ấy vẫn còn nằm đó.

Ông Hai trầm ngâm một lúc rồi mới tiết lộ:

- Lúc ấy tôi cũng không biết chuyện gì đã xảy ra. Mãi sau này, khi vào nửa đêm bỗng tôi nghe tiếng cô Mai gọi cửa nhà, tôi ra mở cửa thì chẳng thấy cô ấy đâu, mà chỉ thấy con bé Thu nằm ngay ngạch cửa.

Thái ngơ ngác:

- Con bé đã chết và chính chú Hai chôn nó rồi mà?

- Điều đó thì đúng nhưng việc xác nó nằm ngay cửa nhà tôi lúc ấy cũng không sai! Bởi sau đó, chính cô Tuyết Mai báo mộng cho tôi hay, chính cô ấy đã cứu con bé, nhưng không dám đưa về nhà lần nữa vì giữa nó và cậu không hợp nhau, nếu để chung thì một là nó lại chết, hai là chính cậu sẽ chết! Nên cô ấy năn nỉ nhờ tôi giữ xác nó giùm, đợi đến khi nào cậu và cô Mai hết vận hạn sẽ tính. Tôi nghe chuyện và bắt đầu hiểu chớ nói thật với cậu suốt thời gian dài trước đó tôi vẫn nghi hoặc chuyện của cậu, không tin một xác chết như cô Mai lại có thể không đem chôn nhiều năm mà vẫn không hề có chuyện gì xảy ra, vẫn ở bên cạnh cậu như một người nằm ngủ bình thường!

Lâu nay Thái giấu kín chuyện này, nhưng nay ông già Hai đã biết nhiều hơn anh nghĩ, nên Thái chỉ biết thở dài, rồi khẽ bảo ông:

- Chú Hai như cha cháu, nên việc này cháu không dám giấu nữa. Chú hãy đi theo cháu vào đây.

Thái đưa ông già Hai vào tận phòng riêng, anh chỉ xác của Tuyết Mai:

- Cô ấy vẫn nằm đó, thi thể vẫn còn ấm suốt hơn ba năm qua, bởi vậy cháu đâu dám đem chôn. Ngày đêm cháu chỉ biết cầu hồn cho cô ấy...

Ông Hai mỉm cười:

- Cô ấy còn giữ được như thế này là do những lời cầu hồn của cậu đó! Đúng ra là cô ấy đã chết thật vào cái đêm con bé Thu chết đuối, bởi bé Thu là oan hồn theo để chờ rước cô Tuyết Mai đi và lần đó là kỳ hạn cuối.

Thái chưa hiểu:

- Chú Hai nói vậy là sao? Chính Mai đã cứu bé Thu khi nó bị thả trôi trên bè chuối và dặn cháu nuôi dưỡng nó, vậy tại sao nó muốn bắt cô ấy đi.

- Tôi là người ngoài làm sao biết nhiều ơn cậu, nhưng qua chuyện tôi cứu con bé Thu từ bến sông lên, cô Tuyết Mai đã báo mộng cho tôi biết mọi chuyện. Sở dĩ cô ấy không báo cho cậu biết là bởi cô ấy phải tránh cho hồn ma bóng quế đang canh giữ ngày đêm quanh xác của cô. Chuyện nó như thế này...

Ông không dám nói, mà kéo Thái ra một góc nhà, nói thật khẽ chỉ đủ cho Thái nghe:

- Thật ra ngày đó, khi tôi vớt được cô Mai lên khỏi sông thì cô ấy chỉ còn Ìa cái xác. Hổn phách đã lìa khỏi xác rồi, chỉ được cho sống lại trong thời gian ngắn để gặp gỡ cậu và sau đó đúng ra phải chết luôn lúc con bé trên bè chuối xuất hiện. Cậu biết không, con bé Thu chính là một hồn ma của một đứa trẻ bị chết oan cùng với mẹ nó ở khe sông này, mẹ nó thì tận số nên bị bắt đi luôn, riêng nó do bị chết oan nên vất vưởng theo dòng sông, hôm đó nó gặp cô Tuyết Mai nhảy sông tự tử nên nó bám lấy, tưởng đâu cô Mai là mẹ mình. Chính nhờ nó mà hồn phách cô Tuyết Mai không bị bắt đi hẳn, cậu nhớ chưa?

Thái nhớ lại, anh lẩm bẩm:

- Thảo nào cô ấy dặn cháu là phải giữ cho bằng được con bé, bởi nó mất thì cô ấy cũng mất!

Ông già Hai bảo:

- Suýt nữa thì cậu đã làm hại cả hai người. Bé Thu cũng đang chờ được hồi sinh như cô Mai vậy.

Thái Sốt ruột hỏi:

- Con bé bây giờ ở đâu, chú Hai?

Hồn phách nó thì tôi đang thờ ở nhà, còn xác nó thì vẫn ở nguyên chỗ tôi chôn lúc trước. Hồi nãy chính nó đã khiến cho lũ thằng Năm Sự một phen hết vía, để bọn ấy từ nay không cón dám léo hánh tới đây nữa.

Thái thật lòng hỏi ông già Hai:

- Giờ đây cháu phải làm gì nữa chú Hai? Nói thật với chú, nếu chỉ để được gần gũi với Tuyết Mai thì cháu có thể để cô ấy trong tình trạng này suốt đời cũng được. Cháu có thể sống với người vợ nằm ngủ yên như thế là đủ rồi. Nhưng còn bé Thu mà như lời chú vừa kể thì cháu chẳng biết phải làm sao.

Ông già Hai trấn an:

- Tôi biết rõ chuyện này nên hiểu rằng tấm lòng thành của cậu đã lay động được cõi âm hồn, cậu sẽ sớm được đền đáp. Mà lúc nào cô Tuyết Mai hồi sinh thì con bé Thu cũng được hưởng lây. Cậu cứ tiếp tục cầu đi, hồn phách của người cậu thương yêu không phụ cậu đâu.

Trước khi ra về, ông già Hai dặn lại:

- Bọn người xấu kia nhằm mục đích làm cho cậu nản lòng, bỏ đi, để chúng chiếm ngôi nhà này dùng làm chuyện phi pháp. Vậy cậu không được lung lay ý chí. Tôi hứa sẽ ngày đêm để mắt giúp cậu.

Thái cảm động xiết chặt tay ông ngầm cám ơn. Tiễn ông ra tận bờ sông, đến khi anh quay vào nhà thì không thể tn vào mắt mình nữa: Trước mặt anh, một cô gái đang đứng giữa nhà, nhoẻn miệng cười rất tươi hướng về anh!

- Tuyết Mai!

Đúng là một Tuyết Mai bằng xương bằng thịt đang đứng đó! Thái còn ngỡ ngàng chưa tin hẳn thì nàng đã bước tới ôm chầm lấy anh, thổn thức:

- Rồi mình cũng có ngày này mà.

Mai biết anh chàng vẫn còn hoang mang, nên kéo tay Thái vào tận phòng ngủ, chỉ lên giường:

- Anh nên đem đi mai táng. Đó là tất cả những gì còn lại của một Tuyết Mai vắn số. Nó là xác phàm của em do cha mẹ sinh thành, giờ thì trả em về cát bụi. Chỉ còn em ở đây, cũng là thân xác, nhưng lại do chính anh cầu nguyện mà thành. Em hồi sinh là do sự trì chí, lòng thành của anh thấu tận cõi hư vô, nên từ nay em hoàn toàn thuộc về anh!

Giọng nàng nói thật chân thành tha thiết. Âm điệu lời nói vẫn như xưa, tuy có điều bây giờ là một Tuyết Mai chững chạc, trưởng thành hơn.

Thái bước tới bên giường và giật mình khi nhìn thấy dưới lớp chăn đắp là một bộ xương khô! Tuyết Mai lặp lại để anh yên tâm:

- Như em vừa nói, ấy là thể xác của em phải trở về cát bụi. Anh hãy chôn ngay đi. Chôn bên cạnh mộ của bé Thu. Anh làm ngay đi, nếu không em có thể bị nhập trở lại đó!

Thái hốt hoảng làm theo lời. Anh một mình bế bộ xương khô ấy ra, đào một hố huyệt bên cạnh phần mộ không nấm đất của bé Thu mà ông già Hai đã chôn mấy năm trước.

Lạ lùng thay khi Thái vừa đặt bộ xương xuống, chưa kịp lấp đất thì tự nhiên đất chỗ đó liền lại và ở nấm mộ kế bên có một làn khói màu xanh bay lên, trong nháy mắt đã không còn thấy nữa.

Còn đang ngẩn ngơ thì từ trong nhà đã có tiếng trong trẻo của Tuyết Mai gọi vọng ra:

- Hôm nay em sẽ khao anh một bữa thịnh soạn. Anh vào sửa soạn đi, để còn đón chú Hai và bé Thu về nữa.

Tuyết Mai lau dọn nhà cửa thành thạo, quen thuộc như người từng sống trong nhà này từ lâu. Thấy Thái cứ nhìn mình lạ lẫm, nàng cười bảo:

- Có gì đâu mà anh phải ngạc nhiên, tuy em mới ngồi dậy được đây, nhưng hồn phách em đã ở trong ngôi nhà này từ ba năm nay. Em đâu còn lạ gì nữa.

Đến trưa đó thì ông già Hai lại sang. Ông dẫn theo một đứa bé gái cỡ ba bốn tuổi, nó vừa trông thấy Thái và Mai thì đã chạy ào tới, ôm chầm lấy và khóc nức nở:

- Tưởng là con không còn gặp lại mẹ cha nữa! Con là bé Thu đây.

Ông già Hai gật đầu:

- Nó vừa hồi sinh là bảo phải dẫn qua đây ngay!

Cuộc trùng phùng quá bất ngờ, nhưng không có sự ngỡ ngàng lâu, bởi trong đầu của ba người dường như thoáng hiện những kỷ niệm đã qua, dù là rất mơ hồ, nhưng họ hiểu đó là những gì mà họ từng có. Như một giấc chiêm bao, giờ biến thành sự thật.

Trước khi bữa tiệc gia đình bắt đầu với hai con gà luộc, Tuyết Mai nói với ông Hai:

- Cháu nhờ chú Hai lập giùm một cái miếu ngay cạnh hai ngôi mộ đất ngoài kia, chắc chú hiểu ý cháu?

Già Hai gật đầu:

- Cháu không nhờ thì chú cũng sẽ làm. Miếu tưởng niệm hai người được hồi sinh, chứ không phải thờ vong hồn như xưa nay người ta vẫn làm.

° ° °

Người ngoài không hiểu chuyện, thấy tự dưng Thái có cô vợ trẻ đẹp và đứa con hơn ba tuổi, họ đồn nhau:

- Thằng cha chủ quán Thảo Mai coi vậy mà đào hoa. Vợ chết được mấy năm, nay lại vớ được một cô nàng thật là xinh xắn. Anh ta tốt số thật!

Có người thì bảo:

- Con riêng của vợ mà xem ra con bé kia lại quyến lyến, thương yêu cha vượng còn hơn con đẻ nữa, lạ thật!

Thái và vợ nghe những lời bàn tán ấy chẳng những không khó chịu mà còn xúc động, nhìn nhau cười.

Họ sống với nhau trong hạnh phúc dài lâu.. Đôi khi Thái tế nhị nhắc:

- Dẫu sao em cũng tìm cách về thăm lại cha mẹ chứ?

Lần nào Tuyết Mai cũng lắc đầu bảo:

- Em đã nói rồi, thân xác do cha mẹ sinh ra đã trả lại cát bụi rồi. Em bây giờ hoàn toàn là của hai đứa mình. Tuy nhiên, em vẫn cầu nguyện cho họ sống vui, sống khoẻ. Đợi khi họ trăm tuổi già em sẽ là người thờ tự...

Giọt Máu Còn Lại

Mặc dù đã về hưu từ nhiều năm, nhưng quan tri phủ họ Hoàng, tục gọi Hoàng Nhân đại gia, vẫn được mọi người biết tiếng. Dù là tiếng ác, nhưng dẫu sao không một ai ở phủ Diên Sơn, vùng ven biển này lại không quen tên, thuộc nết ông ta. Họ Hoàng còn khá nổi tiếng ở khoảng dù giàu sang tột bậc, chức trọng quyền cao, cái gì cũng có, chỉ tiếc một đều là không có con! Đây là điều bất hạnh duy nhất mà vợ chồng ông ta mắc phải. Đến nỗi khi ngã bệnh nặng, dẫu thầy thuốc cấm đoán, nhưng suốt mấy tháng trời nằm trị bệnh, ông ta cũng bắt bà vợ trẻ hơn ông đến hơn chục tuổi phải ngày đêm ở bên cạnh. Một phần để hầu hạ, chăm sóc bệnh, nhưng mặt khác, quan trọng hơn là để giúp lão ta có con!

Với người khác thì chuyện có một vài đứa con nó dễ như ăn cơm, uống nước hằng ngày, vậy mà lão Hoàng lại cực khó, đúng hơn là nan giải vô cùng!

Biết chồng bệnh, nhưng vì thấy ông quá thiết tha, gần như là lời trối trăng mỗi khi yêu cầu bà cho lão một đứa con nối dõi. Hoàng phu nhân, tên tục là Nguyệt Ánh đã phải hứa để chồng yên tâm:

- Mình cứ ráng uống thuốc, nhất là thuốc bổ, em sẽ cố có kết quả kỳ này!

Và hình như trời không phụ lòng lão ta, một tuần trăng sau Hoàng phu nhân báo tin:

- Em đã... có dấu hiệu!

Đang rất yếu sức, vậy mà khi nghe tin ấy, lão Hoàng đã bật dậy ngay, hổn hển nói:

- Nếu đúng vậy... tôi... tôi tri ân bà. Tôi...

Lão chỉ nói được có vậy rồi ngã vật ra nằm thiêm thiếp. Đó là hậu quả của nhiều lần thức dậy nửa đêm (theo lời dặn của thầy thuốc) ráng sức lên đỉnh vu sơn đi tìm con!

Lão Hoàng qua đời chỉ sau đó một tuần. Bà Nguyệt ánh thương khóc chồng thì ít mà lo cho cái thai mới tượng hình thì nhiều. Chẳng hiểu sao, kể từ khi bà cấn thai thì hầu như đêm nào cũng thấy ác mộng. Mà những cơn ác mộng đều giống nhau: bà thấy một đứa bé khôi ngô tuấn tú cứ đứng ngay trước mặt bà mà cười và đòi đánh!

Khi tỉnh dậy, bà thắp nhang khấn vái. Mỗi lần như vậy thì bà yên được vài giờ, rồi sau đó lại tiếp tục bị ác mộng hành hạ.

Chuyện tưởng chỉ có vậy. Nào ngờ khi cái thai được chín tháng mười ngày theo thông lệ thì bà Ánh chẳng có dấu hiệu gì của một cuộc chuyển dạ, chờ thêm chục ngày nữa vẫn chẳng có tín hiệu. Đi khám thai thì thầy thuốc sau khi xem mạch đã phán một câu gọn lỏn:

- Chưa có dấu hiệu sinh, ít nhất cũng một tháng nữa!

Bà Nguyệt ánh cãi lại:

- Tôi tính ngày tháng rất kỹ, sao lại có chuyện trễ đến như vậy?

Vị lương y quả quyết:

- Đó là tôi nói sớm, chớ thật ra chẳng hề có một biểu hiện gì về sinh sản trong vòng một vài tháng tới cả!

Không tin ông thầy thuốc này, bà cho gia nhân đi rước những lương y nổi tiếng hơn về. Sau khi khám kỹ, họ cũng nói y như vậy:

- Chưa có dấu hiệu sinh!

Có đến mười thầy thuốc đã nói như vậy cho nên bà Ánh không còn nhờ ai nữa. Bà tự an ủi:

- Có lẽ do mình lớn tuổi rồi nên mang thai không như người bình thường. Thôi thì mặc, lúc nào sinh cũng được miễn không có biến chứng gì thì không cần lo.

Kết quả thật ngoài sức tưởng tượng: Bà Ánh mang thai đến tháng thứ mười bốn thì có triệu chứng thất thường.

Bà ta nghe đau bụng rồi kêu gào đau đớn. Cuộc chuyển dạ sinh kỳ lạ đã trải qua năm ngày ròng lăn lộn, kêu la mà bà ta vẫn chưa sinh được! Thật ra đó không phải là chuyển bụng sinh.

Một buổi chiều, trong lúc người nhà đi vắng thì có một vị đạo sĩ mặc đạo bào màu đen rất lạ, đột ngột ghé qua. Vừa bước vào tới cửa ông ta đã lên tiếng:

- Ở đây nghiệp chướng nặng quá, sao không giải nó đi?

Bà Ánh đang nằm kêu la trên ghế trường kỷ, nghe vậy ngẩng lên nhìn và khó chịu khi thấy người lạ. Tuy nhiên, lúc đó vị đạo sĩ lại lên tiếng:

- Nghiệp chướng nơi này nặng lắm, không khéo lại nguy đây!

Gợi tò mò, Nguyệt Ánh hỏi:

- Nghệp chướng gì?

Ông ta chỉ thẳng vô bụng của bà Ánh, bảo:

- Ở đây!

Nghĩ lão ta điên, bà Ánh quát lớn:

- Ông ở đâu vào đây nói nhảm, đi đi!

Mặc cho bà ta đuổi, lão đạo sĩ vẫn trầm tĩnh nói tiếp:

- Tôi chẳng mắc mớ gì chuyện này, nhưng khi đi ngang qua đây phát hiện được, tôi chẳng thể làm ngơ. Bà sắp gặp tai nạn lớn, một là bà chết, hay là... đứa bé trong bụng phải chết!

Vừa nghe lão ta nói tới đó, bà Nguyệt ánh đã thét lên:

- Nói bậy!

Rồi bà ta ôm lấy bụng của mình, như sợ bị xâm hại.

- Đây là đứa con mà chồng tôi lúc sắp chết cũng muốn có nó cho bằng được. Ông chẳng biết gì thì hãy đi ra đi!

Bà lớn tiếng, đáng lý phật ý, nhưng vị đạo sĩ vẫn không tỏ ra chút phiền lòng, ông tiếp tục nói:

- Mạng sống của bà tuỳ thuộc vào vật trong bụng mà bà đang mang.

- Ông im đi!

Bà Nguyệt Ánh cố đứng lên để đi vào trong, tránh phải nghe người khách lạ này nói nữa. Đứng nhìn theo bà, vị đạo sĩ khẽ lắc đầu:

- Nghiệp chướng khó trừ!

Nói xong, ông lặng lẽ bỏ đi. Khi ra tới ngoài rồi ông vẫn còn ray rứt nên quay vào nói, cố tình cho chủ nhà nghe:

- Vẫn còn chưa muộn! Nếu bà muốn sống thì chiều nay tìm tôi ở bến đò.

Ông ta đi rồi, lúc này trong nhà bà Ánh bỗng gào lên:

- Trời ơi!

Bà kêu được mấy tiếng đó rồi ngất đi.

Đến chiều, lúc vừa tỉnh lại thì bà nôn nóng đòi người nhà dẫn đi ra bến đò. Bà dặn:

- Phải tìm cho được lão đạo sĩ. Ông ta sẽ làm hại con tôi.

Lúc ra tới chỗ bến vắng, bà đã gặp ngay ông đạo mà không cần tìm. Vừa trông thấy bà, ông chỉ một chiếc xuồng nhỏ và bảo:

- Bà hãy xuống xuồng đi, nó sẽ giúp bà được toại nguyện. Vẫn còn kịp!

Bà Nguyệt Ánh nhìn thẳng vào ông ta, giọng giận dữ:

- Tôi tìm để hỏi tội ông, tại sao ông cứ muốn hại con tôi? Lúc hôn mê, tôi được nó báo là ông đang tìm cách giết nó. Vậy là sao?

Vị đạo sĩ nghiêm giọng:

- Chỉ bởi tôi muốn cứu bà. Bà đâu biết thứ bà mang trong người là mối hoạ lớn cho bà, cho cả sản nghiệp của bà nữa! Hãy làm theo lời tôi đi!

Ông nói dứt lời thì bất thần dùng tay đẩy nhẹ, khiến cho bà Ánh mất thăng bằng nhào ngay xuống chiếc xuồng đang không có người. Cũng may là dù ngã bất ngờ nhưng bà chẳng sao, kể cả cái thai trong bụng cũng không hề hấn gì.

Chiếc xuồng không ai bơi nhưng đã tự động rời bến, khiến bà ánh phải la lên:

- Tôi không biết lội, không biết bơi xuồng, phải kéo tôi vào mau lên!

Vị đạo sĩ vẫn lờ đi, ông ngửa mặt lên trời, lẩm bẩm gì trong miệng mà người đứng gần cũng không nghe được.

Trời đang lặng gió, bỗng sóng nổi lên, rồi gió như lốc xoáy, khiến chiếc xuồng quay như chong chóng. Tiếng của bà ánh lúc đầu còn la lớn, nhưng chỉ một lúc sau thì im bặt.

Khi gió ngừng thì chiếc xuồng đã tự động cập bến, Bà Ánh hầu như chẳng còn biết gì nữa. Lúc này ông đạo mới gọi lớn:

- Đưa bà ấy về, nhớ là không được để bà ấy một mình đi ra ngoài.

Dặn xong, ông vừa định bước đi thì bất ngờ ông nghe một tiếng khóc của trẻ con vang lên. Sững sờ giây lát, rồi ông nhẹ lắc đầu thở dài:

- Số kiếp cả thôi! Đành chịu.

Đứa hài nhi do bà Ánh sinh ra trong hoàn cảnh này đáng lý rất lo ngại, tuy nhiên nhìn nó chòi đạp và cất tiếng khóc thì có vẻ bình thường. Giây lát sau nó lại nín khóc và đưa tay quơ quơ như thèm sữa hay khát nước, ông đạo phải xua tay bảo mấy gia đinh của bà ánh vừa có mặt kịp thời:

- Hãy mang bà ấy về. Mọi việc là do số trời cả!

Ông bước đi vừa lắc đầu chán nản...

° ° °

Bà Nguyệt ánh dù sinh nở bất thường, nhưng cuối cùng cũng có được một đứa con trai như bà hằng mong đợi. Thằng bé ra đời chậm hơn bình thường đến bốn tháng, nên sau khi sinh đã có những biểu hiện khác người. Nó biết đi khi vừa được sáu tháng tuổi và biết nói như một đứa trẻ lên năm khi mới tám tháng! Điều ấy là bất thường và kỳ lạ, nhưng vì quá thương con, quý trọng giọt máu duy nhất của chồng còn để lại, nên bà Ánh hầu như không quan tâm những gì khác, ngoài tình thương yêu dành cho con, ngày đêm nâng niu chăm sóc cho cậu quý tử của mình.

Khi thằng bé Bảo An đầy năm, bà Nguyệt Ánh chuẩn bị một lễ thôi nôi thật lớn, mời hầu như khắp mọi người trong vùng. Dẫu chồng không còn đương chức, nhất là ông đã chết, nhưng tiếng tăm của nhà họ Hoàng vẫn còn lớn, nên lời mời của bà vẫn được hưởng ứng tích cực.

Mới sáng sớm ngày lễ thôi nôi mà đã có mấy chục người từ những nơi rất xa kéo đến. Đến trưa, tức thời khắc chính thức khai tiệc thì hầu như cái khuôn viên rộng lớn của dinh thự Hoàng Nhân đã không còn một chỗ trống. Trong số khách dự có cả vị đạo sĩ áo đen lần trước. Ông lặng lẽ chen và giữa đám đông như mọi người, rồi hầu như chẳng còn thấy bóng dáng nữa...

Một đứa bé ở tuổi thôi nôi thì thông thường đều do mẹ hoặc người nhà bế ra để chào khách dự tiệc, nhưng ở đây thì khác. Bởi cậu bé Bảo An đã lớn như một đứa bé lên năm tuổi nên chính nó tự đi ra và bất ngờ đứng lên bàn cất tiếng:

- Chào bà con! Bữa nay bà con xa gần đều có mặt, trong số này có người tốt cũng có kẻ xấu, nên tôi muốn nhìn mặt kẻ xấu trước. Vậy ai là kẻ xấu hãy bước ra!

Dĩ nhiên không ai chịu nhận mình là kẻ xấu, cho nên thằng bé kêu gọi tới lần thứ hai mà vẫn chưa một ai bước ra. Chẳng những thế, trong số khách mời có nhiều người tỏ ra bực bội, tự hỏi, tại sao lại để một đứa nhóc con như thế nói năng hỗn láo, phạm thượng!

- Tư cách gì mà thằng nhỏ này lại ăn nói như thế?

Người vừa lên tiếng chính là anh rể của lão Hoàng. Tuy ông nay đã khá lớn, nên khi giận phát âm có phần run và nghẹn. Ông ta vừa dứt lời thì thằng bé phá lên cười:

- Chờ hoài cuối cùng cũng chường mặt ra. Lão tính tới đây hôm nay là nhằm mục đích khác, chứ đâu chỉ đi dự đám thôi nôi, phải không?

Bị thằng nhóc nói đúng tim đen, nên lão già tên gọi là Sáu Hết quát luôn:

- Tao tới đây đòi món nợ mà ba mày còn nợ của tao ngày trước, mẹ con bay phải trả lại cho tao!

Lão vừa nói vừa bước ra, thì ngay trước mặt bà Nguyệt Ánh và thằng bé Bảo An đưa tay chỉ vào nó:

- Thím dạy con như vậy sao? Nó là con nít, sao đủ tư cách để hoạnh hoẹ người lớn đáng tuổi cô bác nó? Kẻ xấu là sao mà người tốt là thế nào?

Bà Ánh chưa kịp đáp thì thằng bé đã hớt ngang:

- Tốt là không bòn rút nhà này, còn kẻ xấu là tìm cách chống lại nhà họ Hoàng và còn đi vu khống, nói xấu ba tôi nữa. Chính ông đã đi rêu rao là ba tôi ở ác, tham lam đủ điều, ông còn chối không?

Ông Sáu Hết giận đến run người:

- Thằng ranh con hỗn láo. Chính ba mày ngày còn làm quan đã lấy hết đất đai của tao đem bán, rồi còn vu cáo tao là phản tặc, khiến tao bị tù đày nhiều năm trời, gia đình ly tán, sản nghiệp tiêu tan, đây tay trắng lại mang bệnh sắp chết đây!

Chẳng những không nao núng, thằng bé còn ngửa mặt cười vang:

- Vui quá, lại có một thằng hề già ra làm trò! Còn ai là kẻ xấu nữa không, bước ra hết đi.

Noi gương lão Sáu Hết, có đến gần chục người nữa bước ra đứng dàn hàng ngang vừa lên lếng:

- Bữa nay chúng tôi tới đây là để đòi nợ, đòi sự công bằng. Nhà họ Hoàng phải trả ngay đất đai, tài sản cho chúng tôi!

- Còn ai nữa ra luôn!

Giọng thằng bé đầy thách thức, nó lại quay khắp hướng với nụ cười nửa miệng y như một người trưởng thành. Bỗng một người xuất hiện, người mà vừa trông thấy thì bà Ánh đang đứng cạnh con đã phải giật mình.

Đó là ông đạo sĩ mặc đạo bà đen. Bà lắp bắp:

- Ông... ông tới đây làm gì? Đâu có ai mời.

Lão vẫn bình tĩnh:

- Ở đây hôm nay chỉ có một số người được mời, còn lại là những người tới để đòi nợ như quý vị đây vừa nói. Tôi cũng đòi nợ như mọi người đây!

Thằng bé quen thói trịch thượng như nãy giờ, nó nhìn ông đạo sĩ vừa hất hàm:

- Ông bước lại gần đây coi!

Bà Nguyệt Ánh muốn ngăn con lại nhưng không còn kịp nữa, ông đạo đã bước tới và với giọng chậm rãi như thường lệ:

- Nghiệt súc quá ngông cuồng! Lần trước ta không cương quyết nên ngươi mới lọt ra đời được, còn bây giờ...

Lão đưa tay lên, từ trong tay áo rơi ra một tấm vải màu vàng, vừa chụp lấy lão vừa hô to:

- Nghiệt súc, biến!

Bị bất ngờ nên thằng bé chới với, đến khi thấy nguy nó chỉ còn biết thụp người xuống. Cũng may vừa khi ấy bà Nguyệt Ánh đã nhanh trí, lấy cả thân mình của bà đè lên con vừa bảo:

- Nằm yên!

Mọi người chỉ nghe một tiếng kêu thét lên sau đó và khi nhìn lại họ đều hốt hoảng, bởi bà Nguyệt Ánh đã nằm bất động, khoé miệng tuôn đầy máu! Trong khi thằng bé thì đã nhanh chân lủi trốn mất trong đám đông khách khứa.

Lão đạo sĩ một lần nữa thở dài:

- Trời hại nhà họ Hoàng này rồi!

Nhiều người chưa hiểu chuyện đã vây quanh ông, hỏi dồn:

- Chuyện gì đã xảy ra vậy? Liệu bà Hoàng có sao không?

Lão đạo sĩ sau khi đưa tay bắt mạch cho bà Ánh đã trấn an:

- Bà ấy không sao, chỉ bị nội thương nhẹ thôi, rồi sẽ tỉnh lại ngay mà.

Rồi lão giải thích thêm:

- Lúc nãy nếu bà ấy không che chở cho nó thì thằng con nghiệt súc kia đã phải tàn đời rồi. Tôi phải ra tay như vậy là chỉ để cứu cái nhà này khỏi hoạ diệt vong thôi. Nó là oan gia là kết tinh của bao nhiêu oan hồn uổng tử đầu thai về để hại dòng họ Hàng này táng tận, tiêu vong!

Vài người trong thân tộc vốn không rõ chuyện ác của Hoàng đại nhân ngày trước, nên tỏ ra không đồng tình.

- Dù sao thằng bé cũng là giọt máu hiếm hoi còn lại của họ Hoàng, sao ông làm như vậy?

Lão đạo sĩ lắc đầu:

- Các vị không biết đó thôi, nó đâu phải là người! Không thấy sao, mới có một tuổi mà nói năng hành động như một người lớn và còn hỗn láo, trịch tượng nữa. Nếu để nó tồn tại thì cái nhà này không mấy chốc chẳng còn gì.

- Nhưng dẫu sao...

Vừa lúc đó bà Nguyệt Ánh tỉnh lại, bà quên cả đau đớn gào khóc, kêu gọi con trai:

- Bảo An ơi, chạy đi con! Hãy chạy và trốn đi, đừng để lão ta giết con!

Lão đạo sĩ nhẹ giọng:

- Tôi không giết nó, chỉ muốn thu nạp để tách nó ra khỏi đây. Nhưng tôi đành chịu thất bại, bởi ngoài có bà đỡ cho nó còn được lũ yêu tinh đồng bọn theo rất đông, lần này tôi không làm gì được thì lần sao khó mà thành công. Thôi, tuỳ bà, tôi xin cáo từ!

Ông đi nhanh ra cửa rồi mất dạng.

Bà Nguyệt ánh hơi ngượng với mọi người, nên chống chế:

- Do nó là con cầu tự mà, nên tôi cưng chiều, khiến nó hỗn hào. Nhưng trẻ con mà, rồi mình sẽ uốn nắn nó từ từ...

Bà lủi thủi đi vào nhà, miệng cứ gào kêu tên con...

° ° °

Bà Nguyệt Ánh không chết, nhưng từ hôm đó bà hầu như hôn mê. Bảo An bỏ đi đâu mất không thấy bóng.

Nhưng trong nhà lại xảy ra những chuyện khá ly kỳ: Bọn gia nhân báo rằng ở phòng ngủ của bà Ánh đêm nào cũng có bóng người ra vào!

Bà ánh hôn mê có đến cả tuần sau. Rồi cuối cùng bà tỉnh lại trong trạng thái như người đau nặng lâu ngày. Người bà gầy rạc sụt cân đến không ngờ, trọng lượng mất đi gần phân nửa!

Người nhà kể chuyện về bóng người ra vào phòng bà mỗi đêm, bà ánh nhẹ lắc đầu bảo:

- Đâu có ai ra vào. Tôi không ăn uống, cũng không đậy được thì làm sao tiếp xúc với ai.

Khi xem tại đồ đạc trong phòng, bà giật mình:

- Sao mất hết nhiều thứ?

Bà ráng dậy, lần tới chỗ tủ đựng nữ trang tiền bạc thì bàng hoàng:

- Trời ơi. Tiền bạc... nữ trang... không còn...

Bà chỉ nói được mấy tiếng rồi lại ngất. Tôi tớ trong nhà bị nghi là thủ phạm nên cùng tập trung lại, chờ bà hồi tỉnh họ cùng thề thốt:

- Tụi con ở với bà từ lâu nay, không hề dám tham lam gì, xin bà đừng nghi oan!

Bà ánh dịu giọng hơn thường khi:

- Ta biết ai lấy rồi, các ngươi không phải lo.

Bà nói xong thì ôm mặt khóc nức nở. Đám gia nhân không hỏi, nhưng họ đều có chung nhận định như bà.

Vài người trong số họ nói với nhau:

- Thằng Bảo An chắc là ma quỷ, chứ người gì mà mới một tuổi đã lớn xác và khôn lanh như vậy? Chính nó đó chứ không ai, nó đã vào phòng bà chủ để lấy cắp tiền.

- Nhưng nó còn con nít thì lấy nhiều tiền để làm gì? Nếu có, chắc là cũng do ai đó xúi giục. Mà mấy hôm nay nó đi đâu không thấy về, hay là đã bị ông đạo sĩ bữa đó làm gì rồi?

Họ lo lắng cũng bằng thừa, bởi ngay chiều hôm đó Bảo An ra về. Nó khinh khỉnh với mọi người trong nhà, cũng chẳng lên phòng thăm mẹ, nó vào phòng riêng vốn là thư phòng của ông Hoàng ngày trước và đóng cửa lại. Khi họ đem chuyện báo lại cho bà ánh nghe, chẳng những không rầy la, bà còn dặn mấy đứa phục vụ:

- Tụi bay phải canh xem cậu cần gì thì phục vụ cho cậu. Đừng nói gì chuyện mất đồ hết.

Vú em của Bảo An là Thị Hai nhận trách nhiệm chuyện đó. Chị lên phòng gõ cửa thì từ trong, Bảo An nạt lớn:

- Để tao yên!

Thị Hai lên tiếng:

- Tôi nè cậu Hai, nếu cậu cần gì thì cứ gọi, tôi nằm ngủ ở ngay ngoài này chờ phục vụ cậu!

Giọng của Bảo An dịu lại:

- Thị Hai hả, ừ được. Mày vào đây tao bảo.

Thị Hai đã là vú nuôi nó từ lúc mới lọt lòng, cả việc bú mớm chị cũng đích thân lo, bởi chị là gái một con, từng có sữa con so rất ngon, bởi đứa con mới sinh ra của chị đã phải bỏ do bạo bệnh.

Nghe giọng điệu không bình thường của Bảo An, chị có hơi lạ, nhưng không nghĩ gì khác, chị đẩy cửa bước vào phòng.

- Gài cửa lại...

- Dạ, cậu Hai.

Việc phải xưng dạ thưa với một thằng nhóc đã là kỳ, lại còn phải nghe nó kêu mình bằng mày này mày nọ nữa, Thị Hai bực lắm nhưng ráng chịu đựng bởi thân phận toi đòi.

- Lại gần đây bóp chân cho tao coi, đi qua nay mỏi nhừ cả hai chân!

Thị Hai đẩy đưa:

- Bà kiếm cậu khắp nơi, bà khóc thương vì nhớ cậu đến phát bệnh nằm liệt giường mấy hôm nay,

Chợt nó hỏi:

- Bà ấy có hỏi gì tôi không?

- Dạ có, à mà không! Bà chỉ hỏi không biết cậu đi đâu.

- Vậy thôi sao? Còn chuyện tiền bạc...

Thị Hai ngạc nhiên:

- Cậu hỏi tiền bạc gì? Bộ cậu...

Bỗng nó phá lên cười:

- Hỏi chơi vậy chớ tôi biết bà ấy phát hiện ra vụ mất tiền, và ấy nghi cho tôi lấy! Mà haha... tôi lấy thì đã sao, bà ấy còn thiếu gì tiền ba tôi để lại nữa!

Thị Hai trố mắt:

- Cậu Hai lấy thật hả?

Thằng bé trợn mắt nhìn lại Thị Hai:

- Làm gì ngạc nhiên dữ vậy? Mày có muốn xài không tôi cho?

Thị Hai hốt hoảng:

- Cậu Hai đừng làm tôi sợ! Tôi không bao giờ dám...

Thằng bé bất thần vùng dậy, chụp lấy Thị Hai kéo về phía mình khiến chị ta không làm chủ được, phải ngã sấp lên người nó:

- Đừng làm vậy cậu Hai! Đừng...

- Nhưng chị ta đã bị Bảo An chặn ngang miệng bằng sức mạnh đáng ngạc nhiên...

- Kêu lên là tao giết chết liền. Tao đâu phải là thằng bé con Bảo An đâu, cứ nhìn lại tao coi.

Lúc này Thị Hai không còn hồn vía nữa, nhưng cũng liếc nhanh về phía nó, rõ ràng người đang khống chế chị là một ai đó khác, chứ chẳng phải Bảo An!

Tuy nhiên, giọng vẫn là giọng của nó:

- Tao đi lang thang mấy ngày nay mà tới đâu người ta cũng từ chối không cho tao vào mặc dù đó là những kỹ viện, những lầu xanh. Họ nói tao còn con nít, cấm vào!

Mà tao thì đang phát triển thành người lớn, tao muốn được cái mà người lớn có. Vậy thôi, mày chiều tao, lén lút giữa tao với mày thôi, mọi việc sẽ không ai hay... rồi tao cho tiền đời mày sẽ hết khổ, hết cơ cực. Nghe tao thì yên mà không nghe thì mày biết rồi, tao có thể giết chết bất cứ đứa nào mà tao muốn! Thế nào theo tao chứ? Hãy nói ừ đi trong khi tao còn năn nỉ...

Thị Hai chết điếng trong lòng, nói thuận thì quyết là không, mà chống cự lại thì chỉ có nước chết! Thằng tiểu quỷ này xưa nay muốn gì được nấy. Nay hình dáng nó hiện tại lại không phải là nó, mà với sức một đứa cường tráng như vậy làm sao chị chống lại được?

Đang còn lưỡng lự, bỗng có người gọi bên ngoài:

- Bà chủ kêu Hai ơi!

Chỉ chờ có thế, Thị Hai vùng ra định chạy đi, thì bất chợt thằng quỷ kéo mạnh lại, chị ta vô phương cựa quậy.

- Để tao!

Hắn nói vọng ra:

- Tao sai con Hai đi chợ rồi!

Có thể bên ngoài biết Thị Hai chưa đi đâu nhưng ai dám cãi lời. Họ lên án cho bà chủ như vậy rồi nhìn nhau lắc đầu.

Bà Nguyệt ánh thay vì rầy con, bà lại chỉ đăm chiêu một chút rồi im lặng. Từ đó, bà cũng chẳng nhắc tới số tiền bạc nữ trang bị mất.

Thằng con tiểu quỷ của bà thì đang làm một chuyện động trời ngay trong nhà mà hầu như bà không quan tâm, hay là có biết mà lờ đi...

Nửa đêm hôm đó, chính tên khốn kiếp ấy bước ra khỏi phòng rồi tỉnh như không, hô lớn:

- Con Hai chết rồi!

Khi mọi người chạy lên thì thấy Thị Hai nằm sóng sài dưới sàn, chết mà không kín thân thể! Lúc này, chính bà ánh khi nhìn Bảo An trước mặt mình cũng phải kinh ngạc, bởi đó là một thanh niên lực lưỡng chứ không phải là đứa con bé bỏng của bà!

Trong khi mọi người hãi hùng thì Bảo An dửng dưng bước ra ngoài, buông lại một câu lạnh lùng:

- Đổi phòng khác cho tôi!

Bà Nguyệt ánh cũng chiều theo:

- Đổi phòng cho cậu Hai.

Rồi bà cố bước theo con ra ngoài định nói gì đó nhưng Bảo An hình như biết mà vẫn tảng lờ, đi luôn. Người mẹ đau khổ chỉ biết nhìn theo rồi ôm mặt khóc.

° ° °

Nhờ tiền bạc và cũng nhờ mối quan hệ cũ của ông Hoàng nên chuyện động trời về cái chết của cô hầu gái bị xếp hồ sơ, không truy cứu. Bà Ánh phải tốn khá bộn. Rõ ràng là bà muốn được yên thân và cũng muốn cho đứa con trai cầu tự của mình không bị tai tiếng.

Nhưng chừng như nghiệp chướng không giới hạn đó. Chỉ một tháng sau thì chuyện gì đến đã đến!

Một buổi sáng, khi bà ánh còn đang nằm trong phòng riêng thì bên ngoài có tiếng người la hét vang. Lát sau mấy con hầu chạy vào báo tin dữ:

- Bà ơi, cậu Hai nguy rồi!

- Chuyện gì mà nguy?

Người ta kéo tới đòi bắt cậu Hai vì tội... gian dâm với vợ và con người ta!

Bà ánh vừa chạy ra đã nhìn thấy cả chục người đang ra sức xô đổ cổng rào, Cũng may, vừa khi ấy có mấy tay lính lệ của làng tới, họ chặn lại:

- Có chuyện gì thì ra nhà làng mà kiện cáo, sao lại phá nhà người ta?

Mấy người đang giận dữ đã gào lên:

- Làng xã các người bênh nhau, có thưa kiện cũng như không! Thằng tiểu yêu nhà này nó làm loạn xóm làng, gây tang tóc cho mọi người mà quân lính các người có ra tay không, hay là để yên cho nó làm tới?

Một lính lệ nói lớn:

- Sao không ra tay! Mới rồi làng đã bắt nó ra đóng gông ngoài sân làng rồi!

Anh ta quay sang bà ánh:

- Thằng con nhà bà phạm tội tày trời, hãm hiếp giết cả nhà người ta, nên bị bắt sắp giải lên quan rồi!

- Trời ơi, con tôi!

Bà ánh chỉ kêu được mấy tiếng rồi đứng như trời trồng. Lát sau, bà mới xua tay:

- Không. Không có chuyện đó! Con tôi còn nhỏ làm sao nó làm được chuyện tày đình ấy mà mấy người vu oan!

Khi mấy tên lính lệ dìu bà ra tận nhà làng thì rõ ràng trước mắt là Bảo An đang bị cùm tay chân. Vừa nhìn thấy mẹ, nó đã lồng lộn lên:

- Thả tao ra, không thì cả lũ bay phải chết hết!

Bà ánh bất nhẫn khi nhìn con trong tình cảnh ấy, nhưng bà cũng đành phải chịu thôi. Ngay trưa hôm đó, người ta áp giải thằng tiểu quỷ lên quan huyện. Người này vốn là bạn đồng liêu với ông Hoàng ngày trước, cũng muốn nhẹ tay với Bảo An. Tuy nhiên, vừa gặp mặt ông thằng khốn kiếp đã chỉ thẳng vào ông hét lớn:

- Mày phải cứu tao ra, không thì tao sẽ giết hết cả nhà mày!

Trước thái độ quá đáng của nó, bà ánh phải lên tiếng:

- Không được hỗn!

Bất ngờ, nó quay sang bà trợn mắt lên:

- Bà chết tới nơi mà còn chưa biết sao?

Huyện lệnh Đinh Liêm đập bàn quát lớn:

- Súc sinh!

Rồi ông ra lệnh cho lính lệ nọc hắn ra đánh hai chục hèo. Rất lạ là dù bị đánh toé máu, nhưng hắn vẫn gào thét chửi bới chứ không kêu đau. Bà ánh bất nhẫn quay mặt đi chỗ khác, hồi lâu khi quay lại thì người ta đã đưa Bảo An đi rồi. Hỏi thì bà được viên huyện lệnh đáp vắn tắt:

- Phải đưa ngay nó lên phủ, để người ta trị tội nó. Thằng bé này tuy tuổi còn trẻ con, nhưng hành động là người lớn nên không thể xem thườmg được.

° ° °

Do Bảo An tuổi còn nhỏ nên không ghép tội hết được, mặc dù đó là trọng tội, phải chết. Khi đưa lên phủ, họ truyền giam vài nhà lao chờ lệnh. Huyện quan Đinh Liêm muốn làm tiền nhà họ Hoàng, nên cho người tâm phúc tìm tới

nhà gặp bà Nguyệt ánh. Nhưng khi họ tới, nơi thì hay tin bà ánh đã về thành phố để khiếu nại.

Tưởng bà ta cố ý lánh mặt, nên huyện quan ra lệnh hành quyết ngay, dù đó là một lệnh trái luật. Tuy nhiên, khi lính vào nhà lao để dẫn phạm nhân ra thì chỉ còn thấy cái xác của một đứa bé nằm đó, nhưng không phải là xác của Bảo An!

Chuyện báo lên quan huyện, lão Đinh Liêm hốt hoảng đến tận nơi xem thực hư. Và lão ta chết điếng khi nhìn thấy cái xác. Đó là đứa con trai lên ba của ông ta...

- Trời ơi!

Lão kêu lên và ngất tại chỗ.

Trong khi đó thì ở bến đò nơi bà Nguyệt ánh trên đường đi kiếu kiện, đã bất ngờ gặp lại vị đạo sĩ. Bà hơi khó chịu nhưng không cách nào hơn là phải chào hỏi lấy lệ, rồi định xuống đò thì ông đạo đã lên tiếng:

- Bà đi làm gì cho mất công, Nó tới đây bây giờ.

Bà ánh nhìn lại phía sau thì thấy một xe ngựa chạy nhanh tới và thả xuống một người.

- Con!

Bảo An không đáp, chạy nhanh xuống đò và đuổi hết những người cùng đi:

- Lên hết, để tôi đi!

Mấy người kia biết nó nên vừa thấy đã muốn tránh xa. Còn lại trên đò chỉ có hai mẹ con, Nhưng thằng khốn ấy không hề nhìn mẹ nó, lại tự tay chèo con đò ra giữa dòng.

Lão đạo sĩ kêu lớn:

- Bà hãy nhảy xuống sông lội vào bờ đi, nếu không muốn chết chung với thằng đó!

Bà Nguyệt ánh đời nào chịu nghe, bà còn bước lại gần con hơn, cất giọng trìu mến:

- Làm sao con thoát ra được vậy? Mẹ lo cho con quá.

Bất ngờ tên khốn kiếp dùng tay gạt ngang, khiến cho bà ánh lảo đảo và ngã xuống sông. Đã không ra tay cứu mẹ, mà hắn con ngửa mặt lên trời cười như

điên như dại! Nhanh như chớp, lão đạo sĩ phóng xuống và nhanh tay chụp được bà ánh kéo lên.

Vừa lúc ấy, con đò mà Bảo An đang chèo chống bỗng chao đảo rồi quay tít như chong chóng. Tiếng la hét vang lên:

- Cứu tôi! Cứu!

Nhưng chẳng một ai nhảy xuống cứu. Khi con đò ngừng lại thì người ta chẳng còn thấy bóng dáng Bảo An đâu. Mặt nước chỗ gần con đò ấy có máu trào lên. Rồi mọi thứ trở lại bình yên...

Ông đạo sĩ thở dài:

- Đành thôi, chẳng còn cách nào hơn.

Bà Nguyệt ánh chợt hiểu, bàng hoàng định kêu lên, nhưng vội ngừng lại ngay. Trong đầu bà sáng ra và hiểu rằng mình không nên làm gì.

Giọng lão đạo sĩ vẫn đều đều:

- Đáng lý nó đã chết trong ngục rồi, nhưng bọn bảo hộ cho nó là lũ oan hồn cứ cố tình giải thoát cho nó, còn giết hại thêm một mạng người nữa, để cho nó ra đây gặp bà, trừ nốt người mà nó cho là cản trở việc tiêu diệt nhà họ Hoàng. Cũng may tôi đã hay được. Giờ đây thì mọi việc qua rồi, đứa con nghiệp chướng đó đã vĩnh viễn không trở lại nữa. Nó chính là một giọt máu gần ngày sinh của một người đàn bà bị chồng giết hại khi chị ta cự tuyệt sự cưỡng bức của ông Hoàng. Nó đầu thai vào là để báo oán đó.

Bà ánh không còn cố tình bênh vực cho con nữa, bà lẳng lặng nghe rồi ôm mặt khóc. Lão đạo sĩ phải an ủi:

- Bà may mắn thoát nạn rồi. Tuy rằng sau này bà sẽ chẳng còn gì cả. Nhưng ở đời đâu chỉ giàu sang mới sống được. Rồi mọi việc sẽ đâu vào đó...

Ông nói xong lại bỏ đi.

Bà Nguyệt ánh thẫn thờ một lúc rồi cũng trở về nhà.

Ngày hôm sau...

Toàn bộ gia sản của dòng họ Hoàng đều bị tịch biên bởi quan huyện Đinh Liêm. Chẳng biết có phải đó là từ trên hay không, chỉ biết là sau khi thực hiện được việc ấy thì ông ta vui lắm. Hình như đó là một việc trả thù riêng tư!

Bà Nguyệt ánh trắng tay, khăn gói trở về quê cũ. Đáng lý thất vọng lắm, nhưng tự dưng lòng bà cảm thấy thanh thản không còn vướng bận bất cứ chuyện gì nữa...

HỒN TIỂU QUYÊN

>Chuyện ông bá hộ Tung hơn bảy mươi tuổi mà còn đòi lấy vợ trẻ chẳng những làm cho cả nhà sững sờ, mà ngay như người làng cũng ngơ ngác bảo nhau:

- Ông ta có hồi xuân không mà đòi lấy gái mười tám?

Có người lại nói:

- Mà có đứa ưng thuận mới là chuyện lạ! Chắc là ham tiền, chứ con gái mà đi lấy một ông già như thế?

Nói gì thì nói, việc đã thành sự thật. Hôm đó trong buổi họp mặt gia tộc, bá hộ Tung đã long trọng tuyên bố:

Nhà này từ nay sẽ có chủ mới. Con gái của chủ nhà máy xay lúa Đồng Xanh ở cồn Cái Thia đã nhận lời và làm... má mấy đứa trong nhà này.

Người đầu tiên lên tiếng phản đối là con gái út của ông, cô út Liên:

- Nghe nói con đó mới mười tám tuổi, như vậy còn nhỏ hơn tuổi con, sao làm... mẹ tụi này được.

Bá hộ Tung trợn mắt:

- Mày kêu ai bàng con này con nọ, con kia?

Út Liên không vừa:

- Ba mà cưới nó về thì đừng trách tụi con bỏ nhà đi hết cho ba ở với nó!

Người em gái thứ sáu của ông cũng ca:

- Bộ hết chỗ lấy sao anh lấy con này về làm vợ? Mà nghe đâu bên cánh đó cũng đâu có ưng, chỉ bởi anh ép họ...

Bá hộ Tung đập bàn quát tháo vang cả nhà:

- Đừng có bàn ra. Tao cưới vợ là cưới cho tao, chứ có cưới cho mấy người đâu. Nhà cửa này là của tao, sản nghiệp này cũng do tao tạo dựng, như vậy tao là chủ, tao có quyền quyết định chuyện riêng của tao!

Thấy ông anh của mình nói đến nước đó, nên cô Sáu quay sang nói với mấy đứa cháu:

- Ba bay đã nói như vậy rồi thì tốt hơn hết là tụi con qua nhà cô mà ở. Để nhà này cho ông ấy sống với vợ "nhí" đi!

Cả ba đứa con gái đều đồng tình. Trước khi đi chúng còn nói như trối:

- Chỉ khi nào ba chết tụi con mới về để tang, chứ không bao giờ tụi con đặt chân về nhà này!

Không ngờ con cái phản ứng dữ quá lão bá hộ đành xuống nước:

- Tụi con thương ba tuổi đã già, sống cô đơn buồn quá chắc là ba mau chết!

Em gái ông nói:

- Nế vậy tôi làm mai cho anh con Tư Gấm năm nay nhỏ hơn tôi ba bốn tuổi. Nó là người đàng hoàng, từ nào đến giờ chưa lấy chồng, lại con nhà gia giáo nữa.

Ông bá hộ rùn vai, lè lưỡi:

- Cô cho tôi lạy, con vợ già mới chết, bây giờ cô lại bảo tôi đi kiếm một con... chằn cái khác về hả? Còn lâu!

Cô Sáu Nết nhún vai, lắc đầu:

- Anh hết thuốc chữa rồi!

Mấy cô cháu dắt tay nhau ra khỏi nhà Lão bá hộ nhìn theo dửng dưng. Tuy nhiên, khi họ đi hết rồi thì ông chợt cảm thấy trống vắng. Kể từ ngày vợ chết cách ba năm trước, bề ngoài thì lão có vẻ là người chung tình, nhưng thật ra lão là người trăng hoa khó ai bì! Cho đến khi một sự tình cờ, lão được người mách cho cô gái tân tên là Tiểu Quyên. Đúng hơn là có người mai mối.

Một bà mai có cỡ. Chính bà ta tìm tới gặp riêng lão và tiếc lộ:

- Ông bá hộ bộ tính chết già trong cô độc hay sao vậy?

Bá hộ Tung ngao ngán lắc đầu:

- Nghe tới vợ con là phát ngán rồi! Sống một mình thấy khoẻ hơn.

- Nhưng vợ là vợ già chứ còn... nàng hầu, đào "nhí" thì phải khác chứ!

Và ngay lập tức, mụ ta mách:

- Bá hộ biết chủ nhà máy xay lúa Đòng Xanh ở bên cồn Cái Thia không?

- Biết. Nhà máy xay lúa thuộc loại lớn nhất vùng này?

Mụ ta cười phá lên:

- Ai hỏi về sự lớn nhỏ của nó làm gì. Bởi có lớn, có giàu gì thì cũng chỉ bằng cái móng tay của ông mà thôi.

- Tôi hỏi là hỏi đứa con gáỉ hoa nhường nguyệt thẹn của nhà đó kìa!

Bá hộ Tung ngạc nhiên:

- Thì cũng mắc mớ gì tôi? Hình như là nhà đó có đứa con gái năm rồi tính đưa đi dự thi sắc đẹp ở Tây đô thì phải.

Mụ mai vỗ tay:

- Đó đó. Cái đáng nói là ở đó đó!

Rồi mụ ta kề tai nói nhỏ:

- Ông có muốn có con nhỏ đó để hết cô đơn không?

Đúng là đưa mở đúng và miệng mèo! Lão bá hộ có sụm chân đi nữa mà nghe giới thiệu món ngon như thế cũng phải ứa nước dãi:

- Nó chịu tôi sao?

Mụ ta nheo mắt:

- Chịu ngang xương thì đời nào nó chịu. Nhưng... phải có những cái khác thường thì mới gọl là bá hộ Tung chớ!

Vẫn thầm phục cái tài xúi người này, giục người kia của mụ ta, nên ông bá hộ hỏi khẽ:

- Có cách nào?

Lúc này mụ mới mới nói thẳng ra:

- Số là thằng cha chủ nhà máy xay lúa đó vừa bị vỡ nợ, thiếu nhà băng số tiền khá lớn, sắp bị xiết nợ mất cái nhà máy xay. Cho nên nó mới... bán đứa con gái mà trả nợ.

- Bán con gái? Có phải cái cô đi thi sắc đẹp không?

Mụ mai lại vỗ đùi:

- Còn ai vào đó nữa! Và chỉ có ông thôi...

Trong lúc bá hộ Tung còn chưa rõ thì mụ ta đã giải thích rành rọt như người trọng cuộc:

- Chỉ cần ngài bỏ ra nửa vạn bạc là xong. Đó là số tiền cha cô nàng thiếu nợ nhà băng!

Nghe tới số tiền quá lớn, lão bá hộ phát hoảng:

- Số tiền trị giá ba bốn trăm lượng vàng đâu phải chuyện chơi!

Mụ mai hạ thấp giọng ra vẻ quan trọng:

- Bởi vậy tôi mới nói chỉ có mình ông là tính được! Nhiều thì có nhiều, nhưng để có được người đẹp như tiên giáng trần đó thì... cũng đâu có quá mắc.

Lão bá hộ đã bắt đầu nao núng:

- Sao bà biết họ chịu đổi con?

Mụ mai đánh đòn quyết định:

- Được hay không là do tài của con Tư Tắm này mà, ông bá hộ!

Rồi mụ ta nói chi tiết hơn:

- Vừa rồi chính thằng chủ nhà máy chạy qua cậy nhờ tôi nói giùm ông bá hộ. Nếu ông đồng ý giải nguy cho ông ta bằng cách trả cho nhà băng số tiền nợ đó, thì đổi lại ông ta sẽ cho con gái về làm thứ thiếp cho ông. Nói thứ thiếp cho có vẻ, chứ đó là làm bà bá hộ nhí cho ông đó!

Mắt lão bá hộ sáng lên nhưng vẫn còn e dè:

- Biết cô ấy có thuận không?

- Miễn là ông chịu thì giá nào cũng xong!

- Nhưng mà...

Lão ta nhẩm tính và im lặng hồi lâu. Cuối cùng đã gật đầu. Thế là mụ mai Tư Thắm phấn khởi nói:

- Ông chờ đó, chỉ trong vòng hai mươi bốn giờ là xong.

Mụ ta nói đúng. Bởi qua chiều hôm sau thì có tin tốt:

- Ông chuẩn bị tiền đi, xong rồi!

Một cuộc gặp mặt giữa bá hộ Tung và chủ nhà máy xay Mười Lực, với lời giao ước:

- Giải nợ nhà băng xong thì lập tức tổ chức đám cưới!

Bá hộ Tung muốn chắc ăn hơn, đã ra điều kiện:

- Phải cho tôi gặp mặt cô Tiểu Quyên trước, chỉ cần một lời hứa của cô ấy thôi thì bao nhiêu tôi cũng chi!

Dĩ nhiên Tiểu Quyên không chịu! Cô khóc oà lên khi nghe cha nói thẳng ra ý định và cương quyết nói:

- Nếu cha bắt ép con lấy lão ấy thì con sẽ cắn lưỡi chết ngay lập tức!

Biết con mình nói là làm, nên Mười Lực phải cầu viện tới bà mụ tư Thắm, mụ này bày mưu:

- Tôi đã lường trước rồi. Phải như thế này thì mới xong...

Mụ ta bày trò như thế nào đó mà ngay ngày hôm sau, Mười Lự đã ngã bệnh nặng, đồng thời có một lũ đầu trâu mặt ngựa kéo tới đòi đốt nhà máy xay, nếu không trả nợ kịp thời.

Lúc đầu Tiểu Quyên không quan tâm chuyện gì đang xảy ra. Tuy nhiên, khi gia nhân báo tin cha bệnh nặng, rồi nhà máy bị hăm đốt, côn đồ kéo tới đông như kiến thì cô gái đáng thương phải rung động. Cô chạy đi tìm cha thì thấy ông nằm thoi thóp trong phòng, ông ra dấu cho con tới bên cạnh rồi nói như trối trăng:

- Nếu cùng lắm thì con hãy châm lửa trước, đốt nhà này, đốt luôn cả nhà máy, không để cho chúng nó chiếm lấy. Còn phần con thì hãy đi về quê nội tạm lánh thân, sau sẽ tính...

Ông nói trong hơi thở dồn dập khiến cho Tiểu Quyên hoảng sợ:

- Cha! Vậy cha hãy đi đi, con sẽ cho người mang cha ra khỏi nhà, phần con thì...

Cô muốn nói là sẽ ở lại tử thủ, dẫu cho có tự thiêu trong biển lửa cũng cam đành nhưng lời cô chưa dứt thì ông Mười Lực đã quát lớn:

- Hãy mau đi đi, tụi nó kéo tới đây bây giờ! Vừa nói ông vừa tung mền ngồi dậy và lao thẳng vào tường như hành động tự sát!

Tiểu Quyên lao theo cha, gào lên:

- Đừng cha ơi! Con, con.. nghe theo cha. Con...

Rồi nàng ta ngất đi. Mọi việc trở lại bình thường ngay sau đó. Kể cả bọn đầu gấu hung hăng cũng tự động rút đi...

Thì ra đó là màn dàn cảnh của mụ Tư Thắm. Mười Lực cũng là con rối của mụ. Vậy mà kết quả lại vô cùng mỹ mãn.

Khi Tiểu Quyên tỉnh lại, chính cô đã nói với cha:

- Cha hãy gọi lão bá hộ tới đây. Con muốn nói chuyện với lão ta trước khi cử hành hôn lễ!

Không biết Tiểu Quyên đã nói gì, mà sau do bá hộ Tung đã xuất ngay số tiền lớn để giải nợ nhà băng cho cha cô. Mọi việc xong xuôi rồi, cô mới bảo mọi người:

- Hãy chuẩn bị đám cưới!

° ° °

Nguyên cái đám cưới giữa một ông bá hộ 75 tuổi với một cô hoa khôi 18 tuổi đã là một tin hấp dẫn, còn cộng thêm tin đồn là sẽ có biến cố ngay trong ngày cưới bởi một chàng trai, người yêu của cô dâu, sẽ xuất hiện phá đám cưới, nên trên quãng đường vài cây số, đã có hàng ngàn người đứng chật hai bên đường để chờ xe hoa đi qua.

Nhưng họ phải thất vọng, bởi xe đưa dâu được đưa từ Sài Gòn về, là loại xe mui kiếng bít bùng, cô dâu ngồi trong xe thì như toạ trong thành trì kiên cố, người ngoài nhìn vào không thấy. Và có lẽ đoán trước tình hình bất ổn, nên lão bá hộ đã mướn trên hai chục võ sĩ của các lò võ Thiếu lâm ừ Chợ Lớn về hộ tống hai bên đoàn xe hoa. Bởi vậy đoàn xe đưa dâu đi qua yên lành chẳng hề có chuyện gì xảy ra.

Trên chiếc xe rước dâu, lão bá hộ diện nguyên bộ âu phục màu mỡ gà nên trông trẻ ra... vài tuổi. Ngồi bên cạnh là cô dâu, đầu trùm kín trong một vuông lụa màu đỏ giống như phong tục của người xưa.

Suốt quãng đường đi, cô dâu chú rể không hề nói với nhau lời nào. Khi đến nơi, trước khi bước xuống xe cô dâu mới lên tiếng, đủ cho bá hộ Tung nghe:

- Ông đă hứa với tôi rồi, phải ba tháng sau ngày cưới ông mới được phép bước vào phòng tôi. Có nghĩa là phải qua ba tháng tôi mới chính thức trở thành vợ ông! Vậy lát nữa đây, tôi sẽ vào luôn phòng riêng, không xuất hiện chào hai họ và cũng không dự tiệc cưới. Ông cứ nói là tôi bị bệnh bất ngờ cần nghỉ ngơi. Nhớ đó!

Nhìn thấy mọi người chờ đợi ở sân nhà quá đông, hình như họ muốn nhìn mặt cô dâu, khiến bá hộ Tung bối rối:

- Người ta đón đông quá như vậy làm sao? Hay là em cứ lên tiếng phía bên trong cái mạng che cũng được, cho họ một tiếng?

Nàng đáp cụt ngủn:

- Không!

Cũng may, vừa khi ấy thì có bà mai Tư Thắm xuất hiện. Bà ta rất nhanh trí, đã cho hai người đi kè bên cô dâu, vừa đi vừa hô lên:

- Cô dâu bị mệt, mau đi vào phòng trong nghỉ ngơi!

Nhờ vậy mà thoát được cảnh bẻ mặt trước đám đông. Và cũng nhờ vậy mà sau đó có cớ nói với bà con hai họ:

- Cô dâu bị bệnh bất ngờ, bây giờ phải nằm trong phòng chờ hồi phục sức khoẻ!

Đích thân mụ Tư Thắm phải trổ tài miệng lưỡi thì mới qua được chuyện cô dâu làm thủ tục lạy gia tiên và chào hai họ. Thiên hạ bàn tán xôn xao nhưng cuối cùng cũng có người nói:

- Mấy đứa dâu trẻ nó làm bộ làm tịch như vậy đó, phải chịu thôi!

Lão bá hộ tức lắm, nhưng vì đã trót hứa rồi, nên cũng đành ráng chịu đựng. Lão ta dặn mấy tên gia đinh:

- Tụi bay canh kỹ bên ngoài, đừng để ai làm phiền giấc nghỉ ngơi của... bà!

Đám gia nhân đưa mắt nhìn nhau cười lén. Lão bá hộ biết thế nhưng có lẽ lúc này trong đầu lão chỉ nôn nao có một chuyện là làm thế nào được sớm gần người đẹp, cho nên lão không bắt lỗi bọn kia. Lão cũng quên cả việc uống rượu mừng mà khách khứa, bạn bè đang chờ ngoài nhà khách.

Đến khuya hôm đó, đích thân lão bưng cơm vào gõ cửa người đẹp:

- Mình ơi, dậy ăn chút rồi ngủ!

Tiếng xưng mình của lão khiến những gia nhân đứng chung quanh không thể nhịn được cười. Và hậu quả là lão ta nổi điên lên, đuổi cổ mấy tên đi khỏi chỗ đó. Còn lại một mình, lão ra sức kêu nhiều lần nữa mà bên trong vẫn không có tiếng đáp, cũng chẳng có động tĩnh gì, như là không có người trong đó!

Quá lo sợ, lão đập mạnh cửa! Vẫn im phăng phắc. Lão nói to, cố ý để cho bên trong nghe:

- Tụi bay lấy búa để tao phá cửa coi nàng có việc gì trong đó không!

Quả nhiên có tác dụng. Cửa nhẹ hé mở và một giọng nói yếu ớt phát ra:

- Có gì đưa vào đây.

Lão bá hộ mừng quá vừa đưa mâm cơm vào vừa nói:

- Mình có mệt không để ta đấm bóp cho!

Lão nhận ngay một tiếng xì dài rồi cửa phòng đóng sầm lại ngay! Vẫn không thất vọng lão nói với vào:

- Tôi ở ngoài này, có gì thì gọi!

Và đêm đó, lão bắc ghế dựa nằm ngay ngoài cửa phòng, mặc dù đã mệt nhừ sau một ngày tất bật. Do đám con cái đã tẩy chay bỏ nhà đi, nên sau khi khách khứa ra về hết, cả đám gia nhân cũng bị lão cho tạm về nhà mấy bữa. Chỉ còn lại trơ trọi một mình trong nhà, lúc ấy lão mới thấm thía nỗi cô đơn.

Đêm đầu tiên, lão biết thế nào là cảnh chú rể nằm chèo queo ngay trông đêm tân hôn!

Và qua đêm thứ hai...

Suốt ngày qua, dù lão nói cách gì người đẹp cũng không ra ngoài. Mâm cơm lão đưa vào hôm qua được đưa ra y nguyên, nàng không đụng đến miếng nào!

Lão bá hộ thật sự lo:

- Mình làm gì cũng phải ăn uống, chứ nhịn như thế này làm sao chịu nổi?

Nàng vẫn im lặng. Trưa hôm đó, lại một mâm cơm nữa được đưa vào rồi đẩy ra mà không hề đụng tới chút nào.

Qua ngày thứ ba...

Lúc này lão bá hộ phải xuống nước:

- Nàng muốn gì cũng được, kể cả việc ta để nhà này cho nàng ở một mình ta đi chỗ khác. Chỉ yêu cầu nàng ăn uống để mà sống!

Nàng vẫn im lặng. Lão không còn nhẫn nại được nữa, phải dùng sức tung cửa ra. Phải tưng đến lần thứ ba thì cánh cửa mới bật mở, và... lão há hốc mồm kinh hãi! Bởi đang nằm trên giường không phải là Tiểu Quyên, mà lại là... út Tiên, con gái của lão!

- Trời ơi, sao vậy nè?

Lão hô lên, nhưng do đám gia nhân tạm nghỉ việc hết, nên cuối cùng lão phải đích thân bế xốc con gái mình dậy trong tình trạng hầu như chỉ còn thở rất yếu.

Nửa giờ sau, nhờ sự tận tình cứu chữa của mấy người hàng xóm, út Liên mới tỉnh lại. Cô nàng ngơ ngác khi nghe cha mình hỏi:

- Sao con lại ở trong phòng đó, còn... nàng đâu?

Liên chỉ biết cô đang ngủ nhà bà cô, không hề hay biết tại sao lại ở đây?

Còn lão bá hộ thì gần như điên tiết lên khi hỏi mà chẳng ai biết Tiểu Quyên ở đâu. Lão gầm lên:

- Nó trốn về nhà rồi!

Mặc dù lão biết trong căn phòng đó không làm cách nào nàng ta trốn đi đâu được, bởi không có cửa sổ cũng không có bất cứ lối đi nào khác, ngoài cửa phòng ra vào duy nhất. Lão nhất quyết chạy trở qua nhà cha mẹ Tiểu Quyên để tìm.

Nhưng vừa bước ra tới sân thì lão thấy một thanh niên lạ bước vào. Anh ta hất hàm hỏi trịch thượng:

- Tiểu Quyên đâu?

Đang căng thẳng vì lo, lão bực dọc quát:

- Mày là ai?

Chàng trai vẫn bình tĩnh bước thẳng vào nhà mà không đếm xỉa tới lão.

- Nè, thằng kia...

Lão vừa nói thì bỗng cảm giác như bị ai đó tát mạnh vào má mình hai cái liền! Lão ngơ ngác:

- Ai... ai vậy?

Quay một vòng không thấy ai, lúc đó thì chàng trai đã bước hẳn vào phòng khác. Lão phải chạy theo vừa lặp lại câu hỏi:

- Mày kiếm ai?

Anh chàng đáp cộc lốc:

- Tiểu Quyên.

- Mày là ai mà... mà...

Câu nói vừa phát ra thì cũng là lúc anh ta xông thẳng vào căn phòng đang mở toang cửa. Nhìn chẳng thấy ai, anh ta quắc mắt hỏi lớn khiến lão Tung phải giật mình:

- Cô ấy đâu? Tiểu Quyên đâu?

Lão Tung chưa kịp đáp thì đúng lúc ấy ngoài cổng có nhiều tiếng chân ngựa chạy rầm rập vào, cùng với tiếng hỏi lớn:

- Có nhà không ông bá hộ?

Người chạy vào đầu tiên là Mười Lực. Không để ý gì khác, ông hỏi dồn:

- Con gái tôi đâu?

Lão bá hộ quay sang chàng trai lúc nãy định chỉ anh ta thì vô cùng ngạc nhiên, bởi anh chàng đã... biến đi đâu từ lúc nào rồi!

Thấy lão có vẻ lúng túng, Mười Lực nghi hoặc:

- Ông đã làm gì con Tiểu Quyên nhà tôi rồi?

Không còn còn cách nào hơn, lão ta đành phải nói thật:

- Cô ấy ở trong phòng suốt hai hôm nay, rồi lúc nãy tôi mở cửa phòng ra thì chẳng thấy đâu mà thay vào đó là con gái tôi!

Mười Lực có linh tính điều chẳng lành nên run lên:

- Chết con tôi rồi!

Rồi ông ôm đầu rên rỉ:

- Phải biết như vậy thì tôi đâu có ép gả con mình! Tiểu Quyên ơi, vì ba mà còn bây giờ chẳng biết ra sao, còn thằng Quân thì đã chết sau khi con lên xe hoa. Trời ơi!

Đang rối trí mà nghe Mười Lực nói. Lão bá hộ phải hỏi lại:

- Quân nào? Ông nói Quân nào?

Mười Lực không giấu giếm:

- Quân là người yêu của con gái tôi. Đáng lẽ tụi nó sẽ cưới nhau vào Tết này, nhưng do tôi ép Tiểu Quyên, nên chúng nó phải chia lìa nhau. Vừa rồi khi hay tin con Quyên đi lấy chồng, thằng ấy đã đập đầu vào vách nhà máy xay lúa mà chết rồi!

Lão bá hộ không tin vào tai mình:

- Quân! Nó... nó mới vừa ờ đây!

Mười Lực như bị điện giật:

- Cái gì? Ông nói sao? Thằng Quân...

- Nó mới vừa ở đây. Nó cũng nói là đi tìm Tiểu Quyên. Ông bước vào nó mới... biến mất!

Mười Lực nói như người bị tâm thần:

- Lạy trời... lạy trời xin đừng làm gì con gái tôi. Lạy trời...

Rồi ông lạng choạng bước ra cửa, vừa đi vừa cất tiếng gọi:

- Quyên ơi! Quyên!

Tiếng của ông chìm vào không gian đang lặng gió...

Bá hộ Tung gục xuống ôm đầu rên rỉ:

- Tôi đã làm gì thế này? Tôi gây ra chuyện gì đây?

Ông chợt nhớ tới con gái mình và bàng hoàng bật dậy lao đi:

- Liên ơi! Con ơi...

° ° °

Những gì hiện ra trước mắt đã khiến cho bá hộ Tung càng bàng hoàng hơn. Xác của Quân vẫn còn nằm đó với cái đầu đầy máu. Điều này có nghĩa là...

Giọng của bà mẹ Quân như xé nát con tim lão bá hộ:

- Nó thương con Tiểu Quyên, nó muốn sống đời với con nhỏ, mà con nhỏ cũng thương nó, bất kể giàu nghèo. Vậy mà người ta đành đoạn chia lìa tụi nó ra, để bây giờ xảy ra thảm cảnh này. Trời ơi, Quân ơi!

Bà không biết mặt bá hộ Tung, nên đứng bên lão ta mà vẫn nói như lời kết tội của một quan toà:

- Họ ỷ mình giàu nên làm những chuyện thường luân bại lý mà cũng làm được! Một thằng già đáng tuổi ông nội ông ngoại mà ép duyên một đứa con gái mới lớn, mà sao trời không có mắt, cứ để cho nó xảy ra, hả trời...

Một người đứng cạnh đó, lên tiếng:

- Thằng cha ruột của con Quyên còn đáng trách hơn. Lão Mười Lực này mắc nợ quá rồi hoá điên, không còn lý trí gì hết nỡ đem con mình đưa vào chỗ chết! Giờ đây chẳng biết đã sáng mắt chưa.

Trong khi đó, người ta phát hiện có một xác chết treo lơ lửng ở gốc cây đa ngoài đầu làng. Một người chạy về báo cho Mười Lực:

- Con Tiểu Quyên tự tử chết ngoài kia kìa.

Không có Mười Lực ở đó, lão bá hộ nghe vậy vội vã chạy đi, vừa hớt hải kêu lên.

Tiểu Quyên. Tiểu Quyên ơi...

Nhưng lão ta đúng là không có duyên trùng phùng với Tiểu Quyên, nên khi lão vừa chạy tới thì hai người hàng xóm khiêng xác Quyên về tới. Cô gái đáng thương đã chết thật rồi, thi thể lạnh ngắt.

Đặt hai thi thể nằm sóng đôi nhau giữa nhà, khiến mọi người chứng kiến đều bất nhẫn, không cầm lòng được phải bật khóc. Nhất là bà mẹ của Quân, bà gào lên từng hồi:

- Con ơi, thương nhau mà khi sống người ta đã chia lìa tụi bay, phải đến khi chết mới được bên nhau như vậy, thê thảm quá trời ơi!

Có một người vừa ở bên nhà bá hộ Tung chạy về, họ báo tin:

- Con gái út của lão bá hộ cũng bị trời hại chết rồi!

Bá hộ Tung lúc ấy vừa trở lại, đang đứng ở ngoài, nghe tin đó đã rụng rời, phải cố lắm mới lê bước vào nhà được.

Út Liên không còn nằm ở đó nữa, lão bá hộ thẫn thờ một lúc rồi lại rời khỏi nhà, lão đã đoán nơi con mình được đưa đến.

Khi lão qua tới nhà của cô em giá thì quả thấy mọi người đang xôn xao trong nhà. Vừa trông thấy lão cô Sáu Nết đã kêu lên:

- Con gái anh nó ra nông nỗi này mà anh còn không biết sao?

Lão Tung nhào tới ôm xác con, gào lên:

- Con ơi!

Bất ngờ Út Liên mở mắt ra nhìn lên ngơ ngác. Cô Sáu đứng bên vừa mừng vừa sợ, la lên:

- Con Liên sống lại rồi!

Ngồi bật dậy như người sau một giấc ngủ say. Liên nhìn cha mình và bỗng sợ hãi lùi lại, hai tay ôm lấy ngực như một người thủ thế, sợ bị tấn công! Lão Tung phải lên tiếng trấn an:

- Ba đây con! Ba xin lỗi con, ba biết mình sai rồi, ba xin hứa...

Thái độ của ông có tác dụng phần nào giúp cho Liên lấy lại bình tĩnh, cô quay sang cô mình rồi ôm chầm lấy.

Cô Sáu lên tiếng:

- Có cô đây con, Ba con cũng biết lỗi rồi. Vả lại giờ đây thì con nhỏ đó cũng đã chết rồi. Mình không trách nó, chỉ tội nghiệp thôi. Để rồi cô sẽ qua tận nhà nó lo tang lễ cho đàng hoàng, như chuộc lỗi với người ta.

Lão bá hộ cũng nói:

- Tiền tôi bỏ ra trả nợ cho cha cô ấy coi như là món quà để chuộc tội. Tôi sẽ xin cô ấy...

Ông nghẹn lời không nói tiếp được. Liên chừng như hài lòng với cử chỉ đó, cô siết chặt tay cô Sáu và rồi quay sang nhẹ giọng với cha:

- Con hiểu, con không giận ba.

Thế là từ bi kịch đã chuyển thành niềm vui lớn của nhà bá hộ. Trong niềm vui tột cùng đó, không ai để ý thấy cái nhìn của Liên về phía cha mình có cái gì đó khang khác.

Lão Tung đề nghị:

- Bây giờ không còn gì để con và mấy chị con giận ba nữa, thôi ta về nhà chớ!

Út Liên nói khéo:

- Ba về trước, để con ở chơi với cô Sáu, chiều chúng con về.

Lão bá hộ ra về một mình trang tâm trạng buồn vui lẫn lộn. Trong trái tim thầm kín, lão vẫn nhớ và tiếc Ttểu Quyên.

Chỉ mới được giới thiệu qua một lần mà tự dưng lão Tung có cảm tình ngay với chàng trai lạ mà người bạn dẫn tới. Lão nhìn anh ta một lúc nữa rồi hỏi:

- Cháu nói là người ở đâu

Tân, tên chàng trai lễ phép thưa:

- Dạ thưa bác, cháu ở Ô Môn, Cần Thơ.

- Cháu có bà con với ai ở xứ này?

Ba Kiệm, người bạn lâu năm của lão Tung phải trả lời thay:

- Nó là cháu ruột, kêu vợ tôi bằng cô. Nó vừa thi đậu bằng Diplomma chuẩn bị vào học trường Thông ngôn ở Sài Gòn.

Họ đang nói chuyện thì Út Liên từ nhà sau bước lên, chợt kêu lớn:

- Anh Tân! Sao anh biết đây mà tìm?

Hai người lớn còn đang ngơ ngác thì Liên đã giải thích:

- Lúc con học ở Cần Thơ đã quen với Tân.

Người mừng nhất có lẽ là lão Tung, lão nói thẳng ý của mình:

- Ngẫu nhiên mà hai đứa nó quen nhau vậy nếu cháu Tân đây chưa có mối nào thì...

Liên ngượng, nên chạy vào nhà, vừa nói:

- Ba này!

Ba Kiệm nhẹ giọng:

- Hôm nay tôi dẫn nó qua đây có ý để ra mắt cho anh biết mặt. Không ngờ tụi nó lại quen biết trước, thật đúng là duyên nợ.

Thế là chỉ một lời hứa, hai bên đã đồng ý với nhau sẽ tiến hành hợp tác cho Liên và Tân. Dĩ nhiên anh chàng Tân không thể nào từ chối chuyện này...

Một tháng sau...

Đám cưới của Liên và Tân được tổ chức trọng thể. Nhà bá hộ lo hết mọi việc. Do Tân mồ côi cha mẹ nên Ba Kiệm đứng ra lo bên họ đằng trai.

Nhưng có một biến cố thật bất ngờ, không ai nghĩ tới.

Ngay trong ngày cử hành hôn lễ thì lão bá hộ Tung bỗng lăn đùng ra chết mà không hề có bệnh tật gì.

Đám cưới cử hành được ba ngày thì hai người con gái lớn của ông bá hộ bỗng khăn gói chuẩn bị ra khỏi nhà.

Mỹ Dung cô chị cả vừa lo sợ vừa hấp tấp nói với cô em kế Kim Lan:

- Tối qua lại thấy nữa, không thể ở lại được đâu!

Kim Lan cũng nói:

- Vong hồn hai dứa nó cứ đòi mình phải bỏ nhà này, nếu ở lại thì nó giết chết! Mà nghĩ lại thì mình cũng nên qua bên cô Sáu mà ở cho rồi, bây giờ ba chết, đâu còn ai! Con Liên thì... sao kỳ kỳ... nó cứ phớt lờ mình đi!

Mỹ Dung giục em:

- Đi nhanh lên, cái nhà này bây giờ tao có cảm giác toàn là hồn ma không hà!

Họ ra đi mà không màng gì tới chuyện quyền lợi, tài sản. Và đó là một quyết định đúng. Bởi chỉ một buổi sau khi họ rời khỏi nhà thì Út Liên đột ngột phá bỏ bàn thờ bá hộ Tung đi. Cô ta nói với chồng:

- Mình không ác, nhưng dẫu sao dẹp hết chướng ngại vật này cũng là phải đạo. Thờ một kẻ đã hại đời mình trong nhà thì làm sao mình có thể an tâm mà sống.

Cô ta cho người gói tất cả lư hương, ảnh thờ của lão Tung, gửi sang nhà cô Sáu Nết với lời nhắn:

- Đừng bao giờ đem trở lại!

Từ hôm đó, cuộc sống của Liên và chồng trở nên cô lập với mọi người. Không bao giờ người ta thấy đôi vợ chồng trẻ này bước ra khỏi nhà. Họ cũng không thuê mướn người giúp việc. Bởi vậy có người tự hỏi, họ sống bằng gì hằng ngày khi không chợ búa. mua sắm.

Ba tháng sau...

Tình cờ, chị người làm cũ của nhà bá hộ, một hôm lẻn vào nhà để lấy một món đồ mà hồi trước khi thôi làm chị ta bỏ quên, nên đã mục kích một chuyện mà chị ta sững sờ: Anh chồng đã gọi Út Liên bằng Tiểu Quyên và cô này cũng gọi lại anh ta là Quân.

Chị này đem chuyện sang nhà cô Sáu Nết kể lại cho mọi người nghe thì ai nấy đều sửng sốt. Tuy nhiên, chị vừa kể xong thì hộc máu tại chỗ và trở thành người điên loạn từ đó!

Tìm hiểu cặn kẽ hơn người ta phát hiện một sự thật:

- Út Lên và chồng thật ra là vong hồn của Quân và Tiểu Quyên nhập vào. Họ đã trả thù và được toại nguyện...

Tuy biết vậy, nhưng do sợ hoạ lây, nên từ đó mọi người không ai dám hé răng kể lại với người khác...

° ° °

Vừa nhìn thấy cô giáo bước vào nhà thì bà Phán Sử đã hài lòng ngay, bà khều con dâu nói khẽ:

- Con nhỏ này được đó con, coi bộ thuỳ mị, kín đáo, chứ không như mấy con trước đây cứ ăn mặc như sắp đi hẹn hò với trai vậy,

Liên Hương cũng đồng tình:

- Cô này thấy tướng đi cũng biết con nhà có giáo dục. Cô mặc chiếc áo dài kín đáo mà đẹp quá. Không phải là con nhà giàu mà tướng quý phái ghê!

Bà Phán hỏi đùa:

- Con học làm thầy bói bao giờ mà vừa nhìn người đã biết là giàu nghèo rồi?

Liên Hương cười:

- Dễ thôi má, nếu con nhà giàu, thì ai chịu khó đi dạy thêm!

- Ờ há.

Mẹ con bà vừa nói xong thì cô gái đã dẫn xe đạp vào tới thềm nhà, nhìn thấy hai người cô lễ phép cúi đầu chào:

- Dạ, cháu chào bác, chào chị.

- Chào cô giáo. Có phải cô là người mà bên nhà thầy Tú giới thiệu không?

- Dạ phải. Cháu là Cẩm Hà, cháu tới để...

Liên Hương có cảm tình ngay với cô ta, nên đứng dậy đon đả nói:

- Mời cô giáo vào nhà rồi nói chuyện. Nghe bác Tú nói nhưng tôi không tin là cô còn quá trẻ như vậy. Chắc là cô...

Có lẽ sợ bị chê ngay từ phút đầu gặp gỡ, nên Cẩm Hà đã vội lên tiếng:

- Em đã hai mươi mốt tuổi rồi ạ.

Bà Phán cười vui:

- Hai mươi mốt mà đã già lắm sao? Mới bằng tuổi con gái út tôi. Phải chi nó...

Bà đang nói tới đó thì chợt ngừng lại và như nghẹn lại, Liên Hương phải chen ngang vào:

- Má lại nhắc tới cô út rồi, để con lấy nước mà uống.

Sau khi rót nước cho bà mẹ chồng xong, Liên Hương quay sang bảo cô giáo:

- Cô theo tôi lên lầu, các cháu có phòng riêng trên đó.

Quay lại bà Phán, Cẩm Hà lễ phép:

- Cháu xin phép bác.

Bà Phán đang cố nén cơn xúc động đang chợt trào dâng, nghe cô gái chào, bà ngẩng lên và bỗng giật mình khi nhìn thấy cô từ phía sau, bà kêu lên khẽ:

- Sao giống con Thu Hường như đúc vậy?

Thu Hường là cô con gái út mà bà vừa chợt nhắc và phát xúc động. Cô gái đã chết!

Vô tình Cẩm Hà đâu có biết, cô bước đi chầm chậm theo sau Liên Hương lên lầu và mỗi bước đi của cô lại càng khiến cho bà Phán Sử tưởng chừng như nhìn thấy con gái mình tái sinh!

Mãi đến lúc Cẩm Hà đã khuất trên cầu thang rồi mà bà vẫn còn ngẩn ngơ nhìn theo. Tuy gương mặt giống ít có lẽ do Thu Hường là con nhà giàu ăn sung mặc sướng, trắng da dài tóc, còn cô gái này con nhà nghèo, da hơi đen, nhưng sao có người lại có dáng đi giống con gái bà đến như vậy! Bà lẩm bẩm:

- Phải chi nó còn sống...

Bà lại khóc!

Lúc Liên Hương trở xuống, cô khoe với mẹ chồng:

- Cô giáo đồng ý dạy luôn bữa nay đó má. Và có điều này nữa con có ý này thì đúng hơn, con muốn mời cô ấy ở lại đây luôn để tiện việc dạy tụi nhỏ. Cô ấy đang đi học Văn khoa, má thấy có tiện không?

Bà Phán reo lên:

- Ôi, còn gì bằng! Nhà đơn chiếc quá, có thêm được người như cô tới ở thì má con tôi vui lắm! Vậy ý cô giáo thế nào?

Cẩm Hà hơi ngập ngừng:

- Vừa rồi chị Liên Hương có ngõ ý, cháu...

Bà Phán giục:

- Nhận lời đi cô! Tôi nói thật đó, ý con dâu tôi cũng là ý của tôi mà.

Cẩm Hà có phần xiêu lòng:

- Dạ, cháu sẽ tính. Còn ngay lúc này, cháu sẽ chờ các em dậy và sẽ bắt đầu luôn.

Không giữ ý, bà kéo tay Cẩm Hà ngồi xuống bên cạnh, giọng trìu mến:

- Nói thật với cô, kể từ khi con gái tôi mất...

Liên Hương sợ bà lại xúc động nên lại xen vào:

- Má đừng có...

Nhưng bà đã bình tĩnh xua tay:

- Má không sao đâu, để má nói chuyện với cô giáo.

Cuộc trò chuyện giữa một già một trẻ chẳng mấy chốc đã trở nên thân thiết, cảm thông. Cuối cùng chính Cẩm Hà đã vui vẻ nhận lời:

- Cháu cám ơn bác và chị Liên Hương. Vâng, ngày mai cháu sẽ dọn tới đây.

Rồi câu chuyện lại xoay qua riêng tư. Bà Phán nhìn Cẩm Hà một lúc và hỏi thẳng:

- Cháu là người ở xứ nào?

- Dạ, cháu ở Châu Đốc.

Bà Phán giật mình:

- Châu Đốc mà miệt nào, huyện thị nào?

- Dạ, cháu ở Châu Phú.

- Trời đất! Bác cũng ở Châu Phú đây.

Lại thêm một lần ngẫu nhiên mà họ có chung bản quán với nhau, khiến cho tình cảm đậm đà hơn. Bà nắm chặt tay Cẩm Hà, nói:

- Nếu con không chê, bác xin nhận con là... con nuôi, cháu thấy có tiện không?

Cẩm Hà vui hẳn:

- Thưa bác, cháu đang cần...

Cô đang vui, bỗng ngậm ngùi:

- Cháu không còn ai...

Liên Hương nói thêm:

- Vừa rồi cô ấy kể cho con nghe, cô mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhiều năm trước.

Bà Phán thương tâm:

- Tội nghiệp con tôi! Vậy cha mẹ con là ai ở xứ đó?

- Dạ, ba con cũng có chút tiếng tăm ở vùng đó. Hồi ấy con còn nhớ, người ta gọi ông là ông Huyện Phò...

Câu nói của Cẩm Hà chưa dứt thì đã nghe bà Phán kêu lên:

- Trời ơi!

Rồi chẳng hiểu sao bà như á khẩu, người lạnh ngắt.

Liên Hương hốt hoảng:

- Má! Má sao vậy.

Cô cùng với Cẩm Hà phải phụ nhau đưa bà vào phòng riêng. Trong lúc hiểm nguy đó mà bàn tay của bà vẫn cố nắm chặt tay của Cẩm Hà. Miệng cứ mắp máy nhiều lần như muốn nói điều gì đó mà không nói được.

° ° °

Có tiền sử bệnh huyết áp cao, lại bị nhiều chuyện dồn nén từ khi hai đứa con của bà chết cùng lúc, nên tâm thần bà Phán luôn trong trạng thái bất an. Việc bà bị sốc đột ngột khi đang nói chuyện với Cẩm Hà đã khiến cả Liên Hương và Cẩm Hà đều thắc mắc không hiểu sao, nhưng mấy ngày sau cũng chưa giải tỏ được, bởi bà Phán từ lúc ấy hầu như chỉ tỉnh lại sau vài lần. Tuy bác sĩ đã trấn an là tình trạng sức khoẻ bà không sao, chỉ ở tình trạng đó hơi lâu, chứ không nguy hiểm. Tuy nhiên Liên Hương lo lắng vô cùng, bởi trong nhà bây giờ không còn có ai, nếu bà mẹ chồng mà có mệnh hệ nào thì chẳng biết phải làm sao. Cô dành phải trông cậy vào Cẩm Hà:

- Từ lúc này em phải giúp chị lo cho má. Chứ chị thì cũng không còn nhiều sức nữa. Nlư em thấy đó, chỉ mấy đứa con chị, nó cũng... mồ côi cha...

Cẩm Hà đã hiểu điều đó ngay từ bữa đầu tiên, nhưng chưa kịp tìm hiểu, nay cô mới nhân cơ hội biết thêm:

- Em muốn hỏi, chồng chị mất trong trường hợp nào?

Chỉ lên bàn thờ có hai ảnh, một của chồng và một của cô em chồng:

- Hai anh em họ đi chung xe rồi bị tai nạn một lượt! Hôm ấy chị ở lại nhà giờ chót nên còn sống.

Cẩm Hà thốt lên:

- Hèn chi!

Cô định hỏi thêm, nhưng thấy không tiện nên thôi.

Liên Hương hình như cũng không muốn khơi gợi lại nỗi đau đang gậm nhấm trong lòng, nên nói sang chuyện khác:

- Em ngủ trên phòng đó có tiện không?

Cẩm Hà thấy lòng:

- Tốt lắm rồi chị. Ở chỗ em trọ đâu tiện nghi bằng.

Liên Hương cũng nói thật:

- Từ hôm có em tới ở chung, chị an.tâm lắm. Nhất là gặp lúc má bệnh như thế này, nếu không có em tiếp thì chắc chị cũng nằm theo má quá!

Đã hai đêm liền vừa thức học bài, vừa phải lo chăm sóc bà Phán, nên tối nay Cẩm Hà cảm chấy mệt. Cô chưa kịp nói thì Liên Hương cũng đã thấy, cô nói:

- Em phải ngủ sớm tối nay đi. Để chị thức với bà già. Em phải ngủ đủ giấc sáng mai chị em mình cùng dậy ăn sáng chung, chị có món quà này cho em.

Cẩm Hà chỉ chờ có thế, cô lên phòng riêng trên lầu, chỉ kịp tắm qua thì đi ngủ liền, chứ không đọc mấy trang sách như lệ thường...

Được cái là nơi này khá yên tĩnh, nhà lại ít người, nên rất dễ dỗ giấc ngủ. Chỉ hơn mười phút sau Cẩm Hà đã ngủ sâu...

- Nè, sao vào nhà tôi mà ngủ vậy?

Câu nói lặp lại có lẽ đến lần thứ ba thì Cẩm Hà mới giật mình tỉnh dậy. Lúc đầu cô vẫn còn nằm yên, nhưng khi đã nghe rõ câu nói đó là dành cho mình, cô mới bật dậy. Tuy nhiên cả người Cẩm Hà như bị đè bởi một khối đá nặng, nên cô không thể nào cử động, đồng thời lồng ngực bị nén đến sắp nghẹt thở.

Vùng vẫy đến mấy lượt, sau cùng Cẩm Hà cũng thoát ra được. Cô mở ngay ngọn đèn trên đầu nằm và có cảm giác như chỗ nệm bên cạnh nơi cô nằm vẫn còn hơi nóng!

Có tiếng của Liên Hương từ bên ngoài:

- Em bị sao vậy Cẩm Hà?

Cẩm Hà định kể lại chuyện mình vừa bị, nhưng kịp nghĩ nên ậm ừ:

- Dạ... em bị chiêm bao.

- Chị đang ngủ nghe em la lớn nên tưởng có chuyện gì.

- Dạ, không có gì.

- Niệm Phật rồi ngủ yên thôi.

Liên Hương trở về phòng của mình chỉ được một lát thì lại nghe tiếng Cẩm Hà thét lớn:

- Chị Liên Hương ơi!

Chạy trở sang, Liên Hương ngạc nhiên hơn khi thấy Cẩm Hà đang nằm lăn dưới sàn ở bên ngoài cửa phòng!

- Sao vậy em?

Không thể giấu được nữa, Cẩm Hà phải nói thật:

- Em chưa kịp ngủ thì như có ai đó quăng em ra đây!

Liên Hương quá đỗi ngạc nhiên bước thẳng vào phòng tìm khắp nơi, cả dưới gầm giường. Chẳng thấy ai, cô hỏi:

- Lúc nãy em có đóng cửa phòng không?

- Dạ có, em còn cẩn thận cài chốt bên trong nữa!

- Nhưng nhà này đâu có ai khác ngoài mấy người mình. Chị thì ngủ bên kia, còn má thì nằm liệt giường trong phòng tầng dưới, đi còn không được, nói gì ôm em ném ra ngoài. Không lẽ thằng nào lẽn vào đây?

Cẩm Hà nói khẽ, như sợ có người nghe:

- Không phải đàn ông, mà là.. con gái!

- Nhưng mà...

Liên Hương vừa nói tới đó thì chợt nhìn thấy vật gì đó nằm dưới sàn, cô cúi xuống nhặt lên, bỗng kêu lớn:

- Cô út!

Cẩm Hà kinh ngạc:

- Cô út nào?

Giọng Liên Hương chùn hẳn xuống.

- Cô út nhà này. Cái trâm cài này là của cô ấy. Không lẽ nào...

Cẩm Hà cũng vừa hiểu, cô lặp lại câu nói nửa chừng của Liên Hương:

- Không lẽ chị ấy và phòng em? Mà cũng có thể lắm...

Cô thuật lại câu nói lúc đầu:

- Đầu tiên em nghe có người đuổi em, hỏi sao dám vào nhà này. Giọng có vẻ hằn hộc lắm, em đâu ngờ là chị út?

Liên Hương lặng người đi một lúc, cô tự hỏi:

- Không lẽ có chuyện này?

Cô không tin chuyện ma quỷ, nên càng không nghĩ cô em chồng của mình hiện hồn về. Tuy nhiên nhớ lại lúc liệm xác Thu Hường, chính mắt cô nhìn thấy vật này vẫn còn đính trên tóc của cô ấy mà! Mà chiếc trâm cài này lại do chính cô mua tặng cô ấy lúc mới về nhà chồng nữa nên không thể nào có chuyện nhìn lầm.

- Hay là vô tình vật của chị ấy để sót lại mà em không thấy, để nó rơi nên bị quở chăng?

Không muốn làm cho Cẩm Hà sợ nên Liên Hương nói cho qua:

- Có lẽ vậy.

Nói thế, nhưng sau khi đã về phòng rồi, chính Liên Hương phải trằn trọc rất lâu để suy nghĩ về chiếc trâm.

Nếu bà Phán còn tỉnh cô đã sang hỏi cho ra lẽ.

Nhìn sang hai đứa bé ngủ say, Liên Hương sợ con thức giấc nên không dám mở đèn sáng, mặc dù lúc ấy cô rất muốn mở tủ, xem lại một số đồ vật. Trong số đó có chiếc trâm thứ hai, mà lúc mua cô đã mua một cặp, tặng cho Thu Hương một cái, con cái kia thì cô dùng cho đến khi chồng chết cô mới thôi không cài tóc nữa, đem cất trong tủ.

Nằm mãi vẫn không ngủ được, cuối cùng Liên Hương cũng phải nhè nhẹ bước tới tủ áo, kéo nhẹ ngăn tủ nữ trang bên trong ra. Tuy qua ánh đèn ngủ không nhìn rõ chi tiết, nhưng Liên Hưng vẫn phát hiện chiếc trâm của cô không còn trong hộp nữ trang nữa.

- Kỳ vậy?

Liên Hương hỏi hơi lớn, nên một trong hai đứa con cô, thằng Hải giật mình hỏi:

- Mẹ bị sao vậy?

Liên Hương nhìn lại đã thấy Hải đứng bên cạnh rồi, cô xoa đầu con:

- Không có gì đâu con, ngủ đi.

- Sao mẹ không ngủ?

- Ờ, mẹ...

- Mẹ ngủ với con đi.

Chìu con, Liên Hương đành phải đóng tủ, trở lại giường nằm dỗ con. Thằng bé vô tình nói:

- Đêm qua khi ngủ con thấy cô út đó mẹ.

Liên Hương giật mình:

- Cô út sao, cô làm gì con?

Thằng Hải rút đầu vào ngực mẹ:

- Đâu có sao. Con thấy cô út kêu con, bảo con là cô thương con nhưng không thương mẹ!

Liên Hương lay vai con:

- Đúng là cô út nói vậy sao?

- Dạ đúng. Mà lần thứ hai rồi đó! Lần trước lúc con bệnh tháng rồi, khi ngủ con cũng nghe cô út nói vậy.

- Sao con không nói lại cho mẹ nghe?

Thằng bé ngây thơ:

- Con biết là chêm bao, cô út nói dối, nên con không nói lại cho mẹ nghe!

Biết là lời trẻ con nói, vả lại đã là chiêm bao. Tuy nhiên khi hồi tưởng lại, điều thằng bé nói không sai lắm. Lúc mới về nhà chồng, người đối xử với cô tệ nhất chính là cô em út Thu Hường này. Ban đầu Liên Hương nghĩ có lẽ do ganh tỵ của cô em chồng, nên Liên Hương cố ăn ở cho đúng phép, đem tình thương đổi lại sự ganh ghét ấy để dần lấy lòng cô em. Vậy mà nhiều năm sau Thu Hường vẫn có cái gì đó mà mỗi khi đối diện vẫn khiến cả hai khó chịu. Tuy có lòng bao dung, không cố chấp, nhưng thật tình mà nói, mãi cho đến lúc anh em họ chết, Liên Hương vẫn thấy khó chịu khi đối với cô lạnh nhạt bao nhiêu, thì đối với Tú, chồng Liên Hương, thì cô em gái đôi khi thân mật quá mức, hầu như muốn độc quyền thương yêu ông anh mình!

- Má, ngủ đi!

Thằng Hải nhìn như không muốn mẹ mình suy nghĩ, nó giục thêm lần nữa. Buộc lòng Liên Hương phải tắt cả đèn ngủ để cố nhắm mắt lại, tìm giấc ngủ.

Nhưng chỉ được một lát thì bên phòng của Cẩm Hà lại vang lên tiếng kêu của cô giáo. Và chỉ chút xíu sau đã nghe tiếng chân Cẩm Hà chạy bên ngoài, cô gọi cửa:

- Cho em qua ngủ với chị Liên Hương! Em sợ...

Mở cửa ra thấy Cẩm Hà ôm quần áo mền gối trong trạng thái hoảng loạn, Liên Hương không kịp suy nghĩ gì:

- Vào đi em!

Hai đứa bé thấy cô giáo vào ngủ chung thì mừng lắm, cứ huyên thuyên hỏi đủ chuyện. Sợ con nghe Cẩm Hà kể chuyện ma quỷ, nên Liên Hương ra dấu cho Cẩm Hà im lặng, cô nói khẽ:

- Để chút nữa tụi nhỏ ngủ lại, em nói chị nghe.

Cẩm Hà nghe lời, nhưng nghe cách cô thở gấp Liên Hương hiểu là cô đang sợ hãi và muốn nói gì đó, không thể chậm trễ, cô liền tìm cách bảo Cẩm Hà:

- Em bị bệnh thì theo chị sang đây chị cạo gió cho.

Liên Hương dặn hai đứa con:

- Hai đứa nằm lại đây và mau dỗ giấc ngủ, sáng mai cô Cẩm Hà sẽ đưa đi chơi sở thú!

Nghe được đi chơi, hai đứa trẻ reo lên:

- A, được đi chơi rồi!

Kéo Cẩm Hà xuống hẳn phòng khách, mở đèn sáng lên, Liên Hương hỏi:

- Em nói chị nghe coi, chuyện gì vừa xảy ra?

Cẩm Hà chưa hết run, cô không đáp mà lấy một gói giấy nhỏ đưa ra. Liên Hương tiếp lấy vừa mở ra xem đã giật mình:

- Ở đâu em có cái này?

Lúc bấy giờ Cẩm Hà mới lên tiếng:

- Cô ấy đưa cho em.

- Cô nào?

- Cô út.

Liên Hương chết lặng đi bởi vật trên tay và cũng bởi tin mà Cẩm Hà vừa tiết lộ.

- Đúng là... cô út?

Cẩm Hà thuật rõ:

- Lúc nãy khi chị vừa về phòng thì em nghe có hơi thở lạ của ai đó rất gần, em kịp bật đèn ngủ lên thì thấy một người con gái đứng cạnh giường, em chưa kịp kêu thì cô ấy đã nói rõ từng tiếng một bảo em phải rời khỏi phòng ngay, nếu không thì sẽ biết thế nào là tội chiếm nhà người khác! Trước khi bước đi, cô ấy còn xưng tên mình là Thu Hường!

Đưa vật đang cầm trên tay ra, Liên Hương chưa kịp hỏi thì Cẩm Hà đã nói:

- Trước khi biến mất sau cửa sổ, cô ấy còn ném vật ấy lại cho em và dặn: Đưa cho Liên Hương, bảo với nó rằng Thu Hường và nó tình đoạn, nghĩa tuyệt.

Trên tay của Liên Hương là chiếc trâm cài tóc, mà vừa nhìn thấy là cô biết ngay là của mình, vật mà lúc nãy xem trong hộp nữ trang cô biết là bị mất.

Em ngạc nhiên hơn khi thấy cô ấy có vẻ hằn hộc khi nói tới chị. Ngoài ra cô ấy còn ném lại thêm cái này nữa.

Nhìn vật Cẩm Hà vừa đưa, một lần nữa Liên Hương chết điếng:

- Trời ơi!

Cô chỉ kêu được hai tiếng rồi thừ người ra, mặt biến sắc và để rơi vật trên tay. Một chiếc chìa khoá bình thường thôi.

- Chìa khoá này của phòng nào vậy chị?

Cẩm Hà cố tình hỏi. Liên Hương đáp như cái máy:

- Phòng không được phép mở trong nhà này!

Rồi không đợi Cẩm Hà hỏi tên gì, Liên Hương bất thần đứng dậy và bước thẳng lên lầu. Cẩm Hà chạy theo, nhưng vừa tới chân cầu thang thì Liên Hương nói: Đây là chuyện riêng trong mà, em cứ về phòng chị ngủ với hai đứa nhỏ, lát chị sẽ xuống.

Liên Hương đi thẳng lên lầu trên nữa, nơi mà khi ba chồng cô còn sống đã nhiều lần nghiêm cấm: Đây là nơi lưu giữ riêng những gì của dòng họ này, ngoại trừ ta với má tụi con ra không người nào được bước vào. Có quy định nghiêm ngặt ghi ở cửa, nếu vi phạm thì coi như không còn đủ tư cách làm thành viên trong nhà này nữa.

Tám năm về làm dâu nhà này, chưa bao giờ Liên Hương vi phạm và thâm tâm cô luôn nghĩ rằng cái gì người khác không muốn thì mình đừng bao giờ làm. Mặc dù cô biết chiếc chìa khoá màu vàng này dùng để mở căn phòng đó,

nó luôn móc trên lưng quần của bà Phán và có lần bà cũng tiết lộ rằng nó dùng để mở căn phòng mà bà gọi là dòng họ Đỗ.

Nay thì sự thôi thúc trong lòng đến độ Liên Hương không còn kiềm chế nổi. Nhất là khi cô biết ý của Thu Hường muốn cô khám phá căn phòng ấy, Liên Hương tự nhủ, mình không thể không biết!

Tuy quyết tâm, nhưng khi tra chìa khoá vào, vừa xoay một vòng là Liên Hương chùn tay. Phải lấy hết can đảm, cuối cùng cô cũng mở được và khựng lại ngay khi nhìn một chữ viết bằng Hán tự thật lớn trên tường trước mặt. Vốn thuở nhỏ có học tiếng Hán, nên Liên Hương hiểu nghĩa của chữ này, đó là chữ Hận! Phía bên dưới, chỗ chân tường có một cái rương cũ, ngoài ra không hề có một vật gì khác trong phòng!

Như vầy sao gọi là phòng bí mật của dòng họ Liên Hương tự hỏi và một lần nữa nhìn chăm chú vào chữ Hận trên tường. Phải chăng bí mật là từ chữ này. Mà tại sao lại hận, ai hận ai trong nhà này?

Trong lúc quan sát, tình cờ Liên Hương phát hiện có một ảnh chân dung nhỏ của ai đó đặt ở cạnh chiếc rương.

- Ảnh của bà Phán?

Tuy ảnh chụp khi còn khá trẻ, nhưng nhìn nét mặt, nhất là cái nốt ruồi trên môi của người trong ảnh, Liên Hương đoán ngay đó là bà mẹ chồng mình thời trẻ:

Quả nhiên khi cầm bức ảnh lên Liên Hương đọc được, hai chữ sau ảnh: Ngọc Nga. Mà Ngọc Nga chính là tên của bà Phán Sử...

- Hận người này ư?

Một lần nữa Liên Hương tự hỏi và không tìm được câu trả lời. Phải đến khi cô mở nhẹ chiếc rương ra. Vật đập vào mắt Liên Hương đầu tiên trong rương là ảnh hai đứa trẻ mới sinh, hai bé gái. Lật phía sau bức hình thấy có ghi dòng chữ: Ngày... Thu Hường và Cẩm Hà được bảy ngày sinh!

Liên Hương kêu lên:

- Thu Hường và... Cẩm Hà!

Liên Hương bắt đầu run tay, suýt nữa đã để rơi tấm ảnh xuống sàn. Nhưng chưa hết, còn một dòng chữ viết bằng mực đỏ, qua thời gian nó hơi mờ đi so với dòng chữ màu xanh bên trên: Hận tình này làm sao trả được đây?

Hai dòng chữ tuy cùng trên một tấm ảnh nhưng lại do hai người viết. Dòng trên có thể là bà Phán viết, con dòng dưới là nét chữ rắn rỏi của đàn ông.

- Sao lại là Cẩm Hà? Cô Cẩm Hà gia sư của hai con mình phải chăng chỉ là trùng tên ngẫu nhiên.

Liên Hương tự hỏi và một lần nữa thêm vào mớ bòng bong thắc mắc chưa có lời giải. Cô lại tiếp tụ giở từng vật trong rương ra. Tiếp theo là một phong thư đã vàng úa. Trong phong bì có một lá thư dài mà ngay ngày đầu tiên đã gây chú ý cho Liên Hương: Ngọc Nga yêu dấu...

Chỉ bấy nhiêu đó cũng đủ lý do cho Liên Hương ngồi xuống và đọc ngấu nghiến lá thư:

"Ngọc Nga yêu dấu!

Khi em đọc được những dòng chữ này thì người viết đã ra đi rất xa rồi! Anh ra đi vì nỗi hối hận không nguôi, nỗi ray rứt khiến cho một con người mang tiếng là hung ác, cường quyền bậc nhất ở xứ này phải bỏ ăn, mất ngủ kể từ khi vừa sinh con xong đã bỏ bệnh viện mà đi và vội vã đến nỗi chỉ mang theo được một đứa con trong hai đứa song sinh! Em có biết là khi hay tin, anh đã tới bệnh viện ẵm đứa bé còn lại về nhà mà lòng tan nát, dày vò dữ dội. Anh biết mình không xứng đáng để được em ở lại, bởi dù sao anh cũng là kẻ dùng cường quyền ép em lấy trong lúc em đã có người yêu. Anh cũng biết em yêu Phán Sử hơn và dành trọn tình yêu cho hắn ta, nhưng thử hỏi em, anh cũng đâu thua gì hắn về khoản yêu em say đắm? Chỉ vì anh đã lỡ có vợ rồi, em là kẻ đến sau. Nhưng đúng ra, chính chúng ta là những người yêu nhau trước mà. Chúng ta yêu nhau khi Phán Sử chưa yêu em và Ngọc Diệp chưa làm vợ của Huyện Thời này!

Vậy mà chúng ta đành phải lìa xa nhau, để anh phải mang tiếng là lừa em trong cơn say để chiếm đoạt và khiến em mang thai, sinh đôi và phải đứt ruột rốn đi, còn anh bị mang tiếng là kẻ cưỡng đoạt con gái nhà nghèo! Anh nói mà đâu ai tin, trong đó chắc có cả em nữa! Bởi vậy, anh chỉ biết âm thầm chịu đựng và cố nuôi cho con Cẩm Hà khôn lớn... anh giấu con về tông tích mẹ nó và nó cũng không hề nghi ngờ gì. Khi anh sắp chết, anh đã sắp đặt gởi nó về nội nuôi, trước khi lìa đời anh nhớ nó có hỏi anh là mẹ nó đâu, anh bảo dối con là em đã chết, nên chắc từ đó nó luôn nghĩ rằng nó mồ côi trên cõi đời này. Tội nghiệp con. Anh mong em có ngày nào đó thuận tiện hãy về tìm nó. Nó vẫn tên Cẩm Hà, bên vai trái có 2 nốt ruồi son để em dễ nhận.

Điều ray rứt thứ 2 mà đến khi chết anh vẫn chưa thể làm được, đó là xin em bức ảnh mà em đã nhờ thợ ảnh chụp hai đứa nhỏ lúc còn trong bảo sinh viện. Em còn giữ nó phải không? Anh rất muốn nhìn lại con Thu Hương 1 lần, nhưng có lẽ không kịp nữa rồi...

Vĩnh biệt!"

Cuối thư không có chữ ký, mà chỉ một chữ viết tên Thời hơi run và xấu... có vẻ người viết đã chết ngay sau khi viết tới đây!

Buông lá thư xuống Liên Hương lại thắc mắc:

- Má sinh hai cô con gái này rồi mới về với ba, vậy tại sao anh Tú cũng là con của hai người, lại là anh cả?

Bao nhiêu điều chưa rõ đó lại càng khiến cho Liên Hương muốn tiếp tục khám phá số đồ vật trong rương còn lại. Vật tiếp theo lại cũng là một lá thư khác, không phong bì, dạng như là một đoạn nhật ký được trích ra.

Nét chữ hình như là của bà Phán:

"Mình cố giấu mọi chuyện với Sử khi mình bảo với anh ấy rằng con Thu Hường là kết quả của những ngày vụng trộm của hai đứa, mình trốn anh ấy, trốn gia đình đi sinh xong mới ẵm con theo anh ấy lên Sài Gòn. Ban đầu anh ấy tin là thật và rất thương con Thu Hường. Những cũng vì một sơ xuất nhỏ, tức là bức thư của Huyện Thời nhờ người mang đến trong lúc mình vắng nhà, Sử đã đọc và hiểu hết! Anh ấy điên lên khi biết mình bị phản bội và Thu Hường không phải là dòng máu của anh!

Để trả thù mình, Sử đã lao vào các cuộc trác táng, nhậu nhẹt bê tha và cả mèo mỡ lung tung, đến phải nhận hậu quả là căn bệnh giang mai quái ác. Chính căn bệnh ấy mà Sử mắc chứng vô sinh. Anh ấy không thể có được giọt máu chính thức với mình! Điều ấy càng làm cho Sử hận đời hơn, anh lại dấn sâu vào các cuộc bài bạc rượu chè. Cho đến một hôm, anh ấy tự tay mang về 1 đứa trẻ lớn hơn con Thu Hường ba bốn tuổi. Ban đầu mình ngỡ đó là giọt máu rơi của anh ấy, nhưng sau hỏi kỹ lại thì mới biết do quá ham có ðýợc ðứa con, nên Sử ðã nhờ một người bạn xin giùm một đứa trẻ mồ côi về làm con nuôi. Đứa trẻ ấy là thằng Thanh Tú. Nó lớn hơn con Hường nên đương nhiên là anh, đẩy con Thu Hường xuống là em. Đó cũng là ý Sử, anh ấy không muốn con của tình địch lại là con trưởng trong nhà! Mình cũng phải chấp nhận và cũng hết lòng yêu thương thằng Tú, để làm vui lòng chồng..."

Đọc đến đây Liên Hương thừ người ra, cô thốt lên:

- Thì ra là vậy. Thảo nào...

Nhớ lại những cử chỉ thân mật, những cách đối xử với nhau lúc cả hai còn sống, Liên Hương bất giác thốt lên:

- Có điều gì đó!

Cô bất chợt nhìn thấy một mẩu giấy khắc nằm bên dưới. Mẩu giấy với chữ viết của bà Phán!

"Sử vừa mất thì mình lại nhận được tin khác khiến lòng mình đau như cắt. Con Thu Hường và thằng Thanh Tú yêu nhau. Trời ơi, sao lại có chuyện đó được, trong khi mình đã cưới vợ cho thằng Tú rồi mà!

Thằng Tú làm chuyện này rồi làm sao với vợ nó đây! Khi mình kêu hỏi nó thì thằng Tú nói thật nó và con Thu Hường đã yêu nhau ngay từ khi con Thu Hường được mười lăm tuổi. Đó là kết quả của những ngày chung sống trong cùng một nhà.

Dù hai đứa nó không phải là ruột thịt, máu mủ gì của nhau nhưng mình làm sao chấp nhận cho được chuyện đó? Mình phản đối quyết liệt và hăm đuổi Tú ra khỏi nhà nếu nó không chấm dứt hành động ấy! Nó lặng lẽ bỏ đi khỏi nhà suốt mấy ngày liền, trong khi con vợ nó, Liên Hương thì không biết gì, cứ tưởng chồng mình có việc gì đó vắng nhà. Để rồi... trời ơi, chuyện không ai ngờ đã xảy ra! Tụi nó âm thầm hẹn nhau đi chơi và... cùng lao xuống vực sâu! Chúng nó tự tử vì tình, trong lúc những kẻ đau khổ lại chính là mẹ và vợ con của chúng!"

- Trời ơi!

Lần này là tiếng kêu thảng thốt của Liên Hương! Cô bủn rủn tay chân, người lảo đảo sắp ngã. Trời đất như sụp đổ trước mắt người vợ suốt đời chỉ biết thương chồng, chung thuỷ với chồng cho đến phút cuối cùng.

Tú ngoại tình với anh thì còn có thể tin được, nhưng sao lại là Thu Hường? Điều khó tin nhất trên đời lại là sự thật!

- Thảo nào...

Liên Hương cứ vân vê những tờ giấy trong tay mà không biết phải làm gì. Cuối cùng cô xếp nắp rương lại, bước ra khỏi phòng mà trong lòng trống rỗng, xót xa...

- Mẹ ơi! Cô giáo...

Cả hai đứa con của Liên Hương đều chạy lên, chúng hớt hãi nói không tròn câu:

- Cô giáo... Cô giáo đã...

Liên Hương hốt hoảng:

- Cô giáo sao rồi?

Thằng Hải bình tĩnh hơn đáp:

- Cô giáo bị cô út dẫn đi rồi!

- Trời ơi!

Liên Hương vừa chạy vừa hỏi:

- Đi hướng nào?

Thằng bé Sơn chỉ tay ra ngoài sân sau:

- Hướng này.

Liên Hương chỉ kịp bảo hai đứa:

- Hai con trở về phòng đóng cửa lại, để mẹ đi tìm cô giáo.

Cô chạy ra vườn vừa nghĩ đến khu mộ hai cái chôn gần nhau của Tú và Thu Hường. Quả nhiên khi gần tới nơi cô nghe giọng của Thu Hường cất lên:

- Tao đã mất người yêu về tay một đứa con gái lạ, bây giờ gặp bất cứ đứa lạ nào vào nhà thì thà tao diệt nó trước, hơn là phải hối hận về sau!

Không nghe tiếng trả lời, nhưng từ xa nhìn thấy một người nằm dài dưới đất, Liên Hương đoán ra ngay đó là Cẩm Hà. Bước tới gần hơn thì người đang đứng nói giọng của Thu Hương chỉ là một cái bóng xoã tóc, phất phơ theo gió đêm!

- Hồn ma Thu Hường!

Giọng cô ả lại cất lên:

- Ta yêu suốt năm năm nhưng chưa hưởng được một giây của cuộc sống vợ chồng, vậy mà đứa lạ vào đây cướp mất người yêu của tao, rồi còn sinh ra hai đứa con cho anh ta nữa! Cũng vì hai đứa trẻ này mà tao không ra tay báo thù kẻ cướp tình yêu của mình được, tạo hận thấu xương và tao quyết giết bất cứ đứa con gái nào xuất hiện trong nhà. Mày là đứa tao ra tay đầu tiên, vậy hãy khóc cho đã đời đi rồi nhận cái chết!

Cô ta vừa nói vừa giơ thẳng cánh tay lên như sắp giáng xuống. Liên Hương thu hết can đảm nói lớn:

- Cô út, hãy dừng tay!

Nghe tiếng Liên Hương, Thu Hường gầm lên:

- Ước gì tao giết được con tiện nhân này!

Rồi cô ả quay phắt người lại, lúc này Liên Hương mới nhìn thấy được gương mặt xanh như tàu lá cùng với hai chiếc răng nanh nhô ra hai bên khoé miệng.

- Mày muốn cứu con này hả, còn lâu!

Chẳng còn cách nào hơn, Liên Hương liền đưa ra những trang giấy mình cầm trên tay và ném mạnh về phía cô ả, vừa nói to:

- Người đó là chị em ruột của cô đó!

Lạ thay, những tờ giấy vừa nằm trong tay cô ta tức thời cháy bùng lên như có ai đốt! Thu Hường không nao núng, vẫn giữ lấy vật đang cháy, gương mặt vẫn tỉnh táo như không...

Những tờ giấy vừa cháy xong thì cũng là lúc Thu Hường nhảy lùi một bước, lần này ả kêu lên:

- Sao lại có chuyện này?

Liên Hương chợt hiểu, đối với hồn ma thì cách đọc thư là phải đốt cháy, giống như khi cúng vái giấy tiền vàng bạc vậy! Vừa rồi nàng ta đã làm cho những tờ giấy gồm thư của ông Phán, nhật ký của bà Phán... và cô ta đã hiểu mọi chuyện!

- Trời ơi!

Tiếng kêu trời của một hồn ma nghe là lạ, khiến Liên Hương hơi yên tâm, cô giải thích thêm:

- Đây là đứa chị em song sinh của cô út. Cô ấy hoàn toàn không hay biết chuyện của má với ông Huyện Thời ba ruột của cô. Cũng như tôi, làm sao tôi biết chuyện cô và anh Thanh Tú yêu nhau, chứ nếu biết thế thì tôi đời nào chen vào làm chi cho khổ cả ba người. Dẫu sao thì tôi cũng cám ơn cô đã tha cho mạng sống để tôi nuôi mấy đứa con, chúng nó đâu có tội tình gì.

Thu Hường ngã gục xuống như tàu lá rụng. Trong lúc đó thì Cẩm Hà vừa mới tỉnh lại, cô ngơ ngác hỏi:

- Em... em bị sao vậy chị Liên Hương?

Nhìn bên cạnh thấy một đống quần áo nằm sóng soài, cô càng ngạc nhiên hơn:

- Cái gì đây chị...

Liên Hương biết có nói thì Cẩm Hà cũng không tin, cô liền nắm tay lôi đi, và bảo:

- Đi vào gặp má. Em sẽ nghe chính má kể lại tất cả mọi chuyến.

Vùa bước đi Cẩm Hà vừa nhìn lại sau lưng, chợt cô ngạc nhiên kêu lên:

- Chị Liên Hương xem kìa!

Trước mắt họ, ngay chỗ ngôi mộ của Thu Hường, có một đống lửa đang bùng cháy dữ dội! Liên Hương lẩm bẩm:

- Không lẽ cô ấy đã...

- Liên Hương nghĩ tới chuyện hồn ma từ giã cõi trần. Người ta thường nói khi một oan hồn ra đi thường bốc cháy thành khói hoặc biến thành hơi sương. Phải chăng từ nay Thu Hường sẽ siêu thoát?

Nắm chặt tay Cẩm Hà cô nói khẽ:

- Oan hồn của Thu Hường lúc nãy đòi giết em phải không nào?

Cẩm Hà dè dặt gật:

- Dạ, đúng rồi, em sợ lắm, chẳng hiểu sao cô ấy lại cứ theo đòi giết em hoài?

- Chỉ vì cô ấy tưởng em vào nhà này để cướp người yêu của cô ta lần nữa!

Cẩm Hà ngạc nhiên hơn:

- Người yêu nào?

- Đó chính là chồng của chị, là anh của Thu Hường. Được rồi, để chị kể sơ lượt cho em nghe trước khi đi gặp má.

Cô kể lại mọi chuyên. Nghe xong Cẩm Hà ngơ ngác:

- Sao lại có chuyện đó? À mà cũng có lí...

Cuối cùng Cẩm Hà nhận ra:

- Em nhớ rồi, ba em từng nói rằng ông có một mối tình tội lỗi. Nhưng em không ngờ em lại rơi vào mối tình ấy.

Cô khóc rắm rức...

° ° °

Bà Phán chợt tỉnh. Đây là lần tỉnh đầu tiên của bà sau gần một tuần lễ. Việc đầu tiên sau khi mở mắt ra bà hỏi ngay:

- Con Cẩm Hà đâu?

- Cẩm Hà đã ngồi bên cạnh, vội lên tiếng:

- Dạ, con đây.

Quay lại nắm chặt tay Cẩm Hà, bà oà lên khóc! Liên Hương vội ngăn lại:

- Má đừng quá xúc động. Con đã nói sơ với Cẩm Hà rồi, cô ấy hiểu và chờ má nói đó.

Bà Phán kéo Cẩm Hà vào lòng, giọng trìu mến:

- Má xin lỗi con, vì hoàn cảnh ngày đó má ra đi mà không kịp đem con theo để con phải mang tiếng mồ côi từ nào đến giờ. Mà phải chỉ có con cùng với con Thu Hường thì chắc nó...

Bà lại sắp khóc, nên Liên Hương lại phải chen vào:

- Vừa rồi Cẩm Hà và cô út cũng đã gặp nhau rồi. Má không cần phải lo nữa, họ đã thông hiểu nhau rồi!

Bà Phán mừng vô kể:

- Cả đời má vẫn nôm nốp sợ chuyện hai chị em nó không biết nhau vô tình sinh hận thù nhau. Bây giờ trong cái rủi còn có cái may. Tuy con Thu Hường chết rồi nhưng trời còn thương má, cho con Cẩm Hà trở về!

Rồi bà nói thêm:

- Lúc mới gặp con má đã giật mình rồi, không phải cái tên mà bởi tướng đi, dáng vóc, nó giống y con Thu Hường!

Rồi bà lại ôm cứng con gái, như sợ Cẩm Hà thoát ra.

Cẩm Hà cũng khóc, hai mẹ con thi nhau khóc vì niềm vui đoàn tụ. Lát sau bà Phán tiếp lời:

- Để má kể lại chuyện tại sao ông Phán Sự suốt đời hận cha con con Cẩm Hà...

Liên Hương nói nhanh:

- Dạ, con mạng phép má, con đã đọc hết những gì trong phòng cấm trên lầu. Và cũng nhờ vậy mà vừa rồi con đã cứu được cô út Cẩm Hà đó!

Kể sơ lại cho bà nghe, bà Phán gật đầu:

- Má không trách gì con hết. Căn phòng đó vì tôn trọng ông ấy nên từ khi ông ấy qua đời má vẫn giữ lại, mặc dù má rất sợ khi phải lên đó.

Bà đứng lên, kéo tay Cẩm Hà và con dâu:

- Đi, mình ra ngoài một chút, Liên Hương tính ngăn, nhưng nghĩ sao cô lại thôi, dìu một bên cùng mẹ chồng ra ngoài vườn. Cẩm Hà xúc động lắm, cô vừa đi vừa đưa tay lau nước mắt...

Khi đứng trước ngôi mộ bà bỗng trố mắt nhìn cảnh cháy đen và hốt hoảng:

- Sao vậy? Ai đốt vậy?

Liên Hương thuật lại, cô kết luận:

- Có thể hồn phách của cô út và cả anh Tú nữa đã ra đi vĩnh viễn rồi.

Sau gần nửa giờ đứng đó, cả ba trở vào nhà. Bà Phán yêu cầu dẫn bà lên lầu, chỉ cái phòng cấm, bà nói:

- Má muốn lên đó lạy ông Phán ba lạy, má xin lỗi ông ấy.

Nhưng khi đứng trước bức tường, chính bà và Liên Hương cùng kêu lên:

- Ủa, đâu mất rồi?

Chữ "Hận" cực lớn trên tường đã biến mất không để lại một dấu vết gì! Cả chiếc rương gỗ cũng không cánh mà bay!

Bà Phán lắp bắp:

- Hay là... hay là...

Liên Hương nói thầm:

- Chắc là họ rút khỏi nhà này rồi.

Bà Phán đứng lâm râm khấn một lúc rồi bà lặng lẽ bước một mình xuống lầu, không cho ai kè. Có lẽ bà thấy nhẹ người, khoẻ khoắn lại như lúc bình thường.

XÁC AI TRONG PHÒNG ?

Lưỡng Lự khá lâu trước khi quyết định, Hoá bảo người quản lí nhà nghỉ:

- Anh cho tôi chọn khu nhà trên đường lên Liang Biang.

Người quản lý nhìn Hoá khá chăm chú, cuối cùng đưa anh xâu chìa khoá

- Như đã nói với anh, nơi đó khá vắng vẻ, chỉ dành cho những du khách nghỉ và mùa hè. Hiện nay chỉ có một cặp đang ở, nhưng đến trưa mai thì họ sẽ trả phòng, chưa có khách nào mới ngoài anh. Mà anh nói sẽ ở trong bao lâu?

- Một tuần và cũng có có thể hơn.

- Được rồi, anh cứ cầm chìa khoá đi theo người hướng dẫn lên đó trước, sau đó người mang thức ăn trữ tủ lạnh sẽ lên sau. Ở đó không có hàng quán ăn nên anh sẽ phải dùng thức ăn trữ sẵn. Hằng ngày sẽ có người mang điểm tâm, cơm trưa, chiều cho anh. Nếu đêm anh muốn ăn gì thì gọi điện thoại. Mà điện thoại cũng chỉ gọi được nội bộ thôi, không gọi đường dài được.

Hoá thừa biết những điều đó nên không chú ý lắm, vội cầm xâu chìa khoá rồi leo lên chiếc xe Mobylette cà tàng của anh nhân viên hướng dẫn. Dọc đường, anh còn hỏi Hoá:

- Sao ở trung tâm tiện nghi hơn mà anh không ở, lên chi chỗ khu này buồn thấy mồ luôn, lại thiếu mọi tiện nghi nữa?

Hoá cười:

- Tại tôi thích khung cảnh thiên nhiên, thích yên bình và tránh sự quấy nhiễu,

Anh chàng kia lại nói:

- Nếu cần không khí trong lành, yên tĩnh thì hằng ngày anh cũng có thể lên núi mà chơi, chiều về khách sạn trung tâm để nghỉ ngơi. Việc gì phải...

- Nhưng sao bằng ta ở ngay nơi đó!

Ki lên tới nơi, Hoá chợt nhớ ra, anh nhờ:

- Có thể nào mỗi ngày anh mua giúp tôi một tờ báo ngày, rồi gởi người mang điểm tâm lên, được không? Đây, tôi đưa trước anh tiền đủ mua 1 tuần

Anh chàng lắc đầu:

- Năm nay là 1960 rồi, nhưng ở Đà Lạt này anh muốn coi nhật tr ình của Sài Gòn thì phải đợi đến buổi chiều mới có! Vậy làm sao mua cho anh được.

Hoá cười:

- Mua báo buổi chiều cũng được, sáng gửi lên cũng không sao, miễn là có báo để đọc. Tôi vốn ghiền đọc báo mà, mới cũ gì cũng tốt.

Khi anh chàng hướng dẫn tên Tâm đi rồi, Hoá mới bước vào nhận phòng của mình. Nói chung là cũng tạm được. Tuy không khang trang, hiện đại bằng các khách sạn ở trung tâm thành phố, nhưng cũng giường nệm, máy nước nóng tuy cổ lỗ sĩ, nhưng còn hoạt động tốt. Hoá đặc biệt hài lòng với cửa sổ phòng ở hướng ra đỉnh đồi phía sau. Từ đó, anh có thể phóng tầm mắt suốt một quãng dài. Xa tận rừng sâu. Cái thú đam mê cháy bỏng đó đã khiến Hoá chọn khung cảnh sống này.

Tắm rửa vừa xong thì chị nhân viên mang thức ăn cũng vừa tới. Có khá đủ lương thực, chị ta chỉ từng thứ:

- Nếu tối đến, cậu có thích và tự tay làm được thì vài món này có thể có được nồi cháu nóng. Tôi mang cho cậu mấy chai rượu vang và cả chai rượu mạnh nữa đây. Cái tủ lạnh chỉ để trữ thức ăn, chứ không làm đá được, hay đúng hơn là làm rất lâu đặc. Mà cũng đâu cần đá, cứ lạnh mà.

Hoá cám ơn chị ta rồi bảo:

- Chiều nay chị không cần phải mang cơm lên, tôi sẽ ăn nhẹ rồi đi ngủ cũng được.

Nhưng chị ta đã chỉ một "gà mên" để riêng:

- Sao lại không ăn cơm. Xứ lạnh mau đói bụng lắm. Tôi đã mang cho cậu bữa chiều, cậu dùng ngay cho còn nóng.

Đợi chị ta đi rồi, Hoá mới ngả lưng xuống giường đến lúc này anh mới cảm thấy mỏi nhừ cả lưng và vai. Gần suốt ngày ngồi xe lửa Sài Còn, Tháp Chàm, rồi ba bốn tiếng ngồi ôtô - ray leo dốc lên tới Đà Lạt, quả là có sức chịu đựng thì mới kham nổi. Hoá giờ khoái ngủ một giấc hơn là ăn. Và anh đã nằm và ngủ ngon lành, gà mên cơm vẫn còn y nguyên đó...

Nửa đêm...

Hoá choàng tỉnh thì vô cũng ngạc nhiên khi thấy trên bàn có một mâm cơm đã dọn sẵn.

- Ai vào đây?

Hoá bước xuống nhìn thì rõ ràng gà mên cơm đã được bày ra hết trên bàn. Và còn hơn thế nữa, có cả một đĩa trái cây tráng miệng đã gọt sẵn, đặc biệt là chai rượu vang đã khui, chỉ chờ rót là uống.

- Ai mà chu đáo thế này?

Vốn tính cẩn thận, Hoá lên tiếng hỏi:

- Có ai vào nhà không?

Không ai đáp, chung quanh im phăng phắc. Từ cửa sổ nhìn ra cũng không thấy gì bởi màn đêm dày đặc. Hoá cảm thấy đói bụng, anh đắn đo một chút rồi ngồi xuống ăn ngon lành, anh tự nhủ:

- Chắc là chị đưa cơm trở lại, thấy mình ngủ nên không gọi dậy.

Ăn xong người khoẻ khoắn, nhìn đồng hồ thì thấy chỉ mới 10 giờ, anh quyết định thử bước ra ngoài xem ban đêm có gì hay, đồng thời hít thở khí trời mát lạnh mà từ lâu anh đã thèm khát.

Lúc này Hoá mới để ý thấy trong dãy nhà còn có một căn phòng sáng đèn. Chắc là phòng của cặp đôi mà người quản lý khách sạn nói lúc chiều. Thì ra đâu chỉ có mình anh trong chốn tịch liêu này.

- Bớ! Giết... giết người!

Tiếng kêu thật lớn, thật rõ ràng phát ra từ dãy nhà!

Hoá giật mình, cố định hướng xem chính xác tiếng là đó là từ phòng nào.

- Cứu... cứu!

Tiếng kêu lúc này nhỏ hơn, chừng như người bị hại đang nguy hiểm, có thể là sắp tắt thở! Hoá tốc chạy về phía căn phòng có đèn sáng. Đến gần thì đúng là âm thanh kêu cứu đang phát ra từ đó.

- Cứ... ư

Âm thanh cuối lịm dần.. Quên cả hiểm nguy, Hoá cũng không kịp vòng ra phía cửa trước, đã tung mạnh vào cánh cửa sổ đang khép hờ, cửa bật ra. Vừa kịp lúc Hoá nhìn thấy một bóng ngườt to lớn, đang vác rên vai một người khác nhỏ hơn, vóc người đó xoã dài xuống tận sàn nhà.

- Anh ta giết người rồi tẩu thoát đây!

Do dãy nhà khá dài, nên Hoá phải chạy sang mất đến hơn một phút mới ra được phía cạnh mặt tiền. Hoàn toàn vắng lặng, không có bóng ai. Khựng lại một chút, Hoá bước lần về phía cửa phòng của căn hộ còn sáng đèn. Cửa phòng mở toang, đúng là vừa rồi vác xác chết chạy anh ta đã không kịp đóng cửa!

- Không thể để anh ta thoát được!

Hoá vừa lẩm bẩm vừa đuổi theo hướng mà anh đoán là anh chàng nào đó đã chạy. Xuong dốc đến hơn trăm thước mà cũng chẳng phát hiện được dấu vết gì.

- Khuya và tối thế này...

Hoá hơi chán nản quay trở lại, anh nghĩ sẽ điện thoại về trung tâm báo cho họ biết để may ra...

Vừa bước vào phòng, Hoá tá hoả khi nhìn thấy một người con gái nằm xoã tóc trên giường của mình!

Vừa định lên tiếng hỏi thì Hoá phát hiện trên lưng áo cô gái có vết máu lang, anh hốt hoảng:

- Trời ơi, án mạng!

Muốn bước tới điện thoại đặt gần xác chết thì Hoá lại ngại, anh chỉ còn biết la to:

- Bớ người ta, giết người!

Anh la đến khàn cả cổ mà vẫn chẳng ai nghe. Mà thực tế thì lúc ấy ngoài Hoá ra, đâu còn ai ở đó. Làm sao bây giờ?

Quyết định thật nhanh Hoá tức tốc chạy trở lại con đường đã đuổi theo lúc nãy. Anh nhớ lúc chiều đi qua nửa đoạn đường lên đây anh có thấy một đồn công an nhỏ, phải báo ngay cho họ.

Phải mất hơn mười lăm phút sau, Hoá mới xuống tới đồn. Viên cảnh sát trực đang ngủ gật trên bàn, Hoá phải gõ ba làn vào cửa anh ta mới giật mình tỉnh dậy. Vừa thấy Hoá thở hổn hển anh ta hỏi:

- Bị cướp hay gặp thú dữ?

Hoá đưa tay ôm ngực, phải vài giây sau mới nói thành lời:

- Gi...ế... t ng...ư... ờ... i!

- Ai giết?

- Ở trên kia!

Một cảnh sát thứ hai thức giấc, họ cùng hỏi kỹ và phải nửa phút sau Hoá mới bình tĩnh thuật lại cho họ nghe mọi việc và yêu cầu:

- Xin các anh hãy mau lên đó thủ phạm chạy chưa xa!

Hai người cảnh sát đem theo cả súng cùng đi theo Hoá. Một người rành khu này nên nói:

- Vùng này vắng, không có đường xe hơi chạy, nên dẫu có thoát xuống dưới kia thì cũng không chạy xa được. Để tôi gọi bộ đàm cho trạm canh phía dưới, họ sẽ chặn được hắn ta thôi!

Phải mất gần nửa giờ, họ mới lên tới nơi. Hoá chỉ và phòng mình và bảo:

- Xác chết đang ở trong đó. Phòng là phòng của tôi, nhưng trong lúc tôi ra ngoài thì hắn vác xác bỏ và đó, rồi chạy mất.

Hoá mở cửa phòng ra và...

Hoá hốc mồm nhìn vào, cả sáu con mắt căng ra mà chẳng hề thấy gì trong đó! Một viên cảnh sát hỏi:

- Xác chết nào đâu?

Hoá lúng túng:

- Mới... mới đây thôi mà! Một cô gái tóc dài, bị đâm trên lưng.

Người cảnh sát còn lại làu bàu:

- Cha này bị mộng du rồi!

Tức quá Hoá vào xem kỹ giường ngủ của mình mong thấy một dấu vết gì để để chứng minh, nhưng tuyệt nhiên không, ra nệm vẫn trắng tinh!

- Kỳ cục quá... !

Chợt nhớ ra Hoá nói:

- Qua phòng của họ!

Anh dẫn hai người cảnh sát sang phòng sáng đèn của cặp đôi kia. Bên trong đèn sáng, nhưng cửa đóng kín. Một anh sát gõ cửa mấy tiếng. Có người lê ép đi ra vừa làu bàu:

- Nửa đêm mà cũng gọi...

- Một cô gái tóc dài tận lưng, bước ra trong trang phục dùng cho phòng ngủ, vừa trông thấy, một cảnh sát đã khoát tay:

- Được rồi, cô khỏi ra, cho tôi hỏi, nãy giờ cô có nghe chuyện gì xảy ra không?

Cô ta lắc đầu:

- Đâu có nghe gì!

Rồi cô ta quay vào, đóng cửa lại. Hoá thẫn thờ nhìn theo. Hai nhân viên cảnh sát cằn nhằn:

- Cha này có tâm thần hay mộng du thì đi nơi khác mà làm phiền. Nửa đêm nửa hôm.

Họ bỏ đi, trong khi Hoá thừ người ra rất lâu mà chưa cất bước về phòng mình được...

° ° °

Sau khi nghe kể lại chuyện, chị người làm hơi biến sắc. Chị kề tai Hoá nói khẽ:

- Hôm qua tôi tính nói mà sợ cậu không tin, ở đây người ta vẫn thường xuyên gặp chuyện như vậy. Hồi trước nghe đâu có một cặp tới ở rồi xảy ra ghen tuông thế nào đó, anh chàng giết cô nàng chết, sau đó tự tử chết theo? Bây giờ thỉnh thoảng hay hiện về phá phách những người một mình. Theo tôi, tốt hơn hết là cậu nên trả phòng đi...

Hoá bướng bỉnh không muốn nghe lời. Tuy nhiên, sau khi suy nghĩ, anh lặng lẽ trả phòng, ra đi với bao thắc mắc trong lòng....

Het

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro