Chương 41-77

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 41 – Nếu nàng vô tâm ta sẽ dừng

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Y muốn tặng hoa.

Tối nay y chợt có nhiệt tình như vậy, muốn dùng đóa hoa nhận lấy từ trên tay cô bé kia, tặng cho nữ nhân mà y yêu thích.

Tối nay y muốn tặng đóa hoa này.

Tặng hoa là một loại tình cảm, một loại xung động, một loại xung động muốn tặng tình cảm ra ngoài.

Nữ nhân có thể tiếp nhận đóa hoa này của y, cho dù không thể tiếp nhận tình yêu của y, y cũng sẽ nhớ nàng.

Nhớ nàng một đời một kiếp.

Bởi vì tối nay y tịch mịch.

Bởi vì tối nay y chỉ cần một nữ nhân có thể vui vẻ tiếp nhận đóa hoa này của mình.

Tiếp nhận người khác tặng hoa là một loại cảm giác, cũng là tiếp nhận một loại cảm giác.

Tối nay y cô đơn.

Tối nay y muốn tặng đóa hoa này.

Ngay vào tối nay.

Tối nay.

Đêm lạnh như nước, vầng trăng sáng tỏ.

Vào ban ngày, y đã hát ca, đã chiến đấu, đã đi qua con đường bấp bênh. Vào buổi tối, y phải tặng đóa hoa trên tay, cùng với sự tịch mịch của y.

Trong đêm yên tĩnh của kinh hoa này, luôn có rất nhiều người tịch mịch, rất nhiều trái tim tịch mịch, đúng không?

Điểm này chính xác.

Loại nam nhân giống như Thích Thiếu Thương, lúc chiến đấu hăng hái không thấy cô đơn, lúc đánh nhau sống chết không sợ lạnh lẽo, nhưng khi vô tình nhìn thấy một đóa hoa xinh tươi, bỗng nhiên nhìn thấy một ngọn đèn sáng lên trong một gian phòng, tịch mịch không lý do liền ùn ùn kéo đến, cắn nuốt y, cho đến khi trống rỗng, không lưu lại một chút gì.

Chẳng trách trên đời có đạo tặc hái hoa. Bọn họ mạo hiểm có lẽ không chỉ vì muốn thưởng thức thân thể ấm áp của một nữ nhân xinh đẹp, đồng thời cũng vì chia sẻ sự ấm ấp lúc một ngọn đèn sáng lên, sự thần bí lúc nó tắt đi, đúng không?

Thích Thiếu Thương đương nhiên không phải đạo tặc hái hoa, hắn thậm chí ghét kẻ hái hoa. Đóa hoa xinh tươi sống động, bởi vì một người hơi động tâm động ý mà hái xuống, bị hủy trong tay người thích nó, đó là giết chết phong cảnh.

Thế nhưng trên tay y có hoa, một đóa hoa tươi.

Y đang muốn tìm người để tặng hoa.

Thế nhưng chính y có biết, trong kinh thành, trong cố đô, trên giang hồ, giữa võ lâm, có bao nhiêu nữ nhân xinh đẹp và nhiệt thành đang hâm mộ con người Thích Thiếu Thương và sự tích của y, phần lớn bọn họ đều tịch mịch.

Bọn họ đều từng nghe đến cố sự của Thích Thiếu Thương.

Nhất là gần đây, Thích Thiếu Thương thừa dịp Thái Kinh xuống đài, một hơi tiêu diệt sáu đại phái luôn ủng hộ phe phái Thái Kinh, Vương Phủ, Lương Sư Thành, bao gồm Trưởng phái, Viên phái, Phương phái, Khuất phái, Cao phái, Ải phái, càng khiến cho danh tiếng của y tăng vọt, như mặt trời giữa trưa.

Y trục xuất chưởng môn Trưởng phái là “Đao Kiếm Thư Sinh” Lâm Đại Sử ra khỏi kinh thành.

Y giết chết thủ lĩnh Viên phái là “Miêu Ma” Lỗ Tuyết Phu ngay tại chỗ.

Y cũng thu nhận người phụ trách Phương phái là “Đảo Thần” Mạc Bá Thương.

Y cũng phế bỏ võ công của chưởng môn nhân Khuất phái là “Đảo Gia” Mạc Trát Đức.

Y còn chặt đứt một cánh tay của thống lĩnh Cao phái là “Ngọc Toái Tẩu” Bàng Đức.

Y thậm chí giết chết lão đại Ải phái là “Hỗ Tồn Lão Nhân” Ngả Lược Đức ngay tại chỗ.

Y dựa theo hành vi và việc làm của những người này để trừng phạt.

Hơn nữa trừng phạt vô cùng thích hợp, hết sức thỏa đáng, đến nỗi người trong kinh đều vỗ tay vui mừng, hát vang ca ngợi.

Không ít thiếu nữ càng mê mẩn nam tử áo trắng trong truyền thuyết này. Nghe nói y trải qua nhiều thăng trầm, từng làm đại học sĩ, đã làm tiểu trại chủ, lưu vong trong giang hồ, bị triều đình truy nã, hiện nay y lại lắc mình biến hoá, trở thành thủ lĩnh quần long của đại bang phái đứng đầu trong kinh thành. Thế nhưng y vẫn cô độc một mình.

Rốt cuộc y vẫn nhớ đến hồng nhan tri kỷ mà y ngưỡng mộ trong lòng nhiều năm qua? Hay là y không để nữ nhân trong thiên hạ vào mắt? Hoặc là y vốn vô tâm, vô ý, cho nên dây tơ hồng của Nguyệt lão không thể cột vào người y?

Thế nhưng y đã thành truyền thuyết, thần thoại trong truyền thuyết.

Y cũng đã thành thần thoại, truyền thuyết trong thần thoại.

Nhân vật trong thần thoại truyền thuyết.

Y đã thành đối tượng để không ít thiếu nữ tưởng nhớ lưu luyến trong mộng. Mọi người chỉ biết y thường cô đơn một mình, đi qua đường dài, đi qua trời chiều, đi qua tịch mịch và mộng mị.

Sự lãnh khốc của y trong lời đồn giống như đã trở thành một loại bệnh truyền nhiễm.

Là hồi ức quá vui vẻ đã trở thành tập tính không thể quên lãng, khiến cho y thích độc thân, thích cô đơn?

Hỏi ai, ai cũng không biết.

Lại khiến cho vô số nữ nhân ưu tư.

(Y có khỏe không?)

(Y cô đơn sao?)

(Y tìm được nàng chưa?)

Chưa. Y cầm trong tay một đóa hoa tường vi, áo trắng phất phơ, đang lướt đi dưới ánh trăng.

Y đang đến thăm nàng, giao lại hồn phách của đóa hoa trong tay cho nàng.

Chỉ không biết nàng có tiếp nhận không? Có vui mừng không?

“Lúc tỉnh cùng nhau vui, say rồi đều phân tán” (1) , đây là ca và từ mà nàng thích hát lúc đánh đàn.

Nhìn thấy trong Huân Hương các của Túy Hạnh lâu còn có đèn, y chợt nhớ đến bài hát này.

Dưới trăng lạnh, khi lướt đi, y ngâm nga bài ca mà Lý Sư Sư thường hát, chợt nhớ đến một người.

Tức đại nương.

A, Hồng Lệ!

Y giống như bị gió đêm đột ngột đánh một quyền vào mặt.

Thanh xuân là thứ không bền vững.

Người phải hồi tưởng là vì không còn sở hữu.

Nhưng người, thanh xuân và ký ức đều là thứ vui vẻ, bởi vì ba thứ đó đều không bị khống chế, không thể điều khiển.

Có lúc chia buồn, con người sẽ bất chợt nghĩ đến chuyệnn kết hôn. Có lúc xuất cung, lại nghĩ đến chuyện bái thần. Có lúc đang dùng cơm, lại nghĩ đến chuyện nôn mửa sau khi say tối qua. Có lúc đang vui vẻ với nữ nhân này, giống như không sợ nguy hiểm giao đấu với một con mãng xà nặng bảy mươi cân, trong lòng lại nghĩ đến một nữ nhân còn nhẹ hơn chim vàng anh, còn linh hoạt hơn linh dương, còn kiều diễm hơn hoa, nằm trong lòng quyến luyến không thôi.

Thích Thiếu Thương đột nhiên nhớ đến Tức Hồng Lệ, hơn nữa là từ trong ca khúc của Lý Sư Sư nhớ đến.

Y không phải phụ tình, y chỉ hoa tâm.

Y chưa bao giờ phụ tình đối với nữ nhân mà mình yêu thích.

Bởi vì nghĩ đến Tức Hồng Lệ hiện nay có nhà, có trượng phu, có hài tử… cho nên y càng mong muốn đi gặp Lý Sư Sư.

Y muốn tặng hoa của mình cho nàng.

Y muốn hỏi nàng một câu, gả cho ta được không?

Hình như đã đến lúc nên lập gia đình.

(Nếu nàng vô tâm ta sẽ dừng.)

(Dừng lại, hoa vàng ngày mai bướm cũng sầu.)

Y đã thấy đèn và người trong khuê phòng của Sư Sư, trong lòng liền cảm thấy ấm áp.

Y cũng muốn chậm lại một chút.

Vì vậy, y nghiêng nghiêng hạ xuống trên mái hiên một tòa nhà cổ kính đồ sộ, ngồi sụp xuống, chỉ cảm thấy giống như hơi choáng váng.

Y muốn “định thần một chút”.

Y cũng muốn “suy nghĩ một chút”.

Gả cho ta được không?

(Câu này thật sự nên nói sao?)

(Nên hỏi sao?)

(Không sợ bị từ chối sao?)

(Vì sợ bị từ chối nên không dám hỏi sao?)

Nghĩ đến khuôn mặt xinh đẹp quyến rũ động lòng của Sư Sư, còn có sự thanh tú uyển chuyển, đa sắc, đa dạng, đa tài, đa nghệ, đa tình của nàng, y cũng không do dự nữa.

Đang muốn lướt đến Huân Hương các của Sư Sư, y chợt ngẩng đầu, trông thấy dưới trăng sáng nửa đêm, có một người trên nóc nhà đang tiêu sái đi đến gần y, một người khác trên mái ngói phía sau cũng đang chắp tay đi về phía y.

Y không nhịn được thất kinh.

Bởi vì người đang đi tới trước mặt y, ánh trăng như tắm, nhìn thấy rõ ràng.

Đó chính là y!

Một người khác đi đến sau lưng y, ánh trăng như nước, chiếu sáng muôn nơi.

Cũng chính là một y khác!

Nói cách khác, Thích Thiếu Thương nhìn thấy một Thích Thiếu Thương phía trước, một Thích Thiếu Thương phía sau, đang đến gần chính mình.

Lúc này Thích Thiếu Thương đang ở trên dãy mái nhà cố đô, dưới trăng sáng gió lạnh, không kìm được kinh ngạc.

Người phía trước là ai?

Người phía sau là ai?

Người phía trước là Thích Thiếu Thương sao?

Thích Thiếu Thương phía sau là ai?

Nếu như trước người sau người đều là Thích Thiếu Thương, như vậy ta là ai?

Mình là ai?

Ai là mình?

Bọn họ là ai?

Bọn họ có phải là mình hay không?

Rốt cuộc là ai?

Ai là ta?

Ta là ai?

Ai?

Thích Thiếu Thương chỉ cảm thấy ngơ ngẩn một trận, mê hoặc mấy phần, lại chợt nghe vài âm thanh rất kỳ dị (ít nhất bình sinh y chưa từng nghe thấy) từ đường phố bên dưới truyền đến. Y cúi đầu nhìn, lại thấy được một cảnh lạ cả đời chưa từng thấy.

Chương 42 – Khoảnh khắc tìm vui

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Phía dưới rất ồn ào, mờ mờ ảo ảo, giống như nấu sôi một nồi nước, lại đổ một nồi cháo sôi trào.

Cho dù không cúi đầu nhìn, chỉ cần nghe, nhất định cũng phát giác loại thanh âm này rất không phù hợp với nửa đêm trong kinh thành, kinh thành trong nửa đêm.

Không lý nào bên dưới lại náo nhiệt như vậy.

Không lý nào lúc này lại ồn ào như vậy.

Đó là chuyện không thể tưởng tượng.

Cho dù đường cái kinh đô trước giờ ngựa xe như nước, người đi lại như cá diếc, rộn ràng tấp nập, nhưng tuyệt đối sẽ không có âm thanh (đáng sợ, kinh khủng, kỳ lạ, quái dị, bí hiểm, méo mó) như vậy, giống như những con thú to lớn thời kỳ hồng hoang nối đuôi chạy như bay, khủng long hay côn trùng gì đấy, từng con tới, từng con đi, mang theo tiếng vang to lớn, tốc độ kinh người, còn phun ra khói đen khó ngửi.

Bọn chúng có bốn chân… không, bốn bánh xe, không ngừng, nhanh chóng, giống như có hàng hà sa số ba mươi triệu con cấp tốc chuyển động, có lúc phát ra tiếng thú chói tai, giống như một con khủng long bay trúng phải Thái Dương thần tiễn, còn phát ra mùi khét và dáng vẻ điên cuồng.

Càng kỳ dị hơn là Thích Thiếu Thương vừa nhìn xuống như vậy, ngay cả công trình kiến trúc cũng hoàn toàn khác biệt, bất đồng.

Trông giống như những chiếc hộp hình vuông màu xám đã mất đi mái hiên, mất đi ngói che, không có đặc tính. Đó còn xem như là nhà sao? Đó là phòng sao?

Hay là chẳng phải gì cả, mà là chính y đang rơi vào trong một trận thế!

Y đột nhiên cảm thấy choáng váng, mắt hơi đau.

Y dùng tay lau qua, lại thấy cả tay đều ướt.

Ánh trăng chiếu vào, đó lại là một vệt máu.

Thế nhưng y không bị thương, làm thế nào có máu?

Chẳng lẽ máu kia từ trên trời rơi xuống?

Y ngẩng đầu nhìn trời.

Trời im lặng, trăng sáng, sao thưa, chim khách bay về hướng đông nam.

Y chợt nhớ tới Tức đại nương.

Cho nên y muốn gặp Lý Sư Sư, khao khát muốn gặp nàng, gặp nàng để tặng hoa.

Vì vậy y dùng tay đỡ trán, ngồi xuống trên mái cao, chậm rãi nhắm hai mắt lại, quyết định không nhìn ảo cảnh, mộng mị này.

Trên mái cao nhà cổ nửa đêm, y chợt sinh ra một loại tỉnh ngộ.

Bất kể nhữn gì nhìn thấy trước mắt là thật hay ảo, là phật giới hay ma cảnh, có lẽ không biết vẫn tốt hơn, không tiếp cận vẫn tốt hơn, không để ý vẫn tốt hơn.

Nếu như đó là thật, chẳng phải mình đã thành giả? Nếu trước mắt chính là quá khứ, vậy hiện tại mình là ai? Nếu trước mắt mới là tương lai, vậy quá khứ của mình có tồn tại hay không? Cũng không biết thật giả, không phân biệt thị phi, không quan tâm đúng sai, không để ý ta ngươi, không phân chia phật ma. Trong nháy mắt này, Thích Thiếu Thương chỉ cảm thấy trời lớn đất lớn, tứ đại giai không. Y dứt khoát đóng lại tất cả mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tâm là vũ trụ, ý mất tính không, không có ý thức, biến thành vô tâm động lòng, vô tâm lây nhiễm, ma không thể khinh, tà không thể vào.

Tại khoảnh khắc đó, y nhắm mắt lại, trong lòng chỉ tưởng niệm một người.

Ngàn dặm cầm lấy một đóa hoa.

Dưới ánh trăng, y còn đổ lệ.

Lên trời xuống đất, trong nháy mắt này, bất kể những gì Thích Thiếu Thương nhìn thấy là không, là ảo, là thật, là thực, là hư, là thiên đường hay địa ngục, thực ra y đã trải qua một kiếp.

Trong lúc tâm tính xao động, nhất thời mê hoặc, phật tới ma tới, gần như sắp tẩu hỏa nhập ma, thậm chí tẩu ma nhập hỏa.

May mắn y kịp thời giác ngộ, tu tâm dưỡng tính, một lòng không loạn, phật tới không vui, ma tới không buồn, vạn cõi đều diệt.

Chỉ còn lại y và chính mình.

Đều là phòng.

Một trường không.

Nhất triều phong nguyệt, vạn cổ trường không. (1)

Thích Thiếu Thương ở trên nóc nhà cao tại trung tâm kinh thành, tắm trong ánh trăng, tĩnh tọa một lát, mới từ từ mở mắt, khẽ thở phào một hơi.

Y cười cười.

Động tâm nhẫn tính, tự hiểu lòng mình.

Y vẫn muốn đi tìm Lý Sư Sư.

Lý Sư Sư chính là một điểm chân thật mà hiện giờ y muốn đi tìm.

Cho dù, có lẽ đó cũng chỉ là một giấc mộng.

Một giấc mộng thì đã sao? Nếu nhân sinh như mộng, trong mộng tìm mộng, giống như trong không tìm không, trong gió đuổi gió. Trong mộng nằm mộng, lại giống như trong tranh chân thật, cũng không thể vì không thật mà không vẽ, mà sau khi vẽ ngược lại vượt qua thật, trở về chí thật.

Chỉ là khoảnh khắc tìm vui cũng dễ sụp đổ trong nháy mắt.

Chỉ có điều, giấc ngủ đến lại nằm mộng.

Đối với Thích Thiếu Thương, trong lòng y thật sự cần một nơi nương tựa, bất kể nàng là Lý Sư Sư, Trương Tưởng Tưởng, Trần Giai Giai, Vương Hảo Hảo, Hoàng Diệu Diệu, hay là Hà Tiếu Tiếu, Lương Khốc Khốc, Lôi Xảo Xảo… đều như nhau.

Y đang truy tìm một giấc mộng, một điểm chân tình trong giấc mộng đó.

Ngàn nhà đèn tắt, vạn hộ yên tĩnh, buổi tối kinh hoa này, ai cho Thích Thiếu Thương một phần chân tình, một điểm ánh sáng.

Vạn tiếng vô thanh, bóng mái hiên lay động, cánh cửa sổ kia của Lý Sư Sư vẫn thắp sáng một ngọn đèn.

Chương 43 – Nhập ma nháy mắt tại võ lâm, sinh tử chỉ một đường

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Trên nhân thế, phật ma tại một ý niệm.

Vừa rồi Thích Thiếu Thương ngơ ngẩn trong nháy mắt, lại nhìn thấy một vài cảnh tượng vốn không nên nhìn thấy vào lúc (đời) này.

Thế nhưng y đã nhìn thấy.

Y dĩ nhiên là chấn động, tâm thần đều kinh hãi.

Nhưng trong nháy mắt đó, cuối cùng y đã khôi phục bản tính, trở lại không.

Xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi nhơ (1)? Phật tới ma cũng tới, thế sự một trường không. Quá khứ là mộng, tương lai là không, người chỉ sống ở hiện thế trước mắt. Khôi phục tự tính chính là tìm về tự chủ. Trong lúc ngơ ngẩn y đã trải qua một kiếp.

Mộng ảo không hoa.

Trên tay y thật sự có một đóa hoa.

Trăng khắp lầu cao.

Trong lòng y có còn mộng hay không?

Có.

Người sống nên có mộng.

Nhân sinh như mộng.

Lâu như trời đất, mộng không phải mộng.

Nhìn thấy ánh trăng chiếu trên không, Thích Thiếu Thương lại nghĩ đến Tức Hồng Lệ.

Nụ cười của nàng, còn có nước mắt của nàng.

Nhìn thấy ngọn đèn như hạt đậu trong Huân Hương các, Thích Thiếu Thương lại nhớ tới Lý Sư Sư.

Nụ cười từ chối của nàng, còn có vẻ thẹn thùng nghênh đón của nàng.

Cho nên khi y lướt trên mái cong, vừa đến gần Túy Hạnh lâu, đã ngửi được mùi hương như lan như xạ kia, cảm thấy ánh đèn bên trong giống như sự ấm áp trong chăn, không nhịn được muốn vọt người tiến vào trong Huân Hương các.

Nhẫn nại.

Y vẫn kịp thời nhịn được.

May mắn là kịp thời nhẫn nại, bởi vì y bỗng nghe được một người nói: 

- Vở kịch lý tưởng nhất, đó là phải tự mình trình diễn.

Người nọ đang ở trong phòng, hơn nữa còn nói tiếp:

- Mọi người đều biết Sư Sư cô sắc tốt, tiếng tốt, ca tốt, múa tốt, thơ từ cờ đàn không một thứ gì không tốt, nhưng ta lại biết cô cũng diễn kịch rất tốt. Cô nói, đây có thể xem như là tri kỷ tri âm hay không?

Thích Thiếu Thương vừa nghe liền ngưng thần, nín thở, nuốt khí, lại xoay người treo ngược dưới mái hiên, mắt lạnh, lòng kiên quyết, quan sát động tĩnh trong các.

Tiếng cười.

Đó là tiếng cười của Lý Sư Sư, ngoại trừ khiến người ta vui vẻ, còn khiến người ta thương xót.

- Thực ra chẳng có gì tốt cả.

Sư Sư uyển chuyển nói:

- Thiên lý mã phải có Bá Lạc, mua tranh cũng phải có người thưởng thức tranh. Nếu không có người như Tôn công tử đến thưởng thức, những trò vui kia của tôi nào có ý nghĩa gì.

- Cô trả lời như vậy mới đúng là ý nghĩa.

Tôn công tử cười kính nàng một ly rượu:

- Tri âm của Sư Sư, trên có Phong Vũ lâu chủ Thích Thiếu Thương, phong lưu tài tử Chu Bang Ngạn, dưới có hoàng đế Triệu Cát, tể tướng trời đánh Thái Kinh, tất cả đều là tri âm tri kỷ của cô. Tuyệt thế giai nhân trong kinh hoa, một cái nhíu mày, một nụ cười, một bài ca, một điệu múa, một câu thơ, còn sợ không có người thưởng thức sao.

Câu nói này nửa ngọt nửa chua, nửa trào nửa phúng, nửa điên nửa tỉnh, có xương có thịt, có ý có tứ. Càng khiến Thích Thiếu Thương cảm thấy thú vị là người này lại đặt những nhân vật cấp thấp ở “phía trên”, ngược lại đặt “người bề trên” như hoàng đế thừa tướng xuống “phía dưới”. Có thể thấy lời nói và việc làm của người này rất ngông cuồng phóng túng.

Lý Sư Sư vẫn cười.

Đèn đuốc khẽ lắc lư.

Hoa nguyệt quế trước lan can cũng đang khẽ run rẩy.

Giờ lành cảnh đẹp như thế, hóa ra Lý Sư Sư lại ở cùng với người này.

Người này vóc dáng rất cao, bóng lưng rất dài, nhưng lại ngồi quay lưng về phía Thích Thiếu Thương

Thế nhưng vẫn có thể từ phía sau thấy được đoạn cuối hai hàng lông mày của hắn, giống như hai lưỡi đao màu đen. Mỗi câu nói, mỗi một chữ, hai cây đao đen kia lại giống như nhảy lên một cái, biến hóa một chiêu.

Sau khi nói xong câu nửa mỉa mai nửa trào phúng kia, người này lại kính Lý Sư Sư một ly rượu.

Phương thức hắn mời rượu cũng rất kỳ lạ.

Hắn uống một hớp sạch rượu, nhưng vẫn chưa thỏa mãn, giống như còn muốn cắn bể ly rượu thành một lỗ hổng mới chịu ngừng.

Hắn mời rượu, nhưng hoàn toàn không miễn cưỡng người khác uống rượu.

Hắn chỉ uống rượu của hắn.

Sư Sư cũng không uống rượu, nàng nhìn hắn uống.

Những năm gần đây, nàng ở nơi lầu xanh trăng hoa, đã nhìn thấy vô số người, do đó dĩ nhiên hiểu được lúc nào nên uống rượu, lúc nào không nên uống; lúc nào nên nói chuyện, lúc nào không nên nói; thậm chí lúc nào chỉ nên nghe người khác nói chuyện, lúc nào đối phương nói một câu nàng cần phải bẻ lại một câu.

Đối diện với người này, nàng không uống, chỉ nhìn hắn uống.

Người này không hề miễn cưỡng người khác uống rượu.

Người này uống rượu giống như nuốt đao, từng thanh đao nhọn nóng bỏng nuốt vào trong bụng.

Hơn nữa còn nuốt mà mặt không thay đổi, chỉ càng lúc càng trắng bệch.

Hắn uống rượu giống như đang báo thù, kẻ thù không nhiều lắm, nhưng hành động lại rất kịch liệt.

Rượu có thể không uống, nhưng lời của đối phương thì nàng nhất định phải trả lời:

- Nữ nhân làm đẹp vì người thích mình. Cho dù có một vạn, một ngàn, một trăm, một chục, một nam nhân khen ngợi tôi thì có ích lợi gì? Tôi chỉ cần người mà tôi thích khen ngợi tôi, yêu thích tôi. Nữ nhân làm đẹp vì người mình thích.

Câu thứ nhất của nàng là “nữ nhân làm đẹp vì người thích mình”, câu thứ hai là “nữ nhân làm đẹp vì người mình thích”, chữ đều như nhau, nhưng sắp xếp đảo lộn, ý nghĩa lại hoàn toàn khác nhau. Cho nên nàng nói hai lần, mỗi lần đều rung động tâm can.

Thế nhưng không biết vì sao, dưới cái nhìn của một người quen thuộc Lý Sư Sư, hơn nữa tâm tư cẩn thận như Thích Thiếu Thương, thần sắc của nàng lại tỏ ra hơi hốt hoảng.

Tại sao nàng lại hốt hoảng?

Mặc dù nàng che giấu rất tốt, nhưng Thích Thiếu Thương vẫn có thể nhìn ra được. Khi Lý Sư Sư liên tục tìm cớ mượn cớ không ra ngoài dạo chơi với y, y đã tập thành thói quen, nhìn một cái là nhận ra tuyệt thế giai nhân danh động kinh thành này lúc nào là thật, lúc nào nửa thật nửa giả, lúc nào tuyệt đối không phải thật.

Nam tử đối diện với Lý Sư Sư (lại quay lưng về phía Thích Thiếu Thương) kia nghe xong, lại có phần lạnh lùng hỏi:

- Cổ Dịch thì sao? Từ của Cổ Dịch, thiên hạ đều biết, con người cũng phong lưu hào phóng. Hắn không phải là bạn thân trong khuê phòng của cô sao? Hắn viết cho cô một bài “Nam Hương Tử”, đúng là một tác phẩm tài hoa.

Nói đến đây, hắn lại chậm rãi ngâm nga: 

- Dạo bước trước lầu nhỏ, thấy một giai nhân dung mạo như tiên. Nghĩ thầm thánh tình như giấc mộng, khoảnh khắc tìm vui, cùng say giấc nồng. Một đêm nói thề thốt, đầy vốc trầm đàn phun khói lành. Báo tin tảo triều về cung muộn, lưu lại lụa giao (2) để thay tiền.

Ngâm xong, hắn liền một hớp uống cạn rượu trong ly.

Vóc người của hắn rất cao.

Một đoạn cổ lộ ra rất trắng, cũng rất dài.

Trắng đến mức khiến Thích Thiếu Thương nghĩ đến tình cảnh khi chém xuống một kiếm, máu bắn đầu rơi.

Lại nghe Lý Sư Sư than thở: 

- Cổ Dịch? Y vừa nghe thánh thượng muốn xây đường ngầm ở hoàng cung, lập tức sợ đến mức không dám bước chân tới nơi này nữa. Ngay cả sắc đảm cũng không có, nào so được với khí chất anh hùng của ngài?

Hán tử kia nói:

- Khí chất anh hùng? Tần Thiếu Du tài hoa kinh người có một bài “Sinh Tra Tử”, cũng miêu tả vẻ đẹp của cô rất sinh động. “Mày dài như núi xa, vòng eo nhỏ mềm mại. Trang điểm đứng gió xuân, nụ cười hơn ngàn vàng. Lúc trở về Phượng Thành, nói đến cùng lầu xanh. Nhìn khắp hoa Dĩnh Xuyên, không đẹp bằng Sư Sư”. Hắn bày tỏ thái độ chân thành ca tụng cô, hắn cũng không phải là tri âm của cô sao?

Lý Sư Sư vi thở dài nói:

- Y? Nhiều khí chất hồng phấn, thiếu đi chí trượng phu.

- Chí trượng phu? Vị anh hùng?

Hán tử kia lại một hơi cạn sạch một ly rượu.

Lưng của hắn rất thẳng, ngay cả lúc uống rượu cũng vậy.

Lúc này Thích Thiếu Thương mới chú ý, trên bàn (gần trước người hán tử này) có đặt một chiếc đàn.

Tiêu vĩ cầm (một trong bốn loại đàn nổi tiếng thời xưa) vân rắn mắt hổ màu đỏ.

Thích Thiếu Thương chưa từng thấy Lý Sư Sư có chiếc đàn này.

Hiển nhiên, chiếc đàn kia không phải là vật của Lý Sư Sư.

Chỉ không biết chiếc đàn này là của hán tử kia, hay là hắn màng tới tặng cho Lý Sư Sư.

Thích Thiếu Thương từ xa xa nhìn chiếc đàn này, không phải nhìn ra thanh ý trong dây đàn, mà là nhìn ra sát khí và sát cơ trong đàn.

- Nói như vậy, Thích Thiếu Thương Thích đại trại chủ, hắn là người có khí anh hùng, vị trượng phu nhất, đúng không?

Hán tử kia nói:

- Hắn cũng không phải là tri kỷ tình nhân của cô sao?

Hắn vừa hỏi vấn đề này, Thích Thiếu Thương liền tập trung tinh thần.

Y nín thở lắng nghe.

Y cũng muốn biết đáp án, đang muốn biết, thật muốn biết.

Đáp án là một tiếng thở dài, xa xôi, dằng dặc.

Đó là tiếng thở dài của Lý Sư Sư.

Chương 44 – Đa tình luôn bị vô tình thương tổn

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Đối với câu trả lời của Lý Sư Sư, Thích Thiếu Thương giống như bị đánh một quyền vào mặt.

Đau lại ở trong lòng.

Mặc dù Sư Sư không nói gì cả, nàng chỉ thở dài một tiếng.

Như vậy là đủ rồi.

Thích Thiếu Thương hiện tại đã trải qua thâm tình và tịch mịch lâu ngày, mà con người y lúc này đã từng trải gió sương, nhưng vẫn tình hoài không già, tình càng nồng cháy. Y vốn đầy chân tình muốn đi tặng một đóa hoa này, cũng không tiếc dùng toàn bộ tiền đồ của y để theo đuổi một nữ nhân. Chỉ cần vào lúc này xuất hiện một nữ nhân đáng để y bỏ ra chân tình.

Lý Sư Sư được không?

Y không để ý đến quá khứ của nàng.

Y không để ý nàng xuất thân thanh lâu.

Y thậm chí không tính toán Lý Sư Sư có yêu y sâu đậm giống như y yêu nàng hay không.

Có lẽ không ai xem là quá sâu sắc, ít nhất còn không phát triển đến mức quá sâu sắc.

Ngay lúc này, y lại nghe được một câu hỏi như vậy.

Cho dù Lý Sư Sư không trả lời, nàng chỉ để lại một tiếng thở dài.

Thích Thiếu Thương đột nhiên cảm giác được một tiếng “bụp”, trong thân thể giống như có thứ gì vỡ tan, mà y cùng với sự tự tôn tự tin của y cũng giống như chỉ đáng giá ba tiền rưỡi, giống như cái ly không đang đặt trước mặt hán tử ngồi quay lưng về phía y kia.

Mặc dù y chưa thâm tình, nhưng luôn là một người đa tình.

Đa tình luôn bị vô tình thương tổn, rất thương.

Thương tình còn thương nặng hơn so với thương thần.

Theo sau tiếng thở dài, nam tử thân hình cao lớn kia lại cười.

Vừa cười vừa một hơi cạn sạch rượu trong ly của y, sau đó vẫn dùng một loại ngữ điệu sắc bén nói:

- Chẳng lẽ cô cũng cảm thấy người này không được sao?

Thích Thiếu Thương ở ngoài mái hiên lén quan sát người này, tâm tình phức tạp nhấp nhô, chỉ cảm thấy người này đồng tình, đáng ghét, nhưng cũng có điểm thân thiết thú vị.

Lai lịch của người này, nói năng sinh động, cộng thêm quan hệ giữa hắn và Lý Sư Sư, cùng với nội dung cuộc nói chuyện, mỗi thứ đều khơi dậy hứng thú của Thích Thiếu Thương.

Điều đáng ghét là người này nói chuyện sắc bén, tự cho là đúng, giống như không ăn nói như vậy thì không thể biểu hiện tư thái ngông cuồng, tuyệt thế đứng một mình của hắn.

Ngay cả ngữ điệu cao vút của hắn cũng nghe không lọt tai.

Thích Thiếu Thương vốn không thích loại người giả vờ ngông cuồng này, nhưng không biết vì sao, lại cảm thấy người này và mình dường như có nhiều điểm tương tự, giống như đã từng quen biết, hơn nữa còn có phần thân thiết.

Nhưng điều khiến y ghét nhất là đối phương lại hỏi Sư Sư vấn đề này, hơn nữa còn nghe được tiếng thở dài kia của Lý Sư Sư.

Y hận không thể giết đối phương diệt khẩu.

Y rất hi vọng Lý Sư Sư có thể nói chuyện.

Nói điều gì cũng tốt, chỉ cần nói một vài lời, vẫn tốt hơn một tiếng than nhẹ giống một phiến lá rơi như vậy.

Y có cảm giác bị nhục.

Hán tử kia cười, sau đó nắm tay lại, là tay phải, giơ lên nóc nhà.

Hắn đang làm gì?

Hắn giơ quyền với ai?

Chẳng lẽ hắn giơ quyền với mình?

Chẳng lẽ hắn đã phát hiện ra tung tích của mình?

Nhưng lại không giống.

Hán tử kia giơ quyền, là hướng lên nóc nhà nơi hắn ngồi, không phải hướng về Thích Thiếu Thương bên ngoài cửa sổ.

Ngay cả Lý Sư Sư cũng cảm thấy kỳ lạ.

Nàng mang theo một chút hờn giận hỏi: 

- Ngài giơ quyền với ai?

Hán tử kia lạnh nhạt đáp một chữ: 

- Trời.

Lý Sư Sư ngạc nhiên:

- Trời?

Hán tử kia nói: 

- Ta giơ quyền luôn luôn không hướng về phía người khác, chỉ hướng lên trời.

Lý Sư Sư dường như cảm thấy rất hứng thú với động tác này của hắn:

- Tại sao lại hướng lên trời?

Hán tử kia đáp: 

- Ta dùng quyền hướng lên trời là muốn hỏi trời. Nếu như hướng về phía người khác, đó sẽ là một quyền đánh tới, quyết không vô ích. Hoặc là người đánh ta, hoặc là ta đánh người, không phải giơ cho vui.

Lý Sư Sư phì cười nói:

- Trời có gì để hỏi?

Hán tử kia lại cười sắc bén: 

- Trời à? Có rất nhiều thứ để hỏi. Ta muốn hỏi, vì sao nhiều chuyện bất bình như vậy? Vì sao người tốt không có quyền, kẻ ác lại nắm quyền? Vì sao người thiện bị khi dễ, kẻ ác lại hiếp người? Vì sao người lại phân chia đẹp xấu, người có đắt rẻ? Vì sao… vì sao cô không trả lời quan điểm của mình về Thích Thiếu Thương?

Hán tử kia đột nhiên kết thúc, giống như phần kết của một chiêu đao tuyệt đẹp, đã nhanh chóng khéo léo trở về chỗ cũ, đồng dạng hỏi Lý Sư Sư vấn đề còn chưa được trả lời kia.

Lần này Lý Sư Sư nói: 

- Tôi có thể không trả lời được không?

Hán tử gật đầu, lại uống một hớp sạch rượu.

Chợt nghe một tiếng “đinh”, dường như hắn còn cắn bể một góc miệng ly.

Thích Thiếu Thương chỉ cảm thấy thất vọng, bởi vì đối phương không hỏi được nguyên do.

Nhưng y lại mong đợi.

Y mong đợi đáp án của nàng.

Y cho rằng nàng có suy nghĩ, nàng có giấc mộng.

Y cho rằng tặng ra hoa tươi, nhưng gặp phải lại là bụi gai.

Y chờ đợi chính là minh ước, nhưng thu được lại là tàn tro.

Đáp án mà y có được là một câu trả lời không có đáp án.

Y phát hiện hoa trên tay mình dường như cũng sắp héo tàn.

Hoa tàn, hoa nở.

Hoa nở rồi tàn.

Hoa nở rồi tàn là chuyện phù hợp, thứ không phù hợp có lẽ là tâm của y.

Tâm của y chỉ bị thương, không chết.

Y không phải một người dễ tuyệt vọng.

Thế nhưng một người quá cố chấp cũng dễ hại chết chính mình, trừ khi hắn dễ thay lòng.

Ngay lúc này, y lại nghe hán tử kia hỏi tới một người khác.

- Chu Bang Ngạn thì sao?

Chương 45 – Không yêu cũng có thể giao hoan

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Thích Thiếu Thương chuyên tâm lắng nghe.

Bởi vì y chuyên tâm như vậy, đến nỗi không tự giác vận nội lực, do đó chung quanh ngay cả tiếng mèo gọi xuân, muỗi giao hợp, gián rời hang, ngủ ngáy nằm mộng, mèo bắt chuột, trong Túy Hạnh lâu còn có một phòng nửa đêm tỉnh mộng, hay là không chịu ngủ, đang triền miên giao hoan phát ra tiếng thở dốc và rên rỉ, hoàn toàn nghe lọt vào tai, cũng hoàn toàn dệt ở trong lòng.

Chu Bang Ngạn.

Y cũng biết danh thủ thơ từ, sát thủ tình trường này, gần đây quả thật thường ở chung với Lý Sư Sư. Y cũng muốn biết Lý Sư Sư có ý kiến gì, có đánh giá gì đối với người này.

Đó là một tiếng cười lạnh, hay là thần sắc đau khổ không liên quan?

Hay lại là một tiếng thở dài?

Không có.

Lý Sư Sư không lộ vẻ gì, nàng chỉ cúi đầu thấp xuống.

Nàng thậm chí không có biểu hiện, cũng không trả lời.

Thích Thiếu Thương rất thất vọng.

Tối nay, y giống như cưỡi ánh trăng theo cơn gió, đi đến tặng một đóa hoa cho người con gái còn ngọt hơn so với một bài thơ tình viết thật hay, trái tim vốn cô đơn, trong tâm tình tìm hoa gõ trăng mở ra một cuộc hẹn hò lãng mạn. Thế nhưng đến tình cảnh này, y chỉ có những suy nghĩ chồng chéo.

May mắn ta không cần ái tình.

(May mắn ta không cần yêu.)

May mắn ta không cần ái tình.

Nàng có thể đối xử với Chu Bang Ngạn giống như đối với Triệu Cát, Cổ Dịch…

Nàng cũng có thể nói “hắn” (một chữ là được rồi, vậy là đủ rồi).

Nàng thậm chí có thể thẳng thắn thừa nhận là thích hắn.

Thế nhưng nàng không nói gì cả, né tránh không trả lời.

Hơn nữa cố ý đổi đề tài:

- Tối nay ngài đột nhiên tới chỗ tôi, là để hỏi mấy câu mất hứng mà còn mất vui này sao? Hử? Như vậy tôi sẽ rất thương tâm đấy.

Nàng cười rất duyên dáng, cười quyến rũ.

Hàm răng rất trắng, ngay cả ánh nến kêu lách tách khi đốt cháy thiêu thân hay bọ, cũng không chiếu được một điểm màu vàng.

Lúc nàng cười lên như vậy, còn rất thuần khiết, rất chân thật, giống như một cô gái nhỏ.

Nếu nói Lý Sư Sư là một nữ tử thanh lâu rất xuất sắc, vậy nguyên nhân mà nàng xuất sắc chính là nàng không giống như một nữ tử thanh lâu, mà giống như một cô bé nhà bên rất xinh đẹp.

Nàng nói năng nũng nịu như vậy, ánh mắt quyến rũ như tơ, thông thường ai cũng sẽ không hỏi tiếp, cũng không hỏi được.

Ngay cả giận cũng không giận được.

Thế nhưng “Tôn công tử” ngạo mạn này giống như chẳng hề quan tâm, chỉ nói:

- Thực ra, những lời này, có người đã hỏi cô rồi.

Thích Thiếu Thương chỉ nghe trong lòng lạnh đi.

Hắn đang “treo ngược mái hiên”, còn gần như vì vậy mà sẩy chân.

Hắn vội nín thở ngưng thần, định khí chuyên tâm, ổn định thân thể, lại lắng nghe trong phòng nói chuyện.

Lý Sư Sư nghe vậy, dường như cũng rất kinh ngạc.

- Y… nói cho ngài biết?

- Hắn làm sao nói cho ta biết chuyện này? Cô biết đấy, Thích trại chủ vốn là loại người có chết cũng không nhận thua.

Tôn công tử chế nhạo:

- Buổi tối ba ngày trước, ta ở ngoài cửa sổ nghe lén các người nói chuyện.

Lý Sư Sư ngẩn ra, lập tức cười nói: 

- Tôi còn tưởng rằng Tôn Công Điệt Tôn công tử là một người quang minh lỗi lạc.

Hán tử kia cười lạnh nói: 

- Quang minh lỗi lạc? Loại dâm ma tiếng xấu vang khắp thiên hạ giống như ta, còn liên hệ được với bốn chữ này sao.

Lý Sư Sư u oán liếc hắn một cái: 

- Mọi người đều hiểu lầm Tôn công tử ngài, Sư Sư cũng không…

Tôn Công Điệt chỉ nói: 

- Thực ra ta vốn không có ý nghe lén, ta chỉ là đêm khuya tới thăm giai nhân, nhưng tình cờ nghe được Thích trại chủ ép hỏi cô, cũng muốn nghe cho hết.

Lý Sư Sư vẫn cười ngọt ngào nói: 

- Các người lại thích hỏi chuyện này.

Tôn Công Điệt nói: 

- Bởi vì những người thích cô đều muốn biết cô thích ai?

Lý Sư Sư khẽ cười nói: 

- Nam nhân các người đều thích hỏi chuyện này.

Tôn Công Điệt không hề lơi lỏng: 

- Bọn họ cũng muốn biết cô có phải là một nữ nhân không yêu cũng có thể giao hoan hay không?

Lý Sư Sư biến sắc, nhưng vẫn che miệng cười nói: 

- Sao lại coi thường tôi như vậy? Không yêu cũng có thể giao hoan, đây không phải là sở trường của nam nhân các người sao?

Tôn Công Điệt lạnh lùng nói: 

- Tình có thể khiến mạng cải tử hoàn sinh, vì vậy tình cũng có thể là vũ khí chí mạng, chỉ xem ngươi sử dụng ra sao, chuyện này vốn không phân nam nữ.

Sắc mặt Lý Sư Sư khẽ biến đổi: 

- Lại không biết Tôn công tử ngài thấy tôi thế nào?

Tôn Công Điệt đứng lên, dùng tay phất qua tiêu vĩ cầm màu đỏ, phát ra một tiếng “tinh”.

Một tiếng “tinh”, đó không giống như tiếng đàn, ngược lại có phần giống như một luồng gió kiếm, tiếng rút kiếm.

Trăm năm trước đã có anh hùng từng đánh ngựa rút kiếm tỷ thí tại kinh hoa, trăm năm sau cũng nhất định có hảo hán cưỡi ngựa rút kiếm quyết chiến tại kinh sư?

Dường như chính là loại gió kiếm hào hùng mãnh liệt này, đột nhiên từ nửa đêm, trong căn phòng ôn nhu này truyền đến.

Thích Thiếu Thương nghĩ như vậy, hơn nữa nhanh chóng chìm vào suy nghĩ.

Y vì thân thế của hán tử kia mà có phần ngơ ngẩn, có điểm mơ màng.

Chợt nghe hán tử kia tiếp tục cười nói một cách sắc bén:

- Ta nhớ cô trả lời Thích Thiếu Thương cũng gần giống hôm nay, chỉ có điều Thích trại chủ không hỏi cô chuyện của Chu Bang Ngạn… Như ta đã nói, hắn là một người không thể thua, một cửa ải của chữ tình hắn không qua được, từ trước đến giờ hắn đều không qua được… ha ha ha…

Thích Thiếu Thương nghe được trong đầu nổ vang.

Y chỉ muốn giết chết tên hán tử ngông cuồng đang quay lưng về phía mình kia, nhưng cũng có một cảm giác rất đặc biệt.

Y cảm thấy hán tử kia mới là một bản thân mình triệt triệt để để.

Y vẫn luôn muốn làm một bản thân mình triệt để.

Lời nói của hán tử kia mặc dù chói tai, nhưng chắc chắn có thể biểu đạt bản thân mình một cách triệt để, cũng nói ra những lời ẩn chứa trong lòng y.

Chương 46 – Tiếc rằng ta không đành bỏ nàng

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Chỉ thấy gương mặt xinh đẹp của Lý Sư Sư hơi ngưng trọng, lúc này nàng lại không biện bạch, mà dưới ánh đèn, nàng dùng tay nâng cằm, mày thơm má phấn, quyến rũ nhìn hán tử kia, để cho hắn ba hoa khoác lác, mượn đề tài nói chuyện của mình.

Thế nhưng như vậy nhìn lại, sự dịu dàng và quyến rũ, nhu hòa và mỹ lệ này đủ khiến người ta rung động tâm can, thần hồn điên đảo.

Nàng giống như cố ý chọc giận, thận trọng câu dẫn hắn, lại không để ý đến kết quả đùa với lửa.

Hán tử kia vẫn không lưu tâm, cười nói: 

- Ta nhớ cô đã từng nhận xét về Chu Bang Ngạn, cô nói hắn là tài hoa hạng nhất, văn chương hạng hại, nhân vật hạng ba… thế nhưng, hiện giờ lại không dám bình luận một chữ…

Thích Thiếu Thương nghe vậy, không kìm được gương mặt dãn ra.

Suy nghĩ thư thái, cũng thoải mái hơn.

Hóa ra Sư Sư đã từng đánh giá Chu Bang Ngạn như vậy.

Thiếu chút nữa mình đã hiểu lầm ý của Sư Sư, cho rằng nàng một lòng một dạ với Chu Bang Ngạn.

(Thì ra đánh giá của nàng về Chu Bang Ngạn chẳng qua là thế, không ngoài như thế.)

Chỉ nghe hán tử kia lại cười nói: 

- Ta lại biết nguyên nhân vì sao hôm nay cô không bình luận về Chu Bang Ngạn… ha ha ha… bà nội hắn chứ!

Hắn vỗ bàn một cái.

Hiển nhiên, câu cuối cùng của hắn là một câu mắng người.

- Hắn gần đây ở bên cạnh hoàng đế tẩu hồng (được hoan nghênh), lại ở dưới trướng Thái Kinh làm quan trong Lam Trung quân, hắn không chỉ là hồng nhân (tâm phúc), mà còn là lam nhân!

Đột nhiên giọng nói của hắn mang theo sự chế nhạo, sắc bén:

- Cũng không biết rùa rút đầu có thể xem là hán tử hay không!

Lý Sư Sư dường như bị kích động, hơi tức giận:

- Nếu như ngài bất mãn, cần gì phải nói hết, nói tuyệt. Nếu công tử xem thường Sư Sư, không đến gặp nữ nhân khổ mệnh Sư Sư này là được, cần gì phải mắng chửi người khác!

Hán tử kia lại uống một hớp sạch rượu trong ly, sau đó ném ly nói: 

- Nói thật, tiếc rằng ta lại không đành bỏ cô. Sắc đẹp của Sư Sư, là đẹp đến mức làm người ta không thể từ bỏ, không đành rời xa. Điều này giống như chỉ có cô vứt người bỏ người. Đây đúng là nam nhân chúng ta không có tự trọng. Nhưng đừng cho rằng ta không nghe thấy, lần đó Thích Thiếu Thương đã hỏi cô, cách nhìn của cô đối với ta thế nào.

Lý Sư Sư bất đắc dĩ nhìn hắn, má ngọc sinh xuân, mi đào khẽ giận.

Hán tử kia tự ý nói tiếp:

- Cô cũng thở dài một tiếng như vậy… giống như tối nay ta hỏi cô về Thích Thiếu Thương.

Lần này Lý Sư Sư uống rượu.

Tư thái khi nàng vén tay áo nhỏ lên uống rượu rất đẹp. Dường như nàng cũng biết mỗi động tác của mình là một loại phong tư, mỗi bước đều khiến cho nam nhân hâm mộ, mà hán tử kia (còn có Thích Thiếu Thương dưới mái hiên) cũng thật sự dùng ánh mắt phong lưu khen ngợi hâm mộ mỗi bước của nàng. Phong tình này chẳng những làm người khác mê say, cũng đồng thời mê hoặc chính nàng.

Nàng cũng uống sạch một hơi.

Sau đó nàng còn thay hán tử kia nói tiếp:

- Sau khi tôi thở dài, vẫn bình luận về ngài, ngài quên rồi sao?

- Lời giai nhân tặng nào dám quên? Không quên.

Hán tử kia cười nói: 

- Cô nói ta là “giang sơn đại hữu tài nhân xuất, các lĩnh phong tao tam ngũ niên” (trên đất nước đời nào cũng có nhân tài xuất hiện, mỗi người đều lừng lẫy năm ba năm) (1). Chỉ năm ba năm, đúng là ít, cô cũng thật sự không xem trọng ta.

Lý Sư Sư lưu loát mỹ lệ dịu dàng cười nói: 

- Đó là tôi bị y ép buộc, chỉ nói đùa thôi.

Hán tử kia nói: 

- Hiện giờ là ta tới ép cô, đánh giá của cô đối với ta có thay đổi không?

Lý Sư Sư cười khúc khích nói: 

- Có.

Hán tử kia hứng thú dạt dào:

- Nói nghe thử xem?

Lý Sư Sư cười đến hoa dung run rẩy: 

- Giang sơn đại hữu ác nhân xuất, các phiên phong vân tam ngũ thiên. (trên đất nước đời nào cũng có ác nhân xuất hiện, mỗi người đều lừng lẫy năm ba ngày) (1)

Ngâm xong lại cười duyên không ngừng, cười duyên không nói.

Hán tử lẩm bẩm: 

- Như vậy thì hay rồi, còn lại năm ba ngày, lại càng ít hơn. Còn đổi một chữ “tài nhân” thành “ác nhân”.

Sư Sư cười duyên nói: 

- Tiểu nữ nói đùa thôi, Tôn gia đừng xem là thật.

Hán tử kia nói: 

- Thật thì sao chứ? Ta vốn tiếng xấu vang lừng. Hoàng đế sao? Nghe nói hoàng đế lão tử muốn đón cô vào cung, lần này hắn có thể làm thật, liệu cô có làm thật hay không?

Người này nói chuyện và hỏi đều rất “ngông cuồng tự đại”, hắn hỏi đến hoàng đế, nhưng giống như đó chỉ là một nhân vật nhỏ chẳng liên quan. Hắn đâu chỉ dám hỏi, mà còn giống như dám mắng, dám đánh, thậm chí là dám giết.

Thái độ của hắn căn bản không ai bì nổi.

Lần này Lý Sư Sư lại lạnh mặt đi.

Mỹ nhân cười một tiếng có thể nghiêng nước nghiêng thành, cũng có thể đốt lửa đùa chư hầu.

Mỹ nhân giận thì sao?

Lý Sư Sư đẹp nhất là khi nàng vui cười, nụ cười của nàng hé mở như đóa hoa vừa nở, hương thơm quyến rũ đều vào lúc này.

Đẹp đến mức khiến người ta động lòng.

Thế nhưng càng hiếm thấy là ngay cả lúc cáu giận nàng cũng rất đẹp.

Một vẻ đẹp khiến người ta kinh ngạc.

Nàng đột nhiên từ cười đến không cười như vậy, trong nháy mắt biến sắc, trở thành khẽ cáu giận, càng có sát khí sương lạnh, ngay cả những trang sức như Hoàn Tấn Kim Châu, Thế Hoa Thúy Nhị, thậm chí Tích Hàn Bối trên tóc, Minh Đang Cẩm Đang Uyên Ương Đới trên người, đều tạo nên một trận gió thu sát ý.

Lại khiến cho hán tử kia dáng vẻ vốn ngông cuồng, lúc này cũng nghiêm túc đối diện.

- Ngài nghe được tin tức này ở đâu?

Lý Sư Sư cầm một ly rượu nhỏ, nhấc một chân lên, mũi chân khều chiếc giày thêu, hơi lộ ra chiếc vớ thưa che kín bàn chân, ngẩng đôi má phấn, hơi giận hỏi:

- Đều nghe đồn như vậy.

Hán tử kia cười nói: 

- Truyền thuyết còn truyền kỳ hơn là truyền chân. Đối với lời đồn ta luôn luôn nửa tin nửa ngờ.

- Nếu chỉ nghe lời đồn.

Ánh mắt Lý Sư Sư lại ẩn chứa nụ cười, nhưng trong lời nói lại ẩn chứa kim nhọn:

- Ngài vẫn là một đại sắc ma trong võ lâm, trên giang hồ nhỉ.

Hán tử kia cũng không giận, giống như từ lâu đã nghe quen rồi, chỉ nói:

- Cho nên ta mới đến hỏi cô.

- Đừng nói vạn tuế gia sẽ không thật sự có tình ý với ta… y sẽ thật sao?

Lý Sư Sư lại thong thả thở dài một tiếng xa xăm, sau đó nói:

- Cho dù y thật sự muốn đón tôi vào cung, tôi đây cũng không đi.

- Tại sao?

- Không đi được.

- Không phải cô đã nói sao? Đó là vinh sủng hiếm thấy, cơ hội khó gặp, người ta ngàn cầu vạn khấn cũng không gặp được. Đã cho cô hi vọng, sao lại không nắm bắt, dễ dàng bỏ qua.

- Chuyện đó tôi phải tự lượng sức, tự đánh giá, có định lực.

- Định lực?

- Tại sao hoàng thượng còn lưu luyến với tôi?

- Hắn là một hoàng đế hoang dâm, cô là một nữ nhân xinh đẹp, hắn háo sắc, dĩ nhiên là thích cô.

- Y đã có tam cung lục viện, bảy ngàn phụ nữ, nhưng vẫn thường xuyên đến tìm tôi, còn lén xây đường ngầm từ hoàng cung, đó là vì sao?

Hán tử kia trêu đùa: 

- Bởi vì cô say rượu dựa vai, hương thơm tắm gội, bên gối cười duyên, đưa mắt ngầm truyền, nhặt đá ném oanh, ẩn chứa ghen tuông, đủ loại màu sắc, không gì không đẹp.

- Ngài mới ẩn chứa ghen tuông ấy!

Lý Sư Sư cười mắng hắn:

- Luôn không nghiêm chỉnh. Y thích đến cưng chiều tôi, là bởi vì tôi đặc biệt.

- Đặc biệt?

- Không giống như người khác.

- Người khác? Cô muốn nói đến phi tử, phi tần của hắn?

- Bọn họ là nghe truyền thì đến, ngày ngày khổ cực chờ đợi y. Tôi thì đóng cửa ngồi trong các, để y đến tìm tôi. Bọn họ ở trong cung, còn tôi ở bên ngoài. Nếu so về lễ nghi giáo dưỡng, nào còn chứa chấp được Lý Sư Sư tôi? Luận về sắc đẹp, người đẹp hơn Sư Sư tôi nhất định là có. Tôi vào cung so đo với bọn họ, lập tức sẽ rớt xuống ngay. Còn nếu tôi trấn giữ nơi này, Lý Sư Sư vẫn chiếm một vị trí trên hồng nhan hoa khôi bảng của thanh lâu kinh hoa, không lay chuyển…

- Đâu chỉ như thế, Sư Sư quả thật là hồng phấn đệ nhất trong kinh thành. Cô cũng không cần tự coi nhẹ mình, đừng quên, một khi vào cung, nói không chừng có một ngày cô sẽ trở thành chính cung nương nương, khi đó… hà hà, chỉ sợ cô còn không nhớ có một tên dân thường rãnh rỗi là Tôn mỗ.

- Ngài bớt làm người ta chán ghét đi, lời chưa ra miệng đã thành chua. Tôi tự lượng sức mình rất rõ, chỉ với xuất thân của tôi, có thể vào hàng ngũ phi tử đã là vọng tưởng rồi, nhiều nhất chỉ có thể vào làm cung nữ, còn mưu cầu tiền đồ gì? Không bằng ở lại nơi này, Sư Sư tôi vẫn là một danh kỹ được yêu thích. Hoàng đế vạn tuế gia muốn triệu tôi vào cung, tôi nhát gan, thật không dám đi.

- Ha ha… không ngờ Bạch Mẫu Đơn đẹp khắp kinh đô, gan sắc song toàn, vẫn sợ phân đoạn vào cung này. Sư Sư là người xuất thân từ phố phường thanh lâu, còn sợ những cung hoàn điện tần chưa từng trải sự đời sao!

- Tôn công tử, không thể nói như vậy được. Người ở trong triều hô mưa gọi gió, một khi lưu lạc đến thôn quê, chưa chắc đã đến phiên bọn họ hò hét. Thế nhưng người ở quê nhà lật mây làm mưa, một khi vào triều đình, cũng không tới phiên bọn họ nói chuyện. Có thể nói mỗi nơi đều có phong tục luật lệ riêng. Với xuất thân của tôi, nếu tranh giành với các phi tần có chỗ dựa sau lưng, e rằng cũng rơi vào kết cục tăm tối như vậy.

Nói đến đây, Sư Sư lại buồn bã thở dài, sóng mắt ẩn chứa ánh lệ:

- Nói gì thì tôi cũng chỉ là một nữ nhân khổ mệnh, không thể ra trận, không thể lên điện, chỉ hầu hạ người khác trêu đùa cười cợt, trong lòng khổ không thể nói, chỉ nhìn thấu thời cơ, mình với áo đỏ, rượu không qua ngày, nến tàn qua năm.

Nói đến đây, nàng lại lã chã rơi lệ, xuất khẩu thành lời vừa ngâm vừa hát:

- Lệ ướt đầm khăn mộng chẳng thành, điện ngoài ca hát rộn âm thanh, hồng nhan chưa tắt ân tình dứt, ngồi tựa lò hương đến sáng tinh (2).

Hán tử kia nghe vậy, giống như cũng đứng ngồi không yên, cuối cùng dạo bước, đột nhiên ngẩng đầu, sắc mặt rất trắng, ánh mắt nghiêm túc, thoáng nhìn ra ngoài cửa sổ, hai mắt như điện, gần như tiếp xúc với ánh mắt của Thích Thiếu Thương, bắn ra tia lửa.

Chỉ thấy hán tử kia mặt nhọn sắc trắng, lông mày như kiếm, môi mỏng như giấy, thần sắc ngạo mạn, chí khí bức người, hiên ngang đặc sắc, tự có một khí khái hơn người.

Ngay lúc này, chợt nghe cửa phòng trong các kêu lên dồn dập, có lão ma ma vội vã thấp giọng gọi:

- Sư Sư, Sư Sư, vạn tuế gia tới rồi, đạo quân hoàng đế tới thăm cô.

Chương 47 – Thâm tình không bằng vô tình thật

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Lần này Lý Sư Sư cũng lập tức biến sắc, khẩn trương nói: 

- Y… y đến rồi… sao hôm nay cũng đến… bây giờ là lúc nào, y lại nói đến là đến.

Nàng vừa gấp vừa nhìn Tôn Công Điệt, trong mắt lộ ra vẻ thúc giục, khiến người ta xót thương, cũng khiến người ta yêu thương.

Thần sắc Tôn Công Điệt lạnh lùng, nói:

- Cô muốn ta rời đi trước, đúng không?

Lý Sư Sư nghiêm túc động lòng người gật đầu một cái.

Tôn Công Điệt cười một tiếng, nhặt bầu rượu trên bàn lên, cũng không rót rượu, ngửa cổ uống một hơi cạn sạch, sau đó cắn vào miệng bình phát ra một tiếng “băng”, để lại một câu:

- Được, cô muốn ta đi thì ta đi, ta cũng không cản trở chuyện của cô. Dù sao, ở chỗ này vụng trộm cũng không phải chỉ có mình ta.

Dứt lời hắn liền vơ lấy tiêu vĩ cầm, chợt quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ.

Thích Thiếu Thương nhạy bén giật mình một cái.

Lúc này, hắn và người nọ lần đầu tiên chính thức nhìn nhau.

Thích Thiếu Thương cho rằng đối phương nhất định sẽ từ cửa sổ lướt ra, đang muốn tìm nơi tránh né, chợt nghe Tôn Công Điệt hừ lạnh một tiếng, một tay ôm đàn, một tay mở cửa, bước nhanh ra ngoài. Lý mỗ vốn đang chờ sau cửa, bởi vì cửa đột ngột mở ra, suýt chút nữa đã ngã vào bên trong.

Thích Thiếu Thương chỉ cảm thấy hai người nhìn nhau một cái, giống như Đại Nhật Như Lai gặp phải Bất Động Minh Vương, giao phong một lần tia lửa tung tóe; nhưng lại giống như cùng một nhà, cùng một môn, cùng một huyết mạch, môi hở răng lạnh, đầu đuôi phối hợp.

Y rất ghét người này, dường như người này có thể làm được những chuyện mà y không thể làm.

Y cũng cảm thấy người này rất thân cận, giữa hai người tựa như không có gì khác nhau.

Cảm giác này rất phức tạp, nhất thời y cũng thể nói rõ nguyên do.

Thế nhưng hành động của Tôn Công Điệt vẫn nằm ngoài dự liệu của y.

Hắn nghe nói hoàng đế đã đến, lại không từ cửa sổ lướt đi, mà nghênh ngang chọn tuyến đường cửa lớn.

Chẳng lẽ hắn không sợ gặp phải hoàng đế?

Hắn rời đi, bước ra cửa lớn, khiến Lý mỗ gần như ngã vào bên trong, đồng thời màn lụa trong Huân Hương các cũng không ngừng lay động.

Lý mỗ vội vàng nói:

- Chuông ở long đầu điện kêu vang rồi… vạn tuế gia sẽ lập tức…

Lời còn chưa dứt, bỗng có người cười lên ha hả, đột nhiên vén màn lụa nhiều tầng ra. Trước tiên là hai tên lực sĩ, tiếp đó là bốn tên thị vệ, cộng thêm ba tên thái giám, sau đó là sáu vị cung nữ, hầu hạ một người mặc hoàng bào gấm vóc, râu tóc thưa thớt đi ra.

Lúc này Thích Thiếu Thương mới chợt hiểu.

Thì ra trong các này có cơ quan.

Hóa ra hoàng đế lén xây đường ngầm trong hoàng cung, là nối thẳng đến Huân Hương các của Lý Sư Sư.

Sau khi bị ám sát lần trước, Triệu Cát quả nhiên đã cẩn thận hơn nhiều.

Nhưng hắn vẫn gan sắc bao trời, không phải tuyệt đối không đến, mà là ngầm lệnh dân công đào một hành lang cho hắn, thần không biết, quỷ không hay dẫn thẳng đến hương khuê của Lý Sư Sư.

Đối với Triệu Cát, như vậy càng thuận tiện.

Nhưng muốn đào thông đạo này, không biết phải tốn bao nhiêu mồ hôi nước mắt của nhân dân, tổn thương bao nhiêu nhân tâm nhân lực.

Thích Thiếu Thương vừa nghĩ đến chuyện này, trong lòng tức giận. Lại nghe Triệu Cát cười nói: 

- Ái khanh, có muốn giết trẫm không? Ngày mai trẫm không lên triều, hôm nay sẽ cùng khanh điên đảo, cho khanh kinh hỉ một phen.

Lúc này Sư Sư đã khôi phục bình tĩnh, nhẹ nhàng vén áo cúi lạy: 

- Tiểu nữ xin thỉnh vạn tuế gia phúc an!

Triệu Cát đuổi người hầu rời đi, sau đó cười ha hả đỡ Sư Sư dậy, nói:

- Khanh còn nói với trẫm mấy lời này sao.

Nói xong liền muốn thân thiết với Sư Sư.

Sư Sư nửa từ chối nửa nghênh đón, uyển chuyển ứng phó, sau đó chợt nói:

- Hôm nay thiếp thân vừa lúc đến tháng, tinh thần mệt mỏi. Bệ hạ đến không đúng lúc, tối nay e rằng không thể hầu hạ giấc ngủ được. Bệ hạ tới đột ngột như vậy, đúng là khiến nô gia giật mình.

Thần sắc Triệu Cát biến đổi, hắn vốn đang hứng thú như khát như đói, lúc này lại rất mất hứng, chỉ nói:

- Chuyện này có khó khăn gì, trẫm sẽ lập tức lệnh cho đại y viện chuẩn bị phương thuốc, đình chỉ kinh kỳ, không được sao? Không phải là khanh sợ trẫm tới đột ngột chứ?

Lý Sư Sư cười duyên khéo léo từ chối: 

- Như vậy làm sao được. Chỉ sợ đình chỉ như vậy, sẽ khiến thiếp nhanh chóng người già sắc suy, bệ hạ sẽ không muốn thiếp thân hầu hạ nữa.

Nàng cũng tránh đề cập đến việc hoàng đế nói đến là đến.

Triệu Cát cười nhéo nàng một cái:

- Nào có chuyện như vậy… khanh tối nay không tiện, nhưng trẫm đang hứng thú, không bằng khanh và trẫm…

Sư Sư chỉ cười duyên không chịu.

Thích Thiếu Thương nhìn thấy trong mắt bốc lửa, trong lòng nổi giận. Y đang muốn rời đi, đột nhiên cuộc nói chuyện trong phòng lại có biến hóa.

Có lẽ vì Lý Sư Sư năm lần bảy lượt khước từ, khiến cho Triệu Cát không vui, cho nên hắn hừ lạnh một tiếng nói:

- Sư Sư, khanh cũng đừng thừa gió đắc ý bay cao. Trẫm vốn thương khanh tiếc khanh, hành vi của khanh, tưởng rằng trẫm không biết sao?

Sư Sư chỉnh lại vạt áo, kính cẩn hỏi: 

- Bệ hạ mặt rồng nóng nảy, không biết muốn nói đến chuyện gì?

Triệu Cát nói thẳng: 

- Lúc trước trẫm triệu khanh vào cung, sắc phong phi tần, sao khanh lại nhiều lần từ chối lĩnh chỉ, không sợ phạm tội khi quân sao!

Lý Sư Sư u oán thở dài.

Triệu Cát quả nhiên hỏi: 

- Có lời thì cứ nói!

Sư Sư không dám ngẩng đầu lên: 

- Thiếp sợ bệ hạ giận dữ chặt đầu thiếp.

Triệu Cát cười nói: 

- Nào có chuyện như vậy. Khanh cứ nói không sao, trẫm nào phải hẹp hòi như đàn bà.

Sư Sư vẫn không dám ngước mắt lên: 

- Thiếp không muốn làm bệ hạ tức giận.

Triệu Cát hừ một tiếng nói:

- Nếu trẫm giận khanh thì đã sớm giận rồi. Ngày đó trẫm bị ám sát, tạm lui xuống dưới giường, mới biết đó là một nơi ẩn nấp giấu người rất tốt.

Trong lòng Sư Sư chấn động, cố gắng trấn định nói: 

- Ý của bệ hạ là…

Triệu Cát nói: 

- Không có ý gì. Lần đó trẫm trốn ở dưới giường, rất cảm động vì khanh đã giao thủ với thích khách bảo vệ trẫm, nhưng lại khiến trẫm liên tưởng đến một bài từ…

Sư Sư liền hỏi: 

- Bài từ gì?

Triệu Cát đọc: 

- Dao Tình sắc nước, muối Ngô lấn tuyết, tay ngọn bóc cam sành. Gấm ấp hơn chiên, mùi hương thú quyện, đối mặt người gõ sênh. Thấp giọng hỏi, canh ba điểm trống thành, cùng ai vầy cuộc? Ngựa trợt sương đẫm, chi bằng đừng đến, thật lũ trẻ lanh chanh (1).

Lúc này sắc mặt Sư Sư hơi tái, gượng cười nói: 

- Đó không phải là “Thiếu Niên Du” do thiếp làm sao? Khi đó bệ hạ nghe được, còn cho thiếp thân vài câu cổ vũ, khích lệ muôn phần, bây giờ chưa quên, đội ơn không hết. Bài từ này lại có vấn đề gì?

Triệu Cát cười lạnh nói: 

- Bài từ này chính là viết quá tốt, khanh tùy ý hát, khúc văn lại ghi nhớ trong lòng trẫm. Sau khi về cung suy nghĩ lại, đó lại không giống như bút tích của khanh, tức cảnh trữ tình, trong lành lưu loát, giống như đến từ khí chất nam nhi, rõ ràng khác biệt với bút tích của nữ nhi. Thế nhưng đêm đó, trẫm đưa cam ngọt Triều Châu tới cho ái khanh, khanh dùng tay ngọc bóc ra, tự tay đút vào miệng trẫm, chi tiết này cũng được thuật lại trong bài từ. Chẳng lẽ ái khanh lại nói cho người khác nghe tất cả tình tiết ân ái với trẫm? Hay là đặc tính của từ biến hóa, diện mạo của từ khác lạ, viết ra một phong cách khác? Hay là bên dưới giường vừa lúc có người, lúc trẫm và khanh triền miên ân ái, bị người ta nghe được?

Lý Sư Sư nghe vậy vội rót rượu mời rượu. Triệu Cát không uống, lại đập bàn một cái. Dù sao cũng là mặt rồng giận dữ, thiên uy khó lường, Sư Sư bị dọa đến ngay cả rượu cũng tràn ra, thấm ướt tay áo xanh.

Chỉ nghe Triệu Cát sầm mặt nói: 

- Lần đó khanh cũng thoái thác, nói rằng nương nương đang lúc kết hoa, khuyên trẫm nên ân ái vợ chồng một phen… Trẫm còn khen khanh biết đạo lý, hừ!

Lý Sư Sư chỉ u oán nói:

- Vạn tuế gia, ngài không tin thiếp nữa. Nếu ngài không tin thiếp, thiếp thân đập đầu chết cho xong!

Triệu Cát thấy vành mắt Sư Sư đỏ lên, dáng vẻ thê lương, khẩu khí liền mềm đi, sắc mặt cũng hoà hoãn, nhưng vẫn nói tiếp:

- Khanh muốn trẫm tin khanh? Đêm đó sau khi khanh ngâm khúc hát kia, không đến mấy ngày sau, trên phố đã hát bài “Thiếu Niên Du” này, nói là do Khai Phong phủ giám phủ Chu Bang Ngạn dạy cho. Chẳng lẽ khanh tín nhiệm hắn, dạy cho hắn, hay là không cẩn thận để hắn học lén? Đây là câu chữ giống nhau như đúc, ngay cả khúc điệu cũng như nhau. Trùng hợp có trùng hợp như thế sao? Tuyệt diệu có tuyệt diệu như vậy sao? Hả? Hừ!

Lý Sư Sư ưu thương rơi lệ, bi thường thì thào nói: 

- Tiện thiếp tội đáng chết vạn lần…vạn tuế gia nhìn rõ mọi việc, đèn trời soi sáng, bất cứ chi tiết nào cũng không gạt được thánh thượng…

Sau đó hai tay xoa xoa cánh tay Triệu Cát, ôn nhu nói: 

- Có điều, tiện thiếp cũng hát bài này cho đám tỷ muội trong lâu nghe, không biết là để ai học được, dạy người khác hát, chuyện này… 

Nàng trước tiên khen ngợi Triệu Cát, tâng bốc một phen, sau đó mới nói lời bào chữa.

Triệu Cát nghe vậy, ngữ điệu cũng hòa hoãn lại, xem ra phương pháp của Lý Sư Sư vẫn là hữu hiệu.

- Trẫm không tính toán với mỹ nhân, là trẫm có ý tốt ba lần bảy lượt giục khanh vào cung, nhưng khanh vẫn luôn từ chối, chuyện này giải thích thế nào?

Sư Sư nước mắt chưa khô, lại duyên dáng đẩy đẩy hoàng đế, liếc hắn một cái, yêu kiều nói:

- Thiếp nói này, vạn tuế gia, ngài gấp cái gì, chẳng phải cái gì cũng bị ngài chiếm rồi sao. Nếu quả thật được ngài đưa vào cung, ngài lại đi tìm hoa hỏi liễu, khi đó chỉ khiến thiếp thân ngồi trong phòng trống, mới biết thâm tình không bằng vô tình thật.

Chương 48 – Mùa hạ đang lúc áo xuân mỏng

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Triệu Cát bị Lý Sư Sư nũng nịu, giọng nói cũng mềm ra, dùng tay chạm vào nơi mềm mại của nàng, thở dài nói:

- Khanh cũng thật biết đùa bỡn trẫm… được, trẫm sẽ không miễn cưỡng khanh. Dù sao trẫm chỉ cần đến gặp khanh, đã có đường ngầm để đi, cũng rất thuận tiện, tùy thời có thể say gối mỹ nhân, vậy thì không ngại nữa… Tối nay cứ tha cho khanh một lần đi!

Sư Sư vừa nghe, vội yêu kiều kêu lên:

- Vạn tuế gia phúc an! Vạn tuế gia vạn vạn tuế!

Thích Thiếu Thương ở bên ngoài nghe được lại cười lạnh.

Tuy nói hoàng đế Triệu Cát này lại từ trong một ca khúc, suy đoán ra Lý Sư Sư có khả năng mập mờ với Chu Bang Ngạn, nhưng đường đường là vua của một nước, nên xem vạn dân nước sôi lửa bỏng là việc chính, còn hắn lại sa vào trong những tiểu tiết này, cùng với tình sự nam nữ, đâu còn tâm trí quan tâm đến quốc gia đại sự. Đây rốt cuộc là họa hay phúc, là không có chí khí chứ không phải xem xét từng li.

Thích Thiếu Thương cũng không nghĩ tới, ý nghĩ này của y rất giống với Vương Tiểu Thạch mấy năm trước. Sau khi Vương Tiểu Thạch giao đấu một trận với thủ hạ của Thái Kinh tại Sầu Thạch trai, vội vã lưu lại một bài từ, khiến Thái Kinh suy đoán ra con người Vương Tiểu Thạch này chí khí phi phàm.

Thế nhưng, đồng dạng, đồng lý, đường đường là thừa tướng một nước, lại phí tâm vì đấu tranh nhỏ nhặt trên nhân sự, khác biệt nhỏ nhặt trên chữ viết, nào có thể đặt tâm lực vào việc cải thiện đời sống của nhân dân?

Một tể tướng đã như thế, hiện giờ hoàng đế cũng như vậy, thử hỏi quốc gia này làm sao có thể bất bại? Làm sao có thể bất vong?

Quốc gia sắp vong, yêu nghiệt xuất hiện, mà người chịu khổ nhất định là bình dân bá tánh.

Điểm này nghìn đời không thay, kiếp này không đổi.

Thứ thay đổi là Thích Thiếu Thương.

Nhìn thấy cảnh này trong phòng, trong lòng y giống như có sóng cả vạn trượng đánh vào.

Y thật sự không nhìn nổi.

Y quay đầu bước đi.

Thế nhưng y vừa quay đầu, lại không đi được.

Bởi vì y nhìn thấy một người, đang chờ y dưới ánh trăng.

Người này không phải bản thân y, mà là hán tử kia, Tôn Công Điệt.

Không biết từ khi nào, hắn đã đứng dưới ánh trăng, trên nóc nhà, sau lưng Thích Thiếu Thương.

Nếu không phải trên tay hắn ôm một chiếc tiêu vĩ cầm cổ xưa như sắt không phải sắt, Thích Thiếu Thương vừa thấy còn tưởng rằng lại gặp chính mình.

Nhưng lần này thật sự không phải chính y, mà là hán tử ngang ngược lông mày như kiếm, chỉ xéo tóc mai, môi mỏng như kiếm, mày giương như kiếm, mắt sáng như kiếm, nếp nhăn như kiếm, cao gầy như kiếm, áo trắng như kiếm.

Hán tử kia đã đến sau lưng y tám thước, cả người giống như một thanh kiếm rời khỏi vỏ.

Kiếm lạnh.

Nụ cười của hắn cũng lạnh.

Nhưng đôi mắt lạnh lùng kiêu ngạo kia lại có phần ấm áp.

Cũng không biết vì sao, Thích Thiếu Thương nhìn thấy người này, chợt sinh ra một loại cảm giác “nháy mắt chết, chớp mắt vong, trong một hơi thở”.

Thích Thiếu Thương nhìn thấy người này, đến tình cảnh này, đã biết rõ đó không phải là mình, nhưng vẫn cảm thấy đối phương gần như chính là mình, ít nhất là rất giống “mình”.

Y gần như nhìn thấy một “mình” hoàn toàn không phải “chính mình”.

Y đã nhìn thấy, có phần ngơ ngẩn, nhưng không kinh ngạc, giống như đó là một chuyện nên xảy ra từ sớm, chỉ có điều trước đó một khắc y còn không biết khi nào nó sẽ xảy ra. Câu đầu tiên của y là: 

- Ngươi đàm luận với Sư Sư, là nói cho ta nghe.

Hán tử kia nói: 

- Ta đã sớm biết ngươi ở bên ngoài.

Thích Thiếu Thương nói: 

- Ba ngày trước, ta cũng biết ngươi ở bên ngoài nghe lén.

Tôn Công Điệt nói: 

- Cho nên, tối nay ta hỏi lại lần nữa, để cho ngươi cũng nghe được, xem thử Sư Sư ở sau lưng nói ngươi thế nào.

Giọng nói của hai người đều rất nhỏ, nhỏ đến mức chỉ có hai người bọn họ ở trên chỗ cao, dưới trăng thanh gió mát này mới nghe được.

Bọn họ cũng không dám kinh động, một khi kinh động bên dưới, người hộ giá có thể sẽ lũ lượt kéo ra. Khi đó cho dù có thể toàn thân rút lui, cũng nhất định gặp phải phiền toái.

Cho nên bọn họ tiếp tục thấp giọng nói nhanh.

Chỉ nói cho đối phương nghe.

Chỉ có đối phương mới nghe thấy, nghe hiểu, nghe rõ. Trên dãy mái nhà cố đô cổ xưa, bọn họ đối thoại, đối diện, cũng đối kháng với nhau như vậy.

Ánh mắt của Tôn Công Điệt chuyển sang nhìn vào đóa hoa trong tay Thích Thiếu Thương

- Ngươi muốn tặng cho nàng?

Thích Thiếu Thương nhìn đóa hoa trong tay một chút, trăng sáng như gương, mộng ảo không hoa.

Tại khoảnh khắc y cúi đầu nhìn hoa, Tôn Công Điệt đột nhiên cảm giác được có phần tâm lạnh, cũng có phần tâm động, càng có phần tâm đau.

Bất diệt như mộng.

Trăng sáng gió trong.

Hắn chỉ cảm thấy người trước mắt trắng như trăng, sáng như trăng, lạnh như trăng, dáng vẻ như trăng, cũng ôn hòa như trăng, lại thê lương và bi thương như trăng.

Vậy thì giống như một “hắn” khác, trên nóc nhà nửa đêm thần bí này, để hắn gặp phải, gặp được, gặp gỡ nhau.

Khiến hắn nhất thời không phân biệt rõ.

Là địch hay bạn?

Là đúng hay sai?

Là ta hay hắn?

Là quá khứ hay tương lai?

Là mộng? Là thật?

Là có? Là không?

Mùa hạ đang lúc áo xuân mỏng.

Dưới trăng tròn khi xuân hạ giao nhau này, hai người vừa lúc gặp nhau trên mái cao cố đô.

Diêm mái hiên vạn nhà đều ngủ.

Hoàng đế đương triều và hồng phấn thanh lâu nổi danh đang chung chạ trong phòng, đã thổi tắt đèn.

Đèn tắt, trăng sáng.

Hoa giữa ngón tay y.

Đàn ở dưới nách hắn.

Đây là một đêm trăng, có bi thương, không giấc mộng.

Thích Thiếu Thương đột nhiên nói: 

- Hoa này, không tặng nữa. Nếu tặng, vậy tặng cho ngươi đi!

Tôn Công Điệt cười:

- Ngươi tặng hoa cho ta?

Thích Thiếu Thương nói: 

- Tặng hoa cho ngươi là thăm hỏi ngươi, dù sao ngươi cũng là đạo tặc hái hoa mà.

Dưới đêm trăng, Tôn Công Điệt dường như hơi chấn động.

Hắn bắt đầu tháo tấm vải nhung bọc chiếc đàn của mình ra.

Thích Thiếu Thương vẫn nói: 

- Ngươi đừng tưởng ta không biết ngươi là ai.

Sát khí trong mắt Tôn Công Điệt bừng lên, sắc như vầng kiếm:

- Vậy ta là ai?

Thích Thiếu Thương nói:

- Gần đây trên giang hồ xuất hiện một tên sát thủ nổi tiếng, cũng là dâm ma tiếng xấu vang lừng. Người của quan phủ, triều đình, lục lâm, võ lâm, hai đạo hắc bạch đều đang tìm hắn tính sổ. Nghe người ta đồn hắn dâm không đức hạnh, nhưng người mà hắn giết dường như đều là những kẻ tội ác tày trời.

Tôn Công Điệt cười, nụ cười rất cô, cũng rất độc, hơn nữa còn ngạo ngạn.

Thích Thiếu Thương nhìn chăm chú vào hắn, nói: 

- Nghe nói dâm ma kia vẫn đang hoạt động khắp nơi, gần đây còn nhiều lần xuất hiện trong kinh, từng lấy tên giả là Tôn Tiểu Huệ, Tôn Lê Tử, Tôn Gia Linh, Tôn Hoa Thiến.

Sau đó y nói từng chữ từng câu:

- Hiện tại hắn đang dùng tên giả là Tôn Công Điệt.

Nếu như nói Tôn Công Điệt nguyên bản giống như một thanh kiếm, vậy thì hiện giờ kiếm của hắn đã hoàn toàn rút ra khỏi vỏ.

Kiếm sắc bén.

Đó là một thanh kiếm kiêu ngạo, một khi rời vỏ quyết không trở về vô ích.

Hắn hỏi: 

- Như vậy, ta là ai?

Thích Thiếu Thương cười, nụ cười của y rất thoải mái, cũng rất tịch mịch.

Rất tịch mịch, nhưng không lạnh nhạt.

Y nói, chỉ ba chữ:

- Tôn Thanh Hà.

Sau đó y không nói thêm nữa, nhưng thần thái của y giống như trăng sáng đầy trời.

Ngón tay của y vẫn nhón hoa.

Tay của y rất nhỏ, rất thanh tú, giống như tay của nữ nhân.

Trăng đang chiếu vào trên cánh hoa giữa ngón tay y.

Hoa đã tàn một nửa, cũng giống như nở một nửa.

Đêm đã quá nửa.

Người thì sao?

Vi ai gió sương đứng trong đêm?

Vượt qua biên tái nhìn trăng sáng?

Sông nước năm nào trăng vừa rọi?

Trăng ấy soi người từ thuở nao?

Chương 49 – Nháy mắt chết, chớp mắt vong, trong một hơi thở

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Vóc người Tôn Thanh Hà mặc dù rất cao lớn, nhưng tay của hắn cũng rất sạch sẽ, hơn nữa còn rất thanh tú.

Bàn tay thanh tú của hắn đang rút ra một thanh kiếm kiêu ngạo hơn người, kiếm của hắn chỉ thẳng vào trời, trên trời có trăng.

Kiếm vốn ở trong đàn.

Lúc rút kiếm, kiếm ý quét qua dây đàn, phát ra ân anh cực kỳ êm tai.

Kiếm rất quạnh quẽ, đây là một thanh kiếm không có bằng hữu.

Ánh trăng rọi trên mũi kiếm chỉ phản chiếu hai chữ “cô độc”.

Sắc mặt của hắn bắt đầu phát xanh, nhưng ấn đường lại hiện lên màu đỏ:

- Ngươi đã biết ta là dâm ma Tôn Thanh Hà, vậy thì thế nào?

Thích Thiếu Thương khẽ nói: 

- Vậy thì ta muốn thay trời hành đạo…

Y chỉ nói tám chữ.

Lúc nói chữ thứ nhất, y đã bắt đầu rút kiếm.

Đến chữ thứ tám, y đã rút kiếm xong.

Tốc độ rút kiếm của y không hề nhanh, nhưng rất cẩn thận, hơn nữa còn thương tiếc.

Y đối với kiếm của mình có một loại thương hương tiếc ngọc giống như đối với nữ nhân yêu thích.

Y rút kiếm của mình ra, kiếm kêu vang động lòng người.

Kiếm từ bên hông rút ra, sau đó đặt ngang ngực, chỉ vào tim kẻ địch cách đó khoảng mười thước, đứng yên bất động.

Mắt của y rất đẹp, trắng nhiều hơn đen, nhưng màu trắng tươi sáng lại làm nổi bật màu đen lưu động, dường như có phần u oán, hết sức tịch mịch.

Ánh trăng rọi lên mũi kiếm trong tay y cũng lướt qua hai chữ “tịch mịch” lạnh lùng.

Đó là một thanh kiếm tịch mịch.

Lúc này hai người đều đã rút kiếm của mình ra.

Một kiếm chỉ thẳng lên trời, ngông cuồng bất kham.

Một kiếm chỉ ngang vào tim kẻ địch, tịch mịch vô biên.

Chợt nghe Tôn Thanh Hà ở xa cười nói: 

- Nghe nói ngươi cũng là giặc cỏ cường đạo, hơn nữa còn là đầu sỏ thủ lĩnh, còn từng to gan hành thích hoàn đế. Ngươi chẳng có gì tốt hơn ta, còn dám bắt ta sao?

Thích Thiếu Thương lạnh nhạt nói: 

- Nếu như ngươi thật sự là một dâm tặc, ta tuyệt đối không để cho ngươi đụng đến Lý Sư Sư.

Tôn Thanh Hà lạnh lùng nhìn kiếm của y: 

- Lý Sư Sư cũng không phải là của ngươi.

Thích Thiếu Thương chỉ nói: 

- Cho dù không phải của ta, ngươi cũng không thể đụng đến.

Tôn Thanh Hà bật cười nói: 

- Tại sao? Ngươi muốn giữ gìn sự trong sạch của danh kỹ thanh lâu này cho hoàng đế phong lưu kia sao? Người nàng thật sự thích là ngươi sao? Ngươi làm như vậy có thể cảm động được nàng sao?

Thích Thiếu Thương nói: 

- Ta thích một nữ nhân, cho dù không thể có được nàng, ta cũng hi vọng nàng sống tốt.

Tôn Thanh Hà im lặng một lúc, sau đó thất vọng nói: 

- Xem ra, lời cảnh cáo vừa rồi của ta đối với ngươi, hoàn toàn không có hiệu lực.

Thích Thiếu Thương lại chỉ nhìn kiếm của hắn: 

- Kẻ địch của ngươi ở trước mặt, kiếm lại chỉ lên trời, ngươi muốn đối địch với trời sao?

Tôn Thanh Hà thản nhiên nói: 

- Ta xem trời là địch.

Thích Thiếu Thương cười lạnh nói: 

- Thiên địch? Cuồng vọng.

Tôn Thanh Hà hỏi ngược lại: 

- Mũi kiếm của ngươi chỉ vào ta, chẳng phải là cũng xem ta là thiên địch?

Thích Thiếu Thương lắc đầu nói: 

- Không. Kiếm của ta chỉ vào tim của ngươi, nhưng tâm của kẻ địch chính là tâm của ta. 

Ánh mắt Tôn Thanh Hà co lại, con ngươi cũng bắt đầu thu hẹp:

- Ngươi dùng tâm của mình để đoán ý người khác?

Thích Thiếu Thương nói: 

- Ta chỉ là dùng tâm phát kiếm.

Tôn Thanh Hà trầm tĩnh nói: 

- Tốt, ta đã sớm muốn thử “Tâm kiếm” của ngươi một lần.

Vừa nói xong, hắn lại kẹp chiếc đàn cổ kia vào dưới nách.

Thích Thiếu Thương cũng nói: 

- Ta cũng muốn lĩnh giáo “Thiên kiếm” nổi danh thiên hạ.

Vừa dứt lời, hai người lập tức ra tay.

Chưa động thủ, trước tiên động cước.

Vừa động thủ, người liền động.

Không tiến mà lui.

Tôn Thanh Hà lui trước, lui rất nhanh, nhưng không tiếng động.

Hắn lui lại, so với tiến tới dường như càng tiêu sái, càng bất kham, cũng càng ngạo mạn hơn.

Ngay cả lui nhanh, hắn cũng có thể làm một cách tự nhiên lưu loát, ngạo mạn cô độc.

Cũng không thấy hắn thi triển bộ pháp gì, hắn chỉ bước nhanh về phía sau.

Sải bước rộng, nhanh và lớn.

Thích Thiếu Thương lại sấn lên phía trước.

Tay phải y cầm ngang kiếm, ngón cái và ngón trỏ tay trái vẫn nhón đóa hoa.

Giống như Tôn Thanh Hà tay phải cầm kiếm chỉ trời, tay trái vẫn kẹp chiếc đàn cổ kia. Chỉ có điều một người thì sấn tới, một người thì lui nhanh mà thôi.

Thích Thiếu Thương bám theo rất gấp, rất nhẹ nhàng.

Bước chân tựa như “dòng chảy”, đồng thời cũng ở dưới ánh trăng “chảy” ra một loại tịch mịch.

Y đang truy kích.

Rất ít người khi đang đuổi giết vẫn có thể bảo trì một loại tịch mịch và tiêu sái như vậy.

Một lui, một tiến.

Trong vô thanh vô tức, đã giẫm lên ánh trăng, từ nơi gặp nhau ban đầu dời ra xa năm sáu mươi trượng. Nói cách khác, hai người vẫn cách nhau khoảng tám đến mười thước, nhưng cách nơi ban đầu đã đến mấy chục trượng.

Nơi bọn họ dừng chân đối diện, vừa khéo chính là nơi vừa rồi Thích Thiếu Thương trong nháy mắt ly thần, gần như tẩu hỏa nhập ma.

Có điều, hiện giờ y cũng không “nhập ma”.

Đặt chân lên phiến ngói cũ đá xưa này, đối diện với y chính là “thiên ma” của y.

Tôn Thanh Hà cũng lòng không tạp niệm, trong mắt hắn chỉ có một người, kẻ địch, đó là “thiên địch” của hắn.

Cho dù hai người đã quyết tâm phải đánh một trận, nhưng trước khi giao thủ vẫn không muốn làm kinh động những cao thủ hộ giá.

Bọn họ không ai muốn thông qua lực lượng của quan lại để đối phó với đại địch trong suy nghĩ của mình.

Kẻ địch chân chính phải nhận được sự tôn trọng lớn nhất, bởi vì sự tồn tại của bọn họ sẽ khiến cho ngươi nỗ lực tiến tới, không ngừng cố gắng.

Miệt thị kẻ địch, cũng giống như xem thường phân lượng của mình.

Bọn họ không ai có thể chấp nhận, những cấm quân cao thủ chỉ biết quỳ gối nịnh bợ hoàng thân quốc thích, không biết xấu hổ, lại chạm một ngón tay lên người “kẻ địch” trong suy nghĩ của mình.

Quyết không.

Người giang hồ có nguyên tắc của người giang hồ.

Người võ lâm có quy tắc của người võ lâm.

Cao thủ tự có phong phạm của cao thủ.

Cao thủ tuyệt đỉnh càng có khí phách của hắn.

Cùng với phong cách hành xử kiên quyết của bọn họ.

Chỉ giết địch, không làm nhục địch, cũng là một loại quy tắc chung của bọn họ.

Cho nên bọn họ trước tiên lui ra, sau đó mới quyết chiến.

Nháy mắt chết, chớp mắt vong.

Đối với cao thủ, đó chẳng qua là chuyện trong một hơi thở.

Không ai có thể phân rõ, rốt cuộc là Thích Thiếu Thương xuất kiếm trước, hay là Tôn Thanh Hà xuất kiếm trước? Là Tôn Thanh Hà xuất thủ trước, hay là Thích Thiếu Thương xuất thủ trước?

Nhưng hai người đều đồng loạt xuất thủ, xuất kiếm.

Không ai rõ vì sao hai người bọn họ nhất định phải động thủ. Có lúc, giữa bọn họ có rất nhiều điểm chung và tương tự, lẽ ra phải liên thủ kết minh, chứ không phải đối lập thù địch mới đúng.

Thế nhưng tại hoàng thành tối nay, bọn họ vẫn quyết chiến, quyết đấu, quyết phân thắng bại.

Mọi người thậm chí cũng chưa chắc có thể phân biệt được, rốt cuộc là Thích Thiếu Thương đại biểu cho chính nghĩa, hay là Tôn Thanh Hà ngang hàng với bóng tối? Rốt cuộc là Tôn Thanh Hà quá háo sắc, hay là là Thích Thiếu Thương quá háo quyền?

Có lẽ không phải là gì cả.

Bọn họ chỉ là một đôi, hai người.

Hai người sinh ra đã định sẵn sẽ có một cuộc gặp mặt.

Đã gặp mặt thì phải quyết chiến.

Có một số người sinh ra đã định sẵn sẽ răng môi gắn bó, cũng môi hở răng lạnh. Chẳng hạn Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi là như vậy, Bá Lạc và thiên lý mã, Chung Tử Kỳ và Bá Nha cũng như thế.

Cũng có một số người trời sinh là đối thủ một mất một còn, quyết không đội trời chung. Sống ở trên đời, không liều một lần mạnh thắng yếu thua, cũng thà rằng ngọc nát đá tan, để tránh người này xuống người kia lên. Chẳng hạn như Lưu Bang và Hạng Vũ, hoặc như Gia Cát Lượng và Chu Du, hay như Vương An Thạch và Tư Mã Quang.

Cũng có những người vốn là kẻ địch, sau đó lại thành cùng một trận tuyến, sinh tử gắn bó. Hoặc vốn là chiến hữu cùng tiến cùng lui, nhưng cuối cùng lại trở thành cừu địch thề không đội trời chung. Trong đó đương nhiên đã trải qua biến chuyển khéo léo, biến đổi của nhân thế, cùng với rèn luyện và diễn biến khi có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia. Giống như Hán Cao Tổ và đại tướng Hàn Tín, quân sư Trương Lương, lại giống như Việt vương Câu Tiễn và Ngô vương Phù Sai, cũng như Tống đại tổ sau khi khoác hoàng bào đối xử với các bộ tướng ngày xưa.

Có những người hóa bạn thành địch.

Có những người hóa địch thành bạn.

Thế nhưng, Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà thì sao?

Bọn họ, trên mái cao, dưới trăng sáng, đã rút kiếm, xuất chiêu, quyết chiến.

Quyết chiến chỉ là chuyện của hai người bọn họ, bọn họ không muốn bất cứ người nào biết được, không muốn những người khác biết.

Bọn họ chỉ cần chứng thực.

Giữa bọn họ ai cao ai thấp?

Ai cao minh hơn ai?

Hay là một người cao, một người minh?

Có lẽ, Thích Thiếu Thương chỉ là một Tôn Thanh Hà xem nghĩa khí nặng một chút, nắm quyền lực chặt một chút; còn Tôn Thanh Hà chính là một Thích Thiếu Thương xem sắc đẹp lớn một chút, đối với tình dục phóng túng hơn một chút.

Có lẽ, điều mà Thích Thiếu Thương khó chịu ở Tôn Thanh Hà, đó là hắn khinh danh quyền mà lại tận tình hoan lạc.

Đồng dạng, điều mà Tôn Thanh Hà coi thường Thích Thiếu Thương, đó là y trọng quyền danh mà lại quá si tình.

Nếu như, hai người bọn họ đều thật sự có khuyết điểm như trên.

Chương 10 – Hồng nhan chưa già ân đã đoạn

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà đã lui ra phía xa giao thủ, đêm khuya trên mái cong của lầu cao nhà cổ cố đô, bọn họ tận lực/tận tình/tận ý/tận tâm quyết chiến.

Bọn họ không muốn có người khác quấy rầy.

Bọn họ cho rằng không ai nhìn thấy cuộc quyết đấu này.

Nhưng vẫn có người nhìn thấy.

Đã nhìn thấy.

Người thứ nhất nhìn thấy, có thể ngay cả Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà cũng sẽ cảm thấy bất ngờ.

Đó là hoàng đế Triệu Cát.

Nguyên lai, Triệu Cát tuy đang tình nồng ý ngọt, tân tình phóng túng với Lý Sư Sư, nhưng không biết vì sao, hắn cảm giác được có điểm bất an, bất ổn.

Có thể là vì hắn từng gặp nguy hiểm tại Huân Hương các, cho nên hắn đặc biệt cảnh giác.

Hơn nữa, bởi vì tinh thông vận luật, hắn cũng có một đôi tai nhạy bén hơn so với người thường, thính giác của hắn rất tốt.

Hắn vốn đang say mê trong ôn hương nguyễn ngọc, đang muốn cùng giường chung gối, đi đến Vu Sơn với Lý Sư Sư, nhưng không biết vì sao, sau khi nến hết đèn tắt, trong bóng tối, hắn chợt loáng thoáng sinh ra chộn rộn bất an.

Điều này rất kỳ quái.

Khi đại não cuồng loạn kích động, tiểu não lại đặc biệt hưởng thụ vui sướng; khi đại não tỉnh táo khôn khéo, tiểu não chưa chắc cũng có thể sảng khoái tràn trề.

Con người chính là như vậy, giống như khôi phục thú tính, sẽ mặc sức khoan khoái hơn một chút; nhưng nếu buông thả dục vọng giống như cầm thú, kết quả thông thường đều là phúc không bền lâu, gieo gió gặt bão.

(Mình là cửu ngũ chi tôn cao quý, cũng không có ngoại lệ sao?)

Kỳ quái là tối nay, hoàng đế Triệu Cát ôm một thân thể nhuyễn ngọc ôn hương như vậy, trong nháy mắt này lại tỉnh dậy một cách (đối với hắn mà nói) không thể tưởng tượng, nhất thời tình dục dâng trào cũng giảm hơn phân nửa.

Có lẽ là trong bóng tối, Triệu Cát ôm lấy giai nhân tuyệt sắc, trong lòng lại nhớ tới nỗi nhục lúc trước bị hành thích trốn xuống đáy giường. Trong lúc nhất thời, tư thái đế vương, khí khái anh hùng cũng giảm sút. Mà trước mắt hắn lại chợt xuất hiện một cảnh tượng.

Tường thành cổ.

Trời băng đất tuyết.

Đất đai xơ xác tiêu điều.

Nơi cuối bức tường, vòng qua khúc quanh, lập tức nhìn thấy một ngôi chùa cổ.

Trước chùa cây khô, sư tử đá tang thương.

Bên cửa chùa, nơi lan can, có một bức tường khác quanh co kéo dài, sau tường dường như có hai người, một trước một sau, thần tình buồn bã, sắc mặt ưu sầu bi phẫn, giống như đã ở đó rất lâu, rất lâu rất lâu, rất lâu rất lâu rất lâu rồi…

Bọn họ giống như đang nhớ về quê hương, chờ đợi về nhà, chỉ là đường về xa xăm mộng khó thành.

Đất đai thê lương như vậy.

Người bi thương như vậy.

Người nọ, sao lại quen thuộc như thế?

Lại nhìn kỹ, phía sau người nọ chẳng phải một vị vương tử mà hắn rất sủng ái sao? Nó… nó sao lại trở nên buồn rầu già nua như thế? Hắn cả kinh, không dám xem thường, khi nhìn lại thì càng sợ hãi hơn.

Hóa ra một người khác đang đưa mắt nhìn trời, mái tóc bạc phơ, vẻ mặt đau buồn, cả người phát ra một trạng thái già nua không nơi nương tựa, bơ vơ bệnh sầu, lại là…

Mình?

(Đã xảy ra chuyện gì?)

(Sao lại xuất hiện tình cảnh như vậy?)

Hắn lập tức ngồi lên, mồ hôi chảy khắp người. Lý Sư Sư vội xoa xoa lưng hắn, ân cần thăm hỏi.

- Thánh thượng bị kinh hãi, là nằm mơ sao? Ác mộng báo trước chuyện tốt sắp đến. Thánh thượng kinh sợ, đều là do tiện thiếp không tốt, hầu hạ không chu đáo, mới khiến thánh thượng bị giật mình.

Trong lòng Lý Sư Sư cũng hoài nghi, sao lần này đạo quân hoàng đế hứng thú dạt dào đến đây, hiện giờ lại giống như chim sợ cành cong, hơn nữa còn mệt mỏi ủ rũ. Xem ra lựa chọn không vào cung là đúng, nếu không một khi ân sủng không còn, lãnh cung ngồi đợi, sống chết khó làm chủ, biết dựa vào ai? Hồng nhan chưa già ân đã đoạn, muốn mỹ mỹ lệ lệ sống qua một đời, phải hiểu được trước tiên khiến người khác đa tình, nhưng mình phải vô tình, tuyệt tình, không động tình.

Thế nhưng, mình có thể sao?

Nghĩ tới đây, không nhịn được tâm tình bi thương nguội lạnh.

Ngay cả việc từ bỏ hoàng đế này nàng cũng không làm được, chẳng những thân không do mình, cũng tâm không do mình.

Nàng biết hắn đối xử tốt với nàng, dù vậy tuyệt đối không thể tồn tại muôn thuở, biển cạn đá mòn.

Nhưng như vậy đã đủ. 

Một nữ nhân, có được một nam nhân tôn quý từng đối xử tốt với nàng như vậy. Hơn nữa nam nhân đối xử tốt với nàng cũng không chỉ một mình hắn.

Nữ nhân còn có thể đòi hỏi điều gì? Yêu cầu thứ gì cao xa hơn nữa?

Nàng đối với mỗi người đều cảm ơn, đều có tình.

Tình có thể nói đoạn là đoạn sao?

Nếu như không đủ nhẫn tâm đoạn tình, vậy thì phải thương thương tâm tâm sống qua một đời.

Thế nhưng, người thương tâm hẳn là mình. Vạn tuế gia hoàng đế này luôn luôn chỉ biết tận tình phóng túng, tự tìm khoái lạc, không biết sầu lo, sao hiện giờ thần sắc lại sầu não bi thương như vậy?

Nàng không biết, cũng không hiểu.

Hoa không biết nói càng quyến rũ.

Huống hồ là nàng lúc này nhuyễn ngọc ôn hương, tóc mây hơi loạn, áo chăn nửa lộ?

Triệu Cát trước giờ không phải là không biết phong lưu.

Chỉ đại anh hùng có bản sắc, là danh sĩ thật tự phong lưu.

Huống hồ hắn là hoàng đế.

Thế nhưng, tối nay, hắn lại đột nhiên nhìn thấy hai người quen thuộc như vậy (một người giống như là mình, còn một người giống như con trai của mình), dường như đang bị giam cầm trong trời đông giá rét tại bắc quốc vắng lặng. Đây là mộng? Hay là ảo? Là thật? Hay là không?

Ai, có phải nên nghe dân oán, trừng phạt cách chức đám đại thần quanh năm ở bên cạnh mình a dua nịnh hót hay không?

Triệu Cát vốn thông minh, thực ra hắn chỉ thích an nhàn hưởng lạc chứ không hề hồ đồ. Đám quyền thần bên cạnh làm xằng làm bậy, hắn cũng không phải hoàn toàn không biết. Chỉ có điều, những chuyện mà bọn họ làm chính là hắn muốn làm, thích làm, mơ làm, nhưng không tiện làm. Bọn họ đều làm vì hắn, hắn đương nhiên trong lòng cao hứng, khó tránh khỏi trọng dụng, phong thưởng cho những người này.

Thế nhưng, lỡ may quá tin tưởng những người này sẽ gây bất lợi cho mình, vậy thì lại là chuyện khác.

Có lẽ, khi đến thời điểm, cũng nên sớm buông tay một chút, không hỏi quốc sự, an bài thoái ẩn làm một đạo quân hoàng đế, bình thản vô vi, cả ngày du sơn ngoạn thủy, hưởng thụ nhân gian an lạc.

(Ồ, vừa rồi trong mộng không phải mộng nhìn thấy Vương nhi, mình cũng luôn sủng ái nó, có phải là thần linh chỉ điểm, lập nó thừa kế đại vị hay không? Ngôi chùa kia một mảnh tiêu điều, chỉ có nó vẫn làm bạn với mình, có thể cảm giác được huyết mạch thân tình nương tựa lẫn nhau. Thế nhưng, vì sao ánh mắt của Vương nhi nhìn bóng lưng của mình, lại thù hận căm phẫn như vậy?)

Rốt cuộc đó là chuyện gì? Kiếp trước? Hay là kiếp sau? Tống Huy Tông đạo quân hoàng đế Triệu Cát ngồi trong bóng tối, giữa gian phòng đầy hương thơm của tuyệt đại mỹ nhân Lý Sư Sư, nhất thời cũng nghĩ không thông.

Do đó hắn khẽ đẩy Lý Sư Sư ra, giống như đẩy ra một nỗi ưu sầu trong lòng, vô ý nhìn ra bên ngoài cửa sổ.

Lúc này vừa lúc nhìn thấy Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà ở phía xa đang quyết đấu dưới ánh trăng.

Lúc này, hai đại cao thủ đã đứng nghiêm người, đã động kiếm, ra tay.

Ra tay không lưu tình.

Bởi vì sau khi đứng lại trên mái cổ, Tôn Thanh Hà còn cười nói một câu với Thích Thiếu Thương.

Một câu đã chọc giận Thích Thiếu Thương.

- Tốt nhất “Tâm kiếm” của ngươi có thể thắng được “Thiên kiếm” của ta, nếu không đại sắc ma ta trước hết sẽ cưỡng gian Lý Sư Sư.

Câu này tuyệt đối đã chọc giận Thích Thiếu Thương.

Cùng với kiếm của y.

Chương 51 – Nối tiếp nhau, thương yêu nhau, hoài nghi nhau

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Kiếm trên tay y có một cái tên, đó là “Si”.

Chỉ một chữ.

Y rút thanh kiếm giết người của mình ra, đồng thời cũng nói một câu tổn thương người.

- Một người thật sự thích nữ nhân sẽ không cưỡng gian nữ nhân. Ngươi to gan làm bậy, vô độ tùy hứng, ta có thể mặc kệ. Nhưng gần hai tháng qua ở kinh thành, ngươi ít nhất đã gây ra mười một vụ cưỡng gian giết người. Ta giết ngươi để tế trời, để tế hồng nhan, để trút công phẫn. Nếu ngươi đã làm chuyện như vậy thì không xứng làm người võ lâm, cũng không xứng làm hảo hán, càng không xứng làm người!

Sắc mặt của y trắng như tuyết, áo trắng như tuyết, kiếm trắng hơn tuyết.

Trăng cũng trắng như tuyết.

“Tuyết” ý đột nhiên bừng lên.

Kiếm ý bùng cháy mạnh mẽ.

Kiếm tấn công Tôn Thanh Hà.

Tôn Thanh Hà vẫn nhìn chăm chú vào tay của Thích Thiếu Thương.

Không phải nhìn kiếm của y, cũng không phải nhìn cánh tay cầm kiếm của y, mà là nhìn ngón tay đang kẹp đóa hoa đã tàn một nửa.

Hắn còn nói một câu rất liều lĩnh:

- Ngươi nói ta làm thì ta làm, vậy thì thế nào! Ta cưỡng gian hết mỹ nữ trong thiên hạ, hưởng hết vui vẻ của nhân thế, khoái hoạt hết cả đời, ngươi sẽ làm gì?

Hắn cũng trả lại một kiếm, giống như trả lại một ân tình.

Kiếm của hắn cũng có tên gọi, đó là “Thác” (sai).

Kiếm của hắn tên là “Thác”.

Ai, trên đời này, si si thác thác, lại có ai biết? Ai phân rõ được?

Bọn họ đã rời đi xa, Triệu Cát chỉ trông thấy hai bóng người quyết chiến trên nóc nhà dưới ánh trăng, đương nhiên không nghe được bọn họ nói gì.

Hắn chỉ phát hiện bóng dáng của một người có điểm quen thuộc.

Hắn vừa nhìn chỉ cảm thấy trong lòng lạnh đi.

Đây chẳng phải là sát thủ lần trước đã đánh lén hắn tại Huân Hương các sao?

(Sao tối nay lại xuất hiện?)

(Sao mỗi lần đến đây gặp Lý Sư Sư, đều gặp phải sát tinh như vậy.)

(Chẳng lẽ tối nay những kẻ liều mạng này lại nhằm vào trẫm?)

Như vậy, sao bọn chúng lại động thủ?

Nói thì chậm nhưng diễn ra thì nhanh, hai người này đã xuất kiếm, đã động thủ, đã qua một chiêu.

Sắc mặt Tôn Thanh Hà phát xanh.

Nơi hắn đứng, ngói xanh như than vẽ.

Y phục của hắn màu xanh nhạt, kiếm cũng biến xanh.

Dường như ngay cả vầng trăng trên đầu cũng là màu xanh.

“Thanh” khí chợt tăng nhiều.

Vầng kiếm mãnh liệt.

Kiếm tấn công Thích Thiếu Thương.

Triệu Cát ngồi ở nơi tối tăm trong cửa sổ, chỉ thấy dưới ánh trăng bên kia, phía trên kia, trên tay hai người là một vệt sáng bạc màu trắng như nước, một vệt sáng lục màu xanh như nước, biến ảo thành hai con rồng nước giao kích với nhau. Trong nháy mắt, hai con rồng xanh rồng trắng đan vào nhau nhanh như điện xẹt, sau đó lập tức trở về trên tay hai người.

Trong nháy mắt đó, hoàng đế Triệu Cát quanh năm chìm trong tửu sắc cũng không nói rõ được, rốt cuộc ai là rồng xanh? Ai là rồng trắng? Là rồng trắng trở lại trong tay người áo trắng, rồng xanh trở lại trong tay người áo xanh? Hay là rồng trắng rơi vào trong tay người áo xanh, rồng xanh rơi vào trong tay người áo trắng? Dù sao, rồng xanh và rồng trắng vẫn đang đứng đối diện trên nóc nhà nơi ấy.

Triệu Cát nhìn không kỹ, cũng nhìn không hiểu.

Đó không phải là thơ, cũng không phải là tranh, càng không phải là vận luật.

Những thứ này chẳng những hắn hiểu, hơn nữa còn tinh thông.

Đây đều là những thứ lịch sự cao nhã, không thấp kém giống như những kẻ lỗ mãng cầm đao cầm kiếm đánh đánh giết giết trên nóc nhà kia.

Thế nhưng, vấn đề là Triệu Cát cũng hiểu, nếu như không có những kẻ cầm kiếm rút đao này, giang sơn của hắn cũng khó mà giữ được; hơn nữa, nếu những kẻ cầm thương lắp tên này đều chuyển sang nhằm vào hắn, ngay cả đầu rồng của hắn cũng không đảm bảo.

Hắn càng nghĩ trong lòng càng lạnh.

Một khi tâm kinh, gan sẽ nhảy, gan sắc cũng nhỏ đi.

Hắn không kìm được nhớ tới, tại nơi này của Lý Sư Sư, hắn năm lần bảy lượt bị kinh hãi, năm lần bảy lượt bị nhục nhã. Hơn nữa cô gái này tuy xinh đẹp, nhưng cũng biết động đao động thương, hiển nhiên cũng có quan hệ mật thiết với đủ hạng người trên giang hồ. Điều này khiến cho hắn không thể không giật mình đề phòng.

Hắn luôn luôn rất yêu thích cô gái trong lòng này, bởi vì nàng hiểu ý người khác.

Hắn luôn luôn rất thương tiếc nàng.

Thế nhưng hiện giờ hắn cũng khó tránh khỏi sinh ra hoài nghi với nàng.

Tối nay hắn cũng không muốn trêu chọc người lạ quyết chiến trên nóc nhà kia, để mặc cho bọn họ đánh tiếp. Đối với những kỳ nhân dị sĩ trong giang hồ này, tốt nhất vẫn không nên dây vào.

Chủ yếu là bọn họ không phải nhắm vào mình, hắn cũng không muốn/không cần/không dám truy cứu tiếp.

Cho nên hắn cũng không đợi tiếp.

Hắn nhấc chiếc chuông nhỏ trên giường lên, người hầu lập tức đi tới/tiến tới/vào tới.

Hắn vội vã rời đi, thậm chí không an ủi Lý Sư Sư.

Mọi người đều không biết vì sao lần này hoàng thượng tới một cách hào hứng, sau đó lại vội vàng rời đi. Lý Sư Sư lại hiểu được một chút, bởi vì nàng nhìn theo ánh mắt của Triệu Cát, cũng phát hiện hai bóng dáng đang quyết chiến trên mái cong cao nhất trong thành 

Bọn họ đã đối mặt!

(Vì sao bọn họ lại chiến đấu?)

Vì thánh thượng? Vì chính nghĩa? Hay là vì ta?

Lý Sư Sư liếc thấy ánh mắt của hoàng đế tỏa sáng trong bóng tối.

Nàng không nghĩ tới, hoàng đế này quanh năm chìm trong tửu sắc múa ca, lại có ánh mắt cơ trí và trong vắt như vậy.

Nhất là trong bóng tối âm này này, càng đặc biệt trong vắt.

Nàng chưa từng phát hiện hắn còn có đặc điểm này.

Nàng đột nhiên cảm thấy hơi xúc động. Vua của một nước thường ngày hoang dâm vô độ, trong đêm trăng có người quyết chiến, ánh mắt lại tỏa sáng ở trong phòng làm bạn với nàng.

Vì sự xúc động này, nàng thật sự không tiếc hi sinh vì hắn.

Chỉ cần lúc này hắn lại gọi nàng vào cung, cho dù là vừa vào cửa cung sâu như biển, nàng cũng quyết chí tiến lên, vì nghĩa không chùn bước.

Đáng tiếc hắn không gọi, cũng không triệu tập.

Hắn đi rồi.

Chỉ còn lại nàng ở trong phòng.

Còn có một bộ y phục trong màu vàng mà hắn để lại trước khi đi, bày ở trên giường.

Trên y phục loáng thoáng thêu một con rồng.

Rồng nhe nanh múa vuốt, nằm ở trên giường rất an tĩnh.

Đó là một con rồng vàng.

Nàng liền cầm món y phục trong kia lên, ngồi ở mép giường, nhìn một hồi, đặt dưới mũi ngửi một cái, lại đưa đến bên miệng, nhìn đầu rồng, cắn một cái.

Ở bên ngoài, Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà giao thủ mỗi người một chiêu.

Là chiêu thứ hai.

Chiêu thứ nhất, không động kiếm, chỉ di chuyển thân hình, thay đổi vị trí, dịch chuyển tới vị trí có lợi mới ra tay, hơn nữa trong quá trình dịch chuyển không ai để cho kẻ địch có cơ hội tập kích, đây cũng là một loại so chiêu, giao thủ.

Hiện giờ là chiêu thứ hai.

Hai con rồng kiếm, rồng nước lướt qua bầu trời, lại lần lượt trở lại trong tay, trong lòng hai người.

Chương 52 – Quê nhà non nước trong mơ

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Hoàng đế đã trở về.

Hắn không kìm được mất hết hứng thú, chẳng những hoảng hốt bất an, cũng mang theo một chút thương cảm.

(Hai người ở bắc quốc mùa đông lạnh lẽo, buồn bực không vui, râu ria đầy mặt, sầu não ưu tư kia, sao lại quen thuộc như thế?)

(Một người giống như trẫm.)

(Một người giống như Hoàn nhi.)

(Đây là chuyện gì?)

(Đường xa muốn về gian khó, quê nhà non nước trong mơ. Giang sơn xinh đẹp như vậy, sao bỗng chốc lại xuất hiện tình cảnh đìu hiu vắng vẻ, khiến người ta thương cảm.)

(Ai, chỉ mong là mộng là ảo.)

(Ai, đó không phải là thật.)

Tống Huy Tông thấp thỏm bất an, vì vậy mất hứng, bãi giá về cung.

Hắn lại không biết, trong một đêm này, dưới ánh trăng cổ xưa, trên nóc nhà già cỗi, trong một thời khắc thần kỳ thăm thẳm, đã xảy ra rất nhiều chuyện khác thường.

Thích Thiếu Thương nhìn bầu trời kinh thành, trong lúc ưu tư rối ren, lại nhìn thấy tiền thân hậu thế của mình, cùng với tương lai và mai sau của thành đô này.

Sau đó y quyết đấu với Tôn Thanh Hà, giống như tử chiến với chính mình.

Vì đôi mắt tỏa sáng của hoàng đế từ trong bóng tối nhìn ra ngoài cửa sổ, Lý Sư Sư không tiếc chết vì hắn. Nhưng vì hắn vội vã rời đi, chỉ để lại một bộ áo rồng màu vàng trong bóng tối trên giường, nàng lại quyết định không vào cung làm phi tần.

Hoàng đế thì sao?

Triệu Cát lại nhìn thấy sự bất hạnh của hắn, cùng với sự hi sinh của thái tử Triệu Hoàn mà hắn cưng chiều, còn có kết cục của hai cha con bọn họ.

Đêm tối kinh hoa.

Ánh trăng cố đô.

Có lẽ, trong cuộc đời luôn có thời khắc ra vào thời không, chu du trời đất, trên dưới thông suốt, tiến lùi tự nhiên.

Nhưng trận kịch chiến giữa Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà vẫn không dừng lại.

Bọn họ xuất thủ một chiêu, vẫn chưa phân thắng bại.

Cho nên bọn họ công ra chiêu thứ hai, kiếm thứ hai.

Tôn Thanh Hà đứng lên, như một con hạc trắng ngước chiếc mào đỏ trên đầu, giống như lá trúc trở lại trên cành.

Hắn chém xuống một kiếm.

Chém thẳng.

Chỉ chém vào Thích Thiếu Thương.

Thích Thiếu Thương cúi thấp người xuống, rồng có thể bay cao, cũng có thể ẩn mình.

Y là một người giỏi ẩn mình, càng giỏi bay cao. Y cong là để duỗi, lùi là để tiến, cúi thấp là để có ngày cao cao tại thượng.

Kiếm của y nghiêng nghiêng phất lên, ngăn cản kiếm của Tôn Thanh Hà.

Một kiếm từ dưới lên, một kiếm từ trên xuống.

Một vầng trăng, thiên hạ sáng.

Áo trắng như trăng, người trắng như áo.

Kiếm trắng như tuyết, dường như còn hơn cả tuyết.

Nhưng máu thì sao?

Nếu như trong đêm trăng này bắn ra máu anh hùng, có phải còn huyết hơn cả huyết, tuyết hơn cả tuyết, đỏ hơn cả máu?

Thế nhưng, không chỉ một mình Triệu Cát nhìn thấy hai người bọn họ quyết chiến.

Triệu Cát là một người trong đó.

Tại buổi tối kinh hoa này, có ba người đồng thời thấy được trận quyết đấu này.

Đạo quân hoàng đế là người thứ nhất, hắn cũng từ trong đó giác ngộ. Nhưng hắn không phải là người duy nhất, cũng chắc chắn không chỉ có hắn giác ngộ.

Còn có hai người khác phát hiện ra trận kịch chiến này.

Nhưng không phải Lý Sư Sư.

Nàng không có lòng xem trận chiến.

Nàng là nữ nhân, nàng cũng tập võ, nhưng không thích võ.

Nữ nhân trọng tình.

Nàng chỉ quan tâm làm sao đi yêu, nhưng yêu một người thật sự rất vất vả; các nàng chỉ đành đi hận, có điều hận một người cũng quá khó khăn.

Tình là thứ thương người thương mình nhất.

Thứ mà nam nhân trung thành là nghĩa khí, không phải yêu. Nghĩa chính là tình hoài của hắn.

Nữ nhân là loại người sống trong khí sắc, cho nên nữ nhân chung tình với yêu thương.

Anh hùng là một loại khí sắc của truyền thuyết, làm người ta ảo giác mình mới là mỹ nhân khiến hào kiệt chung tình.

Cho nên nữ nhân thích anh hùng.

Thực ra các nàng không thích bọn họ quyết đấu, máu thịt tung tóe, như vậy rất khó coi. Các nàng chỉ thích cảm giác khi bọn họ quyết đấu vì mình.

Các nàng hi vọng người quyết chiến vì mình, mà mình lại ái mộ, có thể bình an vô sự và chiến thắng trở về.

Trở lại trong lòng các nàng, sau đó nghe theo răm rắp những gì các nàng nói, giống như đứa trẻ do các nàng một tay sinh ra và nuôi dưỡng thành người vậy.

Đây mới là nam tử trong suy nghĩ của các nàng.

Tình nhân vĩnh viễn chịu chết vì các nàng nhưng không phải thật sự mất mạng, vẫn luôn yêu quý nhưng lại chịu tha thứ cho các nàng, hiểu được suy nghĩ trong lòng các nàng.

Cho nên nữ nhân bình thường gả cho trượng phu.

Trượng phu không có loại tố chất này.

Mà những người tốt hơn, các nàng luôn cho rằng nếu không phải chết sạch thì cũng không để cho mình gặp được.

Đúng vậy, Lý Sư Sư mặc dù nhìn thấy một trận đại quyết chiến, nàng cũng quan tâm đến hai người này, hai vị bằng hữu, nhưng lại không có lòng thưởng thức hay hòa giải.

Nếu người vô tâm ta sẽ dừng.

Nếu ta hữu ý thì thế nào?

Hoa vàng ngày mai bướm cũng sầu.

Trong lòng Lý Sư Sư có một loại cảm giác thê lương cô tịch.

Nàng chỉ hi vọng Triệu Cát, Thích Thiếu Thương, Tôn Thanh Hà đều không phải chết.

Nếu không thì đều chết hết cho rồi.

Nếu nhất định không chiếm được, nàng cũng chẳng cần thứ gì, dứt khoát hủy hết cho xong.

Trận quyết chiến này không phá hủy đấu chí của Lý Sư Sư. Thông thường thứ mà nữ nhân có không phải là đấu chí, mà là cố chấp.

Nhưng nó gần như đã phá hủy đấu chí và lòng tin của một người.

Hắn đương nhiên chính là người được xưng là quốc sư chân tiên trong cung đình, Hắc Quang Thượng Nhân.

Chương 53 – Mắt nhìn sóng cuộn mây tan

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Lúc đó đạo quân hoàng đế Triệu Cát hết lòng tin theo đạo giáo, rất trọng dụng đạo thổ phương sĩ, đến nỗi đạo quán mọc lên như rừng, đạo giáo thịnh vượng, đạo học lưu hành, lại có thuật sĩ tham gia chính sự, yêu đạo thịnh hành, trở thành một trào lưu thời thế, thần tiên tà thuyết thịnh hành, đã sớm thấy dấu hiệu họa vong.

Triệu Cát vốn tín ngưỡng phật giáo, chỉ hiềm tin phật lại gây khó khăn cho các loại sở thích của hắn, cộng thêm muốn vĩnh viễn hưởng phú quý quyền thế, lại muốn cầu trường sinh bất lão, cho nên bỏ phật nhập đạo, dùng dưỡng sinh, thải bổ, luyện đan, linh dị để thỏa mãn ý nghĩ tự cho là tiên nhân, lừa mình dối người. Hơn nữa hắn còn có suy nghĩ viễn vông, trong những năm tháng sinh thời ngắn ngủi và cấp bách muốn được thăng tiên trường thọ, điều này khiến cho không ít phương sĩ như Lâm Linh Tố, Vương Tử Tích dùng những phương pháp lừa gạt khéo léo lấy được sự tin tưởng của hắn. Trong thời gian này Triệu Cát lại kiềm chế Phật giáo, khiến cho thế lực đạo giáo đạt đến đỉnh cao, gốc rễ càng sâu.

Chiêm Biệt Dã vốn là một tên tiểu sa di của phật môn, trải qua tu hành, cuối cùng được thăng làm phó tọa của chùa. Nhưng lúc đó đạo giáo thịnh vương, phật giáo sa sút, hắn nghiến răng tự phong là đạo giáo chân nhân, sáng lập Hắc Quang pháp môn, tự xưng có năng lực hô mưa gọi gió, biết tâm sự người. Thái Kinh cũng có qua lại với hắn, lợi dụng lời nói quỷ quyệt của hắn, mượn danh ý trời, cầu xin Triệu Cát những thứ cần thiết, còn cố ý tiến cử hắn với Triệu Cát. Triệu Cát thấy hắn biểu diễn pháp thuật, có thể trong khoảnh khắc đốt một chén nước đá thành cầu lửa, có thể khiến một chén nước sôi trong nháy mắt kết băng, còn có thể biến giấy trắng thành đen, buổi tối đến sớm một canh giờ, lại không biết những chuyện này chỉ cần có nội công hơn người, có tri thức đối với nghịch nhiễu thứ tự thời gian, cùng với một chút tiểu xảo gạt người là có thể làm được. Cho nên Triệu Cát hoàn toàn tin tưởng Chiêm Biệt Dã, thấy hắn thích bóng tối lại háo sắc, liền tôn sùng là “Hắc Quang Thượng Nhân”, ban tặng mỹ nữ hầu hạ hắn.

Trong đêm tối kinh thành này, vừa rồi người còn chưa ngủ say, còn đang vui vẻ với nữ nhân chính “Hắc Quang Thượng Nhân” Chiêm Biệt Dã này.

Hắn được Triệu Cát tin tưởng coi trọng, Triệu Cát đã tới Hạnh hoa lâu gặp Lý Sư Sư, hắn dĩ nhiên cũng tới đây hộ giá. Có điều Triệu Cát đã điên long đảo phượng với Bạch Mẫu Đơn, hắn cũng không chịu thua kém, ôm một mỹ nữ như hoa đi tìm mộng đẹp.

Nhưng dù sao hắn cũng có năng lực hơn người.

Hắn vui thì vui, nhưng lại nghe được tiếng động khác thường.

Hắn lập tức cảnh giác, lật người ngồi dậy.

Nưng nữ nhân bên dưới còn chưa thỏa mãn, không biết vì sao hắn lại đột ngột khua chiêng thu binh, muốn kéo hắn ngã vào trong lòng nàng.

Hắc Quang Thượng Nhân háo sắc, nhưng hắn rất khôn khéo.

Người khôn khéo luôn phân biệt được rõ ràng, lúc nào thì nên hồ đồ.

Đây chắc chắn là lúc không thể hồ đồ.

Hoàng đế đang ở trong Huân Hương các, cách đây ba gian nhà, nhưng lại có cao nhân giao thủ quyết chiến cách đó không xa, lỡ may xảy ra chuyện, hắn chịu trách nhiệm được sao?

Trong lòng hắn hiểu rõ, hắn được ăn ngon mặc đẹp, tôi tớ như mây, mỹ nhân ái thiếp, địa vị cao quý, đều là nhờ được đạo quân hoàng đế sủng ái.

Cho nên an nguy của bị hoàng đế là thứ mà hắn coi trọng nhất, đó là thành bại vinh nhục, cũng là áo cơm cha mẹ của hắn.

Vì vây lúc này hắn lại cũng không màng vui vẻ nhất thời.

Hắn vươn ngón tay ra, phong tỏa huyệt đạo của nữ nhân trắng nõn nằm trên giường giống như một con rắn lớn đang vặn vẹo kia.

Nói thật, hắn cũng vừa lúc hơi mệt mỏi giảm đi hứng thú.

Muốn phóng túng thì còn nhiều thời gian và đối tượng, nhưng hoàng đế lão bản lỡ may có chuyện, vinh hoa phú quý của mình cũng thành công dã tràng.

Không thể xem thường.

Hắn vọt người một cái đã đến trước cửa sổ, lộ ra đôi mắt nhìn vào trận quyết chiến kia.

Lúc này, Thích Thiếu Thương/Tôn Thanh Hà vừa lúc xuất kiếm lần thứ hai.

Ánh kiếm trong khoảnh khắc, tiếng sấm vang ngàn đời.

Hắn thấy được một kiếm của Thích Thiếu Thương phất lên trên.

Sau đó lại không phải là ánh kiếm nữa, mà là ánh lửa.

Một ngọn lửa, ngọn lửa sinh mệnh.

Kiếm khách này lại trút toàn bộ ánh sáng của sinh mệnh mình vào trong một kiếm này.

Võ công của hắn vốn cũng rất cao, “Hắc Quang thần công” của hắn vốn đã tụ hợp tất cả lực lượng hắc ám vô biên trong trời đất.

Hắc ám vốn là vô tận, nội công của hắn cũng là vô hạn.

Một khi hắn xuất thủ (nhất là trong đêm tối), cũng giống như hòa làm một thể với hắc ám.

Quang minh ngắn ngủi, hắc ám triền miên.

Cho nên hắn mới là người thắng, có thể cười cuối cùng.

Người khác đều tu luyện võ công quang minh, có người dùng chưởng, quyền, nội công để tu luyện, có người lại dùng kiếm, đao, thương để tu luyện.

Đó là lực lượng quang minh, mãnh liệt, không ai dám tranh phong.

Đáng tiếc, tu luyện loại công phu dựa vào lực lượng quang minh này càng cao, công lực lại càng yếu kém.

Ánh nến luôn có lúc cháy hết, mặt trời cũng phải xuống núi.

Hắc ám mới là cao nhân chân chính, chỉ có hắn là tu luyện “lực lượng hắc ám”.

Cho nên hắn ẩn tàng, hơn nữa còn mạnh mẽ vô biên, giống như đêm tối không thể chống lại.

Thế nhưng hiện giờ hắn lại nhìn thấy một kiếm kia.

Đó không phải là kiếm, mà là sinh mệnh.

Ánh sáng thiêu đốt sinh mệnh thành một ngọn lửa.

Hắn kinh ngạc, hắn sợ hãi.

Nếu như một kiếm kia tấn công hắn, hắn cũng không biết mình có thể triệt tiêu được không.

(Có thể tiếp được một kiếm này không?)

Quang minh tới rồi, hắc ám dĩ nhiên sẽ tiêu tan, hơn nữa không chỗ nào ẩn trốn.

(Chẳng lẽ đây chính là tà không thể thắng chính? Đen không bằng trắng? Hắc ám cuối cùng sẽ bị quang minh đuổi đi?)

Lúc hắn đang hoài nghi, lại thấy một ánh kiếm khác.

Kiếm chém thẳng xuống Thích Thiếu Thương.

Ánh kiếm thành đã thành lửa, một ngọn lửa kích tình.

Kiếm thủ này lại dùng toàn bộ tình hoài của hắn hóa thành một kiếm này, hơn nữa còn chém xuống.

Trước đêm nay, Hắc Quang Thượng Nhân vẫn cho rằng quang minh khó duy trì lâu, hắc ám nhất định sẽ cắn nuốt tất cả. Nhưng bây giờ hắn nhìn thấy một kiếm này như lửa, một kiếm kia như ánh sáng, ý nghĩ của hắn bị đả kích cực lớn.

Hóa ra quang minh thật sự có thể chiến thắng hắc ám.

Thế nhưng lực lượng của hắn lại đến từ hắc ám.

Như vậy, chẳng phải hắn là một kẻ thất bại trời sinh?

Hiện giờ lại chuyển sang quang minh, còn kịp không?

Hay là mình kiên trì, tiếp tục theo hắc ám?

Nếu như tu luyện hắc ám đến đỉnh cao nhất, liệu có thể tiêu diệt quang minh không?

Nhưng hắn lại trời sinh thích tối, thích trốn trong bóng tối, hắn hận ánh sáng.

Từ nhỏ hắn đã không thích ánh sáng, bảo hắn làm sao đứng về phía quang minh?

Nếu hắn không thể làm bạn với quang minh, hắn cũng chỉ đánh đối lập với quang minh.

Chỉ là có thể thắng được không?

Có thể.

Đây là câu trả lời trước kia của hắn.

Đáng tiếc, hiện giờ hắn lại nhìn thấy hai kiếm như lửa như ánh sáng này.

Hắn đã thay đổi suy nghĩ.

Nếu quang minh là một loại ánh sáng, như vậy hắc ám cũng là một loại ánh sáng, chỉ có điều màu sắc của ánh sáng không giống nhau mà thôi.

Ánh sáng đen.

Nếu như tà cuối cùng không thể thắng chính, quang minh cuối cùng có thể đánh bại hắc ám, vậy chỉ cần “ánh sáng đen” cũng là một loại “ánh sáng”, đó là dùng một loại “ánh sáng màu đen” khác để thay thế “ánh sáng màu trắng”, không thể xem như trắng và đen đối lập.

Biết đâu như vậy sẽ có thể chuyển bại thành thắng không chừng.

Tối hôm nay, Chiêm Biệt Dã nhìn thấy trận chiến giữa Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà, trong lòng hắn kinh hãi vô cùng, thậm chí còn làm dao động sự chung tình và kiên trì của hắn đối với hắc ám từ trước đến nay.

Hắn thậm chí phát sinh thay đổi hoàn toàn.

Từ vẻ đẹp của quang minh phát ra giữa hai kiếm đan xen kia, hắn đã giác ngộ hắc ám quyết không thể thắng được quang minh, trừ khi…

Hắc ám cũng là một vẻ đẹp, một loại ánh sáng.

Giống như trăng, bị che lấp cũng là một loại ánh sáng.

Hắn đã thay đổi, vốn là đen, bây giờ là trắng, hai kiếm kia va chạm đã khiến cho hắn từ trong hắc ám bước về hướng cánh cửa quang minh.

Hắn lúc này thấy “tối” không phải “tối”.

Thứ mà hắn nhìn thấy giống như núi sông đại địa, nhật nguyệt sơn hà, hắn chỉ nhìn sóng cuộn mây tan, nhưng sóng không phải sóng, mây không phải mây, hắn đã không phân biệt mây mưa sóng cả.

Chỉ bắn đến ướt người, đổi lấy một trận kinh hãi.

Cải tà quy chính.

Nhưng người nhìn thấy trận chiến này lại không chỉ có hắn và hoàng đế Triệu Cát.

Còn có một người khác, tận mắt nhìn thấy trận quyết chiến của hai đại cao thủ nửa đêm dưới ánh trăng trên mái cổ này.

Người này lại không kinh, chỉ ngộ.

Giác ngộ.

Kinh nghiệm không hiếm có, một chuyện làm đã lâu, dĩ nhiên là có kinh nghiệm.

Tâm đắc cũng không hiếm thấy, có quan điểm của mình đối với một chuyện quen thuộc, đó chính là tâm đắc.

Nhưng ngộ là khó khăn nhất.

Ngộ là một loại phá giải, đối với chuyện quen thuộc hay xa lạ đều có một loại lý giải triệt để. Điều này phải xem cơ hội, cơ duyên phù hợp. Hơn nữa còn chỉ thẳng tâm người, đến từ nhân tính, như nước lạnh dội lưng, nước sôi đổ tuyết.

Cho nên giác ngộ là quý giá nhất.

Hiểu được dễ.

Hiểu rõ không khó.

Lý giải hoàn toàn là hiếm có nhất.

Chương 54 – Chung quanh áo mũ trắng tinh

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà mỗi người công một kiếm, sau đó không tiếp tục tấn công, lại thu hồi kiếm của bọn họ.

Tôn Thanh Hà đột nhiên làm một chuyện. Hắn làm chuyện đó vào lúc này, chắc chắn là rất kỳ lạ, cũng rất không phù hợp.

Hắn lại trái vặn eo, phải vặn eo, trầm vai trái đè chân phải, trầm vai phải đè chân trái, sau đó lại đứng thẳng người, trái vặn cổ, phải vặn cổ, vai phải tay phải vỗ nhẹ, vai trái tay phải phất lưng phải, dùng vai trái tay phải vỗ nhẹ, vai phải tay phải phất sau lưng, dang chân đứng ngay ngắn, trái vặn cổ tay, phải vặn cổ tay, lại thẳng vai trái, cổ tay phải giơ ngang dán vào mắt cá, từ vai phải cổ tay trái dán vào mắt cá phải, lặp lại mấy lần như vậy.

Ai cũng nhìn thấy, hắn đang làm “Ngũ Cầm Hí”.

Động tác “Ngũ Cầm Hí” là bước đầu của tiên thiết nội công, một loại phương pháp cơ bản giúp động tác và nội tức điều hòa, chẳng có gì lạ, không phải là tuyệt học hiếm thấy.

Kỳ lạ là Tôn Thanh Hà lại làm nó vào lúc này.

Chẳng lẽ hắn quên lúc này đang quyết chiến với Thích Thiếu Thương, hơn nữa đang đánh đến quyết liệt, chưa phân thắng bại.

Chẳng lẽ trong mắt hắn “không có” đại địch Thích Thiếu Thương này?

Chẳng lẽ hắn đã tính trước mọi việc?

Chẳng lẽ nắm chắc phần thắng?

Hay là sau khi xuất ra hai kiếm kia, hắn lập tức phát giác việc khẩn cấp trước mắt chính là thả lỏng mình?

Vào giờ phút này, thả lỏng mình lại trở nên quan trọng như thế, chẳng lẽ một khắc sau (hoặc trong lần xuất kiếm sau) là một trận quyết chiến không thể thả lỏng được, phải tập trung lực lượng sinh tử bình sinh của hắn mới có thể ứng phó?

Hắn đột nhiên không tấn công, lại ở dưới trăng, trên mái nhà, thực hiện rất nhiều động tác thả lỏng mình, giãn gân cốt, có vẻ rất không phù hợp với trận chiến không màng sống chết, long trời lở đất này.

Nhưng người càng không phù hợp là Thích Thiếu Thương.

Bọn họ giao thủ đã hai chiêu, động kiếm hai lần.

Xem tình hình, bọn họ nhất định sẽ có lần xuất kiếm thứ ba.

Thế nhưng trong lúc ngàn cân treo sợi tóc này, Thích Thiếu Thương lại chậm rãi nhắm hai mắt, hít một hơi thật sâu.

Y chậm rãi hít vào, giống như hưởng thụ không khí xâm nhập vào mỗi bộ phận, tan ra trong lá phổi, hơn nữa còn đặc biệt cảm nhận mỗi phận được khí làm giãn nở, dạt dào. Sau đó y mới từ từ thở ra ngụm khí đã dùng, có thể bỏ đi. Y hít sâu như vậy, thở ra chậm như vậy, giống như đang hưởng dụng những gì còn lại của ngụm khí kia và tất cả giá trị của nó, lưu luyến không thôi.

Y đang hưởng thụ.

Nhìn thấy y hít thở như vậy, có thể cảm nhận được hít thở là một chuyện vui vẻ biết bao, quả là sắc thái của trời đất.

Đột nhiên y lại vận khí điều tức, hơn nữa còn nhắm hai mắt lại.

Còn làm vào lúc này.

Đây là lúc mà y đang quyết một trận sinh tử với đại địch cũng là kình địch Tôn Thanh Hà, y lại dám nhắm mắt lại.

Lúc này nhắm mắt lại, chẳng những giống như giao tính mạng của mình cho kẻ địch, càng là sự khinh miệt và xem thường lớn nhất đối với kẻ địch.

Y lại nhắm mắt, dưỡng thần, vận khí, điều tức, dường như còn đang suy nghĩ, minh tưởng điều gì.

Hơn nữa giống như chợt nhớ đến chuyện gì, lông mày nhướng lên, bên môi khẽ nở một nụ cười lạnh lùng, lãnh khốc, hơn nữa còn kiêu ngạo.

Y đang suy nghĩ gì?

Tại sao phải nhắm mắt?

Y không nhìn Tôn Thanh Hà, dĩ nhiên không biết Tôn Thanh Hà đang nhìn y.

Tôn Thanh Hà đang thực hiện một số động tác mềm dẻo, cũng không phải là nhìn thẳng vào Thích Thiếu Thương.

Hắn nhìn tay của Thích Thiếu Thương, bàn tay đang kẹp đóa hoa kia.

Dưới mái cong, có một hán tử gánh hai thùng “dạ hương” vừa lúc đi qua.

Hán tử thô tục đêm khuya gánh phân này đột nhiên giống như cảm giác được điều gì, liền ngẩng đầu lên.

Vừa ngẩng đầu liền nhìn thấy trên nóc nhà, giữa mái cổ, có hai người bào trắng, áo tuyết đang quyết chiến.

Trên nóc nhà chạm khắc mấy hàng thần thú tiên cầm nghiêng nghiêng theo thế ngói, ánh trăng chiếu rọi, nằm ở nơi ấy quả thật là chung quanh áo mũ trắng tinh.

Xuân sắp hết.

Đầu hè lạnh.

Hán tử gánh phân lại cảm thấy rùng mình.

Giống như tuyết sẽ không rơi xuống, nhưng chỉ sợ rất nhanh sẽ thấy máu.

Dưới ánh trăng, trên nóc nhà, nơi ấy có một trận quyết chiến sinh tử.

Ngay lúc này, Thích Thiếu Thương đột nhiên mở mắt ra.

Tôn Thanh Hà lại đột nhiên làm một chuyện, hắn ném kiếm về phía Thích Thiếu Thương.

Một kiếm này biến ảo thành ngàn kiếm, giống như trăm cái bóng xanh ném về phía Thích Thiếu Thương.

Thích Thiếu Thương đứng yên bất động.

Nhìn chuẩn, xem chuẩn, nhắm chuẩn, người kiếm hợp nhất phát ra “Nhất Tiếu Thị Hảo” trong “Nhất Tự kiếm pháp”.

Người không cười, người lạnh như băng.

Kiếm lại cười, kiếm phát ra tiếng rít như cười.

Một kiếm này vừa vặn hất vào giữa một kiếm đang bay tới kia.

Không nghiêng không lệch, vừa khéo vừa lúc.

Mũi kiếm của y chỉ khẽ chạm, một luồng sáng bạc va chạm với một luồng sáng xanh biến ảo thành ngàn tia sáng gào thét xoay tròn bay đến, sau một tiếng “vù”, không biết đã hất văng đến nơi nào.

Lần này chẳng phải Tôn Thanh Hà đã thành tay không?

Nhưng trong tay Tôn Thanh Hà vẫn có kiếm.

Lần này chẳng phải thắng bại đã định?

Đã?

Tôn Thanh Hà vẫn đang phát động công kích của hắn.

Lần này chủ lực của hắn không phải kiếm, mà là đàn.

Trong khoảnh khắc Thích Thiếu Thương tiếp kiếm, Tôn Thanh Hà đã mở đàn của hắn ra.

Không chỉ là vải nhung bọc đàn, mà là mở cả chiếc đàn ra, sau đó lại nhanh chóng thành thạo ghép lại.

Hơn nữa còn lập tức ghép thành một vật rất đặc biệt.

Vật này có hình dài, uốn lượn, có ống dẫn, có móc khóa, băng hộp có màu vàng như hạt đậu phộng.

Hắn đưa ống dẫn trống không nhắm vào Thích Thiếu Thương, sau đó liền phát ra một loại âm thanh rất kỳ lạ.

Bằng bằng bằng…

Chương 55 – Đạp đổ núi Hạ Lan

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Ánh trăng đêm nay rất đẹp.

Chiếu vào trong lòng hán tử gánh phân trên đường cái rất rõ ràng, hơn nữa còn sáng.

Bởi vì con ngươi của hắn không chỉ tỏa sáng vì ánh trăng, còn vì một trận quyết đấu rực rỡ xưa nay trên mái cong cổ xưa kia, cùng với ánh kiếm quyết đấu như tuyết và thần quang của tuyệt thế binh khí.

Thắp sáng đấu chí của hắn, đốt lên hi vọng vốn đã lụi tàn của hắn.

Hắn là ai?

Hắn chỉ là một tên hán tử gánh phân.

Nhưng là một người võ lâm đã từng hò hét, uy phong, sau đó lại bị thương, thảm bại, ngày nay thất ý chán nản lén lui khỏi giang hồ, hiện giờ chỉ gánh phân trong đường dài đêm vắng.

Người này có lẽ còn nhớ được, có lẽ mọi người còn nhận biết.

Hắn họ Lôi, tên Cổn.

Lôi Cổn.

Ngày trước Lôi Cổn ngồi vững ở vị trí thứ sáu của Lục Phân Bán đường, canh giữ Phá Bản môn, sáu lần đánh lui đại địch muốn xâm phạm, được tổng đường chủ Lôi Tổn trọng dụng, thanh thế nhất thời vang dội.

Năm đó Lôi Cổn có một đôi mắt to uy vũ, lúc nhìn người như lôi động cổn qua (sấm dậy quét qua), giọng nói cũng như lôi thanh cổn cổn (tiếng sấm cuồn cuộn), mỗi cử động đều uy phong mạnh mẽ. Cộng thêm hắn sử dụng “Phong Vũ Song Cổn Tinh”, tay trái cầm chín mươi ba cân, tay phải múa chín mươi chín cân, là kỳ môn binh khí đứng đầu, được xưng là “Phong Vũ Song Sát” uy chấn kinh hoa.

Thế nhưng trong chiến dịch Phá Bản môn, lâu chủ của Kim Phong Tế Vũ lâu còn đang bị thương, vẫn dùng ánh đao thê lương rực rỡ dễ dàng đánh bại hắn, chẳng những phá hủy Song Cổn Tinh chùy của hắn, còn thoải mái chém giết huynh đệ của hắn ngay trước mặt, càng phá hủy lòng tin của hắn.

Như vậy còn chưa đủ.

Lòng tin của Lôi Cổn bị suy giảm, nhớ lại càng đau, chấn động sợ hãi, cho nên bị Tô Mộng Chẩm mua chuộc. Tại thời khắc quan trọng, hắn đã phản bội Lục Phân Bán đường, dùng khói mê hồn ám toán Địch Phi Kinh. (xin đọc Ôn Nhu Nhất Đao)

Kết quả là sai lại càng sai, không thể cứu vãn, thất bại thảm hại. Địch Phi Kinh luôn bị xem là trói gà không chặt, lại dùng một con dao găm đâm xuyên qua lồng ngực hắn.

Nhưng kỳ lạ là hắn vẫn không chết, hắn còn sống.

Dao găm chỉ đâm qua ruột, cũng không xuyên qua tim hắn.

Hắn có sức sống hơn người, hắn lại chưa chết.

Chí khí thường ngày như xưa, nay đã lụi tàn muốn chết.

Hắn đã không còn mặt mũi nương nhờ Lục Phân Bán đường, càng không thể dung thân tại Kim Phong Tế Vũ lâu, võ lâm kinh thành đã không có chỗ đặt chân cho hắn.

Hắn tuy nản lòng thoái chí, nhưng chẳng biết vì sao, vẫn không chịu rời khỏi nơi kinh hoa nhiều thi phi, nhiều biến đổi, nhiều rối ren, nhiều mộng ảo, nhiều nịnh bợ, nhiều tranh chấp này.

Hắn vẫn ở lại, trở thành một hán tử gánh phân chán nản.

Ngày trước mưa gió lưu mây, ngày nay nửa đêm lưu hương.

Hắn đã không để ý.

Lòng tin của hắn đã mất, niềm tin đã vỡ nát.

Cho đến hôm nay…

Trong đêm trăng này.

Hắn nhìn thấy trận quyết chiến trên mái cong, cùng với chiêu thức và vũ khí của bọn họ.

Hắn nhìn thấy hai người quyết chiến.

Đây mới là chiến đấu thật sự, chỉ có phương pháp này mới có thể đối phó với Địch Phi Kinh.

Ra tay chớp nhoáng khó lường.

Ánh mắt hắn phát sáng, không chỉ vì chiêu pháp và kiếm pháp của hai người, mà là vì “vũ khí bí mật” của Tôn Thanh Hà.

Hắn từng nghĩ đến loại vũ khí này.

Dùng hỏa dược do Giang Nam Phích Lịch đường Lôi gia tự nghiên cứu, cộng thêm đệ tử Lôi gia nhân tài đông đúc, trên thực tế đã quản lý Lục Phân Bán đường, bọn họ tuyệt đối có thể chế tạo ra loại vũ khí giết người cách đó một trăm mấy chục trượng giống như chiếc đàn của người áo trắng dưới ánh trăng kia.

Mặc dù không biết “vũ khí” này tên gọi là gì, nhưng hắn chỉ liếc mắt nhìn, đã cả đời khó quên.

Hắn vĩnh viễn ghi nhớ.

Hắn quyết chí thề, trong lúc sinh thời phải chế tạo ra loại binh khí này, hơn nữa còn phải chế tạo thật nhiều.

Nếu có một ngày như vậy, hắn nhất định sẽ cảm thấy sảng khoái.

Đó chính là lúc hắn báo thù rửa hận, làm rạng rỡ Lôi môn.

Hắn nhìn thấy vũ khí kia, lại cháy lên lòng tin, một lần nữa có hi vọng.

Mặc dù lúc này trên vai hắn đang gánh phân, nhưng lại giống như dùng một đôi vai sắt gánh lấy mạch máu của cả giang hồ, kinh lạc của cả võ lâm.

Hắn đã nhìn thấy trận quyết đấu này, nhìn thấy món vũ khí này.

Quyết đấu trong mắt hắn không còn là một trận quyết đấu, mà vũ khí trong lòng hắn vẫn là một món vũ khí.

Đó chính là một món vũ khí có thể thống trị, cũng đủ để thống trị võ lâm ngày sau…

Hắn muốn mô phỏng, hắn muốn chế tạo.

Mặc dù hắn vẫn không biết “vũ khí” này tên gọi là gì, nên gọi là gì, hắn chỉ biết binh khí này một khi thi triển, sẽ có một loại khí thế “đạp đổ núi Hạ Lan”, kinh thiên địa quỷ thần khiếp.

Nó giống như sấm dày đặc cuốn qua.

Hắn thích loại khí thế này, hắn yêu loại thanh âm này.

Hắn cảm thấy âm thanh sát thế này rất giống với hắn năm đó.

Nó có phần giống như bá chủ trong binh khí là thương, còn có pháo.

Ngay cả hai người Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà đang quyết chiến trên ngói nhà, cũng không biết dưới đường có một hán tử gánh phân lại có chấn động lớn như vậy, suy nghĩ sâu sắc như vậy.

Ngay cả Tôn Thanh Hà cũng không biết, vũ khí này vừa xuất hiện, để hán tử gánh phân kia nhìn thấy, sau này sẽ có ảnh hướng lớn như vậy đối với võ lâm, giang hồ, thậm chí là giang sơn thiên hạ Đại Tống.

Lớn đến mức đủ để mất nước, giết người trong thiên hạ, hủy diệt tất cả trên thế gian.

Bọn họ quyết chiến là ngẫu nhiên, hắn ra tay cũng là vô tâm.

Nhưng đại sự trên đời thông thường là xảy ra trong ngẫu nhiên, mà chuyện quan trọng nhất trong sinh mệnh cũng thường là do vô tâm tạo thành.

Không phải sao?

Chương 56 – Xưa nay mấy người từng biết

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Trên đời có một loại người, không kêu thì thôi, một khi kêu sẽ kinh người; không bay thì thôi, một khi bay sẽ đến tận trời.

Hắn ngày thường không ra tay, một khi ra tay sẽ phi phàm, sẽ chết người, long trời lở đất.

Xưa nay Tôn Thanh Hà sát tính rất lớn, lúc cần thiết hắn giết người quyết không chùn tay.

Nhưng bình thường hắn rất ít khi sử dụng một chiêu này, dùng loại vũ khí đủ kinh thiên động địa này.

Thế gian cũng có một loại người, từ trong những chiến dịch lớn lớn nhỏ nhỏ đánh lên, đứng lên, hơn nữa còn đứng yên không ngã.

Hắn gặp phải cao thủ thì dùng thủ đoạn cao minh, đối địch với người kém thì dùng thủ pháp bình thường, tóm lại là gặp thần giết thần, gặp phật giết phật, nhưng cũng gặp ma trừ ma, gặp tà tránh tà.

Người thường gặp y cũng cảm thấy rất hợp khẩu vị, cao nhân gặp y liền biết là cao thủ tuyệt đỉnh, đó là điểm đặc biệt của Vương Tiểu Thạch nô đùa nhân gian.

Thích Thiếu Thương lại là loại người cắn răng, nhíu mày, mím môi, không có may mắn thì tự mình tạo ra một con đường thời vận tốt, có chí ắt làm nên, không làm nên thì ít nhất cũng có thu hoạch.

Y không cầu rực rỡ, nhưng cuối cùng y vẫn là người giỏi nhất; y cầu mong may mắn, nhưng cuối cùng y vẫn phải sáng tạo vận mệnh cho mình.

Hôm nay y ra tay, cũng không giống như bình thường.

Kiếm pháp của y điên cuồng hơn.

Kiếm pháp của y không phải là “không cần mạng, chỉ cần liều” giống như Tôn Thanh Hà, Lãnh Lăng Khí, nhưng lại là một phương pháp chống lại vận mệnh.

Một loại kiếm chiêu đi ngược lại vận mệnh của mình.

Do đó, y vừa hất văng “Thác” kiếm của Tôn Thanh Hà, lại thấy kẻ địch đã “rút” ra một món “vũ khí” khác.

Hơn nữa “vũ khí” kia còn phát sáng, còn “khai hỏa”.

Phản ứng của y là không lùi mà tiến tới.

Tiến đần gần, xuất kích.

Y dường như đã dự đoán Tôn Thanh Hà sẽ lấy ra loại vũ khí càng đáng ghét này, cho nên y cũng đã sớm chuẩn bị phương pháp ứng phó.

Thế nhưng phương thức ứng phó của y lại rất “nguyên thủy”.

Y lại dùng tay trái phất lên, tay phải cầm kiếm đâm vào Tôn Thanh Hà.

Y lại không né/không tránh/không lánh/không lùi/không chậm/không ngừng/không nhường “vũ khí đáng ghét” kia, y thà hi sinh một tay để lấy tính mạng của đối phương.

Bàn tay đang kẹp đóa hoa của y.

Bằng bằng bằng…

Ánh lửa bắn ra, đốm lửa tung tóe.

Lập tức, cánh tay của Thích Thiếu Thương gần như bị phá tan, nhưng kiếm của y đã đâm thẳng đến trước mặt, khi còn cách một khoảng nhỏ hơn cả thể tích của một con muỗi thì đột nhiên dừng lại, nếu không “Si” kiếm này sẽ xuyên qua ấn đường của Tôn Thanh Hà.

Ánh kiếm chiếu vào giữa chân mày Tôn Thanh Hà, không đâm tới.

Trăng sáng trên đầu.

Mũ lọng đầy kinh hoa.

Người có tiều tụy không? (1)

Không.

Thần sắc của Tôn Thanh Hà vẫn ngang ngược ngông cuồng như trước, ánh mắt dường như đang nói: “Giết ta đi! Thế nào? Ngươi không dám giết sao? Ngươi thổi ta không phồng, ngươi cắn ta không vào, ngươi gặm ta không xuống, ngươi mắng ta không sợ, xem ngươi có dám một kiếm giết ta hay không!”

(Giết ta rồi, không hả hê lòng người cũng là hả hê lòng ta/ngươi!)

Sống chết có mệnh không?

Nếu như có, hiện giờ tính mạng của hắn đang nằm dưới kiếm trong tay Thích Thiếu Thương.

Thích Thiếu Thương lẽ ra nên giết hắn, cho dù bọn họ vốn không có thù sâu hận lớn, nhưng ít nhất Tôn Thanh Hà cũng đã phá hủy một cánh tay của Thích Thiếu Thương.

Hắn dùng “vũ khí” kỳ lạ trên tay, trong tiếng vang “bằng bằng”, làm nổ tung một cánh tay của Thích Thiếu Thương.

Không ai muốn một mình sống quãng đời còn lại trong giang hồ, huống hồ là một tay.

Một tay của y đã trúng phải độc thủ của Tôn Thanh Hà.

Thế nhưng kỳ quái là, nhìn dáng vẻ của Thích Thiếu Thương cũng không có hận, dường như cũng không đau lắm.

Một cánh tay đã vỡ, há có thể không đau?

Mười ngón tay còn đau đớn vô cùng, huống hồ là một cánh tay.

Nhưng thần thái của Thích Thiếu Thương dường như vẫn xa xăm quyến luyến, ung dung nhàn rỗi.

Hai người đứng ở nơi đó, đứng yên bất động, đứng yên đối diện.

Mũi kiếm của Thích Thiếu Thương chỉ vào ấn đường Tôn Thanh Hà, “vũ khí” trên tay Tôn Thanh Hà nhắm vào thân thể Thích Thiếu Thương.

Trăng rơi, quạ khóc, sương đầy trời.

Kiếm hoa, giết chóc, đêm kinh đô.

Chuyện vui buồn li hợp.

Mộng đời người tròn khuyết.

Mệnh không toàn mỹ.

Lui chưa chắc tốt.

Uyên ương không phải hồ điệp, sư tử ngăn chặn thần điêu. Một người chiến trời đấu đất, liều lĩnh thiên hạ; một người dựng bang lập đạo, vượt bậc võ lâm.

Bọn họ lại quyết một trận tử chiến trong đêm trăng kinh hoa này.

Ai thắng?

Ai bại?

Ba mươi tuổi cát bụi công danh,

Tám ngàn dặm dầm sương dãi nguyệt. (2)

Đài Phượng Hoàng cao, phượng đến chơi, 

Phượng đi, đài vắng, dải sông trôi! (3)

Xưa nay người phàm từng biết?

Thiên hạ không ai biết được.

Trận chiến này quả thật không mấy người từng biết, không mấy người có thể may mắn gặp dịp.

Nhưng “Hắc Quang Thượng Nhân” Chiêm Biệt Dã chắc chắn là một trong số đó.

Có điều hiện giờ hắn lại kinh hãi, cũng giật mình.

Bởi vì hắn chỉ nhìn thấy kiếm thứ hai của Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà.

Lần thứ hai giao thủ, thấu triệt nhân tình và giải thoát, đang muốn định thần để ý quan sát kiếm thứ ba và kiếm thứ tư của bọn họ, bất ngờ đã xảy ra.

Một tiếng “vù” vang lên, một con rồng xanh bay tới.

Sau một tiếng “phập”, cắm vào trên song cửa sổ chỗ hắn.

Kiếm cắm thẳng vào gỗ, chuôi kiếm vẫn không ngừng rung động.

Kiếm chỉ cách mặt hắn ba tấc, gần sát chóp mũi của hắn.

Ba tấc lưỡi.

Hắn sững sốt, nhất thời không dám có bất kỳ động tác nào, ngay cả mắt cũng không chớp.

Kiếm ở trước mắt hắn, quyết chiến ở phía xa.

Rốt cuộc đây là cố ý? Hay là trùng hợp? 

(Bọn họ đã phát hiện ta đang nhìn lén, cố ý cảnh cáo? Hay là thị uy?)

(Muốn nói rút kiếm liều mạng? Hay là đả kích?)

Chiến? Hay là chạy?

Tham dự? Nghênh chiến? Hay là rời khỏi? Chạy trốn?

Nhìn một đoạn mũi nhọn màu xanh trong bóng tối vẫn còn phát sáng, Chiêm Biệt Dã không nhịn được dâng lên một bầu nhiệt huyết, lại chìm trong một sự kinh ngạc. Không biết vì sao, trong lòng hắn chợt hiện lên vần thơ do một trăm nhà danh họa viết từng đọc khi còn bé.

Ô rách một đèn hai chân bùn,

Ra đường bán bùa mua đồ đạc

Đường xa vẫn cứ về nhà muộn

Thấp thỏm lo âu sợ quỷ mê

Bất hạnh là, hiện giờ tâm tình của hắn chính là như vậy.

Hắn là quốc sư một nước.

Buồn cười là giờ phút này hắn lại có suy nghĩ như vậy.

Hắn còn là cao thủ võ lâm.

Hắn thật sự không muốn đi đối diện với cao thủ áo rộng tuyết bào, dùng ánh sáng như mặt trời quyết chiến trong đêm trăng.

Chương 57 – Một thời bao nhiêu hào kiệt

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Năm tháng ngừng chảy.

Thời gian dừng lại.

Dường như ngay cả ánh trăng cũng đông lại thành sông băng.

Sông băng màu sữa.

Năm tháng sông dài, đời người tịch mịch.

Một thời bao nhiêu hào kiệt, nhân sinh như mộng, đứng ở nơi cao không chịu được lạnh.

Khí lạnh trên mũi kiếm khiến cổ họng Tôn Thanh Hà như muốn nổ tung.

(Thật lạnh.)

(Hóa ra lúc tiếp cận tử vong lại buốt giá lạnh đến thấu xương như vậy.)

Thế nhưng Tôn Thanh Hà ngay cả mắt cũng không chớp.

Mũi kiếm vẫn chỉ vào ấn đường của hắn, gió kiếm lại xâm nhập vào tim của hắn.

Nhưng hắn vẫn đứng yên đón gió, nhìn mũi kiếm này, cũng nhìn chăm chú vào người cầm kiếm. Thích Thiếu Thương liều mạng bị hủy một tay, cũng phải nắm chắc sơ hở trong khoảnh khắc này.

Hắn nhìn kiếm tùy thời có thể lấy tính mạng của mình, còn có người lấy tính mạng của mình.

Ở một bên khác, Hắc Quang Thượng Nhân cũng nhìn chăm chú vào thanh kiếm vẫn còn lay động, nhưng không có ý lấy tính mạng đối phương.

Tâm niệm của hắn thay chóng thay đổi.

Nên trốn? Hay là nên đứng ra? Hoặc là rút thanh kiếm này ra?

Rút thanh kiếm này ra, liệu có phải đối diện với ân oán và tình thù hay không?

Không để ý tới thanh kiếm này, liệu có tránh khỏi một trận chém giết tai ương hay ánh máu không?

Hắn lại không biết, trước đây không lâu từng có một trận quyết chiến kinh tâm động phách. Trương Thiết Thụ, Trương Liệt Tâm, còn có Phương Ứng Khán và với Lôi Mị, đồng loạt ra tay tập kích Tiểu Thạch. Mà Vương Tiểu Thạch lại dùng một miếng gạch, giả vờ đánh trật, bắn về phía tháp đá cách bức tường của chùa Lục Long hơn mười trượng, đồng thời sát thương bốn người Bạch Cao Hứng, Ngô Khai Tâm, Hách Âm Công, Thái Cảm Động đang ở trong tháp lén xem cuộc chiến, muốn chiếm tiện nghi, còn khiến cao thủ hạng nhất Diệp Thần Du có mặt ở đó phải kinh hãi.

Một miếng gạch do Vương Tiểu Thạch tiện tay phát ra, tác dụng của nó lại rất giống tình cảnh tối nay, gió mát trăng sáng, trên mái cong cố đô, Thích Thiếu Thương hất bay “Thác kiếm” của Tôn Thanh Hà, bắn vào trước mặt Hắc Quang Thượng Nhân.

Anh hùng quan niệm giống nhau.

Hào kiệt ý chí tương đồng.

Đây vốn là suy nghĩ tương tự, không phải trùng hợp.

Thích Thiếu Thương nhìn cánh tay trái của mình bị nổ tan tành, chỉ còn lại vài chùm vải rách đón gió phất phơ, lay động dưới trăng.

Y nhìn cánh tay cụt của mình một chút, kỳ quái là trên mặt lại nở nụ cười.

Nụ cười xuất hiện lúc này lại tàn nhẫn, thậm chí là tàn ác.

Giọng nói của y kỳ quái mang theo sự lạnh lùng: 

- Đáng tiếc.

Đáng tiếc?

Đáng tiếc cái gì?

Hay là vì tiếc cho Tôn Thanh Hà, cuối cùng vẫn bị hủy dưới kiếm của y?

Câu này của y nói rất lãnh đạm, cũng rất lãnh khốc.

Y nói rất hàm hồ, người nghe cũng không hiểu rõ lắm.

Tôn Thanh Hà lại nghe hiểu, cho nên hắn nói (cũng là trả lời).

- Quả thật đáng tiếc.

Hắn hoàn toàn đồng ý với lời nói của Thích Thiếu Thương, nhưng lại là từ đáy lòng, chứ không phải vì nằm dưới ánh kiếm của đối phương mà kinh hãi, khuất phục, phụ họa, xin tha.

Lời của hắn còn chưa nói hết:

- Ta thật sự không nên dùng vũ khí tuyệt mật của mình đánh vào cánh tay kia của ngươi…

Hắn nói tiếp: 

- Cánh tay kia của ngươi vốn là trống rỗng.

Thích Thiếu Thương đột nhiên khẽ cười, trong nụ cười không có vui sướng, chỉ có cô tịch.

- Ta vốn chỉ còn lại một tay.

Y nói:

- Cũng chỉ còn lại một người.

Tôn Thanh Hà lại có vẻ hiếu kỳ hỏi:

- Cánh tay kia của ngươi hoàn mỹ như vậy, tinh tế như vậy, còn có thể nhón hoa, có lẽ là do thủ lĩnh Tứ Đại Danh Bổ Vô Tình chế tạo đúng không?

Thích Thiếu Thương lại ngạc nhiên nói:

- Tại sao ngươi cho rằng do y chế tạo?

Tôn Thanh Hà thản nhiên nói:

- Chỉ có người tinh tế duy mỹ như y, mới có thể tạo ra tay giả tinh mỹ đến mức có thể nhón hoa, nhón thành nghệ thuật như vậy.

Thích Thiếu Thương thở dài: 

- Ngươi đã nói đúng, cũng đã đoán đúng, nó đúng là do tay y chế tạo. Con người của y có phong cách, ngay cả ám khí phát ra, thủ pháp phá án cũng có phong cách rõ ràng. Không ngờ ngay cả thứ mà y chế tạo ra cũng không gạt được ánh mắt người khác.

Tôn Thanh Hà lại nói như an ủi:

- Nếu không thật sự gạt được, sao ta lại hao hết toàn bộ đòn sát thủ vào cánh tay giả kia.

Thích Thiếu Thương cảm khái nói:

- Nhưng rốt cuộc vẫn phá hủy một cánh tay mà y chuyên tâm chế tạo, e rằng y không có thời gian làm thêm một cánh tay cho ta nữa.

Tôn Thanh Hà nói:

- Nhưng bị hủy một cánh tay giả, vẫn tốt hơn so với bị phế bỏ một cánh tay thật.

Thích Thiếu Thương đồng ý:

- Đó quả thật tốt hơn nhiều. Đòn sát thủ của ngươi có sức mạnh hủy diệt tất cả, nếu không phải có cánh tay giả này ngăn cản, ta quyết không truy đuổi được ngươi.

Tôn Thanh Hà hiểu được:

- Xem ra ngươi đã sớm chuẩn bị tiếp một chiêu nguy hiểm này của ta.

Thích Thiếu Thương u oán nói:

- Thực ra ta không biết ngươi có vũ khí bí mật gì, nhưng ta lại biết ngươi có tuyệt chiêu, hơn nữa cũng nhận định ngươi có thế công cực kỳ đáng ghét, giữ lại chờ đợi một kích này thi triển.

Tôn Thanh Hà ngạc nhiên nói:

- Chúng ta vốn không quen biết, ngươi lại hiểu ta như vậy?

Thích Thiếu Thương cười nói:

- Thực ra chúng ta đã sớm giao thủ rồi.

Tôn Thanh Hà ngạc nhiên:

- Khi nào?

Thích Thiếu Thương nói:

- Đánh cờ.

Tôn Thanh Hà lại nói:

- Ta không đánh cờ với ngươi.

Thích Thiếu Thương mỉm cười nói:

- Đã đánh cờ rồi, còn thường đánh nữa.

Tôn Thanh Hà ngẩn người, sau đó tỉnh ngộ, chợt nói:

- Ngươi muốn nói đến… Sư Sư?

- Đúng.

Thích Thiếu Thương nói:

- Ta dạy Sư Sư đánhh cờ, lúc đầu nàng kém xa ta, cũng không có lề lối, nhưng sau đó sát chiêu ác liệt, hơn nữa còn phóng khoáng rộng rãi, khí thế mạnh mẽ, ta biết nhất định là có cao nhân chỉ điểm. Sau đó ngẫm nghĩ lĩnh hội kỳ nghệ bày trận của nàng, nhờ vậy hiểu được tâm cảnh và thủ đoạn của ngươi.

Lúc này Tôn Thanh Hà mới thở phào nhẹ nhõm, cười nói:

- Thì ra là như vậy, biết người biết ta, trăm trận trăm thắng, ngươi đã sớm nhìn thấu thủ pháp của ta… xem ra ta thua không oan.

Thích Thiếu Thương đính chính:

- Ngươi không thua, mà do ta lừa gạt. Theo đạo lý, trước tiên ngươi phá hủy một cánh tay của ta, ta bị đau, không thể nào thừa dịp tiếp cận ngươi, khống chế ngươi.

Tôn Thanh Hà cười, rất kiêu ngạo.

Cười kiêu ngạo.

Hắn nói:

- Ngày nay thiên hạ đều dùng thành bại để luận anh hùng. Tối nay, cho dù ta thua, ngươi cũng không cần nói lời dễ nghe với ta, không cần an ủi ta.

Thích Thiếu Thương vẫn kiên trì:

- Ngươi là bị lừa gạt, không phải thua chiêu.

Tôn Thanh Hà lại thản nhiên nói:

- Nếu ngươi chỉ dùng một kiếm chỉ vào ta, như vậy còn miễn cưỡng nói được. Thế nhưng, hiện giờ ngươi dùng một kiếm khống chế ta, mạng của ta đã nằm dưới mũi kiếm của ngươi, tùy thời có thể lấy đi. Ngay cả kẻ lén quan sát… hiện giờ có lẽ hắn đã thay đổi tên họ, được xưng là Hắc Quang Thượng Nhân đúng không? Ngươi cũng mượn chiêu dùng sức, mượn thế phi kiếm để chấn nhiếp hắn.

Hắn mệt mỏi cười một tiếng, hỏi ngược lại:

- Như vậy cũng chưa tính là thắng, nào có lý đó?

Chương 58 – Tự hiểu bản thân, tùy duyên ngẫu hứng

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Bọn họ ở trên mái cao, dưới trăng sáng, nói chuyện cũng không quá lớn, luôn bình bình đạm đạm, yên yên tĩnh tĩnh. Nếu như đám thị vệ không đi hộ giá, với công lực và thính giác hơn người của bọn họ, chắc hẳn có thể nghe được hai người nói chuyện.

Nguyên nhân là sau khi hai người này trải qua một trận quyết chiến kinh tâm động phách, người thắng vẫn luôn bày tỏ hắn không giành thắng lợi, ít nhất cũng muốn nói rõ hắn thắng không vinh quang; người thua vẫn luôn cường điệu hắn là kẻ chiến bại, tuyệt đối là thất bại khâm phục. Hình như một người cảm thấy giành thắng lợi là một loại sỉ nhục, còn một người cho rằng thất bại là chuyện rất vinh quang.

Có thể nói, quyết chiến kinh tâm, kết quả thú vị.

Càng thú vị là Thích Thiếu Thương vẫn không cho rằng mình đã giành được thắng lợi, ít nhất cũng giành được không hề quang minh chính đại.

- Từ trong nước cờ của Sư Sư, ta biết ngươi xuất trận đối chiêu nhất định sắc bén, nhưng một khi gặp phải kình địch, trước tiên sẽ ẩn giấu, sau đó tùy cơ ứng biến, một lần bay đến chín tầng trời. Ta thấy ngươi trong lúc chiến đấu chợt dừng thế công, đổi thành vung tay, biết rằng ngươi cúi mình để bay, lấy lùi làm tiến, sau đó nhất định sẽ là công kích đáng sợ. Do đó ta mới nghỉ ngơi lấy sức, dùng cánh tay đứt ngăn cản một kích của ngươi, lại thừa cơ tiến tới, thừa dịp tập kích. Chiến lược của ngươi bị lộ trước, vì vậy mới rơi vào thế yếu, ta không thể xem là thắng ngươi bằng thực lực.

Tôn Thanh Hà lập tức lắc đầu giống như trống lắc, cười ha hả nói: 

- Ai nói trận pháp thao lược không đáng khen? Ai nói giết địch đoạt thành không thể dùng tâm lý chiến? Nếu như thế không xem là thắng đẹp, vậy thì các loại sự tích uy vũ của Tôn Tử, Tôn Tẫn, Gia Cát Khổng Minh đều thành trò cười rồi.

Sau đó hắn nghiêm nghị nói: 

- Mấy động tác của ta gọi là “vung tay” quả thật sai lầm. Bởi vì động tác này không chỉ bao hàm hình thức vung tay của những người mới nhập môn, đồng thời còn là tim, gan, lá lách, phổi, dạ dày, kể cả chân, đầu, cổ, vai, eo đồng loạt vung lên. Hấp thu tinh khí của không khí chung quanh đồng loạt phát ra. Nói đến vẫn là nên xưng là động tác nhập môn, chiêu thức sơ sài trong Ngũ Cầm Hí do Hoa Đà sáng tạo, như vậy thỏa đáng hơn. Nhưng nhìn thấy mấy động tác thô sơ giãn thân, an thần, định khí, hóa tinh của ta, ngươi lại dùng niệm lực khí công của phật gia. Đã đến mức tất cả đều là hư vọng, mọi người vô hình, đại đạo đơn giản, tùy ý hít thở đều thành đại pháp, đã bao hàm tinh hoa cảnh giới của hai nhà phật đạo. Không cần ý niệm tập trung đan điền, không cần tu luyện chu thiên lớn nhỏ, đây không phải chuyện người người đều có thể làm được. Loại người suy nghĩ vẩn vơ như ta càng không tu được, cho nên chỉ có thể nói hai chữ bội phục.

Mặc dù các cao thủ bảo vệ hoàng đế đã rời đi, nhưng vẫn có một người đang nghe.

Người nghe lén tuyệt đối là cao thủ.

Hắn đã sớm nghe đến mức mồ hôi chảy ròng ròng.

Mồ hôi lạnh.

Ngay cả mồ hôi của hắn cũng là màu đen.

Một khi hắn chảy mồ hôi, ai cũng có thể nhìn ra được hắn từng chảy mồ hôi.

Bởi vì mồ hôi sẽ tạo ra những lỗ đen trên người hắn.

Không chỉ chảy mồ hôi, nước mắt cũng như vậy.

Không biết máu thì như thế nào? Chẳng lẽ hắn cũng chảy “máu đen” sao?

Nhưng chảy mồ hôi vẫn tốt hơn so với chảy nước mắt, chảy nước mắt vẫn tốt hơn so với chảy máu.

Không phải sao?

Chỉ nghe Tôn Thanh Hà ngạo nghễ nói: 

- Ta nói như vậy không phải bởi vì muốn ngươi không giết ta. Ta rất ít khi nói hai chữ “bội phục” với người khác. Lần trước là nói với Bát Vô tiên sinh.

Trong mắt Thích Thiếu Thương đã thoáng có ý cười:

- Ôn Bát Vô?

Tôn Thanh Hà nghe được cái tên này, trong mắt cũng hiện lên lên vẻ ấm áp:

- Không phải y thì còn ai.

Thích Thiếu Thương đột nhiên thu kiếm.

Vừa thu kiếm, kiếm đã trở về trong vỏ.

Không phải giống như chưa từng xuất kiếm, mà là sau khi y thu kiếm, kiếm dường như vẫn còn ở dưới trăng, trên mái nhà, trước ấn đường của Tôn Thanh Hà, xanh trong vắt, lục u sầu, sáng óng ánh, nằm ngang ở đó, giống như xem thường một đời (đời này không ai có thể so sánh được) cho đến xem thường bảy đời, muốn tồn tại, muốn vĩnh viễn, muốn bất hủ.

Kiếm đã thu, kiếm ý vẫn còn.

Hay cho một thanh kiếm.

Hay cho một kiếm thủ.

Tôn Thanh Hà cười.

Vừa cười, hắn lại không kiêu ngạo nữa.

Hơn nữa, có lẽ vì đứng dưới ánh trăng kỳ dị và trên mái cao cổ xưa như vậy, điểm tương tự giữa hắn và Thích Thiếu Thương dường như càng ngày càng nhiều, cũng càng ngày càng giống.

Nhất là khi gương mặt lãnh khốc của Tôn Thanh Hà bắt đầu có một chút ý cười.

Đồng dạng, khi ánh mắt tịch mịch của Thích Thiếu Thương hiện lên sự ấm áp như đốm lửa nhỏ, cảm giác này lại càng mãnh liệt, dày đặc.

- Ngươi biết y?

- Bát Vô tiên sinh?

Vẻ ấm áp trong mắt Thích Thiếu Thương lại càng nồng:

- Ta đương nhiên biết y, y là người tốt.

- Y cũng là người giỏi.

Nụ cười trên mặt Tôn Thanh Hà cũng càng đậm.

- Y càng là người tốt tài giỏi.

Thích Thiếu Thương bổ sung:

- Một người lăn lộn trên giang hồ hiểm ác, nếu như chỉ tốt mà không đủ giỏi, đó là chuyện xấu.

- Ít nhất, đối với mình thì không phải là chuyện tốt.

Tôn Thanh Hà cũng đồng ý:

- Không thể làm một người tốt giỏi giang, ít nhất cũng phải làm một kẻ xấu trung thành.

- Đều như nhau.

Thích Thiếu Thương nói:

- Ta cảm thấy ngươi chính là một kẻ xấu trung thành.

Tôn Thanh Hà nói: 

- Mà ngươi chính là một cái người tốt tài giỏi.

Thích Thiếu Thương nói:

- Nếu như ngươi không đủ trung, cũng sẽ không vì một bàn tay nhón hoa của ta mà tin đó là tay thật.

Tôn Thanh Hà nói: 

- Nếu như ngươi đủ giỏi, cũng sẽ không thu hồi một kiếm này của ngươi. Ngươi vốn không định giết ta sao?

Thích Thiếu Thương nói: 

- Tại sao ta phải giết ngươi? Ta đã nghiên cứu tất cả án kiện liên quan đến chuyện ngươi cưỡng gian giết chết nữ nhân, có lẽ chưa chắc đã do ngươi gây nên. Nhưng tất cả vụ án ngươi ám sát tham quan ô lại, cường hào ác bá, bọn chúng quả thật đều tội ác tày trời. Tại sao ta phải giết ngươi?

Tôn Thanh Hà tấm tắc nói: 

- Vậy ngươi vẫn là quá trung, chưa đủ giỏi. Chẳng trách lúc ngươi cô tuyệt nhất, chính là lúc muốn xuất kiếm giết người, dáng vẻ cũng giống như nhón hoa mỉm cười.

Thích Thiếu Thương cao giọng cười nói: 

- Ta nhón hoa mỉm cười? Tôn tiên sinh đúng là ghẹo cỏ cũng mỉm cười. Các vụ án hiếu sát chưa chắc liên quan đến các hạ, nhưng chuyện phong lưu khoái hoạt của các hạ cũng không ít, đúng là cho dù trêu hoa ghẹo cỏ cũng mỉm cười. Với võ nghệ siêu quần, kiên cường uy vũ của các hạ, cần gì phải chen vào tranh chấp thế tục sống qua ngày, hao mòn chí khí?

Tôn Thanh Hà cười nói: 

- Đâu có đâu có. Thứ nhất ta không phải là anh hùng. Ta không muốn hi sinh tiểu ngã (cái tôi), ta là đại ngã (tập thể), trời lớn đất lớn ta lớn nhất. Bởi vì nếu như không có ta, trời và đất gì cũng không có. Cho nên có ta không gì khác, trừ ta không ai khác. Thứ hai ta không muốn làm anh hùng. Làm anh hùng quá cực khổ, con người ta cao ngạo, háo sắc, không thể có nhiều bạn, càng lười kết bè kết đảng, lại không có nhân duyên, cho nên không muốn cũng không thể làm anh hùng. Thứ ba ta không tin anh hùng. Luận anh hùng, ai là anh hùng? Gia Cát Lượng quá văn, Trương Dực Đức quá võ, Tào A Man quá gian, Sở bá chủ quá lỗ mãng, Hàn Tín quá ồn ào, Lưu Bang quá lưu manh, Lý Thế Dân quá hi vọng, Triệu Khuông Dẫn quá may mắn. Ta có là gì? Người nào cũng không phải là anh hùng, ta cũng không phải. Hơn nữa, nơi tạo ra anh hùng chính là loạn thế. Ta chỉ cần hợp thế đứng một mình, chỉ thích nữ sắc. Thừa lúc tinh lực của mình quá thừa, vui đùa với nữ nhân xinh đẹp trên thế gian, thật tốt biết bao, có ý nghĩa biết bao. Cũng không thương người, lại khiến mình vui, cớ sao không làm.

Thích Thiếu Thương cười lạnh nói:

- Tôn huynh phong lưu sớm đã nổi tiếng. Có câu chỉ đại anh hùng có bản sắc, là danh sĩ thật tự phong lưu. Có điều phong lưu thì phong lưu, Tôn huynh thân thủ thật tốt, tiền đồ thật tốt, tham vọng thật tốt, chỉ vì mê muội nữ nhân trên thế gian mà mặc cho nước chảy, chẳng phải đáng tiếc sao.

Tôn Thanh Hà cười nói: 

- Ngươi không giết ta, đại khái là muốn khuyên ta những lời này sao? Ý tốt của ngươi, ta xin tâm lĩnh. Tham vọng bình sinh của ta, chính là ôm một nữ nhân mà ta yêu mến, thân cận với nữ nhân mà ta cảm thấy xinh đẹp, như vậy đã đủ rồi. Ngươi đừng cười ta không có chí khí, ta với ngươi không giống nhau. Thích huynh, ta cho rằng chuyện nhà chuyện nước chuyện thiên hạ, ngươi hoàn toàn gánh vác trên vai; tiếng gió tiếng mưa tiếng đọc sách, ngươi hoàn toàn gánh vác trên người, đó cũng chỉ là khổ mình. Người sống trên đời, trăm năm thấm thoắt, phút chốc đã qua, nháy mắt liền mất, cần gì phải mưu mưu cầu cầu, khốn khốn khổ khổ như vậy? Gió đông thổi tỉnh anh hùng mộng, không phải Hàm Dương là Lạc Dương (1), cần gì tự chuốc khổ như vậy. Không bằng chỉnh đốn tâm tình, hưởng thụ nhân sinh cho tốt, vui vẻ qua một đời, tự tại qua một kiếp.

Thích Thiếu Thương cười nói: 

- Ngươi là thành bại lên xuống không quan tâm, vui buồn li hợp tâm tình tốt. Ta hâm mộ ngươi. Nhưng ta cho rằng người đã đi chuyến này, dù sao cũng có một số trách nhiệm phải gánh vác, có một số việc phải giao phó, có một số cống hiến phải lưu lại. Ta dám làm người đi trước, không sợ lưu danh sau.

Tôn Thanh Hà cũng cười: 

- Được, ngươi vất vả tùy ngươi, ta an nhàn tùy ta. Ta cũng bội phục ngươi. Đây là lần thứ hai trong tối nay ta nói bội phục. Quan điểm của ta là tùy duyên ngẫu hứng. Còn ngươi thì sao? Cũng hi vong tôn giá có thể tự hiểu bản thân thì tốt.

Thích Thiếu Thương cười ha hả nói: 

- Thời cuộc rối ren, mới lộ bản sắc anh hùng.

Tôn Thanh Hà cũng cười lớn nói: 

- Kiếm thử thiên hạ, sợ gì thành bại bấp bênh.

Hai người vỗ tay cười. Trong tiếng cười, dường như nụ cười và ánh mắt kia đều lộ ra một tin tức càng lúc càng rõ ràng, mãnh liệt.

Đó là gì?

Chương 59 – Tự cầu vui vẻ, không tìm phiền não

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Hai người bèn nhìn nhau cười. Thích Thiếu Thương chợt ngưng cười, trang trọng nói: 

- Ta không giết ngươi, là vì ta cảm thấy tối nay ngươi cũng không có ý giết ta.

Tôn Thanh Hà nói:

- Nếu như ta không muốn giết ngươi, cần gì phải sử dụng vũ khí nặng như vậy?

Thích Thiếu Thương nói: 

- Ta có một nhận định, nếu ngươi không tiện thì có thể không cần trả lời.

Tôn Thanh Hà chỉ cười nói: 

- Ngươi cứ nói, ta nghe.

Thích Thiếu Thương nói: 

- Ngươi bị Thần Thương hội Đại Khẩu Tôn gia trục xuất khỏi Sơn Đông, thậm chí bị truy sát, là do ngươi không chịu theo phe phái chủ lưu của Tôn gia, lợi dụng vũ khí bí mật để độc bá thiên hạ, quản lý võ lâm. Thế nhưng, ngươi vốn là nhân vật rất quan trọng trong Thần Thương hội, cũng khá kiệt xuất, cho nên ngươi nhất định cũng nắm giữ cơ mật tương đối quan trọng. Do đó bọn họ mới phái người truy sát ngươi trong giang hồ, hơn nữa còn lan truyền bịa đặt khắp nơi, hủy hoại danh dự của ngươi.

Tôn Thanh Hà có phần cười không nổi.

Thích Thiếu Thương nói tiếp: 

- Với tính tình của ngươi, sẽ không làm bất cứ chuyện gì bán rẻ Thần Thương hội. Nhưng lại không đành nhìn võ lâm đồng đạo không hề đề phòng, bị người của Đại Khẩu Tôn gia đánh cho không thể ngóc đầu lên, không thể thở một hơi, không thể đánh trả lại. Cho nên, tối nay ngươi lợi dụng trận quyết chiến với ta, thừa dịp công bố loại vũ khí bí mật này, để ta truyền ra cho người đời biết mà phòng ngừa tai họa.

Tôn Thanh Hà quả thật cười không nổi.

Thích Thiếu Thương dùng tay chỉ chỉ vào nửa đoạn tay áo bị nổ gần vai, đó là một vết kiếm nghiêng nghiêng cắt đứt áo vải, nói: 

- Lúc động thủ chiêu thứ ba, ngươi đã dùng Phi Tung kiếm khí lặng lẽ cắt đứt tay áo của ta, từ đó nhất định đã phát hiện cánh tay này của ta là giả. Nhưng ngươi vẫn dùng vũ khí nặng công kích, hiển nhiên là cố ý. Biết rõ không thể gây thương tổn cho ta, vẫn cứ phát động tấn công, nhất định là có mưu đồ. Cho nên, tối nay ngươi không phải muốn giết ta, mà là muốn ta dùng chức vị lâu chủ của Kim Phong Tế Vũ lâu, nhanh chóng lan truyền cơ mật của Thần Thương hội ra bên ngoài.

Tôn Thanh Hà hoàn toàn cười không nổi.

Thích Thiếu Thương nói:

- Có điều, ngươi cũng không cần quá lo lắng. Theo ta được biết, Gia Cát tiên sinh của Tự Tại môn đã nghiên cứu sáng tạo ra một loại binh khí tuyệt học, cho dù nhân lực không mạnh như vậy, nhưng sử dụng lại càng nhanh nhẹn thuận tiện. Một khi có thể thúc đẩy rộng rãi, sử dụng thoả đáng, nói không chừng có thể khắc chế vũ khí chết người, có lực sát thương cực lớn của Tôn gia.

Tôn Thanh Hà không cười.

Thích Thiếu Thương thành thật nói: 

- Cho dù thế nào, ta vẫn cám ơn ngươi đã nói cho ta biết những điều này, để ta biết những chuyện này, đồng thời còn giúp ta thể nghiệm uy lực của vũ khí này. Ngươi không phải tới giết ta, cho nên ta cũng không muốn lấy mạng ngươi.

Tôn Thanh Hà nói: 

- Bây giờ ta cũng đã hiểu được.

Thích Thiếu Thương hỏi: 

- Hiểu được cái gì?

Tôn Thanh Hà nói: 

- Ngươi cũng không phải tới giáo huấn và lùng bắt ta, ngươi tới là để khuyên ta đừng vì nữ sắc mà làm lỡ một đời.

Thích Thiếu Thương nói: 

- Có điều, hiện giờ ta mới cảm thấy hiểu rõ ngươi. Hóa ra ngươi cũng không háo sắc giống như lời đồn, mà là quá coi trọng tình nhi nữ, tinh lực lại quá dồi dào, tự phụ lại quá cao, cho nên mới bị những chuyện nhỏ của thế tục cuốn lấy, trở thành kỳ hiệp đoạn tuyệt trong giang hồ thị phi.

Tôn Thanh Hà lại kinh ngạc:

- Ngươi làm sao hiểu rõ những chuyện này của ta? Nói đến cùng, ta quả thật là háo nữ sắc, ta thật sự là một sắc ma.

Thích Thiếu Thương nói:

- Người chỉ háo nữ sắc tuyệt đối không thể thi triển ra kiếm pháp xuất trần như thế.

Tôn Thanh Hà im lặng.

Một lúc sau, hắn mới nói:

- Hiện giờ ta cũng đã dần dần hiểu được ngươi.

Thích Thiếu Thương nói: 

- Hử?

Tôn Thanh Hà nói: 

- Ban đầu ta cho rằng ngươi ham quyền trọng hư vinh, hiện giờ mới hiểu được, ngươi chỉ trọng danh dự, có cảm giác trách nhiệm, cho nên mới từ trong tro bụi dựng lại cơ ngơi, từ trong thất bại xây lại niềm tin.

Thích Thiếu Thương cười nói:

- Ngươi từ đâu mà biết? Quan hệ của chúng ta cũng quá sơ sài.

Tôn Thanh Hà cũng dùng giọng điệu vừa rồi của Thích Thiếu Thương, nói:

- Bởi vì người trọng quyền tuyệt đối không thể thi triển ra kiếm pháp cao ngạo như thế.

Thích Thiếu Thương cũng trầm mặc.

Tôn Thanh Hà híp mắt hỏi: 

- Ngươi rất nổi danh, cũng được yêu thích, biết rõ có rất nhiều người quan tâm đến ngươi, tại sao không để người khác chia sẻ sự cô độc và tịch mịch của ngươi?

Thích Thiếu Thương tinh ranh hỏi ngược lại: 

- Ngươi thì sao?

Tôn Thanh Hà phóng khoáng cười cười: 

- Bởi vì người thật sự cô độc và tịch mịch, sợ bị người khác làm cho náo nhiệt, sau một phen náo nhiệt lại quên mất bọn họ.

- Đúng.

Thích Thiếu Thương nói:

- Rốt cuộc, lưu lại chỉ là cô độc và tịch mịch. Mà sau khi náo nhiệt qua đi, cô độc và tịch mịch lại càng sâu sắc hơn.

Tôn Thanh Hà cười ha hả: 

- Cho nên ta háo sắc. Đời người cứ việc chơi vui vẻ, nhất thời khoái hoạt là thần tiên.

Thích Thiếu Thương cũng cười ha hả nói: 

- Vì vậy ta trọng quyền. Nắm quyền trong tay, rất có tiền đồ. Nếu không có tiền đồ, muốn thả thì thả nào có sao.

Tôn Thanh Hà cười hì hì nói: 

- Muốn thả là thả? Đó chẳng phải giống như đánh rắm?

Thích Thiếu Thương nói:

- Quyền là hư, danh là ảo, ta là thực, vốn chẳng có gì khác so với đánh rắm.

Tôn Thanh Hà vỗ tay cười lớn:

- Chỉ có điều, cho dù là đánh rắm, nói thả là thả, cũng không dễ làm được.

Thích Thiếu Thương nói: 

- Tự tìm vui vẻ, không tìm phiền não. Tụ họp rồi tan, tự do tự tại.

Tôn Thanh Hà phối hợp nói: 

- Biết sai có đổi, vẫn là người tốt. Biết sai không đổi, chính là kẻ ác.

Thích Thiếu Thương vỗ tay nói: 

- Thà rằng không hiểu, đừng làm kẻ ngốc; thà rằng xem thường, không làm ngu trung.

Câu này rất đúng với ý của Tôn Thanh Hà, thế là hắn cũng ngâm nga:

- Thà thử lưỡi đao, không đáng theo gió; thà rằng giả điên, không làm bất công.

Bọn họ đối đáp như vậy dưới trăng sáng.

Bọn họ ngâm nga như thế trên mái cong.

Còn quyết chiến trong bóng kiếm ánh đao, không màng sống chết.

Lúc này thì sao?

Bình thường là đạo, thuận buồm xuôi gió; bình an là phúc, xin thoải mái mình.

Thế nhưng, có một người chắc chắn không thoải mái.

Nhưng hắn vẫn đi lên?

Đi trên mái cong cổ xưa, hắn tỏ ra thành thành thật thật, cũng thận thận trọng trọng.

Trăng chiếu vào đầu, lại chiếu không ra bóng của hắn.

Bởi vì hắn còn tối hơn cái bóng của mình.

Phảng phất, hắn chính là một yêu mị “giao đấu với cái bóng”, “nhạt hơn cả bóng đêm”, chứ không phải là một người hoàn chỉnh.

Hắn từng bước từng bước đi tới, không loạng choạng, không tốn sức, nhưng cũng không bước đi như bay, thân nhẹ như én.

Hắn hoàn toàn không thi triển khinh công, nhưng đi trên mái ngói cổ xưa tàn tạ này, cũng giống như đạp trên đất bằng.

Hắn đi rất thận trọng.

Hắn không hề có khí thế mạnh mẽ, cũng không phải một bước kinh tâm, hắn là ẩn giấu không lộ, không khoe không bày.

Hai tay hắn nâng một vật.

Ám thanh (xanh sẫm).

Ám thanh là màu sắc do ánh trăng đã dần ngả về phía tây tối nay chiếu rọi, chứ không phải là “ám thanh tử”.

Trong võ lâm, “ám thanh tử” lại có nghĩa là “ám khí”.

Thứ mà hắn lễ độ cung kính nâng trên hai tay, đương nhiên không phải “ám thanh tử”, mà là một thanh kiếm màu xanh sẫm.

Đó vốn là kiếm của Tôn Thanh Hà, bởi vì bị một kiếm của Thích Thiếu Thương đánh bay, cắm thẳng vào song cửa sổ bằng gỗ trước mặt hắn, ánh sáng xanh chiếu vào lông mày hắn, thấm vào tâm mạch của hắn.

Một thanh kiếm bị bạch đạo chế giễu là “Dâm Ma kiếm”, hắc đạo lại hài hước gọi là “Dâm Tình kiếm”, chủ nhân lại gọi nó là “Triều Thiên kiếm”, nhưng thực ra tên của nó chỉ có một chữ “Thác”.

Kiếm vốn đã rời tay, hiện nay lại có người nhặt nó, hơn nữa còn đưa lên.

Người cầm kiếm đi lên, đương nhiên chính là Hắc Quang Thượng Nhân Chiêm Biệt Dã đang xem trận chiến này.

Không phải hắn từng bị một kiếm này làm kinh hãi sao?

Hắn còn đi lên mái cong cổ xưa này để làm gì?

Chương 60 – Đường xa mộng sầu khó cản

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

- Ta đi lên để trả lại kiếm.

Chiêm Biệt Dã đi đến trước mặt hai người, nhìn Thích Thiếu Thương một chút (cùng với thanh kiếm sáng như tuyết ngọc trên tay y), sau đó đưa kiếm lên cho Tôn Thanh Hà.

Kiếm vừa gặp được chủ nhân của nó, giống như bị kích phát linh lực, phát ra tiếng vang khẽ “keng keng”, còn hơi rung động tỏa ra vầng sáng sát khí màu xanh sẫm, lại giống như một con dã thú còn sống thở phì phò trong tay hắn.

- Hắc Quang Thượng Nhân, ngưỡng mộ đã lâu!

Thích Thiếu Thương ôm quyền cười nói:

- May là ngươi đi lên trả lại thanh kiếm này, nếu không vị bằng hữu này của ta sẽ trách móc rồi. Ta không đền nổi kiếm của hắn.

Hắc Quang Thượng Nhân nói: 

- Lời này khiêm tốn rồi. Ngươi đã đánh bay một kiếm này đến chỗ ta, một là không sợ ta đoạt được rời đi, hai là không sợ kiếm không thu về được.

Tôn Thanh Hà nhận lấy kiếm, hơn nữa còn trân trọng nhìn kỹ kiếm của mình, ánh mắt lóe sáng.

Thanh kiếm kia cũng hiện lên ánh sáng xanh, giống như đáp lại chủ nhân của nó. Ít nhất nó cũng biết chủ nhân của nó đang nhìn nó, yêu quý nó.

Nó và chủ nhân của nó đều kiêu ngạo như nhau, bộc lộ tài năng như nhau.

Nhọn và sắc.

Hắc Quang Thượng Nhân nhìn kiếm trên tay Tôn Thanh Hà. Hắn đương nhiên cũng nhìn ra, ánh sáng của kiếm này trên tay hắn và trong tay Tôn Thanh Hà lại không giống nhau.

Cho nên hắn có phần hâm mộ nói: 

- Đây là một thanh kiếm tốt.

Tôn Thanh Hà lạnh lùng nhìn chăm chú vào hắn, nói: 

- Đã là kiếm tốt, vì sao không dứt khoát lấy nó?

Hắc Quang Thượng Nhân nói: 

- Cũng vì là kiếm tốt, cho nên ta không xứng sở hữu nó.

Tôn Thanh Hà nhìn kiếm của mình, thở dài nói: 

- Thanh kiếm này, nguyên danh là “Thác”.

Đột nhiên, cổ tay phất một cái, ánh sáng chợt lóe lên, mũi kiếm đã cách cổ họng của Hắc Quang Thượng Nhân không tới một thước, lạnh lùng nói: 

- Ngươi không nên để ta cầm lại thanh kiếm này… Từ ngày cầm thanh kiếm này lên, ta đã chuẩn bị thác (sai) đến cùng.

Hắc Quang Thượng Nhân lại không né, không tránh, không lánh, hơn nữa ngay cả mắt cũng không chớp, chỉ nhìn đầu kiếm, mũi kiếm và kiếm của kẻ địch, gằn từng chữ một:

- Ngươi muốn giết ta?

Hắn nói chuyện giống như là đang kêu, đang gầm, đang gào thét. Cho dù ngữ điệu của hắn vốn không có địch ý, thậm chí là rất lễ độ, nhưng vẫn giống như đang khàn giọng gào thét.

Ánh mắt Tôn Thanh Hà giống như một cây đinh lạnh, muốn tập trung theo ánh kiếm đâm vào trong cổ họng Hắc Quang Thượng Nhân:

- Ngươi nói sao? Thanh kiếm của ta này đã sai rất nhiều lần, ta cũng từng làm sai rất nhiều chuyện, ta không quan tâm lại sai thêm một lần.

Hắc Quang Thượng Nhân cười khổ nói: 

- Có lẽ, ta đưa kiếm lên là làm sai, cũng đi sai trước.

Tôn Thanh Hà lãnh đạm nói: 

- Ngươi là người thuộc phe Thái Kinh.

Hắc Quang Thượng Nhân nói: 

- Ta không thể không thừa nhận.

Tôn Thanh Hà lãnh khốc nói: 

- Ta đã từng hai lần hành thích Thái Kinh.

Hắc Quang Thượng Nhân nói: 

- Nhưng ngươi sắp thành lại bại.

Tôn Thanh Hà nói:

- Trong đó có một lần, là bởi vì ngươi cản trở.

Hắc Quang Thượng Nhân nói: 

- Ta thân ở Thái phủ, ăn lộc vua, không thể không chia sẻ ưu phiền với vua.

Tôn Thanh Hà nói: 

- Nhưng nối giáo cho giặc, càng đê hèn hơn so với tự tay hại người.

Hắc Quang Thượng Nhân nói: 

- Ta chỉ là một đạo nhân, có thể làm gì? Khó tránh khỏi thân không do mình.

Tôn Thanh Hà nói: 

- Ngươi là một nhân sĩ tu đạo, không làm được nửa thần tiên, không tu tâm dưỡng tính, lại ham muốn đủ thứ trên đời, không một thứ gì có thể từ bỏ, đây xem là đạo gì?

Hắc Quang Thượng Nhân nói: 

- Đạo của ta chính là hưởng hết phúc của nhân gian. Có tiền, có quyền, có nữ nhân, đây chính là hưởng thụ tốt nhất thế gian. Đạo hạnh của ta không đạt đến cảnh giới cao hơn, nhưng đạo đức của ta có thể đổi lấy những thứ này. Tỉnh nắm quyền thiên hạ, say nằm gối mỹ nhân, có ai không thích?

Tôn Thanh Hà nói: 

- Ngươi trả lời thật sảng khoái.

Hắc Quang Thượng Nhân nói: 

- Trước mặt chân nhân, không nói lời dối trá.

Tôn Thanh Hà hỏi:

- Ngươi không thể bớt tham lam một chút? Để lương tâm tốt hơn một chút?

Hắc Quang Thượng Nhân nói: 

- Ta đã cố gắng bớt trực tiếp hại người. Những lúc khó tránh khỏi thiệt người lợi mình, ta cũng cố hết sức bớt thương tổn người khác. Ngẫu nhiên cũng ở trong sáng trong tối giúp người khác một chút.

Tôn Thanh Hà nói: 

- Thậtsao?

Thích Thiếu Thương nói: 

- Hắn nói là thật. Ta đã nghe chuyện của hắn, hắn và đám người Thái Kinh, Chu Miễn thật sự có hư tình giả ý, không khéo chu toàn. Không giống như đám người Lâm Linh Tố, Bồ Tát hòa thượng, Nhất Não thượng nhân, Phiền Não đại sư, hung hăng càn quấy, không hề kiêng nể.

Hắc Quang Thượng Nhân nói: 

- Cảm ơn, ta chỉ là nhát gan chứ không phải tích đức. Hành vi và việc làm của ta, đã không có đức để tích, chết còn chưa hết tội.

Tôn Thanh Hà nói: 

- Cho nên ngươi mới dám đưa kiếm lên cho ta?

Hắc Quang Thượng Nhân nói:

- Kiếm vốn là của ngươi.

Thích Thiếu Thương nói: 

- Chẳng lẽ ngươi không biết, chỉ cần giết chết ngươi, tối nay chúng ta sẽ có thể trừ đi một tên đại địch?

Hắc Quang Thượng Nhân nói: 

- Ta tới để đưa kiếm, không phải đi tìm chết. 

Sau đó, hắn ngạo nghễ nói: 

- Huống hồ, lấy một địch một, chưa chắc ta sẽ thua.

Thích Thiếu Thương nói:

- Làm sao ngươi biết chúng ta nhất định sẽ lấy một địch một?

Hắc Quang Thượng Nhân nói:

- Các ngươi là anh hùng, anh hùng không làm chuyện hèn hạ.

Thích Thiếu Thương uy nghiêm nói: 

- Vậy thì ngươi sai rồi.

Tôn Thanh Hà cười lạnh nói:

- Hắn nhiều nhất chỉ là một kiêu hùng, kiêu hùng sẽ không chừa thủ đoạn, trước tiên tiêu diệt kẻ địch rồi tính sau.

Hắc Quang Thượng Nhân hít một hơi dài: 

- Vậy thì ta nhìn sai rồi.

Tôn Thanh Hà đột nhiên thu kiếm lại.

Sau một tiếng “choang”, kiếm đã không thấy tăm hơi.

Ánh sáng xanh bỗng tắt.

Hắn thu kiếm vào trong “vũ khí nặng” kia.

“Vũ khí nặng” kia lại nhanh chóng lắp ráp, trở về trạng thái cũ thành một chiếc đàn, tiêu vĩ cầm cổ xưa.

Hắn nói: 

- Ngươi không nhìn sai, tối nay ta sẽ không động thủ giết ngươi.

Thích Thiếu Thương cũng nói: 

- Ngươi cũng không đi sai đường, ngươi đã trả kiếm lại, hắn sẽ không dùng thanh kiếm này giết ngươi.

Lúc này Hắc Quang Thượng Nhân mới thở ra một hơi.

Tôn Thanh Hà hiển nhiên đã thu kiếm, nhưng cổ họng của Hắc Quang Thượng Nhân vẫn có cảm giác lạnh lẽo như “mọc rêu xanh”.

Sau đó, hắn nói: 

- Ta vừa tới nơi này, liền có một cảm giác kỳ quái.

Thích Thiếu Thương hỏi:

- Cảm giác gì?

Hắc Quang Thượng Nhân chợt ngâm nói: 

- Say khướt khêu đèn ngắm kiếm (1), đường xa mộng sầu khó cản, việc thế một trường mộng lớn, đời người mấy độ buồn thu (2).

Hắn bỗng dừng lại ở đây, sau đó mới nói thêm mấy câu:

- Có lẽ là trăng đặc biệt sáng, hay là nơi này đặc biệt cao, hoặc là buổi tối này có chút gì kỳ lạ. Ta luôn cảm thấy thâm tâm dao động, ngay cả tâm thần cũng không trấn định được, cảm xúc gì cũng có đủ.

Tôn Thanh Hà liếc nhìn hắn:

- Nhưng ngươi vẫn rất trấn định.

Thích Thiếu Thương lại nói: 

- Nói thật ra, ta cũng có cảm giác tương tự như thượng nhân.

Tôn Thanh Hà đột nhiên nói: 

- Có phải cảm thấy nao nao bất an không?

- Đúng.

Thích Thiếu Thương nghe Tôn Thanh Hà hỏi như vậy, mới biết hắn cũng cảm nhận được:

- Đồng thời cũng là một loại cảm ứng kỳ quái, giống như nguy cơ đến gần, một thứ đáng ghét đang muốn phá đất chui ra…

Tôn Thanh Hà nặng nề nói:

- Ta cũng có.

Sau đó hắn hỏi: 

- Có chú ý tới tên gánh phân dưới nhà kia không?

Thích Thiếu Thương nói: 

- Hắn cũng là nhân vật võ lâm, trước kia từng một thời hò hét trong Lục Phân Bán đường, họ Lôi, nguyên danh là Niệm Cổn, sau khi thành danh lại bỏ đi chữ “Niệm”, trở thành “Lôi Cổn”. Hắn vốn là một nhân vật có tiếng, nhưng gần đây chán nản thất vọng, nói không chừng ngày khác còn có thể gây nên sóng gió.

Y dừng một chút, nói tiếp:

- Có điều, hiện giờ nguy cơ đã đến gần trước mắt, giống như một cước đá chúng ta từ hiện tại đến quá khứ, mà lại một chưởng đánh đổ tương lai, tuyệt đối không thể nào là do hắn gây nên, mà là… 

Y trước tiên nhìn trời, nhìn trăng.

Tiếp đó cúi đầu, nhìn ngói nhà dưới chân.

Sau đó, sắc mặt đột nhiên biến xanh.

Không chỉ có y biến sắc.

Hắc Quang Thượng Nhân nhìn theo y, sắc mặt cũng trắng bệch. Tôn Thanh Hà vừa nhìn, trên mặt cũng lập tức mất máu.

Chương 61 – Mệnh người do trời không do người

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Tôn Thanh Hà là cao thủ.

Những năm gần đây, rất ít có kiếm thủ nào ra tay tàn nhẫn hơn hắn. Cho dù kiếm pháp của Lãnh Huyết mạnh mẽ liều mạng hơn, nhưng cũng không giống như hắn ngay cả kiếm pháp cũng tràn đầy khí thế cao ngạo đến điên cuồng.

Thích Thiếu Thương cũng là cao thủ hạng nhất.

Gần đây, trong võ lâm đã rất ít có thủ lĩnh quần long như y. Cho dù Vương Tiểu Thạch có khả năng tương tác lớn hơn, nhưng tính cách tự do tự tại của Vương Tiểu Thạch khiến cho hắn không có loại khí chất anh hùng tịch mịch lẫm liệt của Thích Thiếu Thương.

Hắc Quang Thượng Nhân càng là cao thủ tuyệt đỉnh.

Gần đây trong cung đình, đám đạo sĩ thần côn a dua phụ họa theo Triệu Cát, Thái Kinh, Lương Sư Thành nhiều không kể xiết. Nhưng nếu bàn về thực lực võ công, e rằng không mấy người có thể so được với Chiêm Biệt Dã. Ngay cả Mễ Thương Khung ngầm nắm quyền hành, võ công luyện đến mức lô hỏa thuần thanh (lửa lò thuần xanh), gặp phải Ngôn Vô Mật vốn tu mật tông, khổ tu phật pháp, lại hóa thân thành đạo gia tiên nhân Chiêm Biệt Dã, cũng sáng nhường ba phần, tối nhường năm phần, thực nhường bảy phần.

Ba người này không nghi ngờ đều là cao thủ đỉnh cấp.

Tối nay bọn họ đều tụ họp dưới trăng trên mái nhà này, trong đó Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà còn có một trận quyết chiến không màng sống chết.

Mặc dù không ai chết, cũng không ai bại.

Nhưng trận quyết chiến này đã đủ lưu danh trong trên sử xanh võ lâm. Lưu truyền, nó đã làm nổ tung một cánh tay (may mắn là tay giả) của lâu chủ Kim Phong Tế Vũ lâu khi đó, cũng buộc Tôn Thanh Hà người được gọi là “Diễm Kiếm” lấy ra vũ khí tuyệt mật “bằng bằng bằng” mà hắn vẫn luôn giấu kỹ.

Khi Hắc Quang Thượng Nhân bước lên mái cong, trả lại “Thác” kiếm, Tôn Thanh Hà gần như đã vung kiếm “giết” hắn.

Trước lúc đó, Thích Thiếu Thương cũng mượn kiếm dùng sức, phi kiếm đã gần như chạm đến tính mạng của Hắc Quang thượng sư.

Hai người đều từng có xung động muốn giết chết vị “quốc sư” được Triệu Cát phong thưởng, cũng là tâm phúc trên tay Thái Kinh, tự xưng là “Hắc” này.

Nhưng hai người đều nhịn được, không thật sự ra tay.

Lỡ như thật sự ra tay, cũng chưa chắc có thể thành công.

Hắc Quang thượng sư tuyệt đối là một nhân vật gai góc.

Hắn rất ít khi động thủ với người khác, cho nên cũng rất ít người biết hắn xuất thủ thế nào. Những người đã giao thủ với hắn, gần như đều không có cơ hội tiết lộ võ công của hắn với người khác, bởi vì bọn họ đều chết hết.

Quy củ của Hắc Quang thượng sư Chiêm Biệt Dã, đó là không phải vạn bất đắc dĩ thì quyết không động thủ, một khi động thủ thì nhất định không để lại người sống.

Mọi người không trở mặt, bảo lưu tình hữu nghị, ngày khác gặp nhau chưa chắc đã không hóa địch thành bạn. Một khi đã giao đấu sống chết, nếu để lại cho hắn một mạng, ngày sau vẫn luôn là một cây gai trong lòng, tùy thời sẽ phản công báo thù, không bằng giết chết hắn, sạch sẽ gọn gàng. Cho nên hắn động thủ với người khác không nhiều, kẻ thù thật sự cũng không nhiều, địch thủ lại càng ít.

Bởi vì kẻ địch, kẻ thù cũ đều đã chết trong tay hắn.

Người ít khi ra tay nhưng lại nổi danh trong võ lâm, luận võ nghệ mọi người đều sợ giống như hắn, trong võ lâm kinh sư cũng có mấy người tương tự, Gia Cát tiên sinh là một trong số đó.

Đến hoàn cảnh này, Gia Cát Tiểu Hoa đã rất ít khi ra tay.

Y thậm chí không cần ra tay cũng có thể giải quyết kẻ địch.

Có lần Thái Kinh cố ý ở trước mặt văn võ đại thần khen ngợi điểm này của y.

- Tiên sinh giết người, chẳng những dễ như trở bàn tay, còn không cần tự mình động thủ, chỉ cần gật đầu một cái, nháy mắt một cái, sẽ tự có người giết hết kẻ địch cho tiên sinh.

Gia Cát đáp lại là: 

- Nếu bàn về cảnh giới, ta nào với tới được tướng gia? Tướng gia giết người, thậm chí không cần võ công, chỉ ra lệnh một tiếng, người khắp thiên hạ sẽ cống hiến cho tướng gia, ngay cả hoàng thượng cũng sẽ ban chỉ truyền lệnh, phối hợp với ý ngài. Không phải sao? Loại phàm phu tục tử như ta còn không rõ võ công của tướng gia rốt cuộc cao đến đâu, rốt cuộc có võ công hay không.

Hai người nhìn nhau cười ha hả.

Một người khác là Mễ Thương Khung.

Mọi người đều biết võ công của hắn cao tuyệt, là một trong hai đại cao thủ trên thế gian biết tuyệt thế côn pháp “Triều Thiên Nhất Côn”, nhưng hiếm người tận mắt nhìn thấy hắn ra tay.

Thông thường, hắn giết người cũng không cần động thủ. Người bán mạng cho hắn, từ hoàng cung đến cao thủ sát thủ võ lâm, từ cấm quân đến những kẻ liều mạng trên giang hồ, đều nhiều không kể xiết.

Mọi người đều không rõ, thủ lĩnh thái giám Mễ Hữu Kiều ngầm nắm thực quyền này võ công cao đến đâu. Cho đến khi tại pháp trường, hắn cuối cùng đã ra tay, giết chết “Độc Bồ Tát” Ôn Bảo và “Long Đầu” Trương Tam Bá, mọi người mới biết hắn quả thật võ công cao cường, đã đạt đến cảnh giới đỉnh cao.

Hắn vừa ra tay đã chấn nhiếp quần hùng.

Có điều, sau khi nghe tin Mễ Hữu Kiều đã xuất thủ, cùng với hỏi kỹ càng tình hình, Gia Cát tiên sinh lại vuốt tay áo, hết sức thư thái.

Vô Tình đã từng hỏi y: 

- Mễ công công từng dùng một côn giết chết Trương Tam Bá, chấn nhiếp quần hùng. Thế thúc cảm thấy thế nào?

Gia Cát tiên sinh nói: 

- Đáng sợ, nhưng không đủ sợ.

Đây là lời bình của Gia Cát đối với một chiêu côn pháp tuyệt thế làm kinh hãi toàn trường của Mễ công công.

Còn một người khác cũng có cách nhìn tương tự.

- Một côn đó của Mễ Thương Khung, đã giết chết người, cũng giết chết căn nguyên của mình.

Người đó là Lâm Linh Tố.

Lâm Linh Tố là đạo sĩ được Triệu Cát tin tưởng nhất, chuyên quyền bạo ngược, không coi ai ra gì, ỷ thế hô mưa gọi gió, làm ác hết thiên hạ, ra vào tiền hô hậu ủng, thậm chí còn tranh chấp với chư vương. Tống Huy Tông rất sủng ái người này, gọi hắn là nguyên diệu tiên sinh, kim môn đạo sĩ, một thời quyền thế hiển hách. Người trong kinh đều gọi là “đạo gia lưỡng phủ”, cùng tề danh với Hắc Quang Thượng Nhân, nhưng Lâm Linh Tố càng thịnh vượng hơn. Sử chép “tín đồ ăn ngon mặc đẹp, thường hai vạn người”, có thể thấy được.

Lâm Linh Tố chuyên tu đạo pháp, lại hiểu cách sử vương thuật lôi thần. Khi hắn động thủ với người khác, không thấy hắn có hành động gì, đối thủ đã chết bất đắc kỳ tử. Đủ loại “kỳ tích” này, khiến đạo quân hoàng đế Triệu Cát càng tin tưởng Lâm Linh Tố, phụng hắn làm tiên.

Lâm Linh Tố rất ít khi động thủ với người khác, chỉ so đấu pháp lực. Bởi vì pháp thuật là đạo hạnh mà chỉ tiên nhân dị sĩ mới có, nhân vật võ lâm bình thường cũng không thể tìm được cửa để vào, chỉ cảm thán cao thâm khó lường.

Hắc Quang Thượng Nhân và Lâm Linh Tố đều dùng đạo thuật lấy lòng đám thiên tử quyền quý đạo quân hoàng đế, Thái Kinh, Đồng Quán, hai người đều rất ít khi chính thức động võ với người khác. Hai người có điểm rất tương tự, nhưng cũng có điểm không hợp rất lớn.

Xét về võ công tu vi, Hắc Quang thượng sư Chiêm Biệt Dã lại có chân tài thực học.

Khi hắn chưa vào phật môn thì đã là cao thủ võ lâm, là hảo thủ của Hắc Quang môn Chiêm gia. Nhưng trong một lần giao đấu với tinh anh của bảy đại môn phái Thần Thương hội Tôn gia, Phi Phủ đội Dư gia, hắn phụ trách cố thủ Kim Vũ Hối của dốc Tử Dạ. Cao thủ của bảy đại môn phái vừa lúc chọn phòng tuyến này để tập kích, khi đó là nửa đêm, liền gặp phải Chiêm Biệt Dã trời sinh thiên chất, đêm càng sâu thì võ công của hắn càng cao cường.

Trận chiến này diễn ra, hắn lại một hơi giết chết hơn mười hảo thủ của Thần Thương hội Tôn gia, Tứ Phân Bán đàn Nam Trần Dân gia tộc, lại dùng sức một người đánh lui kẻ địch tập kích Hắc Quang môn lần này.

Theo đạo lý, đây là một công lớn, hắn đã cứu vớt một trận đại nạn cho môn phái mình.

Nhưng kết quả hoàn toàn ngược lại.

Khi đó, môn chủ của Hắc Quang môn là “Đại Thanh Thái Công” Chiêm Tứ Thi từ lâu đã không vừa mắt Chiêm Biệt Dã, ngầm căm ghét hắn. Hiện nay thấy hắn dùng sức một người, dũng cảm đánh lui cường địch. Vừa lúc đám người Phi Phủ đội Dư gia, Thái Bình môn Lương gia, Thiên An phái Nữ Trần Thị gia tộc, bởi vì chiến dịch dốc Tử Dạ bị chết mấy tên đệ tử, cho nên rầm rộ khởi binh hỏi tội Hắc Quang môn, còn tìm cao thủ của Lão Tự Hiệu Ôn gia, Kim Tự Chiêu Bài Phương gia, Nam Dương Chỉnh Cổ môn La gia, Cảm Tình Dụng Sự bang Bạch gia tới phân xử cho bọn họ. Chiêm Tứ Thi liền mượn cớ này, chỉ trích Chiêm Biệt Dã ngông cuồng tự đại động sát cơ, làm tổn thương hòa khí của đồng đạo giang hồ, khiến cho các môn các phái trong thiên hạ liên thủ làm khó Hắc Quang môn, vì vậy là “đại tội nhân” của Chiêm gia, phải xử lý nghiêm khắc.

Dưới cơn nóng giận, Chiêm Biệt Dã đã cùng với những người ủng hộ hắn như “Triều Thiên Tứ Cước” Chiêm Thông Thông rời khỏi Hắc Quang môn.

Sau khi rời khỏi, hắn lại thành chim sợ cành cong, nhất thời thiên hạ rộng lớn lại khó có đất dung thân. Bởi vì ân oán trước kia, Thần Thương hội Tôn gia, Hạ Tam Lạm Hà gia, Tứ Phân Bán đàn Lương Trần Thị gia tộc và Thiên An phái Nữ Ẩn Thị gia tộc, tất cả đều tìm hắn gây phiền toái. Đến nỗi có một đoạn thời gian, Chiêm Biệt Dã lo sợ không yên như chó nhà có tang, rất chán nản. Ngay cả người khi đó ủng hộ hắn nhất là “Triều Thiên Tứ Cước” Chiêm Thông Thông, cũng chuyển sang gia nhập dưới trướng “Khiếu Thiên Vương” Tra Khiếu Thiên.

Chiêm Biệt Dã một mình chiến đấu, bốn bề khốn đốn. Lúc này hắn lại hạ quyết tâm, trốn vào Phật môn, dốc lòng khổ tu, không ngờ lại có một phen thành tựu.

Đáng tiếc lúc đó trái phải trên dưới đạo quân hoàng đế đều sùng đạo dìm phật. Chiêm Biệt Dã phật pháp càng cao, dục vọng lại không vì vậy mà giảm bớt. Hắn muốn khôi phục danh dự, giành lấy địa vị, nếu dùng sức của một người, e rằng võ công có cao cũng không được mọi người đồng ý. Cộng thêm hắn có nhiều kẻ thù, người căm ghét hắn càng nhiều hơn, tuy biết rõ hắn có tu vi cao, nhưng có ai nguyện ý vì hắn mà đồng thời đắc tội với đông đảo môn phái như Sơn Đông Thần Thương hội, Hắc Quang môn, Thái Bình môn, Phi Phủ đội? Nghĩa khí giang hồ, chỉ quyền để dựa; võ lâm đấu tranh, chỉ thế là biết.

Chiêm Biệt Dã thấy đại thế không thể vãn hồi, cho nên không tiếp tục ở lại phật môn, vân du bốn biển, một mặt tiềm tu mật tông, một dạo đổi tên là Ngôn Vô Mật, hoàn toàn thoát ly khỏi Chiêm gia. Nhưng kết quả vẫn không chịu được tịch mịch, không chịu được cảnh có thân thủ tài giỏi nhưng không ai biết đến. Hắn lại quay về, lắc mình biến hoá, trở thành đạo gia tông sư, nói “nguyên vi”, đòi “thanh tịnh”, giảng “tự nhiên”, tính mệnh song tu, cố bày vẽ thần thông. Lúc sắp xuất thế thì sùng bái Lão Tử, Trang Tử; nhân thế trị thiên hạ, chính là Trương Lương, Y Duẫn; lúc sắp biến pháp trị thế, lại mang ra Thương Ưởng, Hàn Phi; thời loạn làm kẻ tung hoành, thành Hoàng Thạch Công, Quỷ Cốc Tử; có lúc kiêm hiểu y đạo, tức Hoa Đà, Biển Thước; chuyển đổi làm binh gia, lại thành Tôn Tẫn, Khổng Minh; biến thành tôn giáo, lại sùng Trương thiên sư; biến thành âm dương thuật, lại theo thiên văn, lịch pháp, địa lý, phong thủy, thuật số, bói toán, hình pháp, linh thông, ảo thuật, không thứ gì không tinh, không thứ gì không thông, không thứ gì không hiểu, không thứ gì không thể, trên dưới tung hoành; Trần Hi Di, Thiệu Khang Tiết, tại triều ai cũng thành đại biểu cho hắn; về phần văn học, cũng có đám nhân vật Trúc Lâm Thất Hiền và Thi Tiên Lý Bạch làm chỗ dựa. Do đó Chiêm Biệt Dã càng gan dạ yên tâm, dùng một thân võ thuật tuyệt học công thêm đạo thuật dị năng, quyền ngang với Thái Kinh, được Triệu Cát sủng ái, thăng tiến như diều gặp gió, trở thành quốc sư một nước, đồng thời cũng khôi phục bản tính của hắn.

Ngoại trừ dùng đạo thuật lừa đời chiếm được sủng ái, Chiêm Biệt Dã cũng lập bốn nguyên tắc làm người xử thế đối địch tiến lui.

Một, không cần thiết thì không gây thù chuốc oán, một khi kết thù thì phải giết địch. Giết địch thì không được để lại người sống. Nếu để lại người sống, một là bị báo thù, hai là khiến người ta biết được võ công nội tình của mình, đều không phải chuyện tốt. Giống như trong chiến dịch Kim Vũ Hối kia, hắn không giết hết kẻ địch trong bảy đại môn phái đến xâm phạm, chính là để lại mầm tai họa sau này kết oán. Cho nên, trừ khi hắn không động thủ, một khi động thủ thì phải giết địch.

Vì vậy, người từng nhìn thấy hắn ra tay rất ít. Giống như lần đó tại biệt thự Biệt Dã, hắn vốn định động thủ giết chết Vương Tiểu Thạch, nhưng cuối cùng vẫn không dùng hết sức.

Nếu hoàn toàn không động thủ, vậy thì không được, Thái Kinh nhất định sẽ khiển trách.

Nếu như toàn lực động thủ, lại kết thù với Vương Tiểu Thạch, lỡ may không giải quyết được đối phương, vậy thì ngày sau sẽ thành hiểm hoạ. Mối quan hệ của Vương Tiểu Thạch rất tốt, hắn cũng không muốn kết ân oán này.

Do đó hắn chỉ “tùy ý ra tay”, đã “giả vờ”, không thể xem như là “thật sự động thủ”. Cho dù người khác không biết, Vương Tiểu Thạch nhất định cũng có thể cảm nhận được. Hắn muốn Vương Tiểu Thạch thiếu hắn một ân tình.

Như vậy là đủ rồi.

Ở trên giang hồ, nợ tiền có thể thiếu, nợ tình không thiếu được, nợ nghĩa càng khó trả.

Hai, bất luận hắn nhập đạo, thành phật hay là tu Mật, hắn đều nắm chắc một trọng điểm, giữ chắc một yếu điểm, đó là phải luyện võ công cho tốt. Bởi vì cái gì cũng là giả, chỉ cần hắn tu luyện võ công cho tốt, hắn sẽ có thể dùng thực lực võ công thi triển thành phật pháp, chuyển hóa thành đạo thuật, biến hóa thành mật công, thay đổi thành thần lực… chỉ cần hắn nói cái gì thì chính là cái đó.

Chủ yếu phải xem thực lực của mình, tranh chấp trong cung đình và giao đấu trong võ lâm đều là như nhau.

Chỉ cần võ nghệ cao cường võ công giỏi thì không sợ, ít nhất cũng có thể tự bảo vệ mình. Cho nên, tu pháp gì, luyện đạo gì, niệm phật gì cũng là giả, chỉ có võ công không thể một ngày không luyện, một ngày không tu, một ngày không tập.

Do đó, hắn chuyên cần tập võ, phân biệt dùng tinh hoa của ba nhà đạo phật mật dung hợp làm võ công, khiến công lực của hắn tăng mạnh, ngày càng tinh tiến.

Ba, hắn còn đặc biệt tu luyện một loại võ công bí kỹ do chính hắn cảm ngộ được, đó là “Hắc Quang đại pháp”.

Đây vốn là tâm pháp nhập môn của Hắc Quang môn Chiêm gia, cao thủ Chiêm gia đều phải luyện, sau đó mới tiến tới tu luyện các loại võ công cao thâm khác.

Chỉ Chiêm Biệt Dã lại khác.

Hắn vẫn luôn tu luyện loại võ công này, hơn nữa từ trong đó ngộ ra được rất nhiều tinh túy của võ thuật. Hắn phát hiện môn võ công cơ bản này thực ra là võ học thượng thừa, có điều không có ai chịu bỏ công sức tu luyện nó cho thật tốt mà thôi.

Chiêm Biệt Dã khổ công tu luyện, nghiên cứu kỹ càng “Hắc Quang đại pháp”. Cuối cùng hắn nhờ Thái Kinh nói giúp, “phụng chỉ” san bằng nội loạn Hắc Quang môn, trục xuất sau đó hạ lệnh giết chết Chiêm Tứ Thi, tự mình lên làm môn chủ của Hắc Quang môn, làm rạng rỡ cửa nhà, lấy lại uy danh, phát huy “Hắc Quang đại pháp”.

“Hắc Quang đại pháp” chính là phát huy lực lượng của “hắc” một các không hạn chế, không hạn lượng, vô hạn.

Chỉ đen mới có thể đối kháng với trắng.

Chỉ đêm tối mới có thể thay thế ban ngày.

Chỉ có lực lượng hắc ám mới có thể cân bằng với lực lượng quang minh.

Đã là tâm pháp độc môn, đương nhiên “một mình nắm giữ”, người khác không có cũng mô phỏng không được.

Do đó Chiêm Biệt Dã càng tự cao tự đại.

Người khác tu luyện chính đạo, hắn làm cũng là chính đạo, nhưng tu lại là tà đạo.

Người khác muốn đi bạch đạo, hắn tu cũng là đạo, nhưng là lại là hắc đạo.

Người trắng ta đen, người bỏ ta lấy.

Hắn lại thành một phái riêng. Đại đạo như trời, mỗi người một bên. Trong nhân sinh vô thường, xanh đỏ đen trắng, hắn lại chỉ chọn đen.

Bốn, hắn đã nhận định một pháp lý không thay đổi, đó là mệnh người do trời không do người.

Người sống trên đời, thực ra có mấy chuyện do được người?

Đã như vậy, không bằng mặc cho ý trời, không cần khổ cực vùng vẫy, phấn đấu, chỉ cần nắm bắt thời cơ, tận tình hưởng thụ, có gió chạy hết sức, phú quý nên hưởng thì cứ hưởng, đừng để lúc nghèo hối hận suông.

Vì vậy, ngoại trừ hắn kiên quyết quán triệt vẫn tu luyện “Hắc Quang đại pháp”, tất cả những thứ khác hắn đều thả hết, bỏ hết, thậm chí nếu cần thiết cũng hưởng hết phúc phận, giết hết kẻ thù.

Trừ khi hắn không thể nắm chắc, năng lực không đủ, vậy thì lại là chuyện khác.

Cao thủ quyền mưu chân chính, phải hiểu được lúc nào tiến, lúc nào lui.

Lúc tiến tinh tiến, lúc lui không trễ, không sợ nghịch thế, không sợ nước xiết.

Một cao thủ hạng nhất giống như hắn, chẳng những phải biết khi nào nên giết, còn rất am hiểu đạo không giết.

Giống như đối với Vương Tiểu Thạch, hắn không dùng hết sức.

Giống như hiện nay hắn rút kiếm trả địch, chính là muốn hóa địch thành bạn.

Cho dù không thể làm bằng hữu, ít nhất cũng miễn kết thù sâu.

Không chiến mà thắng, mới là đại thắng.

Chiến rồi mới thắng, đó là thắng thảm, bởi vì không có bất kỳ thắng lợi trọng đại nào mà không phải trả giá nặng nề.

Giống như tối nay, trong trận chiến này, hắn không muốn tiếp chiến. Hắn biết chỉ cần hắn không trốn, không tránh, không ra tay trước, chủ động đối diện, Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà, một người có phong thái anh hùng, một người tự cho là hiệp nghĩa, nhất định sẽ không liên thủ phát động công kích hắn.

Hắn tự đánh giá, nhất định có thể tránh khỏi.

Tối nay hắn vốn không định quyết chiến. Nếu muốn “quyết chiến”, hắn thà chọn “cận chiến” với nữ nhân trên giường, cùng nhau song tu, sung sướng như tiên, chẳng phải là tự tìm vui vẻ. Cần gì đánh sống đánh chết, muốn người muốn mạng.

Hắn đã sớm chuẩn bị. Hoàng thượng tâm huyết dâng trào, chợt muốn đến hạnh Hạnh Hoa lâu. Sau đó, hắn lưu ý đến Nhất Gia hành động lén lút, cùng Thư Vô Hý thương nghị lâu ngày, trong lòng ngầm đề phòng. Hiện nay chỗ hoàng đế dường như không có gì đáng ngại, chỉ là trên mái cong của nhà lớn cổ xưa này có một trận quyết đấu đặc sắc vô song, dẫn dắt chính mình, đã kinh động tâm thần, cũng là thu hoạch bất ngờ.

Hắn dứt khoát đối diện với hai đại cao thủ này, đi lên mái cong, bỗng nhiên phát hiện trong lòng mình âm thầm dâng lên một luồng sát tâm sát tính cực kỳ hiếm thấy, nhưng hắn lại không thể tự mình ức chế, ung dung tiến lui. Quả nhiên hai người đều không có ý giết mình. Đang lúc đắc ý, hắn lại đột nhiên phát giác một chuyện.

Không chỉ có hắn, mà là ba người.

Ba người đồng thời phát hiện một chuyện.

Sát cơ mãnh liệt.

Sát ý lộ ra.

Sát khí bùng cháy.

Sát phạt nổi dậy.

Sát khí bừng lên.

Thậm chí so với trận chiến vừa rồi, Tôn Thanh Hà dùng binh khí độc môn “bằng bằng bằng” giao đấu với một loại “kiếm pháp phản bội vận mệnh” của Thích Thiếu Thương, sát tính càng hiện rõ hơn.

Đây là chuyện gì?

Sát khí đến từ dưới chân.

Chương 62 – Mệnh ta do người không do ta

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Chẳng những Hắc Quang Thượng Nhân phát hiện, Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà dĩ nhiên cũng phát hiện, ánh trăng màu trắng dần dần biến thành màu xanh.

Mây đen cuồn cuộn.

Chim lướt nhanh.

Gió gấp.

Hiểm.

Tiếng sấm.

Chớp đi trước.

Nhà cửa nghiêng nghiêng.

Mái cao lung lay muốn ngã.

Trong chớp nhoáng này, bọn họ lại liếc thấy đối phương biến thành một bộ xương trắng.

Ba bộ xương trắng dưới ánh trăng từ cổ, trong kinh thành cổ kính, trên ngói nhà cổ xưa.

Bọn họ đều kinh ngạc, sự kinh ngạc này thật sự là đi vào tận tim, gan, lá lách, dạ dày, phổi.

Sau đó, bọn họ chính thức cảm giác được trời rung đất chuyển, ngói muốn nứt, vách muốn sụp, tường muốn đổ.

Trong gian nhà dưới chân, có người đột nhiên phát ra tiếng gào thét khàn khàn đến long trời lở đất.

- Mệnh…ta… do… người… 

Một tiếng “ầm” vang lên, nơi bọn họ đứng thật sự nứt ra một lỗ hổng lớn.

Nhất thời ba người đều không đặt chân được, rơi nhanh xuống dưới, kể cả ngói vụn, đá vụn, gỗ vụn đồng loạt rơi xuống.

Ba người đều phân biệt dùng “Trầm Kim Trụy Ngọc”, “Lạc Địa Phân Kim”, “Thiên Quân Trụy Vạn Cân Áp” rơi xuống phía dưới, vừa rơi vừa trầm khí ngưng thần, nín thở tập trung, vận sức thủ thế, chuẩn bị đối phó với kẻ địch.

Ánh trăng lạnh lẽo.

Cát bụi cuồn cuộn.

Mái cong cổ xưa này không biết đã xây bao nhiêu năm, cả khối sụp xuống, cùng với ba cao thủ sẩy chân nhưng không mất trọng tâm trên ngói nhà. 

Một người là kiêu hùng của võ lâm kinh sư.

Một người là kẻ địch của quần hùng.

Còn có một người là quốc sư một nước, tay đen, tâm đen, mặt đen, áo đen, ngay cả công phu cũng đen.

Ba đại cao thủ tuyệt đỉnh rơi xuống, nhưng trong ngói bay đất vỡ cũng có ba người bay lên. Người dẫn đầu giữa hai mắt cá còn quấn vòng thép, kéo theo một sợi xích màu nâu loang lổ, tóc tai bù xù, không ai thấy rõ mặt của y.

Nhưng trong nháy mắt khi người này bay nhanh lên, thân thể song song với Hắc Quang Thượng Nhân, Thích Thiếu Thương, Tôn Thanh Hà (cho dù vẫn cách nhau khá xa), ba đại cao thủ này đều từng người sinh ra một loại cảm giác kỳ lạ, kỳ dị, kỳ quái, giống như đây mới thật sự là đen, thật sự là tối.

Thế nhưng đây cũng là một con đường lớn, đường lớn màu đen giống như bầu trời bao la mênh mông, vô biên vô tận.

Hơn nữa còn vô đối vô địch.

Người này vừa bay lên, liền che lấp toàn bộ ánh trăng. Y mới là đêm tối thật sự, màu đen thật sự, bóng tối vô tận vô nguồn.

(Đây là cảm nhận của Hắc Quang thượng sư khi thân hình trầm xuống, nhìn thấy người tóc rối một tay đang bay nhanh lên kia.)

Ngạo.

Đó mới thật sự là ngạo, thật sự là cuồng.

Đó không chỉ là làm theo ý mình, ta ngạo ta cao, mà là một loại ngạo mạn trong mắt không người, vượt bậc thiên hạ, muôn dân vạn vật đều không để vào mắt.

Y đã là thần.

Nhưng lại là người.

Cuồng đồ này vừa bay lên, liền kích phát tất cả đấu chí và trạng thái điên cuồng trong lòng hắn, giống như trừ thứ này ra còn không còn gì khác, trừ cái chết thì không còn gì.

(Đó là cảm ứng của Tôn Thanh Hà phát sinh trong nháy mắt khi rơi xuống trong nhà, chợt gặp phải cuồng đồ tóc rối kia.)

Địch.

Đây mới là địch nhân thật sự, địch thủ chân chính.

Đây quyết không phải là một kẻ địch bình thường, mà là một chiến tướng, một cuồng sĩ, một cuồng ma, một thiên địch không biết rút lui, thiên hạ vô địch.

Y xem trời là địch.

Y không người nào có thể địch lại.

Chiến thần này vừa bay lên, giống như trời đất biến sắc vì y, ngày đêm đảo lộn vì y, kinh thiên động địa quỷ thần khiếp. Tất cả trường diện lớn nhỏ đều biến thành bất tận không chân thực, mộng ảo không hoa, nhẹ như của trời, nhỏ không thể thấy. Một cao thủ chân chính phải giao thủ với loại nhân vật tuyệt đỉnh này, mới xem như không phụ hùng tâm, không uổng đời này.

(Đây là cảm giác mà Thích Thiếu Thương chợt sinh ra khi đang rơi xuống, bỗng gặp phải kỳ nhân cuồng sĩ phi thân lượn vòng bay lên.)

Trong nháy mắt này, ba người bọn họ còn có một suy nghĩ chung, người này chẳng những là không có diện mạo, dường như ngay cả mặt mũi cũng không có.

Nhưng người này lại khiến bọn họ quen thuộc khác thường.

Dường như, trong ba đời bảy kiếp đã sớm đối mặt, gặp gỡ, ngõ hẹp tương phùng. Cho dù liên quan sống chết, máu thịt tương liên, nhưng nhất thời không nhớ ra tên của y.

Y là ai?

Chỉ thấy y ngồi xếp bằng nhưng thân thể vẫn vọt nhanh lên, đồng thời phát ra một tiếng gào thét điên cuồng: 

- Không… do… ta… 

Trong lòng ba người đều giật mình. Bảy chữ kia nếu nối lại hoàn chỉnh, chính là “mệnh ta do người không do ta”.

Chẳng lẽ một người khiến ba đại cao thủ này chỉ liếc nhìn cũng cảm thấy kinh ngạc chấn động như vậy, lại không chỉ là tình bất đắc dĩ, mà còn thân không do mình, ngay cả mệnh cũng không do y?

Nếu như ngay cả mệnh cũng không do mình khống chế, lại rơi vào tay ai?

Ngay lúc này, bọn họ lại liếc thấy hai người, một người vóc dáng thon dài, một người nhỏ bé lanh lợi.

Đều che mặt.

Đều bay nhanh lên phía trên.

Một trái một phải, một trước một sau, vây quanh người điên tóc rối kia, nhanh chóng bay lên, giống như đang bảo vệ y, lại giống như đang dung túng y, đều quơ tay múa chân, trong miệng phát ra tiếng kêu kỳ lạ.

Một người ngón tay thon dài như bàn tay của khỉ đầu chó.

Một người bàn tay nhẵn nhụi như gương, gần như không thấy khớp ngón tay.

Đều không nhìn thấy gương mặt, chỉ biết ánh mắt lộ ra của bọn họ đều nôn nóng.

Đều sợ hãi.

Đều có sát ý và tử chí cực lớn.

Chương 63 – Mệnh ta do trời không do ta

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Vừa thấy người điên tóc rối một tay kia bay lên trong ngói sụp mái đổ, sau đó lại phát hiện hai tên hán tử che mặt nhe nanh múa vuốt này (một người ngón tay còn dài hơn hai bàn tay, một người ngay cả ngón tay cũng không thấy, chỉ còn lại một bàn tay không), Hắc Quang Thượng Nhân, Thích Thiếu Thương, Tôn Thanh Hà, đều đồng thời nhớ tới một người.

Một sự kiện.

Một vụ án lớn chưa được giải quyết trong võ lâm.

(Chẳng lẽ… y chính là…)

Chợt nhớ tới người này, ba người bọn họ đều không tự chủ được, cũng không kìm lòng được cùng có một loại phản ứng, nhưng phương pháp lại không giống nhau. Hắc Quang Thượng Nhân quát lên một tiếng như thanh la, chỉ thấy hắn đột nhiên lộn nhào một cái giữa không trung, vốn là đầu trên chân dưới rơi xuống, hiện giờ lại biến thành đầu dưới chân trên, hít thở một tiếng, hóa thành một luồng khói đen, nhanh hơn cả dơi, trong tiếng “vèo” xông ngược lên lỗ hổng trên nóc nhà kia.

Lúc bắt đầu giống như dưới chân phun ra một luồng khói đen, sau khi phát động lại giống như một luồng ánh sáng đen.

Nhanh như tia chớp.

Chớp đen.

Hắn nhanh, Thích Thiếu Thương cũng nhanh.

Người nhanh còn có Tôn Thanh Hà.

Thích Thiếu Thương chợt đánh một chưởng về phía Tôn Thanh Hà.

Tập kích từ xa.

Chẳng lẽ vào giây phút quan trọng này, y lại lợi dụng lúc người khác gặp khó khăn, đánh lén Tôn Thanh Hà?

Nhưng Tôn Thanh Hà cũng giống như đã sớm phòng bị, hắn cũng đồng thời dùng một chưởng từ xa đánh về Thích Thiếu Thương.

Chẳng lẽ đến giây phút khẩn cấp này, bọn họ vẫn sát tính không đổi, không đấu đến khi lưỡng bại câu thương thì không được?

Một tiếng “bùng” vang lên, chưởng lực của hai người va chạm vào nhau giữa không trung, ép ngược lẫn nhau, trở thành dòng chảy ngược. Thích Thiếu Thương, Tôn Thanh Hà mượn lực lượng chưởng công phản kích này, đột nhiên nghịch chuyển tư thế rơi xuống, trở thành đồng thời phóng ngược lên trên.

Xông lên nóc nhà.

Xông lên lỗ hổng lớn trên nóc nhà.

Xông lên ánh trăng.

Xông lên bầu trời bị ánh trăng tràn ngập.

Ba người bọn họ gần như cùng lúc thay đổi tư thế rơi xuống, ngược hướng xông lên, nhanh như tia chớp, động tác nhanh lẹ. Ba thân hình rơi xuống từ trong gạch ngói vụn, từng người hóa thành một luồng ánh đen, trắng, xanh xông thẳng lên trời.

Nhưng không chỉ ba luồng, còn có một luồng ánh sáng khác.

Người này toàn thân tỏa ra năm màu lẫn lộn, hơn nữa còn loáng thoáng mang theo âm nhạc êm tai và mùi thơm dễ chịu.

Người này vốn ở trong phòng, nhưng hiển nhiên cũng không phải đi cùng hai người bịt mặt kia.

Bởi vì hắn vừa bay lên, vừa phải ứng phó với thế công cách không của hai người bịt mặt kia.

Hai người bịt mặt kia vừa nhảy lên, vừa khoa tay múa chân, thực ra là phát động thế công đối với người này.

Hai người, lại là ba loại thế công. Hai loại là chưởng lực, một loại là trảo pháp.

Hai loại chưởng pháp và một loại trảo pháp đều có cùng một loại đặc sắc, đó là âm.

Âm nhu, âm hiểm, âm độc.

Thế nhưng người theo sát xông lên kia lại không sợ.

Hắn dùng tay phải ứng phó, tay trái của hắn lại để không.

Nhưng tay không không hề nhàn rỗi.

Hắn đang lau mồ hôi, hắn dùng một chiếc khăn lông trắng tinh lau mồ hôi.

Dường như khí trời thật sự là quá nóng cực nóng, chỉ cần một hồi không lau mồ hôi, cả người hắn sẽ bị mồ hôi ướt đẫm, chìm ngập.

Hắn dường chỉ dùng hai thành lực lượng để ứng phó với hai tên cao thủ che mặt từ trên cao tập kích xuống kia.

Ngoài ra hắn còn dùng hai thành lực lượng để lau mồ hôi.

Sáu thành lực lượng còn lại, hắn lại lưu ý người điên tóc rối một tay kia. Cho dù người điên kia giống như vốn không biết có sự hiện hữu của hắn, nhưng hắn vẫn cẩn thận, thận trọng, quả thật giống như đi trên băng mỏng, như tránh sấm sét.

Những mùi thơm, tiếng nhạc và màu sắc kia của hắn, đó là thứ nở rộ, bộc lộ lúc hắn đối kháng giao thủ với hai tên bịt mặt thi triển hai loại chưởng lực âm hiểm và một loại trảo pháp âm độc.

Hắn vừa tiếp chiêu, vừa lau mồ hôi, đã phi thân lên nóc nhà.

Cho dù nóc nhà đã bị phá thủng một lỗ lớn như một gian phòng, nhưng vẫn còn nhiều chỗ không sụp đổ, do đó người điên kia vừa phi thân lên, liền chiếm cứ điểm cao nhất trên nóc nhà, cười khặc khặc. 

Hai người bịt mặt khác, một trái một phải rơi xuống bên cạnh người điên một tay này.

Hắn lại đáp xuống phía đông lỗ hổng, cùng với Thích Thiếu Thương (đã chiếm phía tây), Hắc Quang Thượng Nhân (đã chiếm phía bắc) và Tôn Thanh Hà (đã chiếm phía nam) nhanh chóng bay lên, vừa lúc hình thành một hình bốn cạnh.

Bốn người quan sát lẫn nhau.

Mượn ánh trăng, bọn họ đã che giấu sát khí can qua trong ánh mắt.

Lúc này Thích Thiếu Thương, Tôn Thanh Hà, Hắc Quang Thượng Nhân mới phát hiện, người lau mồ hôi này rất trẻ tuổi, ăn mặc theo kiểu thư sinh, là một gã mập mạp mắt to.

Nhưng trong võ lâm kinh sư, không ai dám xem thường tên thư sinh mập mạp này. Bọn họ đều từng nghe nói đến trận chiến của “Kinh Đào Thư Sinh” Ngô Kỳ Vinh tại Hồi Xuân đường, chẳng những dùng một địch năm, dễ dàng đánh bại Phùng Bất Bát, Trần Bất Đinh, Hoa Khô Phát, Ôn Mộng Thành và Ôn Nhu, còn dùng một chưởng đánh chết “Lạc Hoa Vũ Ảnh” Chu Tiểu Yêu.

Chiến dịch kia khiến cho hắn vốn danh lừng một thời càng thêm danh động thiên hạ.

Nhưng cũng khiến cho hắn đắc tội với tất cả quần hào võ lâm bạch đạo.

Bọn họ đều hận hắn, mọi người đều quyết chí thề phải tiêu diệt hắn mới thống khoái.

Vì nguyên nhân này, hắn cũng mai danh ẩn tích tại võ lâm kinh sư một thời gian, cũng không biết hắn còn ở trong kinh hay không.

Không ngờ hắn lại ở trong nhà cổ này.

Càng không ngờ chính là bọn họ lại gặp phải hắn vào lúc này cảnh này.

Kinh Đào Thư Sinh, Ngô Kỳ Vinh.

Bốn người mỗi người chiếm một phương, đứng đối diện với nhau.

Lại thấy ánh trăng càng thêm kỳ quái, giống như càng dần bành trướng, càng dần phát xanh.

Chỉ nghe người điên tóc rối ngồi xếp bằng trên đỉnh mái cao kia vẫn lẩm bẩm: 

- Mệnh… ta… do… trời… không… do… ta… không do ta, không do ta!

Ngữ âm bi thương khàn khàn, người nghe cũng cảm thấy đau thương chua xót.

Người tâm xót chính là Thích Thiếu Thương, bởi vì tiếng kêu bi thương âm thầm này khiến hắn chợt nhớ đến đủ loại bất bình và tịch mịch, bao nhiêu kìm nén và thất bại của mình trước đây.

Tôn Thanh Hà không đau xót, chỉ cảm thấy tâm nóng. Hắn làm theo ý mình, độc hành độc đoán đã qua nửa đời, chợt nghe có người ngữ điệu còn lạnh lùng, còn kiêu ngạo, càng quái gở, càng cô độc, càng thê lương hơn hắn, bất giác trong lòng nóng nảy.

Hắc Quang Thượng Nhân cũng không đau xót, cũng không nóng nảy.

Hắn chỉ là tâm run.

Không biết vì sao, đứng cùng với người tóc rối một tay kia, hắn đột nhiên nhớ tới những hành vi và việc làm trong quá khứ, đủ loại ác nghiệt tạo ra trong lúc vô tình hay cố ý.

Những chuyện này, những chuyện kia, đều khiến cho hắn kinh hãi, khiến cho hắn lạnh người.

Cũng khiến hắn không rét mà run.

Hiện giờ hắn chính là tâm run.

Hắn sợ.

Cho nên hắn là người đầu tiên kêu lên: 

- Các hạ là ai?

Sau khi hỏi vấn đề thứ nhất, hắn lại hỏi tiếp vấn đề thứ hai: 

- Ngươi rốt cuộc có phải y hay không?

“Y” là ai?

Xem ra, điều khiến Hắc Quang Thượng Nhân sợ hãi, đó là “y” chính là “y”.

“Y” có thể khiến Hắc Quang quốc sư giống như chim sợ cành cong, rốt cuộc là ai?

Quả nhiên, Chiêm Biệt Dã lại hét lớn câu thứ ba: 

- Ngươi có phải là Thất gia hay không?

“Thất gia”?

Thất gia, Bát gia, thậm chí là Đại gia, Nhị gia, trong kinh thành ít nhất có chín vạn bảy ngàn bảy trăm lẻ một cái tên như vậy.

Rốt cuộc là “Thất gia” nào?

Hắc Quang Thượng Nhân lớn tiếng hô lên nghi hoặc trong lòng, nghi vấn trong đầu hắn.

Tiếng hô của hắn đến từ sự sợ hãi lo lắng của hắn.

Hắn lo lắng hiện giờ người xuất hiện trước mắt hắn chính là người mà hắn e ngại nhất.

Trong lòng hắn vừa sợ, ngược lại lớn tiếng quát hỏi.

Một khi quát lên như vậy, giống như mình đang đứng ở ngoài sáng, còn đối phương mới đang sợ hãi hoảng hốt.

Hắn nói chuyện luôn rất lớn tiếng vang dội, hơn nữa còn mang theo giọng khàn khàn.

Hắn luôn luôn lớn tiếng doạ người, hắn càng sợ lại càng quát mắng rung trời.

Nếu như dùng tướng học để luận, “thanh tướng” là một loại học vấn cao thâm và khó nắm giữ nhất trong tướng học. Nghe tiếng biết tướng, thậm chí ngay cả tướng cũng không cần xem, có thể tưởng tượng tu vi của nó khó khăn thế nào. Chiêm Biệt Dã lớn tiếng quát tan sự sợ hãi trong lòng, cũng là một loại tiến công dùng thanh thế bức người.

Hắn đã công một chiêu.

Thế nhưng đồng dạng, người điên tóc rối kia dùng mấy tiếng kêu thảm thê lương truy hỏi, lại khiến cho ba đại cao thủ tại trường dưới trăng có cảm giác khác nhau, tâm run, tâm nóng và tâm xót, chẳng phải cũng là võ học chí cao cảnh giới dùng thanh phá tướng, thanh còn ý mất?

Hắc Quang quốc sư giống như quát hỏi ông trời, mọi người đều đột nhiên yên tĩnh lại, giống như trúng phải ma chú. Thư sinh và hai người bịt mặt kia vốn đang ở dưới trăng khoa tay múa chân, trong miệng lầm bầm liên tục, giống như nhìn thấy ma ốm, hiện giờ bỗng nhiên lại đứng yên bất động, im lặng không nói.

Chiêm Biệt Dã dứt khoát bất chấp tất cả, lại nói ra một câu.

- Ngươi rốt cuộc có phải là Quan Thất không?

Quan Thất?

Minh chủ Mê Thiên minh Quan Mộc Đán, “Thiên Địch” Quan Thất?

Y đã phát điên bị thương, mất tích đã lâu, không ngờ hiện nay lại tái hiện giang hồ?

Chương 64 – Mệnh người do trời không do ta

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Chỉ thấy trên mái cao, người một tay tóc rối ngông cuồng kia lại ngơ ngác nhìn lên trăng một hồi, sau đó mới nhìn xuống mọi người, cười một tiếng.

Ánh trăng chiếu vào, hóa ra dáng vẻ của người này mặc dù quắc thước, thái độ điên cuồng, nhưng khi đứng yên trầm tư, ngũ quan lại rất anh tuấn, hơn nữa dưới ánh trăng còn ẩn chứa mê hoặc cực lớn và tình cảm phong phú, khiến người ta nhìn thấy sẽ đồng thời có cảm giác dương dương tự đắc và cảm thấy hổ thẹn, còn khiến người ta không nhịn được muốn quyết một trận tử chiến với y, lại không đành thương y hại y. 

Nhưng người này lại không quan tâm.

Y cuồng vọng cười một tiếng.

Cũng không biết là đang cười người, hay là cười vật?

Hoặc là đang cười trời, cười trăng?

Sau đó y chợt thở dài: 

- Mệnh người do trời… không do ta… 

Đây giống như một tiếng thở dài, một câu cảm thán.

Lại giống như là một câu thương xót, một tiếng tự thương.

Ngữ âm của y giống như đại từ đại bi, nhưng thần chí tuyệt đối là sát khí ác liệt, không hề từ bi.

Sau đó y lại cười một tiếng, từ xa xa dùng tay lần lượt chỉ vào Ngô Kỳ Vinh, người bịt mặt, Thích Thiếu Thương, Chiêm Biệt Dã, Tôn Thanh Hà, nói một cách lạnh nhạt hơn nữa còn đứt đoạn: 

- Mệnh, người, do, trời, không, do, ta.

Mọi người đều biết võ công của y cái thế, cho nên phàm là người bị y chỉ vào, ai cũng co lại một chút, hoặc làm tư thế chống đỡ, hoặc là né tránh, nếu không thì trong lòng cũng cảnh giác hơn.

Chợt nghe y lại cười lớn nói: 

- Không phải sao? Người sống trên đời, lại có mấy chuyện là do được người?

Sắc mặt của y tái nhợt, ánh mắt rất si, cũng rất cuồng, giống như trong lòng có từng ngọn lửa thiêu đốt.

Nhưng môi lưỡi của y đều rất đỏ, rất đẹp, giống như vừa nhổ ra một ngụm máu, lại nuốt vào một ngụm máu.

Người này chẳng lẽ thật sự là Quan Thất?

Một Quan Thất danh động thiên hạ, danh chấn giang hồ, năm đó nếu không phải y bị điên, võ lâm trong kinh không ai có thể địch lại?

Lần trước khi y chợt xuất hiện trong giang hồ, đã điên một nửa, đã khùng tám thành, bị năm đại cao thủ của Lục Phân Bán đường và Kim Phong Tế Vũ lâu là Tô Mộng Chẩm, Bạch Sầu Phi, Vương Tiểu Thạch, Lôi Tổn, Địch Phi Kinh hợp chiến vây công, cuối cùng bởi vì sét đánh bị thương mới biến mất. Lần này tái hiện, thế lực võ lâm trong kinh đã có chỉnh hợp rất lớn, Lôi Tổn chết, Tô Mộng Chẩm mất, Bạch Sầu Phi cũng đã chết, Vương Tiểu Thạch rời khỏi kinh sư, Địch Phi Kinh càng ít giao du với bên ngoài. Hiện nay, “Cửu Hiện Thần Long” Thích Thiếu Thương, “Tung Kiếm Dâm Ma” Tôn Thanh Hà, “Hắc Quang Thượng Nhân” Chiêm Biệt Dã đang ở trên mái ngói đổ nát, với sức lực của ba người bọn họ, sao có thể đối phó được với Quan Thất, giải quyết được võ ma phi thường, cuồng nhân một đời tung hoành hai phe hắc bạch này?

Sau khi Quan Thất nói xong những lời này, mọi người đều yên tĩnh lại. Nhưng chỉ yên tĩnh một chút, dừng lại một lúc, hai người bịt mặt kia lại rung tay rung chân múa lên, hơn nữa trong cổ họng còn phát ra một loại thanh từ kỳ quái giống như gà gáy, vịt kêu. Cùng lúc đó, Kinh Đào Thư Sinh ăn mặc theo kiểu nho sĩ kia, hai tay cũng làm dấu thật nhanh, trong miệng liên tục niệm khẩu quyết:

- Sang, ba như lan giả lợi.

Người một tay kia đột nhiên toàn thân chấn động, sau đó bắt đầu run rẩy giống như một bệnh nhân già nua bệnh tật; nhất thời lại giống như gió lạnh quét cây, lá rơi xuống hết.

Lúc này nhìn lại, y càng giống như một bệnh nhân không nơi nương tựa, chẳng những rất lạnh, hơn nữa còn rất bơ vơ, thậm chí rất trống rỗng.

Một người đáng thương rất trống rỗng.

Kinh Đào Thư Sinh vừa nhanh chóng niệm chú, vừa từ trong áo lấy ra một ống tiêu.

Đây là một ống tiêu cổ, vốn là vật của Long Bát.

Ngày đó tại Hồi Xuân đường, Ngô Kinh Đào chống địch có công. Long Bát vì muốn mua chuộc lòng người, liền tặng ống tiêu này cho Kinh Đào Thư Sinh.

Ngô Kinh Đào không thích gì khác, chỉ thích ca múa nhạc cổ, thích ngắm mỹ nữ và sự vật xinh đẹp. Long Bát đưa tiêu cổ cho hắn, chính là hợp với tâm ý.

Hiện nay, hắn vừa lấy tiêu ra, đặt ở bên miệng, khẽ thổi vài tiếng, người tóc rối một tay kia liền khôi phục trấn định, trong miệng vẫn lẩm bẩm, đồng thời đi về phía hắn:

- Mệnh… người… trời… định…

Tiếng tiêu vừa vang lên, hai người bịt mặt kia, một người trong mắt lộ ra màu vàng, một người khác trong mắt lại hiện lên ánh sáng hung ác.

Hai người đột nhiên đồng thời đổi giọng.

Người vóc dáng thon dài chợt phát ra tiếng kêu, sắc bén chói tai.

Người vóc dáng lanh lợi lại phát ra tiếng gào trầm thấp, giống như thú vương đang gầm thét.

Một kêu một gào, âm thanh của tiêu cổ lập tức bị lấn áp, còn người điên tóc rối kia hai mắt lại phát ra ánh sáng sắc bén màu xanh lá nhạt, đột nhiên dừng bước, một tay chỉ trời hô lớn.

- Không do ta… không do ta…. không do mình, không do…

Kinh Đào Thư Sinh Ngô Kỳ Vinh biến sắc, tiếng tiêu đột nhiên biến đổi, vừa nhọn vừa sắc, vừa gấp vừa hiểm, xen lẫn trong tiếng kêu tiếng gào vẫn trầm bổng thích thú, nghe được rõ ràng.

Hắn chẳng những thổi tiêu, hơn nữa còn múa dưới trăng. Thân hình hắn mặc dù mập mạp, nhưng tư thái vẫn uyển chuyển đẹp mắt, như mê như say.

Như mê như say không chỉ là bản thân người múa, còn có người điên tóc rối kia.

Người điên tóc rối kia trong miệng lẩm bẩm, nhưng dưới ánh trăng nhìn lại, dung mạo của y lại gây cho người ta một cảm giác thanh và tuấn, trong tang thương tự có thần thái. Bởi vì y tóc rối cụt tay, râu rậm đầy mặt, cộng thêm cặp mắt nhô ra, giống như mất đi quá nhiều tình cảm, ngay cả sinh mệnh của y cũng bị rút hết, thân thể của y cũng chỉ là tàn phế, cho nên người bình thường căn bản có chết cũng không dám nhìn y, đừng nói đến chuyện đối diện với y.

Có điều, khi Kinh Đào Thư Sinh vừa múa vừa hát trên mái hiên, tiếng tiêu và tiếng kêu, tiếng gáo tranh nhau, người tóc rối kia dường như nghe (xem) đến như mê như say, mới khiến cho Thích Thiếu Thương, Tôn Thanh Hà, Chiêm Biệt Dã đều thấy rõ y, đúng là một gương mặt khiến người ta rung động.

Đó không chỉ là tang thương, mà là đã nhìn thấu tình đời nhưng vẫn không từ bỏ.

Đó không chỉ là hung hãn, mà là một loại dũng cảm không sợ sinh tử.

Đó không chỉ là bi ai, mà là bất đắc dĩ và từ bi, hết thảy đều đạt được sau đó lại hoàn toàn mất đi.

Đó cũng không chỉ là giận dữ, mà là một loại tự thiêu giống như ngọn nến hai đầu đều cháy.

Đó cũng không chỉ là tiêu điều, mà là một loại chính trực, phóng túng và bá đạo, có thù sâu hận lớn với ông trời.

Đó càng không chỉ là ngu ngốc, mà là một loại ta làm theo ta, bỏ mình quên mình, không muốn thế gian thương hại và đồng tình.

Dưới cái nhìn của Thích Thiếu Thương dung mạo thanh tú, chỉ cảm thấy đây đúng là một khuôn mặt khiến người ta say mê.

Trong mắt của Tôn Thanh Hà cao lớn tiêu sái, người điên tóc rối này mặc dù thân hình thực ra không hề cao lớn, nhưng khi nhìn lại khiến người ta có một loại cảm giác như núi cao vời vợi, dù là ai cũng phải ngước nhìn.

Trong lòng Chiêm Biệt Dã bình tĩnh lạnh lùng lại đang tính toán.

Theo đạo lý, ma điên trong truyền thuyết kia quyết không phải ở cái tuổi này. Rốt cuộc là y, hay là không phải y? Là ma điên kia vốn không già như vậy? Hay là chiến thần này vốn dung mạo trẻ như vậy?

Sao người điên này lại không già?

Dùng phương pháp gì mới có thể không già?

Nếu có thể không già, liệu cũng có thể không chết hay không?

Hắc Quang Thượng Nhân sợ nhất là cái chết.

Hắn tu phật là hi vọng có thể thành phật, thành phật rồi thì thân thể sẽ không chết. Thế nhưng cuối cùng hắn phát hiện, Phật Đà rốt cuộc vẫn phải chết, phải thăng thiên, hắn lập tức bỏ phật đổi sang tu đạo.

Hắn tu đạo cũng là vì trường sinh bất lão, đạo giáo có rất nhiều thuật dưỡng sinh, đạo dẫn, có thể kéo dài tuổi thọ, bảo toàn sinh mệnh tinh thần.

Đáng tiếc sau này hắn cũng phát hiện, tu đạo đến đỉnh cao vẫn phải thăng thiên. Cho dù tu Mật tông trở thành kim cương thượng sư, vẫn phải luân hồi chuyển thế, không ai có thể sống mãi.

Là người thì phải chết, phải già.

Hắn ngoại trừ sợ chết, còn sợ già.

Cuối cùng hắn phát hiện, thứ có thể bảo vệ tính mạng tốt nhất chính là võ công.

Luyện giỏi võ công, thậm chí có thể khiến mình không lão hóa, già đi nhanh như vậy. Vì muốn ngăn mình nhanh chóng già đi, mỗi ngày hắn còn tốn không ít thời gian làm đẹp cho mình, dùng các loại hương quý dược thảo dưỡng nhan bảo vệ thanh xuân.

Do đó, hắn vừa thấy tinh thần dung mạo của người điên một tay này, trong lòng liền không nhịn được kích động: “Hắn luyện võ công gì, cao càng ngày càng trẻ tuổi, càng ngày càng dễ nhìn!”

Cho nên, đối với Hắc Quang thượng sư, vừa nhìn thấy ma điên chiến thần này, chẳng những chấn động về tu vi võ nghệ, còn rung động về lĩnh vực dưỡng sinh mỹ nhan.

Nhưng trong tiếng tiêu, tiếng gào và tiếng kêu, người một tay lại từ mê mang hoàn toàn dần dần toàn thân co rúm, run rẩy giống như chạm điện, bị sét đánh, phảng phất toàn thân bị ba loại tiếng vang kịch liệt giống như lưỡi đao kia cắt thành mảnh vụn. Đến cuối cùng y vẫn một tay chỉ trời, khàn giọng điên cuồng hét lên:

- Phó thác… cho trời… 

Chỉ là y đã lảo đảo sắp ngã, sắp sụp đổ hoàn toàn, hủy diệt hoàn toàn.

Ba người Thích Thiếu Thương, Tôn Thanh Hà, Chiêm Hắc Quang không nhịn được càng cảm thấy khó hiểu. Nếu như chiến thần này chính là cao thủ đỉnh cấp độc chiến thiên hạ trong truyền thuyết võ lâm, sao y lại ẩn mình ở đây? Sao dáng vẻ của y lại biến thành như vậy? Sao toàn thân y giống như bị người khác thao túng, hoàn toàn mất đi thần trí, ngay cả mấy tiếng kêu, tiếng gào và tiếng tiêu cổ xưa kỳ quái đều có thể đánh ngã y?

Ngay lúc này lại phát sinh một chuyện.

Một loại tiếng vang.

“Cộc cộc… cheng cheng… cộc cộc… cheng…”

Đó là tiếng mõ, còn có tiếng chiêng.

Tiếng này không có gì đặc biệt, chỉ là canh phu đánh canh dưới đường, khi đó vừa lúc là canh hai ba giờ.

Chương 65 – Mệnh ta do trời không do người

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Canh hai ba giờ.

Tiếng mõ từ đường dài ngõ sâu truyền đến, khiến người ta cảm giác được một loại an định thiên hạ thái bình, vạn dân cùng mộng.

Nhưng thiên hạ không hề thái bình.

Ít nhất hoàng thành tối nay tuyệt đối không thể xem là an định.

Nóc nhà lớn cổ xưa kia vừa sụp xuống, tiếng rầm rầm vang lên đã đánh thức rất nhiều người đang ngủ say ngon giấc.

Bọn họ đang lim dim mắt, nam nhân trong nhà vội khoác áo ra xem, cho dù không muốn tự mình ra “mạo hiểm”, cũng sai gia đinh đầy tớ xem thử đã phát sinh chuyện gì? Rốt cuộc là nhà nào xảy ra chuyện?

Lúc này người kinh động còn không coi là nhiều.

Người bị kinh hãi phần lớn là những người phản ứng khá nhanh, hoặc là gia đình ở khu vực phụ cận nơi này, đương nhiên trong đó còn bao gồm một số cao thủ cấm quân, hảo thủ đại nội có nhiệm vụ phòng thủ vương thành, bảo vệ kinh sư.

Đối với biến động này, bọn họ tất nhiên là phản ứng còn nhanh, còn gấp, còn cấp bách hơn so với ai khác.

Bởi vì hiện nay thiên hạ lòng dân đã sớm sôi sục bất an, quần chúng dễ phẫn nộ, một khi có gió thổi cỏ lay gì đó, đoàn người tụ tập rất dễ xảy ra chuyện, thậm chí còn tụ hợp thành lực lượng phản kháng và tạo phản.

Làm cấm quân, công sai, đương nhiên phải bảo vệ hoàng thành ổn định phồn vinh, do đó bọn họ chỉ muốn an định, không muốn loạn.

Thế nhưng thiên hạ vì sao phải loạn? Lòng dân vì sao không thể an định?

Những điều này bọn họ không quản đến, cũng không quản được.

Bọn họ chỉ có thể chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, chỉ cầu giữ gìn an ổn hiện giờ.

Thế nhưng nếu như cấp trên tham ô hủ bại, quan lại đục khoét, ức hiếp vạn dân, bách tính làm sao lại không nghĩ đến chuyện thay đổi, lòng người làm sao có thể không loạn?

Phải đổi mới có loạn.

Loạn sau đó đổi.

Đây là định luật từ xưa đến nay.

Lúc này lòng người đang sôi sục.

An ổn lại là tiếng mõ đêm khuya vang lên trong đường dài yên tĩnh, hai dài ba ngắn, canh hai ba giờ.

Buổi tối mỗi ngày đều có canh hai ba giờ, giống như mỗi ngày đều có giờ tý buổi trưa.

Buổi tối mỗi ngày đều có lúc này, chỉ xem ngươi có phát giác được thời khắc như vậy hay không. Mỗi ngày đều sẽ có thời điểm như vậy, chỉ xem ngươi có nghe được tiếng mõ báo canh hay không, có nghe được vào trong tai, trong lòng hay không.

Mỗi buổi tối đều có canh hai ba giờ, chỉ không biết khi đó ngươi đã ngủ hay chưa? Đang suy nghĩ gì?

Đã có nhà hay chưa?

Nhà có ấm áp không?

Phu nhân có đẹp không? Ôn nhu không? Con cái có ngoan không?

Hay là ngươi vẫn ngủ một mình, đang hoài niệm nàng hoặc hắn ở phương xa?

Canh hai ba giờ.

Tiếng mõ từ sâu trong hẻm truyền đến.

Người điểm canh còn ở trên lầu đường dài, thắp một ngọn đèn lồng nửa sáng nửa tắt, nối gót đi tới.

Thế đạo an ổn, vui vẻ thanh bình, mới có phu canh, phu quét đường, thậm chí là người đổ dạ hương, lúc mọi người đều ngủ chỉ mình hắn tỉnh, sẽ xóa đi một phần chìm đắm, tận một phần sức lực.

Tiếng mõ tầm thường, từ trong sân nhà của bách tính tầm thường vang lên.

Nhưng tiếng canh này lại không tầm thường.

Chẳng những không tầm thường, hơn nữa còn rất không tầm thường.

Bởi vì tiếng canh vừa vang lên, cục diện trên nóc nhà đột nhiên biến đổi.

Ban đầu, thư sinh mập mạp kia khoa tay múa chân, trong miệng niệm chú, đã dễ dàng chống lại hai người bịt mặt một thon dài, một lanh lợi đang vung tay múa chân, kêu lớn và gào thét.

Chẳng những có thể chống lại, hơn nữa còn thừa sức, thậm chí toàn thân còn phát ra ánh sáng kỳ lạ, âm nhạc tuyệt diệu và hương thơn.

Thế nhưng, khi người điên tóc rối kia ngồi xếp bằng dưới trăng, ánh trăng chiếu vào đầu, liền bắt đầu điên cuồng. Sau đó, Kinh Đào Thư Sinh niệm chú hiển nhiên không khống chế được người điên này, vì vậy bèn lấy ống tiêu kia ra.

Tiếng tiêu vừa vang lên, thế cuộc mới coi là miễn cưỡng ổn định.

Sau khi người điên tóc rối kia chỉ trời hô lớn một lần, mới xem như hơi yên tĩnh lại.

Hiện nay tiếng mõ vừa vang lên, người tóc rối lại toàn thân chấn động, ánh mắt đột nhiên biến thành màu xanh lá nhạt lạnh lẽo, đột ngột đứng lên, há miệng cười khằng khặc, nói một câu đứt quãng: 

- Mệnh… ta… do… trời, nhưng vẫn không do người… cũng quyết không thể do các ngươi!

Kinh Đào Thư Sinh mồ hôi trên mặt chảy ròng ròng.

Hai người bịt mặt ánh mắt lộ ra vẻ kinh hoàng, sợ hãi.

Dường như bọn họ đều biết, chỉ cần người điên này khôi phục nói chuyện, hồi phục thần trí, bọn họ sẽ hoàn toàn không thể khống chế y, thân lâm vào hiểm cảnh.

Vì vậy Ngô Kinh Đào vội thổi vang tiếng tiêu.

Tiếng tiêu gấp gáp, gấp như đốm lửa, nhưng tràn đầy sát khí.

Hai người bịt mặt cũng lập tức phát ra tiếng gào và tiếng kêu càng quái dị, càng kỳ lạ. Vào giờ phút này, dường như hai phe nhân mã này đã không còn chiến đấu với nhau, mà lại liên thủ cùng nhau khống chế ma điên đại địch số một này.

Tiếng tiêu, tiếng kêu và tiếng gào này khiến Thích Thiếu Thương, Tôn Thanh Hà, Chiêm Biệt Dã cũng cảm thấy choáng váng, chói tai, khiếp đảm.

Nhưng ba loại tiếng vang khác thường lại không phải nhằm vào bọn họ. Mặc dù như vậy, ba đại cao thủ này vẫn bị ba loại tiếng vang kỳ dị ẩn chứa công lực cực kỳ cao thâm này đoạt mất thần trí.

Bọn họ vốn cũng muốn ra tay, lên tiếng, thậm chí ngăn cản tiếng kêu, tiếng gào và tiếng tiêu này. Nhưng dưới ba loại âm thanh kỳ dị phức tạp này, bọn họ lại không ra tay được, không lên tiếng được, đừng nói đến đi ngăn cản cắt đứt tiếng vang quái dị này.

Ngay lúc này, ma điên kia đột nhiên đưa tay ra.

Tay y vừa động, liền nghe xích sắt trên người y phát ra tiếng vang kỳ dị khiến người ta tê răng.

Y đưa tay ra giống như đang bắt tay với người khác, ít nhất cũng thân thiện ôn hòa như vậy.

Chỉ có điều, y không phải thật sự bắt tay với người khác, không phải cùng Ngô Kỳ Vinh và hai người bịt mặt, cũng không phải cùng Tôn Thanh Hà, Chiêm Hắc Quang và Thích Thiếu Thương.

Y là hướng lên trời.

Hướng lên trời vươn tay của mình ra.

Trên trời có trăng, ánh trăng màu xanh nhạt.

Tay của y hướng lên trời, tay có màu trắng nhợt.

Lập tức, tay của y giống như bị nhiễm ánh trăng, từ ngón tay bắt đầu phát xanh, trong khoảnh khắc đã lan đến toàn thân, cả người phủ lên một lớp xanh nhạt như khói ráng lan tràn.

Nhưng ánh trăng dường như cũng bị nhiễm, trở nên vô cùng thê lương nhợt nhạt, giống như một khuôn mặt người chết đã mất đi ngũ quan.

Ánh trăng dường như đã cùng y hòa làm một thể.

Xanh xao như nhau.

Nhợt nhạt như nhau.

Cô tịch như nhau, cùng với oán hận và thê lương.

Ánh trăng giống như bị nước thấm ướt, trở nên mơ hồ, dường như còn hơi căng phồng, bành trướng ra.

Thân thể của y cũng giống như ánh trăng tỏa ra, bắt đầu chậm rãi bành trướng, cả người có vẻ không chân thực, tựa như một thần linh hay là gì đó giáng lâm xuống một góc mái ngói này.

Có lẽ bản thân y cũng không bành trướng, chỉ là khí thế trên người gia tăng, tăng cường, đồng thời cũng mở rộng, khuếch đại. Cho nên khi người ta nhìn bằng mắt thường, y có vẻ nhẹ nhàng phiêu diêu, đồng thời cũng dữ tợn đáng sợ.

Lúc này, dây xích sắt quấn quanh hai mắt cá của y vốn có màu xám loang lổ, hiện giờ đột nhiên giống như truyền điện, lưu thông một loại ánh sáng dị thường màu bạc, hơn nữa còn không ngừng lay động. Nguyên lai nó phát ra tiếng vang khiến người ta chân răng bủn rủn, cũng đột nhiên thay đổi. Giữa mỗi vòng móc của xích sắt, bởi vì khẽ rung động va chạm nên phát ra âm thanh, dường như cũng có giai điệu, có tiết tấu, rất trong trẻo dễ nghe, tựa như… tựa như một giấc mộng.

Trong mộng có một mỹ nhân màu lam, lại giống như một tinh linh màu trắng nhảy nhót, nhưng tay áo của nàng lại là màu đỏ, hơn nữa còn đỏ rực.

Kỳ quái là chỉ có tiếng vang giữa mắt xích va chạm vào nhau, lại khiến người ta nghĩ tới những thứ này.

Giấc mộng màu lam.

Mỹ nữ trong mộng.

Tinh linh màu trắng.

Tay áo màu nước.

Cùng với bóng người màu xanh nhạt sắp đi xa.

Thích Thiếu Thương nghĩ như vậy, Tôn Thanh Hà nghĩ như vậy, Chiêm Biệt Dã cũng phỏng đoán như vậy, ngay cả Lôi Niệm Cổn ở trên đường cái dưới mái hiên cũng có liên tưởng quái dị và kỳ lạ như vậy.

Nhưng bọn họ đều không quen biết Quan Thất, cũng chưa từng giao thủ, kết giao bằng hữu với Quan Thất, thậm chí còn không thể khẳng định người trước mắt có phải là Quan Thất hay không.

Nếu bọn họ không hề lên tiếng, chưa từng thấy qua, sao lại có ý nghĩ vô duyên vô cớ nhưng lại có nhân có quả này?

Chẳng lẽ dây xích trên người kẻ điên tóc rối này đang gắn liền với cơ mật tuyệt thế gì, biểu đạt thời cơ cao thâm gì? Hay là âm thanh cuối cùng có thể diễn biến thành một bức tranh, mà mỗi bức tranh cuối cùng chính là thơ, thơ cuối cùng lại trở thành âm nhạc?

Trong này cho thấy bí mật gì? Hay là công pháp nội lực không gì sánh được?

Trong này rốt cuộc ẩn chứa pháp lực to lớn gì, ngay cả Hắc Quang Thượng Nhân từng tu phật, mật, đạo, nhất thời cũng không cách nào cảm ngộ lý giải.

Thế nhưng nó cuối cùng lại dựng cột xem bóng *, lập tức nhìn thấy.

* Dựng sào trúc dưới ánh mặt trời, lập tức nhìn thấy cái bóng. Ý nghĩa là có công hiệu nhanh.

Bởi vì tiếng kêu, tiếng gào, tiếng tiêu, bất kể âm thanh có lớn, có sắc, có bén, đều bị tiếng nhạc dễ nghe này lấn áp.

Nhất thời trong trời đất chỉ còn lại tiếng nhạc kỳ dị này.

Cùng với một câu nói của người điên này: 

- Mệnh ta do trời không do người… không do người.

Chương 66 – Mệnh ta do ta không do người

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

- Phó thác cho trời, như vậy mà thôi.

Chỉ nghe người điên tóc rối kia nhìn trăng xanh giữa trời lẩm bẩm:

- Do người? Không! Mặc người ức hiếp, vậy thì sống không bằng chết, không bằng chết cho xong… Mệnh ta do ta, há có thể do người!

Vẻ điên cuồng của y dần mất đi, ánh mắt càng dần sáng tỏ, ngữ âm cũng dần rõ ràng.

Hóa ra ngữ âm của y không hề sắc bén ngang ngược, thực tế còn ôn nhu êm tai. Mỗi chữ y nói đều giống như đang ngâm nga, câu do mỗi chữ tạo nên đều trở thành ca khúc.

Nhưng y không quan tâm, cũng không quá mức, chỉ tự cho là đúng.

Có điều lúc y lẩm bẩm như vậy, tiếng va chạm của dây xích giữa mắt cá chân và cánh tay cũng thấp xuống. 

Chỉ thấy bụng của “Kinh Đào Thư Sinh” Ngô Kỳ Vinh đột nhiên phồng lên, còn không ngừng phập phồng, giống như một con cóc hít thở, tiếng tiêu trong tay chói tai như bình bạc vỡ tan.

Cùng lúc đó, người vóc dáng thon dài kia giống như đột nhiên cao hơn, tựa như sợi mì, thân hình càng dài, càng ốm, càng hẹp, càng gầy, cũng càng linh hoạt.

Đồng thời, một người khác vóc dáng nhỏ bé lanh lợi lại giống như càng bẹp, thậm chí bỗng nhiên mập lên, phì ra, nhanh chóng phình lớn, càng vặn vẹo quái dị. 

Người điên tóc rối kia đột nhiên làm một chuyện, lần này y không còn lay động xích sắt. Y vừa phát hiện ba người này lại bắt “tay” dùng “thanh” để kiềm chế mình, liền vươn bàn tay trắng bệch ra.

Y chỉ có một tay.

Tay của y rất nhỏ, rất thanh tú.

Cho dù thân thể, râu tóc thậm chí là tay áo của y có phần bẩn thỉu, nhếch nhác, còn dính rất nhiều bụi bặm, bùn nhơ, nhưng tay của y vẫn trắng nõn, tương đối sạch sẽ.

Xương ngón tay của y rất có lực, ngón tay rất nhọn, giống như tay của nữ nhân.

Xương cổ tay của y rất gầy, giống như tay của trẻ con.

Một cánh tay như vậy lại vươn lên trời, giống như muốn cầu cứu bầu trời, muốn bắt tay với trăng sáng.

Trăng chỉ có ánh sáng, không có tay.

Chỉ có điều, khi cánh tay của y vươn một cái, lại bắn ra ba ngón tay, đó là ngón giữa, ngón trỏ và ngón áp út.

Ngón tay của y vừa bắn ra, cục diện lập tức biến đổi. Dường như tất cả ánh trăng đều bị hấp thụ vào đầu ngón tay của y, hơn nữa còn nhanh chóng lan tràn đến cánh tay.

Ba ngón tay của y chỉ lên trời, bắn trời.

Trời nếu có tình trời cũng già.

Chỉ tiếc trời thường vô tình, thậm chí cũng là vô tri vô đảng.

Trời xanh vô tình, đại địa vô nghĩa, ngay cả đại đạo cũng là vô danh.

Người thì sao?

Ngón tay của y vừa bắn ra, liền nghe được hai loại âm thanh rất đặc biệt.

Loại âm thanh thứ nhất từ chân trời xa xôi đột nhiên truyền đến, đó là một loại âm thanh khá “kỳ quái”.

Gọi là “kỳ quái”, bởi vì người khắp cả thành, bao gồm các ngành, các nghề, các loại, ngay cả cơ trí như Gia Cát tiên sinh, đều nhất định chưa từng nghe thấy loại âm thanh này, cho nên cũng không cách nào liên tưởng hay suy đoán đó rốt cuộc là thứ gì.

Đó là tiếng “ong ong”, cũng là “vù vù”, thậm chí còn là “ầm ầm”, giống như nhà xay bột bay đến giữa không trung, giống như guồng nước, máy quạt thóc đang xoay tròn giữa các vì sao, hay là chín trăm chín mươi chín vạn con ong mật còn lớn hơn người sắp từ trời bay xuống, hoặc là đàn muỗi còn lớn cả chuột đang đâm vào màng nhĩ người, hơn nữa còn chui vào trong đầu.

Đó rốt cuộc là thứ gì?

Không biết.

Chỉ có âm thanh, không có hình dáng, thậm chí ngay cả dấu vết cũng không có.

Chỉ biết “nó” từ xa đến gần, lại giống như chỉ quanh quẩn bay lượn trên trời, không xa không gần, như gần như xa, không sinh không diệt, như sắc như không.

Âm thanh thứ hai là tiếng kêu của một người.

Người kêu đang ở đường dài, đầu hẻm Ngõa Tử.

Người nọ kêu lên bốn chữ, đó là tên gọi của một chiêu thức.

Thế nhưng khi chiêu thức này được kêu lên, mọi người (ít nhất là người trong võ lâm) tự nhiên sẽ nghĩ tới tên của một người.

Bạch Sầu Phi.

Bốn chữ mà người này kêu lên chính là “Tam Chỉ Đạn Thiên”.

Không chỉ kêu một tiếng, cũng không chỉ kêu một lần.

Người nọ liên tiếp kêu ba tiếng, kêu ba lần:

- Tam Chỉ Đạn Thiên! Trời! Tam Chỉ Đạn Thiên! Trời ơi! Tam Chỉ Đạn Thiên! Trời ạ! 

Ba lần kêu lên “Tam Chỉ Đạn Thiên”, còn thêm vào “trời”, “trời ơi” và “trời ạ”, có thể thấy người kêu rất kinh ngạc. 

Người kêu vốn luôn luôn rất trấn định.

Hắn là người nổi tiếng trấn định trong Kim Phong Tế Vũ lâu, đồng thời cũng là nhân vật dưới trướng Bạch Sầu Phi lúc trước, “trấn định” đến mức khiến cho Bạch lâu chủ từng nắm giữ quyền hành này cũng rất coi trọng khen ngợi hắn. 

Hắn chính là Tôn Ngư.

Sự chấn động kinh ngạc của Tôn Ngư hiện giờ là vì hắn từng làm việc dưới trướng Bạch Sầu Phi.

Hắn vừa nhìn liền biết, người điên kia sử dụng chính là chỉ pháp tuyệt môn cũng là độc môn của Bạch Sầu Phi.

Đó là chỉ pháp của Bạch Sầu Phi, người này làm sao sử dụng được?

Thế nhưng người cảm thấy kinh ngạc không chỉ có mình hắn.

Một người khác không kêu lên, nhưng trong lòng lại cảm thấy rất chấn kinh.

Sự chấn kinh này còn mang theo kinh ngộ, xấu hổ và buồn vui.

Mặc dù trong lòng y rất chấn động, nhưng y tuyệt đối sẽ không kêu thành tiếng. Trên đời gần như không có chuyện gì có thể khiến người này thất thố, thất kinh hoặc thất thanh.

Thậm chí ngay cả ánh mắt như bảo thạch kia cũng không có bất kỳ một chút bóng dáng kinh hãi nào.

Thần sắc của y vẫn cô độc tịch mịch, khóe miệng vẫn lạnh lùng nhếch lên.

Đôi mày thanh tú của y vẫn như đao, xương mày vẫn như núi cao nghiêng nghiêng, còn giống như đỉnh tuyết.

Chỉ có điều, nếu là người quen thuộc với y, hết sức lưu ý, có lẽ sẽ phát giác ra, trong nháy mắt khi nhìn thấy người điên kia thi triển ra “Tam Chỉ Đạn Thiên”, khuôn mặt trắng bệch của y đột nhiên đầy máu, sau đó lại nhanh chóng rút đi như thủy triều, sắc mặt lại tái nhợt như cũ.

Ngay cả đầu của y cũng không ngẩng lên, ngay cả cổ của y cũng giống như bị gãy từ lâu.

Y chưa bao giờ ngẩng đầu lên.

Y cũng không cần ngẩng đầu.

Y thật sự không thể ngẩng đầu.

Y chính là đại đường chủ của Lục Phân Bán đường, một trong những thế lực lớn nhất kinh thành, “thần long cúi đầu, cổ gãy tranh hùng” Địch Phi Kinh.

Địch Phi Kinh ngoài mặt vẫn không kinh, nhưng trong lòng y lại ngầm kinh hãi, ý niệm như tia chớp.

Người trên mái hiên, tại sao lại biết sử dụng Tam Chỉ Đạn Thiên?

Chẳng lẽ Bạch Sầu Phi chưa chết?

Thế nhưng người điên dưới trăng thật sự không phải Bạch Sầu Phi.

Mà là Quan Thất?

Tại sao Quan Thất lại xuất hiện ở đây?

Hơn nữa Quan Thất tái hiện giang hồ, tại sao lại càng ngày càng trẻ? Còn càng ngày càng tuấn tú?

Trong lòng y chấn động, kinh nghi, cho đến khi y liên hệ chuyện Quan Thất đột nhiên xuất hiện với Ngô Kinh Đào, liền hiểu được một nửa, lại thêm một nửa phiền muộn và trách móc.

Y đã hiểu được:

- Chẳng lẽ…

Y hiểu được rồi lại càng hoài nghi:

- Hóa ra…

Chương 67 – Mệnh ta do ta không do trời

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Canh hai ba giờ.

Địch Phi Kinh được bốn hán tử gáy buộc tóc dài như đạo nhân, dùng sào trúc khiêng đến góc đường.

Y ngồi ngay ngắn trên ghế mây.

Y ngồi rất thoải mái.

Cảm giác mà y gây cho người khác cũng rất thoải mái, ngay cả ăn mặc cũng khiến người ta cảm thấy thoải mái. Có điều y vẫn không ngẩng đầu, hơn nữa còn giống như thật sự không ngẩng đầu lên được.

Người trong giang hồ đều nói y đã bị gãy xương cổ từ lâu.

Nhưng y bị gãy cảnh cốt (xương cổ), không có nghĩa là cũng mất đi ngạo cốt (cứng cỏi) và phong cốt (khí phái).

Y rất ít khi động thủ với người khác, nhưng trong giang hồ gần như không ai không sợ y. Võ lâm kinh sư có ca dao “không sợ kim phong tế vũ thổi đến, chỉ sợ mây dày không mưa Dương Vô Tà nhíu mày. Không sợ Lục Phân Bán đường bóc lột, chỉ sợ cúi đầu mỉm cười Địch Phi Kinh ngẩng đầu”. Dương Vô Tà và Địch Phi Kinh đều là cố vấn, quân sư của hai thế lực lớn trong kinh thành này, có thể thấy thanh danh to lớn, địa vị cao quý như thế nào.

Y vốn rất cứng cỏi, đừng thấy y từ sáng đến tối chỉ khom lưng mà lầm. 

Bình sinh y chỉ khâm phục Lôi Tổn.

Ngay cả Lôi Tổn đa mưu túc trí, lúc đắc thế cầm quyền cũng khó tránh khỏi gây nên không ít giết chóc.

Muốn làm đại sự thì khó tránh phải đắc tội kết thù với người khác. Người không kết oán hay thù, phần lớn cũng không thể thành đại sự.

Thế nhưng Địch Phi Kinh vẫn cẩn thận, cố gắng tránh kết thù nhiều. Thà kết bạn với ngàn người, đừng kết thù với một người, đây chính là nguyên tắc của y.

Một khi thật sự kết thù, người khác cũng có thể thông cảm cho y thân không do mình và chuyện bất đắc dĩ. Có điều một khi kết thù với y, y cũng không cần bất cứ người nào “thông cảm”, bởi vì y nhất định sẽ dùng thủ đoạn sấm sét hoàn toàn diệt trừ đối phương. Nghe nói y không ngẩng đầu còn tốt, một khi ngẩng đầu thì sẽ muốn giết người.

Cho nên mọi người cũng hiểu rõ, trong Lục Phân Bán đường, người được tôn trọng nhất đương nhiên chính là Địch Phi Kinh, thế nhưng người không dễ chọc, không thể chọc nhất có lẽ cũng là Địch Phi Kinh.

Mặc dù mọi người chưa ai từng thấy y ra tay, thậm chí cũng rất ít người biết được y có võ công hay không.

Nhưng tối nay lại có một người ở đây chắc chắn biết được.

Người này đương nhiên chính là Lôi Cổn, nguyên danh là Lôi Niệm Cổn.

Hắn đương nhiên nhớ được Địch Phi Kinh.

Hắn đương nhiên biết được võ công của Địch Phi Kinh. Nhớ ngày đó, hắn vốn xem thường võ công của Địch Phi Kinh, đến nỗi ánh đao lóe lên, hắn bị một con dao găm của đại đường chủ Địch Phi Kinh xuyên qua ngực, thiếu chút nữa đã mất mạng tại phố Khổ Thủy, trên đời cũng không còn người tên Lôi Niệm Cổn này nữa.

Nhưng hắn vẫn chưa chết.

Người giết hắn là Địch Phi Kinh, người cứu hắn cũng là Địch Phi Kinh.

Lúc đó Địch Phi Kinh dặn dò Thụ đại phu hết lòng cứu chữa cho Lôi Niệm Cổn, hơn nữa còn nói với hắn mấy câu: 

- Nam nhi muốn thành đại công, lập đại nghiệp, phản bội, ám toán, không phải là phương pháp tốt. Muốn làm nên chuyện bất phàm thì phải khổ công đến mức phi lý. Không có thực lực, cho dù cơ hội có tốt cũng phải bỏ qua. Người giết ngươi là ta, người cứu ngươi cũng là ta. Nếu như ngươi không thể phấn chấn, hãy thoái ẩn giang hồ đi, đừng làm kẻ sống dở chết dở. Nếu có thể nổi gió mây lần nữa, vậy không phụ lòng ta đã cứu chữa cho ngươi.

Địch Phi Kinh nói như vậy.

Lời nói này đã ảnh hưởng sâu sắc đến Lôi Niệm Cổn. Mặc dù hắn giống như thật sự rời xa giang hồ báo thù, võ lâm thị phi, biến thành một người đổ phân bình thường, nhưng hắn vẫn không chịu rời khỏi kinh thành, cũng vẫn không vứt bỏ võ công của mình.

Hắn đã bị đánh ngã, nhưng hắn vẫn chưa chết.

Đó đều là vì Địch Phi Kinh.

Hiện nay Địch Phi Kinh đã đến, ngồi trên chiếc ghế mây thoải mái của y, để người ta khiêng tới.

Lôi Cổn nhận ra y.

Lôi Cổn nhớ được y.

Lôi Cổn cũng không quên được y.

Một người khiến người ta nhìn thấy thoải thoải mái mái, thậm chí ngay cả chết trong tay hắn cũng giống như rất thoải thoải mái mái.

Có điều, Địch Phi Kinh hiện giờ mặc dù vẫn ngồi rất thoải mái, nhưng trong lòng lại không thể thoải mái.

Không chỉ bởi vì Quan Thất thần kỳ tái hiện.

Bởi vì còn có sự xuất hiện của một người khác, đó là Dương Vô Tà.

Đã sinh Du, sao còn sinh Lượng?

Vấn đề là, ai mới là “Du”? Ai mới là “Lượng”?

Mọi người đều biết, Chu Du mặc dù vô cùng tài năng, quyền lớn thế lớn, nhưng kết quả vẫn đấu trí thất bại bởi Gia Cát Lượng.

Mọi người cũng hiểu được, Địch Phi Kinh là cố vấn của Lục Phân Bán đường, nhưng quân sư của Kim Phong Tế Vũ lâu lại là “Đồng Tẩu Vô Khi” Dương Vô Tà. Bất kể Tô Mộng Chẩm và Lôi Tổn có còn sống hay không, điểm này đều như vậy, không hề thay đổi.

Bởi vì có Địch Phi Kinh, kế hoạch thôn tính Lục Phân Bán đường của Dương Vô Tà mới không thể hiệu quả toàn diện.

Cũng bởi vì có Dương Vô Tà, đại kế phát động phản kích Kim Phong Tế Vũ lâu của Địch Phi Kinh mới không thể thực hiện được.

Hai người trời sinh là địch.

Nhưng giống như là một người hai mặt, hiểu rõ lẫn nhau, ít nhất đối với tính toán sách lược của đối phương cũng thấu triệt như ánh nến.

Do đó Lục Phân Bán đường trải qua đàn áp, vẫn đứng vững như trước; Kim Phong Tế Vũ lâu cũng trải hết gió sương, nhưng vẫn không hề ngã.

Bởi vì có Dương Vô Tà.

Bởi vì có Địch Phi Kinh.

Bởi vì có nhân vật như thế, do đó vẫn chống đỡ đại cục, độc bá một phương.

Vấn đề chỉ là, rốt cuộc ai thắng ai thua? Ai mới là Gia Cát? Ai mới là Chu Lang?

Hiện giờ hỏi ai là người thắng cuối cùng, quả thật không ai biết được. Chỉ có điều, nếu Địch Phi Kinh đã kịp thời chạy tới, tình cảnh này dĩ nhiên cũng không thể thiếu được Dương Vô Tà.

Trong kinh thành một khi xảy ra đại sự, nhất định không thể thiếu người của Lục Phân Bán đường, cũng không thể thiếu người của Kim Phong Tế Vũ lâu.

Nếu là mười mấy năm trước, càng không thể thiếu người của Mê Thiên minh.

Thế nhưng sau đó Thất Thánh minh sa sút, Nhan Hạc Phát, Chu Tiểu Yêu trước sau mất mạng, Đặng Thương Sinh, Nhậm Quỷ Thần đổi sang gia nhập Lục Phân Bán đường. Hiện nay, người chợt xuất hiện trên nóc nhà cũ của công thần nguyên lão tiền triều Tư Mã Ôn Công, lại chính là Ngũ, Lục thánh chủ thân thế bí hiểm khó lường, cùng với minh chủ Quan Thất một dạo mất tích điên cuồng, giống như thần long thấy đầu không thấy đuôi. Năm tháng lưu chuyển, thời gian qua nhanh, một phen nhân sự mấy phen đổi dời. Mê Thiên minh vốn là một trong ba thế lực lớn tại kinh sư, hiện giờ lại trở thành thế lực xảy ra chuyện, gây chuyện tối nay, còn hai thế lực Lục Phân Bán đường và Kim Phong Tế Vũ lâu lại trở thành người giám sát, lưu ý.

“Náo động” vừa phát sinh, Dương Vô Tà của Kim Phong Tế Vũ lâu đã đến.

Địch Phi Kinh của Lục Phân Bán đường cũng đến.

Địch Phi Kinh ngồi trên cáng tre, ngồi trên ghế mây xuất hiện ở góc đường.

Dương Vô Tà lại ngồi trên lưng ngựa.

Người cầm cương chính là Tôn Ngư.

Tôn Ngư đang kinh ngạc vì Quan Thất xuất thủ, kêu lên “Tam Chỉ Đạn Thiên”.

Đồng thời cũng kêu lên kinh ngạc trong lòng Dương Vô Tà.

Sự kinh ngạc này cũng đồng thời diễn ra trong lòng Địch Phi Kinh.

Có điều bọn họ đều giống nhau, không biểu đạt trên mặt, ngoài miệng.

Về điểm này bọn họ đều gần gũi như vậy, nếu không phải địch ta đối lập, quả thật giống như cùng một trận tuyến, cùng một người.

Cũng như phương thức bọn họ đến đây, đều lựa chọn phương pháp không đi bộ “thoải mái” nhất.

Một người ngồi trên cáng tre, ngồi trên ghế mây.

Một người lại cưỡi trên ngựa thồ lót vải nhung dày.

Bọn họ đều biết cách khiến cho mình thoải mái, biết nghỉ ngơi lấy sức, như vậy mới có thể dùng trí tuệ và thể chất tinh nhất mạnh nhất, đối diện và ứng phó với đại sự, khó khăn.

Thế nhưng người đến không chỉ có hai người bọn họ.

Nếu Lục Phân Bán đường đã có người đến, Kim Phong Tế Vũ lâu cũng có nhân vật quan trọng đến, vậy đại biểu cho thế lực quan phương không thể không có động tĩnh gì.

Quan phủ cũng có người tài giỏi.

Người tài giỏi này đến cũng rất “thoải mái”.

Y được kiệu đưa tới. Y dĩ nhiên, đương nhiên, tất nhiên là lão đại trong Tứ Đại Danh Bổ, Vô Tình.

Vô Tình đã đến.

Người đến chính là Vô Tình.

Bởi vì Thiết Thủ, Truy Mệnh, Lãnh Huyết có nhiều trọng trách trên người, được phái ra bên ngoài xử án, cho nên người đóng giữ đại bản doanh kinh sư, trợ giúp Gia Cát tiên sinh bày mưu lập kế, phần nhiều là đại sư huynh Vô Tình Thịnh Nhai Dư thân bị tàn tật không tiện đi lại.

Tuy y bị tàn phế hai chân, nhưng phản ứng trước giờ không chậm.

Chẳng những không chậm, hành động của y còn luôn luôn nhanh nhất, hơn nữa khinh công của y có thể nói là kỳ dị nhất trong đương kim võ lâm, thủ pháp ám khí của y cũng được võ lâm tôn xưng là “minh khí”, lại hình dung bằng câu “dùng một người địch một môn (Thục Trung Đường môn)”.

Càng trác tuyệt là cơ trí của y.

Tàn tật trên người khiến cho y càng cố gắng dẫn phát tài trí hơn người của mình.

Y luôn luôn là một người không phó thác cho trời.

Quan điểm của y vẫn luôn là “mệnh ta do ta không do trời”.

Hiện giờ y đã tới.

Y ngồi kiệu đi tới.

Người khiêng kiệu là bốn tên đồng tử áo xanh.

Trong thoáng chốc này, Dương Vô Tà ngồi trên ngựa, Địch Phi Kinh ngồi trên ghế mây, còn có Vô Tình ngồi trong kiệu, đều tụ tập cùng nhau trong buổi tối kinh hoa kinh biến kinh động này.

Ba người này đều gặp gỡ nhau.

Bọn họ đều là trí giả nhân gian, đồng thời cũng là danh chấn tám phương, hào kiệt một thời, đều bởi vì kinh biến mà chạy tới, tụ tập cùng nhau.

Thậm chí không chỉ có ba người bọn họ.

Còn có một người, ngồi trong xe ngựa sang trọng chạy tới.

Hai người thiếu niên đánh xe đều anh tuấn, thanh tú, thậm chí còn đáng yêu hơn cả nữ nhân, cũng rất kiêu ngạo.

Ngồi trong xe ngựa là một người mập mạp tròn trịa, béo ú, cổ tay phải mang một chiếc vòng hổ phách Kinh Châu, ngón áp út tay phải mang một chiếc nhẫn phỉ thúy lớn như mắt trâu.

Người mập mạp này thân thiết ôn hòa, thường thường nở nụ cười như lượm lấy được, luôn luôn tươi cười đón người.

Hắn tựa như Di Đà Phật, chẳng những hiền lành, hơn nữa còn từ bi, người nào cũng sẽ không giận hắn, hắn cũng sẽ không giận bất cứ người nào.

Nhưng trong kinh thành, trong võ lâm, trên giang hồ, hai phe hắc bạch, thậm chí là quân binh triều đình, tiểu thương sai dịch, trong thiên hạ, chỉ sợ không ai dám chọc giận người này, tên mập mạp này, cái người cười hì hì, không quan tâm này.

Bởi vì hắn họ Chu, hắn là Chu Nguyệt Minh.

Hắn là “lão tổng” của hình bộ, cũng là “lão đại” thật sự trong tất cả “đội ngũ dùng hình”.

Hắn cũng đã đến.

Trong kinh thành một khi có chuyện, dĩ nhiên cũng không thể thiếu hắn.

Có một đoạn thời gian, địa vị của hắn gần như bị thay thế bởi Nhậm Lao Nhậm Oán do hắn một tay bồi dưỡng nên. Đó chủ yếu là vì Thái Kinh muốn dùng Nhậm Thị Song Hình “chiếm lấy địa vị” của hắn.

Thái Kinh thấy Chu Nguyệt Minh khôn khéo, đã bắt đầu không tín nhiệm người mặt mặt đều tròn, chiêu chiêu sát chiêu này.

Tại thời kỳ này, Chu Nguyệt Minh lại ẩn mình giấu tài, buông tay giao quyền, ung dung thản nhiên, yên lặng theo dõi kỳ biến. Cho đến khi Thái Nguyên Trường bị Triệu Cát nghi ngờ nên bãi quan, hắn mới trở lại quản lý quyền hành hình bộ.

Hiện giờ hắn cũng đến.

Ngày đó Tô Mộng Chẩm dẫn theo Vương Tiểu Thạch, Bạch Sầu Phi đi thẳng đến lầu Tam Hợp, đàm phán sinh tử với Địch Phi Kinh, Chu Nguyệt Minh cũng mang theo Trương Liệt Tâm, Trương Thiết Thụ đến đó thăm dò tình báo. Trong kinh xảy ra những biến động, đại sự này, làm sao lại không có hắn.

Chương 68 – Mệnh người do ta không do trời

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Lúc này, Dương Vô Tà ấn đường có nốt ruồi, Vô Tình hai chân đều phế, cùng với Chu Nguyệt Minh mặt béo tươi cười, đều ngẩng đầu nhìn lên mái cong trên nhà, dưới trăng giữa trời.

Khi Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà quyết chiến, bọn họ đã nghe được tin tức, gần như cùng lúc chạy tới. Nhưng lúc này Thích Tôn đã trở thành cùng một trận tuyến, muốn hợp sức đối phó với nhất đại cuồng ma Quan Thất.

Chỉ có một người vẫn không ngẩng đầu.

Địch Phi Kinh.

Có phải bởi vì xương cổ của y bị gãy, cho nên mới không thể ngẩng đầu nhìn quanh? Hay là y cảm thấy người sống trên đời, thời gian cúi đầu vốn nhiều hơn ngẩng đầu, nếu thời gian chưa tới, thời cơ chưa chín muồi, y cần gì phải ngước đầu ngẩng đầu vào lúc này?

Y hiển nhiên không ngẩng đầu ngước mắt nhìn, nhưng lại đang nghe, đang phân biệt.

Y vẫn biết rõ nhất cử nhất động trên mái cong nhà cũ Ôn Công.

Y mặc dù không ngẩng đầu, nhưng trong lòng y càng chấn động hơn bất cứ ai, hơn nữa cảm khái càng nhiều.

Ngày đó trong trận chiến Tam Hợp lâu tại kinh thành, Quan Thất bị xích sắt trói buộc, một người đối đầu với tổng lâu chủ Tô Mộng Chẩm của Kim Phong Tế Vũ lâu và huynh đệ mới kết nghĩa của y là Bạch Sầu Phi, Vương Tiểu Thạch, chiến đấu với tổng đường chủ Lôi Tổn của Lục Phân Bán đường, còn giao thủ một chiêu với mình, bốn năm người hợp sức cũng không đánh bại được y. Hiện nay, Vương Tiểu Thạch bị buộc rời khỏi kinh thành, Bạch Sầu Phi và Tô Mộng Chẩm đều chết, Lôi Tổn bị ba người Tô, Vương, Bạch liên thủ tiêu diệt. Tối nay, năm đại cao thủ đã từng hợp sức đối phó với cuồng nhân chiến thần Quan Mộc Đán đã tan thành mây khói, chỉ còn lại mình vẫn ở nơi này.

Y đương nhiên có phần cảm khái, xem ra Quan Thất càng điên càng khùng, cũng càng vô thường, càng vô địch.

Nhưng nhìn cũng càng trẻ tuổi.

Đối với Quan Thất, tuổi tác giống như sống trở lại, tâm cảnh cũng như vậy.

(Đây rốt cuộc là chuyện gì?) 

Về phần chính y, vẫn suốt ngày cúi đầu, xử lý các công việc bộn bề vụn vặt, nặng nề tốn sức, vẫn không có được thứ trong lòng muốn có nhất. Y đã mệt rồi, tâm cũng già rồi.

Ít nhất, y cũng cảm giác được tâm cảnh của mình rất già nua.

Do đó, nhiều người như vậy trong một đêm trăng kỳ lạ như vậy, nhìn thấy nhân vật thần kỳ Quan Thất trong truyền thuyết võ lâm, có người kinh ngạc, có người chấn động, có người không dám tin.

Nhưng cảm khái của y là sâu nhất.

Vốn là một đám người, đột nhiên chỉ còn lại một người, loại tịch mịch đó ngươi có từng trải qua chưa?

Tất cả phồn hoa cuối cùng đều sẽ tan vỡ, tất cả sum họp cuối cùng cũng phải chia ly, nhiệt huyết rồi sẽ lạnh, nhiệt tình sẽ giảm đi, hoa nở rồi sẽ tàn, người sống sẽ phải chết, toàn vẹn đến đỉnh điểm sẽ vỡ tan, sắc chính là không, không lại chưa chắc là sắc.

Người thông minh chịu chuyên cần cố gắng, cộng thêm vận may, cho dù có thành tựu cực lớn thì thế nào? Rốt cuộc đời người vẫn tịch mịch như tuyết.

Cho nên, có một số người không phải không thích tưng bừng náo nhiệt, mà không muốn khiến cho mình sau khi quen với náo nhiệt, đột nhiên lại phải một mình đối diện với hư vinh vô tận.

Bởi vì phồn hoa qua đi sẽ là hoang vắng, đó mới là cô tịch chân chính; náo nhiệt qua đi sẽ là cô độc, đó mới là tịch mịch thực sự.

Cho nên Địch Phi Kinh chỉ lo làm việc, ít lui tới với người khác, ít tìm hoan lạc.

Có gì đáng để vui vẻ? Sum họp cùng nhau vẫn phải tan. Thứ mà ngươi thật sự muốn có được, một khi đã có được, thực ra lại không nhất thiết phải có được như vậy. Dụng tâm một thời thì thế nào? Kết quả rất có thể chỉ đổi lấy thương tâm một đời.

Địch phi Kinh là một người thương tâm.

Mặc dù không ai biết y bị người khác làm thương tâm.

Y còn là một người tự ràng buộc.

Cuộc sống của y rất hạn chế. Y hoàn thành những chuyện trước mắt, làm tròn chức phận. Chỉ cần làm tốt những chuyện này, y giống như đã quản lý tính mạng và thành bại của mấy vạn người, thao túng võ lâm kinh sư gió lên triều xuống, đây chính là điều đáng tự hào nhất của y, ngoài ra không còn gì khác.

Những người khác, bao gồm Thích Thiếu Thương, Tôn Thanh Hà, Chiêm Biệt Dã trên nóc nhà, cùng với hai người bịt mặt một thấp một cao và Kinh Đào Thư Sinh Ngô Kỳ Vinh vốn ở trong phòng sau đó phi thân lên mái hiên, còn có Chu Nguyệt Minh, Vô Tình, Dương Vô Tà, Tôn Ngư vừa chạy tới hiện trường, kể cả bản thân Địch Phi Kinh, đều vô cùng kinh ngạc nhìn chiến thần Quan Thất một tay kia bắn ra Tam Chỉ Đạn Thiên, đây là chỉ pháp độc môn của Bạch Sầu Phi năm đó danh chấn kinh sư.

Ba chỉ vừa mới bắn trời, cục diện liền xảy ra biến cố.

Một tiếng “bụp” vang lên, chiếc tiêu trong tay Ngô Kinh Đào chợt gãy làm hai.

Người bịt mặt sắc bén kia giống như há mồm ăn phải một nắm tay, giọng nói đột nhiên câm nín.

Hán tử thon dài kia lại thất thanh trong tiếng rít.

Do đó, hiện trường ngoại trừ Quan Thất nhìn lên trời kêu gào, nhất thời lại không có âm thanh nào khác?

- Mệnh… người… do… ta… khặc khặc khặc khặc…

Y mở miệng cười.

Môi rất đỏ, giống như trong miệng ngậm một ngụm máu.

Máu tươi, của người khác, hoặc là của chính y.

Y cười lớn nói tiếp: 

- Không do trời!

Xem ra, y chưa chắc đã khôi phục thần trí, nhưng nhất định đã khôi phục tự tin, tự phụ và cuồng vọng.

Sau đó y nhìn xuống mọi người, nói:

- Vừa rồi là ai động thủ ở đây?

Y dùng tay chỉ vào Thích Thiếu Thương, mở chiếc miệng đỏ tươi, hỏi: 

- Ngươi?

Sau đó lại chỉ vào Tôn Thanh Hà: 

- Là ngươi?

Lại chỉ về phía Hắc Quang Thượng Nhân, hỏi: 

- Hay là ngươi?

Trước trước sau sau, y tổng cộng đã hỏi ba câu, chỉ ba lần vào ba người.

Nhưng phản ứng và tình huống của ba người đều khác nhau rất lớn. 

Quan Thất vừa chỉ, cách xa một trượng bảy, Thích Thiếu Thương chợt cảm thấy toàn thân nóng lên.

Y vốn cũng đề phòng, sợ Quan Thất cách không phát chỉ.

Cho nên y chợt né, tránh sang một bên.

Theo đạo lý, một chỉ kia tuyệt đối không thể đánh trúng Thích Thiếu Thương, nếu quả thật có chỉ kình cũng nhất định đánh trật.

Thế nhưng Thích Thiếu Thương vẫn cảm thấy toàn thân nóng lên.

Không biết vì sao, thật sự là toàn thân nóng lên.

Trái ngược, Tôn Thanh Hà lại cảm giác toàn thân lạnh lẽo.

Hàn ý thấm vào người, cũng xâm nhập vào người.

Quan Thất vừa chỉ về phía hắn, hắn cũng nghiêng người tránh ra một chút.

Nếu như một chỉ kia của Quan Thất thật sự ẩn chứa chỉ kình, cũng nhất định đánh vào khoảng không.

Nhưng lại không có tác dụng, Tôn Thanh Hà vẫn cảm thấy lạnh người.

Từ đầu ngón chân lạnh vào trong lòng, lại lạnh lên đến đầu.

Xem ra, hai chỉ tùy ý của Quan Thất không phải ẩn chứa nội lực, chỉ kình, thậm chí cũng không phải võ công, mà là một loại năng lượng kỳ dị đáng sợ, một loại khí lưu chấn động hoàn toàn tùy theo ý mình, cũng thích ứng trong mọi tình cảnh. Trên tay Quan Thất thi triển, chẳng những năm ngón tay điểm tướng, cũng điểm đá thành vàng, hóa tơ lụa thành can qua, siêu sinh cải tử. Đó là một loại lực lượng phi võ thuật giữa vũ trụ tự nhiên được y nắm giữ, khống chế, tiện tay vận dụng, khiến cho lực lượng của con người hoàn toàn không thể chống lại.

Lực lượng này dường như không hề đáng sợ, ngược lại có phần thân thiết.

Lực lượng này không xem là đáng sợ, lại cực kỳ xa lạ.

Nó vừa mạnh mẽ lại vừa hàm súc, vừa mãnh liệt lại vừa ôn nhu, mạnh và có lực nhưng lại vô hình vô tích.

Trong nháy mắt này, Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà đều tránh khỏi một chỉ kia, nhưng lại giống như không hề tránh, mỗi người trúng phải một chỉ.

Nhưng người kiên cường tiếp lấy một chỉ này lại là Hắc Quang Thượng Nhân Chiêm Biệt Dã.

Tam Chỉ Đạn Thiên của Quan Thất, chỉ thứ nhất là Phá Sát, một chỉ này ẩn mà không phát.

Chỉ thứ hai của Tam Chỉ Đạn Thiên là Kinh Trập, nhưng một chỉ này cũng điểm đến là dừng.

Chỉ thứ ba là Thiên Địch, một chỉ này đã phát ra.

Nó bị kích phát.

Người kích phát một chỉ này lại chính là Hắc Quang quốc sư Chiêm Biệt Dã.

Chương 69 – Mệnh trời do ta không do trời

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Chiêm Biệt Dã nghe Quan Thất hỏi hắn câu kia, trong lòng liền chấn động.

Hắn vừa nhìn thấy Quan Thất liền sinh ra một loại tâm tình, đó là đấu chí.

Ban đầu khi hắn cầm kiếm bước lên mái cong, từng nảy sinh một loại tư tưởng tranh hùng, muốn phân thắng bại với Tôn Thanh Hà, Thích Thiếu Thương.

Loại đấu chí bùng cháy này, gần đây hắn đã ít có, cũng ít thấy, cho dù có hắn cũng luôn cố gắng kiềm chế.

Nhưng tối nay lại vô cùng mãnh liệt, hắn gần như bị lòng hiếu thắng này đốt cháy.

Tối nay thật sự là một ngoại lệ, nhưng hắn lại không biết vì sao.

Cho đến khi hắn nhìn thấy Quan Thất, mới biết nguyên nhân mình bị đấu chí kịch liệt thiêu đốt. Thậm chí hắn cũng gần như tìm được nguyên do thật sự khiến Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà khó tránh khỏi quyết chiến, đồng thời phải lui đến trên mái cong này mới ra tay. Hóa ra “chiến thần” thật sự đang ở dưới mái hiên, trong phòng này.

“Nó” ở đây, dĩ nhiên sẽ có chiến đấu.

“Nó” kích phát đấu chí của tất cả mọi người.

“Nó” bản thân chính là chiến và đấu.

Do đó, tối nay Hắc Quang Thượng Nhân còn chưa động thủ, nhưng cả người đã bị đấu chí thiêu đốt, chợt nhìn thấy Quan Thất cách không xuất thủ một chỉ với hắn, chẳng những không tránh, còn lập tức, tức khắc, hơn nữa tự nhiên phản ứng lại.

Đánh trả một chiêu.

Hai tay hắn ôm lại, hợp thành một vòng. Một luồng kình đạo kỳ quái, nghịch hướng, đảo loạn, đối lưu ép ngược qua, vây bọc lực lượng của một chỉ kia, giống như mấy chục con chó săn bao vây một con mãnh hổ, muốn bức nó vào trong cạm bẫy mai phục mới cam tâm.

Một khi rơi vào trong vòng khí của hắn, vậy thì giống như rơi vào vực sâu, đó là vô biên vô tận, vô bờ vô bến, đồng thời cũng vô sinh vô tử, vô địch vô phương chống lại, tuyệt đối có thể làm tan rã thế công của địch thủ, đồng thời tiêu diệt tính mạng kẻ địch.

Một chiêu này chính là tuyệt học của hắn, “Hắc Động”.

“Hắc Động” là một loại võ công phá nát tất cả lực lượng, tiêu diệt tất cả kẻ địch, đến từ “Hắc Quang đại pháp” tu luyện mấy chục năm của Hắc Quang Thượng Nhân.

Cho dù kẻ địch có mạnh mẽ, một khi bị hắn cuốn vào trong “hố đen”, nhất định sẽ bại, sẽ vong, sẽ không thoát khỏi.

Hiện giờ Chiêm Biệt Dã đang phát huy loại lực lượng phá nát, tiêu diệt, tiễu trừ này.

Cũng không biết vì sao, hắn đột nhiên sinh ra một loại đấu chí, muốn đánh bại Quan Thất.

Tốt nhất còn có thể giết chết Quan Mộc Đán này.

Chỉ cần có thể một chưởng đánh chết Quan Thất, hắn tự nhiên sẽ trở thành thiên hạ đệ nhất.

Ngày thường hắn cũng không có dã tâm lớn muốn làm thiên hạ đệ nhất, nhưng lúc này lại vô cùng mãnh liệt.

Do đó, khi một ngón tay của Quan Thất chỉ về phía hắn, hắn lập tức dùng “Hắc Động” ép bức.

Hắn muốn nghênh đón một chỉ này, hắn muốn đối diện với công kích của Quan Thất, hắn thậm chí còn muốn khiêu chiến với Quan Thất.

Cho nên hắn cũng lập tức bị áp chế ngược.

Quan Thất có cố ý phát ra một chỉ Thiên Địch trong Tam Chỉ Đạn Thiên này hay không, đây là chuyện không ai biết được.

Thế nhưng khi Chiêm Biệt Dã thi triển ra “Hắc Động”, dẫn “địch” vào “động”, sau đó lại phát ra công kích diệt tuyệt, khiến cho Quan Thất đột nhiên thu hồi một chỉ “Thiên Địch”.

“Thiên Địch” vừa đi, chợt nghe Quan Thất nói một câu giống như thổ lộ:

- Kinh Mộng.

Câu này chỉ có hai chữ, nhưng khi Quan Thất nói ra lại giống như một giấc mộng tiêu hồn, hơn nữa còn có cảm tình.

Giống như một cuộc tình đẹp đến điên đảo.

Y xuất chiêu rất chậm, từ từ, một chỉ “Kinh Mộng”.

Chậm và chạp, thơm và ngọt, giống như một giấc mộng buổi chiều.

Mộng tỉnh lại thành không, phiền muộn sau giấc mộng.

“Thiên Địch” đi hết, mộng tỉnh giật mình, dường như mất mát, lại công thẳng vào trung tâm “Hắc Động”.

Tựa như một luồng cực quang xẹt qua trời cao, ánh chớp đánh thẳng vào chính giữa hố đen.

Chiêm Biệt Dã đã không kịp thu chiêu.

Lúc này nếu như hắn không đánh tiếp, vậy chỉ có đường bị người ta giết vào lãnh địa, tan xương nát thịt trong ác mộng.

Hắn đành phải phát động “Hắc Quang đại pháp”.

“Hắc Quang đại pháp”, đó là lực lượng của cái chết.

Ánh sáng đen chợt hiện, muốn cắn nuốt một chỉ như mộng như kinh kia.

Nhưng ngón cái Quan Thất bỗng ấn xuống, ngón út nhấc lên, ngón giữa nhanh chóng búng ra, đây mới là một chỉ “Phá Sát” thật sự.

Lực lượng của một chỉ “Kinh Mộng” đâm phá “Hắc Động”, sấm sét của “Phá Sát” nghênh chiến “Hắc Quang”, ánh sáng đen kia chợt phát sinh biến hóa, trở thành màu trắng.

Sau đó ánh sáng kia lại đột nhiên thay đổi hình thái, biến thành màu đen.

Lập tức đen trắng đảo loạn, vặn vẹo, nghịch chuyển. Chiêm Biệt Dã chỉ cảm thấy trên mặt giống như có một lớp màng đột nhiên vỡ tan, thậm chí ngay cả tai và màng tim cũng đồng loạt nứt ra, xé rách. Hắc Quang đại pháp đã có chỗ hở, hơn nữa cũng mất đi lực lượng ngưng tụ.

Hắn kêu lên một tiếng, nhưng ngữ âm đột nhiên khàn khàn:

- Tiên thiên…

Lời của hắn đột nhiên bị cắt ngang.

Lời nói bị tiếng kêu của Quan Thất cắt đứt:

- Mệnh người do ta… 

Y vừa nói, ba ngón tay trái đã bắn ra “Tiểu Tuyết”, ba ngón tay phải cũng công ra “Sơ Tình” giáp công Chiêm Biệt Dã.

Đây là hai đại sát chiêu trong “Kinh Thần chỉ”, tuyệt kỹ thành danh của Bạch Sầu Phi lúc trước.

“Hắc Quang” của Chiêm Biệt Dã đã bị phá, “Hắc Động” đã bị xuyên thủng, mắt thấy cũng không còn sức đánh trả nữa.

Thế nhưng trong nháy mắt này, “Hắc Quang Thượng Nhân” Chiêm Biệt Dã lại biến đổi, cả người hắn giống như biến thành một đoàn khí đen.

Yêu khí.

Toàn thân hắn giống như một cơn gió lốc vặn vẹo, hai chỉ “Tiểu Tuyết” và “Sơ Tình” kia xé gió bay tới, nhưng khi đến “khu vực màu đen” này chợt mất đi kình đạo, giống như biến thành hai sợi bông vô hình, đã không còn bất kỳ lực sát thương nào.

Cặp mắt nhiều đen ít trắng của Quan Thất một đảo một trừng, đột nhiên quát lên:

- Tốt!

Y bỗng vươn người nhảy xuống.

Y chỉ vừa động, cũng không thấy cử động ra sao, đã đến trước người Hắc Quang Thượng Nhân.

Y đưa tay ra, vươn vào trung tâm của khí đen kia.

Cũng không thấy chiêu thức gì, y chỉ vươn tay ra, giống như tay của y là một tia chớp, một thanh đao, lập tức đâm vào trung tâm yêu khí.

Không có một âm thanh nào, Hắc Quang Thượng Nhân bước ngang mười sáu mười tám bước, thân hình lắc lư, bước chân loạng choạng, mái tóc rối bù, khí đen đầy mặt, hoảng sợ thất thanh kêu lên: 

- Tiên thiên vô hình…

Hắn không nói tiếp, bởi vì đã không nói được, hiển nhiên hắn đã bị thua thiệt dưới tay Quan Thất.

Quan Thất xuất thủ một chiêu, thấy Chiêm Biệt Dã dùng “Hắc Động” nghênh đón, trên mặt y liền hiện lên vẻ vui mừng.

Giống như có người dám ra tay với y, đó là một đại sự tuyệt đối đáng để y cao hứng.

Cho nên y thu lại “Thiên Địch”, đổi thành phát ra “Phá Sát” và “Kinh Mộng”, hai chỉ này vốn là hư chiêu tấn công Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà.

Thế nhưng Chiêm Biệt Dã mặc dù rơi vào thế yếu, vẫn có thể tiếp được hai chiêu này của y, dùng “Hắc Quang đại pháp”.

Đến lúc này, trên mặt Quan Thất đã không còn là vui mừng, mà là hoan hỉ.

Y lập tức tiện tay bắn ra “Tiểu Tuyết” và “Sơ Tình”.

Hắc Quang Thượng Nhân vẫn dùng khí công “Thiên Hạ Nhất Bàn Hắc” hấp thu hóa giải hai chiêu này.

Lúc này Quan Thất mới thật sự ra tay.

Y không chỉ động tay, mà người cũng động.

Y lướt đến trước người Hắc Quang Thượng Nhân, chính thức xuất thủ trong khoảng cách gần.

Lúc này trên mặt y không chỉ là vẻ hoan hỉ, mặc dù vẫn là vui mừng, nhưng lại ẩn chứa đau khổ vô tận.

Giống như yêu đến đỉnh điểm, mừng đến cuối cùng chính là đau khổ, rốt cuộc vẫn là dày vò.

Y vừa ra tay đã phá tan khí công “Thiên Hạ Nhất Bàn Hắc” của Chiêm Biệt Dã.

Sau đó, vẻ đau khổ vui mừng trên mặt y dần rút đi, thay vào đó là một loại thần sắc tịch mịch.

Tâm tình tịch mịch.

Có điều thần sắc tịch mịch này chỉ chợt lóe lên rồi biến mất, thay vào đó là vui mừng.

Bởi vì lúc này lại phát sinh một chuyện.

Không, là đột nhiên xuất hiện những thứ đặc biệt, trong đó bao gồm sắc, vị.

Đó là một loại màu sắc cực kỳ loang lổ, cũng là một loại âm nhạc vô cùng ưu mỹ, càng là một loại mùi thơm hết sức dễ chịu, thậm chí còn là một loại xúc động rất kỳ diệu.

Bốn loại cảm ứng hình thành bốn loại lực lượng khác nhau, đồng loạt đánh vào lưng Quan Thất.

Cùng lúc đó, có một trảo ba chưởng cũng thừa sơ hở tấn công Quan Mộc Đán.

Bốn loại cảm giác kia đi cùng với một tiếng quát lớn:

- Đốn, ba như lan giả lợi!

Tất cả đồng loạt tấn công Quan Thất.

Toàn thân Quan Thất chấn động, giống như bị sét đánh.

Ánh trăng chiếu lên khuôn mặt y.

Y mừng rỡ.

Y cuồng nhiệt.

Y điên cuồng.

Y đột nhiên xoay người lại, đối diện với người vừa xuất thủ.

Người ra tay với y chính là “Kinh Đào Thư Sinh” Ngô Kỳ Vinh.

Không chỉ hắn, còn có hai người khác tập kích Quan Thất, đó là hai người bịt mặt.

Hán tử cao gầy một tay dùng “Lạc Phượng chưởng”, một tay dùng “Ngọa Long trảo” tấn công hai bên sườn Quan Thất.

Hán tử lùn mập hai tay dùng “Vô Chỉ chưởng” tập kích buồng tim và cổ họng Quan Thất.

Trong miệng hai người còn phát ra tiếng rít.

Bọn họ xuất thủ đương nhiên rất kinh người.

Nhanh đến kinh người, tàn nhẫn kinh người, sát chiêu kinh người, biến hóa của nó cũng kỳ dị kinh người.

Thế nhưng đối với Quan Thất, thứ khiến cho y giật mình dường như không phải là chưởng công sắc, hương, vị, cảm xúc và ba chiêu ám toán ác độc này, mà là mấy tiếng rít và thần chú kỳ quái kia.

Y xoay người, ngẩng mặt, ánh trăng màu xanh nhợt nhạt chiếu xuống trên đầu y.

Y đột nhiên vỗ xuống một chưởng.

Vỗ vào trên đỉnh đầu, trên “thiên linh cái” của chính y.

Chương 70 – Mệnh ta do ta hay không do ta?

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Một chưởng này của Quan Thất đánh vào trên “thiên linh cái” của mình, tình hình lập tức biến đổi.

Nên biết “thiên linh cái” là một trong những tử huyệt quan trọng của thân thể, bình thường bị người khác đánh trúng sẽ bị thương nặng, huống hồ là Quan Thất có tuyệt thế thần công, sức mạnh vô biên.

Y cho dù xuất chưởng với mình, cũng không hề khoan dung.

Quan Thất đánh một chưởng vào đỉnh đầu mình, một tiếng “bốp” vang lên, lập tức phun ra một ngụm máu, hai mắt cũng đồng thời rỉ ra tơ máu.

Ngụm máu kia bắn vào mặt tên hán tử che mặt thấp bé sắc bén.

Lần này, tên hán tử che mặt sắc bén nhỏ bé kia ngửa mặt lên trời ngã xuống, lăn khỏi mái cong, không ngừng kêu thảm.

Đó chỉ là một ngụm máu.

Một ngụm máu đá phá tan “Vô Chỉ chưởng” mà hán tử kia khổ luyện mấy chục năm, hơn nữa còn đánh văng hắn xuống mái cong.

Sau đó năm ngón tay của Quan Thất nhanh chóng búng ra, chỉ pháp thiên biến vạn hóa. “Lập Xuân”, “Vũ Thủy”, “Xuân Phân”, “Thanh Minh”, “Cốc Vũ”, “Hạ Chí”, “Tiểu Thử” trong “Kinh Thần chỉ” của Bạch Sầu Phi liên tục bắn ra, có chỉ kình phát ra tiếng xé gió cực kỳ sắc bén, có chỉ kình lại phát ra tiếng nhạc rất êm tai, có chỉ phong tỏa ra một luồng khói đen, có chỉ phong lại lượn lờ màu xanh lá nhạt, vô cùng quyến rũ, có chỉ ý lay động khó lường, chìm nổi bất định, có chỉ ý lại phóng khoáng rộng rãi, liên kết phân hóa, có chỉ thế vừa xuất liền tỏa ra mùi máu tanh nồng nặc, có chỉ lực vừa phát lại bốc lên mùi vị như thi thể mục nát.

Những chỉ pháp này toàn bộ công kích Ngô Kinh Đào.

Ngô Kinh Đào đang dùng “Hoạt Sắc Sinh Hương chưởng” tấn công Quan Thất.

Quan Thất lại phản kích bắng chỉ pháp uyển chuyển giống như đang đánh đàn.

Kinh Đào Thư Sinh đột nhiên luống cuống tay chân, chưởng công vốn là “vị”, hiện giờ lại lẫn lộn với chưởng pháp của “sắc”, trở nên dở dở ương ương; mà chưởng ý vốn là “thanh”, lúc này lại trở thành chưởng thế của “xúc”, hoàn toàn rối loạn.

Võ công của hắn vốn là vừa động ý đã lập tức phát ra, gần như đạt đến cảnh giới của tuyệt thế cao nhân là “một chút sức nhỏ như lông chim cũng không thêm vào, một con ruồi cũng không rơi xuống, vừa chạm vào lập tức phản ứng”. Nhưng hôm nay hắn hoàn toàn bị chỉ pháp của Quan Thất áp chế, trở nên rối loạn, giống như vòi của bạch tuộc hoàn toàn quấn vào nhau, lại giống như một cơn cuồng phong thổi loạn khiến cho mạng nhện vướng vào nhau.

Do đó lại biến thành không chỗ phát huy, không thể thi triển.

Không phải không muốn động, mà là không thể hành động; không phải không dám hành động, mà là bất lực.

Ngô Kinh Đào tại giây phút này, giống như ý công của “thanh” muốn khiêu chiến với chưởng ý của “sắc”, mà chưởng pháp của “xúc” lại quyết chiến với chưởng lực của “vị”.

Hắn phản ứng không kịp, hơn nữa còn luống cuống tay chân.

Trận pháp của hắn đại loạn.

Đây là lần đầu tiên từ khi Kinh Đào Thư Sinh xuất đạo đến đây, giao thủ với địch, cảm thấy gian khổ, sợ hãi, hơn nữa lực bất tòng tâm như vậy.

Hắn dốc hết tâm trí, toàn lực ứng phó.

Kinh Đào Thư Sinh xem như còn tốt, hán tử cao gầy lại càng thảm hơn.

Sau khi Quan Thất tự đánh vào “thiên linh cái” cũng không quên hắn, càng không quên “Lạc Phượng chưởng” và “Ngọa Long trảo” của hắn.

Quan Thất cũng xuất chỉ đối phó với hắn.

Nhưng một chỉ này lại là “Kinh Trập”.

Một chỉ “Kinh Trập” này là Quan Thất tiện tay bắn về phía hán tử cao gầy che mặt kia, tựa như một nốt nhạc trong tay một nhạc công thuần thục, chỉ là một thang âm độc lập trong cả khúc ca, tiếp nối cái trước. Nhưng đối với hán tử cao gầy kia, một chỉ này lại giống như số mạng của hắn đã định sẵn phải gặp gỡ, đã đợi bảy đời ba kiếp mới gặp được một chỉ này.

Hán tử cao gầy vốn thừa dịp Ngô Kinh Đào xuất thủ đối phó với Quan Thất, thu hút sự chú ý của Quan Thất, liền cùng với hán tử sắc bén ra tay đánh lén. Thế nhưng khi Quan Thất tự đánh vào đỉnh đầu mình, dùng một mũi tên máu đánh bay hán tử thấp bé, người cao gầy bịt mặt đã biết không ổn.

Hắn vừa biết không ổn, lập lui lui lại, lui rất nhanh.

Thế nhưng Quan Thất đã xuất chỉ với hắn.

Hắn lui có nhanh đến mấy, cũng không nhanh hơn chỉ kình của Quan Thất.

Trong nháy mắt này, hán tử che mặt vóc dáng thon dài đối mặt với Quan Thất, khiến cho hắn đột nhiên nhớ đến một người.

Áo trắng bào trắng, cô độc lạnh nhạt, Bạch Sầu Phi.

Hắn từng đối diện với Bạch Sầu Phi trên con đường tại lầu Tam Hợp.

Lúc đó, hắn bất ngờ giết chết nô tỳ Lan Kiếm bên cạnh Lôi Thuần. Bạch Sầu Phi từng muốn giết chết người bịt mặt vóc dáng cao gầy này, nhưng bởi vì Quan Thất xuất hiện, khiêu chiến tất cả cao thủ có mặt, cho nên Bạch Sầu Phi chỉ bức cho lục thánh chủ vóc dáng cao gầy này chật vật vô cùng, lại không kịp giết hắn.

Thế nhưng khi đó, lục thánh chủ đã sinh ra một loại cảm giác rất kỳ lạ, hắn nhất định phải giết chết Bạch Sầu Phi, nếu không hắn sẽ chết dưới tay người áo trắng này.

Vận mệnh của hai người bọn họ giống như đan chéo, xen lẫn, hỗn hợp với nhau, chỉ xem là ai giết ai, ai chết trong tay ai mà thôi.

Đối với loại cảm giác này, lục thánh chủ vẫn luôn rất sợ hãi.

Do đó khi hắn nghe tin Bạch Sầu Phi đã chết, hắn cao hứng hơn bất cứ ai.

Nút thắt của hắn đã được mở, hóa ra dự cảm kia là sai, sẽ không xảy ra, bởi vì Bạch Sầu Phi đã chết.

Hắn có nguyện vọng sống sót rất mãnh liệt.

Vì sống sót, sống tốt, hắn không chừa thủ đoạn, cũng không tiếc tất cả.

Năm đó hắn phản bội Quan Thất, có hai nguyên nhân, một là sống sót, hai là sống tốt.

Xuất thân của hắn không tốt.

Hắn vừa sinh ra đã rất thấp hèn, cha mẹ anh chị đều là nô tỳ của người khác. Cha của hắn bởi vì chọc giận chủ nhân, bị chặt đứt năm ngón tay, cả đêm đau đớn trong phòng chứa củi giữa trời đông giá rét đến bình minh, cũng lạnh cóng đến khi trời sáng. Không ai dám nói giúp cha hắn nửa câu, thậm chí không dám tiến lên đắp một tấm thảm cho y.

Anh trai của hắn càng thảm hơn, bởi vì thích một nữ quyến thân thuộc của chủ nhân (dáng vẻ của cô gái kia hơi giống với Lan Kiếm), bị phát hiện, liền bị giết chết ngay tại chỗ.

Có đánh chết cũng không ai dám báo quan, mà gia đình của hắn lại càng bị người ta xem thường. Cho nên khi chị gái của hắn bị thiếu gia cưỡng hiếp, mọi người chỉ càng khinh thường, đều nói chị gái của hắn là đồ phóng đãng đúng người đúng tội.

Đến lúc đó, hắn quyết định không chờ đợi nữa, không thể sống tiếp giống như bọn họ.

Thế nhưng xông pha không dễ, muốn tạo nên danh tiếng càng khó, muốn báo thù giết chết cả nhà “Tương Phiền Tiểu Bá Thiên” Vương Tiểu Thất, vậy thì khó càng thêm khó.

Muốn làm được chuyện này (báo thù), chỉ có hai biện pháp. 

Một là hắn phải khiến mình cường tráng.

Muốn cường tráng bản thân thì phải luyện võ.

Hai là hắn phải khiến mình cường đại hơn.

Muốn cường đại bản thân thì trước hết phải kết hợp với những thế lực khác.

Cho nên hắn khổ công tập võ, hơn nữa hắn rất nhanh phát hiện, nếu luyện võ theo chính đạo chính phái, e rằng đời này kiếp này cũng khó có cơ hội nở mày nở mặt.

Vì vậy hắn luyện theo con đường tà phái.

“Lạc Phượng chưởng” là chưởng lực khá nham hiểm, “Ngọa Long trảo” càng là võ công hết sức độc ác. Luyện cùng lúc hai loại võ công này, trước tiên là tính tình biến đổi, sau đó là không thể nhân đạo, tính khí cũng sẽ vô cùng quái dị.

Nhưng hắn chẳng những đồng thời luyện thành hai loại võ công đáng sợ, còn tiến thêm một bước, dung hợp hai loại võ công ác độc này lại làm một, trở thành “Lạc Phượng trảo”, hơn nữa còn tiếp tục tu luyện, luyện thành “Khai Hoa chỉ”. Hắn một mặt luyện tốt những võ công âm hiểm ác độc này, một mặt gia nhập vào một thế lực to lớn.

Lúc đó thế lực của Mê Thiên minh đã kéo dài đến khu vực Tương Phiền.

Mê Thiên minh trong tay Quan Thất lúc cường thịnh, không chỉ độc bá thiên hạ trong kinh thành, thế lực của nó còn chiếm cứ, phát triển tại nhiều thành lớn, thanh danh lan xa, thâu tóm tinh anh của hai đạo hắc bạch, lớn mạnh hơn nhiều so với Lục Phân Bán đường và Kim Phong Tế Vũ lâu.

Lục thánh chủ Trương Liệt Tâm biểu hiện xuất sắc, vì vậy được nhị thánh chủ Mẫn Tiến, ngũ thánh chủ Lữ Phá Quân, lục thánh chủ Trương Phân Yến của Mê Thiên minh khi đó khen ngợi, thăng cấp làm đà chủ phân đà khu vực Tương Phiền của Mê Thiên Thất Thánh minh.

Sau khi hắn làm đà chủ, cả nhà “Tiểu Bá Thiên” Vương Tiểu Thất ở bản địa có thể nói là khó sống.

Hắn giết sạch nam nhân của bọn họ, lại cưỡng hiếp nữ nhân của Vương gia, nhổ cỏ tận gốc, đủ ác đủ tuyệt.

Nhưng làm đến mức như vậy, quan phủ khó tránh khỏi phải truy cứu.

Hắn đành phải rút khỏi Tương Phiền, dùng trăm phương ngàn kế, được các thánh chủ tiến cử, bước vào tổng đàn của Mê Thiên minh ở kinh sư.

Với thế lực hùng mạnh của Mê Thiên minh khi đó, dĩ nhiên có thể bảo vệ hắn.

Có điều, bởi vì “Tiểu Bá Thiên” Vương Tiểu Thất bị hắn giết chết thật ra là thành viên của Phi Phủ đội Dư gia, khúc mắc của hắn thật không đơn giản, sơ hở khá lớn, thù cũng rất sâu.

Phi Phủ đội Dư gia cũng đã sử dụng thế lực võ lâm và quan phủ để truy cứu chuyện này.

Mặc dù Trương Liệt Tâm đã nương nhờ Mê Thiên minh, không ai dám trực tiếp động đến hắn, nhưng bởi vì hắn là “hắc nhân” bị quan phủ truy nã, từng vẽ tranh dán công văn truy bắt, cho nên hắn quanh năm đều che mặt, không dám dùng khuôn mặt thật gặp người khác.

Vừa lúc, trong Mê Thiên minh ngoại trừ thất thánh chủ Quan Mộc Đán, những người khác cũng luôn che mặt làm việc, phù hợp với phong cách và đặc tính.

Điều này cũng khiến Trương Liệt Tâm nhân cơ hội “danh chính ngôn thuận” tránh khỏi kiếp nạn.

Hắn vốn tên là Trương Thành, cũng đổi tên thành Trương Liệt Tâm.

Mặc dù hắn đã che mặt, trái tim của hắn vẫn nóng rực, vẫn là “liệt tâm”.

Hắn còn có một người anh em họ khác, nguyên danh là Trương Hán. Trương Hán cũng là người cơ khổ, xuất thân tương tự như hắn.

Do đó, hắn cùng với Trương Hán gia nhập Mê Thiên minh, cùng nhau khởi sự, cùng một trận tuyến, thăng tiến rất nhanh.

Trương Hán cũng có đấu chí như hắn, cũng đổi tên thành Trương Thiết Thụ.

Vì vậy, trong võ lâm mới có một đôi cao thủ “Thiết Thụ Khai Hoa”.

“Thiết Thụ Khai Hoa” (cây vạn tuế ra hoa) vốn là một chuyện hiếm thấy.

Mục đích mà bọn hắn phấn đấu, chẳng qua chỉ hi vọng “mệnh ta có thể do ta”.

Thế nhưng kết quả thì sao?

Quan Thất dần dần luyện công phát điên, Mê Thiên minh xảy ra biến hóa hoàn toàn, cục diện nghịch chuyển. Mê Thiên Thất Thánh minh đã dần suy thoái, không thể chống lại Lục Phân Bán đường và Kim Phong Tế Vũ lâu công kích cắn nuốt.

Trong thời cơ này, đã là nguy cơ, cũng là lương cơ (cơ hội tốt).

Trương Liệt Tâm, Trương Thiết Thụ chỉ tuân theo hai nguyên tắc, bọn họ muốn, (một) sống sót, (hai) sống tốt.

Cho nên chỉ có một con đường, một lựa chọn.

Phản bội Quan Thất.

Bọn họ muốn phản bội Quan Thất, trước tiên phải lấy được sự tín nhiệm của y.

Muốn giành được sự tín nhiệm của y, trước tiên phải ra sức a dua xu nịnh, nắm được sở thích của nhân kiệt phi thường này.

Bọn hắn muốn Quan tổng thánh chủ tín nhiệm mình.

Mà bọn hắn lại muốn dựa vào một thế lực đang lên hùng mạnh hơn, đó là tập đoàn Hữu Kiều.

Chương 71 – Mệnh người do người hay không do người?

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Khi đó, Quan Thất chân khí rẽ nhánh, đã tiến vào trạng thái tẩu hỏa nhập ma, nửa điên nửa cuồng.

Y thường xuyên nhìn thấy trên trời có “chim lớn lượn vòng kêu ù ù”, lại nhìn thấy dưới lòng đất có “rắn chạy nhanh kêu ầm ầm”. Mấy thánh chủ tìm hết danh y nhưng vẫn bó tay, đành phải dẫn y đi danh sơn thắng cảnh khu vực tây nam hít thở không khí trong lành, thư giãn thể xác và tinh thần. Kết quả, y lại nói trong núi sâu nhìn thấy một đám người mặc đồ xanh lá, trong tay cầm những chiếc ống có thể bắn nổ người khác, bắn cho người và cây thành trăm ngàn lỗ hổng. Khi tản bộ trong đêm trăng sáng, lại ngẩng đầu trông thấy “có hai tên mập mạp béo phì đang dạo chơi trên ánh trăng kia”. Bọn họ đành phải “kính mời” y trở lại kinh sư, kết quả y lại cả đêm không ngủ được, khóc sưng hai mắt, bởi vì y lại “mơ thấy” trong thành nơi xa có một đám giặc Oa cầm “cờ mặt trời” đang mặc sức đồ thành giết người, gian dâm cướp của, hơn nữa còn “mắt thấy” phía trước có “người trong tay cầm vũ khí lợi hại đang giết dân chúng và người trẻ tuổi tay không tấc sắt”. Quan Thất hết sức bi thương, từ đó mắc bệnh hiểm nghèo, thần trí chẳng những lo lắng ưu sầu, còn tưởng tượng đủ thứ, nửa điên nửa cuồng, ngày càng nghiêm trọng, cả ngày không vui.

Mọi người đều không biết y đang nói đến chuyện gì, chỉ biết là y đã điên rồi.

Y đã điên rồi, y nhất định đã điên rồi.

Y điên, mọi người cũng không thể điên theo y.

Khi đó, Kim Phong Tế Vũ lâu dưới sự lãnh đạo của Tô Mộng Chẩm đã nhanh chóng quật khởi, cuốn sạch nửa giang sơn, còn Lục Phân Bán đường cũng nhanh chóng phát triển, lại thôn tính nhiều địa bàn vốn thuộc về Mê Thiên minh.

Mê Thiên Thất Thánh minh đã ở vào tình cảnh toàn diện chịu đòn.

Lúc đó tập đoàn Hữu Kiều Đang đang nổi lên, nhưng đối diện với Lục Phân Bán đường của Lôi Tổn được tổ chức như tường đồng vách sắt, cùng với Kim Phong Tế Vũ lâu được Tô Mộng Chẩm củng cố giang sơn, Phương Ứng Khán và Mễ Thương Khung của tập đoàn Hữu Kiều thật sự không có cơ hội, chẳng có cách nào.

Phương pháp duy nhất chính là thừa dịp người khác gặp nguy, đục nước béo cò, tiêu diệt Mê Thiên minh đang suy yếu lâm nguy, tự mình chiếm lấy địa vị.

Phương Ứng Khán được Mễ công công chỉ thị, tất cả thành công đều bắt đầu từ đoàn kết, còn tất cả thất bại và diệt vong lại bắt đầu từ nội loạn, cho nên hắn đã mua chuộc Trương Thiết Thụ và Trương Liệt Tâm.

Trên thực tế, tình hình lúc đó cũng không cho phép Thiết Thụ Khai Hoa từ chối bị “mua chuộc”, bọn hắn cũng không phải là người tự cho mình chính nghĩa, tự thấy mình thanh cao.

Bởi vì nhị thánh chủ “Trường Vĩ Sát Tinh” Mẫn Tiến đã cự tuyệt Phương Ứng Khán “mua chuộc”, cuối cùng chết không minh bạch. Mẫn Tiến vừa chết, đại thánh chủ Nhan Hạc Phát liền thừa dịp đưa tâm phúc của hắn là Chu Tiểu Yêu lên làm nhị thánh chủ.

Nhưng lúc này đại thế đã hiện.

Mê Thiên minh đã lộ ra dấu hiệu thất bại, suy yếu rõ ràng, nhưng vẫn có những người thề chết trung thành như là đám người ngũ, tam thánh chủ.

Vì quán triệt tư tưởng “sống sót, hơn nữa phải sống thật tốt”, Trương Thị Song Hùng đành phải âm thầm nương nhờ tập đoàn Hữu Kiều.

Bọn hắn có phe phái Mễ Hữu Kiều ngầm ủng hộ, dĩ nhiên càng có thể lấy lòng Quan Thất.

Lúc này Quan Thất đã không còn chí lớn.

Y “thấy” tiền đồ mờ mịt như thế, cho nên chỉ lo vui sướng trước mắt, không còn tâm trí giải quyết những chuyện khác.

Liệt Tâm, Thiết Thụ vừa lúc phụ họa lấy lòng.

Nhiệm vụ thứ nhất mà bọn hắn tiếp nhận, chính là trừ đi ngũ thánh chủ “Thủy Tinh Cuồng Ma” Lữ Phá Quân, cùng với “Hắc Diện Thần Quân” Trương Phân Yến.

Vì vậy Trương Phân Yến và Lữ Phá Quân đã mất mạng dưới tay người nhà ám toán, bị chết rất oan.

Sau khi giết chết hai người này, Trương Liệt Tâm, Trương Thiết Thụ cũng không biết “mệnh người do người hay không do người”, chỉ biết con đường trước mắt đã hiện rõ, không còn đường khác để đi, nếu có thì chỉ có con đường sống này, còn những đường khác đều là đường chết.

Hóa ra chỉ cầu sống sót và sống tốt, thông thường cũng phải trả giá lớn như vậy, đáng sợ như vậy, không thể tưởng tượng như vậy.

Đến cuối cùng, bọn hắn dĩ nhiên cháy nhà mới ra mặt chuột, phản bội Quan Thất, cũng dẫn Quan Thất bước vào con đường sai lầm.

Trong đó chiến dịch quan trọng nhất là dẫn Quan Thất vào Phá Bản môn, Tam Hợp lâu, để y độc chiến quần hùng.

Quan Mộc Đán điên cuồng si dại, chiến đấu với một đám cao thủ đứng đầu kinh sư như Tô Mộng Chẩm, Lôi Tổn, Bạch Sầu Phi, Địch Phi Kinh, Vương Tiểu Thạch, đó là chuyện tất bại tất vong.

Phương Ứng Khán và Mễ Hữu Kiều không nắm chắc giết được Quan Thất, vì vậy mới sắp đặt cho những cao thủ tuyệt đỉnh của Kim Phong Tế Vũ lâu và Lục Phân Bán đường liên thủ trừ khử người này.

Thế nhưng, chuyện kinh người là Quan Thất mặc dù đã nửa điên nửa khùng, nhưng võ công vẫn cao tuyệt.

Cao đến đỉnh điểm, cao đến tột cùng.

Hợp sức của năm người Tô, Lôi, Vương, Bạch, Địch vẫn không giết được Quan. Cho dù trước khi quyết chiến, với lý do phòng ngừa Quan Thất điên cuồng sát hại huynh đệ trong minh, y đã để cho ngũ, lục thánh chủ tân nhiệm dùng xiềng xích trói tay chân của mình, còn hạ độc và thần chú, nhưng mọi người vẫn không giải quyết được y, không đánh thắng được y.

Nếu không phải y bị sét đánh, người chết có lẽ là đám người vây quét y.

Ngay cả Phương tiểu hầu gia ở trong tối quan sát, muốn tận mắt nhìn thấy Quan Thất bị quần hùng vây công chém đầu, đột nhiên cũng cảm thấy không đành. 

Người này võ công rất cao, hơn nữa đầu óc có vấn đề, nếu có thể phục vụ cho ta, tập đoàn Hữu Kiều còn sợ không có thành tựu sao.

Khi đó, tập đoàn Hữu Kiều sẽ có thể danh chính ngôn thuận cũng hợp tình hợp lý đổi tên thành “tập đoàn Tiếu Khán” rồi.

Mễ Hữu Kiều muốn ta trừ khử đại địch số một Quan Thất này, ta lại dùng mà không giết, có được Quan Thất rồi, còn cần lão hồ ly Mễ Thương Khung này sao? Không cần.

Goi thế lực của ta là “tập đoàn Hữu Kiều”, chẳng qua là một loại thủ đoạn và thủ pháp để lung lạc lão tặc này mà thôi.

Sớm nên đổi tên, cũng sớm nên chính danh.

Võ công của Quan Thất cao như vậy, hơn nữa lại bị trọng thương, hiện giờ giữ y lại cũng không sợ y trở mặt, lại có thể khiến y đội ơn, chính là thời điểm này.

Đây là suy nghĩ của Phương Ứng Khán khi đó.

Cho nên hắn lập tức ra ám hiệu, bảo Trương thị song hùng tạm thời thay đổi kế hoạch, cứu Quan Thất đi.

Vì vậy bọn hắn mới thả ra “sương độc”.

Phương Ứng Khán âm thầm tự mình hành động, cướp đi Quan Thất.

Thế nhưng hắn vẫn không thể khống chế được Quan Thất.

Thần trí của Quan Thất lúc tốt lúc xấu, nhưng lại không chịu nhận phục, cũng không chịu làm việc cho người khác.

Phương Ứng Khán đã không điều khiển được Quan Thất, lại cảm thấy người này vẫn có điểm lợi dụng được, cho nên cũng không đành giết y.

Thế là Quan Thất trở thành “vấn đề khó giải quyết” của Phương Ứng Khán.

Phương Ứng Khán không thể khống chế Quan Thất, khiến cho hắn đặc biệt cảm ngộ và cảm nhận được, muốn độc bá thiên hạ, tự lập thành vương, hơn nữa nắm được đám thế lực triều đình cổ hủ Mễ Thương Khung, vậy thì phải không ngừng cố gắng.

Nếu có tuyệt thế võ công của Quan Thất, còn chuyện gì không thể hoàn thành.

Vì vậy hắn chuyển hướng sang tuyệt thế võ công của Nguyên Thập Tam Hạn, “Thương Tâm tiểu tiễn”.

Hắn phải có được “Sơn Tự kinh”, cũng phải lấy được “Nhẫn Nhục thần công”.

Hắn mưu tính sâu xa, không chừa thủ đoạn để lấy được những bí quyết võ thuật này.

Hắn đã quên mất Quan Thất, để mặc Quan Thất si, để mặc Quan Thất cuồng.

Mà lúc này, Trương Liệt Tâm và Trương Thiết Thụ lại bị người khác “mua chuộc”.

Lần này người “mua chuộc” bọn hắn là Thái Kinh.

Lúc đó Thái Kinh vẫn ngồi trên vị trí thừa tướng, trên dưới cả nước, hắn chỉ dưới một người mà trên vạn người, quyền to thế lớn, không ai sánh bằng.

Hắn rất cần một số tâm phúc quen thuộc với tổ chức nội bộ của Kim Phong Tế Vũ lâu, Lục Phân Bán đường, Mê thiên Thất thánh minh và tập đoàn Hữu Kiều.

Hoặc có thể nói là “nội ứng”.

Căn cứ theo tin tức mà Tôn Thu Bì cung cấp, Mạc Bắc Thần và Thiết Thụ Khai Hoa đều là nhân tuyển rất tốt.

Mạc Bắc Thần nắm giữ trọng binh Bát Bì Phong, có ảnh hưởng lớn đối với quần hùng và đại cục. Người này ban đầu là thân tín của Tô Mộng Chẩm, sau khi Tô thất thế, hắn không tuân theo Bạch Sầu Phi điều động, lại gia nhập Lục Phân Bán đường, trở thành thủ hạ của Lôi Thuần.

Nói cách khác, Mạc Bắc Thần rất quen thuộc với tổ chức của Kim Phong Tế Vũ lâu và Lục Phân Bán đường. Hơn nữa theo đạo lý, Mạc Bắc Thần đã có thể bị Lôi Thuần và Địch Phi Kinh mua chuộc, phản bội Kim Phong Tế Vũ lâu, vậy chỉ cần có thể đánh động hắn, nói không chừng cũng có thể phản bội Lục Phân Bán đường, trở thành tâm phúc của mình.

Chỉ có điều, khi đó Thái Kinh đã âm thầm kết minh với Lục Phân Bán đường, cũng không tiện công khai đục khoét chủ tướng trong “Hữu minh” của mình.

Vì vậy hắn lại chuyển hướng sang Trương Thị Song Hùng.

Trương Liệt Tâm và Trương Thiết Thụ xuất thân từ Mê Thiên minh, hơn nữa đã thăng tiến làm thánh chủ, sau đó trở thành một trong những hộ pháp của tập đoàn Hữu Kiều tiếp cận Phương Ứng Khán nhất, hai người này là nhân vật “nhất định phải giành”.

Bởi vì Phương Ứng Khán và Mễ Thương Khung là nhân vật nửa triều đình, nửa giang hồ, cho nên tất cả hành động của bọn họ vẫn phải được Thái Kinh che chở và ngầm đồng ý. Chỉ có điều, Thái Kinh luôn luôn khôn ngoan cẩn thận, tai mắt đông đảo, dần dần phát hiện tập đoàn Hữu Kiều cánh chim đã mạnh, hơn nữa dã tâm không nhỏ, chí hướng cũng lớn. Đám người Thái Kinh, Vương Phủ, Chu Miễn, Đồng Quán, Lương Sư Thành trong lòng đều biết rõ ràng, hơn nữa những người này đều có thế lực riêng, cũng vừa lúc dựa vào lực lượng võ lâm của tập đoàn Hữu Kiều để kiềm chế thực lực của đối phương.

Do đó Thái Kinh cũng không tiện công khai trừ khử tập đoàn Hữu Kiều, nhưng khi muốn “trưng dụng” người dưới trướng tập đoàn, chỉ cần tìm đại một cái cớ cũng không có gì bất tiện.

Thế là Trương Liệt Tâm và Trương Thiết Thụ bị người của đảng Thái Kinh “trưng dụng”. Hai Trương cũng không phải kẻ ngốc, dĩ nhiên biết loại người như Phương Ứng Khán và Mễ Hữu Kiều sẽ không chứa chấp thủ hạ từng phản bội tập đoàn thờ hai chủ, do đó một khi bị “trưng dụng”, sau này cũng không có bao nhiêu “cỏ đầu tường” để ăn (không thể gió chiều nào theo chiều nấy).

Có điều đối với hai người Thiết Thụ Khai Hoa, bị “điều động” thành thủ hạ làm việc cho Thái Kinh, chính là “đổi sang đầu minh chủ”, là một chuyện rất có tiền đồ.

Nguyên nhân quả thật đơn giản, bởi vì Thái Kinh càng có quyền, cũng càng có thế, bọn hắn nương nhờ Thái Kinh càng có “tiền đồ gấm vóc”.

Điều này vốn phù hợp tâm nguyện trước giờ của bọn hắn.

Sống sót và sống tốt hơn, nhất định phải trả giá thật lớn.

Đối với loại người như Thái Kinh, quyết sẽ không dùng người không hữu dụng với hắn.

Muốn biểu thị mình “hữu dụng” thì phải có cống hiến.

Thủ hạ của Thái Kinh rất nhiều người giỏi, việc mà Trương Thị Song Hùng có thể “cống hiến” thật sự không nhiều lắm.

Phương Ứng Khán luôn là một người đa nghi, hắn phòng thủ mình đến mức “giọt nước không lọt”, Mễ Thương Khung càng là một lão hồ ly, hai Trương muốn “bán rẻ” bọn họ, e rằng cũng không có gì để “bán”.

Bọn hhắn không “bán” được tiểu hầu gia và lão thái giám, đành phải “bán” Quan Thất.

Quan Thất vẫn sống, cũng vẫn điên khùng.

“Lạc Phượng Trảo” Trương Liệt Tâm và “Vô Chỉ Chưởng” Trương Thiết Thụ liền “tố cáo” với Thái Kinh chuyện Quan Mộc Đán bị Phương Ứng Khán “giấu đi”.

Thái Kinh nghe nói tuyệt thế võ công của Quan Thất không tầm thường, hắn quyết định phải “chiếm lấy để mình sử dụng”.

Nếu như không dùng được, ít nhất cũng khiến cho hai người Phương, Mễ không thể dùng.

Đây là suy nghĩ của Thái Kinh, cũng là tác phong của hắn.

Thứ mà hắn chiếm không được, người khác cũng đừng hòng chiếm.

Hắn đã “đánh cắp” Quan Thất.

“Hành động” này đương nhiên là do “hai Trương” chấp hành.

Lúc này Thiết Thụ Khai Hoa đã hiểu rõ tính tình của Quan Thất, huống hồ lúc trước hạ độc, thần chú và cấm chế, đến nỗi thần trí của Quan Mộc Đán càng ngơ ngẩn, cũng là kiệt tác của hai người bọn hắn, cho nên bọn hắn đã dần dần có thể nghiên cứu pháp môn khống chế tuyệt thế cao thủ này.

Nếu không phải lúc này Lục Phân Bán đường cố ý cản trở, hai người Trương Liệt Tâm có thể đã thành công khống chế Quan Thất, phục vụ cho Thái Kinh.

Đây chính là một công lao to lớn.

Đáng tiếc Lôi Thuần lại bày kế sai Ngô Kinh Đào “dẫn” Quan Thất đi. Lúc đó Thái Kinh lại đang thất thế, chỉ cầu tự bảo vệ mình, không thể quan tâm đến chuyện khác, hai người Trương Thiết Thụ cũng chỉ đành bó tay.

Cho đến tối nay.

Tối nay ánh trăng rất đẹp.

Nhưng tâm tình của hai người Trương Liệt Tâm và Trương Thiết Thụ lại rất xấu.

Nếu không phải Lôi Thuần cố ý cản trở, lợi dụng “linh lực đặc biệt” của Kinh Đào Thư Sinh “cướp” Quan Thất đi, có lẽ Quan Thất đã sớm bị hai người bọn hắn khống chế rồi.

Có thể thao túng một nhân vật giống như Quan Thất, đương nhiên còn có phân lượng và lực lượng lớn hơn so với mười vạn đại quân.

Đáng tiếc Quan Thất đã bị “đánh cắp”.

Bọn hắn khó khắn lắm mới tìm được tung tích của y.

Đương nhiên bọn hắn cũng được Thái Kinh âm thầm gợi ý, tối nay mới có thể dắt tay nhau xông vào nhà cũ của Tư Mã Ôn Công, dùng cứng chọi cứng muốn “cướp đi” Quan Thất.

Thái Kinh thất thế, tĩnh đến cực điểm sẽ chuyển thành động. So với trước kia, hắn càng cần có cao thủ võ lâm giúp hắn nổi dậy và trở lại.

Cho nên hắn nghĩ đến Quan Thất, bởi vì trên giang hồ hiếm người có thể sánh được với Quan Thất.

Hắn tuy không tại vị, nhưng vẫn ngầm nắm quyền.

Lời của hắn chính là mệnh lệnh.

Có một số người cho dù thất thế và thất ý, nhưng vẫn có điểm khiến người ta tôn kính, khâm phục và sợ hãi. Giống như một con cọp, cho dù không còn răng nhọn và vuốt sắc, nhưng dù sao nó vẫn là một con cọp, sát uy vẫn còn. Huống hồ, những người như Trương Thiết Thụ và Trương Liệt Tâm vốn chính là móng và răng của hắn.

Thiết Thụ Khai Hoa đã nương nhờ Thái Kinh, đương nhiên hi vọng hắn có thể lấy lại uy phong lúc trước. Chỉ khi chủ nhân cầm quyền đắc thế, hô mưa gọi gió, kẻ làm nô tài mới có thể hung hăng ngang ngược, nhe nanh múa vuốt.

Thái Kinh thất bại một lần khiến Thiết Thụ và Liệt Tâm thất vọng. Bọn hhắn vốn cho rằng nương nhờ đảng Thái Kinh là tốt nhất, trong thiên hạ có nơi nào muốn làm gì thì làm, nở mày nở mặt hơn làm môn hạ của Thái tướng? Cho dù là được hoàng đế lão tử khen ngợi, có lẽ cũng không bằng lấy được sủng ái và vinh quang từ Thái tướng.

Đáng tiếc, ngay cả chỗ dựa hùng mạnh như vậy cũng nói rơi đài là rơi đài.

Mặc dù đài đã sụp, nhưng con sâu trăm chân, chết mà không ngã. Thái Kinh chỉ ẩn nhẫn, bè đảng phe cánh vẫn trải khắp triều đình và dân gian, chỉ chờ lão nhân gia ông ta ra lệnh.

Thái Kinh bề ngoài là lui xuống, nhưng thực ra lại đang gióng trống khua chiêng, chấn chỉnh cờ trống. Khi trở lại, hắn sẽ có đầy đủ thực lực để không ai có thể khiến hắn lui xuống lần nữa.

Trong đó một mục bồi dưỡng “thực lực” chính là chiêu mộ cao thủ võ lâm.

Chiêu mộ mua chuộc cao thủ võ lâm tương trợ, trong số đó đối tượng giành giật dĩ nhiên là Quan Thất.

Thái Kinh cũng mặc kệ ý trời thế nào, hắn chỉ nắm chắc dã tâm và mục tiêu của mình, ý tứ của hắn chính là vô ý.

Bởi vì ý trời thực ra là do lòng người tạo thành.

Thiên uy khó dò, nhưng đối với một người từng chung sống với hoàng đế Triệu Cát trong thời gian dài như hắn, ý chỉ của “con trời” này cũng không có gì khó đoán.

Hắn nhận định Triệu Cát mặc dù có lòng thay đổi, nhưng cũng không có nghị lực kiên trì, sớm muộn gì cũng sẽ tìm hắn quản lý việc triều chính, để hoàng đế chỉ lo chơi đùa mà không màng chính sự này tiếp tục phong lưu khoái hoạt, hưởng thụ tiên phúc nhân gian.

Chỉ hắn mới có thể làm được chuyện này giúp hoàng đề, bởi vì hắn đã nhìn thấu đạo quân hoàng đế này.

Cho dù hoàng đế thề thốt tuyên bố muốn cải cách thay đổi, đến cuối cùng nhất định sẽ thay đổi không lớn, càng không triệt để.

Bởi vì không đổi được.

Triệu Cát muốn chỉnh đổn triều cương, tội phạm đầu điên tội ác tày trời là chính bản thân hắn.

Hắn muốn làm cách mạng, trước tiên phải trử khử chính mình.

Người thật sự cùng hắn răng môi gắn bó, thậm chí môi hở răng lạnh chính là Thái Kinh.

Bởi vì bọn họ cùng nhau phạm lỗi, phạm tội, phạm thượng, chiếm đoạt tất cả sinh mệnh tài phú của quốc gia bách tính, triều đình vạn dân, để cho cá nhân bọn họ hoặc một nhà một tộc hưởng lạc.

Bọn họ là đồng loã đồng mưu, cũng là cá mè một lứa.

Triệu Cát muốn cải cách, nhiều nhất chỉ là xung động nhất thời, để cho thanh danh của hắn không giảm, uy danh càng lớn. Chỉ cần qua được, sớm thì năm ba tháng, chậm thì một hai năm, Triệu Cát nhất định sẽ chứng nào tật nấy, khi đó sẽ lại trọng dụng mình, quét dọn tất cả chướng ngại cho hắn.

Thái Kinh biết mình nhất định tính đúng, cho nên hắn tĩnh, tĩnh trong bình tĩnh.

Hắn biết mệnh người do trời, nhưng mệnh trời lại thường thường do hắn khống chế. Vì vậy hắn cũng mặc kệ mệnh trời do trời hay không do trời, lúc tiến thì hắn kết bè kết đảng, lúc lui thì nghỉ ngơi dưỡng sức, lấy lùi làm tiến, mưu đồ trở lại tạo nên một phen mưa gió.

Do đó hắn chỉ định phải “đoạt được” Quan Thất, nếu “đoạt” không được thì giết chết cũng được.

Hai người Trương Liệt Tâm đương nhiên cố hết sức, bọn hắn hi vọng có thể lấy lòng Thái Kinh.

Hai người Trương Thiết Thụ đương nhiên hi vọng Thái Kinh có thể đông sơn nổi dậy, hô mưa gọi gió. Cho dù khi người khác khuyên Thái Kinh nên tích cực mưu đồ trở lại nắm giữ quyền hành, hắn luôn luôn chỉ mỉm cười bày tỏ: 

- Ta đã từng hô mưa gọi gió, cũng từng gió mưa nổi dậy, nhưng hiện nay chỉ muốn cười nhìn mây gió, không có ý kéo mây làm mưa.

Nếu thật sự như vậy, đó là điều Thiết Thụ, Khai Hoa không muốn thấy nhất.

Sau khi Mê Thiên minh tan vỡ, Thiết Thụ Khai Hoa bởi vì từng có ghi chép phản bội Thất Thánh minh, với tính cách khôn khéo tỉnh táo của Phương Ứng Khán, sau khi khen thưởng quả nhiên không còn trọng dụng bọn hắn. Vì vậy trước khi Thái Kinh mua chuộc bọn hắn, bọn hắn cũng từng nghĩ đến chuyện nương nhờ Lục Phân Bán đường đang thay đổi cục diện và Kim Phong Tế Vũ lâu thực lực đang nhanh chóng gia tăng.

Có điều Trương Thiết Thụ cho rằng, Lôi Tổn đã chết, Lôi Mị phản bội, Lôi Động Thiên bị thương chưa lành, nguyên khí đại thương, Địch Phi Kinh nửa tàn nửa phế, Lôi Thuần chỉ là một cô gái yếu đuối, muốn chủ trì đại cục e rằng năng lực không đủ, tiền đồ viễn cảnh của Lục Phân Bán đường không hề sảng sủa.

Vì vậy Trương Thiết Thụ kiên quyết không gia nhập Lục Phân Bán đường.

Trương Liệt Tâm vốn có ý nương nhờ Kim Phong Tế Vũ lâu. Nhưng không lâu sau, Bạch Sầu Phi tạo phản, ép Vương Tiểu Thạch rời đi, sau đó ám sát Tô Mộng Chẩm, khiến Phong Vũ lâu rơi vào nội chiến, cuối cùng Tô Bạch đều chết, Vương Tiểu Thạch một mình làm chủ lâu, tháp, hai đường cùng tiến. Trương Liệt Tâm lại rất không thích tác phong làm việc của Vương Tiểu Thạch, cho nên thà chết cũng không chịu gia nhập Kim Phong Tế Vũ lâu.

Nguyên nhân mà hắn không thích Vương Tiểu Thạch rất đơn giản trực tiếp, từ cái tên “Vương Tiểu Thạch” hắn đã rất ghét người này rồi.

Chính hắn cũng không rõ nguyên nhân trong đó, cho đến một ngày, Trương Thiết Thụ cười đùa nói với hắn: 

- Ta thấy con người Vương Tiểu Thạch này cũng không đến mức đáng ghét như thế. Ngươi căm ghét hắn như vậy, hóa ra là vì cái tên của hắn.

- Tên của hắn?

- Hắn tên là Vương Tiểu Thạch, còn kẻ thù hại ngươi nhà tan cửa nát lại tên là Vương Tiểu Thất.

Một lời thức tỉnh người trong mộng.

Nói như vậy cũng đúng.

Nhưng dù thế nào Trương Liệt Tâm vẫn không thích Vương Tiểu Thạch.

Duyên phận giữa người và người có lúc rất kỳ quái, thú vị. Có một số người, ngươi sẽ thích y mà không hề có lý do, thế nhưng có một số người, ngươi vừa nhìn thấy thì đã rất ghét.

Do đó Trương Liệt Tâm không chịu gia nhập Kim Phong Tế Vũ lâu. Điều này lại vừa lúc trái ngược với đám người Đường Bảo Ngưu và Phương Hận Thiếu, bọn họ là vì Vương Tiểu Thạch nên mới gia nhập Kim Phong Tế Vũ lâu.

Có thể trong đó còn nguyên nhân khác.

Trương Liệt Tâm là vì căm hận đại cừu nhân “Tiểu Bá Thiên” Vương Tiểu Thất khiến cho hắn nhà tan cửa nát. Còn Phương Hận Thiếu và Đường Bảo Ngưu lại có một đại ca kết nghĩa Thẩm Hổ Thiền rất kiên cường dũng mãnh, tuy bọn họ rất tôn sùng “lão đại” tài giỏi này, nhưng sự ôn hòa thân thiết, bình dị gần gũi của Vương Tiểu Thạch, lại là những điều không có trong tác phong nghiêm khắc rắn rỏi của Thẩm Hổ Thiền.

Đây vốn là một chuyện kỳ quái.

Duyên phận vốn là chuyện hợp tình không hợp lý.

Có người bởi vì nguyên nhân này mà thích y, cũng có người bởi vì nguyên nhân đó mà hận y; thậm chí là cùng một người, bởi vì cùng một nguyên nhân mà hôm nay hận y, ngày mai lại thích y, hoặc là hôm nay thích y, ngày mai lại hận y.

Trương Thị Song Hùng vì muốn “trèo lên”, có một dạo từng gia nhập bảy, tám bang hội, cũng từng gia nhập tiêu cục, làm đến chức phó tổng tiêu sư, thậm chí cũng có một dạo cầm cương cho “Tiếu Kiểm Hình Tổng” Chu Nguyệt Minh, đánh xe cho Phương tiểu hầu gia Phương Ứng Khán, đến cuối cùng bọn hắn vẫn làm việc dưới trướng Thái Kinh, hơn nữa vẫn phụ trách chuyện theo dõi Quan Thất. Bất kể bọn hắn ở hình bộ (giám thị Quan Thất), Mê Thiên minh (hầu hạ Quan Thất), tập đoàn Hữu Kiều (ép buộc Quan Thất) hay là đảng Thái Kinh (khống chế Quan Thất ), kết quả và đối tượng đều như nhau.

Do đó, hai người bọn hắn tất nhiên là vừa hận vừa thích Quan Thất, thậm chí có thể nói số mệnh của bọn hhắn là thành cũng Quan Thất, bại cũng Quan Thất.

Bọn hắn khó khăn lắm mới từ các dấu vết dò xét được nơi Lục Phân Bán đường cất giấu Quan Thất.

Bởi vì bọn hắn hiểu rõ tính tình của Quan Thất, cho nên đã đưa ra hai kết luận.

Thứ nhất, Lục Phân Bán đường ép buộc Quan Thất, mục đích chủ yếu nhất đương nhiên là muốn lợi dụng y.

Lợi dụng võ công, thân phận và sức ảnh hưởng của y.

Cho dù Mê Thiên minh hiện nay đã chia năm xẻ bảy, nhưng vẫn nắm giữ không ít thế lực tàn dư trên giang hồ, trong phố phường, hai đạo hắc bạch. Giống như đám người trung thành Trần Trảm Hòe, Lệ Tiêu Hồng vẫn đang mài giáo chờ sáng, chỉ chờ một tiếng hiệu lệnh của Quan Thất.

Nếu muốn lợi dụng một Quan Thất đã hoàn toàn điên cuồng, đó là chuyện không phân địch ta, chẳng có chút ý nghĩa nào, hơn nữa còn tương đối mạo hiểm.

Muốn lợi dụng Quan Thất, nhất định phải áp chế trạng thái điên cuồng của y.

Theo bọn hắn nói, Quan Thất cũng không phải hoàn toàn phát điên, y chỉ là si.

Y si một nữ nhân.

Nữ nhân này là ai, bọn hắn cũng không xác định, chỉ biết Quan Thất thường nhắc tới hai chữ “Tiểu Bạch”.

Tiểu Bạch, Tiểu Bạch, Tiểu Bạch, Tiểu Bạch…

Đó hẳn là tên của một người, hơn nữa theo suy đoán còn là tên của một nữ nhân. Y thường đi tới một số nơi đặc biệt, ở nơi đó sinh sống, điều tức, thổ nạp, vận công, những lúc đó thần trí của y nhất định tỉnh táo hơn nhiều, thậm chí hành động giống như người thường.

Hơn nữa võ công năng lực cũng đạt tới đỉnh cao, khiến người ta cảm thán.

Thế nhưng võ công của y càng cao, lại càng si, càng lẩm bẩm tên của người kia.

Tiểu Bạch, Tiểu Bạch…

Tiểu Bạch là ai?

Ai là Tiểu Bạch?

Ở thành cổ Lạc Dương phương xa, thật sự có một vị “Hắc Toàn Phong” Tiểu Bạch danh chấn giang hồ.

Nhưng người mà Quan Thất tưởng niệm quyết không thể là y.

Bởi vì y là một nam nhân.

Hơn nữa căn cứ theo điều tra của hai Trương, Lạc Dương Tiểu Bạch vốn chưa từng gặp Quan Thất, mà trong đời Quan Thất cũng chưa từng tới Lạc Dương, đối với Tiểu Bạch không quen không biết, thậm chí nghe đến dạnh hiệu “Hắc Toàn Phong” cũng hoàn toàn thờ ơ.

Vì vậy, Thiết Thụ và Liệt Tâm chuyển trọng tâm điều tra sang chữa trị Quan Thất (hoặc ít nhất khiến Quan Thất không điên như vậy), liền phát hiện khi Quan Thất đến những nơi như sơn động tinh thạch, hầm mỏ, miệng núi lửa, miếu đường, nhà cổ, di tích cổ, thậm chí là nhà cũ của danh nhân liệt sĩ năm xưa, “bệnh” của y đều sẽ “tốt” lên một cách thần kỳ.

Quan trọng hơn là công lực còn tăng mạnhu.

Một người say mê võ học, thanh tỉnh nhưng lại không hoàn toàn tỉnh táo, võ công lại cao tuyệt như vậy, đây chính là thời khắc tốt nhất, thời cơ tuyệt với để khống chế y.

Dưới sự giám sát của hình bộ, Phong Vũ lâu, đám người Thái Kinh và các lộ tàn quân của Mê Thiên minh, Lục Phân Bán đường muốn đưa một người kiêu ngạo ngang ngược như Quan Thất ra khỏi kinh sư e rằng không dễ.

Cho nên Quan Thất rất có thể đang ở trong kinh.

Đại ẩn ở trong chợ.

Trong thành, địa phương đặc biệt như vậy cũng không quá nhiều, quá phức tạp.

Thiết Thụ, Khai Hoa lập tức thu hẹp phạm vi tìm kiếm.

Thứ hai, suy đoán một vấn đề.

Chỉ cần trả lời được vấn đề này, sẽ có thể tìm ra manh mối của Quan Thất.

Vấn đề rất đơn giản, trong kinh thành ngoại trừ Khai Hoa, Thiết Thụ, còn ai có thể giải cấm chế điên khùng si ngốc của Quan Thất?

Có mấy người, Đại Thạch Công, Gia Cát Tiểu Hoa, Nguyên Thập Tam Hạn, Thụ Đại Phong, cùng với một người khác.

Ngô Kinh Đào.

Hắn sở trường công pháp “Hoạt Sắc Sinh Hương”, dùng tinh thạch linh lực luyện được kỳ công cái thế, nói không chừng có thể tạo ra một loại từ trường, niệm lực, khiến Quan Thất thần trí ổn định, nhưng vẫn bị hắn khống chế.

Gia Cát Tiểu Hoa không tìm Quan Thất.

Y dường như không liên quan đến chuyện này, thậm chí cũng không muốn nhúng tay vào. Dù sao y cũng có thân phận thái phó, cộng thêm thống lĩnh đại nội cấm quân, thủ hạ có Tứ Đại Danh Bổ, luôn coi trọng thân phận, không tiện dính dáng quá nhiều đến đấu tranh của võ lâm.

Quan Thất không chỉ là người võ lâm, hơn nữa tuyệt đối là một kiêu hùng.

Gia Cát Chính Ngã là người từng trải, dĩ nhiên hiểu được đạo tiến lui. Y tranh đấu với những nhân vật như Thái Kinh, Vương Phủ, Lương Sư Thành, đương nhiên rất hiểu cách sống.

Những chuyện như vậy, phần lớn y đều không để ý đến.

Đại Thạch Công là chí giao của y, cũng là người thuộc phe cánh Gia cát tiên sinh.

Đại Thạch Công hẳn là cũng không liên quan đến chuyện này.

Nguyên Thập Tam Hạn đã chết.

Thụ Đại Phong đã trở thành người của Lục Phân Bán đường, bọn hắn cho rằng nên giám thị người này.

Với y thuật của Thụ Đại Phong cộng thêm công pháp của Ngô Kỳ Vinh, muốn chữa trị và khống chế Quan Thất quyết không phải là việc khó.

Căn cứ vào hai điểm này, hai người Khai Hoa Thiết Thụ, một người tập trung vào “địa điểm”, một người tập trung vào “người”.

Cuối cùng đã thành công.

Bọn hắn rốt cuộc đã phát hiện Ngô Kỳ Vinh nhiều lần xuất hiện tại nhà cũ của Tư Mã Ôn Công này.

Bọn hắn cũng tìm thấy Quan Thất trong đêm trăng sáng này.

Thế là bọn họ bắt đầu đấu pháp trong nhà cổ này.

Luận về võ công, Thiết Thụ Khai Hoa đương nhiên không phải là đối thủ của Ngô Kinh Đào, nhưng Kinh Đào Thư Sinh lại phải phân tâm vì Quan Thất.

Trùng hợp, không biết là xuất xứ từ lực lượng kêu gọi gì, đã thúc đẩy Tôn Thanh Hà và Thích Thiếu Thương long tranh hổ đấu một trận trên mái hiên này.

Chuyện này khiến cho sát khí tràn ngập.

Sát khí chợt tăng.

Kiếm khí tung hoành.

Hiệp khí cao vút.

Khi “Kinh Đào Thư Sinh” Ngô Kỳ Vinh đang giao đấu với Trương Hán, Trương Uy, Quan Thất đã phá tan cấm chế, đánh vỡ mái ngói, xông lên nóc nhà.

Đồng thời cũng gặp phải đám hảo thủ hạng nhất như Thích Thiếu Thương, Tôn Thanh Hà, Chu Nguyệt Minh, Lôi Cổn, Địch Phi Kinh, Vô Tình.

Do đó, công lực của Quan Thất càng bị kích phát, đấu chí bừng lên, sát tính cũng hoàn toàn lộ ra.

Lúc này Hán, Uy và Ngô thư sinh lại hợp tác liên thủ, muốn khống chế sự điên cuồng của Quan Thất rồi tính sau, nhưng đã không còn kịp.

Quan Thất giống như phi ưng lao ra khỏi lồng, xông vào trời cao, bay lượn trên chín tầng trời, không thu lại được, không bắt về được.

Tại giây phút này, Quan Thất dùng một ngụm tên máu đánh cho Trương Thiết Thụ kêu thảm lăn xuống mái nhà, dùng mười mấy chiêu “Kinh Thần chỉ quyết” đối phó với thế công của Ngô Kinh Đào, lại dùng một chỉ “Kinh Trập” tập kích Trương Liệt Tâm.

Điều này khiến cho Trương Liệt Tâm đành phải kiên cường đối diện với một chỉ này. 

Mà một chỉ này lại khiến hắn đột nhiên nhớ tới một người, hắn vẫn luôn sợ chết trong tay người này, nhưng lại chắc chắn không thể chết trong tay người này.

Một người áo trắng bào trắng, lạnh lùng cao ngạo, chí lớn tài cao.

Bạch Sầu Phi.

Tâm muốn bay, vĩnh viễn không chết.

Chương 72 – Chiến trời đấu đất

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Đêm trăng sáng.

Trên mái cong.

Thiết Thụ Khai Hoa, Kinh Đào Thư Sinh, còn có Hắc Quang Thượng Nhân, đối đầu với Quan Thất ngớ ngẩn điên cuồng. Lúc này Quan Thất đã phát ra một chỉ về phía hán tử cao gầy che mặt Trương Liệt Tâm.

Kinh Trập.

Vừa nhìn thấy một chỉ này, Trương Liệt Tâm giống như nhìn thấy Bạch Sầu Phi cô độc trơ trọi nhưng lòng dạ độc ác, bất chợt thoáng qua trước mặt hắn.

Không biết vì sao, vừa nghĩ tới Bạch Sầu Phi, Trương Liệt Tâm lại cảm thấy lạnh người, sợ hãi.

Hắn nhất định phải giết chết người này, nếu không cuối cùng sẽ bị người này giết chết.

Hiện nay tuy người này đã chết, nhưng chỉ pháp tuyệt học của người này lại đột nhiên xuất hiện trước mắt hắn.

Hắn vừa nhìn thấy liền sợ hãi, đã mất đi đấu chí.

Đấu chí tuy mất, nhưng dục vọng cầu sinh lại mãnh liệt.

Đấu chí là cầu thắng, hắn không cầu thắng mà chỉ cầu sinh.

Hắn nhất định phải, một là sống sót, hai là sống tốt.

Hắn và huynh đệ kết nghĩa Trương Uy của hắn, suy nghĩ hoàn toàn giống nhau.

Hắn phải sống tiếp, sốt tốt, không thể chết được.

Hắn muốn vùng vẫy cầu sinh.

Trong nháy mắt này, hắn chỉ cầu bảo toàn tính mạng, trông thấy một chỉ Kinh Trập xé gió bay đến, lập tức thi triển Lạc Phượng chưởng, năm ngón tay như bông tơ chụp lấy chỉ kình.

Bắt trúng.

Một tiếng “phụp” vang lên, mu bàn tay của hắn đã bị chỉ kình xuyên qua.

Nguyên lai công lực của Lạc Phượng chưởng chỉ cần vận công vào bàn tay, tay mềm như tơ, đao cắt không đứt, thương đâm không vào, thế nhưng bàn tay của hắn chỉ cần dính vào người kẻ địch (bất kỳ bộ phận nào), nơi trúng chiêu xương cốt sẽ lập tức mềm nhũn, hơn nữa từ nơi đó bắt đầu lan ra, cho đến khi xương đầu cũng mềm.

Vì vậy, người trúng phải Lạc Phượng chưởng thông thường sẽ mềm ra giống như một vũng bùn, giống như băng tuyết vừa tan chảy, hoặc giống như một phôi thai nguyên hình, nhưng nhất thời vẫn không chết, vùng vẫy cầu sinh, cuối cùng vẫn không thoát khỏi cái chết.

Thế nhưng một chỉ cách không này của Quan Thất lại phá tan mu bàn tay của hắn, từ lòng bàn tay xuyên ra ngoài, vẫn bắn vào cổ họng của Trương Liệt Tâm.

May mắn ngoại trừ Lạc Phượng chưởng, Trương Liệt Tâm còn có Ngọa Long trảo.

Lạc Phượng chưởng của hắn vừa tan vỡ, Ngọa Long trảo lập tức che lấy cổ họng của mình.

Một chỉ kia của Quan Thất bắn vào lòng bàn tay của hắn.

Ngọa Long trảo vốn là một loại ngoại gia quyền pháp rất cứng rắn dũng mãnh, nhưng Trương Liệt Tâm lại hoàn toàn biến nó thành nội gia quyền để tu luyện. Một khi trảo tấn công, móc thẳng vào mười hai đại tử huyệt trên thân người. Trương Khai Hoa luyện đến mức cao siêu, cao cường, hắn xuất trảo càng tàn độc, không phải móc cổ họng thì là móc mắt.

Không chỉ đối địch với nam giới hắn mới dùng loại chiêu số ác độc này, ngay cả đối phó với nữ nhân cũng không ngoại lệ.

Càng đáng sợ là hắn luyện cả hai loại công lực chưởng, trảo này đến mức chính hắn cũng biến thành bất nam bất nữ, tình trạng sinh lý này lại ảnh hưởng đến tình trạng tâm lý, khiến cho hắn xuất thủ càng ác độc. Hơn nữa khi người khác giao thủ với hắn, cho rằng khi hắn ra tay chỉ cần ngăn cản được là xong, nhưng Ngọa Long trảo của hắn lại có thể xuyên qua bất kỳ chướng ngại nào, dùng nội kình truyền vào trong cơ thể đối thủ, lại từ chỗ hiểm nổ tung, hiệu quả không khác gì đối phương trúng phải một trảo thật sự.

Nói cách khác, Ngọa Long trảo của hắn đã dung hợp Lạc Phượng chưởng kình, chỉ cần ngưng tụ nội lực vào bàn tay, thậm chí không cần thật sự chụp trúng đối phương, cũng có thể gây ra vết thương chí mạng đối với kẻ địch.

Trảo kình của hắn thi triển, có thể toàn diện vận hành trong phạm năm thước xung quanh bàn tay, đầu ngón tay.

Cũng tương tự, một chỉ này của Quan Thất bắn tới, căn bản còn chưa đến sát bàn tay của hắn, có lẽ đã bị trảo chưởng chí nhu, chí âm, chí độc, chí ác của hắn hóa giải.

Hóa giải sao?

Không tác dụng.

Một tiếng “xẹt” vang lên, chỉ kình phá tan trảo kình, bắn vào lòng bàn tay. Máu bắn ra, bàn tay của Trương Liệt Tâm lại xuất hiện một lỗ máu.

May mắn Trương Liệt Tâm tuy liên tục bị thương, nhưng hắn phản ứng cực nhanh, đột nhiên ngửa cổ về phía sau, giống như trước mặt trúng phải một quyền, ngửa mặt lên trời ngã xuống.

Hắn vừa ngã, một chỉ kia của Quan Thất quả nhiên đã bắn trật.

May mắn là hắn tránh nhanh.

May mắn là hắn tinh thông Ngọa Long trảo và Lạc Phượng chưởng, trước đó đã ngăn cản chỉ của Quan Thất, mới kịp ngửa cổ tránh khỏi một chỉ lấy mạng này.

Bởi vì ngửa cổ vội như vậy, mạnh như vậy, hắn có thể cảm nhận được một cách rõ ràng cổ của mình đã bị thương gân.

Trong nháy mắt này, mặc dù nguy hiểm, nhưng trong đầu hắn vẫn lướt qua một ý nghĩ thú vị.

Không biết Địch Phi Kinh vẫn không ngẩng đầu lên, là vì xương cổ của y đã gãy, hay là giống như mình, vì nóng lòng cứu mạng thoát thân nên bị thương gân cổ.

Đau.

Đau nhói.

Cảm giác đau đớn khiến Trương Liệt Tâm rất tỉnh táo.

May mắn, cũng nhờ tỉnh táo nên phản ứng của hắn càng nhanh.

Nhìn thấy động tác ngửa đầu của hắn, có người ở dưới không nhịn được khen hay một tiếng.

Tiếng khen ngợi kia không phải do Địch Phi Kinh phát ra.

Cũng không phải đến từ Thích Thiếu Thương trên ngói nhà.

Càng không phải là Tôn Thanh Hà đang đứng sóng vai với Thích Thiếu Thương.

Thậm chí cũng không phải là Vô Tình trong kiệu.

Chu Nguyệt Minh trên ngựa cũng không lên tiếng, hắn chỉ cười híp mắt nhìn trận chiến trên nóc nhà, chỉ pháp đại phát thần uy của Quan Thất.

Ngay cả Ngô Kỳ Vinh cũng không kêu.

Hắn kêu không nổi, bởi vì Quan Thất dùng một chỉ tấn công Trương Liệt Tâm, cũng tấn công hắn mười sáu, mười tám chỉ, hắn đã ứng phó đến luống cuống tay chân.

Hắn vốn là một người nhiều mồ hôi, hiện giờ mồ hôi đã nhanh chóng ướt đẫm y phục.

Bình thường hắn vừa chiến đấu với người khác, vừa dùng khăn lau mồ hôi trên mặt. Hiện giờ hắn đã tự lo không xong, đâu còn tâm tình chú ý đến mồ hôi. Chỉ thấy mồ hôi hột đã hoàn toàn dính trên mi, mí mắt, có hạt còn chảy vào trong hốc mắt. Kinh Đào Thư Sinh đã không kịp lau, cho dù chỉ dùng tay không vuốt một cái cũng không được.

Người kêu lên cũng không phải Tôn Ngư, hắn đang nhìn đến mức gần như nín thở.

Đương nhiên cũng không phải Lôi Cổn, bởi vì hắn không dám kêu.

Dĩ nhiên cũng không phải là Dương Vô Tà.

Loại người như Dương Vô Tà luôn xử sự bình tĩnh, trời có sụp xuống cũng chưa chắc y sẽ biến sắc.

Người lên tiếng lại là tên “canh phu” đang ở trong bóng tối, ngoài đường dài, trước đầu ngõ hẻm.

Hắn kêu lên một tiếng:

- Hay!

Hắn thất thanh kêu lên.

Có lẽ, nếu như người thi triển một chiêu này là Ngô Kinh Đào hoặc là cao thủ đồng cấp, “canh phu” kia hiển nhiên sẽ không kêu lên một tiếng này.

Một chiêu này biến hóa, tìm sống trong cái chết, liều mình trong nguy hiểm, ứng biến kịp thời, thật sự khó mà làm được.

May mắn Trương Liệt Tâm có một chiêu này, nếu không hắn nhất định phải chết.

Nhưng hắn có một chiêu này cũng vô dụng, bởi vì người mà hắn ngăn cản là Quan Thất.

Quan Thất phát ra một chỉ với hắn, thứ mà hắn ngăn cản là Kinh Trập, một trong số chỉ pháp thành danh của Bạch Sầu Phi.

Chỉ kình bắn trật, lại ở trên trời phát ra ba tiếng vang trầm “bụp bụp bụp”, giống như pháo hoa bắn lên trời đêm nổ tung một chuỗi, chỉ kình lại không biến mất.

Nó chỉ lượn một vòng, phát ra một tiếng “sưu”, từ giữa không trung bắn xuống.

Nó vẫn truy kích Trương Liệt Tâm, vẫn bắn thẳng vào cổ họng của hắn.

Một chỉ này giống như âm hồn không tan, như ruồi bu thi thể, quấn chặt lấy Trương Liệt Tâm.

Ngay cả thần sắc trên mặt Quan Thất, dường như cũng vui vẻ vì một chỉ của mình thi triển một cách tùy tâm tùy ý.

Trương Liệt Tâm xong rồi.

May mắn Trương Liệt Tâm là một người ứng biến lanh lợi và phản ứng cực nhanh.

Hắn kêu lên một tiếng, hai tay đánh trả, thân hình đã rơi xuống.

Phía dưới là nóc nhà, song chưởng của hắn phản kích chính là đánh vào trên ngói nhà.

Một tiếng “ầm” vang lên, cả mảng ngói sụp xuống.

Mặc dù hai loại chưởng công ác độc Ngọa Long, Lạc Phượng của hắn đã bị “chỉ pháp Bạch Sầu Phi” của Quan Thất phá tan, nhưng lúc này khi cầu sống hắn đã ngưng tụ công lực cả đời, không thể xem thường được.

Những tiếng rào rào liên tục vang lên, trong gạch ngói tung tóe, Trương Liệt Tâm đã rơi vào trong nhà lớn kia.

Nóc nhà lại sụp xuống một mảng lớn, nếu không phải kiến trúc cổ xưa này được xây dựng bằng nguyên liệu tốt, cộng thêm trình độ và nội tình của chủ nhà Tư Mã Ôn Công, có lẽ căn nhà này đã không đứng vững được nữa.

Ngói vụn văng tung tóe.

Nóc nhà thủng một lỗ lớn, giống như trời còn chưa sụp thì đất đã nứt rồi.

Đối với Trương Liệt Tâm, đây chính là thời cơ cầu sinh tốt nhất, cuối cùng, cũng không thể bỏ lỡ được.

Hắn lập tức lăn xuống.

Trong tiếng “rầm rầm” còn xen lẫn một tiếng “xoẹt”, sau đó là một tiếng vang trầm như có như không, giống như ẩn chứa rất nhiều bất cam và bức bối không thể phát tác ra.

Nhưng trong trận chiến thảm liệt chấn động lòng người trên nóc nhà, không ai kịp chú ý đến những thông tin nhỏ bé này, cũng không ai muốn phân tâm vì những âm thanh không quan trọng này.

Dù sao Trương Liệt Tâm đã tránh được Kinh Thần chỉ.

Trong lỗ hổng của nóc nhà rất tối, bụi đất rơi xuống tràn ngập không trung, cũng không ai biết thế giới bên dưới thế nào.

Nhưng dù sao hắn vẫn còn sống, đã thoát khỏi truy kích của Quan Thất.

Chỉ cần hắn có thể sống sót, sau chiến dịch này cũng đủ khiến hắn dương danh thiên hạ, danh chấn võ lâm.

Có một số thông tin mặc dù xem ra không quan trọng, nhỏ bé không đáng kể, nhưng phía sau lại có thể tạo thành ảnh hưởng và hậu quả rất nghiêm trọng.

Giống như mắc bệnh, cho rằng chỉ ho mấy tiếng, phát ban mấy chỗ thì không cần để ý, thường thường sẽ dẫn đến bệnh nặng không thể cứu vãn, khó mà chữa trị.

Trương Liệt Tâm vừa rơi xuống ngói nhà, những người xem trận chiến đều gần như đồng thời khen ngợi một tiếng.

Với võ công của Trương Liệt Tâm, tránh được phen này quả thật không dễ dàng.

Nhưng lần này lại có một người không lên tiếng.

Đó là người điểm canh kia.

Vừa rồi hắn khen ngợi Trương Liệt Tâm vội ngửa người tránh khỏi chỉ kình, lúc này lại không nói tiếng nào, chỉ lắc lắc đầu.

Tôn Ngư cũng là một trong những người khen ngợi.

Hắn thích nhất là ứng biến, ứng biến khiến cho hắn cảm giác được mình mới là một người sống thật sự.

Cho nên hắn cũng giỏi quan sát người khác ứng biến, bởi vì nhìn người khác ứng biến mới có thể khiến cho mình ứng biến càng nhanh, càng chuẩn, càng chính xác.

Một cao thủ cho dù có võ công tuyệt đỉnh, nhưng nếu không giỏi ứng biến, hắn chỉ có thể xem là một cao thủ trung cấp. Ngược lại, một cao thủ trung cấp nếu giỏi ứng biến, thực ra chính là một cao thủ tuyệt đỉnh.

Bởi vì biết ứng biến mới biết biến chiêu.

Muốn so chiêu với người khác nhất định phải biết ứng biến.

Tôn Ngư sở dĩ khen ngợi Trương Liệt Tâm, không phải bởi vì võ công của “Trương Long Phượng” này cao đến tuyệt đỉnh. Nếu bàn về võ công, Trương Khai Hoa có lẽ còn không cao hơn hắn. Nhưng bởi vì võ công của Trương ngũ thánh chủ không tính là quá cao, lại nhờ bản năng cầu sinh mà có thể ứng biến nhanh chóng như vậy, đây mới là điều khiến hắn khen ngợi.

Hắn là một trong những người khen ngợi.

Người khen ngợi đương nhiên không chỉ có mình hắn.

Nhưng hắn vừa khen ngợi, vừa lưu ý đến “động tĩnh” của những người khác, đây cũng là một trong số sở trường của hắn.

Có một số người trời sinh có thể “phân tâm làm nhiều việc”, hơn nữa có thể “cùng lúc nghĩ nhiều chuyện”.

Trước kia Vương Tiểu Thạch trọng dụng Tôn Ngư, chính là nhìn trúng và coi trọng điểm này của hắn.

Mọi người đều khen ngợi, đã xác nhận ánh mắt của hắn là đúng.

Nhưng hiển nhiên có một người khác biệt.

Trong lúc mọi người khen ngợi, y lại thở dài một tiếng.

Tiếng thở dài rất nhẹ, nhẹ như lá rụng, nhưng phân lượng lại nặng, rất nặng.

Bởi vì y là người mà Tôn Ngư rất coi trọng, Dương Vô Tà.

Sau khi Vương Tiểu Thạch rời đi, trong Kim Phong Tế Vũ lâu, Dương Vô Tà là tổng quản, đồng thời cũng là quân sư. Tôn Ngư vẫn thống lĩnh Nhất Linh Bát Công Án, phụ trách tổ chức và chấp hành nhiệm vụ.

Hai người hợp tác chặt chẽ.

Bởi vì Dương Vô Tà biết trong tay mình cần có loại người trẻ tuổi như Tôn Ngư. Với thân phận và tuổi tác của y, không thể mọi chuyện đều do y ra mặt, xung phong.

Đồng dạng, Tôn Ngư cũng biết mình không thể thiếu nhân vật như Dương Vô Tà ở phía sau giám sát, nâng đỡ. Nếu không, có một số tình cảnh, sự tình và nhân vật, không phải cứ đủ gan, đủ lực, đủ kiên quyết là có thể chống đỡ ứng phó được.

Vì vậy trong mắt hắn, phân lượng của Dương Vô Tà rất nặng.

Người này có thể nói là “nguyên lão bốn triều”.

Khi Tô Già Mạc, Tô Mộng Chẩm, thậm chí là Vương Tiểu Thạch, Thích Thiếu Thương hiện nay quản lý Kim Phong Tế Vũ lâu, Dương Vô Tà vẫn luôn giữ chức tổng quản, chủ trì Bạch lâu, quân sư và cố vấn, vững như Thái Sơn.

Ngoại lệ duy nhất là khi Bạch Sầu Phi chiếm lấy quyền hành của Kim Phong Tế Vũ lâu, y lại biến mất một cách đột ngột.

Y vẫn luôn trung thành đi theo Tô Mộng Chẩm đã sa sút thương tật, không chịu phục vụ Bạch Sầu Phi.

Điểm này Tôn Ngư tự cảm thấy không bằng.

Có điều khi đó hắn cũng không có lựa chọn khác. Nếu như hắn rời khỏi Kim Phong Tế Vũ lâu, tinh anh của Nhất Linh Bát Công Án không còn do hắn trông coi, Bạch Sầu Phi nhất định sẽ giết chết hắn. Nếu như hắn muốn ở lại Phong Vũ lâu, vậy thì phải giúp Bạch Sầu Phi huấn luyện cao thủ của Nhất Linh Bát Công Án.

Huống hồ, hắn còn phải chịu sự giám thị của Lương Hà.

Nhưng hắn đã vượt qua được.

Phương pháp mà hắn dùng là “không vội”.

Hắn không vội lật đổ Bạch Sầu Phi, vẫn dụng tâm xử lý, huấn luyện nhân tài.

Hắn không phải làm việc cho Bạch Sầu Phi, mà là giúp Kim Phong Tế Vũ lâu giữ gìn một chút nguyên khí, một đội tinh nhuệ.

Kết quả, khi Tô Mộng Chẩm trở lại, Bạch Sầu Phi mới hạ lệnh Lương Hà giết chết Tôn Ngư thì đã trễ.

Bởi vì Bạch Sầu Phi đã động sát cơ, Tôn Ngư càng vì nghĩa không chùn bước. Vào giây phút quan trọng, hắn đã dẫn Nhất Linh Bát Công Án phản bội Bạch Sầu Phi.

Trở giáo đâm một nhát, cùng với Dương Vô Tà trong ứng ngoài hợp, càng đẩy nhanh sự thất bại và diệt vong của Bạch Sầu Phi.

Nhưng tối nay hắn lại nhìn thấy Kinh Thần chỉ của Bạch Sầu Phi, chỉ pháp kinh thiên địa, quỷ thần khiếp, hơn nữa còn là do Quan Thất phát ra.

Trong đó có một chỉ Kinh Trập, Trương Liệt Tâm tránh né một cách cực khổ, mắt thấy sắp sửa không tránh khỏi, nhưng cuối cùng vẫn thoát được, cho nên hắn không nhịn được khen một tiếng.

Hắn vừa nhìn thấy chỉ pháp của Bạch Sầu Phi, lại không tự chủ sinh ra một ý nghĩ, giống như là Bạch Sầu Phi đang trở lại báo thù.

Do đó hắn thậm chí chân thành hi vọng Trương Liệt Tâm có thể tránh khỏi Kinh Thần chỉ này, giống như hắn cũng từng làm chuyện có lỗi với Bạch Sầu Phi, vì vậy đành phải đứng cùng một trận tuyến với Trương Khai Hoa.

Nhưng Dương Vô Tà lại đang thở dài.

Thở dài có rất nhiều ý nghĩa, có lúc là biểu đạt cảm khái, có lúc là ý tứ đau thương, có lúc lại là một loại biểu thị không đồng ý.

Dương Vô Tà rốt cuộc có ý gì?

Tôn Ngư không hiểu.

Hắn không hiểu liền hỏi.

- Tại sao tiên sinh lại thở dài?

- Đáng tiếc.

- Đáng tiếc cái gì?

- Đáng tiếc Trương Liệt Tâm.

- Đáng tiếc một chỉ này không giết được hắn?

- Không, đáng tiếc là một chỉ này vẫn giết chết hắn.

- Hả? Không phải cuối cùng hắn vẫn tránh khỏi sao?

- Hắn không tránh được.

- Làm sao biết?

- Quan Thất đã sớm tính chuẩn hắn sẽ tránh như vậy. Người này thật sự là một chiến thần, chiến trời đấu đất, bất kỳ hình thức chiến đấu nào đều sớm nằm trong tính toán của y. Trương Liệt Tâm vừa mới rơi xuống, một chỉ của Quan Thất bắn trật, kình đạo lại đánh vào ngói vụn văng tung tóe, mảnh ngói kia đã đánh trúng Trương Liệt Tâm, hơn nữa còn là trong nháy mắt khi hắn rơi xuống.

- Thật sự đánh trúng?

Tôn Ngư vẫn nửa tin nửa ngờ.

- Ngươi không ngại cứ đi qua xem thử.

Tôn Ngư thật sự chạy vào trong phòng, xem thử kết quả.

Nếu không thì hắn chưa hết hi vọng, nếu không thì hắn không phục.

Hắn chính là loại người trẻ tuổi này, chuyện gì cũng phải nghiên cứu đến cùng, nếu không thì không chịu phục.

Thế nhưng cuối cùng hắn vẫn phải ngưỡng mộ, trong lòng cũng đành viết một chữ “phục” đối với khả năng quan sát của Dương Vô Tà.

Hắn chạy vào trong nhà.

Đây là nhà của trọng thần tiền triều, đại nho đương thời, nhưng hiện nay đã lâu năm không được tu sửa.

Trong nhà hoàn toàn tối đen.

Tôn Ngư nhắm chuẩn nơi Trương Liệt Tâm rơi xuống, xông vào bên trong, rất nhanh hắn đã từ trong ngói vụn tìm được người này.

Người này đã chết, trên trán có một lỗ thủng, máu còn chảy ra ồ ồ.

Đích xác, trong nháy mắt khi hắn lật người rơi xuống nhà, chỉ kình bắn trật vừa lúc đánh vào một mảnh ngói vỡ, mảnh ngói bay đi, vừa lúc xuyên thủng trán của hắn.

Hắn đã chết, lúc chết cặp mắt còn trợn trừng.

Hắn chết không nhắm mắt.

Hắn rốt cuộc vẫn chết dưới chỉ pháp của Bạch Sầu Phi.

Cho dù Bạch Sầu Phi đã chết lâu ngày, hắn vẫn không thể chạy thoát một chỉ do Bạch Sầu Phi lưu lại giết hắn.

Tôn Ngư nhìn thấy liền hít một hơi dài.

Hắn biết sau này con đường mình đi theo Dương Vô Tà học tập vẫn còn rất dài, ngày tháng cũng nhiều hơn.

Chỗ Dương Vô Tà có những thứ học không hết, trí tuệ học không tận.

Hắn tháo miếng vải che mặt của Trương Liệt Tâm, thái độ rất ngưng trọng, hơn nữa dường như suy nghĩ gì đó.

Dù sao người đã chết rồi, cũng không cần che mặt nữa chứ?

Hắn yên lặng một hồi.

Sau đó hắn từ trong nhà ngẩng đầu lên, nhìn thấy bên ngoài lỗ thủng lớn trên mái ngói, đang đánh đến trời đất tối tăm, giết đến trăng sao không sáng.

Kinh Đào Thư Sinh vốn đã động thủ với Quan Thất, hiện giờ cũng không rãnh rỗi.

Toàn thân hắn phát ra mùi hương dễ chịu, tiếng vang êm tai, thậm chí lúc hai tay vung lên còn phát ra màu sắc rất xinh đẹp. Nhưng cho dù hắn có dễ nhìn, dễ nghe, dễ ngửi, Quan Thất chỉ cần tùy ý phát ra một chỉ về phía hắn, hắn sẽ lập tức luống cuống tay chân.

Thế nhưng Quan Thất cũng không đối diện với Ngô Kinh Đào, chỉ kình của y là từ sau lưng tùy ý phát ra.

Giống như chỉ bằng Ngô Kinh Đào, còn không đáng để y trực tiếp phát ra công kích.

Chỉ pháp của y từ sau lưng phát ra là Phá Sát, vẫn là độc môn chỉ pháp Kinh Thần chỉ của Bạch Sầu Phi.

Đây là một trong Tam Chỉ Đạn Thiên của Bạch Sầu Phi, Phá Sát.

Kinh Đào gặp phải Phá Sát, dĩ nhiên là ứng phó được chỗ này mất chỗ kia.

Thế nhưng Quan Thất dường như vẫn chưa thấy đủ, còn chưa thõa mãn.

Y là một người chiến trời đấu đất, xem đấu tranh là niềm vui.

Cho nên y còn đồng thời khiêu khích hai người khác, Tôn Thanh Hà và Thích Thiếu Thương.

Võ công mà y dùng lại là đao và kiếm. 

Chương 73 – Trời sinh không sợ

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Quan Thất chỉ có một tay.

Trên tay y không có đao, cũng không có kiếm.

Nhưng y sử dụng đích xác là đao, thật sự là kiếm.

Đó là đao gì? Kiếm gì?

Y sử chính là Thủ Đao, Cách Không Tương Tư đao.

Y dụng chính là Chưởng Kiếm, Lăng Không Tiêu Hồn kiếm.

Đó là đao khí và kiếm khí.

Càng quan trọng, càng đáng sợ, càng khiến người ta giật mình, chính là Tương Tư đao và Tiêu Hồn kiếm vốn là độc môn tuyệt kỹ thành danh của Vương Tiểu Thạch. 

Nhưng hiện giờ Quan Thất đều biết sử dụng, đều có thể thi triển.

Y làm thế nào học được?

Cách Không Tương Tư đao, Lăng Không Tiêu Hồn kiếm, trên tay y phát ra giống như ngựa thần lướt gió, thoải mái tự nhiên, một mặt còn dùng Phá Sát thần chỉ áp chế Ngô Kinh Đào. Đây rốt cuộc là chuyện gì? Vì sao tuyệt học hiếm có của Bạch Sầu Phi đã chết, Vương Tiểu Thạch đã chạy trốn khỏi kinh thành, tất cả đều được Quan Thất nửa điên nửa dại này thi triển ra, liên miên không dứt?

Quan Thất rốt cuộc là ai?

Y là người? Hay là quỷ?

Nếu như là người, có phải là thánh nhân hay không? Nếu như là quỷ, có phải là ma quỷ hay không?

Hay là tất cả đều không phải, y là một vị thần, chiến thần?

Chiến thần.

Người này giống như trời sinh không sợ.

Y không sợ chiến, không sợ đấu.

Y còn hiếu chiến, hiếu đấu.

Y khiêu khích Ngô Kinh Đào còn chưa đủ, lại dùng đao khí kiếm khí cực kỳ mạnh mẽ tấn công Thích Thiếu Thương và Tôn Thanh Hà.

Tôn Thanh Hà vung kiếm.

Kiếm lạnh lẽo, người kiêu ngạo.

Mỗi ánh kiếm của hắn đều giống như một tia chớp.

Hắn cao sáu thước ba, kiếm dài bảy thước ba, ánh kiếm chỉ trời, kiếm thế tàn nhẫn, hơn nữa còn ác độc.

Nguyên tắc của hắn là mỗi khi ra xuất kiếm, nhất định phải giết chết một người.

Hắn dùng kiếm, có thể được xưng là thần trong kiếm đạo, kiếm thần.

Đáng tiếc hiện giờ kiếm thần này lại gặp phải chiến thần.

Kiếm của hắn gặp phải kiếm khí của Quan Thất.

Hai hổ gặp nhau, hai kiếm tranh phong.

Nhưng kiếm của hắn có sắc đến mấy cũng là chân thực, còn kiếm của Quan Thất lại là hư không.

Thực là hữu, không là vô.

Quan Thất tiện tay phát ra, dùng vô thắng hữu, cũng vô trung sinh hữu (từ không thành có).

Tôn Thanh Hà luôn là một người tiêu sái.

Tiêu sái là một loại khí chất bẩm sinh thuộc về tính cách. Một người phải sống thoải mái mới có thể tiêu sái, mới biết tiêu sái, mới tiêu sái được.

Hắn không coi trọng danh, xem lợi như cỏ rác.

Hắn không ham quyền.

Hắn không sợ ngăn trở.

Có lẽ thứ duy nhất mà hắn coi trọng là kiếm và sắc.

Kiếm khiến cho hắn sống có ý nghĩa.

Hành kiếm đạo chính là hành hiệp đạo, đối với loại người như hắn, kiếm và hiệp là đồng nghĩa, không phân biệt, không thể phân chia.

Sắc khiến cho hắn sống có sức sống.

Sắc chính là mỹ nhân, mưu đồ và tham vọng theo đuổi nữ nhân xinh đẹp khiến cho hắn sống càng khoái hoạt, càng sinh động.

Cho nên hắn sử dụng một bộ kiếm pháp tiêu sái.

Mỗi một khắc đều tiêu sái, mỗi một chiêu đều thoải mái.

Bởi vì sự tiêu sái của hắn là trời sinh, cho nên kiếm pháp của hắn cũng tuyệt diệu tự nhiên, tự xem thanh cao, tự làm tự tạo, vượt bậc thiên hạ.

Hắn cũng là một người trời sinh không sợ.

Thế nhưng người mà hắn gặp phải là Quan Thất.

Quan Thất xuất thủ là hư không.

Một loại kiếm hư không, Lăng Không Tiêu Hồn kiếm.

Không có kiếm, chỉ có kiếm khí.

Kiếm khí chưa đến, người đã tiêu hồn.

Đó là một loại kiếm pháp của vô.

Loại kiếm pháp hư không này, mỗi một chiêu, mỗi một thức, mỗi một kiếm đều khắc chế kiếm pháp “hữu” của Tôn Thanh Hà.

Kiếm pháp của Tôn Thanh Hà dù có tiêu sái, có bất kham, có phóng khoáng, đó vẫn là kiếm pháp “hữu”, có dấu vết để tìm kiếm, có cách thức để noi theo.

Nhưng Quan Thất lại là vô, hắn không có gì cả.

Trên tay không kiếm, trên kiếm không chiêu.

Quan Thất dùng tay không tùy ý phất ra, thoải mái tự nhiên, giống như ngay cả tâm của y đều là không, vô.

Nhưng kiếm của y lại nơi nơi khắc chế kiếm của Tôn Thanh Hà, kiếm chiêu của y cũng chiêu chiêu áp chế kiếm chiêu của Tôn Thanh Hà.

Cho dù kiếm chiêu kia giống như tâm theo ý chuyển, ý theo tâm đến, nhưng đó lại đích xác là kiếm chiêu của Vương Tiểu Thạch.

Bọn họ đã từng nhìn thấy loại kiếm chiêu này.

Ít nhất, Dương Vô Tà rất quen thuộc với người dùng loại kiếm pháp này, Tôn Ngư cũng đã tận mắt nhìn thấy loại kiếm pháp này.

Vương Tiểu Thạch vốn là một người không quan tâm.

Hắn không quan tâm thắng, không quan tâm bại, không quan tâm lên, không quan tâm xuống, không quan tâm nổi, không quan tâm chìm, không quan tâm vui, không quan tâm buồn, thậm chí ngay cả sống chết cũng không quan tâm.

Chính vì hắn không quan tâm, không tính toán, tự tìm vui vẻ, không tìm phiền não, mới có thể luyện thành loại kiếm pháp tuyệt thế này. Đã không quan tâm, nhưng trong âu sầu mất hồn, ưu buồn thương tổn lại có việc nên làm, có việc không nên làm.

Một loại kiếm pháp nhìn như không nơi nương tựa, nhưng lại có tình có nghĩa.

Hiện giờ loại kiếm pháp này do Quan Thất tiện tay thi triển, mỗi chiêu lại trở thành khắc tinh của Triều Thiên Nhất Kiếm của Tôn Thanh Hà.

Kiếm trên tay Tôn Thanh Hà bắt đầu phát xanh.

Mỗi khi hắn đấu đến nhập thần, kiếm sẽ phát xanh, sắc mặt cũng như vậy.

Sắc mặt Thích Thiếu Thương lại trắng bệch, một màu trắng khiến người ta không rét mà run.

Kiếm của y lại tỏa ra ánh sáng lạnh.

Kiếm trắng bệch, trắng đến giống như băng tuyết trong suốt.

Lần này, không chỉ Tôn Thanh Hà gặp phải khắc tinh của kiếm pháp của mình, ngay cả Thích Thiếu Thương cũng gặp phải địch thủ cực kỳ mạnh mẽ.

Chỉ có điều, thứ mà Quan Thất dùng để đối phó với y không phải kiếm, mà là đao.

Không phải kiếm chiêu, mà là đao pháp.

Thích Thiếu Thương vốn sử dụng một loại kiếm pháp không cần tính mạng, nhưng vẫn rất có tình hoài.

Đây là một loại kiếm pháp cô tịch, kiếm ý vô cùng mất mát.

Nhưng bởi vì Thích Thiếu Thương luôn có một loại khí thế vương giả, cho nên đường kiếm của y dù vô ý hay hữu ý cũng có một loại khí phách hào hùng, ẩn chứa một loại phong cách vương giả.

Trong con đường nhân sinh trước đây của y, lúc thành thì xưng vương, lúc bại lại là giặc, lúc đắc chí thì hô mưa gọi gió, lúc sa sút lại lưu vong ngàn dặm, nhưng kiếm pháp của y luôn là như vậy.

Đường kiếm của y tung hoành, thanh tân cao ngạo, thành cũng là vương, bại cũng là vương.

Chỉ y mới có thể thi triển loại kiếm pháp đời và ta hòa hợp này.

Cho nên lúc y giao thủ với Tôn Thanh Hà, kiếm pháp Tôn Thanh Hà cao ngạo, tàn nhẫn, vừa lúc bức ra sự thanh tân, lạnh lẽo trong kiếm pháp của y.

Y quan sát Tôn Thanh Hà đấu kiếm, giống như Hàn Phi Vu từng nói: “Có loại rắn gọi là giám, sinh ra có hai đầu, cả hai đều không phục nhau, cắn xé lẫn nhau mà chết.”

Có lẽ kiếm pháp của y và đường kiếm của Tôn Thanh hà vốn là một thể hai mặt, một đao hai lưỡi.

Kiếm pháp của y rất trữ tình, còn kiếm pháp của Tôn Thanh Hà lại rất thoải mái.

Nhưng kiếm pháp của y lại vừa lúc gặp phải Cách Không Tương Tư đao.

Đao pháp này vốn do Thiên Y Cư Sĩ sáng tạo ra.

“Thiên Y Cư Sĩ” Hứa Tiếu Nhất là một người trọng tình, người trọng tình đương nhiên sẽ sáng tạo ra đao pháp hữu tình.

Nhưng người thật sự phát huy được đao pháp này là Vương Tiểu Thạch.

Vương Tiểu Thạch là một người đa tình.

Hắn thất tình quá nhiều lần, nhưng nguyên tắc của hắn luôn là thà tiếp tục bị tổn thương vì thất tình, quyết không thể bởi vì sợ thất tình mà không dám yêu đương.

Đây là vấn đề nguyên tắc.

Đối với tình cảm, hắn nhìn không thấu, xem không rõ, bỏ không được. Càng quan trọng là hắn cũng không muốn từ bỏ, không muốn nhìn thấu, không muốn xem rõ.

Bởi vì không cần.

Làm người phải có niềm vui, dù sao cũng phải có vui buồn li hợp, thất tình lục dục.

Cho nên loại người làm theo cảm tính như hắn, sử dụng loại đao pháp đa tình, đa ái, đa tương tư này, tự nhiên có thể thi triển một loại cảnh giới khác, trò giỏi hơn thầy.

Hiện giờ người sử dụng loại đao pháp này lại là Quan Thất.

Quan Thất si, y si vì tình.

Quan Thất cuồng, y chỉ cuồng vì võ.

Do đó y mượn tình dùng võ.

Tương Tư đao của y vừa thi triển, lập tức khắc chế kiếm pháp hết sức trữ tình, rất có tình hoài của Thích Thiếu Thương.

Cũng không muốn tương tư, tương tư khiến người già.

Tương tư vốn là một thanh đao, chém nước nước càng chảy, trảm tình tình càng sâu. Thanh kiếm trảm tình của Thích Thiếu Thương, gặp phải loại đao khí này lại chém không đứt, khiến cho kiếm pháp như nước chảy mây trôi của y cũng hóa thành mây khói, quá nhiều ràng buộc, không phương hướng, không tiêu hồn, kiếm khổ hữu tình kiếm không già, người vì tương tư người lại già.

Loại kiếm pháp chống lại vận mệnh của Thích Thiếu Thương, gặp phải đao ý rung động tâm can, lập tức hóa thành mềm yếu, không thể kịch liệt, cũng không thể kích tình.

Tương Tư đao không có đao.

Kiếm lại có kiếm.

Tương tư như đao, kiếm như cầu vồng.

Lúc đầu Thích Thiếu Thương khí thế như cầu vồng, sau đó lại bị đao khí như có như không, trống rỗng vỡ tan này quấn lấy, giống như một tấm lưới vô hình, khiến cho kiếm của y không thể thoát ra được.

Kiếm nổi rồng ngâm, kiếm ý suy sụp.

Đao liên miên, đao ý vô ý.

Đao đã chiếm được tiên cơ, giành được thượng phong.

Chương 74 – Tẩu hỏa nhập ma

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Quan Thất một người đánh ba người.

Y dùng Kinh Thần chỉ của Bạch Sầu Phi vây khốn Ngô Kinh Đào, khiến Ngô Kinh Đào lo chỗ này hỏng chỗ kia, nhiều lần gặp phải nguy hiểm.

Y lại dùng Tiêu Hồn kiếm của Vương Tiểu Thạch đối kháng với Tôn Thanh Hà, hơn nữa còn dùng Tương Tư đao đánh cho Thích Thiếu Thương gần như không thể đánh trả được.

Như vậy còn chưa đủ.

Trước đó y đã dùng một ngụm tên máu đánh ngã Trương Thiết Thụ, lại dùng một chiêu Kinh Trập giết chết Trương Liệt Tâm.

Ngô Kinh Đào, Thích Thiếu Thương, Tôn Thanh Hà đều là cao thủ tuyệt đỉnh, nhưng cả ba người bọn họ đều không thắng được một Quan Thất.

Dương Vô Tà đã thấy tình hình không ổn.

Y không thể mặc cho Thích Thiếu Thương ngã xuống ở đây, càng không cho phép long đầu của bọn họ bị thương dưới tay Quan Thất.

Không thể.

Cho nên y chuẩn bị hạ lệnh cho Tôn Ngư khẩn cấp điều động Nhất Linh Bát Công Án, trước tiên bao vây đối phó với Quan Thất, để Thích Thiếu Thương nghỉ một một lát rồi lại nói.

Thế nhưng, kết quả là lệnh đã không cần hạ, cũng không kịp hạ.

Bởi vì y phát hiện một sự thật kinh người, Quan Thất đang phi thân xuống nóc nhà, phát ra công kích với những người dưới lòng đường, đầu hẻm đang ngẩng đầu quan sát.

Quan Thất đang dùng sức một người đối phó với ba đại cao thủ, nhưng vẫn còn chưa đủ.

Y đột nhiên phi thân xuống.

Thích Thiếu Thương, Tôn Thanh Hà, Ngô Kinh Đào vốn đang chiến đấu kịch liệt với y, những người này đều là nhân kiệt đương thời, khó ai trong lúc giao thủ với bọn họ mà muốn thu chiêu là thu chiêu, muốn dừng tay là dừng tay.

Thế nhưng Quan Thất lại muốn thu là thu, nói dừng là dừng.

Càng đáng sợ là tuy y đã ngừng tay, đã thu chiêu, nhưng Kinh Thần chỉ, Tiêu Hồn kiếm và Tương Tư đao mà y phát ra với ba người Thích Thiếu Thương, Ngô Kinh Đào, Tôn Thanh Hà, thế vẫn không giảm, sức mạnh vẫn còn, kỳ chiêu vẫn liên tục, khiến ba người nhiều lần gặp nguy hiểm.

Thân hình của y đã đáp xuống, chỉ phi thân một cái đã lướt xuống.

Y phi thân lướt xuống, đối tượng đầu tiên tìm đến chính là Địch Phi Kinh.

Tại sao y muốn tìm Địch Phi Kinh?

Tại sao lại muốn tìm người đáng thương ngay cả đầu cũng ngẩng không lên này?

Quan Thất phi thân giống như loài chim đêm, lao đến trước mặt Địch Phi Kinh.

Thế nhưng khi thân hình y bắt đầu chuyển động, nơi lướt qua lại vừa lúc là nơi đặt chân của Hắc Quang Thượng Nhân.

Chiêm Biệt Dã thấy Quan Thất dùngy một địch ba, ngoạn mục tuyệt luân, mắt đã hoa lên, thần bị đoạt mất, không ngờ Quan Thất lại nói đi là đi, hơn nữa lúc gần đi còn đánh một chưởng về phía hắn.

Một chưởng này cũng không có gì đặc biệt.

Nếu nói có điểm kỳ lạ, chỉ là lúc đánh ra một chưởng này, chung quanh bàn tay lại phát ra một luồng khí và ánh sáng nhàn nhạt, tự nhiên.

Hắc Quang Thượng Nhân là một người rất cẩn thận, hắn luôn luôn đề phòng người khác.

Hễ là người thì phải đề phòng, bởi vì người sẽ hại người, làm tổn thương người khác.

Hắn vừa quan sát vừa đề phòng, đã đề phòng phía trên, cũng đề phòng phía dưới.

Phía trên có loại “chiến thần” như Quan Thất, phía dưới có loại “tiểu nhân” như Chu Nguyệt Minh, có loại “công sai” như Vô Tình, còn có loại “địch nhân” như Dương Vô Tà.

Thế nhưng khi Quan Thất vọt người lên, lướt qua đỉnh đầu hắn, còn đánh xuống một chưởng, hắn lại không kịp lánh/tránh/né.

Ngay cả hắn cũng không hiểu được lý do tại sao.

Là hắn chậm chạp?

Thoái hóa?

Hay là mê mẩn?

Hoặc là hắn luyện Hắc Quang đại pháp đã tẩu hỏa nhập ma?

Bản thân hắn tuy nhất thời không tỉnh ngộ, nhưng người khác lại hiểu rõ.

Giống như Chu Nguyệt Minh vừa nhìn đã hiểu được, đó là khí thế.

Khí thế của Quan Thất, không gì sánh bằng, không thể chống lại.

Giống như Địch Phi Kinh mặc dù không ngẩng đầu lên, trong lòng vẫn biết rõ ràng, đó là khí phái.

Khí phái của Quan Mộc Đán, áp bức toàn trường, cũng trấn áp Chiêm Biệt Dã.

Giống như Vô Tình lý giải, đó là ma tính.

Ma tính của Quan thất thánh, đạo giảm ma tăng, tẩu hỏa nhập ma.

Ma tính kia đã chấn nhiếp Hắc Quang Thượng Nhân, cũng chiếm lấy thần trí mọi người có mặt.

Giống như Dương Vô Tà hiểu biết, Hắc Quang quốc sư đã bị Quan tổng thánh chủ làm chấn động. Nếu đổi lại bất kỳ người nào ở vào tình cảnh tương tự, cũng sẽ giống như Chiêm Hắc Quang, không có biện pháp, cũng không thể kịp thời tránh đi.

Có điều, Hắc Quang Thượng Nhân tuy không tránh khỏi, nhưng hắn vẫn có thể chống đỡ, có thể đánh trả.

Lúc này hắn liền chống đỡ, liền đánh trả.

Sức mạnh đánh trả rất lớn.

Hắc Quang Thượng Nhân vừa ra tay, giống như đã tụ tập tất cả hắc, tất cả ám, cùng với tất cả hắc ám trong đời đất.

Hắc này là ác, ám này là độc.

Thiên Hạ Nhất Bàn Hắc của hắn xưa nay chỉ có giết không tha, đã ác hơn nữa còn độc.

Hắn nhất thời không tránh được một kích này của Quan Thất, cho nên hắn liền đánh trả.

Hai chiêu giao nhau, va chạm kịch liệt.

Ánh sáng đen và quầng sáng trắng mới va chạm một chút, Chiêm Biệt Dã đã bay ra ngoài.

Hắn vừa bay, vừa muốn nắm lấy cái gì, vịn vào thứ gì, kết quả chỉ nghe những tiếng đùng đùng, ngói vụn cây xà đồng loạt sụp đổ, nhà lớn cổ xưa lại sụp xuống một mảng lớn, một phần lớn, một khối lớn.

Thân hình của hắn cũng rơi xuống, đồng thời kêu lớn: 

- Phá Thể Vô Hình kiếm khí! Tiên Thiên Phá Thể Vô Hình kiếm khí!

Thân thể của hắn còn vừa lúc đụng vào một người khác.

Người này đang miễn cưỡng khôi phục nguyên khí, đang muốn nhảy lên, nhưng Hắc Quang Thượng Nhân đã đè xuống.

Lúc này trên người Chiêm Biệt Dã đang tụ tập hai loại lực lượng, một là lực lượng Hắc Quang đại pháp của chính hắn, một loại khác là Vô Hình kiếm khí của Quan Thất. Hai luồng cương khí, chân khí hợp thành một thể, khuấy động toàn thân, mà người vừa nhảy lên lại đụng vào hắn.

Người này hét lớn một tiếng, giữa chừng lại không còn âm thanh.

Người này đương nhiên chính là Trương Thiết Thụ.

Trương Thiết Thụ vốn không chết, hắn chỉ bị một ngụm tên máu kia của Quan Thất đánh rơi xuống nóc nhà.

Hắn khó khăn lắm mới vùng vẫy, bò dậy, muốn nhảy lên mái hiên.

Nhưng lại vừa lúc đụng phải Hắc Quang Thượng Nhân, cùng với một thân khí công đen trắng đang xung đột.

Chương 75 – Tẩu ma nhập hỏa

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Hắc Quang Thượng Nhân rơi xuống.

Quan Thất lại đột nhiên bay lên, sau đó nhanh chóng trầm xuống, như ưng như cắt, phảng phất tiên thiên cương khí của bản thân y cộng thêm Hắc Quang thần công của Chiêm Biệt Dã đã khiến cho lực lượng của y tăng lên gấp bội, càng cường càng liệt.

Khí thế của y càng mạnh, càng gấp, càng hung, càng bạo.

Y vừa lao về phía Địch Phi Kinh vừa quát hỏi, âm thanh lạnh lẽo: 

- Thuần nhi đâu?

Thân hình của y cực nhanh, tiếng hét vừa vang lên thì đã đến trước người Địch Phi Kinh.

Y dùng một tay chụp xuống.

Xem tình hình, y hẳn là muốn bắt lấy vạt áo của Địch Phi Kinh , tóm đối phương lên.

Tay của y đã bắt được y phục của Địch Phi Kinh.

Toàn thân Địch Phi Kinh đột nhiên nóng lên.

Đây là một loại vặn vẹo thần kỳ, như bị sét đánh, như đang co giật.

Sau đó trong nháy mắt, Địch Phi Kinh lại chụp lấy tay của đối phương, vặn ngón tay của đối phương, giữ cổ tay của đối phương.

Quan Thất hừ lạnh một tiếng, chỉ hỏi:

- Thuần nhi đâu?

Tay của y đồng thời phát ra một luồng cương khí trắng xóa, đánh văng tay phải của Địch Phi Kinh ra.

Nhưng tay trái của Địch Phi Kinh lại móc lên, lần này y dùng hai tay đồng loạt bắt lấy mạch môn của Quan Thất, nắm rất chặt.

Quan Thất chỉ còn lại một tay, Địch Phi Kinh lại có hai tay.

Mấy chiêu này biến hóa rất nhanh, nhưng Dương Vô Tà vẫn lập tức nhìn ra được võ công chiêu số của Địch Phi Kinh.

Lần này Dương Vô Tà không nhịn được hô lên:

- Khí Tử Cầm Nã pháp! Đây là Đại Khí Tử Cầm Nã thủ!

Đại Từ Đại Bi Khí Tử Cầm Nã thủ pháp là tuyệt chiêu Cầm Nã thủ đã thất truyền năm trăm sáu mươi sáu năm. So với loại Cầm Nã thủ pháp này, những Cầm Nã thủ trước đây đều ảm đạm thất sắc, những Cầm Nã pháp sau này cũng không tính vào đâu.

Xét về vận dụng, loại Cầm Nã thủ này chẳng những có thể kiềm chế gân cốt chỗ hiểm của người khác, còn có thể chữa trị những chứng bệnh lạ, thậm chí có người sau khi bị trúng chiêu lại giống như trúng độc, thông suốt, phát điên, có thể thay đổi tính tình của con người.

Nghe nói loại Cầm Nã thủ pháp này chẳng những có thể sử dụng khi đứng, cũng có thể thi triển khi đang nhảy giữa không trung, thậm chí ngồi, nằm, chôn vùi cũng có thể vận dụng tự nhiên.

Càng đáng sợ là nghe nói người luyện loại Cầm Nã thủ pháp này nhất định phải tàn phế, cho dù không tàn cũng nhất định sẽ phế, cho dù không phế cũng nhất định sẽ tàn.

Cái giá để học loại tuyệt kỹ này quá lớn.

Người đầu tiên sáng tạo ra loại Cầm Nã thủ pháp này là Bặc Tiên Tri.

Trước khi sáng tạo ra môn tuyệt học này, ngoại hiệu của hắn được gọi là là “Vị Lão Tiên Sinh”. Sau khi hắn luyện thành loại tuyệt thế kỳ học này, danh động thiên hạ, hầu hết mọi người lại ở sau lưng gọi hắn là “Tuyệt Tử Tuyệt Tôn”.

Sở dĩ “Vị Lão Tiên Sinh” Bặc Tiên Tri nhanh chóng biến thành “Tuyệt Tử Tuyệt Tôn” Bặc Tiên Tri, nguyên nhân rất đơn giản.

Một là hạ thể của hắn bị trọng thương, thật sự trở thành “tuyệt tử tuyệt tôn”.

Hai là ban đầu mọi người thích hắn già vẫn tráng kiện, mặt như quan ngọc, cùng với kính mến tính tình hiệp nghĩa đôn hậu, hiểu rõ tiên cơ. Đến sau này Bặc Tiên Tri tính tình biến đổi, tàn bạo ác độc, cho nên mọi người đều oán hận hắn, đều hi vọng hắn “tuyệt tử tuyệt tôn”.

Hắn cũng thật sự “tuyệt tử tuyệt tôn”, không có con để truyền, đành phải truyền cho đồ đệ.

Đồ đệ của hắn phần lớn không chết thì cũng tàn phế, gần như không người nào có kết quả tốt.

Nhưng loại võ công này quá lợi hại, cho nên dù tu luyện rất khó khăn, vẫn có người tranh nhau tìm kiếm, khi được người khác truyền thụ thì giống như nhặt được chí bảo. Nhưng học nó dù không đến mức tẩu hỏa nhập ma, cũng khó tránh khỏi tẩu ma nhập hỏa.

Có điều bởi vì cái giá phải trả quá lớn, có người chết, có người tàn, có người phế, có người còn không biết kết quả ra sao, loại tuyệt học này rốt cuộc vẫn thất truyền.

Nhưng bây giờ nó lại xuất hiện, tái hiện trên tay Địch Phi Kinh.

Địch Phi Kinh vừa ra tay liền dùng nó để đối phó với Quan Thất, hơn nữa đã khống chế được Quan Thất.

Quan Thất là người nào?

Người này há có thể bị người khác dễ dàng khống chế.

Nếu như Quan Thất có hai tay giống như người bình thường, với võ công của y đương nhiên không thể dễ dàng khống chế.

Nhưng y chỉ có một tay, một cánh tay đáng thương, một cánh tay đáng sợ.

Địch Phi Kinh vừa xuất thủ đã dùng hai tay chụp lấy tay của Quan Thất.

Chỗ lợi hại nhất của Khí Tử Cầm Nã thủ không phải ở cầm, không phải ở bắt, mà là ở tay và thủ pháp.

Chỉ cần kẻ địch có bất kỳ sơ hở nào, hoặc là bất kỳ bộ vị nào bị người luyện loại tuyệt học này khống chế, cho dù là dái tai, ngón út, hay là một nắm tóc, hắn nhất định có thể hoàn toàn khống chế cả người đối phương, dồn đối phương vào chỗ chết.

Huống hồ Địch Phi Kinh đã hoàn toàn bắt được tay của Quan Thất.

Không sai, Địch Phi Kinh đã bắt được tay của Quan Thất.

Tay của Quan Thất không thể cử động, thậm chí ngay cả người cũng không thể nhúc nhích.

Nhưng là ngón tay của y đang động, động rất nhanh, hơn nữa còn kỳ dị.

Y có lúc gập ngón cái, có lúc duỗi ngón áp út, có lúc ngón giữa, ngón trỏ, ngón út đều cong duỗi, trong miệng còn lẩm bẩm một câu giống như thần chú:

- Lâm Binh Đẩu Giả Giai Trận Liệt Tại Tiền!

Sắc mặt của Địch Phi Kinh vốn đã nhợt nhạt, lúc này lại càng tái nhợt.

Y ra sức vặn tay của Quan Thất, nhưng rốt cuộc vẫn bất lực.

Y chỉ đành kêu lên một tiếng, mang theo sự bất cam và bi ai:

- Khoái Mạn Cửu Tự quyết pháp!

Đó thật sự là Khoái Mạn Cửu Tự quyết, hơn nữa còn là Khoái Mạn Cửu Tự đại thủ ấn của tổng đường chủ Lục Phân Bán đường Lôi Tổn năm xưa.

Lôi Tổn nhờ nó mà thành danh, nhờ nó mà tung hoành giang hồ, càng nhờ nó mà càn quét thiên hạ, vượt bậc võ lâm.

Thế nhưng, đó vốn là tuyệt kỹ độc môn của Lôi Tổn, sao lại xuất hiện trên tay Quan Thất?

Đây rốt cuộc là chuyện gì?

Khoái Mạn Cửu Tự quyết pháp xuất xứ từ Mật tông Cửu Tự ấn quyết. Năm đó lúc Lôi Tổn và Bạch Sầu Phi, Vương Tiểu Thạch, Tô Mộng Chẩm liên thủ chiến đấu với Quan Thất tại Tam Hợp lâu, từng sử dụng nó, hơn nữa còn vây khốn Quan Thất một lúc.

Khi Lôi Tổn thi triển Mật tông Cửu Tự ấn pháp và thủ ấn này, có thể dung hợp chân khí, kỹ xảo và niệm lực cực kỳ mạnh mẽ, trong nháy mắt vừa động niệm, vừa động tâm, vừa động ngón tay là có lực lượng xoay chuyển càn khôn, chém thần diệt quỷ.

“Cửu Tự” trong Cửu Tự quyết pháp này vốn là chín chữ “Lâm Binh Đẩu Giả Giai Trận Liệt Tại Tiền”, đây là câu nói của Bão Phác Tử, nguyên văn là “lâm binh đẩu giả, giai trận liệt tiền hành”, mỗi chữ đều có thể đổi thành thủ ấn đặc biệt, cũng là phương thức của hành giả Mật tông trong lúc liếc mắt ngước mặt liên thông với linh lực của trời cao.

Có điều, Mật tông Cửu Tự quyết pháp này có nhiều loại thủ ấn phải cần hai tay mười ngón mới thi triển được. Chẳng hạn như ấn thứ nhất là Độc Toản ấn, ấn thứ ba là Ngoại Sư Tử ấn, quyết thứ sáu của chữ “Trận” là Nội Phược ấn, chữ thứ chín “Tiền” là Ẩn Hình ấn, không quyết pháp nào không cần dùng hai tay thi triển.

Lôi Tổn thiếu mất ba ngón, tuy hắn mang “ngón tay giả” vào, nhưng điều này cũng không làm cho hắn khi sử dụng có bất tiện/không nhanh/ không như ý, ngược lại hắn còn sáng tạo ra một loại phương thức đặc biệt, chỉ dùng một tay để thi triển Mật tông thủ ấn quyết pháp này.

Mà cái gọi là khoái (nhanh), mạn (chậm), chính là hai loại phương thức mà hắn sử dụng loại thủ ấn quyết pháp này.

Nhanh có đánh nhanh, chậm có công chậm.

Nhưng dù nói thế nào, Lôi Tổn vẫn có hai tay, cùng lắm chỉ thiếu mất ba ngón tay mà thôi, còn Quan Thất chỉ có một tay.

Chỉ còn lại một tay.

Một tay làm thế nào sử dụng quyết pháp “Lâm Binh Đấu Giả Giai Trận Liệt Tại Tiền” cần hai tay mười ngón mới thi triển được?

Có thể.

Quan Thất có thể.

Y chẳng những có thể, hơn nữa chỉ thấy khớp xương ở năm đầu ngón tay của y không ngừng chuyển động, trong nháy mắt Cầm Nã thủ của Địch Phi Kinh đã nắm không được y, bắt không được y, hơn nữa ngược lại còn bị y bắt giữ.

Rất nhanh Địch Phi Kinh đã lâm vào nguy hiểm, kề cận hiểm cảnh.

Quan Thất lại dùng một tay sử dụng Mật tông Cửu Tự quyết cần hai tay mới thi triển được.

Y lập tức chuyển bại thành thắng, áp chế lại Địch Phi Kinh, đổi bị động thành chủ động, chuyển yếu thành mạnh.

Ban đầu y chỉ liên tục niệm khẩu quyết “lâm binh đấu giả, giai trận liệt tại tiền”, đến lúc sau, mỗi khi y thốt lên một chữ, lập tức thi triển một quyết. Y vốn tóc tai bù xù, sắc mặt trắng bệch, lúc này lại đầy mặt phật quang, đầy người phật tính, mỗi chiêu xuất ra đều để lộ thần cơ, mang theo phật pháp, dùng niệm lực khắc chế lực lượng của đại vũ trụ, đại tự nhiên, kết hợp với linh lực bẩm sinh của bản thân, lại dùng lực lượng thần phật hòa làm một với lực lượng của mình, thủ ấn lúc thì hoa sen lúc thì kiếm, lúc nhanh thì cực chậm, lúc chậm lại cực nhanh, ngón tay cong duỗi phát huy sát lực, ma lực và lực công kích của “Lâm Binh Đẩu Giả Giai Trận Liệt Tại Tiền”.

Địch Phi Kinh đương nhiên không thể khống chế được, hơn nữa còn bị đối phương khống chế.

Y đã gặp nạn, cực kỳ nguy hiểm.

Ai có thể cứu vãn hiểm cảnh của Địch Phi Kinh?

Không có ai, ngoại trừ chính y.

Y dùng một câu nói để cứu mình, đồng thời cũng hoàn toàn chuyển dời công kích của Quan Thất.

Câu nói đó là:

- Nàng rơi vào tay hắn.

Một câu nói, năm chữ.

Như vậy là đủ rồi.

Cục diện lập tức xoay chuyển, hoàn toàn biến đổi.

Quan Thất dừng tay, xoay người, mắt lộ ra ánh sáng hung ác.

Sau đó y lướt đi, lao về phía một người khác.

Y lao về phía người này cũng giống như công kích hai người.

Bởi vì Thích Thiếu Thương vốn cùng một nhóm với Dương Vô Tà.

Bọn họ chẳng những cùng một tổ chức, cũng cùng một chiếc thuyền, cùng một trận tuyến, cùng nguy cơ và quan hệ lợi hại.

Bọn họ là cùng một nhóm, cùng một đường.

Chương 76 – Tẩu thủy nhập ma

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

- Nàng rơi vào tay hắn.

Khi Địch Phi Kinh nói câu này, mắt nhìn về phía Dương Vô Tà.

Lúc y nhìn về phía Dương Vô Tà, Dương Vô Tà cũng vừa lúc nhìn y.

Y hiểu rõ một chuyện.

Ở nơi này, trong số những người hi vọng y chết, nhất định có Dương Vô Tà.

Nguyên nhân rất đơn giản, những năm gần đây, y và Dương Vô Tà một người ở Kim Phong Tế Vũ lâu, một người ở Lục Phân Bán đường, đối đầu với nhau. Chò dù tại thời kỳ Tô Mộng Chẩm hay Thích Thiếu Thương chấp chính, Lôi Tổn hay Lôi Thuần nắm quyền, hai người bọn họ vẫn ngồi vững ở vị trí số hai, có thể gọi là “dưới một người, trên vạn người”.

Bọn họ đấu đá với nhau đã lâu, kết thù tất nhiên là sâu nặng. Bất kể là kế sách âm mưu của Dương Vô Tà khiến thủ hạ tâm phúc của Địch Phi Kinh trúng mai phục bỏ mạng, hay là Địch Phi Kinh bố trí mưu lược sát hại ám toán không ít môn nhân đệ tử của Dương Vô Tà, hai người vẫn không thể đánh ngã được đối phương, nhưng cừu hận rất sâu, thù oán rất nhiều.

Dương Vô Tà đương nhiên không hi vọng Lục Phân Bán đường vẫn có Địch Phi Kinh, có Địch Phi Kinh sẽ ngăn trở đại kế của y.

Địch Phi Kinh chắc chắn cũng hi vọng Kim Phong Tế Vũ lâu không có Dương Vô Tà, Dương Vô Tà vẫn sống nhất định sẽ ngăn cản chuyện của y.

Cho nên Địch Phi Kinh dĩ nhiên biết Dương Vô Tà chỉ mong sao y chết.

Đối phó với kẻ địch, Địch Phi Kinh luôn có vài phương pháp.

Một là hóa địch thành bạn, biến lực lượng công kích của kẻ địch thành thực lực của mình, cớ sao lại không làm.

Hai là tránh mà không chiến, không trực tiếp giao thủ với đối phương, có thể không mạo hiểm, cũng có thể tiêu hao chiến lực và đấu chí của đối phương. Nếu thật sự phải giao thủ, y cũng sẽ mượn sức người khác, thanh trừ đối lập, tiêu trừ chướng ngại. 

Không phải vạn bất đắc dĩ, y quyết sẽ không ra tay, ít nhất là cũng không tự mình xuất thủ.

Ba là nếu tránh không khỏi, hóa giải không được, vậy thì đành phải ứng chiến. Một khi tiếp chiến thì không lưu lại người sống, không để lại đường lui, quyết không cho đối phương có cơ hội trở lại hoặc báo thù.

Y bình sinh rất ít khi ra tay, nhưng hiện giờ gặp phải Quan Thất, không ra tay không được.

Thế nhưng y vẫn không đánh lại Quan Thất.

Bốn là nếu y thật sự không đánh lại địch thủ, vậy thì lập tức chuyển dời mục tiêu công kích của đối phương.

Y có rất nhiều phương thức dịch chuyển ánh mắt của kẻ địch, chẳng hạn như nói cho đối phương biết có kẻ địch còn đáng hận hơn, hoặc là một thứ gì đó nhất định phải lấy được, thông thường có thể khiến kẻ địch phân tâm loạn thần.

Vừa phân tâm, vừa thất thần, y sẽ có cơ hội.

Hiện giờ chính là như vậy.

Y biết Quan Thất muốn tìm Lôi Thuần, nhất định sẽ tìm đến mình, tập trung vào mình, đồng thời cũng dán mắt vào mình.

Cho nên y ném “vấn đề khó giải quyết” này sang chỗ khác, ném cho Dương Vô Tà.

Y gặp nguy hiểm, cũng hi vọng Dương Vô Tà gặp nguy hiểm.

Tốt nhất là Dương Vô Tà chết chứ không phải y chết.

Quan Thất lập tức tìm tới Dương Vô Tà.

Y thật sự nói đi là đi, muốn rút lui là rút lui.

Địch Phi Kinh muốn vây khốn y trong chốc lát cũng không đủ năng lực.

Huống hồ Địch Phi Kinh căn bản không muốn vây khốn Quan Thất, y chỉ mong sao Quan Thất thay mình giết chết Dương Vô Tà.

Dương Vô Tà vốn định bảo Tôn Ngư điều động Nhất Linh Bát Công Án giải nguy cho Thích Thiếu Thương, nhưng trong khoảnh khắc thế công của Quan Thất đã biến đổi, trước tiên đánh Chiêm Hắc Quang rơi xuống nhà cổ, lại lao đến Địch Phi Kinh đòi người, chỉ trong mấy chiêu đã có cơ hội giết chết Địch Phi Kinh, nhưng lại vì một câu nói của Địch Phi Kinh mà tấn công mình.

Quan Thất dùng một tay chụp vào Dương Vô Tà.

Y chụp rất trực tiếp, rất không khách khí, cũng rất hung hăng ngang ngược.

Nhưng y có tư cách hung hăng ngang ngược.

Đừng thấy y chỉ tùy tiện chụp một cái dễ như trở bàn tay, giống như bên cạnh không có gì, trong đó ẩn chứa biết bao lực lượng, lòng tin và võ công.

Một trảo này chụp xuống, thế của nó kiên quyết, không chừa lại đường lui, cũng tuyệt không dung tình, nhưng trong đó lại bao hàm nhiều biến hóa phức tạp, ẩn chứa bao nhiêu kỳ công cái thế.

Tôn Ngư chỉ vừa nhìn đã đủ kinh tâm.

Còn về Dương Vô Tà, thậm chí không cần ngẩng đầu nhìn, đã biết thế tới không thể xem thường.

Đây là Đại Lực Ưng Trảo thủ.

Theo như trí nhớ của Dương Vô Tà và tài liệu thu thập được, y hoàn toàn không nghĩ ra Quan Thất từng có quan hệ gì với người của Đại Lực Ưng Trảo Vương.

Không có.

Nhưng điều này đã không quan trọng.

Bởi vì Quan Thất sắp đến nơi, đã biết dùng Kinh Thần chỉ và Tam Chỉ Đạn Thiên của Bạch Sầu Phi, lại biết sử dụng Cách Không Tương Tư đao và Lăng Không Tiêu Hồn kiếm của Vương Tiểu Thạch, còn biết thi triển Mật Tông Đại Thủ Ấn Cửu Tự quyết pháp của Lôi Tổn, còn có gì mà y không thể sử dụng? Không biết sử dụng?

Vấn đề là làm sao phá giải? Làm sao đối phó?

Quả thật không thể phá giải, không thể đối phó.

Quan Thất một tay chụp xuống đầu, lại khó phá khó cứu, khó phân khó giải.

Lúc này Quan Thất đã không giống một con người, mà giống như một vị thần ma.

Nếu như y là người, cũng nhất định không phải người phàm, mà là người trời.

Người và trời hợp thành một thể, “thiên nhân”.

Hào quang của Quan Thất là nóng bỏng, đỏ rực.

Một mặt y vẫn dùng giọng nói thê lương quát hỏi: 

- Thuần nhi đâu?

Thuần nhi?

“Thuần nhi” đương nhiên chính là Lôi Thuần.

Lôi Thuần đương nhiên không ở trong tay Dương Vô Tà.

Nếu như Lôi Thuần rơi vào Kim Phong Tế Vũ lâu, vậy thì thiên hạ thái bình rồi.

Gần đây Dương Vô Tà càng lúc càng phát hiện, Lôi Thuần có lẽ còn khó đối phó hơn so với cha nàng là Lôi Tổn.

Có lẽ võ công của Lôi Tổn đích xác cao hơn Lôi Thuần, thế nhưng sự bình tĩnh, xảo quyệt, đa mưu túc trí, lấy lùi làm tiến của Lôi Tổn ít nhất còn có thể dự phòng được, có dấu vết để tìm. Còn Lôi Thuần giao thủ đấu trí, có thể nói là không thấy bóng dáng, thâm trầm khó lường. Cô gái này nhìn như hoàn toàn không có kinh nghiệm giang hồ, thuần khiết ôn hoà, nhưng có lúc lại xảo trá vô cùng, khẩu phật tâm xà. Dương Vô Tà tranh giành đấu đá với nàng đến tận bây giờ, ngay cả chuyện nàng rốt cuộc có võ công hay không cũng không biết rõ.

Căn bản không thể tìm ra.

Dương Vô Tà lại có một suy đoán. Mọi người đều cho rằng Địch Phi Kinh là một người trung nghĩa thế gian hiếm thấy. Lúc Lôi Tổn làm chủ, y tận trung cống hiến cho Lôi Tổn, trung thành không hai lòng. Sau khi Lôi Tổn chết, y tuân theo di chí của Lôi Tổn, vẫn cúc cung tận tụy, trung với thành Lôi Thuần, bán mạng cho nàng, nhằm để báo đáp ân tình của cha nàng.

Dương Vô Tà không đồng ý.

Y cho rằng Địch Phi Kinh trung thành với Lôi Thuần không phải vì báo đáp Lôi Tổn, mà là Địch Phi Kinh vốn có lòng ái mộ Lôi Thuần.

Yêu một người, mới không tiếc tất cả vì nàng, cũng không tiếc hi sinh.

Loại người giống như Địch Phi Kinh, cho dù yêu một người cũng sẽ không dễ dàng nói rõ.

Huống hồ người mà y yêu là Lôi Thuần.

Loại người giống như Lôi Thuần, nếu nàng thật sự thích một người, có lẽ cũng không dễ dàng biểu đạt.

Huống hồ thân phận của nàng hiện nay là tổng đường chủ thay mặt của Lục Phân Bán đường.

Nàng là “tổng đường chủ thay mặt”, nhưng lại không có “tổng đường chủ” thật sự.

Loại người giống như Địch Phi Kinh, không yêu thì thôi, một khi đã phát sinh tình cảm, nhất định sẽ yêu đến như mộng như ảo, muốn sống muốn chết.

Địch Phi Kinh là một người thâm trầm, người thâm trầm tự có cách yêu thâm trầm.

Người luyện võ, luyện đến si dại, chân khí đi rẽ, có thể dẫn đến tẩu hỏa nhập ma.

Ái tình cũng như vậy.

Nếu nói nhu tình như nước, vậy thì nước có thể chở thuyền, cũng có thể lật thuyền. Do đó không chỉ có tẩu hỏa nhập ma, tại sao tẩu thủy không thể nhập ma.

Nếu nói pháp môn của nhân phật có bốn vạn tám ngàn loại, tại sao đạo của nhân ma lại không có tám vạn bốn ngàn loại?

Dương Vô Tà thậm chí hoài nghi, Địch Phi Kinh là vì Lôi Thuần nên mới trung thành với Lục Phân Bán đường, mới dốc hết tinh lực và trí tuệ cả đời, chưa chắc là vì báo đáp ơn tri ngộ của Lôi Tổn mà hao tốn nửa đời vì Lục Phân Bán đường.

Do đó Dương Vô Tà cho rằng, nếu như mình nắm giữ được Lôi Thuần, vậy thì cũng có thể khống chế được Địch Phi Kinh.

Thế nhưng, Lôi Thuần đương nhiên không bị y khống chế.

Cho nên y vẫn đối đầu với Địch Phi Kinh, khó phân cao thấp.

Kim Phong Tế Vũ lâu vẫn đối chọi với Lục Phân Bán đường, ngang sức ngang tài.

Chương 77 – Ma tẩu hỏa nhập

Người dịch: fishscreen

Nguồn: www.tangthuvien.com

Quan Thất dùng một tay chụp vào tóc Dương Vô Tà.

Chụp một cách hung hăng, cũng chụp một cách ngông cuồng.

Y ra tay cũng quang minh chính đại, giống như người nào cũng không né được, không tránh được, thậm chí không thể né tránh.

Thực ra Quan Thất xuất thủ là một loại khí phái, chỉ riêng loại đại khí đại phái này đã đủ khiến người ta tránh không ra, né không được, thậm chí không dám né tránh.

Huống hồ võ công của y đã cao đến mức khó tưởng tượng, thậm chí không biết y làm thế nào luyện được, làm thế nào luyện thành.

Rất ít người từng thấy Dương Vô Tà ra tay, bởi vì Dương Vô Tà rất ít khi ra tay.

Y luôn luôn nhận định, đối phó với kẻ địch phải dựa vào đầu óc chứ không phải phải dựa vào tay chân. Con người chỉ có hai tay hai chân, có thể giết được mấy người? Nhưng dùng đầu óc nghĩ ra một kế, thông thường có thể sát thương hàng ngàn hàng vạn người. Không chỉ giết người, cứu người cũng như vậy.

Cho nên không đến lúc cần thiết, y quyết không động thủ, cũng không động võ.

Y không cho rằng vũ lực có thể giải quyết tất cả, vì vậy y dồn hết tâm lực vào những việc khác, chẳng hạn như thu thập tư liệu.

Y cảm thấy nắm giữ tư liệu của một người, cũng gần như có thể hoàn toàn nắm giữ người này. Nếu như người bị nắm giữ là nhân tài tinh anh, vậy thì có thể giúp y giết rất nhiều người, cứu rất nhiều người, cũng làm rất nhiều chuyện.

Huống hồ tư liệu chuẩn xác chính là tri thức.

Y cho rằng tri thức là lực lượng, còn mạnh hơn so với vũ lực. Cho nên y không ngừng bồi dưỡng, cũng tôn trọng và trọng dụng những người có tri thức bên cạnh mình.

Có tri thức thì sẽ có sức mạnh.

Nhưng điều này cũng không có nghĩa là y không xem trọng võ công, hoặc không chú ý đến vũ lực.

Có dung mạo của Nam Uy, mới có thể luận xuất thân; có sắc bén của Long Tuyền, mới có thể luận quyết đoán.

Chỉ cần có thời gian, y vẫn ngầm chuyên cần luyện võ công.

Chỉ có điều, rất ít người nhìn thấy võ công của y, càng ít người nhìn thấy y thi triển tuyệt chiêu bí truyền.

Mỗi người đều nên có tuyệt học bí truyền của mình, nhất là người đã xây dựng uy danh, uy tín.

Rất nhiều người có lẽ không chỉ thành thạo một môn, nhưng đặc biệt tinh thông mới là tuyệt học. Mỗi người đã nổi danh trên giang hồ, luôn có một hạng mục mà hắn tinh thông nhất.

Bất kể đó là thiên văn, địa lý, tướng học, số học, hay là cầm, kỳ, thư, họa, hoặc là kiếm, đao, thương, tên, côn, luôn có một hai chiêu, một hai loại, một hai mục là tuyệt kỹ bí truyền của hắn.

Vào giây phút quan trọng, tuyệt học bí truyền này có thể dùng để cứu mạng, giết địch.

Nói vậy, tuyệt chiêu của Dương Vô Tà là gì?

Rất ít người nhìn thấy, không có ai biết được.

Hiện giờ Dương Vô Tà đã thi triển tuyệt kỹ của mình.

Y không thể không sử dụng, không thể không xuất ra, bởi vì đối thủ quá mạnh.

Đối thủ là Quan Thất.

Tuyệt chiêu của Dương Vô Tà là đao.

Đao là đao, vốn không có gì đặc biệt. Thứ đặc biệt là người dùng đao, cùng với phương pháp dùng đao.

Trong tay Dương Vô Tà vốn không có đao, đao từ đâu tới?

Đao vẫn luôn ở đó, ở trên người y, trong tay áo của y.

Tụ Lý đao, trong tay áo giấu đao, giống như trong nụ cười giấu đao, làm người ta khó mà đề phòng, cũng không kịp đề phòng.

Nhưng loại đao pháp này do người trí kế song tuyệt như Dương Vô Tà thi triển, không hề khiến người ta bất ngờ.

Người thế nào thì tính cách thế đó.

Tính cách thế nào thì dùng vũ khí thế đó.

Dương Vô Tà dùng Tụ Trung đao, giống như là chuyện đương nhiên, cũng là chuyện tất nhiên.

Hồng Tụ đao của Tô Mộng Chẩm vốn là Tụ Lý đao pháp, Dương Vô Tà đã chung sống với Tô Mộng Chẩm một thời gian dài, tiếp thu đặc sắc của đao pháp từ Tô Mộng Chẩm cũng là chuyện hợp tình hợp lý.

Thế nhưng đao pháp của bọn họ không hề giống nhau.

Đặc sắc đao pháp của Dương Vô Tà có một chút khác biệt với Tô Mộng Chẩm, ánh đao của Tô Mộng Chẩm như mộng, đao ý yêu thương, ngay cả bóng đao cũng có một loại phong tình. 

Hồng Tụ đao diễm lệ, mỗi đao đều khiến người ta kinh diễm.

Nghe nói đao của y có một loại vị ngọt khiến người ta động lòng, thậm chí mỗi đao đều khiến người ta nguyện ý sống vì nó, chết vì nó, không để ý đến sống chết.

Đao của Tô Mộng Chẩm giống như một vệt chiều tà.

Lưỡi đao tuyệt tình, giống như một cơn mưa nhỏ.

Đao pháp của Tô Mộng Chẩm tàn khốc và mỹ lệ.

Có lẽ vì bản thân Tô Mộng Chẩm là một người tàn khốc, nhưng trên tay y có một thanh đao mỹ lệ, giống như y cũng có một trái tim hiệp nghĩa.

Bất kể thế nào, đao pháp của y vẫn mênh mông độ lượng, khí phái phi phàm.

Dương Vô Tà lại hoàn toàn khác.

Y vừa xuất đao, ý đao, lưỡi đao, thế đao, ánh đao, gió đao đều chỉ tiết lộ một chữ “độc”.

Y không độc cũng không được.

Thứ nhất là đao của y ngắn, chỉ dài một thước ba tấc.

Đao ngắn như vậy, muốn công kích kẻ địch thì không thể không độc, người dùng đao cũng không thể không hung hãn.

Đao ngắn và sắc bén như vậy, đã không thể thủ, chỉ có thể công, lấy công làm thủ.

Thứ hai là đao pháp, võ pháp của y đương nhiên không bằng Tô Mộng Chẩm.

Có võ nghệ tuyệt thế, đao pháp tuyệt đỉnh như Tô công tử, đương nhiên có thể coi trọng phong độ khí phái.

Nhưng Dương Vô Tà không thể.

Y dù sao cũng là “chỉ cần có thời gian thì ngầm chuyên cần luyện võ công”. Vấn đề là ở “chỉ cần có thời gian”. Loại người như Dương Vô Tà, bình thường luôn phải xử lý rất nhiều công việc, có lẽ còn bận hơn so với Tô Mộng Chẩm, Thích Thiếu Thương, bởi vì những chuyện mà bọn họ không cần tự mình làm, y đều phải ôm hết vào người. 

Do đó thời gian rảnh của y nhất định không nhiều, thời gian luyện võ sẽ rất ít.

Luyện võ cũng giống như những chuyện khác, muốn có thành tựu lớn lao thì nhất định phải chuyên tâm và chăm chỉ, cũng phải có nghị lực và bền lòng, sau đó phải cộng thêm một chút thiên phú và tài hoa.

Thiên phú của Dương Vô Tà dù sao cũng tập trung ở tài trí, không phải ở võ công.

Một người muốn “tẩu hỏa nhập ma” cũng cần phải rất chuyên chú, rất chuyên tâm đối với một chuyện, nếu không ngay cả lửa cũng không bốc lên, có lẽ còn không xứng tẩu hỏa nhập ma. Học văn như thế, học nghề như thế, học võ cũng như thế.

Khi tập trung vào một chuyện đến mức “tẩu hỏa”, mới có thể “nhập ma”, kết quả là thành ma, cách xa phật, cách xa chính đạo. Cho dù có thể kịp thời quay đầu, ma đi rồi, cũng không thấy lửa sẽ bốc lên lần nữa, cũng không thấy phật có thể tu thành chánh quả.

Do đó Dương Vô Tà luyện võ chỉ cầu đạt được mục đích thực dụng.

Chỉ khi nào dùng trí không được, dùng kế không xong, y mới động võ.

Nói cách khác, động võ đã là bước ngoặt cuối cùng, là chuyện bất đắc dĩ.

Cho nên võ công mà y luyện rất tàn, rất độc, rất hữu hiệu, tốc chiến tốc thắng.

Đao pháp của y chính là như vậy, không đẹp, không hoa mỹ, nhưng rất hữu dụng.

Đao pháp của y có một nội dung, đó là “đao không ngăn được”.

Đao của y là không ngăn được, là chết người, mỗi đao đều tấn công vào chỗ hiểm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro