Quản lý tài sản công

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nguyên tắc quản lý, sử dụng tài sản nhà nước:

Mọi tài sản nhà nước đều được Nhà nước giao cho cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý, sử dụng. Quản lý nhà nước về tài sản nhà nước được thực hiện thống nhất, có phân công, phân cấp rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan nhà nước và trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan nhà nước. Tài sản nhà nước phải được đầu tư, trang bị và sử dụng đúng mục đích, tiêu chuẩn, định mức, chế độ, bảo đảm công bằng, hiệu quả, tiết kiệm. Tài sản nhà nước phải được hạch toán đầy đủ về hiện vật và giá trị theo quy định của pháp luật. Việc xác định giá trị tài sản trong quan hệ mua, bán, thuê, cho thuê, liên doanh, liên kết, thanh lý tài sản hoặc trong các giao dịch khác được thực hiện theo cơ chế thị trường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Tài sản nhà nước được bảo dưỡng, sửa chữa, bảo vệ theo chế độ quy định. Việc quản lý, sử dụng tài sản nhà nước được thực hiện công khai, minh bạch; mọi hành vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản nhà nước phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

Thành tựu:

Bám sát chỉ đạo của Chính phủ, của Bộ, có sự ủng hộ của các Bộ, ngành và quan trọng nhất là sự nỗ lực phấn đấu của tập thể cán bộ, công chức. Triển khai nhiệm vụ Bộ giao mặc dù đội ngũ cán bộ còn ít cả về số lượng (28 người) và hầu như chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý tài sản song tập thể cán bộ, công chức của Cục đã phối hợp tốt với các Bộ, ngành và địa phương lăn xả vào việc để từ đó trưởng thành, vượt khó đi lên xây dựng nền tảng vững chắc cho công tác quản lý tài sản quốc gia, góp phần vào việc củng cố và xây dựng nền tài chính công ngày càng vững mạnh; đến nay  đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng:

Một là,Đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều văn bản quy phạm pháp luật giúp cho việc quản lý, sử dụng TSNN từng bước đi vào nề nếp, kỷ cương, kỷ luật, công khai minh bạch và có hiệu quả, được thể hiện trên các mặt sau:

- Về quản lý TSNN tại các cơ quan HCSN: Luật Quản lý, sử dụng TSNN lần đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 03/6/2008. Chính phủ đã tập trung chỉ đạo xây dựng hệ thống định mức, tiêu chuẩn đầu tư xây dựng trụ sở làm việc, tiêu chuẩn mua sắm phương tiện đi lại và các trang thiết bị phục vụ cho các cán bộ, công chức, viên chức. Sau khi các tiêu chuẩn, định mức, chế độ sử dụng TSNN được ban hành thì việc mua sắm tài sản vượt tiêu chuẩn, định mức, việc sử dụng TSNN lãng phí đã giảm đáng kể, tình trạng lạm dụng TSNN vào việc riêng cũng đã dần được khắc phục.

- Về quản lý đất đai: Năm 2003, Quốc hội đã ban hành Luật Đất đai mới để thay thế cho Luật Đất đai năm 1993. Cơ chế quản lý tài chính đối với đất đai mà nền tảng là chế độ thu tiền sử dụng đất và thu tiền thuê đất đã chuyển đổi cơ bản theo hướng thị trường. Việc xác định giá đất đã chuyển từ áp đặt theo bảng giá do Nhà nước quy định sang định giá bởi các tổ chức độc lập theo cơ chế thị trường. Chính sách thu tiền sử dụng đất và thu tiền cho thuê đất đã trở thành công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò chủ sở hữu của mình đối với đất đai, là công cụ đắc lực để huy động nguồn thu cho NSNN, góp phần xóa bỏ cơ chế “xin - cho” bao cấp về đất đai, nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất.

Về quản lý tài nguyên, tài sản kết cấu hạ tầng, tài sản dự trữ quốc gia và TSNN tại doanh nghiệp: Đây là lĩnh vực mới, nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này, Chính phủ đã trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Luật Khoáng sản, Luật Đê điều, Luật Dầu khí, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Di sản văn hoá, Luật Đường sắt, Luật Doanh nghiệp, Luật Tài nguyên nước, Pháp lệnh về Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi, Pháp lệnh Dự trữ quốc gia... Theo đó đã xác lập được các nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong quản lý, sử dụng TSNN ở những lĩnh vực này.

Xuất phát từ thực tế sử dụng TSNN trong những năm qua, đặc biệt là nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước còn nhiều lãng phí, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện sắp xếp lại nhà, đất trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đúc rút kinh nghiệm để triển khai ra áp dụng trên phạm vi cả nước. Theo chính sách này, toàn bộ trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh được bố trí, sắp xếp lại theo nguyên tắc: Di dời các cơ sở sản xuất kinh doanh gây ô nhiễm môi trường ra các khu công nghiệp, khu kinh tế. Cơ quan, đơn vị được chủ động sắp xếp lại nhà, đất được giao theo đúng chức năng, nhiệm vụ và phù hợp với quy hoạch sử dụng đất của địa phương; số nhà, đất dôi dư được phép bán, chuyển nhượng hoặc chuyển mục đích sử dụng, từ đó đã tạo ra nguồn tài chính mới để đầu tư xây mới, cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc hoặc được sử dụng để đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh mới, đầu tư chiều sâu, tăng thêm năng lực sản xuất kinh doanh; giành quỹ đất có lợi thế thương mại cho hoạt động kinh doanh, thương mại, dịch vụ, du lịch; đồng thời giành quỹ đất để xây dựng các công trình phúc lợi xã hội như trường học, bệnh viện và các công trình phúc lợi quan trọng khác của địa phương... góp phần chỉnh trang quy hoạch lại đô thị theo hướng hiện đại. Kết quả ban đầu cho thấy chính sách này mang lại kết quả quan trọng cả về kinh tế và xã hội.

Thực hiện phân cấp rõ ràng nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với TSNN giữa Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp; giữa các cơ quan có chức năng quản lý Nhà nước về tài sản và các cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng TSNN; đồng thời xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp trong quản lý, trách nhiệm của từng đơn vị trong sử dụng tài sản đảm bảo cho việc sử dụng TSNN đi dần vào nề nếp, kỷ cương và minh bạch.

Quản lý TSNN từ chỗ thụ động với công tác lập và chấp hành ngân sách nhà nước thì nay đã chủ động gắn với công tác lập và chấp hành ngân sách nhà nước, việc xây dựng dự toán ngân sách nhà nước được căn cứ trên cơ sở nhu cầu đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản phục vụ hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Đồng thời, TSNN bước đầu đã gắn giá trị với hiện vật, đảm bảo phù hợp với quá trình đầu tư xây dựng mới, mua sắm và sử dụng tài sản.

,Nhà nước đã thực hiện kiểm kê nắm được tổng quan về số lượng, giá trị và cơ cấu phân bố sử dụng TSNN trong khu vực HCSN và TSNN trong các doanh nghiệp. Các Bộ và địa phương đã bước đầu kiểm soát được việc sử dụng TSNN, hạn chế dần việc sử dụng tài sản không đúng mục đích, lãng phí, thất thoát.

Cơ chế quản lý TSNN đang từng bước được hình thành theo tinh thần đổi mới, gắn với thị trường. Theo đó, các hoạt động mua, bán TSNN, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cho thuê đất dần theo sát giá thị trường, cơ chế này cho phép huy động được một bộ phận quan trọng nguồn lực tiềm năng cho đầu tư phát triển; đồng thời góp phần ngăn chặn tiêu cực, chống thất thoát lãng phí. Đây là những nội dung rất cơ bản để Nhà nước thực hiện quản lý đầu tư, xây dựng mới, cải tạo, mua sắm, điều chuyển, thu hồi, bán, chuyển đổi hình thức sở hữu và thanh, xử lý TSNN.

 Một số hạn chế

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đã đạt được, công tác quản lý tài sản nhà nước cũng còn nhiều tồn tại, yếu kém như:

Quản lý tài sản thiếu chặt chẽ

KTNN đã phát hiện nhiều bộ, ngành quản lý tài sản chưa chặt chẽ như: Phản ánh giá trị tài sản không đúng; chưa tổ chức kiểm kê tài sản cuối năm; chưa ghi nhận tài sản vào sổ kế toán..., ngoài ra, còn tình trạng sử dụng tài sản không đúng mục đích, không hiệu quả, mua sắm tài sản chưa đủ thủ tục.

Chúng ta chưa nắm được đầy đủ, kịp thời TSNN của cả nước, cũng như của từng Bộ, ngành, địa phương; tình trạng đầu tư xây dựng, mua sắm, sử dụng TSNN sai mục đích, chế độ, tiêu chuẩn, định mức, đã gây ra lãng phí vẫn còn xảy ra ở một số lĩnh vực, một số đơn vị, địa phương, gây bức xúc trong dư luận xã hội, làm giảm sút nguồn nội lực quốc gia nói riêng và ở các đơn vị, địa phương nói riêng.

   1.1. Pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước quy định còn phân tán, chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chưa điều chỉnh bao quát hết các quan hệ về tài sản trong kinh tế thị trường, dẫn đến thiếu môi trường pháp lý minh bạch, đầy đủ để quản lý TSNN một cách có hiệu quả, tiết kiệm; ở một số nơi còn xảy ra tình trạng sử dụng lãng phí, thất thoát TSNN, gây bức xúc trong công luận và dư luận, hiệu lực pháp lý còn thấp.

Hiện nay trong hệ thống pháp luật hiện hành ở nước ta có tới 45 văn bản quy phạm pháp luật có các quy định liên quan đến tài sản nhà nước. Như vậy là quá phân tán. Trong khi đó cho đến thời điểm hiện nay, những văn bản này cũng mới chủ yếu quy định việc quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, còn những quan hệ về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp dường như vẫn chưa được quy định rõ ràng và đầy đủ. Do vậy, hiệu lực pháp luật của các quy định trong lĩnh vực đặc biệt quan trọng và nhạy cảm này vừa rất thấp, vừa thiếu nên không thể tạo ra một khuôn khổ pháp luật phù hợp để cho hoạt động quản lý và sử dụng tài sản nhà nước vận hành đúng đắn và có hiệu quả.

1.2. Việc quản lý nhà nước chuyên ngành về tài sản nhà nước trên thực tế còn nhiều hạn chế, bị động và thiếu tính chuyên nghiệp. Quy trình nghiệp vụ quản lý chưa khoa học và lạc hậu. Tổ chức bộ máy cơ quan thực thi nhiệm vụ quản lý Nhà nước về TSNN chưa được chú trọng kiện toàn.

Tổ chức bộ máy quản lý tài sản nhà nước các cấp là bộ phận giúp chính quyền các cấp, thủ trưởng bộ, ngành thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với tài sản nhà nước mặc dù đã được quy định nhưng việc triển khai trên thực tế còn rất chậm, dẫn đến các chế độ và biện pháp cụ thể để quản lý tài sản nhà nước chưa được thực hiện thống nhất tại các bộ, ngành, địa phương; hệ thống thông tin trong phạm vi cả nước làm căn cứ để chỉ đạo công tác quản lý tài sản nhà nước rất thiếu và yếu.

1.3. Các cơ quan quản lý nhà nước còn chưa thực sự quản lý, theo dõi sát được thực trạng và biến động của tài sản nhà nước trên thực tế hiện nay.

Hiện nay, từ Quốc hội, Chính phủ cho đến các bộ, ngành, các cấp chính quyền địa phương… đều chưa thực sự nắm rõ được tình trạng tài sản nhà nước như thế nào, cả về số lượng, giá trị, chất lượng và hiện trạng phân bổ sử dụng.

1.4. Tình trạng sử dụng tài sản nhà nước sai mục đích, sai tiêu chuẩn, định mức, chế độ, lãng phí vẫn còn xảy ra khá phổ biến ở các lĩnh vực, các cơ quan, tổ chức

Có thể nói tình trạng sử dụng, quản lý không đúng mục đích, cho thuê, cho mượn, để thất thoát, lãng phí rất lớn ở hầu như các ngành, các cơ quan, tổ chức, các địa phương, ở hầu hết các khâu của quá trình quản lý, từ khâu quyết định mua sắm đến khâu quản lý, sử dụng, đến khâu thanh lý và ở tất cả các khâu liên quan đến tài sản nhà nước. Đất đai, trụ sở làm việc của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức xã hội và doanh nghiệp còn bị sử dụng lãng phí, sử dụng sai mục đích như: bỏ trống, cho thuê, cho mượn, sử dụng để kinh doanh sai mục đích…

Hiện nay vẫn còn tình trạng nhiều cơ quan, tổ chức chiếm giữ quá nhiều nhà, đất so với nhu cầu sử dụng thực tế, dẫn đến sử dụng sai mục đích hoặc lãng phí. Qua công tác thanh tra đã phát hiện: năm 2001 có 6 bộ, ngành sử dụng trụ sở sai mục đích 15.353 m2; có 14 tỉnh cho thuê 3.482 m2, 9 tỉnh, thành phố sử dụng vào các mục đích khác 142.227 m2; năm 2002 kiểm tra 31/33 bộ, ngành ở trung ương và kiểm tra 59/61 địa phương phát hiện một số đơn vị đã sử dụng trụ sở làm việc để cho thuê là 16.000 m2, để kinh doanh dịch vụ và các mục đích khác là 157.000 m2

. Theo kết quả thanh tra năm 2001, có 14 bộ, ngành mua 29 xe ô tô vượt giá với tổng số tiền vượt là 1.079 triệu đồng; 45 tỉnh thành phố mua xe vượt tiêu chuẩn tới 265 xe, với tổng số tiền vượt là 30.957 triệu đồng; 2 bộ, ngành xây dựng trụ sở làm việc vượt tiêu chuẩn định mức 3.268 m2; 22 tỉnh, thành phố xây dựng trụ sở vượt định mức 35.507 m2. Năm 2002 có 17/33 bộ, ngành ở trung ương và 41/61 địa phương mua xe ô tô con vượt quy định về giá trị, vượt tiêu chuẩn về đầu xe với tổng giá trị 33 tỷ đồng

Công tác quản lý tài chính đất đai, tài nguyên khác còn nhiều sơ hở, cụ thể như: một số địa phương xác định giá thuê đất thấp hơn nhiều so với quy định, cá biệt có một số địa phương áp dụng chỉ thu bằng 50% đối với các tổ chức trong nước đã sử dụng đất thuê từ năm 1995 trở về trước. Vẫn còn tình trạng sử dụng nhà, đất của các cơ quan, tổ chức để kinh doanh hoặc cho thuê, việc xây dựng trụ sở làm việc mới tại một số cơ quan, tổ chức vẫn vượt tiêu chuẩn, định mức sử dụng nhà làm việc do Thủ tướng Chính phủ quy định. Theo một kết quả kiểm tra năm 2005, có 2 bộ, ngành xây dựng trụ sở làm việc vượt 3268 m2, có 22 tỉnh xây dựng trụ sở vượt mức 35.507 m2, và các cơ quan sử dụng nhà làm việc để cho thuê tại thời điểm năm 2005 của 31 bộ, ngành trung ương và 59 địa phương với 173.000 m2 nhà…

Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại.

Nguyên nhân của những hạn chế trong quản lý, sử dụng tài sản nhà nước thời gian nêu trên có nhiều, song có thể rút ra một số nguyên nhân chính sau đây:

2.1. Tài sản nhà nước trải qua một thời gian dài được quản lý, sử dụng theo cơ chế bao cấp; quan hệ tài sản giữa nhà nước với cơ quan, đơn vị sử dụng cơ bản chỉ là cấp và thu hồi tài sản; các cơ chế mới về quản lý sử dụng tài sản nhà nước mới ban hành chưa gắn quản lý ngân sách với quản lý tài sản, chưa gắn quản lý tài sản về hiện vật với quản lý, bảo vệ giá trị tài sản và hiệu quả sử dụng tài sản cũng như chưa gắn với yêu cầu nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và hoạt động của cơ quan, tổ chức được giao quản lý, sử dụng.

2.2. Nhà nước với tư cách là người đại diện sở hữu toàn dân đối với tài sản nhà nước, nhưng chưa thực hiện tốt vai trò ban hành chính sách, pháp luật và chưa thực hiện tốt trách nhiệm kiểm tra, giám sát tình hình quản lý tài sản nhà nước tại các các cơ quan, đơn vị được nhà nước giao quản lý, sử dụng tài sản. Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền địa phương chưa theo dõi đầy đủ, kịp thời về số lượng, giá trị và tình hình biến động tài sản nhà nước thuộc phạm vi mình quản lý. Các vi phạm của các cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý sử dụng tài sản nhà nước chưa được phát hiện kịp thời và khi phát hiện được lại chưa xử lý nghiêm minh, dẫn đến các tồn tại này vẫn kéo dài.

2.3. Cơ chế quản lý, sử dụng tài sản nhà nước không gắn với cơ chế tổ chức thực hiện dẫn đến hiệu lực của văn bản pháp luật về quản lý tài sản nhà nước không cao đối với công tác quản lý tài sản nhà nước. Ví dụ: nguyên tắc thẩm định đầu tư, mua sắm tài sản nhà nước để quản lý tài sản nhà nước ngay từ khâu hình thành tài sản đến nay vẫn chưa có quy định cụ thể về quy trình thực hiện; tổ chức bộ máy quản lý tài sản nhà nước các cấp là bộ phận giúp chính quyền các cấp, thủ trưởng bộ, ngành thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với tài sản nhà nước mặc dù đã được quy định nhưng việc triển khai trên thực tế còn rất chậm.

2.4. Chế tài xử lý các sai phạm trong quản lý, sử dụng tài sản nhà nước còn yếu, thiếu và chưa đồng bộ, việc tổ chức xử lý chưa kiên quyết và thiếu kịp thời, dẫn đến hiệu lực và hiệu quả thấp nên chưa đủ sức đẩy lùi các tiêu cực. Tình trạng sai phạm trong quản lý, sử dụng tài sản nhà nước đã và đang diễn ra. Các diễn đàn của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và của các cơ quan, tổ chức hữu quan cũng như công luận đã nhiều lần lên tiếng nhưng việc xử lý vi phạm vẫn không được như mong muốn. Một ví dụ điển hình là việc các thành phố lớn (như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh) đã có chủ trương thu hồi những diện tích đất công sử dụng lãng phí hoặc sai mục đích từ nhiều năm nay, nhiều địa chỉ đã được nêu ra nhưng cho đến nay không ít trường hợp chưa được xử lý dứt điểm. Và như vậy, đây sẽ lại là những tiền lệ xấu cho những vi phạm trong tương lai.

Định hướng đổi mới công tác quản lý công sản giai đoạn 2010-2011

Nhiệm vụ đặt ra với công tác quản lý công sản còn hết sức nặng nề. Tiếp tục đổi mới công tác quản lý tài sản công, nâng lên một tầm cao mới, đó là trăn trở của những người được Đảng và Nhà nước giao:

Một là, Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản  công:

- Ban hành đồng bộ, thống nhất hệ thống văn ban triển khai thi hành Luật Quản lý, sử dụng TSNN; đặc biệt chú trọng hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng TSNN phù hợp với điều kiện mới đảm bảo yêu cầu tiết kiệm, chống lãng phí và phục vụ được nhu cầu công tác.

- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thống nhất về quản lý TSNN thuộc kết cấu hạ tầng theo nguyên tắc: Mọi TSNN thuộc kết cấu hạ tầng đều phải được Nhà nước giao cho cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý, sử dụng; có phân công, phân cấp rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan nhà nước và trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan; đầu tư xây dựng và sử dụng đúng mục đích; bảo dưỡng, sửa chữa, bảo vệ theo chế độ quy định...

- Hoàn thiện chính sách tài chính đối với đất đai, bao gồm sửa đổi, bổ sung Luật đất đai, xây dựng Luật thuế sử dụng đất, sửa đổi, bổ sung chính sách thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, hướng dẫn cơ chế điều tiết phần giá trị tăng thêm của đất do Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng...

Hai là, Đổi mới cơ chế quản lý TSNN tại các đơn vị sự nghiệp, tiến tới chuyển các đơn vị sự nghiệp sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp; Quy định cơ chế quản lý, sử dụng TSNN giữa đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính và đơn vị sự nghiệp công lập chưa tự chủ tài chính do phù hợp với đặc điểm của từng loại hình.

Ba là, Đẩy nhanh tiến độ thực hiện việc sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước, hoàn thành trước ngày 31/12/2010 với các mục tiêu cơ bản là:

- Tiếp tục sử dụng hệ thống công sở phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ được giao, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất;

- Chuyển nhượng, chuyển mục đích sử dụng đất tạo Quỹ đất mới cho các mục đích hiệu quả hơn (thương mại, nhà ở, công cộng…);

- Tạo ra nguồn lực mới để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.

Bốn là, Trên cơ sở rút kinh nghiệm từ thí điểm mua sắm TSNN theo phương thức tập trung để nghiên cứu, xây dựng cơ chế thống nhất trên cả nước. Đồng thời, thiết lập hệ thống các công cụ hỗ trợ cho việc thực hiện mua sắm tập trung.

Năm là, Hiện đại hoá công tác quản lý công sản, xây dựng, cập nhật và hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về TSNN.

Sáu là, Thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng TSNN.

Bảy là, Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng TSNN tại các cơ quan, đơn vị, tổ chức.

Tám là, Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý công sản từ trung ương đến địa phương. Với nhiệm vụ nặng nề như vậy, tổ chức của Cục Quản lý công sản cần được sắp xếp theo hướng chuyên sâu hơn. Đặc biệt, cần nhanh chóng phát triển Trung tâm cơ sở Dữ liệu về tài sản nhà nước để có thể bao quát một cách hệ thống toàn bộ hệ thống tài sản nhà nước, cập nhật được số liệu thông qua các chương trình sử dụng công nghệ thông tin hiện đại. Công khai và minh bạch hoá các số liệu về tài sản và cung cấp thông tin tài sản nhà nước phục vụ chủ trương “vốn hoá” TSNN. Tại các Bộ, ngành và các địa phương cần có tổ chức chuyên về quản lý công sản, các Chi cục hoặc các phòng độc lập, các Trung tâm. Bên cạnh đó cần nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý TSNN thông qua chương trình đào tạo ban đầu, đào tạo lại và cập nhật kiến thức hàng năm.         

Để thực hiện được những nhiệm vụ hết sức nặng nề trên đây, cần phải có quyết tâm và biện pháp tổ chức thực hiện chặt chẽ. Chúng tôi hy vọng và tin tưởng rằng, phát huy kết quả đạt được trong 15 năm (1995 - 2010), hệ thống quản lý công sản sẽ phát triển không ngừng và cùng với toàn ngành tài chính nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ trong giai đoan mới./.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro