Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng Quyển 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

<P>

<P align=center><B>Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng</B></P>

<P align=center><B>Quyển 1</B></P>

<P align=center><B>觀世音菩薩本跡感應頌</B><B>,</B></P>

<P align=center><B>卷一</B></P>

<P align=center><B>彭澤菩薩戒弟子許止淨述</B></P>

<P align=center><B>Phần 1</B></P>

<P align=center>Bành Trạch Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn</P>

<P align=center>Ấn Quang Đại Sư giám định</P>

<P align=center>Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa</P>

<P align=center>Giảo chánh: Minh Tiến, Huệ Trang, Vạn Từ và Đức Phong</P>

<P> </P>

<P><B>Tán dương hình tượng ở đầu sách Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng</B></P>

<P><B> </B></P>

<P>Tuyệt thay Đại Sĩ, thệ nguyện khó tuyên, Bi vận Đồng Thể[1], Từ khởi Vô Duyên[2], tầm thanh cứu khổ, tùy loại hiện hình, hiện khắp sắc thân, tình lẫn vô tình. Nếu có chúng sanh gặp các khổ nạn, vừa xưng danh Ngài, lập tức cứu vớt. Giàu, thọ, con cái, hễ có mong cầu, lễ bái cúng dường, đều được thỏa nguyện. Vì sao xưng danh, liền được cảm thông? Do tâm Bồ Tát đã chứng Chân Không từ thuở lâu xa. Do tâm "vô tâm" hợp tâm chúng sanh và hợp tâm Phật, chúng sanh mê trái, chẳng thể thọ ân. Do gặp tai nạn, hoặc chuyện khẩn cấp, vừa phát lòng Thành, cảm ứng đạo giao, như trăng trong mát, vằng vặc giữa trời, in bóng trong nước, không đâu chẳng trọn. Nếu như chẳng tin, không sao cảm được, như nước xao, đục, bóng trăng chẳng tỏ, lỗi tại nơi nước, há trăng chẳng chiếu? Nếu nước lặng trong, liền hiện rạng ngời. Cũng như nắng Xuân, tăng trưởng mầm mộng, gặp phải cây khô, càng thêm mục nát; cam lộ tưới khắp, cây cỏ cùng tươi, nếu cây không rễ, làm sao sanh sôi?</P>

<P>Yếu quyết nhập đạo: Tín là bậc nhất; muốn gội từ ân, không tin chẳng được! Tưởng nghĩ Bồ Tát, vì sao được vậy? Là vì gốc xưa, nên thành như thế. Gốc xưa ra sao? Chứng trọn Tam Giác[3], hiệu Chánh Pháp Minh[4], phước huệ cùng trọn, tuy trụ Tịch Quang[5], bi nguyện chưa nguôi, lại hiện Bồ Tát, phù tá Pháp Vương. Hiện thân mười giới[6], thân nào cũng hiện, xét theo chiều dọc, suốt khắp ba đời, xét theo chiều ngang, trọn khắp mười phương, Công đức Bồ Tát, khó tán dương trọn, nêu bày đại lược, làm đèn soi sáng trong chốn đêm dài. Riêng cầu cư sĩ, ở đất Giang Tây, là Hứa Chỉ Tịnh, đọc khắp kinh điển, soạn lời tán tụng, kính vẽ thánh tượng, truyền khắp pháp giới, khiến mọi hàm thức đều được chở che.</P>

<P>Thường Tàm Quý Tăng Ấn Quang hòa-nam[7] kính cẩn soạn.</P>

<P> </P>

<P><B>Lời đề từ thứ nhất mở đầu sách</B></P>

<P><B> </B></P>

<P>      Quán Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, từ bi rộng lớn, ứng theo từng loại chúng sanh mà hiện thân, tầm thanh cứu khổ. Người đời hễ bị bệnh tật, hoạn nạn, nếu tâm có thể sửa lỗi, hướng lành, cung kính chí thành, thường niệm danh hiệu của Bồ Tát thì tùy theo lòng Thành lớn hay nhỏ, không ai chẳng được Ngài rủ lòng gia bị. [Lòng Thành] nhỏ thì gặp dữ hóa lành, gặp nạn thành hên, [nếu lòng Thành] lớn thì nghiệp tiêu, trí rạng, chướng hết, phước tăng, thậm chí siêu phàm nhập thánh, liễu thoát sanh tử. Đáng tiếc là cõi đời phần nhiều không biết; vì thế, đặc biệt duyệt khắp kinh điển và các sách vở, soạn thành tụng văn, ghi thêm chú thích cặn kẽ, ngõ hầu khắp cõi đời đều biết Bồ Tát quả thật là thuốc men cho bệnh ngặt, là gạo thóc trong năm đói kém, là người dẫn đường nơi nẻo hiểm, là bè báu nơi bến mê. Kính mong những ai đọc sách này sẽ đều tùy theo sức mình, lần lượt khuyên dạy lẫn nhau, in, biếu, lưu truyền khiến cho hết thảy những người cùng hàng đều được gội từ ân, cùng được hưởng pháp hóa, ngõ hầu an ủi lòng Bi độ sanh của Bồ Tát, thỏa chí khăng khăng cảm thánh của đương nhân.</P>

<P> </P>

<P><B>Lời đề từ thứ hai ở đầu sách</B></P>

<P><B> </B></P>

<P>      Kính cẩn trình bày phương pháp xem đọc dành cho những vị chưa từng nghiên cứu Phật học.</P>

<P>      Ba quyển đầu trong bộ tụng văn này được chia làm hai phần lớn:</P>

<P>1) Từ trang thứ nhất của quyển Một cho đến dòng thứ sáu của trang hai mươi lăm [trong quyển Một] đều là những bài ca tụng các chuyện thuộc Bổn hay Tích của Bồ Tát trong kiếp xưa trích theo kinh điển.</P>

<P>2) Tiếp theo đó đều là những bài kệ tụng về sự tùy cơ cảm ứng của Bồ Tát ở phương này (tức cõi Sa Bà nói chung và Trung Hoa nói riêng - chú thích của người dịch).</P>

<P>Nếu những vị nào chưa từng nghiên cứu Phật Học thì khi xem, hãy nên đọc trước từ dòng thứ bảy trang hai mươi lăm của quyển thứ nhất trở đi cho đến hết quyển thứ ba, rồi đọc những phần dẫn kinh văn để chứng minh trong quyển thứ tư. Đọc phần kinh văn dẫn chứng xong, lại xem từ trang thứ nhất của quyển Một thì sẽ chẳng cảm thấy khó hiểu, chẳng nẩy sanh ý tưởng không muốn đọc cho hết, chắc chắn sẽ hớn hở, hoan hỷ, sanh lòng cảm kích lớn lao. Đối với những điều người đời trước đã may mắn tránh được thì chính mình cũng muốn tránh. Phàm những gì người xưa đã may mắn đạt được thì chính mình cũng muốn đạt được. Bỏ cái tâm chấp trước của phàm phu, thuận theo hoằng nguyện của Bồ Tát, tự xót, xót người, tự thương, thương người. Từ đấy, thường niệm thánh hiệu của Bồ Tát, lại còn khuyên khắp hết thảy những người cùng hàng [đều niệm danh hiệu Bồ Tát] để ai nấy ắt đều tiêu trừ ác nghiệp từ vô thủy, tăng trưởng thiện căn tối thắng, gần là hưởng cái nhân "các duyên thuận thảo, không điều gì chẳng tốt lành", xa là đạt cái quả "siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử".</P>

<P>Ấn Quang bạch.</P>

<P> </P>

<P><B>Lời tựa của bộ Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng</B></P>

<P> </P>

<P>      Một niệm tâm tánh của chúng ta bất biến nhưng tùy duyên, tùy duyên mà bất biến. Gặp phải duyên mê nhiễm sẽ trái giác, hợp trần, luân hồi trong lục đạo, đến mức cùng cực là đọa mãi trong địa ngục A Tỳ, nhưng tâm tánh chẳng giảm. Gặp duyên ngộ tịnh sẽ bỏ vọng về với Chân, tiến nhập, chứng đắc tam thừa, tột bậc là viên thành vô thượng giác đạo, nhưng tâm tánh chẳng tăng. Trong địa vị phàm phu, nếu được nghe danh hiệu của Phật và những ý nghĩa rất sâu trong kinh thì ngay lúc ấy pháp Bồ Đề thấm nhuần đã được gieo xuống ruộng tám thức. Tuy thoạt đầu mịt mờ chẳng tự hay biết, nhưng nếu có thể chẳng tự ruồng rẫy, phụ bạc chính mình, cực lực tăng trưởng [chủng tử ấy] thì sẽ tiếp tục từ mảy giọt trở thành ngòi rãnh, dần dần trở thành kinh rạch[8] cho đến thành sông to sóng cuộn ngập trời, cuối cùng ắt sẽ vào được biển Tát Bà Nhã (Nhất Thiết Trí)[9], viên mãn Bồ Đề, trở về chỗ "không thể được", triệt chứng tánh Chân Như nhiệm mầu thường trụ bất biến vốn sẵn có trong tâm, từ đấy, lại do Bổn mà thị hiện Tích, dùng Quả để hành Nhân, truyền đăng cho nhau, sáng ngời vô tận. Há chẳng phải là bậc đại trượng phu vĩ đại ư?</P>

<P>      Kinh Pháp Hoa dạy: <I>"</I><I>Chư</I><I> Phật lưỡng túc tôn, tri pháp thường vô tánh, Phật chủng tùng duyên khởi, thị cố thuyết Nhất Thừa"</I> (Chư Phật lưỡng túc tôn[10], biết pháp thường vô tánh, Phật chủng do duyên khởi, vì thế nói Nhất Thừa), thời và nghĩa của chữ Duyên lớn lao thay! Tôi từ thuở đội mũ[11] liền đọc kinh Phật; khi ấy, chỉ muốn cắt xén lấy những ý nghĩa của kinh văn để làm tài liệu viết lách. Năm Dân Quốc thứ hai (1913) mới hướng lòng về Tịnh Độ để mong thoát khỏi nhà lửa này, vào ao báu kia. Do biết Quán Âm Đại Sĩ chính là bậc hướng dẫn hàng đầu nơi cõi sen, lại hiện thân trong khắp các cõi nước nhiều như vi trần, tùy theo căn cơ lợi ích chúng sanh, lại có nhân duyên sâu đậm nhất với cõi Sa Bà. Do Bồ Tát thị hiện ứng hóa tại Phổ Đà, tỉnh Chiết Giang, nên bèn dấy lên ý niệm muốn đến triều bái, nhưng còn chưa có dịp khởi hành. Về sau, đọc mấy bài văn của lão pháp sư Ấn Quang đăng trên báo đề xướng niệm Phật, khuyến khích, cổ vũ [hành nhân tịnh nghiệp] hãy dốc lòng thành kính, không ngờ rất hợp với nỗi niềm canh cánh trong lòng tôi, chỉ đúng căn bệnh tôi đang mắc phải <I>(căn bệnh ở chỗ hoàn toàn không biết thành kính, nay tự phơi bày ngõ hầu sám hối)</I>, bèn một lòng mong được gặp Ngài.</P>

<P>Năm Dân Quốc 11 (1922), gói ghém hành trang lên đường, lên núi triều bái, yết kiến, dâng lên thầy bài Lễ Quán Âm Sớ, rất mong được thầy hứa khả. Ngài chẳng đợi tôi thỉnh cầu, đem tặng bộ Văn Sao mà tôi vốn sẵn lòng ngưỡng mộ; nếu chẳng phải do túc duyên xui khiến, há lại có chuyện khế hợp như thế ư? Ngày hôm sau xuống núi, Sư lại ủy thác chuyện soạn Đại Sĩ Tụng, tôi cũng tự quên mình kém hèn, ngây ngô nhận lời. Tu chỉnh, thêm một thiên Đại Sĩ Tụng vào bộ [Phổ Đà] Sơn Chí là chuyện thầy đã canh cánh bên lòng mấy năm; hiềm vì tâm độ sanh tha thiết, người hỏi đạo quá đông, Ngài chưa rảnh rang để cất bút. Những người cùng học Phật nơi xứ tôi mấy năm trước đã từng yêu cầu soạn văn ca tụng sự cảm ứng của phẩm Phổ Môn, nhưng tôi sợ phải nhọc lòng nên đã viện cớ bệnh tật để thoái thác.</P>

<P>Đến nay, vâng lời thầy dặn dò, giao phó, rốt cuộc dùng văn chương để báo đáp [ân đức] Đại Sĩ, thỏa lòng mong mỏi của những người cùng hàng, nhân duyên ấy há có thể nghĩ bàn được ư? Trước hết là biên tập kinh văn, đến phần sự tích cảm ứng, tôi phải than thở [những sự tích cảm ứng của Quán Thế Âm Bồ Tát] mênh mang như khói tỏa trên mặt biển, chẳng biết phải viết từ đâu. Từ những lời thầy răn như<I>"mong được lưu thông trọn pháp giới, khiến cho chúng sanh đều cùng được thấm đượm sự giáo hóa từ ái"</I>, như <I>"khiến cho chúng sanh trong pháp giới cùng gieo thiện căn, cùng được sanh về Tây Phương mới thôi"</I>, như <I>"người đọc sẽ do sách này mà hoan hỷ, sẽ hưởng lợi ích sanh thiện, phá ác, thấu hiểu lý"</I>, bất giác đột nhiên ngộ hiểu lời thầy khuyên chính là [nói về] tấm lòng Đại Sĩ. Công đức của Đại Sĩ, [ngay cả] Phổ Hiền Bồ Tát vẫn chẳng thể suy lường được một phần bằng sợi lông thì làm sao [hạng phàm phu như tôi có thể] ca tụng được? Xó chợ cùng quê, ngu phu, ngu phụ không ai chẳng nghe danh Đại Sĩ, sùng phụng Ngài là bậc từ mẫu, há có thể ca tụng được ư? Lời ca tụng này, bất quá là nương theo Bổn Tích của Đại Sĩ để răn đời, giáo hóa cõi tục mà thôi!</P>

<P>Trong tác phẩm ca tụng này, trước hết là Khế Kinh, kế đến là sự cảm ứng, [tức là] Bổn trước, Tích sau[12]. Sự tu chứng được nói đến trong kinh chính là Bổn của Bổn, còn sự ứng hóa chính là phần Tích của Bổn. Những sự thị hiện theo từng loại trong phần cảm ứng chính là từ Bổn hiện Tích; cứu khổ, ban vui, chính là phần Quyền của Tích. Hoằng pháp, nhiếp hóa chúng sanh chính là Thật trong Tích. Đoạn nói về mười tâm trong phần kết luận sau đấy nhằm khuyến khích hành giả hãy từ Tích trở về Bổn.</P>

<P>      Hơn nữa, sự thị hiện trong loại cảm ứng đầu tiên chính là vì chúng ta trái giác hợp trần, làm nô lệ cho tai mắt đã lâu, phàm những gì chúng ta không thể thấy biết thường coi là hư giả[13], chẳng tin Pháp Thân thường trụ và [thật sự] có Phật, Bồ Tát, cũng chẳng tin Pháp Thân lưu chuyển, có nhân quả báo ứng. Nỗi họa của kiến giải cho rằng "chết rồi là hết sạch" chẳng thể kể xiết được! Vì thế, Đại Sĩ thị hiện để răn nhắc, muốn cho con người đừng cô phụ ơn Phật, đừng cô phụ tánh linh của chính mình.</P>

<P>Kế đó, cứu khổ, ban vui là vì chúng ta bao kiếp mê vọng, dẫu biết tâm là chủ nhân, [xả] thân như đổi nhà, nhưng Ngã Kiến vẫn chẳng thể rỗng không được, vẫn cứ hướng ra ngoài rong ruổi tìm cầu, vẫn cứ tạo nghiệp như ôm củi chữa lửa, chỉ càng thêm tự thiêu thân. Nhất niệm hồi quang, dùng tâm chuyển nghiệp, hình ngay, bóng sẽ thẳng, đấy gọi là <I>"tự cầu lắm phước"</I> vậy! Kế đến là kẻ hoằng pháp, ba cõi không yên ví như nhà lửa, hy sinh những thứ quý đẹp, cam phận tầm thường mà còn tự hào, dùng Phật pháp để cầu phước báo, dùng minh châu để ném chim sẻ, người trí tiếc nuối lắm thay!</P>

<P>Vì thế, đẩy lùi pháp thế gian, đề cao pháp xuất thế; nhưng tu hành không gì đơn giản bằng trì danh, thành Phật không chi dễ bằng sanh về Tịnh Độ. Bởi thế, nhiếp hóa chúng sanh, để đến rốt cuộc họ sẽ quy hướng pháp này. Đấy chính là ý nhỏ nhiệm khuyên dụ dần dần, mà điều ấy cũng nhằm đề cao ý chỉ của chương [Quán Âm] Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm: <I>"Trước hết là thị hiện, kế đến là cứu khổ, thỏa mãn sở cầu, nhằm [khiến cho chúng sanh đều] quy hướng đại Niết Bàn"</I>. Chánh văn và phần chú giải [của bộ Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng này] tổng cộng ba quyển, tôi ghép thêm vào sau sách những đoạn trích dẫn kinh văn để làm chứng, tạo thành một quyển nữa.</P>

<P>Soạn xong bản thảo tôi liền trình lên đại sư Ấn Quang giám định, được Ngài hứa khả rồi mới dám soạn thành bản hoàn chỉnh. Văn chương tuy kém cỏi, vụng về, nhưng đối với ý nguyện muốn nêu bày sự cảm ứng nơi Bổn và Tích của Đại Sĩ cũng không phải là chẳng giúp được tí nào! Nguyện Tam Bảo gia bị, ngõ hầu độc giả đều tin tưởng, hành theo, sẽ về thẳng Lạc Bang, chẳng lẩn quẩn trong tam giới, triệt chứng tự tánh, thường trụ Tịch Quang. Kinh giáo trong Đại Tạng như ngón tay chỉ mặt trăng, tấm cám thế tục nào đáng cho người sáng mắt đoái hoài, nhưng thanh luận[14] đã tuyên rõ, Như Lai huyền ký[15], do lòng ngưỡng mộ Đại Sĩ, nên bất đắc dĩ vẫn chẳng tự xét mà cứ phô trương văn chương phàm tục, tầm thường. Tôi trước đã có duyên với Đại Sĩ, sau lại được kết duyên với đại sư Ấn Quang, rốt cuộc tác phẩm này có lẽ sẽ được Đại Sĩ tạo duyên mà lưu thông phổ biến trong thiên hạ mai sau, đèn nối tiếp đèn, sáng ngời vô tận, ngõ hầu thỏa nguyện độ sanh của Đại Sĩ, công khăng khăng soạn thuật cũng chẳng uổng phí. Đấy chính là điều tôi vẫn sớm tối thơm thảo cầu chúc vậy.</P>

<P>Đầu Hạ năm Giáp Tý, tức năm Dân Quốc 13 (1924), Hứa Chỉ Tịnh soạn ở Bành Trạch.</P>

<P> </P>

<P><B>Lời tựa thứ hai</B></P>

<P><B> </B></P>

<P>      Sự khổ trong thế giới Sa Bà nhiều nhất, chúng sanh trong cõi Sa Bà nhĩ căn nhạy bén nhất. Do Quán Âm Đại Sĩ tâm từ bi tha thiết nên có nhân duyên sâu đậm nhất đối với thế giới này. Do Ngài tùy loại hiện thân, tầm thanh cứu khổ, khiến cho chúng sanh nghe danh, thấy hình, luyến mộ, tán thán. Do nhân duyên ấy khiến cho chúng sanh gần là gieo phước trong cõi trời người, xa là chứng quả Bồ Đề. Trong hội Lăng Nghiêm thuở trước, Ngài hiển thị sự tu nhân nơi bổn địa, từ Văn - Tư - Tu, nhập Tam Ma Địa, xoay [cái Nghe] trở lại nghe nơi tự tánh, chứng viên thông chân thường. Tâm diệu giác do ngài chứng được nơi bổn địa, trên hợp với sở chứng rốt ráo của mười phương chư Phật, dưới hợp với cái tự tâm sẵn có của chúng sanh mười phương. Do vậy, Ngài và chư Phật có chung một từ lực, cùng một niềm bi ngưỡng với chúng sanh. Từ đấy, hiện thân trong mười pháp giới, dùng ba mươi hai ứng thân, mười bốn thứ vô úy, bốn thứ vô tác diệu lực chẳng thể nghĩ bàn độ thoát chúng sanh, khiến cho họ đều đích thân chứng được diệu giác chân tâm sẵn có trong tự tâm mới thôi.</P>

<P>Đức Phật sai ngài Văn Thù chọn lựa pháp môn khế cơ nhằm lợi lạc chúng sanh trong đời hiện tại, vị lai; nhân đấy, đức Văn Thù loại trừ [pháp Viên Thông của] hai mươi bốn vị thánh, riêng đề cao [pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông của] Quán Âm. Những kẻ mò mẫm mù quáng chẳng hiểu rõ duyên do, liền bảo: "Quán Âm trúng tuyển, Thế Chí hỏng thi!" Do một lời này khiến cho những kẻ không hiểu biết miệt thị pháp môn Niệm Phật, chẳng chịu tu trì, chẳng biết Nhĩ Căn Viên Thông nhằm dành cho bậc đương cơ là A Nan vốn phạm lỗi đa văn[16] cũng như những kẻ lợi căn chuyên tham cứu hướng thượng trong đời sau, còn Niệm Phật Viên Thông thích hợp với khắp mọi căn cơ của hết thảy chúng sanh trong mười phương ba đời. Vì vậy, bậc chứng ngang chư Phật vẫn phải hồi hướng vãng sanh, kẻ sắp đọa A Tỳ mười niệm liền dự vào phẩm cuối.</P>

<P>Quán Âm và Thế Chí cùng là bậc thượng thủ trong cõi Di Đà, cùng nhiếp thọ người niệm Phật trong mười phương sanh về Tịnh Độ; nhưng mỗi Ngài dạy pháp tu khác biệt đôi chút. Bởi lẽ, một vị chuyên trọng niệm Tha Phật, nhưng không có Tự Phật thì làm sao hiển được Tha Phật? Một vị chú trọng niệm Tự Phật, nhưng không có Tha Phật làm sao liễu được Tự Phật? Niệm Tha Phật dường như thuộc về sự tướng, nhưng Lý do Sự hiển. Niệm Tự Phật dường như thuộc về lý tánh, nhưng Sự do Lý thành. Hiểu rõ điều này thì Tự và Tha chẳng hai, Sự và Lý như một, cùng trở về biển Tát Bà Nhã, cùng tiến nhập Bồ Đề giác đạo, đâu còn gì để luận định là giống hay khác!</P>

<P>Hơn nữa, trong kinh Đại Bi, Đại Sĩ dạy người tụng chú hãy <I>"chí tâm xưng niệm danh hiệu ta"</I> mà cũng <I>"hãy chuyên niệm danh hiệu đức Bổn Sư của ta là A Di Đà Như Lai, rồi mới tụng chú".</I> Ngài còn đối trước đức Phật, tự thề rằng: <I>"Tụng trì thần chú Đại Bi mà nếu chẳng sanh về các cõi Phật thì con thề chẳng thành Chánh Giác".</I> Đấy chính là <I>"ức Phật, niệm Phật, hiện tiền, tương lai nhất định thấy Phật"</I> như Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói. Cần biết rằng: Đại Sĩ ứng hóa từ đầu đến cuối đều lấy Niệm Phật làm pháp chủ yếu. Trong phẩm Phổ Môn, Phật dạy hết thảy phàm thánh hãy niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, xét ra có khác gì niệm Phật đâu?</P>

<P>Phổ Đà Sơn ở phía Đông đất Chiết Giang chính là đạo tràng ứng hóa của Đại Sĩ, mà cũng là chỗ Đại Sĩ thuyết pháp cho Thiện Tài thuở ấy. Pháp sư Ấn Quang đã trụ tích[17] tại núi ấy hơn ba mươi năm, do thấy Phổ Đà Sơn Chí bản cũ chưa từng nêu tỏ sự cảm ứng của Đại Sĩ nơi Bổn và Tích, thật đúng là bỏ gốc lấy ngọn, mua rương trả châu[18], thật đáng đau tiếc, tính đem những điều thuộc về Bổn và Tích của Đại Sĩ trong Đại Tạng và sự cảm ứng tại phương này soạn thành lời ca tụng và chú thích ý nghĩa của từng điều một, lại tập hợp những sự thuộc về Bổn Tích trong các kinh để làm chứng cứ, ngõ hầu hết thảy hữu tình đều cùng biết đến ân sâu bao kiếp của Đại Sĩ, sẽ đều thường niệm, cung kính, đều được mãn nguyện. Do sức không lo xuể, bèn cậy người bạn thân thiết là cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh biên soạn. May sao bản thảo đã hoàn thành, muốn sắp chữ in ra mấy vạn bản hòng lưu truyền khắp trong ngoài nước. Do vậy, tôi ghi lại nguyên do để thưa trình cùng các vị độc giả.</P>

<P>Giữa Hạ năm Giáp Tý, tức năm Dân Quốc 13 (1924), Hoàng Khánh Lan (nguyên quán Thượng Hải) viết tại dinh Đạo Doãn[19] đất Cối Kê</P>

<P> </P>

<P><B>Lời tựa thứ ba</B></P>

<P><B> </B></P>

<P>Hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian đều do thời tiết, nhân duyên mà phát khởi. Vì thế, cổ đức nói: <I>"Nếu thời tiết đến, lý tự tỏ bày".</I> Thật đúng là như thế! Quang tầm thường, kém cỏi, trăm chuyện chẳng làm được một điều nào, ăn bám chùa Pháp Vũ ở núi Phổ Đà ba mươi hai năm. Trước kia đọc Phổ Đà Chí, thấy những điều ghi chép trong ấy đều thuộc chuyện hưng - phế của đạo tràng và những chuyện tầm thường như vậy. Còn như sự - lý, bổn - tích trong những kiếp xưa của Quán Âm Đại Sĩ cũng như những nhân duyên Ngài cảm ứng trong cõi này đều thiếu sót, sơ sài, khôn ngăn khiến người ta phải thở dài!</P>

<P>Năm Dân Quốc thứ sáu (1917), ba vị cư sĩ Vương Thái Thần, Châu Hiếu Hoài, Trần Tích Châu lên núi tìm gặp. Ông Vương, ông Châu nói:</P>

<P>- Phổ Đà là đạo tràng thánh địa của Quán Âm Đại Sĩ, trong ngoài nước đều kính ngưỡng, sao lại bãi bỏ giảng tòa đã lâu, nỡ để pháp đạo tịch mịch? Xin thầy hãy phát tâm giảng kinh, chúng con sẽ vì thầy trù liệu, lo toan chi phí.</P>

<P>Quang viện cớ mình bệnh tật, kém cỏi, hết sức từ chối. Ông Tích Châu bèn nói:</P>

<P>      - Sơn Chí đã lâu không tu chỉnh, bản gỗ khắc đã mờ câm. Nếu thầy chịu sửa chữa, con sẽ khắc in.</P>

<P>      Quang nói:</P>

<P>      - Chuyện ấy nào phải dễ dàng! Nếu chiếu theo lệ cũ thì phải là văn nhân mới làm nổi. Nếu đem những chuyện tu - chứng, bổn - tích trong những kiếp xưa kia của Đại Sĩ và những sự tích cảm ứng trong phương này, mỗi chuyện đều lược thuật những nét chánh khiến cho người đọc đều biết ân Đại Sĩ trọn khắp các cõi số lượng nhiều như cát, lòng Từ tế độ không ngằn mé; từ đấy, phát khởi chánh tín, thân tâm quy y, gần là hưởng phước trời - người, xa là chứng quả Bồ Đề, mà không xem khắp Đại Tạng, tra cứu đủ mọi sách vở sẽ không thể làm được. Nếu chẳng vạch rõ các sự - lý, bổn - tích, cảm ứng của Đại Sĩ thì chính là bỏ chủ trọng khách, bỏ gốc theo ngọn, có khác gì những sơn kinh thủy chí[20] tầm thường? Làm sao tỏ rõ Phổ Đà là đạo tràng ứng hóa của Đại Sĩ, lại sao có thể tỏ rõ Đại Sĩ là bậc cha mẹ đại từ bi của pháp giới chúng sanh, có nhân duyên rất sâu đối với chúng sanh trong cõi Sa Bà cho được? Nhưng Quang do túc nghiệp đến nỗi tâm không hiểu biết, mắt gần như mù lòa, còn phải sám hối một hai năm đợi đến lúc nghiệp tiêu trí rạng, chướng hết mắt sáng thì sẽ chẳng tiếc thân mạng gắng làm cho thành tựu. Nếu như nghiệp nặng chẳng thể cảm ứng để trừ khử cho hết [nghiệp chướng] được thì sẽ qua Giang Tây, cầu cư sĩ Lê Đoan Phủ thay Quang lo liệu việc này. Ông ấy học vấn quán thông Nho - Thích, văn tài xuất chúng, ắt sẽ nêu tỏ tâm hạnh, sự tích từ bi của Đại Sĩ.</P>

<P>      Năm sau, cư sĩ Từ Úy Như đem Văn Sao ấn hành, khiến cho những ai không xem xét kỹ, lầm tưởng Quang là bậc tri thức; từ đấy, thư từ qua lại, ngày càng không rảnh rỗi để làm. Mùa Xuân năm Dân Quốc thứ tám (1919), ông Đoan Phủ quy Tây, cái tâm đã phát trước kia trở thành chuyện nói xuông! Mùa Xuân năm Dân Quốc thứ 11 (1922), Tri Sự[21] vùng Định Hải là ông Đào Tại Đông lên núi, bảo: "Sơn Chí được lưu thông sẽ khiến cho ai nấy do tin tưởng đều cải ác làm lành, phản vọng quy chân, quả thật là nhiệm vụ quan trọng để vãn hồi thế đạo nhân tâm, hãy nên gấp rút tu chỉnh". Quang thấy tâm ông Đào hộ pháp khẩn thiết, lòng cứu thế ân cần, liền thưa với chủ nhân hai chùa Phổ Tế và Pháp Vũ khẩn khoản xin ông Đào hãy đích thân đảm nhiệm chuyện này. Ông Đào do bận bịu việc công, bèn ủy thác vị nhân sĩ trong vùng là ông Vương Nhã Tam đảm nhiệm. Hết thảy sự việc thì ngoài có ông Đào, trong núi có hòa thượng Khai Như đã thoái ẩn[22] cùng thương lượng, châm chước lo liệu, Quang không rảnh rỗi nên tuyệt chẳng hề hỏi đến.</P>

<P>Năm sau, ông Đào được thăng chức, chuyển lên huyện Hàng, nhưng vẫn gởi thư từ qua lại để bàn bạc, châm chước chuyện này. Nếu chẳng phải từ xưa đã từng được Đại Sĩ phó chúc, há có được như thế hay chăng? Lúc mới vừa bàn bạc chuyện tu chỉnh Sơn Chí xong xuôi, chưa đầy một tháng thì cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh từ huyện Bành Trạch, tỉnh Giang Tây, đến viếng thăm, vừa gặp gỡ liền thành [bạn bè] thuận thảo. Quang giãi bày nỗi niềm ấp ủ khi xưa, đem chuyện soạn Đại Sĩ Tụng nhờ vả, ông bèn chấp thuận ngay. Nếu chẳng phải do Đại Sĩ ngầm gia bị, làm sao có dịp gặp gỡ như vậy cho được?</P>

<P>      Ông Hứa bèn tra cứu khắp Kinh Tạng và các sách vở, phải mất hai năm mới hoàn thành bản thảo, soạn thành tụng văn gần hai vạn chữ. Lại còn chú thích những ý nghĩa liên quan để người đọc biết hết căn cội; lại còn trích lục các kinh để làm chứng cớ. Tụng Văn gồm ba quyển, dẫn chứng từ kinh văn gồm một quyển, tổng cộng hơn ba trăm bảy mươi trang, được gởi đến [Phổ Đà] vào đầu mùa Hạ. Những ý nghĩa của Tụng Văn đã được trình bày trong lời tựa của ông Hứa; ở đây không nhắc lại nữa. Trước kia, Quang vốn muốn đặt phần này vào đầu bộ Sơn Chí, nay vì số quyển quá nhiều, nên đặc biệt cho khắc in riêng để lưu truyền khắp hậu thế. Nếu in chung với bộ Sơn Chí ắt khó thể lưu truyền rộng khắp được.</P>

<P>Đại Sĩ từ vô lượng kiếp đến nay phân thân trong các cõi nhiều như bụi trần, bổn - tích cảm ứng của Ngài chỉ mình Phật có thể biết được nổi. Mấy quyển tụng văn này chẳng qua chỉ là một hạt bụi nơi đại địa, một giọt nước trong biển cả, khiến cho những ai chẳng biết lòng Từ sâu xa, lòng Bi lớn ao của Đại Sĩ sẽ biết được đại khái. Từ đấy, hổ thẹn, đột nhiên dũng mãnh nói: "Tâm của chúng ta và tâm của Đại Sĩ không hai, không khác, Đại Sĩ đã viên thành Phật đạo bao kiếp lâu xa, lại dùng bi tâm vô tận chẳng lìa cõi Tịch Quang, thùy tích[23] trong chín giới hiện đủ mọi sắc thân độ thoát chúng sanh. Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay luân hồi trong sáu nẻo, được hưởng ân dẹp khổ ban vui của Ngài không biết là bao nhiêu! Mãi cho đến ngày nay, vẫn còn là phàm phu. Trên đã phụ thâm ân Đại Sĩ cứu vớt, dưới phụ bạc Phật tánh sẵn có của chính mình. Lặng im suy nghĩ, há không thẹn đến chết ư? Ngài đã là trượng phu thì ta cũng thế. Chẳng nên tự khinh để rồi lui sụt!"</P>

<P>      Do vậy, chuyển biến phàm tình, noi theo dấu Thánh, đánh đổ ham muốn xằng bậy để khôi phục lễ nghĩa, dứt lòng tà, giữ lòng thành, tận lực hành điều thiện thế gian, kiêm tu Tịnh nghiệp, lâu dần đều được biến đổi. Bậc thượng thì ngay trong đời này đoạn Hoặc, chứng Chân, liễu sanh thoát tử, bậc hạ thì đến lúc lâm chung cậy vào Từ lực của Phật vãng sanh Tây Phương. Được như thế thì ai nấy đều giữ vẹn lễ nghĩa, ai nấy biết nhân quả, tự nhiên can qua dứt, tai họa do con người gây ra vĩnh viễn dứt mất, mưa thuận gió hòa, quyến thuộc cõi trời thường đến. Nhiệm vụ trọng yếu căn bản để vãn hồi thế đạo nhân tâm như ông Đào đã nói chính là chuyện này đó chăng? Mong sao những ai thấy nghe đều cùng phát tâm kính ngưỡng Đại Sĩ, gắng sức tu tập thì may mắn lắm thay!</P>

<P>Giữa Thu năm Giáp Tý, tức năm Dân Quốc 13 (1924), Cổ Tân[24] Thường Tàm Quý Tăng Ấn Quang Thích Thánh Lượng kính soạn</P>

<P> </P>

<P><B>Phụ Lục - Lời tựa cho bản Phổ Đà Sơn Chí in theo lối thạch bản<B>[25]</B></B></P>

<P><B> </B></P>

<P>Quán Thế Âm Bồ Tát từ vô lượng kiếp trước thành Phật đạo đã lâu, hiệu là Chánh Pháp Minh, nhưng do ý niệm độ sanh khẩn thiết, tâm cứu khổ ân cần, chẳng lìa Tịch Quang, hiện hình trong sáu nẻo. Trong các cõi Phật nhiều như vi trần ở khắp mười phương, hiện đủ mọi sắc thân độ thoát chúng sanh, chứ nào phải chỉ hiện thân Bồ Tát; còn trong Nhị Thừa, lục đạo, không thân nào chẳng hiện. Kinh Pháp Hoa nói: <I>"Nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy thuyết pháp".</I>Tuy vào khắp các cõi Phật mười phương, nhưng Ngài có nhân duyên rất sâu với cõi Sa Bà. Tuy hiện thân khắp mười pháp giới, nhưng căn cứ trên sự ứng tích, người đời chỉ nói Ngài là Bồ Tát mà thôi. Do Ngài chứng triệt để duy tâm, phô bày trọn vẹn tự tánh, nên vận dụng lòng Bi đồng thể, khởi lòng Từ vô duyên. Do Bổn cao, Thể đại, nên Tích quảng, Dụng rộng[26]. Tùy loại hiện hình, theo tiếng cứu khổ. Thị hiện hễ có cảm liền ứng, không nguyện nào chẳng thuận theo, như mặt trăng vằng vặc giữa trời, hiện bóng trong mọi nơi có nước. Không chỉ sông, hồ, rạch, biển đều hiện bóng vẹn toàn, dù chỉ một chước[27], một giọt, không đâu chẳng đều hiện bóng toàn vẹn.</P>

<P>      Lại nữa, bóng trăng hiện trong sông, hồ, rạch, biển, một người nhìn vào thì thấy mặt trăng ấy đối trước người đó; trăm ngàn vạn người ở trăm ngàn vạn nơi nhìn vào thì mỗi một người đều thấy trăng đối trước chính mình. Nếu người ấy đi sang Đông, trăng cũng theo sang Đông; nếu đi sang Tây, trăng cũng theo sang Tây. Nếu người ấy đứng yên chẳng động, trăng cũng chẳng lìa nơi ấy. Từ một người cho đến trăm ngàn vạn người đều như vậy. Trong một niệm, nếu khắp pháp giới cảm, Bồ Tát bèn ứng khắp pháp giới. Cảm ứng đạo giao, không sai khác chút nào! Giống như mặt trăng hiện bóng trong mọi chỗ có nước, người nào, nơi nào cũng đều thấy trọn vẹn bóng trăng, trọn chẳng sai khác gì! Ấy là do Bồ Tát tâm gồm trọn thái hư, lượng gồm thâu các cõi nhiều như cát. Do lấy tâm chúng sanh làm tâm, do lấy cảnh của chúng sanh làm cảnh [của chính mình], nên chẳng nghĩ tưởng mà hợp, vô duyên bèn ứng. Há thế trí phàm tình hòng có thể tính lường được ư?</P>

<P>      Còn nếu như nước đục, mắt lòa, thì trăng chẳng thể hiện, phải đâu trăng không hiện, mà là do lỗi của nước đục, mắt lòa đấy chứ! Xét cảm ứng trên mặt Tích, thì có hiển cảm hiển ứng, minh cảm minh ứng (cảm ngầm, ứng ngầm), minh cảm hiển ứng, hiển cảm minh ứng, diệc minh diệc hiển cảm nhi hiển ứng (vừa hiển vừa ngầm cảm mà lại hiển ứng), diệc minh diệc hiển cảm nhi minh ứng (vừa ngầm vừa hiển cảm mà lại ngầm ứng) sai khác <I>("Hiển cảm hiển ứng"</I><I> là ngay trong đời này dốc lòng thành, cạn lòng kính lễ niệm cúng dường thì sẽ được gia bị, gặp điều hung trở thành điều lành, gặp nạn thành may, và nghiệp tiêu chướng tận, phước tăng, huệ rạng v.v... "Minh cảm minh ứng" là trong đời quá khứ từng tu những hạnh cạn lòng thành, tận lòng kính lễ niệm, đời này tuy chưa tu tập, nhưng do thiện căn trong đời trước, được Ngài gia bị mà không hay không biết, họa diệt, phước đến, nghiệp tiêu chướng tận v.v... "Minh cảm hiển ứng" là đời trước từng gieo thiện căn, đời này được gia bị. "Hiển cảm minh ứng" là đời này dốc lòng thành, kiệt lòng kính lễ niệm, chẳng thấy được gia bị, âm thầm được Từ lực gia bị khiến hung lui, cát (tốt lành) đến, nghiệp tiêu, chướng tận v.v... "Diệc hiển diệc minh cảm hiển ứng" là đời trước đã từng gieo thiện căn, đời này dốc cạn lòng thành lễ niệm, được gia bị rõ ràng, chuyển họa thành phước v.v</I><I>... "Diệc hiển diệc minh cảm minh ứng" là đời trước từng gieo thiện căn, đời này dốc lòng thành lễ niệm, âm thầm được Từ lực gia hộ, đạt được các thứ lợi ích. Hiểu rõ điều này sẽ biết công chẳng hư uổng, quả chẳng tự nhiên mà có. Dẫu cho trọn đời chẳng thấy dấu hiệu gì được gia bị, cũng chẳng đến nỗi sanh tâm oán vọng, bỏ cuộc giữa đường. Đạo cảm ứng vi diệu khó thể nghĩ suy, tạm ghi đại lược để khơi gợi cho người sáng suốt trong</I> <I>mai sau).</I></P>

<P>      Sự ứng hiện ấy lớn - nhỏ, hơn - kém là do lòng Thành đã đến mức cùng cực hay chưa mà thôi! Dẫu cho tâm không thể tin chắc, chưa chí thành đến cùng cực, nhưng nếu có thể nhất niệm dốc lòng Thành ắt cũng đạt được lợi ích. Nhưng tùy theo một niệm chí thành của mình mà chia ra hơn - kém, lợi ích đạt được sẽ chẳng thể siêu tuyệt như người dốc cạn lòng Thành, tận hết lòng kính. Giống như trăng vẫn hiện bóng trong nước đục, nhưng lờ mờ không rõ. Người mù tuy chẳng thể đích thân thấy được ánh trăng, nhưng có khi nào chẳng được ánh trăng chiếu soi? Bồ Tát đại từ đại bi, làm chỗ nương tựa cho các chúng sanh trong khắp pháp giới. Do vậy, nhân dân cả nước ai nấy đều tín phụng, vì thế mới thường nói <I>"nhà nhà Quán Thế Âm".</I></P>

<P>      Đạo tràng ứng hóa của Ngài cố nhiên không phải chỉ có một chỗ. Như Nam Ngũ Đài Sơn, Đại Hương Sơn ở Thiểm Tây, Thiên Trúc Sơn ở Chiết Giang v.v... là những nơi cảm ứng rõ ràng, hương đèn nhộn nhịp, nhưng chỉ có Nam Hải Phổ Đà Sơn thật là bậc nhất do tên chỗ này được ghi trong kinh Hoa Nghiêm, năm xưa Thiện Tài đích thân tham học [tại đây]. Ân trọn khắp mọi loài, hoàng đế các đời sắc kiến[28], nên được cả cõi đời sùng kính, các nước ngưỡng mộ.</P>

<P>Tưởng nghĩ Bồ Tát ứng hóa cho hàng căn cơ Đại Thừa trong tam thừa thiên tiên, nên trải bao kiếp thường trụ nơi núi này, chứ nào phải chỉ dài lâu như trời như đất. Nhưng về phía thị hiện ứng tích cho phàm phu thì trong năm Trinh Minh thứ hai (916) nhà Châu Lương[29] thời Ngũ Đại, Huệ Ngạc[30] đại sư thỉnh tượng Quán Âm bằng đồng từ núi Ngũ Đài muốn đưa về Nhật Bản. Đi đến đây, thuyền bị ách lại không đi được nữa, mới bèn khai sơn. Đến nay đã hơn một ngàn năm, sự tích, thi văn được biên soạn thành tập với tựa đề là Phổ Đà Sơn Chí.</P>

<P>Tôi thường hay bệnh nên đối với những sự - lý cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát thật khó phát huy. Tính đọc khắp Đại Tạng, xem trọn các sách, phàm những sự tích Bồ Tát tùy cơ ứng theo lòng cảm đều ghi chép đầy đủ, khắc bản lưu thông, một là để xiển dương đạo mầu độ sanh của Bồ Tát, hai là khải phát duyên lành thoát khổ cho chúng sanh; nhưng do bệnh mắt chưa lành, chưa thể như nguyện.<I></I></P>

<P>      Cư sĩ Hà Liêm Thần ở Cối Kê, thấu hiểu tâm tủy đạo Nho, y thuật được xưng là quốc thủ[31], chí hạnh cao khiết, tín tâm thuần chân, từng kêu gọi đồng nhân[32]lập Tang Du Xã[33], với ý nghĩa cảnh chiều tà không còn nhiều, nghĩ cách quay về, đồng tu Tịnh nghiệp, cầu sanh An Dưỡng. Lại do hết thảy chúng sanh đắm chìm trong biển khổ đã lâu, chẳng nương vào pháp lực thì không cách nào vượt ra được, tính đem những sự tích ứng hóa của Bồ Tát làm thuyền cứu mạng, thả trong biển khổ, vung tay kêu gấp để dẫn dắt những kẻ chìm đắm lên thuyền, ngõ hầu cùng lên được bờ kia, về thẳng quê nhà, vĩnh viễn lìa khỏi các nỗi khổ, chỉ hưởng những sự vui. Do vậy, bèn cho in thạch bản cuốn Phổ Đà Sơn Chí để lưu truyền rộng rãi hòng đền ân Đại Sĩ độ sanh, tạo đường nẻo cho chúng sanh gieo lòng Thành. Ông ta bảo tôi viết lời tựa, tôi khôn ngăn hoan hỷ, quên phứt mình kém hèn, liền đem những chuyện cảm ứng mầu nhiệm của Bồ Tát nêu tỏ đại lược. Những sự tích khác, cố nhiên đã chép trọn vẹn trong sách, cần gì phải dài dòng nữa!</P>

<P>Mùa Xuân năm Kỷ Mùi, tức năm Dân Quốc thứ 8 (1919), Cổ Tân Thường Tàm Quý Tăng Ấn Quang Thích Thánh Lượng kính soạn</P>

<P> </P>

<P><B>Phụ lục - Bài ký về chuyện Quán Âm Bồ Tát ứng tích tại </B><B>Nam</B><B> Ngũ Đài Sơn & lời tán tụng</B></P>

<P><I>(Núi này cách tỉnh thành Thiểm Tây bảy mươi dặm)</I></P>

<P> </P>

<P>      <I>Bài ký về sự thị hiện ứng tích văn từ điển nhã, tường thuật sự việc tinh tường. Tiếc rằng diệu lực vô tác chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát còn chưa được nêu tỏ. Quang tôi chẳng nề hà kém tệ, gượng soạn một bài tán để đặt ở trước, mong sao sự lý viên dung, Thể lẫn Dụng cùng được nêu tỏ. Nguyên do chúng sanh có thể cảm, nguyên do thánh có thể ứng đều được nêu bày, ngõ hầu người sau đọc đến liền phát Bồ Đề tâm, thấy người hiền mong được bằng, lấy tâm của đức Quán Âm làm tâm mình, lấy việc của ngài Quán Âm làm</I> <I>việc của mình, để rồi cũng là đức Quán Âm trong đời vị lai. Tuy văn từ chẳng bóng bảy, trang nhã, nhưng ý nghĩa cũng đáng chấp nhận</I> <I>được. Tán rằng:</I></P>

<P><I>      Quán Âm đại sĩ trong vô lượng kiếp, thành Phật đã lâu. Vì độ chúng sanh chẳng lìa Tịch Quang, hiện thân Bồ Tát. Lại còn ứng khắp quần cơ, hiện hình trong lục đạo. Dùng ba mươi hai ứng thân, mười bốn vô úy, bốn vô tác diệu lực chẳng thể nghĩ bàn, tầm thanh cứu khổ, độ thoát quần manh. Nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy để thuyết pháp. Khác nào trăng in bóng trên ngàn con sông, mùa Xuân tăng trưởng muôn cây cỏ. Tuy trọn chẳng tính nghĩ, nhưng chẳng sai sót mảy may. Ấy là vì triệt chứng duy tâm, tỏ trọn tự tánh. Vận lòng Bi đồng thể, khởi lòng Từ vô duyên, lấy niệm của chúng sanh làm tâm, lấy hết cảnh trong pháp giới làm lượng. Do vậy biết vô tận pháp giới vô lượng chúng sanh đều ở trong tâm tịch chiếu của Bồ Tát. Cho nên được mây bủa</I> <I>cửa Từ, sóng trào biển Bi, hễ cảm liền ứng, không nguyện nào chẳng thỏa!</I></P>

<P>      <I>(Năm Giáp Dần tức năm Dân Quốc thứ 3 (1914), Ấn Quang Thích Thánh Lượng đảnh lễ kính cẩn viết. Từ đây trở đi là phần ký về sự thị hiện ứng tích)</I></P>

<P> </P>

<P>      Hang Đại Sơn Nham là chỗ rồng rắn ở, lâu năm biến thành yêu tinh, mặc tình gieo hung tác nghiệt, ăn nuốt không ngừng, gây họa lây cho dân chúng, biến ra hình thù quái dị bay lên, không ai chế ngự nổi. Nếu không phải bậc ứng thân đại sĩ, ai có thể cứu tế cho được! Vòi vọi thay diệu trí thần lực chẳng thể nghĩ bàn! Nhưng trong cảnh chẳng nghĩ bàn, gượng dùng văn từ để ghi chép, thuật lại sự tích, ngõ hầu gợi lòng tin sâu xa cho những bậc quân tử cả ngàn năm sau.</P>

<P>Xưa kia, vào thời Tùy, trong niên hiệu Nhân Thọ (601-604), núi này có độc long. Do nó có sức thần thông tạo bởi nghiệp lực, nên biến hình thành người mặc áo lông (đạo sĩ)[34], cầm đan dược đi bán ở Trường An, trá xưng tiên thuật để lừa kẻ ngu tục, bảo thuốc ấy linh lắm, uống vào lập tức bay lên trời. Ô hô! Người dân vô tri nhẹ dạ tin lời ấy, phàm kẻ uống thuốc ấy bay lên trời không biết là bao nhiêu! Nào có biết sẽ bị rớt xuống sào huyệt của đạo sĩ ấy để thỏa bụng miệng hắn?</P>

<P>Dân cư một phương vẫn mê chẳng ngộ, chỉ có đức Đại Sĩ ta do sức bi nguyện, hiện thân tỳ-kheo, kết cỏ làm am, sống trên đảnh núi ấy, dùng sức diệu trí hàng phục thần thông yêu quái ấy, dùng gió thanh tịnh trừ khử nhiệt não cho nó. Ý niệm từ bi thấm đến, độc khí ngầm tiêu, rồng được thanh lương ở yên trong hang núi. Dân chúng nhờ đức ấy đều giữ được mạng sống. Chuyện quái dị xưa kia chẳng còn thấy nữa. Do vậy, sự thi ân linh ứng ấy thấu đến triều đình. Vì Sư có công đối với đất nước, có ân đối với dân, nên lập chùa trên đảnh núi để đáp tạ. Đại Sĩ dùng gió Từ, mưa pháp cứu khắp hàm linh, huệ nhật sáng ngời thanh tịnh, phá các tối tăm. Do vậy, người quyền quý[35] ngưỡng mộ, kẻ bình dân khâm phục phong cách, cắt lưới ái để quy chân, bỏ trâm anh để nhập đạo. Đại Sĩ thường ngồi trên tảng đá, vượn núi, thú hoang quây quần bên tòa, trăm loài chim tụ họp đông nghịt, đậu lặng lẽ như đang nghe pháp âm, một lúc lâu sau mới bay đi.</P>

<P>Ô hô! Dựng chùa vừa được một năm thì vào ngày Mười Chín tháng Sáu, Đại Sĩ đột nhiên thị hiện vô thường, điềm nhiên nhập diệt. Mùi hương lạ ngập thất, sương sầu phủ kín trời, chim thú kêu ai oán, núi rừng đổi sắc. Lúc đó, mọi người trong chùa nghe triều đình sai sứ đem hương ban xuống, phụng chỉ phúng điếu, phong tặng để đề cao phước ngầm. Lúc làm lễ trà-tỳ[36], trời đất tối tăm, trong khoảnh khắc ấy, [nơi ấy] hóa thành cõi bạc, chợt nghe trên không trung vang lên tiếng tiêu, tiếng trống, núi non lay động, mây lành phủ trùm, hương lạ ngào ngạt. Từ trên ngọn núi phía Đông chợt hiện ra cái cầu vàng, trên cầu thiên chúng đứng thành hàng, ai nấy cầm tràng phan và rải hoa vàng phơi phới chẳng rơi xuống đất. Cuối cùng trên ngọn Nam Đài, trăm thứ báu chói ngời, nhiều không biết xuể, xông lên tận trời không ngằn mé! Trong đó, [Bồ Tát] hiện tướng tự tại đoan nghiêm, từ dung vĩ đại, rực rỡ, anh lạc, thù y[37], gió trời hiu hiu, sáng ngời trước mắt. Khi ấy, hai chúng Tăng - tục một ngàn một trăm mấy mươi người đều thấy dung nghi thật sự, buồn vui lẫn lộn, không ai chẳng khóc lóc chiêm lễ, quy y, xưng danh hết sức cung kính. Lúc ấy mới biết là Quán Âm Đại Sĩ thị hiện ứng tích vậy! Thanh khí, dị hương đọng lại cả tháng.</P>

<P>Quan Tả Bộc Xạ[38] là ông Cao tấu trình đầy đủ sự việc. Hoàng thượng xem tờ biểu, than thở hồi lâu, thâu thập di cốt lập tháp, đích thân viết biển đề, ban hiệu là Quán Âm Đài Tự, ban tặng ruộng đất rừng núi mỗi chiều rộng trăm dặm. Mỗi năm ban ngự hương để chư Tăng làm lễ cúng tôn sùng pháp hóa rộng lớn. Đến năm Đại Lịch thứ sáu (771) đời Đường, đổi tên chùa thành Nam Ngũ Đài Sơn Thánh Thọ Tự. Thời Ngũ Đại, chiến tranh liên miên, điện vũ thuộc các đài đều bị thiêu hủy, chỉ còn tàn tăng, nhà nát ở lẫn cùng gỗ đá.</P>

<P>Đến mùa Hạ năm Thái Bình Hưng Quốc thứ ba (978) đời Tống, trước sau sáu lần hiện những điềm lành như mây lành có hình tròn năm màu. Vị Tăng chủ trì là Hoài Vĩ tâu trình đầy đủ lên quan Phủ Doãn, được quan tâu lên triều đình. Triều đình bèn sắc tứ bảng vàng, đề là Ngũ Đài Sơn Viên Quang Tự. Do vậy, tu sửa, xây thêm điện báu, đắp vẽ tượng Bồ Tát. Ráng khói hương cùng vàng, ngọc đua sáng; nhịp mõ cùng tiếng gió thổi qua rặng tùng cùng diễn nhiệm mầu. Nhà cửa trong các đài trên dưới đều xây dựng mới, trụ trì tiếp nối hương đèn chẳng dứt. Từ quang chiếu sáng, đá ươm mây lành, mưa pháp thấm đẫm, nước thành cam lộ.</P>

<P>Cách mấy trăm bước về phía Nam Đài, có một thạch tuyền, chảy vào một cái ao hình vuông, sắc vị ngọt sạch, trừ được nhiệt não, làm tươi nhuận sự khô kháo. Mở rộng ra thời tràn ngập sa giới (các cõi nước nhiều như cát), thâu hẹp lại thì ao đá lặng trong. Có lúc hạn hán gắt gao, người nghênh thỉnh đứng nối tiếp nhau bên đường, đều được cảm ứng như lòng mong, châu quận đều ghi rõ [chuyện này] trong sách vở. Hữu tình được hưởng phước, cây cỏ đượm ân. Từ xưa đến nay, tiếng tăm chẳng mất.</P>

<P>Ôi! Đại Thánh dùng sức bi nguyện, phước phủ một phương, mà dân một phương ấy cũng chẳng quên ân phước từ bi. Mỗi dịp Thanh Minh và nhằm ngày kỵ cuối Hạ, chẳng ngại xa xôi trăm dặm, trèo leo khó khăn, hiểm trở, đều mang tấm lòng thanh tịnh noi dấu chân lên đến nơi, nào phải chỉ trăm ngàn vạn? Dìu già, dắt trẻ, đông nghịt đường nẻo, kéo dài hơn cả tháng. Ai nấy đều dùng hương hoa, âm nhạc, lọng lụa, tràng phan, vật dụng cần dùng để cúng dường. Rồi đầu mặt đảnh lễ, hết sức cung kính chiêm ngưỡng hình tượng, đi nhiễu, tán thán, không ai chẳng gột tội, được phước, trừ chướng, đượm ân, nào uổng công bôn ba leo trèo. Vị Tăng trong chùa là Pháp Nhẫn lo rằng năm tháng đã lâu, dấu thiêng bị chìm mất, nên đem các tấm bia hư vỡ nhờ ghi chép lại, Phổ Minh cố từ tạ nhưng chẳng được, thật xấu hổ chẳng phải là tay văn tài. Nếu gặp được bậc hiền sĩ sửa đổi cho đúng, chẳng hợp lẽ hơn ư?</P>

<P>Thái Bạch Sơn Thích Phổ Minh kính cẩn soạn (Đời nhà Nguyên, tháng Giêng năm Chí Nguyên thứ bảy (1270) lập bia).</P>

<P> </P>

<P><I>Bài tựa cho bản Phổ Đà Sơn Chí in theo lối thạch bản đã nêu rõ lý cảm ứng rất tường tận. Bài ký về sự thị hiện ứng tích tại Nam Ngũ Đài chính là dấu tích thật sự của chuyện Đại Sĩ hiện thân tỳ-kheo cứu khổ, đấy cũng chính là căn nguyên của lễ hội dâng hương vào ngày Mười Chín tháng Sáu, cho nên tôi sao lục ngõ hầu độc giả sẽ sanh lòng chánh tín. Thích Ấn Quang kính đề.</I></P>

<P> </P>

<P><B>Phụ Lục - Lễ Quán Thế Âm Bồ Tát Sớ</B></P>

<P><I>(đây chính là nguyên nhân soạn cuốn tụng văn này cho nên sao lục thêm vào đây)</I></P>

<P> </P>

<P>      Từng nghe chư Phật Như Lai lấy đại bi làm Thể, Bồ Đề Tát Đỏa[39] nương theo Bát Nhã quán tâm. Tịch diệt hiện tiền, nên đắc thượng đồng hạ hợp; chân không vô tướng, bèn có thể cứu khổ tầm thanh. Bậc Thất Hạnh mới bắt đầu vào cõi tục độ sanh, ngôi Lục Địa mới dần dần tu tập đồng sự, ái ngữ. Nếu chẳng thành Chánh Giác đã lâu, hiện thân Liệt Ứng[40] để hành hạnh Từ, độ hết chúng sanh rồi mới hiện rõ tướng thành Phật; ai có được sức oai thần vòi vọi như thế hay chăng?</P>

<P>Cung kính tán dương bậc đại từ đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, trụ trong núi Bổ Đát Lạc Ca (Potalaka), đắc pháp đại bi giải thoát, sư thừa Tĩnh Trụ[41], thị hiện thánh hiệu Chánh Pháp Minh. Bổ xứ Di Đà, được thọ ký non cao công đức. Bảo Tạng trụ thế, hồi hướng Bồ Đề[42]. Vườn rừng oai đức, thệ nguyện rộng sâu. Từ Văn - Tư - Tu, đốn nhập Chánh Định, đắc viên thông chân thường, mọi chuyện đều chân thật. Huân tu Kim Cang tam-muội, thanh tịnh bảo giác viên dung. Mười bốn vô úy, phước trọn chúng sanh. Ba mươi hai ứng thân, độ khắp muôn loài đều thành Đẳng Giác. Trọn đủ công đức đại tự tại, diệu dung liền hiện. Có đức chẳng thể nghĩ bàn, ban thí cực quả. Vì thế, niệm danh Ngài một niệm, công đức bằng với trì niệm sáu mươi hai ức danh hiệu các vị Bồ Tát khác. Hai mươi bốn pháp Viên Thông của các thánh giả đều phải lui nhường. Một nẻo Niết Bàn, ba đời học Phật vẫn phải kính nghe; thị hiện Phổ Môn, tám vạn người phát Vô Đẳng Đẳng. Đã thế, phù tá Di Đà, tuy ngự An Dưỡng, nhưng vì nhiếp hóa chúng sanh, hiện trụ Sa Bà.</P>

<P>Kim Thành, Hùng Nhĩ, đua nhau thuật chuyện hóa thân. Ngũ Đài, Tứ Châu, cùng phô thánh tích. Thậm chí, nơi vỏ sò, nghêu, hiện hình tượng mầu nhiệm trang nghiêm; trứng gà, ba ba, thấy dấu tích kim dung chói rạng. Vì thế biết thâm ân của từ phụ dẫu đốt thân vẫn khó đáp đền. Lòng đau đáu thiết tha, quả thật phải gào than, ứa lệ! Đệ tử Chỉ Tịnh bỏ cha trốn đi, đói rách chốn quê người đã lâu ngày[43], trôi giạt theo nghiệp, càng dùng dằng hết nửa đời người. Tám năm phụng sự, gánh phân, bỏ vàng. Ma bệnh trói buộc[44], nhận bọt sóng quên mất biển cả, tự thẹn mê cuồng[45], phát tâm kính lễ dưới chân Đại Sĩ <I>(lễ tượng Tam Thánh tại nhà)</I>; tay lần chuỗi niệm Phật, mỗi ngày ba trăm lượt. Đảnh lễ, tụng kinh <I>(chỉ kinh Di Đà)</I>, mỗi tháng một trăm lẻ tám quyển, đọc văn Kim Cang, chỉ cầu làm Phật. Lễ kệ Phổ Hiền, phát nguyện độ sanh; niệm chú Vãng Sanh, đức Phật thường trụ trên đảnh. Trì thần chú Đại Bi, nước tắm cũng độ được người[46]; đều cậy vào những nhân duyên đại thiện như thế, để làm công cứ vãng sanh. Vả nữa, đời này độn căn, ma chướng khó tiêu, túc thế oan nghiệt sâu nặng, chánh tín dễ lui sụt, bèn toan gõ cửa Bạch Hoa[47], kiền thành tham lễ tượng báu. Như Từ Mẫn[48] sang Tây, mong được thấy thánh dung thật sự; học Thiện Tài đi về phương Nam, nguyện gặp bạn thánh. Vẫn xin Ngài từ bi thương xót, hãy gấp gia bị cho con, giữa mây thị hiện cho Trương Sứ thấy, anh lạc đoan nghiêm[49]; vách đá hiện thân cho Sử tướng, kim quang chói ngời[50]. Cam lộ quán đảnh, tăng biện tài cho Trí Giác[51]. Tay báu phanh ruột, chữa chứng khí tật cho Pháp Nghĩa[52].</P>

<P>Nay con vẫn còn gởi thân nơi đất khách, chưa được ở yên, xin Ngài ban cho nhà đẹp, mong được thấu hiểu pháp môn. Lần chuỗi Lý mẫu, biết trước lúc mất. Ăn khoai Đình Chương[53], định ngày về Tây. Ấn sáp ép xuống kim nê, ấn nát mà nét ấn đã hiện, niệm Phật, Phật bèn tùy tâm hiện, duỗi cánh tay sen hồng, đón lên đài vàng, phóng bạch hào quang, đẫn về gác báu, cùng chứng An Lạc. Chúng sanh và Phật vốn chẳng sai biệt, cách ngăn. Trở lại Sa Bà, mẹ con chẳng hề xa cách. Trình tâm nguyện ấy, cúi xin chứng minh. Ngày hôm nay trên đá kim cang, quy y bậc đạo sư nơi biển trí, đến năm nào trong tương lai, nơi đóa hoa Ma Ni, con sẽ được theo hầu vị thiện hữu thù thắng đội mão trời.</P>

<P>Tiết Xuân năm Nhâm Tuất, tức năm Dân Quốc 11 (1922), Bành Trạch Hứa Chỉ Tịnh kính soạn <I>(</I><I>chữ Táp</I> (卅) <I>đọc âm giống chữ Tát</I> (薩), <I>nghĩa là ba mươi</I><I>)</I></P>

<P> </P>

<P><B>Phàm Lệ<B>[54]</B></B></P>

<P><B> </B></P>

<P>1. Sách gồm bốn quyển, ba quyển đầu là tụng văn, ca tụng nhân duyên nơi Bổn và Tích của Quán Âm Bồ Tát trong những kiếp xưa và sự tích cảm ứng trong phương này. Quyển cuối gồm những trích dẫn kinh văn nhằm làm chứng, trích dẫn đại lược mười mấy bộ kinh ngõ hầu độc giả biết duyên do đại sự của đức Quán Âm, cũng như chú thích cặn kẽ những điều thuộc về Bổn và Tích của Ngài trong tụng văn ở phần trước <I>(trong phần văn ca tụng Bổn và Tích trong các quyển trước, dưới mỗi đoạn văn có lời chú thích đại lược nhưng từ ngữ và ý nghĩa chưa thể trọn đủ, nên cần phải tham khảo phần kinh văn dẫn chứng này thì mới có thể thông suốt nguyên ủy)</I>. Lại kèm thêm một quyển ca tụng kinh Kim Cang vì người trì tụng kinh này rất đông nên tôi cũng soạn văn ca tụng để mong người đọc sẽ được hưởng lợi ích thật sự. Tuy không phải là cùng một bộ sách với phần trước, nhưng do muốn được lưu truyền rộng rãi nên tôi kính cẩn ghép vào cuối bộ sách này.</P>

<P>      2. Sách Quán Âm Bổn Tích Tụng gồm bốn quyển này chính là quyển đầu của bộ Phổ Đà Sơn Chí. Do số quyển [của Phổ Đà Sơn Chí] khá nhiều, nên đem [sách Quán Âm Bổn Tích Tụng này] ấn hành riêng nhằm mong được lưu truyền rộng rãi.</P>

<P>      3. Cách phân chia chương mục trong sách này hết sức giản lược, chẳng câu nệ theo lệ thường, chỉ nhằm trình bày đại cương. Hơn nữa, trong phần tụng văn, gặp chỗ nào cần thiết cũng sẽ tùy nghi diễn giải, hơi khác với sườn bài. Các chương như các tướng thị hiện tại Phổ Đà, sẽ đặc biệt đánh số một, hai v.v... cho tiện tra cứu.</P>

<P>      4. Phàm trích dẫn kinh, luận và các sách không thuộc nhà Phật đều trích dẫn đại lược nguyên văn. Danh xưng của nguyên tác [được trích dẫn] cũng tuân theo cách gọi tắt <I>(như những sách được nêu trong phần chú thích, có những danh xưng như Khoáng Viên, Quái Viên, Hữu Đài Tiên Quán<B>[55]</B> v.v... đều là tên của những bộ bút ký)</I></P>

<P>      5. Nếu phần chú thích của tụng văn khá chi ly, chẳng dễ đối chiếu, thì đối với mỗi câu tụng văn liên quan đều ghi những con số 1, 2, 3 v.v... trước mỗi câu để độc giả có thể dựa theo con số trước mỗi câu để kiếm phần chú thích tương ứng sẽ có thể thấy được ngay. Nếu phần chú thích của tụng văn không quá rắc rối, dễ đối chiếu, hoặc là lời chú thích cho cả một đoạn kinh văn, hoặc chú thích vài ý nghĩa liên quan đến tụng văn, không thể cắt rời từng phần được thì không đánh số.</P>

<P>      6. Cách chấm câu: Đối với mỗi đoạn tụng văn sẽ chia thành hai câu để người mới học đọc tụng thuận tiện. Còn những phần chú thích cho lời tựa chẳng hạn thì không tuân theo lệ ấy, cứ mỗi một đoạn lớn là một câu để lời văn khỏi bị cắt vụn, tản mạn.</P>

<P>      7. Sau khi bản thảo hoàn thành, giao cho thợ in, ấn loát lưu truyền, có những chỗ nào chưa thỏa đáng thì mai sau rảnh rang sẽ sửa đổi lần nữa cho được hoàn thiện.</P>

<P>     </P>

<P> </P>

<P align=center><B>Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích</B></P>

<P align=center><B>Cảm Ứng Tụng</B></P>

<P align=center><B>Quyển 1, phần 1</B></P>

<P align=center><B> </B></P>

<P align=center>Bành Trạch Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn</P>

<P align=center> </P>

<P>      Tụng văn chia thành ba phần:</P>

<P>      1. Trình bày ý nghĩa.</P>

<P>      2. Chánh thức ca tụng.</P>

<P>      3. Kết luận, khuyên lơn, hồi hướng.</P>

<P> </P>

<P><B>I.</B> <B>Trình bày ý nghĩa:</B></P>

<P> </P>

<P>      <B>Bị chú của người dịch</B>: <I>Để độc giả dễ phân biệt phần tụng văn và phần lược chú của cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh, chúng tôi áp dụng cách thức như sau:</I></P>

<P><I>       - Phần tụng văn in chữ đậm và nghiêng, những con số đánh dấu mỗi đoạn được trình bày dưới dạng "1.", "2." v.v...</I></P>

<P><I>       - Phần chú thích của ông Hứa Chỉ Tịnh sẽ được in bình thường, con số tương ứng với mỗi câu trong phần tụng văn sẽ được bỏ trong ngoặc.</I></P>

<P> </P>

<P>      Nêu rõ duyên khởi soạn tụng văn. Đây chính là phần mở đầu của toàn bộ thiên sách, được chia thành bốn đoạn:</P>

<P>      * Ca tụng Đại Sĩ bi trí song tu.</P>

<P>      * Ca tụng Đại Sĩ là bậc cổ Phật ứng thế nên tiếng tăm chấn động mười phương.</P>

<P>      * Ca tụng Ngài sốt sắng đại bi cứu khổ nên có duyên sâu nặng với cõi Sa Bà.</P>

<P>      * Dựa theo kinh văn để đính chánh những thuyết sai ngoa nhằm phát khởi chánh tín, nêu duyên khởi soạn tụng văn.</P>

<P> </P>

<P><B>1.</B> <B><I>Thường nghe chư Phật không thân, nhưng Bát Nhã quả thật là mẹ chư Phật; Bồ Đề chẳng phải là cây, nhưng đại bi vốn tự nẩy mầm.</I></B></P>

<P><B>2<I>. Vì thế, Pháp Thân, giải thoát, thiếu trí huệ chẳng thể viên dung. Bổn trí, vạn hạnh, chỉ từ bi mới hòng hòa hợp.</I></B></P>

<P><B>3. <I>Vì vậy, Tự Tha bất nhị, sáng suốt đến cùng cực thì chính là Như Lai. Nhân quả đan xen, hạnh sâu xa quả thật chỉ có Bồ Tát</I>. </B><I>(Lý Trưởng Giả chú giải kinh Hoa Nghiêm, cho rằng Quán Âm biểu thị Bi, Tự Tại biểu thị Trí, mà hai </I><I>chữ Bi và Trí đã bao gồm hết thảy các môn Sự và Lý trong Phật pháp. Vì thế, xếp [hai điều này] vào đầu[ bài ca tụng])</I></P>

<P> </P>

<P>(1) Trong phẩm Quang Minh Giác của kinh Hoa Nghiêm có đoạn: <I>"Ngã tánh vị tằng hữu, Ngã Sở diệc không tịch, vân hà chư Như Lai, nhi đắc hữu kỳ thân?"</I>(Ngã tánh chưa hề có, Ngã Sở cũng rỗng lặng, cớ sao các Như Lai, lại có được thân ấy?). Ngài Di Lặc lại bảo Thiện Tài: <I>"Bồ Tát dĩ Bát Nhã Ba La Mật vi mẫu"</I> (Bồ Tát lấy Bát Nhã Ba La Mật làm mẹ). Lục Tổ có bài kệ như sau: <I>"Bồ Đề bổn vô thọ"</I> (Bồ Đề vốn chẳng phải là cây). Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm có câu: <I>"Nhân ư đại bi, sanh Bồ Đề tâm"</I> (Do đại bi mà sanh tâm Bồ Đề).</P>

<P>(2) Pháp Thân, Giải Thoát, Bát Nhã như ba điểm của chữ , có nghĩa là ba đức viên dung. <I>(là chữ Phạn, đọc là Y, biểu thị tam đức viên dung).</I> Kinh Hoa Nghiêm lấy Văn Thù tượng trưng cho Căn Bản Trí, lấy Phổ Hiền tượng trưng cho Sai Biệt Hạnh, Quán Âm biểu thị tâm từ bi, Ngài ở vào địa vị Thất Hồi Hướng. Địa vị Thập Hướng là do từ Thập Trụ và Thập Hạnh [mà có], nhưng đã dung hội nguyện lực từ bi, hưng khởi trọn khắp những sự lợi ích to lớn.</P>

<P>(3) Tự giác, giác tha, giác mãn thì gọi là Phật. Phẩm Nhập Pháp Giới [của kinh Hoa Nghiêm] có câu: <I>"Ly tự tha kiến, tri tùng duyên khởi cố"</I> (Lìa cái thấy Tự và Tha, biết là do duyên khởi mà có). Sách Hợp Luận viết: <I>"Vô biên cõi nước, tự tha chẳng ngăn cách chừng bằng đầu lông".</I> Kinh Lăng Nghiêm dạy: <I>"Minh cực tức Như Lai"</I> (Sáng suốt đến cùng cực chính là Như Lai). Lại nữa, [kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni chép]: <I>"Trong đại hội, Quán Thế Âm Như Lai thọ ký cho ta thánh hiệu Quán Thế Âm"</I>, chỉ rõ nhân quả thành tựu lẫn nhau, Thể và Dụng soi tỏ tột cùng lẫn nhau. Tâm Kinh có câu: <I>"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa".</I></P>

<P> </P>

<P><B><I>1</I></B><B>.</B> <B><I>Dẫu là bậc đã đạt địa vị Hiện Tiền</I></B>, <B><I>còn phải tu hạnh Tứ Nhiếp dần dần. Chứng địa vị Bất Động, vẫn phải đợi ba lần gia hộ.</I></B></P>

<P><B><I>2</I></B><B>.</B> <B><I>Há chẳng phải là xuất Triền thì trí chướng dễ sanh, nguyện vào cõi tục bèn gặp phải nạn vua đó ư?</I></B></P>

<P><B><I>3</I></B><I>.</I> <B><I>Chỉ có bậc Đại Sĩ tầm thanh cứu khổ, mang hiệu Quán Âm, đoạn Hoặc, chứng Chân, được danh Tự Tại.</I></B></P>

<P><B><I>4. Danh là Niêm Sách, thật là lời "hễ được gặp sẽ chẳng luống uổng". Hiệu nhằm ứng tiếng, mang ý nghĩa "có cảm bèn thông".</I></B></P>

<P><B><I>5. Vốn thành Phật, hiệu Chánh Pháp Minh, nguyên là thầy của đức Thích Ca. Trọn thành Thiên Quang Nhãn độ sanh, lại phù tá A Di Đà Phật</I></B> <I>(do đây, nêu ra hai danh hiệu Bi và Trí, thừa dịp, nêu ra các danh hiệu khác ngõ hầu thế tục biết được Bổn địa xa xưa của Ngài).</I></P>

<P><B><I>6. Nguyện sâu vô lượng, cùng Tỳ Lô đáng gọi trượng phu. Đức nêu mảy lông, dẫu Phổ Hiền chẳng rành ngằn mé!</I></B></P>

<P><B><I>7. Vì thế, sát-na xưng niệm, giống xưng danh trăm ngàn ức triệu Như Lai. Ngẫu nhiên thọ trì, hơn niệm hiệu sáu mươi hai hằng sa Bồ Tát.</I></B></P>

<P><B><I>8. Tin tưởng danh hiệu tôn quý, khó thể được nghe. Phạm, Thích, trời, người đều nên sanh lòng kính ngưỡng</I></B> <I>(Đây là theo kinh Đại Bi, từ hàng Bồ Tát cho đến trời người đều phải nên sanh lòng cung kính [Quán Thế Âm Bồ Tát], dẫn khởi duyên sâu nặng với cõi Sa Bà).</I></P>

<P> </P>

<P>(1) Theo Hoa Nghiêm, Lục Địa có tên là Hiện Tiền Địa. Theo Hợp Luận:<I>"Trước khi chứng Lục Địa, đối với Tứ Nhiếp chưa được tự tại".</I> Bát Địa có tên là Bất Động Địa, kinh văn có nói đến ba lần gia hộ, bảy lần khuyên lơn. Ba lần gia hộ là:</P>

<P>- Chư Phật hiện thân.</P>

<P>- Ban cho trí huệ.</P>

<P>- Tán thán, xoa đầu.</P>

<P>Kinh còn chép: <I>"Nhược chư Phật bất dữ thử chư Bồ Tát khởi trí môn giả, bỉ tức nhập cứu cánh Niết Bàn, khí xả nhất thiết lợi chúng sanh nghiệp"</I> (Nếu chư Phật chẳng dấy khởi trí môn cho các vị Bồ Tát ấy, họ liền nhập rốt ráo Niết Bàn, buông bỏ hết thảy sự nghiệp lợi lạc chúng sanh).</P>

<P>(2) Trí Chướng là nói về Tịnh Chướng. Lục Địa Bồ Tát có hai thứ nhiễm nghiệp và tịnh nghiệp chưa mất, vì thế còn bị phiền não trói buộc chưa được tự tại. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện nói tới mười nguyện vương. Phẩm Thập Định có chép:<I>"Chư Bồ Tát ư Phổ Hiền sở, tâm sanh tôn trọng, khát ngưỡng dục kiến, tất ư chúng hội, châu biến quán sát, nhi cánh bất đổ, diệc bất kiến kỳ sở tọa chi tòa"</I>(Chư Bồ Tát sanh tâm tôn trọng Phổ Hiền Bồ Tát, khát ngưỡng muốn được thấy, nên đều quán sát trọn khắp chúng hội nhưng trọn chẳng thấy Ngài, cũng chẳng thấy tòa của Ngài đang ngồi).</P>

<P>(3) Sách Hoa Nghiêm Hợp Luận viết: <I>"</I><I>Quan Thế Âm, tiếng Phạn là Quang Thế Âm, dùng ánh sáng từ bi chiếu thế gian, nghe khổ liền cứu. Quán Tự Tại có nghĩa là quán chiếu rõ ràng, thành tựu xuất thế Bát Nhã".</I></P>

<P>(4) Đại Bi Chú Kinh: <I>"Quán Thế Âm còn có tên là Niêm Sách".</I> Niêm Sách (拈索) chính là sợi dây quyến sách (羂索: dây trói), thợ săn dùng dây này để bắt thú, thú không thoát được. [Danh hiệu Niêm Sách] nhằm tỷ dụ nghe danh hiệu và thấy thân tướng của Đại Sĩ thì tâm niệm chẳng luống uổng. Vãng Sanh Luận có câu: "<I>Quán Phật bổn nguyện lực, ngộ vô không quá giả"</I> (Quán sức bổn nguyện của Phật thì sẽ là gặp gỡ không luống uổng). Thiên Địa Bổn Khởi Kinh: <I>"Ứng Thanh Bồ Tát chính là Quán Thế Âm".</I> Phần Hệ Từ Truyện trong Châu Dịch có câu:<I>"Cảm chi toại thông thiên hạ chi cố"</I> (Hễ cảm liền thông khắp nhân gian).</P>

<P>(5) Đại Bi Chú Kinh: <I>"Thử Bồ Tát bất khả tư nghị oai thần chi lực, quá khứ vô lượng kiếp trung, dĩ tác Phật cánh, hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai"</I> (Sức oai thần của vị Bồ Tát này chẳng thể nghĩ bàn, trong vô lượng kiếp đời quá khứ, Ngài đã thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai). Lại nữa, Quán Âm Tam Muội Kinh chép: <I>"Thị Quán Thế Âm, tại ngã tiền thành Phật, danh Chánh Pháp Minh Như Lai, ngô vi đệ tử dã"</I> (Vị Quán Thế Âm Bồ Tát này đã thành Phật trước ta, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, ta là đệ tử). Đại Bi Chú Kinh: <I>"Quán Thế Âm, diệc danh Thiên Quang Nhãn"</I> (Quán Thế Âm cũng có tên là Thiên Quang Nhãn).</P>

<P>(6) Đại Giáo Vương Kinh: <I>"Ngũ trượng phu đồng Mạn Thù nguyện, tức kim ngũ Phật, nhất Tỳ Lô Giá Na Phật, nhị A Súc Phật, tam Bảo Sanh Phật, tứ Quán Tự Tại Vương Phật, ngũ Bất Không Thành Tựu Phật"</I> (Năm vị trượng phu có cùng nguyện với ngài Văn Thù, nay chính là năm vị Phật, một là Tỳ Lô Giá Na Phật, hai là A Súc Phật, ba là Bảo Sanh Phật, bốn là Quán Tự Tại Vương Phật, năm là Bất Không Thành Tựu Phật). Trong kinh Trang Nghiêm Bảo Vương, đức Phật nói: <I>" Quán Tự Tại Bồ Tát, lịch kiếp cứu khổ, cập trụ chủng chủng tam-muội, thân chư mao khổng hy hữu công đức, Phổ Hiền Bồ Tát hành thập nhị niên, bất đắc biên tế"</I> (Quán Tự Tại Bồ Tát trải nhiều kiếp cứu khổ và trụ trong các thứ tam-muội, các lỗ chân lông trên thân đều có công đức hy hữu, Phổ Hiền Bồ Tát đi [trong một lỗ chân lông] suốt mười hai năm chẳng biết được ngằn mé).</P>

<P>(7) Thập Nhất Diện Chú Kinh: <I>"</I><I>Nhược hữu xưng niệm bách thiên câu-chi na-dữu-đa chư Phật danh hiệu, phục hữu tạm thời ư ngã danh hiệu, chí tâm xưng niệm. Bỉ nhị công đức, bình đẳng bình đẳng"</I> (Nếu có kẻ nào xưng niệm danh hiệu của trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa chư Phật, lại có kẻ tạm thời chí tâm xưng niệm danh hiệu ta thì hai công đức ấy đều bình đẳng). Pháp Hoa Kinh: <I>"Nhược hữu nhân thọ trì lục thập nhị ức hằng hà sa Bồ Tát danh tự, phục tận hình cúng dường; nhược phục hữu nhân, thọ trì Quán Thế Âm Bồ Tát danh hiệu, nãi chí nhất thời lễ bái cúng dường, thị nhị nhân phước, chánh đẳng vô dị</I>" (Nếu có người thọ trì danh hiệu của sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ Tát và lại suốt đời cúng dường; rồi lại có người thọ trì danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ Tát, cho đến lễ bái, cúng dường trong một lúc thì phước của hai người ấy giống hệt như nhau không sai khác).</P>

<P>(8) Thập Nhất Diện Chú Kinh: <I>"Ngã do thử chú, danh hiệu tôn quý, nan khả đắc văn"</I> (Do chú này mà danh hiệu của ta tôn quý, khó thể được nghe). Đại Bi Chú Kinh: <I>"Chánh Pháp Minh Như Lai đại bi nguyện lực hiện tác Bồ Tát. Nhữ đẳng chư Bồ Tát, Phạm, Thích, long thần, giai ưng cung kính, nhất thiết nhân thiên, thường tu cúng dường"</I>(Chánh Pháp Minh Như Lai do đại bi nguyện lực thị hiện làm bậc Bồ Tát. Hàng Bồ Tát các ông, Phạm Vương, Đế Thích, long thần đều nên cung kính. Hết thảy người trời hãy thường nên cúng dường).</P>

<P> </P>

<P><B><I>1. Chỉ vì: Hoa Tạng vô tận, riêng Sa Bà khổ nhóm cực nhiều. Cực Lạc dễ sanh, lòng Bồ Tát từ bi xót thương sâu nhất.</I></B></P>

<P><B><I>2. Vì thế, hiện thân trong các cõi nhiều tợ vi trần, nhưng cõi này tôn Ngài là Thí Vô Úy. [Tuy ở địa vị] Bổ xứ chốn Liên Bang, vẫn tới cõi này nhiếp người niệm Phật.</I></B></P>

<P><B><I>3. Làm tròng mắt cho thế gian, thái dương thêm rạng rỡ. Trên biển lắm thánh hiền, ngự trên đóa bạch hoa.</I></B></P>

<P><B><I>4. Bởi lẽ, chúng sanh nghiệp nặng, tình ân cần như thương con một.</I></B></P>

<P> </P>

<P> (1) Kinh Hoa Nghiêm giảng rõ Hoa Tạng thế giới chủng, trên dưới gồm tất cả hai mươi tầng. Trong tầng thấp nhất có một cõi Phật sát vi trần số thế giới vây quanh. Cứ lên mỗi một tầng trên, lại tăng thêm một sát trần[56] thế giới. Đến tầng cao nhất có hai mươi Phật sát vi trần số thế giới vây quanh. Thế giới Sa Bà nằm ở trung tâm tầng mười ba. Sa Bà (Sahā), cõi này dịch là Kham Nhẫn, có nghĩa là chúng sanh có những phiền não như tham, sân, si v.v... có thể chịu đựng khổ quả sanh tử. Lại còn dịch là Tạp Hội, có nghĩa là tam ác, năm đường, các nẻo xen tạp tụ hội.</P>

<P>(2) Pháp Hoa Kinh: <I>"Thập phương chư quốc độ, vô sát bất hiện thân" </I>(Các cõi nước mười phương, không cõi nào chẳng hiện thân) và:<I>"Quán Thế Âm Bồ Tát ư bố úy cấp nạn chi trung, năng thí vô úy. Thị cố, thử Sa Bà thế giới giai hiệu chi vi Thí Vô Úy giả</I>" (Trong khi sợ hãi, tai nạn cấp bách, Quán Thế Âm Bồ Tát có thể ban cho sự không sợ hãi. Vì thế, thế giới Sa Bà đều gọi Ngài là bậc Thí Vô Úy).</P>

<P>Vô Lượng Thọ Kinh: <I>"Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, hiện cư thử giới, tác đại nhiêu ích, nhiếp niệm Phật nhân, sanh bỉ Phật quốc"</I> (Quán Thế Âm, Đại Thế Chí hiện đang trụ trong thế giới này tạo sự lợi ích lớn, nhiếp thọ người niệm Phật sanh về cõi Phật kia).</P>

<P>(3) Thiên Địa Bổn Khởi Kinh: <I>"Kiếp sơ thời, thiên hạ vô quang, Di Đà Phật kích kiền chùy tập chúng, vị: 'Quá thử bát thập hằng hà sa độ, hữu Nhẫn độ, thất vu quang minh, thùy kiến công đức?' Ứng Thanh Bồ Tát, dữ Cát Tường Bồ Tát, cộng nghị vi</I> <I>thế tác nhãn mục. Ứng Thanh tác nhật, Cát Tường tác nguyệt" </I>(Thuở kiếp sơ, thế gian không có ánh sáng. Phật Di Đà gõ kiền chùy[57] nhóm chúng, bảo: 'Qua khỏi đây tám mươi hằng hà sa cõi, có cõi Kham Nhẫn, bị mất ánh sáng, ai sẽ lập công đức?' Ứng Thanh Bồ Tát và Cát Tường Bồ Tát cùng nhau bàn bạc làm con mắt cho cõi đời. Ứng Thanh làm mặt trời, Cát Tường làm mặt trăng).</P>

<P>Bài kệ tụng của cư sĩ Bệ Sắt Chi La [giới thiệu trụ xứ của Quán Âm Bồ Tát] trong [phẩm Nhập Pháp Giới của] kinh Hoa Nghiêm có câu: <I>"Hải thượng hữu sơn đa thánh hiền"</I> (Trên biển có núi, trong ấy có nhiều thánh hiền). Bổ Đát Lạc Ca (Potalaka), cõi này dịch là Tiểu Bạch Hoa vì trong núi có nhiều loại ấy. Còn dịch là Hải Đảo vì nó ở giữa biển cả, chính là chỗ ứng hóa của Quán Thế Âm Bồ Tát, tức là Phổ Đà Sơn hiện nay.</P>

<P>(4) Chiêm Sát Nghiệp Báo Kinh: <I>"Tuy phục phổ du nhất thiết sát độ, thường khởi công nghiệp, nhi ư ngũ trược ác thế, hóa ích thiên đa"</I>(Tuy vẫn dạo khắp hết thảy cõi nước, thường tạo sự nghiệp công đức, nhưng đối với đời ác ngũ trược lại riêng chú trọng giáo hóa, tạo nhiều lợi ích). Phẩm Thập Hồi Hướng kinh Hoa Nghiêm có câu: <I>"Bồ Tát đẳng quán nhất thiết chúng sanh, do như nhất tử"</I> (Hàng Bồ Tát bình đẳng xem hết thảy chúng sanh ví như con một).</P>

<P> </P>

<P><B><I>1. Thường xả thân và vật quý báu, vua, quan cung kính, phụng sự, hương hoa cúi lạy, phụ nữ, trẻ thơ quy y.</I></B></P>

<P><B><I>2. Được tôn thờ tột bậc, năm trăm thân có dư, ghi chép sự cảm ứng, ngàn vạn lời chẳng trọn.</I></B></P>

<P><B><I>3. Nhưng văn nhân biên chép, thiện thư đã nhiều, dã sử lưu truyền, ngoa ngôn cũng lắm.</I></B></P>

<P><B><I>4. Hoặc nói là công chúa xả thân, hoặc bảo là thần tiên nuốt gió.</I></B></P>

<P><B><I>5. Hoặc nghi là bầy tôi Đế Thích, hoặc lầm tưởng hình tượng Diện Nhiên. Tuy truyền thuật chẳng thiếu ý tôn sùng,</I></B> <B><I>nhưng danh vị quả thật đã bị vu báng. Bèn dựa theo Khế Kinh, trình bày Bổn Tích đại lược, ngõ hầu hàng thiện tín cùng được kết pháp duyên </I></B><I>(Đây là vì Ngài có duyên sâu nặng nên đến nỗi có lắm điều ngoa truyền, nên tôi đặc biệt dựa vào Khế Kinh để soạn tụng văn, ngõ hầu người đọc sanh lòng chánh tín).</I></P>

<P> </P>

<P>(1) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Sở du thế giới, giai linh chúng sanh xả thân trân bảo, cầu ngã ai mẫn"</I> (Trong những thế giới ta đi đến đều khiến cho chúng sanh xả thân và vật quý báu, cầu ta xót thương).</P>

<P>(2) Văn bia Phó Đại Sĩ có câu: <I>"Quán Âm có năm trăm thân trong cõi Diêm Phù Đề, thị hiện giống như phàm phu để giáo hóa chúng sanh"</I>, xem trong kinh Đình Thủy.</P>

<P>(3) Tục truyền Đại Sĩ là con gái thứ ba của Diệu Trang Vương, tên là Diệu Thiện, xả tay và mắt để chữa bệnh ngặt cho cha, bèn hiện hình tượng ngàn mắt ngàn tay. Sách Biên Niên Thông Luận bảo đó lời của thiên thần nói với Nam Sơn Đạo Tuyên luật sư. Lại nữa, sách Nhữ Châu Chí chép con gái thứ ba của Sở Trang Vương tên là Diệu Thiện. Vua bị bệnh ngặt, thầy lang nói: "Ắt phải có được tay và mắt của người thân thì mới lành bệnh được!" Công chúa bèn cắt tay và mắt cứu cha lành bệnh. Công chúa cũng tọa hóa (ngồi qua đời). Thầy lang nói: "Đấy là bậc Bồ Tát đại bi", nói xong, không thấy đâu nữa. Trang Vương liền phong tặng công chúa là Đại Bi Bồ Tát, dựng chùa ở Hương Sơn, đắp tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn. Hoặc nói: Trang Vương hạ lệnh đắp tượng <I>"toàn thủ toàn nhãn"</I>(có đủ mắt và tay), bầy tôi tưởng lầm là <I>"thiên thủ thiên nhãn"</I>. Xét ra, lời thiên thần chắc là nói về chuyện kiếp trước, nhưng Cảm Thông Lục không chép. Còn như thuyết của Nhữ Châu Chí là ngoa truyền, sai lầm, không còn nghi ngờ chi nữa!</P>

<P>Sách Kỷ Sử Thông Giám chép thời Châu Tuyên Vương, Trường Tang Công nói: <I>"Lão Quân bảo: - Ta đến Nam Hải, nghe nói đến động Triều Âm ở Lạc Ca Nham có một vị nữ chân</I><I><B>[58]</B></I><I> tên là Từ Hàng Đại Sĩ, Ngài dạy ta cách uống nước cam lộ"</I>. Sách còn chép Tiện Môn Tử nói: <I>"Tần Thủy Hoàng đi lên phương Bắc, tôi vào Nam Hải, đến thăm Từ Hàng Đại Sĩ, Ngài lấy ra cây xương bồ</I><I><B>[59]</B></I><I> chín đốt, dạy tôi gieo trồng"</I>. Sách Thần Tiên Giám lại chép: <I>"An Kỳ Sinh</I><I><B>[60]</B></I><I> gặp Đại Sĩ, xin bài thuốc cam lộ, Đại Sĩ tặng cho"</I>. Đây chính là đạo luyện Kim Đan mượn danh Phật pháp để tăng thanh thế, giá trị, nhằm lừa bịp người đời, quyết chẳng đáng tin. Lại còn có cuốn Tâm Kinh Chân Giải của Tỉnh Mộng đạo nhân biến lời Phật thành lời ma, càng biến thành đại vọng ngữ, đọa trong ngục Vô Gián. Hãy gấp nên đốt sạch để tiêu trừ tội khiên ấy.</P>

<P>(4) Sách Nam Hải Nhất Chước chép trong đàn cầu mưa ở phủ Bảo Ninh, tỉnh Tứ Xuyên, thần tiên hiển hóa giáng cơ bút có những câu như<I>"Nam Hải Quán Âm quỳ mọp ở kim khuyết</I><I><B>[61]</B></I><I> van nài Ngọc Đế".</I> Đúng là coi Bồ Tát như bầy tôi của Ngọc Đế, chẳng biết Ngọc Đế như thế tục tôn xưng chính là Đế Thích trong kinh Phật, tức Đao Lợi thiên vương. Trong Dục Giới, ở trên [tầng trời Đao Lợi] còn bốn tầng trời nữa, Sắc Giới có mười tám tầng trời, Vô Sắc Giới có bốn tầng trời, đều thuộc về [những cõi còn] luân hồi trong tam giới. Xét đến địa vị của Bồ Tát thì toán, số, thí dụ đều chẳng thể tính xuể, làm sao Ngọc Đế dám nhận sự lễ kính của Quán Âm là bậc thành Phật đạo đã lâu, thị hiện ở địa vị Bồ Tát? Cần biết rằng: Bài văn ấy chính là do linh quỷ giả mạo.</P>

<P>Thế tục làm đàn chay, thường tạo hình tượng Diện Nhiên Đại Sĩ, điều này vốn phát xuất từ Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La Ni Kinh, nên chẳng phải là sai ngoa! Chỉ có điều hễ tạo tượng Ngài thì ắt là tai bên phải đeo vòng, chân phải còn mặc quần của nữ nhân, họ bảo là Đại Sĩ biến hóa mấy chục lần, nhưng không thể biến đổi được điều ấy[62], quê kệch đáng nực cười!</P>

<P> </P>

<P><B>II. Phần tụng văn chánh thức</B></P>

<P><B> </B></P>

<P>     Chia làm hai đoạn:</P>

<P>     1. Ca tụng Bổn Tích trong kiếp xưa nhằm nêu rõ đạo lớn, đức rộng.</P>

<P>     2. Ca tụng sự cảm ứng trong phương này, nhằm chỉ rõ bi sâu, nguyện nặng.</P>

<P> </P>

<P><B>2.1. Ca tụng Bổn Tích trong những kiếp xưa nhằm nêu rõ đạo lớn, đức rộng</B></P>

<P> </P>

<P>Trong phần này lại chia làm hai đoạn lớn:</P>

<P>1. Tu chứng</P>

<P>2. Ứng hóa.</P>

<P> </P>

<P><B>2.1.1 Tu Chứng</B></P>

<P><B> </B></P>

<P>Trong phần Tu Chứng lại chia thành hai đoạn:</P>

<P>1. Phát tâm: Ca tụng nhân duyên xưa kia được thuật trong kinh [Quán Thế Âm Bồ Tát] Thọ Ký.</P>

<P>2. Chứng thánh: Ca tụng chương [Nhĩ Căn] Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm.</P>

<P>Trong phần Ứng Hóa lại chia thành hai đoạn:</P>

<P>1. Sự ứng hóa trước thời Phật Thích Ca: Ca tụng sự phát tâm, thọ ký được nói trong kinh Bi Hoa.</P>

<P>2. Sự ứng hóa phù tá Phật Thích Ca. Trong phần này chia làm sáu tiểu đoạn:</P>

<P>a. Dạy về Bi: Ca tụng chương trần thuật lần tham học thứ hai mươi bảy của Thiện Tài trong kinh Hoa Nghiêm.</P>

<P>b. Dạy về Trí: Ca tụng Tâm Kinh.</P>

<P>c. Thần chú: Ca tụng Thập Nhất Diện Chú Kinh, Tiêu Phục Độc Hại Chú Kinh, Bất Không Quyến Sách Kinh, Đại Bi Chú Kinh và các bộ kinh nói về thần chú khác.</P>

<P>d. Thọ ký: Ca tụng Thọ Ký Kinh.</P>

<P>e. Quán tưởng: Ca tụng phép quán về hoa tòa và quán thân tướng của Đại Sĩ trong Quán Kinh.</P>

<P>f. Lễ kính, trì danh: Ca tụng phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa, mười bốn món Vô Úy được nói trong chương [Nhĩ Căn] Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm và đoạn văn nói về sự tiếp dẫn trong Quán Kinh.</P>

<P> </P>

<P><B><I>1. Phàm người học đạo, muốn cầu thành Phật, trước hết phải chú trọng phát tâm.</I></B></P>

<P><B><I>2. Chẳng tu nhân rộng lớn, há đắc quả chân thường?</I></B></P>

<P><B><I>3. Bồ Đề vừa phát, chẳng có ngằn mé, phước đức vô lượng.</I></B></P>

<P><B><I>4. Vì thế, Hoa Tạng đại chúng nhiều phen than khó thể phát tâm, lại nói vãng sanh Tịnh Độ dễ dàng.</I></B></P>

<P><B><I>5. Muốn tìm biết sự phát tâm</I></B> <B><I>của Đại Sĩ, phải xét trong kiếp xưa từ thời Không Vương Phật</I></B> <I>(Từ đây trở đi là phần nhân duyên xưa kia được nói trong kinh Thọ Ký, nói về chuyện Đại Sĩ mới phát Bồ Đề tâm, gồm có hai đoạn).</I></P>

<P>    </P>

<P>     (1) Lục Tổ Đàn Kinh: <I>"Ngũ Tổ hỏi: Ngươi cầu vật gì? Thưa: Chỉ cầu làm Phật"</I>. Phẩm Phát Tâm Công Đức của kinh Hoa Nghiêm chép: <I>"Dục tri nhất thiết chư Phật pháp, nghi ưng tốc phát Bồ Đề tâm. Thử tâm công đức trung tối thắng, tất đắc Như Lai vô ngại trí" </I>(Muốn biết pháp của hết thảy chư Phật, hãy nên mau phát Bồ Đề tâm. Tâm này có công đức thù thắng nhất trong các công đức, ắt sẽ đắc Vô Ngại Trí của Như Lai).</P>

<P>     (2) Phẩm Phát Tâm Công Đức [của kinh Hoa Nghiêm] chép: <I>"Phát tâm vô ngại, vô tế hạn, dục cầu kỳ lượng bất khả đắc"</I> (Phát tâm vô ngại, không ngằn mé; muốn biết đến hạn lượng của nó sẽ không thể được). Lại chép: <I>"Dĩ chư tam thế nhân trung tôn, giai tùng phát tâm nhi đắc sanh"</I> (Những bậc Nhân Trung Tôn[63] trong ba đời, đều do phát tâm mà thành).</P>

<P>     (3) Trong phẩm Phát Tâm Công Đức, Đế Thích hỏi công đức của sự phát tâm là như thế nào, Pháp Huệ Bồ Tát nói:<I> "Nan thuyết, nan tri, nan tư nghị, nan độ lượng"</I> (Khó nói, khó biết, khó nghĩ bàn, khó suy lường).</P>

<P>     (4) Theo phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, Văn Thù bảo Thiện Tài: "<I>Nhược hữu chúng sanh, năng phát Bồ Đề tâm, thị sự thậm nan"</I> (Nếu có chúng sanh có thể phát tâm Bồ Đề, chuyện ấy rất khó); ngài Đức Vân lại nói: <I>"Nhữ dĩ năng phát Bồ Đề tâm, phục năng thỉnh vấn chư Bồ Tát hạnh, như thị chi sự, nan trung chi nan"</I> (Ngươi đã có thể phát tâm Bồ Đề, lại có thể thưa hỏi các hạnh Bồ Tát, chuyện như vậy là chuyện khó nhất trong những chuyện khó). Trong kinh Vô Lượng Thọ, ba bậc vãng sanh đều lấy phát Bồ Đề tâm làm chánh nhân nên nói: "<I>Dị vãng nhi vô nhân"</I> (Dễ đi nhưng không có ai theo).</P>

<P>     (5) Tố (溯) là đi ngược dòng. <I>"Không Vương kiếp"</I> là lời nói tột bậc về sự lâu xa, bởi lẽ, sự phát tâm của Đại Sĩ, nếu chẳng phải là Phật sẽ chẳng thể biết được!</P>

<P> </P>

<P>      <B><I>Có một cõi tên là Đức Tụ, Phật hiệu là Kim Quang, có vị vua sáng suốt tên là Oai Đức, nghe pháp ấn của Như Lai, đang ở trong vườn hoa, nhập tam-muội, thấy trong hoa sen hóa sanh hai đứa bé trai, chứng "hết thảy pháp là không", cắt đứt ba đời, danh không chân thật, nói năng là giả bày, ngẫu nhiên xưng danh là Bảo Ý, cùng nhau lễ Kim Sư Phật làm thầy, hỏi hương hoa cúng dường thì phước đức của ai là nhiều, biết sự trang nghiêm trong trần sát, Bồ Đề tối thắng, hiện sư tử hống trong chúng trời rồng, phát Tứ Hoằng Thệ, than thở Bổn Tế khó biết. Vì mỗi một chúng sanh, trải bao kiếp tu hành, đoạn trừ Ngũ Kết, đoạn trừ cái thân sanh trong nhà lửa, vượt trỗi Nhị Thừa. Chẳng trụ trong thảo am, nguyện trong vạn ức kiếp tế độ chúng sanh, nhiếp thủ hạnh thanh tịnh, trang nghiêm cõi Phật. Đấy chính là lúc Đại Sĩ sơ phát Bồ Đề tâm, dũng mãnh nhất trong các chúng sanh.</I></B></P>

<P> </P>

<P>      Trong<B> </B>Quán Âm Thế Chí Thọ Ký Kinh, đức Phật nói: - Trong chẳng thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp xa xưa, có thế giới tên là Vô Lượng Đức Tụ An Lạc Thị Hiện, Phật hiệu là Kim Quang Sư Tử Du Hý. Có vua tên Oai Đức, nghe Phật nói vô lượng pháp ấn, ở trong vườn hoa, nhập tam-muội. Hai bên có hai đóa sen từ dưới đất trồi lên, có hai đồng tử hóa sanh trong ấy. Vua hỏi tên họ, bé trai bên phải nói kệ rằng:</P>

<P> </P>

<P><I>Hết thảy các pháp không,</I></P>

<P><I>Cớ sao hỏi danh tự?</I></P>

<P><I>Pháp quá khứ đã diệt,</I></P>

<P><I>Pháp tương lai chưa sanh,</I></P>

<P><I>Pháp hiện tại chẳng trụ,</I></P>

<P><I>Nhân giả hỏi tên ai?</I><I></I></P>

<P><I> </I></P>

<P>Bé trai bên trái nói kệ rằng:</P>

<P> </P>

<P><I>Tên nào cũng trống rỗng,</I></P>

<P><I>Tên nào cũng chẳng được!</I></P>

<P><I>Muốn cầu tên chân thật,  </I></P>

<P><I>Chưa bao giờ thấy nghe!</I></P>

<P><I>Nói danh tự, ngôn ngữ,</I></P>

<P><I>Đều là giả đặt bày.</I></P>

<P><I>Tôi tên là Bảo Ý,</I></P>

<P><I>Nó tên là Bảo Thượng.</I></P>

<P><I> </I></P>

<P>Nói kệ xong, cùng vua đến chỗ Phật, đầu mặt lễ dưới chân Phật, đồng thanh hỏi Phật:</P>

<P>- Cúng dường đấng Vô Thượng Lưỡng Túc Tôn như thế nào? Hoa, hương, các thứ âm nhạc, y phục, thuốc men, ngọa cụ[64], cúng dường những thứ như thế thì làm sao sẽ là tối thắng?</P>

<P> </P>

<P>Phật dùng kệ đáp lời:</P>

<P> </P>

<P><I>Ví đầy hằng sa cõi,</I></P>

<P><I>Trân bảo, vật trang nghiêm,</I></P>

<P><I>Dâng hiến lên Như Lai,</I></P>

<P><I>Chẳng bằng đem lòng Từ,</I></P>

<P><I>Hồi hướng về Bồ Đề,</I></P>

<P><I>Phước ấy là tối thắng.</I></P>

<P><I> </I></P>

<P>Bé trai lại nói kệ:</P>

<P> </P>

<P><I>Chư thiên, long, quỷ thần,</I></P>

<P><I>Nghe ta sư tử hống,</I></P>

<P><I>Nay đối trước Như Lai,</I></P>

<P><I>Phát hoằng thệ Bồ Đề,</I></P>

<P><I>Sanh tử vô lượng kiếp,</I></P>

<P><I>Bổn Tế<B>[65]</B> khó thể biết,</I></P>

<P><I>Vì mỗi một chúng sanh,</I></P>

<P><I>Trải kiếp số hành đạo,</I></P>

<P><I>Ta từ nay trở đi,</I></P>

<P><I>Nếu khởi tâm tham dục,</I></P>

<P><I>Sân, si, keo, ganh... thảy</I></P>

<P><I>Là lừa dối Thế Tôn,</I></P>

<P><I>Chẳng khởi tâm Thanh Văn,</I></P>

<P><I>Cũng chẳng cầu Duyên Giác,</I></P>

<P><I>Sẽ trong vạn ức kiếp,</I></P>

<P><I>Đại bi độ chúng sanh,</I></P>

<P><I>Như cõi Phật ngày nay,</I></P>

<P><I>Thanh tịnh diệu trang nghiêm,</I></P>

<P><I>Khiến khi ta đắc đạo,</I></P>

<P><I>Vượt trỗi ức trăm ngàn.</I></P>

<P><I> </I></P>

<P>Hai đứa bé trai ấy chính là Quán Âm và Thế Chí, đối trước đức Phật ấy phát tâm Bồ Đề lần đầu.</P>

<P>Lại nói:</P>

<P>- Vị Đại Sĩ này trước đó đã cúng dường Phật, gieo các thiện căn chẳng thể tính kể. Tuy chưa phát tâm, nhưng đã trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn, dũng mãnh nhất trong các chúng sanh.</P>

<P>Ngài Thi Hộ đời Tống lại dịch như sau: <I>"Hai đồng tử, một tên là Bảo Nghiêm, chính là Quán Tự Tại hiện thời. Một tên là Bảo Thượng, là Đại Thế Chí hiện thời".</I></P>

<P>      Tứ Hoằng Thệ chính là <I>"chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành".</I></P>

<P>      Ngũ Kết tức là tham, sân, mạn, keo, ganh ghét. <I>"Hỏa trạch"</I> (nhà lửa) tỷ dụ nỗi khổ luân hồi trong tam giới. Theo Hoa Nghiêm Kinh: <I>"Thất Địa Bồ Tát, đại bi lực cố, siêu quá Nhị Thừa địa"</I> (Thất Địa Bồ Tát do sức đại bi nên vượt trỗi địa vị Nhị Thừa). Hàng Nhị Thừa được gọi là <I>"ở trong thảo am".</I> Vô Lượng Thọ Kinh có nói tới hạnh tư duy nhiếp thủ trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh.</P>

<P> </P>

<P>      <B><I>1. Nhưng chúng sanh vốn sẵn thành Phật, không gì chẳng phải là ước theo Lý để nói. Bồ Tát phát tâm độ người, há có phải trọn chẳng mệt nhọc mà đạt được ư?</I></B></P>

<P><B><I>      2. Tuy sẵn đủ tánh đức, không có tu đức sẽ chẳng hiện bày trọn vẹn. Tự giác đã viên, nhưng phải giác tha thì hai thứ giác ấy mới viên mãn.</I></B></P>

<P><B><I>      3. Chỉ là: Trở về nguồn thì chẳng hai, môn phương tiện là như thế nào? Thánh tánh đều thông, đâu là nẻo Niết Bàn ?</I></B> <I>(</I><I>Từ đây trở xuống là phần ca tụng chương Quán Thế Âm Bồ Tát Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, gồm có tám đoạn)</I></P>

<P> </P>

<P>      (1) Viên Giác Kinh: <I>"</I><I>Thủy tri chúng sanh bổn lai thành Phật"</I> (Mới biết chúng sanh vốn đã thành Phật). Lời Sớ giảng rằng: <I>"Bổn chính là bổn giác, tức là Lý Tức Phật của tông Thiên Thai". </I>Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Tự vị đắc độ, tiên độ nhân giả, Bồ Tát phát tâm"</I> (Chưa độ được mình mà đã độ người khác trước, đấy chính là sự phát tâm của hàng Bồ Tát).</P>

<P>      (2) Khởi Tín Luận: "<I>Bản thể của pháp Chân Như tuy sáng sạch, đầy đủ công đức, nhưng bị vô biên khách trần làm nhơ. Giả sử có người, siêng năng ức niệm, nhưng chẳng làm các phương tiện, chẳng tu các hạnh, mà muốn được thanh tịnh thì trọn chẳng thể nào có lẽ ấy!"</I> Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Tự giác dĩ viên, năng giác tha giả, Như Lai ứng thế"</I> (Tự giác đã viên mãn, lại còn có thể giác ngộ người khác thì là bậc Như Lai xuất hiện trong cõi đời).</P>

<P>      (3) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Quy nguyên tánh vô nhị, phương tiện hữu đa môn. Thánh tánh vô bất thông, thuận nghịch giai phương tiện"</I> (Trở về nguồn thì tánh chẳng hai, nhưng phương tiện có nhiều cửa. Thánh tánh không gì chẳng thông, nhưng thuận tánh hay nghịch tánh đều là phương tiện). Lại chép: <I>"Thử thị vi trần Phật, nhất lộ Niết Bàn môn"</I> (Đây là đường lối Niết Bàn duy nhất của vi trần chư Phật).</P>

<P>     </P>

<P>      <B><I>1. Do vậy, Đại Sĩ biết: Tâm sanh diệt chẳng xứng dùng làm tâm tu nhân, cho nên luyện tập trừ khử ý thức. Trí vô phân biệt mới hợp với bổn địa giác, cho nên viên chiếu môn Nhĩ Căn viên thông.</I></B></P>

<P><B><I>      2. Ấy là vì: Mười phương gióng trống, phô rõ tánh Nghe viên dung. Ba lượt gõ chuông, chứng minh pháp vị thường trụ.</I></B></P>

<P><B><I>      3. Dẫu trong mộng điên đảo, ngẫu nhiên lầm mê tiếng chày giã, quyết định biết giác quán vượt ngoài suy nghĩ, cố nhiên thân tâm chẳng thể sánh kịp được </I></B><I>(Ca tụng Đại Sĩ thoạt đầu chọn Nhĩ Căn [để tu Viên Thông], chứng ba thứ chân thật là "viên, thông, thường")</I></P>

<P> </P>

<P>      (1) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"</I><I>Nhữ đẳng nhược dục tu Bồ Tát thừa, nhập Phật tri kiến, ưng đương thẩm quán Nhân Địa phát tâm, dữ Quả Địa giác, vi đồng, vi dị. Nhược ư nhân địa, dĩ sanh diệt tâm vi bổn tu nhân, nhi cầu Phật thừa bất sanh, bất diệt, vô hữu thị xứ!"</I> (Các ông nếu muốn tu Bồ Tát thừa để nhập tri kiến Phật, hãy nên xét kỹ sự phát tâm trong lúc tu nhân là giống hay khác với sự giác ngộ khi chứng quả. Nếu trong lúc tu nhân mà dùng cái tâm sanh diệt làm gốc để tu nhân hòng cầu Phật thừa chẳng sanh chẳng diệt thì chẳng thể nào có lẽ ấy được!). Sách Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch Sớ giảng: "<I>Ý nghĩa trọng yếu của kinh này là quyết định chẳng dùng cái tâm ý thức, bởi nó là oán gia của Đại Định, quyết định dùng tánh của Căn để tu, bởi tánh của Căn chính là chân tâm, nó chính là Định sẵn có trong tự tánh vậy"</I>. Tâm sanh diệt là ý thức. Vô phân biệt trí là tánh của Căn. Kinh còn chép: <I>"N</I><I>gã tùng nhĩ môn viên chiếu tam muội"</I> (Ta từ môn Nhĩ Căn Viên Thông mà chiếu trọn vẹn tam-muội).</P>

<P>      (2) Kinh chép: <I>"</I><I>Thí như nhân tịnh cư, thập phương câu kích cổ, thập xứ nhất thời văn, thử tắc Viên chân thật. Cách viên thính âm hưởng, hà nhĩ câu khả văn, ngũ căn sở bất tề, thị tắc Thông chân thật"</I> (Ví như người đang ở nơi yên lặng, mười phương đều đánh trống, đều cùng một lúc nghe được tiếng trống cả mười nơi. Đấy là Viên chân thật. Cách vách vẫn nghe được tiếng vọng, xa hay gần đều nghe được. Năm căn kia so với [nhĩ căn] đều không bằng được! Như vậy, [Nhĩ Căn viên thông] mới là Thông chân thật).</P>

<P>      Phật lại sai La Hầu La gõ chuông, hỏi: "Có nghe hay không?" Đại chúng thưa: "Dạ nghe!" Khi tiếng chuông dứt, Phật hỏi: "Có nghe hay chăng?" Đại chúng thưa: "Không nghe". Gõ chuông lần thứ ba, hỏi: "Có tiếng chuông hay không?" Đại chúng thưa: "Có tiếng". Đến khi tiếng chuông dứt, hỏi: "Bây giờ có tiếng chuông ngân hay không?" Đại chúng thưa: "Không có tiếng". Phật bảo A Nan: <I>"Tiếng chuông dứt, không còn vang, ông bèn nói là không nghe. Nếu quả thật là không nghe thì tánh Nghe đã diệt, giống như cây khô, dẫu có tiếng chuông gõ đi nữa thì ông làm sao nhận biết? Biết có, biết không, chính là Thanh Trần hoặc có, hoặc không, chứ đâu phải là tánh Nghe của ông là có hay là không!"</I></P>

<P>Kinh còn chép: <I>"Thanh âm tánh động tĩnh, văn trung vi hữu vô, vô thanh hiệu vô văn, phi thật văn vô tánh, thanh vô, ký vô diệt, thanh hữu, diệc phi sanh. Sanh diệt nhị viên ly, thị tắc thường chân thật"</I> (Do tánh của âm thanh là động hay tĩnh, mà nghe thành có hay là không. Không có tiếng thì gọi là không nghe, chứ không phải là cái Nghe không có tánh. Không có tiếng thì tánh Nghe ấy chẳng diệt, có tiếng thì tánh Nghe ấy chẳng sanh. Lìa trọn vẹn cả hai thứ sanh diệt thì chính là thường chân thật). Pháp Hoa Kinh: <I>"</I><I>Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ"</I>(Pháp này trụ trong pháp vị, tướng thế gian thường trụ).</P>

<P>      (3) Kinh chép: <I>"</I><I>Như trọng thụy nhân, miên thục sàng chẩm. Kỳ gia hữu nhân đảo luyện thung mễ, kỳ nhân mộng trung, văn thung đảo thanh, biệt tác tha vật.</I> <I>Hoặc vi kích cổ, hoặc vi tràng chung, tự quái kỳ chung vi mộc thạch hưởng"</I> (Như người ngủ say, nằm ngủ mê mệt trên giường. Trong nhà ấy có người giã gạo, người ấy trong mộng nghe tiếng chày giã lại ngỡ là vật khác, hoặc ngỡ là đánh trống, hoặc là gõ chuông, tự lấy làm lạ 'sao tiếng chuông nghe như tiếng gỗ giộng vào đá?'). Lại chép: <I>"Túng </I><I>linh tại mộng tưởng, bất vị bất tư vô, giác quán xuất tư duy, thân tâm bất năng cập"</I> (Dẫu đang ở trong mộng, chẳng vì không suy nghĩ mà chẳng nghe, sự nhận biết ấy vượt ngoài suy nghĩ, thân tâm chẳng thể sánh bằng được).</P>

<P> </P>

<P>     <B><I>Cho nên mới có Như Lai trùng tên với Bồ Tát, dạy Ngài dùng Văn Huân để nhập Thiền Định</I></B>.</P>

<P> </P>

<P>     Kinh Lăng Nghiêm chép: <I>"</I><I>Ức niệm ngã tích vô số hằng hà sa kiếp, ư thời hữu Phật, xuất hiện ư thế, danh Quán Thế Âm. Ngã ư bỉ Phật phát Bồ Đề tâm, bỉ Phật giáo ngã tùng Văn Tư Tu, nhập tam-ma-địa"</I> (Nhớ nghĩ: Ta trong vô số hằng sa kiếp xưa, lúc ấy có Phật xuất hiện trong cõi đời, hiệu là Quán Thế Âm. Ta phát Bồ Đề tâm ở nơi đức Phật ấy. Đức Phật ấy dạy ta từ Văn - Tư - Tu nhập tam-ma-địa). Thiền Định, tức là Tam-ma-địa (Samādhi), còn gọi là tam-muội. Cõi này dịch là Chánh Thọ, hoặc còn dịch là Chánh Định.</P>

<P> </P>

<P>      <B><I>1. Xoay ngược cái Nghe điên đảo, thâm nhập tánh Nghe, quay về tự tánh, còn vọng nào sanh?</I></B></P>

<P><B><I>      2. Nhất niệm hồi quang, chẳng do Minh mà lập Sở. Hai trần đều trừ, cũng là vọng tình chấp tịnh.</I></B></P>

<P><B><I>     </I></B>Kinh này (tức kinh Lăng Nghiêm) dạy: <I>"Sơ ư văn trung, nhập lưu, vong Sở. Sở nhập ký tịch, động tĩnh nhị tướng liễu nhiên bất sanh"</I>(Thoạt đầu từ nơi cái Nghe, thâm nhập quán sát khả năng nghe được âm thanh là do đâu mà có,<B><I> </I></B>quên mất đối tượng của cái Nghe. Khi đối tượng của cái Nghe đã vắng lặng thì hai tướng động tĩnh trọn chẳng còn sanh)[66].</P>

<P>     (1) Kinh chép: <I>"Toàn nhữ đảo văn cơ, phản văn văn tự tánh"</I> (Hãy xoay ngược lại cái Nghe điên đảo của ngươi để nghe ngược lại nơi tự tánh). Lại nói: <I>"Toàn lưu hoạch vô vọng"</I> (Xoay ngược dòng (tức là quán sát ngược lại xem khả năng nghe được âm thanh là do đâu mà có) sẽ không còn vọng). Lại nói: <I>"Nhữ đản ư nhất môn thâm nhập, nhập nhất vô vọng, bỉ lục tri căn, nhất thời thanh tịnh"</I> (Ngươi chỉ thâm nhập một môn, hễ nhập được một môn, không còn vọng thì sáu căn hay biết kia sẽ đồng thời thanh tịnh).</P>

<P>     (2) Trong bài Định Huệ Ca của ngài Vĩnh Minh có đoạn: <I>"Nhất niệm hồi quang chánh trí khai"</I>. Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Giác phi sở minh, nhân minh lập Sở"</I> (Giác chẳng phải là cái được hiểu rõ, do sự hiểu rõ ấy mà thấy có đối tượng được hiểu rõ)[67]. Kinh còn nói: <I>"Nguyên minh chiếu sanh Sở, Sở lập chiếu tánh vong"</I> (Nguyên minh là bổn minh (tánh sáng suốt vốn sẵn có, tức chân tâm, chân tánh). Nếu từ diệu dụng chiếu soi mọi cảnh, mọi sự của tánh bổn minh, mà thấy có cảnh được chiếu bởi tánh bổn minh ấy, thì do đã thấy có đối tượng được chiếu soi bởi tánh bổn minh (Sở Chiếu, hay còn gọi là vọng cảnh) nên tác dụng chiếu chân thật của tánh bổn minh ấy không còn nữa nên nói là Sở đã được thành lập thì tánh của Chiếu không còn nữa)[68]. Nhị Trần chính là Động Trần và Tịnh Trần. Trong Bác Sơn Cảnh Ngữ có câu: <I>"Tu tập công phu, sợ nhất là đắm chấp tịnh cảnh, khiến cho con người bị vây hãm trong khô tịch<B>[69]</B>, đọa trong vô tri. Phải đừng chấp vào tịnh cảnh thì mới được".</I></P>

<P> </P>

<P><B><I>Nhưng hai thứ Căn và Trần đều là tỳ vết nơi gương. Tướng và cái Thấy cùng mất thì mới chứng nhập địa vị Nhân Không. Đấy chính là lúc Đại Sĩ chứng Ngã Không Chân Như, đoạn hết Kiến Tư Hoặc.</I></B></P>

<P><B><I> </I></B></P>

<P>      Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Ư thị tiệm tăng, văn sở văn tận"</I> (Do vậy, dần dần tăng tấn, cái Nghe và cái được Nghe đều chẳng còn). Trong bài Chứng Đạo Ca của ngài Vĩnh Gia có câu: <I>"Tâm là Căn, pháp là Trần, hai thứ ấy cùng là tỳ vết hiện nơi gương"</I>, nhưng chữ Căn mà ngài Vĩnh Gia nói đó chính là Giác được nói tới trong đoạn văn kế tiếp, còn chữ Trần mà Ngài nói đó chính là Không trong đoạn văn kế tiếp, khác với kinh Lăng Nghiêm này: Căn chỉ Văn (cái Nghe), Trần chỉ Sở Văn (đối tượng của cái Nghe, cái được nghe), tôi chỉ mượn lời Ngài mà thôi! Căn là Kiến Phần, Trần là Tướng Phần[70]. Kinh dạy: <I>"Căn kết nhược trừ, trần tướng tự diệt"</I>(Nếu trừ được Kết (chấp trước, phân biệt) nơi Căn thì trần tướng[71] tự diệt), cho nên nói là <I>"song vong"</I> (cả hai cùng mất). Kinh còn chép: <I>"Thử căn sơ giải, tiên đắc Nhân Không"</I> (Khi vừa hiểu được căn này thì trước hết đắc Nhân Không). [Chánh Mạch] Sớ giảng: <I>"Đây chính là lúc hết sạch Kiến Tư Hoặc, chứng Ngã Không Chân Như".</I></P>

<P> </P>

<P><B><I>1. Nhưng lông rùa, sừng thỏ, Sự chướng dễ trừ. Trăng trong nước, hoa trong gương, Lý ma khó dứt.</I></B></P>

<P><B><I>2. Chẳng đổ công giồi mài, khó khỏi công huân mắc đọa, chẳng phải là huyễn trở thành huyễn, Phật cũng là Trần, xa lại càng xa, Không càng thêm mất. Đấy là lúc Đại Sĩ thành tựu pháp giải thoát, bắt đầu dứt hết Trần Sa Hoặc.</I></B></P>

<P><B><I> </I></B></P>

<P><B><I>     </I></B>Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Tận văn bất trụ, giác sở giác không, không giác cực viên, không sở không diệt</I>"(Chẳng trụ nơi đã dứt hết cái Nghe và cái được Nghe, Giác và cái được giác đều không, Không và Giác cực viên thì Không và Sở Không cũng diệt).</P>

<P>    (1) Trong bộ Thiền Tông Tập của ngài Vĩnh Gia có đoạn: <I>"Một là Nhân Không Huệ, nghĩa là hiểu rõ Ấm phi Ngã, tức là trong Ấm không có Ngã, giống như lông rùa, sừng thỏ. Hai là Pháp Không Huệ, nghĩa là hiểu rõ các pháp như Ấm v.v... đều là giả duyên, chẳng thật, như hình ảnh trong gương, như bóng trăng in trong nước"</I>. Lý Ma chính là Lý chướng, còn gọi là Sở Tri Chướng. Nhà Thiền gọi nó là <I>"quang ảnh môn biên sự"</I> (chuyện thuộc về ánh sáng rọi bên cổng), khó thoát lìa nhất. Vì thế, ngài Hoàng Bá nói: <I>"Quên cảnh rất dễ, quên tâm khó nhất".</I></P>

<P>     (2) Trong bài Cảnh Sách của ngài Bác Sơn có đoạn: <I>"Thực hiện công phu tuy đã đạt đến mức tương ứng với Pháp Thân, nhưng chưa đoạn mạng căn thì vẫn phải dốc toàn thân giồi mài, chẳng để nguy vong thì mới được"</I>. Nhà Thiền lập ra năm địa vị công huân tùy theo mức công phu sâu hay cạn. Ngài Mật Vân Ngộ nói: <I>"Nơi đất ruộng ẩn mật, kỵ nhất là công huân bị đọa".</I></P>

<P>     (3) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Tự tâm thủ tự tâm, phi huyễn thành huyễn pháp"</I> (Tự tâm chấp lấy tự tâm thì cái chẳng phải huyễn trở thành huyễn pháp)[72]. Kinh Viên Giác giảng: <I>"Bỉ quán huyễn giả, phi đồng huyễn cố, phi đồng huyễn quán, giai thị huyễn cố"</I> (Kẻ quán huyễn ấy chẳng giống như huyễn, chẳng giống với huyễn quán, vì đều là huyễn vậy).</P>

<P>Có một vị Tăng hỏi ngài Vân Môn: "Khi dứt được Trần thấy Phật thì như thế nào?" Ngài Vân Môn đáp: <I>"Phật cũng là Trần".</I> Kinh Viên Giác lại dạy: <I>"Nhược tâm chiếu kiến nhất thiết giác giả, giai vi trần cấu. Giác sở giác giả, bất ly trần cố".</I> (Nếu giác ngộ cái tâm soi thấu suốt hết thảy thì đều là trần cấu. Giác và Sở Giác đều chẳng lìa nơi trần). Kinh còn chép: <I>"Viễn ly vi huyễn, diệc phục viễn ly, ly viễn ly huyễn, diệc phục viễn ly" </I>(Viễn ly là huyễn, cũng phải xa lìa [sự viễn ly ấy], nhưng lìa viễn ly cũng lại là huyễn, cũng phải xa lìa nó)<I>.</I></P>

<P>Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Nhữ đẳng nhất nhân phát chân quy nguyên, thử thập phương không, giai tất tiêu vẫn"</I> (Nếu một người trong các ông mà thật sự phát tâm trở về với nguồn cội thì tánh Không của mười phương này đều mất sạch hết). Ở đây mượn ý ấy để ví dụ cái Không bị diệt. Kinh Lăng Nghiêm chép: <I>"Không tánh viên minh, thành pháp giải thoát"</I>(Tánh Không tròn sáng, thành pháp giải thoát). [Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch] Sớ giảng: <I>"Đắc pháp giải thoát, hết Trần Sa Hoặc"</I>.</P>

<P> </P>

<P>     <B><I>1. Vốn đã là không không, cần gì phải diệt diệt?</I></B></P>

<P><B><I>     2. Đến lúc đầu sào tiến thêm bước nữa, chuyển cơ ở ngoài kiếp.</I></B></P>

<P><B><I>     3. Công thành bèn lui, thái bình chẳng thấy tướng quân. Chết đi sống lại, đất nước táng vong, ông lão chốn quê làm sao yên được?</I></B></P>

<P><B><I>     4. Đốt củi, khói hết, tro bay. Mài gương, hết nhơ, sáng hiện.</I></B></P>

<P><B><I>     5. Vô minh đoạn ngay, tịch diệt hiện tiền. Đấy chính là lúc Đại Sĩ do tam-ma-địa đắc Vô Sanh Nhẫn.</I></B></P>

<P><B><I> </I></B></P>

<P><B><I>     </I></B>Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Sanh diệt ký diệt, tịch diệt hiện tiền"</I> (Sanh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền).</P>

<P>     (1) Kinh dạy: <I>"Giải thoát pháp dĩ, câu không bất sanh, tức nhân pháp nhị không chi cảnh diệc không dã"</I> (Đã giải thoát nơi pháp rồi thì hai thứ Không vốn sẵn có[73] cũng chẳng sanh, tức là hai cảnh Nhân Không và Pháp Không cũng là không). Phạm Võng Kinh: <I>"Nhất thiết không không không"</I> (Cái không trong hết thảy không là không). Kinh Viên Giác dạy: <I>"Huyễn trần diệt cố, huyễn diệt diệc diệt"</I> (Do huyễn trần đã diệt, nên sự diệt hư huyễn cũng diệt).</P>

<P>     (2) Ngài Trường Sa Sầm nói: <I>"Người ngồi nơi đầu sào trăm thước, tuy thế vẫn chưa thật sự nhập; đầu sào trăm thước tiến thêm bước nữa, mười phương thế giới hiện toàn thân".</I> Ngài Thiên Đồng Ngộ nói:<I>"Chuyển cơ ngoài kiếp, bắn tên trước gió".</I></P>

<P>     (3) Trong bài tụng của ngài Thiên Đồng có đoạn: <I>"Thái bình vốn là do tướng quân đưa tới, chứ tướng quân đâu chờ thái bình".</I> Lại nói:<I>"Chết đi sống lại, dối vua chẳng được. Gió lùa hang trống, mây phủ trên ao, chẳng lập mảy trần, nước nhà tan nát thì ông già quê mùa làm sao yên ổn</I>?"</P>

<P>     (4) Viên Giác Kinh: <I>"Thí như toản hỏa, lưỡng mộc tương nhân, hỏa xuất, mộc tận, yên phi, hôi diệt" </I>(Thí như dùi gỗ lấy lửa, lấy hai miếng gỗ làm nhân, lửa sanh, gỗ diệt, khói bay, tro hết). Còn nói: <I>"Thí như ma kính, cấu tận, minh hiện" </I>(Ví như mài gương, nhơ hết, sáng hiện).</P>

<P>     (5) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Thị danh Bồ Tát tùng tam-ma-địa, đắc Vô Sanh Nhẫn" </I>(Đấy gọi là Bồ Tát do tam-ma-địa đắc Vô Sanh Nhẫn).</P>

<P>    </P>

<P>     <B><I>1. Xa-ma mật chiếu, chẳng giống với âm thầm, tăm tối. Thiền Định sáng thêm, tăng trưởng sáng suốt, tịch tịch</I></B>.</P>

<P>     <B><I>2. Hai bánh xe cùng xoay, tu trọn ba thứ. Vì thế, mười phương viên minh, hai thứ thù thắng.</I></B></P>

<P><B><I>     3. Do vậy, Ngũ Uẩn đều không, các căn dùng lẫn cho nhau.</I></B></P>

<P><B><I>     4. Sát-na liền vượt khỏi Trụ, Hạnh, Hướng, Địa; giác tâm trọn đủ Thân, Giới, Căn, Trần.</I></B></P>

<P><B><I>     5. Trên giống như chư Phật, hiện ba mươi hai ứng thân; dưới hợp cùng chúng sanh, thí mười bốn món Vô Úy.</I></B></P>

<P><B><I>     6. Trong hội Pháp Hoa, long nữ chẳng nghe công năng phổ độ; nơi hội Hoa Nghiêm, Thiện Tài chưa đạt diệu đức vô tác</I></B>.</P>

<P>     <B><I>7. Đây là vì đã chứng rốt ráo, nên danh hiệu cổ Phật lưu truyền. Khéo đắc viên thông, nên mới được thọ ký danh hiệu Quán Âm.</I></B></P>

<P><B><I> </I></B></P>

<P><B><I>     </I></B>Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Hốt nhiên siêu việt thế xuất thế gian, thập phương viên minh, hoạch nhị thù thắng. Nhất giả, thượng hợp thập phương chư Phật bổn diệu giác tâm, dữ Phật Như Lai đồng nhất từ lực. Nhị giả, hạ hợp thập phương nhất thiết lục đạo chúng sanh, dữ chư chúng sanh đồng nhất bi ngưỡng"</I> (Đột nhiên vượt thoát thế gian lẫn xuất thế gian, mười phương viên minh, đắc hai thứ thù thắng. Một là trên hợp với bổn giác diệu tâm của mười phương chư Phật, có cùng một từ lực với chư Phật Như Lai. Hai là dưới hợp với mười phương hết thảy chúng sanh trong lục đạo, cùng với các chúng sanh một lòng bi ngưỡng [quả vô thượng Bồ Đề]).</P>

<P>     (1) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Ư Xa-ma-tha, vi mật quán chiếu"</I> (Đối với Xa-ma-tha, quán chiếu nhỏ nhiệm). Đạo gia nói: <I>"Chí đạo chi cực, hôn hôn, mặc mặc"</I> (Chỗ tột bậc của đạo cao tột thì tối tăm, lặng lẽ). Kinh Lăng Nghiêm gọi điều ấy là <I>"pháp trần phân biệt ảnh sự</I>" (chuyện thuộc về bóng dáng của Pháp Trần phân biệt)[74]. Trong bài tụng của ngài Vĩnh Gia có câu: <I>"Tinh tinh tịch tịch thị, vô ký tịch tịch phi, tịch tịch tinh tinh thị, loạn tưởng tinh tinh phi" </I>(Tạm dịch: Thấu hiểu lặng lẽ đúng, vô tri lặng lẽ sai, lặng lẽ hiểu rõ đúng, loạn tưởng hiểu rõ sai)<I>.</I><I><B>[75]</B></I><I></I></P>

<P>     (2) Trong bài Định Huệ Ca của ngài Vĩnh Minh có đoạn: <I>"Như trâu trắng kéo xe hai bánh". "Ba thứ"</I> [trong câu <I>"tu trọn ba thứ"</I>] là Xa-ma-tha, Tam-ma, và Thiền-na, ba thứ ấy. Viên Giác Kinh: <I>"Nhược Bồ Tát dĩ viên giác huệ, viên hợp nhất thiết, danh vi viên tu tam chủng tự tánh thanh tịnh tùy thuận"</I> (Nếu Bồ Tát dùng viên giác huệ để phù hợp trọn vẹn với hết thảy, thì gọi là tu trọn ba thứ tùy thuận tự tánh thanh tịnh).</P>

<P>     (3) Tâm Kinh: <I>"Chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không".</I> Lăng Nghiêm Kinh:<I>"Thức ấm nhược tận, tắc nhữ hiện tiền chư căn hỗ dụng"</I> (Nếu thức ấm đã hết thì các căn hiện tiền của ông sẽ có thể dùng lẫn cho nhau).</P>

<P>     (4) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Như thị nãi siêu Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh tâm, Bồ Tát sở hành Kim Cang Thập Địa, Đẳng Giác viên minh, nhập ư Như Lai diệu</I> <I>trang nghiêm hải</I>" (Như thế bèn vượt qua các địa vị Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh tâm, Kim Cang Thập Địa do Bồ Tát hành, Đẳng Giác viên minh, vào trong biển diệu trang nghiêm của Như Lai).</P>

<P>Viên Giác Kinh: <I>"Giác tánh biến mãn, thanh tịnh bất động. Viên vô tế cố, đương tri lục căn biến mãn pháp giới. Căn biến mãn cố, đương tri lục trần biến mãn pháp giới. Trần biến mãn cố, đương tri tứ đại biến mãn pháp giới"</I> (Giác tánh tròn đầy trọn khắp, thanh tịnh bất động. Do viên mãn không ngằn mé, nên biết sáu căn trọn khắp pháp giới. Do căn tròn đầy trọn khắp, nên biết sáu trần trọn khắp pháp giới. Do các trần tròn đầy, trọn khắp, nên biết bốn đại trọn khắp pháp giới).</P>

<P>     (5) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Ngã đắc Phật tâm, chứng ư cứu cánh"</I> (Ta đắc Phật tâm, chứng rốt ráo). Kinh còn chép: <I>"Bỉ Phật Như Lai thán ngã thiện đắc viên thông pháp môn, ư đại hội trung, thọ ký ngã vi Quán Thế Âm hiệu"</I> (Đức Phật Như Lai ấy khen tôi khéo đắc pháp môn viên thông, ở trong đại hội, thọ ký cho tôi hiệu là Quán Thế Âm).</P>

<P> </P>

<P>     <B>Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng, quyển 1, phần 1 hết</B></P>

<P>              </P><BR clear=all>

<P>[1] Đồng Thể Bi: Coi hết thảy chúng sanh giống hệt như chính mình, phát lòng thương xót khởi tâm cứu độ trừ khổ não cho chúng sanh giống như tự cứu độ chính mình. Nói rộng hơn, do nhận biết hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, Phật tánh của mỗi một chúng sanh không khác gì chính mình, không còn phân biệt ta và người. Do vậy, trừ khổ não cho chúng sanh chính là trừ khổ não của chính mình.</P>

<P>[2] Vô Duyên Từ: Vô Duyên Từ là mức cao nhất trong ba loại Từ (Chúng Sanh Duyên Từ, Pháp Duyên Từ và Vô Duyên Từ), tức là lòng từ bi bình đẳng, không có đối tượng đặc biệt nào để nương tựa vào, hoàn toàn không còn thấy có sự đối lập giữa mình và người. Đây là thứ từ bi chân thật tuyệt đối. Trong Trí Độ Luận, Long Thọ Bồ Tát đã giảng lòng Từ này như sau: <I>"</I><I>Chư</I><I> Phật khéo tu hành Tất Cánh Không nên gọi là Vô Duyên".</I> Trong Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh Giảng Ký, pháp sư Hiển Minh giảng: <I>"Hiểu rõ phiền não chính là Bồ Đề, sanh tử chính là Niết Bàn, pháp giới nhất tướng. Lại tiến thêm một tầng nữa, thiện ác xét đến cội nguồn đều là do cùng một tâm tạo. Chúng Sanh Duyên Từ là pháp tu chung của cả ba thừa, Pháp Duyên Từ là pháp tu của Bồ Tát, Nhị Thừa cũng tu được chút phần. Còn Vô Duyên Từ là Trung Đạo Phật pháp, Nhị Thừa không thể tu tập, chỉ riêng hàng Bồ Tát có thể tu tập lòng Từ này, nên nó là pháp môn bất cộng".</I><I></I></P>

<P>[3] Tam Giác: Tự Giác, Giác Tha, Giác Hạnh viên mãn.</P>

<P>[4] Theo kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni (trong tụng văn thường gọi tắt là kinh Đại Bi hay Đại Bi Chú Kinh), Quán Thế Âm Bồ Tát đã thành Phật từ lâu xa trong quá khứ, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai.</P>

<P>[5] Tịch Quang: Thường Tịch Quang Tịnh Độ.</P>

<P>[6] Mười giới: Tức là mười pháp giới, gồm Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, thiên, nhân, A-tu-la, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục.</P>

<P>[7] Hòa nam (vandanam): kính lễ</P>

<P>[8] Nguyên văn <I>"phiếm châu"</I> (có thể bơi thuyền được).</P>

<P>[9] Tát Bà Nhã Trí (Sarvajña): Hiểu theo nghĩa chung thì Nhất Thiết Trí đồng nhất với Nhất Thiết Chủng Trí, là trí huệ rốt ráo nơi Phật Quả, thông hiểu Thật Tướng của các pháp. Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, quyển Hạ, giảng: <I>"Trọn đủ vô lậu giới, thường tịch giải thoát thân, tịch diệt chẳng nghĩ bàn, gọi là Nhất Thiết Trí"</I>. Du Già Sư Địa Luận, quyển 38, giảng: <I>"Đối với hết thảy các pháp giới, hết thảy sự, hết thảy phẩm, hết thảy thời, trí vô ngại chuyển".</I> Có nghĩa là: Hiểu rõ đúng theo chân đế hết thảy pháp giới, sự tướng, hữu vi, chúng sanh giới, vô vi, nhân quả sai biệt v.v... Đây là quan điểm của Hoa Nghiêm Kinh Đại Sớ. Nếu hiểu theo nghĩa riêng, Nhất Thiết Trí chỉ là trí huệ viên mãn của Thanh Văn, Duyên Giác, như Đại Trí Độ Luận, quyển 27, đã giảng: <I>"Tổng tướng là Nhất Thiết Trí, biệt tướng là Nhất Thiết Chủng Trí, nhân là Nhất Thiết Trí, quả là Nhất Thiết Chủng Trí. Nói đại lược thì là Nhất Thiết Trí, nói rộng thì là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Trí là phá hết thảy tối tăm vô minh nơi hết thảy pháp, còn Nhất Thiết Chủng Trí phá hết thảy vô minh trong các pháp môn".</I></P>

<P>[10] Lưỡng Túc Tôn: Bậc trọn đủ hai thứ công đức cao quý nhất. Thông thường, Lưỡng Túc Tôn được hiểu là Phước và Huệ trọn đủ, lượng bằng pháp giới; nhưng Lưỡng Túc Tôn có ý nghĩa rộng hơn rất nhiều như trong Pháp Hoa Sớ, quyển 4, ngài Gia Tường giảng: <I>"Lưỡng Túc Tôn: Hoặc lấy Giới Định làm Nhị Túc, hoặc lấy Quyền Thật làm Nhị Túc, hoặc lấy Phước Huệ làm Nhị Túc, hoặc lấy Giải Hạnh làm Nhị Túc, đấy đều là lấy Nội Đức làm Nhị Túc. Đối với ngoại hình thì lấy Thiên Nhân làm Nhị Túc, nghĩa là Phật tôn quý nhất trong cả người lẫn trời".</I></P>

<P>[11] Đội mũ (nhược quan): Theo lệ xưa, ở Trung Hoa khi con trai đến hai mươi tuổi liền làm lễ Gia Quan (hay Nhược Quan), búi tóc, đội mũ, không để tóc xõa nữa, ngụ ý đã đến tuổi trưởng thành. Khi ấy, cha mẹ hay thầy dạy thường đặt cho thêm một tên nữa, gọi là Quan Danh (tên đặt khi bắt đầu đội mũ) với ngụ ý nhắc nhở người thanh niên ấy hãy thực hiện hoài bão hay ước vọng của người thân.</P>

<P>[12] Bổn: Sự chứng đắc thật sự trong Nhất Chân pháp giới. Tích: Sự thị hiện.</P>

<P>Có thể hiểu Bổn như mặt trăng, còn Tích là bóng trăng hiện trong nước. Chẳng hạn, bổn địa (Bổn) của Quán Thế Âm Bồ Tát là cổ Phật, đã thành Như Lai cực quả từ lâu, nhưng để độ sanh, Ngài hiện làm thân Bồ Tát và ba mươi hai ứng thân khác để phù tá Di Đà, Thích Ca và mười phương chư Phật hóa độ chúng sanh. Sự thị hiện ấy chính là Tích.</P>

<P>[13] Nguyên văn <I>"tử hư ô hữu".</I> Tử Hư và Ô Hữu là hai nhân vật hư cấu trong bài Tử Hư Phú của Tư Mã Tương Như. Trong bài phú ấy, Tử Hư nước Sở đi sứ nước Tề đã cùng Ô Hữu tiên sinh đối đáp. Cả hai tên này cùng mang ý nghĩa phúng thích, Tử Hư (không thật), Ô Hữu (chẳng có). Do vậy, thành ngữ<I>"tử hư ô hữu"</I> chỉ những gì hoang đường, giả dụ, không thật sự có.</P>

<P>[14] Thanh luận: Những lời luận nghị bàn bạc trong Phật giáo. Do cõi này dùng âm thanh để làm Thể, nhĩ căn của chúng sanh nhạy bén nhất, nên giáo pháp của Phật thường gọi là "thanh giáo".</P>

<P>[15] Huyền ký: Những lời dự đoán về sự việc trong tương lai lâu xa, chẳng hạn, đức Phật huyền ký sau khi Phật nhập diệt, sẽ có Bồ Tát Long Thọ ra đời trung hưng Phật pháp Đại Thừa.</P>

<P>[16] Vì ngài A Nan chỉ chú trọng học rộng nghe nhiều, nhưng không tu chứng, nên ngài Văn Thù dạy đương cơ (đối tượng giáo hóa chánh yếu) trong pháp hội Lăng Nghiêm là ngài A Nan phải biết "xoay trở lại nghe nơi tự tánh" để chứng nhập Chân Như, không bị Thanh Trần xoay chuyển.</P>

<P>[17] Trụ Tích, hay còn gọi là Trác Tích, Quải Tích, đều có nghĩa là một vị pháp sư trụ tại một nơi nào đó tu tập. Tích ở đây là tích trượng.</P>

<P>[18] Nguyên văn <I>"mãi độc hoàn châu"</I> là một thành ngữ chê trách kẻ ngu dại, chỉ biết chuộng hình thức bề ngoài, không biết quý thực chất.</P>

<P>[19] Ông Hoàng Khánh Lan (hiệu là Hàm Chi), pháp danh Trí Hải là người xứ Thượng Hải, làm Đạo Doãn xứ Ninh Thiệu (tức hai phủ Ninh Ba và Thiệu Hưng), dinh Đạo Doãn đặt tại Cối Kê (Giang Tô). Một Đạo gồm nhiều phủ. Theo quy chế nhà Thanh, toàn quốc chia thành nhiều tỉnh, mỗi tỉnh gồm nhiều phủ, mỗi phủ gồm nhiều châu hay huyện. Đạo là cấp quản lý coi từ hai phủ trở lên. Viên quan cai trị một Đạo gọi là Đạo Doãn hay Đạo Đài.</P>

<P>[20] Sơn kinh thủy chí là những cuốn sách trình bày đặc điểm lịch sử của một vùng núi non, sông ngòi nào đó.</P>

<P>[21] Tri Sự vào cuối đời Thanh, nhỏ hơn chức Tri Huyện. Nhưng tại Đài Loan dưới thời lệ thuộc Nhật Bản thì Tri Sự lại lớn hơn Tri Huyện. Tri Sự ở Trung Hoa lục địa là người đứng đầu một trấn hay một hạt.</P>

<P>[22] Hòa thượng Khai Như trước kia làm Trụ Trì chùa Pháp Vũ, sau xin thôi làm Trụ Trì nên gọi là<I>"thoái cư"</I> (tạm dịch là "thoái ẩn").</P>

<P>[23] Từ bổn địa, thị hiện các thân hay sự tướng để hóa độ gọi là <I>"thùy tích"</I> (lưu dấu). Chẳng hạn như Bồ Tát Quán Âm đã thùy tích tại Phổ Đà.</P>

<P>[24] Tổ Ấn Quang quê ở huyện Cáp Dương, tỉnh Thiểm Tây. Do Cáp Dương có cánh đồng Tân (Sân)Dã (莘野,thường đọc trại thành Sằn Dã) là nơi ông Y Doãn cày ruộng trước khi ra giúp vua Thành Thang dựng nghiệp, nên Cáp Dương thường được gọi là Cổ Tân.</P>

<P>[25] Thạch ấn (lithography) là một phương pháp dùng bản in bằng đá hay kim loại, dùng chất dầu để làm dung môi cho mực in. Bản in được chia thành hai phần: Phần hút nước (hydrophilic) thường không thấm mực in và phần kỵ nước (hydrophobic) có phủ một lớp chất nhờn sẽ hút mực in. Phương pháp này do Alois Senfelder sáng chế vào năm 1796 và được sử dụng chủ yếu để in những tác phẩm nghệ thuật. Khi in một bức vẽ hay sách theo lối này, người ta chế bản in sao cho những nét vẽ sẽ là phần kỵ nước và phần để trắng sẽ là phần hút nước. Nhúng bản vẽ vào hỗn hợp nước và mực in, phần kỵ nước sẽ dính mực in, tạo ra nét chữ và hình vẽ khi áp lên giấy. Hiện thời, người ta không còn dùng đá để chế bản mẫu nữa. Hình vẽ được tạo bằng chất polymer phủ lên những tấm nhôm đã được điện cực hóa để chúng không dính mực in, còn phần polymer sẽ hút mực.</P>

<P>[26] Thể là bản chất, còn Dụng là tác dụng, hoặc Thể là bản tánh, là thật quả, còn Dụng là tác dụng hóa độ, tùy cơ hiện tướng ứng hóa.</P>

<P>[27] Chước (勺) là đơn vị đo lường dung tích rất nhỏ, gần bằng 1 ml.</P>

<P>[28] Vua hạ chiếu, cử quan trông coi xây dựng, hoặc ban tiền bạc để trùng tu, thì gọi là <I>"</I>sắc kiến<I>"</I>.</P>

<P>[29] Châu Lương: Châu Lương sáng lập nhà Lương vào thời Ngũ Đại nên sử gọi là Châu Lương hoặc Hậu Lương để phân biệt với nhà Tiền Lương của Lương Vũ Đế (Tiêu Diễn) thuộc thời Nam Bắc Triều.</P>

<P>[30] Huệ Ngạc: Không rõ quê quán, năm sanh và năm mất. Sư là người Nhật, vâng lệnh Quất Thái Hậu sang Trung Hoa cầu pháp trong thời đầu niên hiệu Thừa Hòa (834-847). Sư theo ngả Nhạn Môn lên núi Ngũ Đài triều bái thánh tích, rồi sang chùa Linh Trì ở Hàng Châu tham yết quốc sư Tế An, cung thỉnh thiền sư Nghĩa Không sang Nhật hoằng dương pháp Thiền. Tục truyền, năm Tế Xung nguyên niên (854), ngài Huệ Ngạc lại sang Trung Hoa, lên Ngũ Đài Sơn, chiêm lễ, thấy thánh tượng Quán Âm quá xinh đẹp, không cầm lòng được, bèn lén lấy đem về Nhật (Có lẽ đây là ngoa truyền. Đa số các sách như Phật Tổ Thống Kỷ, Phổ Đà Sơn Chí v.v... đều ghi là ngài Huệ Ngạc lễ Phật, xin được tượng Quán Âm đem về Nhật. Xét ra, Ngài đến Trung Hoa nhiều lần, lẽ nào không thỉnh được tượng vừa ý mà phải ăn trộm!). Thuyền đi đến núi Bổ Đà (ngoài khơi Ninh Ba), thuyền không đi được nữa, bèn thỉnh thánh tượng lên bờ thì thuyền lại đi được. Do vậy, bèn ở lại đảo, dựng chùa, đặt tên nơi ấy là Quán Âm Bất Khẳng Khứ (Quán Âm không chịu đi), gọi đảo là Bổ Đà Lạc Già Sơn (thánh địa đạo tràng ứng tích của ngài Quán Thế Âm). Do Bổ Đà Lạc Già còn phiên âm là Phổ Đà, nên hầu như không ai gọi nơi ấy là Bổ Đà Lạc Già nữa. Núi Phổ Đà, vốn có tên là Mai Sầm Sơn (vì theo truyền thuyết, tiên nhân Mai Phước ẩn cư tu tiên ở núi này), đến đời Tống, đảo được đổi tên thành Bảo Đà, nhưng dân cư vẫn quen gọi là Phổ Đà.</P>

<P>[31] Ý nói tài chữa bệnh rất giỏi. Khi xưa, những người giỏi về một tài nghệ nào thường được gọi là "quốc thủ", chẳng hạn người đánh cờ vây giỏi cũng được xưng là <I>"vi kỳ quốc thủ".</I></P>

<P>[32] Đồng nhân: Những người cùng chí hướng, cùng căn tánh.</P>

<P>[33] Dựa theo ý câu thơ cổ: <I>"Nhật lạc tang du"</I> (Mặt trời lặn bên nương dâu) diễn tả cảnh chiều tà. Sau này thơ văn thường dùng chữ "nương dâu" để chỉ tuổi già.</P>

<P>[34] Vũ nhân (người khoác áo lông vũ, hay người có lông vũ) vốn là thuật ngữ chỉ thần tiên, về sau thường được dùng để chỉ Đạo Sĩ vì họ tự xưng là người tu tiên. Theo sách Bão Phác Tử, trên thân thần tiên có lông mịn như nhung màu đen, hai bên mình có cánh gắn lông vũ, có lúc hiện hình người, đi trên đỉnh núi, hay bay lượn trên không. Vì thế, gọi thần tiên là <I>"vũ nhân".</I></P>

<P>[35] Nguyên văn là "tấn thân" (縉紳), cắm cái hốt vào đai, mô tả cách phục sức của quan lại. Do đó, chữ "tấn thân" được hiểu theo nghĩa rộng là giới quan lại cũng như con cháu nhà quan.</P>

<P>[36] Trà-tỳ (Jhāpeti): Đôi khi còn phiên âm là Đồ Tỳ, Xà Tỳ, Xa Tỵ, Tà Duy, có nghĩa là hỏa thiêu, tức là dùng lửa thiêu hủy thi hài, rồi thâu nhặt di cốt.</P>

<P>[37] Thù y: Thù (殊) là một đơn vị đo lường thời cổ, bằng 1/24 lạng. Thù y là thứ áo cực nhẹ, trong kinh Phật thường dùng chữ "thù y" để chỉ áo của chư thiên vì nó rất nhẹ.</P>

<P>[38] Tả Bộc Xạ là một chức quan văn. Thời Hán, chức quan này là tùy viên của Thượng Thư Lệnh (chuyên coi sóc về xét duyệt tấu chương, chiếu biểu, có thể hiểu giống như chức Chánh Thư Ký Văn Phòng Nội Các bây giờ). Từ thời Tùy - Đường trở đi, Bộc Xạ tương đương chức Tể Tướng, và chia làm Tả Bộc Xạ và Hữu Bộc Xạ (Hữu Bộc Xạ thấp hơn Tả Bộc Xạ).</P>

<P>[39] Bồ Đề Tát Đỏa (Boddhisattva) là danh xưng đầy đủ địa vị Bồ Tát.</P>

<P>[40] Liệt Ứng: Thân ứng hiện kém hèn, tức là những thân ứng hiện chỉ tốt đẹp hơn người thế gian đôi chút. Chẳng hạn như Phật Thích Ca hiện thân trượng sáu, ba mươi hai tướng đẹp, tám mươi tùy hình, chứ Thắng Ứng Thân của Ngài có vô lượng tướng, thường được nói đại lược là '<I>sát hải vi trần tướng'</I>, trong mỗi tướng lại có vô lượng vi trần sát tùy hình hảo.</P>

<P>[41] Theo Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Quán Thế Âm Bồ Tát đắc pháp nơi đức Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai.</P>

<P>[42] Theo kinh Bi Hoa, khi vua cha Vô Tránh Niệm (tiền thân của A Di Đà Phật) nghe theo lời khuyên của đại thần Bảo Hải (tiền thân của Thích Ca Mâu Ni Phật) đã đến quy y, nghe pháp với Bảo Tạng Phật, phát tâm Bồ Đề và các đại nguyện, trưởng tử là vương tử Bất Thuấn (tiền thân của Quán Thế Âm), vương tử Ni Ma (tiền thân của Đại Thế Chí Bồ Tát) và 888 vương tử đã cùng phát Bồ Đề tâm.</P>

<P>[43] Đây là một thí dụ trong kinh Pháp Hoa: Con ông trưởng giả tự bỏ cha lưu lạc quê người, làm thuê làm mướn, ăn xin nuôi thân, chẳng biết mình là con ruột một vị trưởng giả giàu có nhất nước.</P>

<P>[44] Nguyên văn <I>"nhị thụ ma triền"</I> (ma bệnh tật trói buộc). <I>"Nhị thụ"</I> (二豎) là một từ ngữ chỉ bệnh tật phát xuất từ một câu chuyện thời Xuân Thu: Theo Tả Truyện, Tấn Cảnh Công bị bệnh, sai người sang nước Tần mời danh y Y Hoãn qua trị bệnh. Khi danh y chưa tới, Cảnh Công mộng thấy hai "thụ tử" (tiếng cổ chỉ hai đứa bé) nói chuyện: "Thầy thuốc giỏi sẽ được mời đến, chúng ta phải làm sao?" Đứa kia nói: "Hãy trốn vào phần trên Hoang, phía dưới Cao thì ông ta không thể nào làm gì chúng ta được". Y Hoãn đến thăm bệnh, nói: "Bệnh không chữa được, đã nhập Cao Hoang". Cao Hoang là từ ngữ chỉ chung phần nằm dưới tim, phía trên hoành cách mô. Do truyện này mà có hai từ ngữ: <I>"Nhị thụ</I>" chỉ bệnh tật rề rề và <I>"bệnh nhập Cao Hoang"</I> (bệnh đã nguy ngập, không còn chữa được nữa).</P>

<P>[45] Nguyên văn <I>"tự quý bố đầu</I>" (tự thẹn đã sợ hãi cái đầu của mình). Ông Hứa tự ví mình như anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa trong kinh Lăng Nghiêm, soi gương thấy đầu mình bèn sợ hãi hóa cuồng. Do vậy, <I>"bố đầu"</I> hàm nghĩa mê cuồng, loạn mất tâm tánh.</P>

<P>[46] Theo kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, người trì chú Đại Bi, nước của người ấy tắm văng dính vào thân chúng sanh nào, chúng sanh ấy cũng được giải thoát.</P>

<P>[47] Bạch Hoa là dịch nghĩa của chữ Phổ Đà (Bổ Đát Lạc Ca).</P>

<P>[48] Từ Mẫn chính là ngài Huệ Nhật sống vào thời Đường, sau khi thọ Cụ Túc Giới đã tham yết ngài Nghĩa Tịnh, nghe ngài Nghĩa Tịnh kể lại chuyến đi sang Ấn Độ cầu pháp, liền phát tâm hâm mộ, nguyện noi theo chí thầy. Trong niên hiệu Võ Tắc Thiên, Sư vượt biển, ba năm sau mới đến được Ấn Độ, tham bái các thánh địa di tích của Thích Ca Mâu Ni Phật, vừa thu thập các bản kinh Phật bằng tiếng Phạn. Trong quá trình cầu pháp, Sư gặp nhiều nỗi nhọc nhằn nên tâm nhàm chán Sa Bà càng mạnh, tâm hâm mộ Cực Lạc càng cao. Nghe nói trên quả núi to ở phía Đông Bắc thành Kiện Đà La (Gandhara), Quán Thế Âm Bồ Tát thường hiện thân, nên Sư lên đỉnh núi ấy, lễ bái suốt bảy ngày, nhịn ăn, thệ nguyện đến chết mới thôi. Đến tối ngày thứ bảy, Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân tử kim trên không trung, ngồi trên sen bảy báu, duỗi tay phải xoa đầu ngài Huệ Nhật, khuyên hãy hoằng dương pháp môn Tịnh Độ. Pháp sư Huệ Nhật ở lại Ấn Độ học pháp suốt mười ba năm, trở về Trung Hoa nhằm thời Đường Huyền Tông, được vua ban hiệu Từ Mẫn Tam Tạng. Sư hoằng dương Tịnh Độ, chủ trương <I>"Giới Tịnh song tu, Giáo Thiền nhất trí, đem hết thảy công đức hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ".</I> Tư tưởng này được ngài Vĩnh Minh Diên Thọ kế thừa và bổ sung hoàn chỉnh.</P>

<P>[49] Theo Quán Âm Linh Cảm Tập, Trương Sứ ở đây chính là Trương Bồng Sơn, giữ chức Tập Hiền Học Sĩ thời Nguyên Thành Tông. Ông Trương đến Phổ Đà tham bái, trông thấy thấy Đại Sĩ hiện bóng lờ mờ trên vách Triều Âm Động. Đến động Thiện Tài, chợt Thiện Tài đồng tử hiện thân trong đám mây lành, lại thấy Đại Sĩ đeo mão hoa, anh lạc, tay cầm cành dương liễu, các vị thần hộ pháp chắp tay cung kính đứng hầu chung quanh. Ông Trương vui sướng, kêu những người cùng đi kiền thành lễ bái, mây lành ngập tràn động một hồi lâu sau mới tan.</P>

<P>[50] Theo lời chú của chính cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh trong phần Hiện Tướng Ở Phổ Đà của sách này: Vào năm Mậu Thìn (1158) trong niên hiệu Thiệu Hưng đời Tống Cao Tông, Sử Hạo và Trình Hưu Phủ đến động Triều Âm [triều bái] không thấy gì. Một vị Tăng dạy: "Trên đỉnh vách núi có hang báu có thể thấy được". Họ nghe theo lời, chợt [Đại Sĩ] hóa hiện tướng tốt lành, sắc vàng chói ngời, mày mắt rành rành.</P>

<P>[51] Trí Giác là danh hiệu do Trung Ý Vương (Tiền Thục) phong tặng cho ngài Vĩnh Minh Diên Thọ. Trong thời gian tu học tại Thiên Thai Sơn, trong khi Thiền Quán, đại sư thấy Quán Thế Âm Bồ Tát dùng cam lộ rưới vào miệng, từ đó, Ngài đắc biện tài vô ngại.</P>

<P>[52] Theo Quán Âm Từ Lâm Tập, tại núi Thỉ Ninh có một vị tăng tên là Trúc Pháp Nghĩa nhằm niên hiệu Hưng Ninh đời Tấn. Sư thông thạo các kinh điển, đặc biệt là kinh Pháp Hoa. Đến năm Hàm An thứ hai (372), Sư chợt mắc bệnh hô hấp, tim cứ đau nhói mỗi khi hít thở, đau đớn khôn cùng. Sư bền lòng niệm thánh hiệu Quán Thế Âm, chợt mộng thấy một người mổ bụng mình moi ruột ra rửa ráy, khi tỉnh giấc bệnh đã lành hẳn.</P>

<P>[53] Theo Cư Sĩ Truyện, cư sĩ Châu Đình Chương, hiệu là Sở Phong, người tỉnh Vân Nam, sống vào khoảng niên hiệu Chánh Đức - Gia Tĩnh đời Minh, tánh tình thuần phác, gia cảnh nghèo hèn. Ai mắng nhiếc, chửi bới gì cũng cười mà thôi. Một lòng tin tưởng Phật pháp, mỗi sáng đều tụng kinh Kim Cang, Di Đà, Quán Âm mỗi thứ một biến. Một hôm vào tiết Thanh Minh, từ biệt cha và vợ nói: "Tôi sắp đi đây, Di Đà đến đón tôi, Quán Âm cũng đã đến", rồi lại nói: "Ngài Quán Âm bảo tôi phải thôi ăn mặn trong năm ngày thì mới về Tây được", bèn mỗi ngày ăn một bữa cháo, một bữa rau. Đến thời hạn, liền tắm gội, đội mũ, bảo con em tụng danh hiệu của bảy đức Như Lai, tụng kinh xong bèn ngồi ngay ngắn qua đời, đến hôm sau thân vẫn còn tỏa mùi thơm, vẻ mặt như lúc sống. Theo như pháp sư Đức Sâm đã viết trong bài ký về sự sanh Tây của cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển 2) thì khi ông Hứa Chỉ Tịnh dâng bài sớ này lên tổ Ấn Quang, Tổ Ấn Quang đọc tới câu này, hiểu ngay là ông Hứa Chỉ hãy còn ăn mặn, liền nghiêm mặt, quở trách: <I>"Thật là tệ! Bậc đại thông gia như vậy mà vẫn chưa lấy thân làm gương ăn chay thì làm sao cảm hóa được người khác?"</I> Cư sĩ không giận mà còn tâm phục, khẩu phục, hôm sau dâng thư xin biên tập tiếp bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục.</P>

<P>[54] Phàm lệ : Những quy định, cách trình bày được áp dụng cho một tác phẩm.</P>

<P>[55] Khoáng Viên gọi đủ là Khoáng Viên Tạp Chí do Ngô Trần Diễm soạn vào thời Đồng Trị nhà Thanh. Quái Viên là tác phẩm của Tiền Hy Ngôn soạn vào đời Minh. Hữu Đài Tiên Quán Bút Ký là tác phẩm của Du Việt được soạn dưới thời Đạo Quang nhà Thanh.</P>

<P>[56] Sát trần: Số lượng vi trần trong một sát-độ (ksetra: Một cõi Phật).</P>

<P>[57] Kiền chùy (Ghanta): Chỉ chung những pháp khí dùng trong nhà Phật làm hiệu lệnh như chuông, trống, khánh, mõ v.v... Ý nghĩa nguyên thủy của chữ này chỉ có nghĩa là chuông.</P>

<P>[58] Nữ chân là nói gọn của Nữ Chân Nhân, chỉ tiên nữ, thánh nữ hay thánh mẫu trong Đạo Giáo.</P>

<P>[59] Xương bồ (Sweet Flag, có tên khoa học là Acorus Calamus) là một loài cỏ mọc trong nước, lá hẹp và dài, có mùi thơm, thường nở hoa màu vàng vào giữa Hạ. Do có mùi thơm dễ chịu, nó thường được dùng làm hương liệu và chữa nhiều bệnh tật. Đạo giáo gán cho Xương Bồ rất nhiều công năng nên trong tết Đoan Ngọ người ta vẫn hái Xương Bồ và lá Ngải đem ngâm rượu uống nhằm trừ độc khí. Xương Bồ có chứa chất gây nghiện và tạo ảo giác nếu dùng với liều cao; có lẽ vì thế Đạo Giáo mới gán cho nó nhiều tác dụng thần kỳ.</P>

<P>[60] Theo truyền thuyết của Đạo Giáo, An Kỳ Sinh tên thật là An Kỳ, người xứ Lang Nha, sống vào thời Tần - Hán tại Đông Hải. Họ cho rằng Đạo giáo được sáng lập bởi Lão Tử và Hoàng Đế, truyền cho Hà Thượng Trượng Nhân, An Kỳ Sinh là học trò của Hà Thượng. An Kỳ Sinh dạy cho Mao Hấp, Mao Hấp dạy cho Nhạc Hà v.v... Người ta tin An Kỳ Sinh tu tiên ở nhiều nơi. Thậm chí núi Yên Tử ở Đông Triều, Việt Nam, cũng được coi là nơi An Kỳ Sinh từng tu tiên.</P>

<P>[61] Thông thường, Kim Khuyết có nghĩa là cung điện nơi vua ở, nhưng theo Đạo Giáo, Kim Khuyết là một trong hai cung điện của Ngọc Hoàng Thượng Đế trên tầng trời Đại La.</P>

<P>[62] Đây là sự đồn đại sai lầm trong dân gian Trung Hoa. Do họ thấy Bồ Tát thường có hình tượng người nữ, nên cứ nghĩ Bồ Tát là nữ nhân. Khi Bồ Tát hiện thân Diện Nhiên thì dù có biến hiện tướng hung dữ, vẫn không giấu được thân phận nữ nhân nên tai phải mới đeo vòng, chân phải còn mặc quần của phụ nữ.</P>

<P>[63] Nhân Trung Tôn: Đấng tôn quý nhất trong loài người, một mỹ hiệu của Phật.</P>

<P>[64] Ngọa cụ: Nói chung, ngọa cụ (tọa cụ) là những thứ để trải ra nằm; còn nói riêng thì là tấm Ni-sư-đàn (Nisīdana, tọa cụ) của chư Tăng, là một tấm trải để ngồi hay nằm với mục đích tránh các loại côn trùng bò lên cắn chích thân thể và giữ cho ba y khỏi bị lấm dơ. Giống như ba y, tọa cụ chỉ dùng hoại sắc, tức những màu úa. Tọa cụ thường may như một tấm chăn to, dùng vải cũ viền quanh mép, may thành hai ba lớp, hay được chế từ y cũ. Theo luật định, kích thước của tọa cụ dài chừng 4 thước tám tấc, rộng ba thước sáu tấc (thước Tàu). Tuy thế, khi đạo Phật truyền xuống Nam Ấn, chư Tăng thường dùng tọa cụ vắt vai, như khi đi khất thực hoặc bố-tát (tụng giới), chư Tăng sĩ Tích Lan, Thái Lan hiện nay vẫn khoác chéo tọa cụ lên vai, rồi dùng đai lưng buộc lại.</P>

<P>[65] Bổn Tế có thể hiểu theo nhiều nghĩa:</P>

<P>1. Lý Thể tuyệt đối bình đẳng, tức là tên gọi khác của Niết Bàn. Hiểu theo nghĩa này thì Bổn Tế còn gọi là Chân Tế, Chân Thật Tế, Chân Như hay Thật Tế. Viên Giác Kinh giảng: <I>"Bình đẳng bổn tế, viên mãn mười phương".</I></P>

<P>2. Đồng nghĩa với Tiền Tế, tức trạng thái sẵn có trong quá khứ. Nghĩa này không thể áp dụng cho ngữ cảnh trong đoạn văn này được.</P>

<P>3. Bổn Tế: Căn nguyên, căn bản của chân lý, vạn vật. Trung Quán Luận Sớ, quyển sáu: <I>"Bổn Tế là chỗ khởi nguồn của Nhân và Pháp".</I><I></I></P>

<P>[66] Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ trong bài Sơ Ư Văn Trung Lưu Nhập Vong Sở. Chữ "nhập lưu" được pháp sư Viên Anh giảng như sau: <I>"Nhập lưu là tương phản với "xuất lưu". Xuất lưu là tánh nghe thay vì quán chiếu thanh trần hư huyễn, lại rong ruổi theo thanh trần, đánh mất bản thể thanh tịnh của tánh nghe. Nay 'nhập lưu' là dùng Quán Trí để nhập, lấy tai làm Sở Nhập, xoay chuyển căn tai để quán chiếu chân tánh".</I></P>

<P>[67] Câu này khá phức tạp, khó thể dịch cho xuông nên chúng tôi xin dẫn lời giảng của pháp sư Viên Anh trong bộ Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa như sau: <I>"Giác chính là hai thứ giác (Bổn Giác và Thỉ Giác) sẵn có trong tánh, là chỗ nương tựa của Chân. Chân Giác chẳng phải là cảnh được nhận biết, hiểu rõ, bởi nó sẵn có diệu minh, chẳng thể coi là Năng hay Sở được. Nếu cứ muốn thêm sự hiểu rõ vào Giác thì diệu minh sẽ dần dần biến thành vô minh của năng minh, biến chân giác thành vọng giác là đối tượng nhận biết của minh. Chữ Minh trong 'nhân minh' là vô minh, chữ Sở trong 'lập sở' là nghiệp tướng', chẳng thể hiểu là cảnh giới được"</I>. Do lời giải thích này quá cô đọng, chúng tôi xin phép được diễn giải lần nữa theo ngu kiến như sau: "Giác trong câu 'giác phi sở minh' là diệu giác, tức sự giác ngộ nơi chân tánh của ta, còn 'sở minh' là đối tượng được nhận biết, được hiểu rõ bởi cái tâm. Hễ nói đến Sở thì phải có Năng, tức là có chủ thể nhận biết (Năng) và đối tượng được nhận biết (Sở), đấy chính là trở thành đối đãi, không còn phải là sự giác ngộ tuyệt đối 'tuy tịch mà chiếu, chiếu nhưng thường tịch' nữa, nên Giác chẳng phải là Sở Minh (tức là cái Giác ấy không có phân biệt, đối đãi, không thấy có đối tượng được nhận biết bởi tánh Giác, cho nên không có Sở Minh). Do Giác ở đây là Diệu Giác, tức là Chân Tánh, Chân Tánh có khả năng nhận biết rõ ràng sự vật đúng như thật nhưng không chấp trước vào cảnh (nên cưỡng gọi là Diệu Minh). Nếu ta chấp có cảnh để nhận biết, tức là chấp ngoài tâm có cảnh, ngoài cảnh có tâm, có phân biệt, đối đãi, tức là có "sở minh", hay nói cách khác, có đối tượng được nhận biết bởi Diệu Minh, thì Diệu Minh không còn là Diệu Minh nữa, mà đã trở thành Vô Minh, vì rớt trong phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Vì thế, Phật nhấn mạnh <I>"Giác chẳng phải là Sở Minh" </I>tức là diệu giác không hề rớt trong đối đãi, phân biệt. Câu thứ hai: <I>"Nhân minh lập Sở"</I> thì Minh này chính là vô minh, không còn là diệu minh nữa, do có thấy đối tượng được nhận biết. Do vô minh nên khởi lên đủ thứ phân biệt, chấp trước, do vậy mới có đối tượng chủ quan (Năng) và khách quan (Sở).</P>

<P>[68] Chúng tôi dịch và diễn giải câu này theo sách Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa của pháp sư Viên Anh.</P>

<P>[69] Khô tịch: Tịch là nói về bản thể của chân tâm: Trong lặng, bất biến, giống như gương sáng rỗng ranh, chẳng dính mắc vật gì. Do chấp vào sự tịch tĩnh ấy, không thể hiện khả năng bất biến tùy duyên nên gọi là Khô Tịch.</P>

<P>[70] Kiến Phần: Khả năng thấy, chỉ chung cho sự nhận biết của tâm. Tướng Phần: Đối tượng được nhận biết của Căn.</P>

<P>[71] Trần tướng : Tướng trạng của Lục Trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Bản thể của những thứ này là Không, nhưng qua lăng kính ý thức nơi vọng tâm, chúng trở thành phiền não dụ hoặc, che lấp chân tâm nên gọi là Trần (bụi bặm). Đến khi những phiền não nơi các Căn (kinh gọi là Căn Kết) bị trừ, tức là dùng chân tâm để nhận biết bản thể của sáu trần, không còn dùng Thức nữa, thì chúng nó không còn làm duyên để phiền não nẩy sanh, nên mới nói là <I>"trần tướng tự diệt".</I> Lúc đó, Lục Trần sẽ được gọi là Lục Cảnh.</P>

<P>[72] Trong bộ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, pháp sư Viên Anh giảng: <I>"Chữ Tự Tâm trong câu này chỉ vọng tâm trong cái thân Ngũ Uẩn, tức là cái tâm mang ý thức phân biệt. Nếu như do cái năng kiến của vọng tâm mà chấp trước vào cảnh sở kiến, cho nó chẳng phải là huyễn thì cái chẳng phải là huyễn ấy cũng trở thành huyễn</I><I>"</I>.</P>

<P>[73] Do Nhân Không và Pháp Không vốn là điều sẵn có trong chân tâm, nên gọi là Câu Không (cái Không vốn sẵn có), nhưng do vô minh chấp trước nên mới có Ngã Chấp và Pháp Chấp. Khi Ngã Chấp và Pháp Chấp đã diệt thì hai thứ Không này tự nhiên hiện tiền nên bảo là 'chẳng sanh'.</P>

<P>[74] Do Đạo Gia không hiểu được chân tướng của sự vật, coi Đạo là một cái gì u huyền, xa vời, không thể hình dung nhận biết được nên mới diễn tả Đạo là <I>'hôn hôn, mặc mặc'</I>. Sự diễn giải, cảm nhận ấy vẫn là do ý tưởng suy lường, gần như cảnh giới Phi Tưởng Phi Vô Tưởng, tức là vẫn thuộc về Pháp Trần (đối tượng nhận biết của ý thức) nên kinh Lăng Nghiêm gọi cảnh giới đó là <I>"pháp trần phân biệt ảnh sự</I>".</P>

<P>[75] Pháp sư Huệ Không giảng : Trong đoạn này, ngài Vĩnh Gia nói về cách tu Chỉ Quán. <I>"Tịch tịnh"</I>là trạng thái tâm không còn hết thảy vọng tưởng, do vọng tưởng đã bị sức quán chiếu phá trừ sạch. Tuy thế, ta vẫn còn có tri giác, có thần thức, có giác tánh, nhận biết sự vật đúng như bản chất của chúng, khả năng đó gọi là <I>"tinh tinh"</I>. Như vậy, nhận biết sự vật rõ ràng không phân biệt, không chấp trước, trong tâm không lưu lại bóng dáng trần cảnh thì đó là đúng, tu tập không sai nên mới nói <I>"tinh tinh tịch tịch thị"</I> (hay nói cách khác là <I>"chiếu mà tịch"</I>). Nếu không thể nhận biết sự vật, chỉ đắm chấp nơi tịch tịch thì đã tu tập sai (ta thường gọi là <I>"trầm không trệ tịch"</I>) thì là sai, nên mới nói <I>"vô ký tịch</I> <I>tịch phi"</I>. Tâm vắng lặng, không vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, nhưng vẫn có công năng thấu hiểu sự vật rõ ràng (nói cách khác là <I>"tịch nhưng chiếu"</I>) thì là đúng nên mới nói <I>"tịch tịch tinh tinh thị".</I> Nếu hiểu biết phát sanh từ cái tâm loạn tưởng thì là sai, nên mới nói <I>"loạn tưởng tinh tinh phi".</I></P>

<P><I></I><EM></EM> </P></P>

<P>

<P align=center><B>Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng</B></P>

<P align=center><B>Quyển 1</B></P>

<P align=center><B>觀世音菩薩本跡感應頌</B><B>,</B></P>

<P align=center><B>卷一</B></P>

<P align=center><B>彭澤菩薩戒弟子許止淨述</B></P>

<P align=center><B>Phần 2</B></P>

<P align=center>Bành Trạch Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn</P>

<P align=center>Ấn Quang Đại Sư giám định</P>

<P align=center>Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa</P>

<P align=center>Giảo chánh: Minh Tiến và Huệ Trang</P>

<P> </P>

<P>      <B><I>Từ đây trở đi, tuy biết các pháp lìa danh tự, nhưng nói các pháp như huyễn, như nắng gợn<B>[1]</B>, chúng sanh vô tướng, nhưng độ chúng sanh như mộng, như bóng</I></B> <I>(Từ đây trở đi là phần ca tụng sự phát tâm thọ ký của Quán Âm Đại Sĩ được nói trong kinh Bi Hoa, gồm hai đoạn).</I></P>

<P><I> </I></P>

<P>      Phẩm Hiền Thủ kinh Hoa Nghiêm chép: <I>"Linh tri chúng sanh tánh không tịch, nhất thiết chư pháp vô sở hữu, diễn thuyết chư pháp không, vô chủ, như huyễn, như diệm, thủy trung nguyệt, nãi chí do như mộng, ảnh, tượng. Thị cố, đắc thành thử quang minh"</I> (Khiến cho biết tánh của chúng sanh là rỗng lặng, hết thảy các pháp không có sở hữu, diễn nói các pháp không, vô chủ, như huyễn, như bóng nắng dợn, như trăng in hình trong nước, cho đến giống như mộng, bóng, hình. Vì thế, được thành quang minh này). Kinh Duy Ma chép: <I>"</I><I>Pháp vô danh tự, ngôn ngữ đoạn cố"</I> (Pháp không có danh tự vì ngôn ngữ dứt bặt). Phẩm Phát Tâm Công Đức kinh Hoa Nghiêm có đoạn: <I>"Tuy quán chư pháp nhi bất thủ, hằng cứu chúng sanh vô sở độ. Tri không, vô tướng, vô chân thật, nhi hành kỳ tâm bất giải thoái" </I>(Tuy quán các pháp nhưng chẳng giữ lấy, luôn cứu chúng sanh nhưng không thấy có kẻ được độ. Biết là không, vô tướng, không chân thật, nhưng hành cái tâm ấy chẳng lười nhác, lui sụt).</P>

<P> </P>

<P><B><I>Bởi vậy, trong kiếp Thiện Trì, Phật hiệu là Bảo Tạng. Trong thuở ấy, Di Đà có hiệu là Ly Tịnh, Bồ Tát làm Thái Tử, mang cái tên hư giả là Bất Thuấn. Đại thần Phạm Chí phổ độ trọn khắp các hàng trời rồng. Các tiểu vương tử phát nguyện cầu thoát khỏi tay ma. Khi ấy, do Đồng Sự, Ái Ngữ, Đại Sĩ thị hiện thuộc địa vị phàm phu, cầu giàu có, cầu sanh lên cõi trời, chẳng biết đến Duyên Giác. Sống chết rình ngó cái thân, nghiễm nhiên như sói, hổ, đền thân nợ mạng, truyền mãi cái vỏ là người, là dê.</I></B></P>

<P><B><I>Khi ấy, ngài Hải Tế đại bi lại khuyên họ hãy phát tâm. Đức Di Đà được thọ ký thành Chánh Giác trước tiên. Đại Sĩ cúng dường [Bảo Tạng Phật] trong chín mươi ngày, hồi hướng Bồ Đề. Tư duy suốt bảy năm để chọn lấy cõi tịnh. Cảm khái lục đạo xoay vần, tam đồ dễ đọa, thoái thất chánh pháp, hết sạch thiện căn, thâu giữ hạnh tà, phần nhiều vì bạn ác [xúi giục], Ngài bèn nguyện khi hành Bồ Tát đạo, sẽ xa lìa những sự sợ hãi. Không nơi nương tựa, không nơi an trụ, chúng sanh phiền não lắm đường; dù thấy, hay nghe, nguyện của ta rộng sâu như biển. Sanh tâm đại bi cứu khổ, bèn hiệu là Quán Âm. Kế thừa Vô Lượng Thọ thành Phật, lại có hiệu là Thức Đức. Đấy là Đại Sĩ suất lãnh một trăm ức người cùng phát đại tâm. Vì thế, trong các cõi mười phương, lại được chư Phật thọ ký.</I></B></P>

<P> </P>

<P>     Theo kinh Bi Hoa, xưa kia, trong số A-tăng-kỳ kiếp nhiều như cát sông Hằng, có một kiếp tên là Thiện Trì. Chuyển Luân Thánh Vương tên là Vô Tránh Niệm, vua có một ngàn người con. Thái Tử thứ nhất tên là Bất Thuấn, suốt trong ba tháng cúng dường Bảo Tạng Như Lai, ai nấy đều phát tâm, nguyện làm Đao Lợi thiên vương, hoặc Phạm Vương, Ma Vương, Chuyển Luân Vương, hoặc nguyện giàu to, hoặc cầu làm Thanh Văn, không một ai cầu thành Duyên Giác, huống hồ cầu Đại Thừa! Khi ấy, đại thần là Bảo Hải phạm-chí[2], khuyên khắp nam nữ trong thế giới và trời, rồng, quỷ thần v.v... hãy phát Bồ Đề tâm. Ông mộng thấy mặt vua và các vương tử hoặc là như mặt lợn, hoặc như mặt sư tử, cáo, sói, báo v.v... ăn các loại trùng. Lại có vô lượng chúng sanh đến ăn thịt chúng, nhiều lượt thọ thân cũng giống như vậy. Do vậy, khuyên họ hãy cùng phát Bồ Đề tâm.</P>

<P>Thái Tử tư duy tu tập đủ mọi thứ trang nghiêm hợp thành thế giới Phật của chính mình. Trong bảy năm, tâm không ham muốn, cho đến không có<I></I>ý tưởng nghĩ nhớ hương, vị, xúc. Vì thế, bèn nói: <I>"Ta xem thấy địa ngục nhiều sự khổ não, trong cõi trời người, lắm phen đọa tam ác đạo. Các chúng sanh này do thân cận ác tri thức nên thoái thất chánh pháp, dứt hết các thiện căn, thâu giữ đủ mọi tà kiến che lấp cái tâm, hành theo tà đạo. Nguyện khi ta hành Bồ Tát đạo, chúng sanh nào hứng chịu các thứ khổ não, sợ hãi, không ai cứu vớt, che chở, không nơi nương tựa, không chốn nương náu, nhưng nếu kẻ ấy có thể nghĩ tới ta, xưng danh hiệu ta thì ta do thiên nhĩ nghe tiếng, do thiên nhãn trông thấy những chúng sanh ấy mà nếu chẳng cứu họ thoát khỏi những khổ não ấy, ta trọn chẳng thành A Nậu Bồ Đề"</I> (Vô Thượng Chánh Giác).<I></I></P>

<P>Bảo Tạng Phật thọ ký rằng:<I></I></P>

<P><I>- Ông quán sát trời, người, và hết thảy chúng sanh trong tam ác đạo, sanh tâm đại bi, muốn dứt các sự khổ não của chúng sanh, muốn chúng sanh an trụ trong an lạc, nên nay ta sẽ đặt tên cho ông là Quán Thế Âm. Khi Vô Lượng Thọ Phật nhập Niết Bàn thì cõi ấy sẽ đổi tên là thế giới Nhất Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu, thế giới An Lạc chẳng sánh bằng được tất cả các thứ trang nghiêm vô lượng vô biên [trong cõi Nhất Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu]! T</I><I>rong khoảng một niệm, ông thành Đẳng Chánh Giác, hiệu là Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai,</I></P>

<P>Đức Phật nói kệ rằng: -<I> Bậc đại bi công đức, nay hãy dấy khởi lên, chư Phật trong mười phương, đã thọ ký cho ông, ông sẽ được thành Phật, cho nên hãy hoan hỷ"</I>.</P>

<P>Kinh Phân Đà Lợi lại dịch chữ Vô Tránh Niệm thành Ly Tịnh, dịch Bảo Hải thành Hải Tế. [Theo kinh Bi Hoa, ngài Quán Âm thành Phật có hiệu là] Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn, [kinh Phân Đà Lợi] dịch là Quang Minh Phổ Chí Tôn Thức Đức Vương.</P>

<P>Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự được gọi là Tứ Nhiếp Pháp. Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Dĩ nhân thực dương, dương tử vi nhân, nhân tử vi dương. Như thị nãi chí thập sanh chi loại, tử tử, sanh sanh, hỗ tương lai đạm"</I> (Do người ăn dê, dê chết thành người, người chết thành dê. Như thế cho đến mười loại chúng sanh, chết chết, sống sống, ăn nuốt lẫn nhau). Kinh còn dạy: <I>"Nhữ phụ ngã mạng, ngã hoàn nhữ trái, dĩ thị nhân duyên, kinh bách thiên kiếp, thường tại sanh tử"</I> (Ngươi nợ mạng ta, ta đòi nợ ngươi, do nhân duyên ấy, trải trăm ngàn kiếp, thường ở trong sanh tử). Kinh Pháp Hoa chép: <I>"Hoằng thệ thâm như hải, lịch kiếp bất tư nghị"</I> (Thệ rộng sâu như biển, trải kiếp chẳng nghĩ bàn). Bi Hoa Kinh:<I>"Nhĩ thời hữu cửu thập nhị ức chúng sanh, diệc các phát nguyện, thủ chủng chủng trang nghiêm thắng diệu Phật độ"</I> (Khi ấy, có chín mươi hai ức chúng sanh cũng đều phát nguyện, giữ lấy các thứ cõi Phật trang nghiêm thù thắng nhiệm mầu).</P>

<P> </P>

<P>     <B><I>Đến khi đức Phật Năng Nhân ta, giáng thần cõi Kham Nhẫn, là minh quân Oai Đức, nay thành đấng Chánh Giác, Ngài chính là Phạm Chí đại bi. Đã sớm có nhân duyên, nên Đại Sĩ hóa làm Bồ Tát, người theo học đông như cát sông Hằng, giúp Phật độ chúng sanh, hiện thân càng trọn khắp</I></B> <I>(Từ đây trở đi là phần ca tụng chương hai mươi bảy trong phần Thiện Tài tham học của kinh Hoa Nghiêm, gồm năm đoạn).</I></P>

<P> </P>

<P>     Thích Ca Mâu Ni (Śākyamuni) dịch nghĩa là Năng Nhân Tịch Mặc. Chữ Kham Nhẫn xin coi trong phần trước. Thọ Ký Kinh: <I>"Phật ngôn: - Oai Đức Vương, ngã thân thị dã"</I> (Phật nói: - Oai Đức Vương là thân ta đấy). Bi Hoa Kinh: <I>"Phật ngôn: - Nhĩ thời, đại bi Phạm Chí tắc ngã thân thị"</I>(Đức Phật nói: - Vị Phạm Chí đại bi khi ấy chính là thân ta). Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm có chép: <I>"Bát giả, thường tùy Phật học</I>" (Điều thứ tám là thường học theo Phật).</P>

<P> </P>

<P>     <B><I>1. Trước hết, diễn nói Hoa Nghiêm, đồng quy pháp giới.</I></B></P>

<P><B><I>     2. Thiện Tài hỏi đạo, đã đến thành Thiện Độ. Hàm Nhiếp thôi thăng</I></B><B><I><B>[3]</B></I></B><B><I>, riêng chỉ bày biển Phạm Âm.</I></B></P>

<P><B><I>     3. Bèn có núi hiệu Bạch Hoa, đất do các báu hợp thành.</I></B></P>

<P><B><I>     4. Suối chảy, ao chuôm, nước công đức thường đầy ắp. Hoa quả, rừng cây, hương giáo hóa tỏa trọn</I></B> <I>(Ca tụng sự khen ngợi phẩm đức, đề cao [Quán Âm Đại Sĩ] của [cư sĩ] Bệ Sắt Chi La [trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm]. Do Bồ Tát đại bi nên tôi đặc biệt thêm vào một đoạn tán tụng).</I></P>

<P> </P>

<P>     (1) Đức Như Lai lúc mới thành đạo, hiện Báo Thân viên mãn Lô Xá Na, trong hai mươi mốt ngày, diễn nói kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm lấy pháp giới chẳng thể nghĩ bàn làm tông[4], gồm mười hội thuyết pháp. Cuối cùng là phẩm Nhập Pháp Giới. Đó gọi là <I>"không gì chẳng từ pháp giới này lưu xuất, không gì chẳng trở về pháp giới này".</I></P>

<P>     (2) Thiện Tài đi về phương Nam, vị thiện tri thức thứ hai mươi sáu là cư sĩ Bệ Sắt Chi La ở thành Thiện Độ (Subapārangama). Bệ Sắt Chi La (Vesthila) dịch nghĩa là Hàm Nhiếp.</P>

<P>     (3 & 4) Theo kinh Hoa Nghiêm, cư sĩ dạy Thiện Tài như sau: <I>"</I><I>Ư thử Nam phương hữu sơn, danh Bổ Đát Lạc Ca, bỉ hữu Bồ Tát, danh Quán Tự Tại. Tức tụng viết: - Hải thượng hữu sơn đa thánh hiền, chúng bảo sở thành cực thanh tịnh, hoa quả thụ mộc giai biến mãn, tuyền lưu trì chiểu tất cụ túc. Dũng mãnh trượng phu Quán Tự Tại, vị lợi chúng sanh trụ thử sơn. Nhữ ưng vãng vấn chư công đức, bỉ đương thị nhữ đại phương tiện"</I> (Ở phương Nam nơi đây có quả núi tên là Bổ Đát Lạc Ca, nơi ấy có Bồ Tát tên là Quán Tự Tại. Liền nói kệ tụng như sau: - Trên biển có núi, đông thánh hiền, các báu hợp thành cực thanh tịnh. Hoa quả, cây cối đều trọn khắp, suối chảy, ao chuôm thảy đầy đủ. Dũng mãnh trượng phu Quán Tự Tại, vì lợi chúng sanh trụ núi này. Ngươi nên tới hỏi các công đức, Ngài sẽ dạy ngươi phương tiện lớn). Sách Tây Phương Hiệp Luận viết<I>: "Bổ Đát Lạc Ca, Hán dịch là Tiểu Bạch Hoa Thụ (cây có hoa trắng nhỏ). Hoa ấy rất thơm, biểu thị hạnh hoa của Đại Sĩ là từ bi khiêm hạ, nở xòe hạnh hương giáo hóa, khiến cho kẻ nghe danh phát tâm Bồ Đề".</I></P>

<P> </P>

<P>      <B><I>1. Thấy hang đá trong rừng, trên tảng đá Kim Cang.</I></B></P>

<P><B><I>     2. Có trượng phu dũng mãnh, tức bậc thánh từ bi.</I></B></P>

<P><B><I>     3. Đuốc trí vô tận, làm quang minh trong đêm tối. Hết thảy mây pháp, che chở, tăng trưởng mầm phước</I></B> <I>(Ca tụng Thiện Tài vừa thấy Đại Sĩ, trong tâm bèn tán thán)</I></P>

<P><I> </I></P>

<P>     (1) Hoa Nghiêm Kinh: <I>"Thiện Tài chí ư bỉ sơn, cầu mịch thử Đại Bồ Tát, kiến Tây diện nham cốc chi trung, thụ lâm ông úc, hương thảo nhu nhuyễn, hữu toàn bố địa.</I> <I>Quán Tự Tại Bồ Tát, ư Kim Cang thạch thượng, kết già phu tọa"</I> (Thiện Tài đến núi ấy tìm kiếm vị Đại Bồ Tát ấy, thấy trong vùng hang đá ở phía Tây, rừng cây xanh tươi, cỏ thơm mềm mại phủ khắp đất, mọc xoay về bên phải, Quán Tự Tại Bồ Tát ngồi xếp bằng trên tảng đá Kim Cang).</P>

<P>     (2) Xem chữ <I>"dũng mãnh trượng phu"</I> trong phần trước.</P>

<P>     (3) [Cũng theo kinh Hoa Nghiêm], Thiện Tài trông thấy, hoan hỷ, hớn hở, nghĩ như thế này: Thiện tri thức là mây pháp của hết thảy. Thiện tri thức là đuốc trí vô tận. Thiện tri thức là rễ mầm phước đức.</P>

<P> </P>

<P>     <B><I>Đại Sĩ thuộc địa vị Tùy Thuận Chúng Sanh Hồi Hướng, nói hạnh môn Đại Bi Giải Thoát, hiện đang hành Tứ Nhiếp, chẳng giống ba mươi lăm thân. Phát nguyện ở trong cõi Đồng Cư, nhằm dứt trừ vĩnh viễn mười tám thứ sợ hãi, khiến cho những ai xưng danh, nhìn mặt Ngài đều quay về môn phương tiện, sám quả, tu nhân, rốt cuộc vào nẻo Bồ Đề</I></B> <I>(Ca tụng Đại Sĩ giảng cho Thiện Tài pháp môn Đại Bi Giải Thoát)</I></P>

<P> </P>

<P>      Đại Sĩ là vị thiện tri thức thứ hai mươi bảy trong chuyến đi về phươngNam của Thiện Tài. Ngài thuộc vào địa vị Tùy Thuận Nhất Thiết Chúng Sanh Hồi Hướng[5].</P>

<P>Kinh chép: <I>"</I><I>Ngã dĩ thử Bồ Tát Đại Bi hạnh môn, bình đẳng giáo hóa nhất thiết chúng sanh, tương tục bất đoạn. Thiện nam tử! Ngã trụ thử Đại Bi hạnh môn, thường tại nhất thiết chư Như Lai sở, phổ hiện nhất thiết chúng sanh chi tiền. Hoặc dĩ bố thí, nhiếp thủ chúng sanh; hoặc dĩ ái ngữ, hoặc dĩ lợi hành, hoặc dĩ đồng sự nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc hiện sắc thân nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc hiện chủng chủng bất tư nghị sắc, tịnh quang minh võng nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc dĩ âm thanh, hoặc dĩ oai nghi, hoặc vị thuyết pháp, hoặc hiện thần biến, linh kỳ tâm ngộ nhi đắc thành thục. Hoặc vị hóa hiện đồng loại chi hình, dữ kỳ cộng cư, nhi thành thục chi.</I></P>

<P><I>Thiện nam tử! Ngã tu hành thử Đại Bi hạnh môn,</I> <I>nguyện thường cứu hộ nhất thiết chúng sanh. Nguyện nhất thiết chúng sanh ly hiểm đạo bố, ly nhiệt não bố, ly mê hoặc bố, ly hệ phược bố, ly sát hại bố, ly bần cùng bố, ly bất hoạt bố, ly ác danh bố, ly ư tử bố, ly đại chúng bố, ly ác thú bố , ly hắc ám bố, ly thiên di bố, ly ái biệt bố, ly oán hội bố, ly bức bách thân bố, ly bức bách tâm bố, ly ưu bi bố. Phục nguyện chư chúng sanh, nhược niệm ư ngã, nhược xưng ngã danh, nhược kiến ngã thân, giai đắc miễn ly nhất thiết bố úy.</I></P>

<P><I>Thiện nam tử! Ngã dĩ thử phương tiện linh chư chúng sanh, ly bố úy dĩ, phục giáo linh phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, vĩnh bất thoái chuyển"</I></P>

<P>(Ta dùng hạnh môn Đại Bi này của bậc Bồ Tát để bình đẳng giáo hóa hết thảy chúng sanh liên tục chẳng dứt.</P>

<P>Này thiện nam tử! Ta trụ trong hạnh môn Đại Bi này, thường ở nơi hết thảy Như Lai, hiện trước khắp hết thảy chúng sanh, hoặc dùng bố thí để nhiếp thủ chúng sanh, hoặc dùng ái ngữ, hoặc dùng lợi hành, hoặc dùng đồng sự để nhiếp thủ chúng sanh, hoặc hiện sắc thân để nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc hiện lưới quang minh trong sạch có các thứ sắc chẳng thể nghĩ bàn để nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc dùng âm thanh, hoặc dùng oai nghi, hoặc vì họ thuyết pháp, hoặc hiện thần thông biến hóa, khiến cho tâm họ ngộ, được thành thục. Hoặc vì họ hiện thân hình giống như họ, cùng ở chung với họ để thành thục họ.</P>

<P>Này thiện nam tử! Ta tu hành hạnh môn Đại Bi này, nguyện thường cứu vớt, che chở hết thảy chúng sanh. Nguyện hết thảy chúng sanh lìa nỗi sợ nơi đường hiểm, lìa nỗi sợ nhiệt não, lìa nỗi sợ mê hoặc, lìa nỗi sợ trói buộc, lìa nỗi sợ sát hại, lìa nỗi sợ nghèo túng, lìa nỗi sợ chẳng sống sót, lìa nỗi sợ tiếng ác, lìa nỗi sợ chết chóc, lìa nỗi sợ đại chúng, lìa nỗi sợ [bị đọa] đường ác, lìa nỗi sợ tối tăm, lìa nỗi sợ dời chuyển, lìa nỗi sợ yêu thương mà phải chia lìa, lìa nỗi sợ oán ghét phải gặp gỡ, lìa nỗi sợ thân bị bức bách, lìa nỗi sợ tâm bị bức bách, lìa nỗi sợ lo buồn. Lại nguyện các chúng sanh hoặc nghĩ tới ta, hoặc xưng danh ta, hoặc thấy thân ta, đều được tránh lìa hết thảy sợ hãi.</P>

<P>Này thiện nam tử! Ta dùng phương tiện này khiến cho các chúng sanh lìa sợ hãi xong, lại dạy họ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vĩnh viễn không lui sụt)</P>

<P>Ngài Thanh Lương giảng: <I>"Từ chữ bố thí trở đi nói về ý nghĩa 'phổ hiện' (hiện trọn khắp). So với ba mươi lăm ứng thân được nói trong kinh Pháp Hoa thì mới thoạt nhìn [những sự ứng hóa nói trong đoạn kinh văn này] dường như ít ỏi, nhưng về ý nghĩa lại nhiều. Ba mươi lăm ứng thân ấy chỉ là các thứ sắc thân thị hiện và sự thuyết pháp [đã được nói] trong đoạn này".</I></P>

<P> </P>

<P>     <B><I>1. Thật đúng là: Chúng sanh ví như cội rễ, chư Phật chính là hoa quả.</I></B></P>

<P><B><I>      2. Phụng sự mười hai loại chúng sanh giống như cha mẹ, tam thế chư Phật mới đắc Bồ Đề.</I></B></P>

<P><B><I>     3. Ấy là vì: Tự và Tha chẳng ngăn cách mảy lông, chúng sanh và Phật vốn không sai biệt.</I></B></P>

<P><B><I>      4. Vì thế, trưởng tử Phổ Hiền khởi đủ vạn hạnh, con thứ Văn Thù viên thành Chủng Trí. Chẳng lên cửa Đại Sĩ, khó nhập biển Tỳ Lô!</I></B> <I>(Ca tụng địa vị Tùy Thuận Chúng Sanh Hồi Hướng của Đại Sĩ)</I></P>

<P> </P>

<P>      (1) Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện chép: <I>"Thí như khoáng dã, hữu đại thụ vương, nhược căn đắc thủy, chi, diệp, hoa, quả tất giai phồn mậu. Sanh tử khoáng dã Bồ Đề thụ vương, diệc phục như thị. Nhất thiết chúng sanh nhi vi thụ căn, chư Phật, Bồ Tát nhi vi hoa quả. Dĩ đại bi thủy, nhiêu ích chúng sanh, tắc năng thành tựu chư Phật, Bồ Tát trí huệ hoa quả"</I> (Ví như nơi đồng hoang cómột cây chúa[6], nếu rễ của nó được nước thấm nhuần thì cành, lá, hoa, quả thảy đều xum xuê. Cây chúa Bồ Đề trong đồng hoang sanh tử cũng giống như vậy. Hết thảy chúng sanh là rễ cây, chư Phật, Bồ Tát là hoa quả. Dùng nước Đại Bi làm lợi ích chúng sanh thì sẽ có thể thành tựu hoa quả trí huệ Phật, Bồ Tát).</P>

<P>     (2) Kinh còn chép: <I>"</I><I>Sở vị, noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, vô túc, nhị túc, tứ túc, đa túc, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu tưởng, phi vô tưởng, như thị đẳng loại, ngã giai ư bỉ tùy thuận nhi chuyển. Chủng chủng thừa sự, chủng chủng cúng dường, như kính phụ mẫu, như phụng sư trưởng, cập A La Hán, nãi chí Như Lai, đẳng vô hữu dị"</I> (Đó là noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng, đối với những loài như vậy, ta đều tùy thuận chuyển hóa họ. Các thứ hầu hạ, các thứ cúng dường, như kính cha mẹ, như thờ sư trưởng, và A La Hán cho đến Như Lai, giống hệt không khác).</P>

<P>     Kinh còn chép: <I>"N</I><I>hược chư Bồ Tát dĩ đại bi thủy, nhiêu ích chúng sanh, tắc năng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thị cố Bồ Đề thuộc ư chúng sanh"</I> (Nếu các Bồ Tát dùng nước Đại Bi tạo lợi ích cho chúng sanh thì sẽ có thể thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì vậy, Bồ Đề thuộc về chúng sanh).</P>

<P>     (3) Phẩm Dạ Ma Kệ Tán của kinh Hoa Nghiêm có đoạn: <I>"Như tâm, Phật diệc nhĩ. Như Phật, chúng sanh nhiên. Tâm, Phật, dữ chúng sanh. Thị tam vô sai biệt"</I> (Như tâm, Phật cũng thế. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật và chúng sanh, cả ba không sai biệt).</P>

<P>     (4) Sách [Hoa Nghiêm] Hợp Luận viết: <I>"Trưởng tử [của chư Như Lai] là Phổ Hiền nêu quả đức nơi Tạng thân, con thứ là Văn Thù, khơi mở cho kẻ tối tăm về thế giới Kim Sắc".</I> Sách còn viết: <I>"Phổ Hiền biểu thị Hạnh, Văn Thù biểu thị Trí, Quán Âm biểu thị Bi. Ba pháp thuộc vào một người, đầy đủ, trọn khắp, nên gọi là Tỳ Lô Giá Na. Không có Thập Hồi Hướng, sẽ không có Bồ Tát thành Phật đạo"</I>.</P>

<P> </P>

<P>     <B><I>1. Nhưng Viên Giáo, Đốn Giáo, chỉ độ bậc đại căn, còn với hạng điếc câm thì vẫn hành đạo nhỏ.</I></B></P>

<P><B><I>     2. Ấy là vì: Nhìn thấy bóng trong gương, vô cớ phát cuồng. Chẳng biết: Trong chéo áo giấu châu, vốn chưa từng mất</I></B> (Từ đây trở đi ca tụng Tâm Kinh, gồm hai đoạn).</P>

<P> </P>

<P>     (1) Ngài Hiền Thủ phán định giáo pháp:</P>

<P>- Một là Tiểu Thừa Giáo.</P>

<P>- Hai là Đại Thừa Thỉ Giáo.</P>

<P>- Ba là Đại Thừa Chung Giáo.</P>

<P>- Bốn là Đốn Giáo.</P>

<P>- Năm là Viên Giáo.</P>

<P>Kinh Hoa Nghiêm thuộc Đốn Viên. Hoa Nghiêm lấy hàng phàm phu đại căn làm đương cơ. Phẩm Nhập Pháp Giới có đoạn: <I>"Ư thị thượng thủ chư đại Thanh Văn, Xá Lợi Phất đẳng tại Thệ Đa lâm, giai tất bất kiến Như Lai thần lực dĩ chí bất khả tư nghị Bồ Tát cảnh giới. Hà dĩ cố? Chư đệ tử y Thanh Văn thừa nhi cầu xuất ly cố"</I> (Khi ấy, các bậc thượng thủ trong hàng đại Thanh Văn như Xá Lợi Phất v.v... ở trong rừng Thệ Đa[7]đều chẳng thấy được thần lực của Như Lai cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Vì sao vậy? Vì các đệ tử nương theo Thanh Văn thừa để cầu xuất ly). [Hoa Nghiêm Kinh] Sớ Sao giảng: <I>"Hoa Nghiêm hiển thị trực tiếp Nhất Thật sâu huyền, mà họ lại dùng Quyền Trí để nhận biết nên như câm điếc".</I></P>

<P>     (2) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"</I><I>Thất La thành trung, Diễn Nhã Đạt Đa, hốt ư thần triêu, dĩ kính chiếu diện, ái kính trung đầu, my mục khả kiến, sân trách kỷ đầu, bất kiến diện mục, dĩ vi si mị, vô trạng cuồng tẩu"</I> (Trong thành Thất La (Śrāvastī, tức thành Xá Vệ), chàng Diễn Nhã Đạt Đa (Yajñadatta) buổi sáng chợt soi gương, yêu mến cái đầu [hiện bóng] trong gương vì nó có lông mày và mắt có thể nhìn thấy được, giận trách cái đầu của chính mình sao chẳng thấy được vẻ mặt, cho nó là yêu quái, vô duyên cớ điên cuồng chạy quàng).</P>

<P>Kinh còn chép: <I>"Thí như hữu nhân, ư tự y trung, hệ Như Ý châu, bất tự giác tri, cùng lộ tha phương, khất thực trì tẩu. Tuy thật bần cùng, châu bất tằng thất"</I>(Ví như có kẻ ở trong áo mình buộc châu Như Ý mà không hay biết, túng quẫn nơi quê người, lê la ăn xin. Tuy thật bần cùng, nhưng châu chưa từng mất).</P>

<P> </P>

<P>     <B><I>1. Đại Sĩ động lòng thương xót sâu xa, chỉ bày Bát Nhã.</I></B></P>

<P><B><I>     2. Voi chúa xoay mình đoái trông, kêu tên Thu Tử.</I></B></P>

<P><B><I>     3. Sắc chính là Không, Không chính là Sắc, chẳng cần phải chia chẻ đến lân hư trần. Bất sanh, bất diệt, chớ nhìn lầm nước sông Hằng.</I></B></P>

<P>     <B><I>4. Phá được Ngũ Ấm, tướng mười tám giới</I></B><B><I><B>[8]</B></I></B><B><I> đều tiêu. Tứ Đế chẳng làm, mười hai duyên liền dứt.</I></B></P>

<P><B><I>     5. Đến lúc ấy, thân chứa mười phương, miệng nuốt ba đời.</I></B></P>

<P><B><I>     6. Chẳng thấy Phật nơi Niết Bàn, tâm còn do đâu vướng mắc?</I></B></P>

<P><B><I>     7. Như xướng Kim Cang tự mẫu đã qua khỏi môn chữ Trà; đấy là Bát Nhã tổng trì, bèn nói chú Ba La, hòng độ khắp lợi độn, mà cũng là nhằm khiến Bi lẫn Trí viên dung.</I></B></P>

<P>    </P>

<P>     <B>Bị chú của người dịch</B>: <I>Cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh không chú thích cho câu thứ nhất trong đoạn này.</I></P>

<P> </P>

<P>(2) Phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm có chép: <I>"Văn Thù Sư Lợi như tượng vương hồi, quán chư tỳ-kheo"</I> (Ngài Văn Thù Sư Lợi như voi chúa quay mình, nhìn các tỳ-kheo). Xá Lợi Tử (Śāriputra), cõi này dịch là Thu Tử, do gọi theo tên mẹ[9].</P>

<P>(3) Tâm Kinh: <I>"Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc".</I> Lăng Nghiêm Kinh: "<I>Thô vi đại địa, tế vi vi trần. Chí lân hư trần, tích bỉ cực vi sắc biên tế tương thất phần sở thành. Cánh tích lân hư, tức thật không tánh"</I> (Thô là đại địa, nhỏ nhặt là vi trần. Còn như lân hư trần là do chia cực vi sắc biên tế ra bảy phần mà thành. Lại chia chẻ lân hư trần thì nó thật sự là tánh Không). Tâm Kinh: <I>"</I><I>Thị</I> <I>chư pháp Không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng, bất giảm" </I>(Tướng Không của các pháp chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng tăng, chẳng giảm).</P>

<P>Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Phật cáo Nặc vương: - Ngã kim thị nhữ bất sanh diệt tánh. Nhữ niên kỷ thời kiến Hằng hà thủy? Vương ngôn: - Ngã sanh tam tuế, kinh quá thử lưu, tức tri thị Hằng hà thủy. Phật ngôn: - Nhữ thuyết nhị thập chi thời, suy ư thập tuế, nãi chí lục thập, nhật nguyệt tuế thời, niệm niệm thiên biến. Tắc nhữ tam tuế, kiến thử hà thời, chí niên thập tam, kỳ thủy vân hà? Vương ngôn: - Như tam tuế thời, uyển nhiên vô dị, nãi chí ư kim niên lục thập nhị, diệc vô hữu dị! Phật ngôn: - Nhữ kim tự thương phát bạch diện trứu. Nhữ diện tuy trứu, nhi thử kiến tinh tánh vị tằng trứu. Trứu giả vi biến, bất trứu phi biến. Biến giả thọ diệt, bỉ bất biến giả nguyên vô sanh diệt, vân hà ư trung thọ nhữ sanh tử?"</I> (Phật bảo vua Ba Tư Nặc[10]: - Nay ta chỉ cho ông tánh không sanh diệt. Ông thấy nước sông Hằng lúc mấy tuổi? Vua thưa: - Khi con ba tuổi đi qua dòng sông ấy, liền biết nước sông Hằng. Phật nói: - Ngươi nói xem: Từ lúc hai mươi tuổi, già suy hơn lúc mười tuổi, cho đến sáu mươi, ngày giờ năm tháng, niệm niệm đổi đời, như vậy thì từ lúc ngươi ba tuổi trông thấy sông ấy cho đến năm mười ba tuổi, nước sông ra sao? Vua đáp: - Giống như thuở ba tuổi, y hệt không khác gì, thậm chí đến nay con được sáu mươi hai tuổi, cũng chẳng khác gì! Phật dạy: - Ông nay tự xót xa đầu bạc, mặt nhăn. Mặt ông tuy nhăn, nhưng cái tánh thấy trong trẻo ấy chưa từng bị nhăn. Nhăn là biến đổi, không nhăn là chẳng biến đổi. Hễ biến đổi sẽ bị diệt, còn cái không biến đổi vốn chẳng sanh diệt, cớ sao ông lại phải chịu sanh tử?)</P>

<P>(4) Tâm Kinh: <I>"Chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không"</I> (Soi thấy năm Uẩn đều không). Còn nói: "<I>Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới"</I> (Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không  sắc, thanh, hương, vị xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới). Tứ Đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Ngài Thanh Nguyên Hành Tư nói: <I>"Thánh Đế cũng chẳng làm".</I></P>

<P>Tâm Kinh: <I>"Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận"</I> (Không có vô minh, cũng chẳng có hết vô minh, cho đến không có già chết mà cũng không có hết già chết), đấy chính là mười hai pháp duyên sanh.</P>

<P>(5) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Tâm tinh biến viên, hàm lý thập phương"</I>(Cái tâm trong trẻo trọn khắp, chứa đựng mười phương). Lại chép: <I>"Thân hàm thập phương vô tận hư không"</I> (Thân chứa mười phương vô tận hư không). Ngài Nam Nhạc Huệ Tư nói: <I>"Tam thế chư Phật bị ta một miệng nuốt sạch".</I></P>

<P>(6) Tâm Kinh: <I>"Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn" </I>(Do Bồ Tát nương vào Bát Nhã Ba La Mật Đa nên tâm không vướng mắc. Do không vướng mắc nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, chứng rốt ráo Niết Bàn).</P>

<P>Lăng Già Kinh: <I>"Nhất thiết vô Niết Bàn, vô hữu Niết Bàn Phật, vô hữu Phật Niết Bàn, viễn ly giác, sở giác"</I> (Hết thảy không có Niết Bàn. Không có Phật nơi Niết Bàn, mà cũng chẳng có Niết Bàn của Phật, xa lìa giác lẫn sở giác).</P>

<P>Kinh Viên Giác lại nói: <I>"Nhất thiết Như Lai diệu viên giác tâm, bổn vô Bồ Đề cập dữ Niết Bàn, diệc vô thành Phật cập bất thành Phật"</I>(Tâm diệu viên giác của hết thảy Như Lai vốn không có Bồ Đề và Niết Bàn, cũng chẳng có thành Phật lẫn không thành Phật).</P>

<P>(7) Trong bốn mươi hai tự mẫu[11] của kinh Bát Nhã, chữ cuối cùng là chữ Trà (ksa); vì thế, sách Ma Ha Chỉ Quán viết: <I>"Qua khỏi chữ Trà không thể nói nữa".</I> Gọi là Kim Cang [tự mẫu] vì đây chính là thân Kim Cang được chứng bởi Như Lai, nghĩa ấy có thể thấy từ kinh Niết Bàn. Tâm Kinh: <I>"Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa Chú"</I> (Vì vậy, biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú không chi hơn, là chú không gì sánh bằng, trừ hết thảy khổ, chân thật chẳng dối. Do vậy, nói Bát Nhã Ba La Mật Đa Chú). Chú, tiếng Phạn là Đà La Ni (Dhāranī), dịch nghĩa là Tổng Trì.</P>

<P> </P>

<P><B><I>1. Người học ngầm tu Huệ sâu, vì vào cửa tòa nhà lộng lẫy. Kẻ chỉ mới đắc Văn Huân, cũng gieo thành hạt giống Kim Cang.</I></B></P>

<P><B><I>2. Quý ở chỗ chí thành, cung kính, như thân cận oai trời! Đừng vọng tưởng tư duy, uổng công đốt lửa đom đóm mà thôi!</I></B> <I>(Từ đây trở đi ca tụng pháp thức trì tụng thần chú, gồm hai đoạn. Trước hết, riêng nêu công đức trì kinh).</I></P>

<P> </P>

<P>(1) Trong Lăng Nghiêm Kinh, ngài A Nan nói<I>: "Ngã kim do như lữ bạc chi nhân, hốt mông thiên vương tứ dữ hoa ốc, tuy hoạch đại trạch, yếu nhân môn nhập"</I> (Tôi nay giống như lữ khách lênh đênh, chợt được thiên vương ban cho căn nhà lộng lẫy. Tuy đã được căn nhà to lớn, vẫn phải theo cửa để vào). Phẩm Xuất Hiện kinh Hoa Nghiêm có câu: <I>"Thực thiểu kim cang, chung cánh bất tiêu"</I> (Ăn chút kim cang, trọn chẳng tiêu được).</P>

<P>(2) Tổ Ấn Quang nói: <I>"Phàm tụng kinh ắt phải chí thành, khẩn thiết như đối trước thánh dung, đích thân nghe viên âm, từ đầu đến cuối, một mực đọc qua, dù văn hay nghĩa nhất loạt chẳng gắng tâm thấu hiểu. Xem kinh như thế, kẻ lợi căn sẽ có thể ngộ được hai pháp Không (Ngã Không và Pháp Không), chứng lý Thật Tướng. Ngay như kẻ độn căn cũng có thể tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phước huệ. Nếu một đằng xem, một đằng phân biệt, sẽ hoàn toàn thuộc về phàm tình vọng tưởng, phỏng đoán, suy lường, làm sao</I> <I>có thể ngầm hợp ý Phật, tăng phước huệ, tiêu nghiệp chướng cho được?"</I></P>

<P>Ngài còn nói: <I>"Muốn được lợi ích thật sự nơi Phật pháp, cần phải cầu từ nơi cung kính. Có một phần cung kính, sẽ tiêu được một phần nghiệp chướng, tăng một phần phước huệ. Có mười phần cung kính, sẽ tiêu được mười phần nghiệp chướng, tăng mười phần phước huệ".</I></P>

<P>Viên Giác Kinh:<I> "Dĩ hữu tư duy tâm, trắc độ Như Lai viên giác cảnh giới, như thủ huỳnh hỏa, thiêu Tu Di sơn, chung bất năng trước"</I> (Dùng cái tâm có tư duy để suy lường cảnh giới viên giác của Như Lai thì giống như đem lửa đom đóm thiêu núi Tu Di, trọn chẳng thể làm được).</P>

<P> </P>

<P><B><I>1. Chỉ vì: Chúng sanh thiếu Huệ, tâm thiên trọng lắm nỗi phân biệt. Ngã Kiến dễ tăng, nghe quá nhiều [mà không thấu hiểu] sẽ thành lầm lỗi.</I></B></P>

<P><B><I>2. Tranh cãi đoán mò màu sữa, lời càng thốt lắm càng sai. Chưa nhìn thấu suốt da trâu, Lý bị chướng ngăn chẳng thấy. [Do vậy, Đại Sĩ] mở</I></B> <B><I>môn bí mật, dùng con đường lấp chặt tư duy</I></B> <I>(Đây là trước khi ca tụng thần chú, nêu ra lý do vì sao chú ngữ không dịch nghĩa. Vì vậy, cổ đức nói: "Chú viên mãn, kiến giải thiên lệch. Hễ nẩy sanh kiến giải thì chú ngữ mất sạch ý nghĩa").</I></P>

<P> </P>

<P>(1) Viên Giác Kinh: <I>"Chúng sanh vô huệ mục"</I> (Chúng sanh không có con mắt huệ). Khởi Tín Luận: <I>"Như Lai thiện xảo phương tiện, nhờ vào ngôn ngữ để hướng dẫn chúng sanh, khiến họ bỏ văn tự, nhập chân thật. Nếu dựa theo lời nói, chấp vào ý nghĩa, sẽ tăng trưởng phân biệt lầm lạc, chẳng sanh Thật Trí, chẳng đắc Niết Bàn"</I>.</P>

<P>Viên Giác Kinh: <I>"Duy ích đa văn, tăng trưởng Ngã Kiến" </I>(Chỉ [chú trọng] nghe cho nhiều sẽ tăng trưởng Ngã Kiến). Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Súc văn thành quá ngộ"</I> (Nghe quá nhiều trở thành lỗi lầm).</P>

<P>(2) Niết Bàn Kinh: <I>"</I><I>Như sanh manh nhân, bất thức nhũ sắc, tiện vấn hà tự? Nhân ngôn: Bạch như bối. Vấn: Như bối thanh da? Đáp ngôn: Bất dã! Vấn: Bối sắc hà tự? Viết: Như mễ mạt. Vấn: Nhu nhuyễn như mễ mạt da? Mễ mạt phục hà tự? Viết: Như tuyết. Phục vấn: Lãnh như tuyết da? Tuyết phục hà tự? Thị sanh manh nhân, tuy văn chủng chủng thí dụ, chung bất năng thức nhũ chân sắc"</I> (Như kẻ mù từ lúc lọt lòng, chẳng biết sữa màu gì, liền hỏi giống như thế nào? Người ta nói: Trắng như vỏ ốc. Liền hỏi: Như tiếng ốc (tù và) thổi phải không? Đáp: Không phải! Hỏi: Màu của vỏ ốc giống như thế nào? Đáp: Như bột gạo. Hỏi: Mềm mịn như bột gạo ư? Bột gạo lại giống như thế nào? Đáp: Như tuyết. Lại hỏi: Lạnh như tuyết ư? Tuyết lại giống như thế nào? Kẻ mù từ lúc lọt lòng ấy tuy nghe các thứ thí dụ, trọn chẳng biết được màu sắc thật sự của sữa).</P>

<P>Tăng sĩ hỏi ngài Dược Sơn Nghiễm: "Hòa thượng chẳng cho người khác xem kinh, sao lại tự mình xem?" Ngài Dược Sơn bảo: "Ta chỉ che mắt". Tăng hỏi: "Như vậy thì người học cũng bắt chước Ngài được chăng?" Ngài Dược Sơn bảo: <I>"Nếu ông xem thì da trâu cũng bị xuyên thủng".</I> Ngài Thiên Đồng tụng rằng: <I>"Xem kinh nào phải lọt da trâu".</I></P>

<P> </P>

<P><B><I>1. Khi ấy, đức Phật ta ngự tại đạo tràng Trúc Duẫn, đại hội xiển dương không ngăn che, Đại Sĩ làm Liên Hoa Bộ Chủ</I></B><B><I><B>[12]</B></I></B><B><I>, thống lãnh các vị thần tiên trì chú.</I></B></P>

<P><B><I>2. Nói ra chú tâm Thập Nhất Diện, trọn khắp oai lực Tứ Tất Đàn.</I></B></P>

<P><B><I>3. Nhớ tại nơi Liên Hoa Nhãn thuở trước, ở chỗ ngài Mỹ Âm Hương.</I></B></P>

<P><B><I>4. Hoặc làm tiên nhân đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, hoặc làm cư sĩ đạt Đại Bi trí tạng.</I></B></P>

<P><B><I>5. Do tụng trì trăm lẻ tám biến, vượt thoát bốn vạn kiếp sanh tử.</I></B></P>

<P><B><I>6. Mười thứ lợi ích thù thắng, đã hưởng phước trong thuở sanh tiền. Bốn thứ công năng, càng hiệu nghiệm sau khi đã khuất.</I></B></P>

<P><B><I>7. Chỉ cần chí tâm tụng niệm, Cực Lạc ắt sẽ sanh về. Nếu tu hành đúng pháp, Bồ Đề nắm chắc trong tay</I></B> <I>(Đoạn này ca tụng Thập Nhất Diện Chú Kinh. Do khi trì chú này, Ngài là tiên nhân hoặc là cư sĩ, nên xếp vào trước phần này).</I></P>

<P><I> </I></P>

<P>(1) Thập Nhất Diện Chú Kinh: "<I>Phật tại Thất La Phiệt Trúc Duẫn đạo tràng"</I> (Đức Phật ở tại đạo tràng Măng Tre nơi thành Thất La Phiệt). Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Khai xiển vô giá, độ chư nghi báng"</I> (Khai thị, xiển dương, không ngăn che, để độ những kẻ nghi ngờ, hủy báng). Mật Tông chia ra năm bộ, Đại Sĩ là bộ chủ của Liên Hoa Bộ. Thập Nhất Diện Chú Kinh: <I>"Quá</I><I>n Tự Tại Bồ Tát dữ vô lượng câu-chi na-dữu-đa bách thiên trì chú thần tiên, đáo dĩ, đảnh lễ Phật túc"</I> (Quán Tự Tại Bồ Tát và vô lượng câu-chi na-do-tha[13] trăm ngàn thần tiên trì chú đến nơi rồi bèn lễ dưới chân Phật).</P>

<P>(2) Thập Nhất Diện Chú Kinh[14]: <I>"Bạch Phật ngôn: - Ngã hữu thần chú tâm, danh Thập Nhất Diện, cụ đại oai lực"</I> ([Quán Thế Âm Bồ Tát] bạch Phật rằng: - Con có chú tâm[15] tên là Thập Nhất Diện, đầy đủ oai lực). Tứ Tất Đàn thì một là thế giới Tất Đàn, hai là vị nhân Tất Đàn, ba là đối trị Tất Đàn, bốn là đệ nhất nghĩa Tất Đàn. Tất Đàn (Siddhanta) nghĩa là "thí trọn khắp".</P>

<P>(3 & 4 & 5) Kinh chép: <I>"</I><I>Ngã ức quá khứ hằng hà sa kiếp tiền, hữu Phật danh Bách Liên Hoa Nhãn. Ngã thời tác đại tiên nhân, thọ đắc thử chú, ứng thời chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Hựu quá khứ quá hằng hà sa kiếp, hữu Phật danh Mỹ Âm Hương, ngã thân tác đại cư sĩ, thọ đắc thử chú, tiện ư sanh tử siêu tứ vạn kiếp. Tụng trì thử chú, phục đắc chư Phật đại bi trí tạng, nhất thiết Bồ Tát giải thoát pháp môn"</I> (Tôi nhớ hằng hà sa kiếp trước trong quá khứ, có Phật hiệu Bách Liên Hoa Nhãn. Khi ấy, tôi làm đại tiên nhân nhận lãnh chú này, ngay khi ấy chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Lại qua khỏi hằng hà sa kiếp về quá khứ, có Phật hiệu là Mỹ Âm Hương, tôi làm thân đại cư sĩ, được nhận lãnh chú này, liền vượt thoát bốn vạn kiếp sanh tử. Tụng trì chú này lại đắc đại bi trí tạng của chư Phật và hết thảy pháp môn giải thoát của Bồ Tát).</P>

<P>(6) Thập Nhất Diện Thần Chú Kinh: <I>"</I><I>Thị cố tịnh tín nam nữ, đương cung kính, chí tâm hệ niệm. Mỗi thần triêu tụng chú nhất bách bát biến, hiện thân hoạch thập chủng thắng lợi. Nhất thân thường vô bệnh, nhị chư Phật nhiếp thọ, tam tài bảo vô tận, tứ năng phục oán địch, ngũ tôn quý cung kính, lục quỷ độc bất thương, thất đao trượng bất hại, bát thủy bất nịch, cửu hỏa bất thiêu, thập bất hoạnh tử. Phục đắc tứ chủng công đức thắng lợi: Nhất mạng chung đắc kiến chư Phật, nhị chung bất đọa ác thú, tam bất nhân hiểm ách tử, tứ đắc sanh Cực Lạc thế giới"</I> (Do vậy, kẻ nam người nữ có lòng tin trong sạch hãy nên cung kính, chí tâm hệ niệm. Mỗi sáng sớm tụng chú 108 biến thì nơi thân hiện tại được mười thứ lợi ích thù thắng: Một là thân thường không bệnh, hai là chư Phật nhiếp thọ, ba là của cải vô tận, bốn là hàng phục oán địch, năm là tôn quý, [được người khác] cung kính, sáu là quỷ mị, chất độc không hại được, bảy là đao gậy không hại được, tám là nước chẳng nhấn chìm, chín là lửa chẳng đốt được, mười là chẳng chết ngang trái. Lại còn được bốn thứ công đức lợi ích thù thắng: Một là mạng chung được thấy chư Phật, hai là trọn chẳng đọa vào đường ác, ba là chẳng chết vì nguy hiểm, tai ách, bốn là được sanh về thế giới Cực Lạc).</P>

<P>(7) Thập Nhất Diện Kinh Chú: <I>"Ư ngã sở thuyết thần chú, thọ trì, độc tụng, như thuyết tu hành, thị nhân ư vô thượng Bồ Đề lãnh thọ như tại chưởng trung"</I> (Đối với thần chú do ta đã nói mà thọ trì, đọc tụng, tu hành đúng như lời dạy thì người ấy sẽ nhận lãnh Vô Thượng Bồ Đề như đang cầm trong tay).</P>

<P> </P>

<P><B><I>1. Kế tiếp là Phật ngự trong vườn Am La, khắp thành Tỳ Xá mắc bệnh.</I></B></P>

<P><B><I>2. Dạ Xoa mến giữ, [thầy thuốc] đã bó tay chẳng thể chữa lành, Nguyệt Cái nặng lòng, bèn thỉnh cầu đức Phật thương xót.</I></B></P>

<P><B><I>3. Do thấy đời ngũ trược khó thể ở lâu dài, Phật dạy hãy chú tâm nơi Tịnh Độ. Sáu thức hãy gấp nên chuyển biến, thỉnh Quán Âm là bậc trí chiếu soi.</I></B></P>

<P><B><I>4. [Đức Phật] dặn dò [Nguyệt Cái] hãy cầu bậc Năng Thí cõi Cực Lạc phóng tịnh quang trọn khắp, diệt tối, trừ si, tiêu tai, ngừa ách.</I></B></P>

<P>     <B><I>5. Vốn là cha mẹ từ bi, Đại Sĩ nói tâm ấn trừ phiền não. Do lòng lân mẫn chúng sanh, Thế Tôn thỉnh Đà La Ni phá ác.</I></B></P>

<P><B><I>     6. Muốn được Ngài hiện thân, nên biết pháp Sổ Tức.</I></B></P>

<P><B><I>     7. Chương cú Lục Tự, nhất định cát tường, năm môn Thiền Quán, càng tăng Định lực.    </I></B></P>

<P><B><I>8. Vì thế, lìa ác như mây trôi gặp gió, thấy Phật dường lũ trút khe ngòi.</I></B></P>

<P><B><I>9. Vị đẫm cam lộ, nhỏ giọt từ cành dương liễu. Miệng phóng quang như thể ráng chiều, lưỡi hoa sen khen ngợi trọn khắp.</I></B></P>

<P><B><I>10. Vì thế, chư thiên cúng dường, hầu hạ, như tôn cha kính mẹ. Được nghe tựa đề kinh, cũng sanh về Tịnh Độ</I></B> <I>(Đoạn này ca tụng Tiêu Phục Độc Hại Chú Kinh</I><I><B>[16]</B></I><I>).</I></P>

<P> </P>

<P>     1. Tiêu Phục Độc Hại Chú Kinh: <I>"</I><I>Phật trụ Tỳ Xá Ly Am La thụ viên Đại Lâm tinh xá. Thời Tỳ Xá Ly quốc nhân, ngộ đại ác bệnh"</I> (Đức Phật ngự tại tinh xá Đại Lâm trong vườn cây Am La (Ambāla-vana) thành Tỳ Xá Ly[17]. Khi ấy, dân nước Tỳ Xá Ly mắc bệnh ngặt nghèo).</P>

<P>     2. Kinh chép: <I>"</I><I>Hữu ngũ dạ-xoa, hấp nhân tinh khí. Lương y Kỳ Bà, tận kỳ đạo thuật, bất năng cứu. Hữu nhất trưởng giả danh Nguyệt Cái, nghệ Phật bạch ngôn: 'Nguyện Thế Tôn từ mẫn nhất thiết, cứu tế bệnh khổ"</I> (Có năm dạ-xoa[18]hút tinh khí của con người. Lương y Kỳ Bà[19] dốc hết khả năng y thuật vẫn chẳng thể chữa lành. Có một trưởng giả tên là Nguyệt Cái đến chỗ Phật bạch rằng: 'Xin đức Thế Tôn từ bi thương xót hết thảy, cứu chữa bệnh khổ). Ngài Trí Giả sớ giải: <I>"Những người tu hành thuộc về Phần Đoạn sanh tử, chưa đoạn Hoặc, hễ tâm vừa dấy lên ý niệm thì luôn bị ái kiến mê hoặc đến nỗi sáu trần làm tổn thương sáu căn tạo thành bệnh. Do xét theo Lý nên gọi Ngũ Căn là năm dạ-xoa vì chúng sanh ra năm thứ Kiến vậy".</I></P>

<P>     (3). Kinh chép: <I>"</I><I>Phật ngôn: - Khứ thử bất viễn, chánh lập Tây Phương, hữu Phật danh Vô Lượng Thọ, Bồ Tát danh Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, hằng dĩ đại bi cứu tế khổ ách. Nhữ đương tác lễ, thiêu hương, hệ niệm, sổ tức, linh tâm bất tán, kinh thập niệm khoảnh, vị chúng sanh thỉnh bỉ Phật, Bồ Tát" </I>(Phật dạy: - Cách đây chẳng xa, ngay nơi phương Tây có Phật hiệu là Vô Lượng Thọ, có Bồ Tát tên là Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, thường đem lòng đại bi cứu giúp khổ ách. Ông hãy nên làm lễ, hệ niệm, đếm hơi thở sao cho tâm chẳng tán loạn trong vòng mười niệm, vì chúng sanh thỉnh đức Phật và các vị Bồ Tát ấy). [Ngài Trí Khải] chú giải: <I>"Chúng sanh cõi uế do thấy Kiến Hoặc, Tư Hoặc độc hại, nên muốn nhờ vào Tịnh Độ để phá bệnh ấy. Hơn nữa, Quán Âm biểu thị trí Chánh Quán Trung Đạo, nhằm đối trị các thứ độc. Vì thế, thỉnh một mình Quán Âm nói ra thần chú".</I></P>

<P>     (4) Kinh chép: <I>"Phổ phóng tịnh quang minh, diệt trừ si ám minh"</I>(Phóng khắp quang minh sạch, trừ diệt tối si ám). Lại chép: <I>"Tất lai chí ngã sở, thí ngã đại an lạc"</I> (Ắt đến chỗ của ta, ban cho đại an lạc).</P>

<P>     (5) Kinh chép: <I>"</I><I>Ngã kim tự quy y, thế gian từ bi phụ"</I> (Con nay tự quy y, thế gian từ bi phụ). Lời sớ giải ghi: <I>"Ba bài chú trong kinh này trừ tam chướng. Chú thứ nhất trừ độc phiền não, chú thứ hai phá ác nghiệp độc, chú cuối cùng, phá được quả báo độc".</I></P>

<P>Kinh dạy: <I>"Nhĩ thời Thế Tôn, lân mẫn chúng sanh, trùng thỉnh Quán Thế Âm Bồ tát thuyết Tiêu Phục Độc Hại Chú. Quán Thế Âm đại bi huân tâm, nhi thuyết Phá Ác Nghiệp Chướng Tiêu Phục Độc Hại đà-la-ni chú"</I> (Khi ấy, đức Thế Tôn thương xót chúng sanh lại thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát hãy nói Tiêu Phục Độc Hại Chú. Quán Thế Âm đại bi hun đúc nơi lòng, bèn nói Phá Ác Nghiệp Chướng Tiêu Phục Độc Hại đà-la-ni chú).</P>

<P>      (6) Kinh chép: <I>"</I><I>Vân hà đắc kiến Quán Thế Âm Bồ Tát, cập thập phương Phật? Nhược dục đắc kiến, đoan thân chánh tâm, sử tâm bất động, linh tức điều quân, bất thô, bất tán, an tường từ sổ, tùng nhất chí thập, thành tựu tức niệm, vô phân tán ý. Khí bất ngoại hướng, bất sáp, bất hoạt, điều hòa đắc trung, linh tâm minh tịnh".</I> (Làm thế nào để thấy Quán Thế Âm và mười phương Phật? Nếu muốn được thấy, hãy đoan thân, chánh tâm, khiến cho tâm bất động, khiến cho hơi thở điều hòa, quân bình, chẳng thô, chẳng tán loạn, an tường thong thả đếm từ một đến mười, thành tựu ý niệm chú tâm nơi hơi thở, ý không phân tán. Khí chẳng hướng ra ngoài, chẳng thô rít, chẳng quá nhanh, điều hòa đúng mực, khiến cho tâm sáng lặng).</P>

<P>     (7) Kinh chép: "<I>Thị lục tự chương cú tất định cát tường, chân thật bất hư"</I>(Chương cú sáu chữ này nhất định là tốt lành, chân thật, chẳng dối). Sớ giải ghi:<I>"Có nhiều cách giải thích từ ngữ 'chương cú sáu chữ' khác nhau. Có thuyết cho rằng: Tam Bảo là ba chữ, Quán Thế Âm là ba chữ nữa cho tiện tụng trì, tức là như kinh chép: 'Nam-mô Phật, nam-mô Pháp, nam-mô Tăng, nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát".</I></P>

<P>Kinh lại chép: <I>"Phật cáo chư tỳ-kheo: - Nhữ đẳng dục phục cam lộ vô thượng pháp vị, tu ngũ môn Thiền, đương tự quán thân, tùng đầu chí túc, nhất nhất tiết gian, giai linh hệ niệm, đình trụ bất tán, đế quán chúng tiết như ba tiêu thụ, nội ngoại câu không. Đương tri Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, diệc phục như thị"</I>(Phật bảo các tỳ-kheo: - Các ông muốn uống cam lộ vô thượng pháp vị, tu năm môn Thiền, hãy tự quán tâm từ đầu đến chân, trong mỗi lóng đốt đều hệ niệm gìn giữ cho chẳng tán loạn, xem kỹ các lóng giống như cây chuối, trong và ngoài đều rỗng không. Hãy nên biết Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, cũng giống như vậy).</P>

<P>     (8) Kinh chép: <I>"</I><I>Dĩ thử sổ tức tâm định lực cố, như sử thủy lưu, tất tật đắc kiến Quán Thế Âm Bồ Tát cập thập phương Phật"</I> (Do phép đếm hơi thở này, tâm có định lực giống như nước chảy mạnh, ắt nhanh chóng được thấy Quán Thế Âm Bồ Tát và mười phương Phật). Kinh còn chép: <I>"Nhược hữu túc thế tội nghiệp nhân duyên, cập hiện sở tạo cực trọng ác hạnh, mộng trung đắc kiến Quán Thế Âm Bồ Tát như đại mãnh phong xuy ư trùng vân giai tất tứ tán, đắc ly ác nghiệp, sanh chư Phật tiền"</I> (Nếu có tội nghiệp nhân duyên trong đời trước và những hạnh ác cực nặng trót tạo trong đời này, trong mộng sẽ được thấy Quán Thế Âm Bồ Tát như cơn gió to mạnh thổi những tầng mây bay tứ tán, được lìa ác nghiệp, sanh về trước các đức Phật). Theo Thiên Lộc Các Ngoại Sử đời Hán: <I>"Nếu mây trôi gặp phải trận gió sẽ bị cuốn vùn vụt về nơi hang hốc,</I> <I>không ai có thể ngăn được</I>!"</P>

<P>     (9) Tiêu Phục Độc Hại Chú Kinh: <I>"Tỳ Xá Ly nhân, tức cụ dương chi tịnh thủy, thọ dữ Quán Thế Âm Bồ Tát"</I> (Người nước Tỳ Xá Ly bèn chuẩn bị cành dương, nước sạch, trao cho Quán Thế Âm Bồ Tát). Kinh còn chép: "<I>Nhất thiết Phật hưng thế, an lạc chúng sanh cố. Dị khẩu, các các thân, đoan tọa Kim Cang tòa, khẩu xuất ngũ sắc quang, liên hoa diệp hình thiệt, tán thán đại bi giả, điều ngự sư tử pháp"</I> (Hết thảy Phật ra đời, nhằm an lạc chúng sanh. Mỗi vị thân miệng khác, ngồi trên tòa Kim Cang, miệng tỏa quang năm sắc, lưỡi như cánh hoa sen, khen ngợi bậc Đại Bi, pháp điều ngự sư tử).</P>

<P>     (10) Kinh chép: <I>"Từ tâm ủng hộ trì kinh giả, cung kính cúng dường tiếp túc lễ. Thí như chư thiên phụng Đế Thích, diệc như hiếu tử kính phụ mẫu"</I> (Từ tâm ủng hộ người trì kinh, cung kính, cúng dường, lễ dưới chân, ví như chư thiên thờ Đế Thích, cũng như con hiếu kính cha mẹ).</P>

<P>Kinh còn chép: <I>"Nhược thiện nam tử nữ nhân, đắc văn thử kinh thủ đề danh tự, thường đắc kiến Phật, cập chư Bồ Tát, cụ túc thiện căn, sanh tịnh Phật quốc"</I> (Nếu thiện nam tử, nữ nhân nào được nghe danh tự nơi tựa đề kinh này sẽ thường được thấy Phật và các Bồ Tát, đầy đủ thiện căn, sanh về cõi Phật thanh tịnh).</P>

<P> </P>

<P>     <B><I>1. Lại từ trong điện Trang Nghiêm nơi núi Bố Đát.</I></B></P>

<P><B><I>     2. Bậc Diệu Giác Thế Tôn giáng xuống, nhóm hội Bồ Tát đại bi.</I></B></P>

<P><B><I>     3. Bèn tuyên nói thần châu Như Ý, có tên là Bất Không Quyến Sách.</I></B></P>

<P><B><I>     4. Trao cho các thế chủ</I></B><B><I><B>[20]</B></I></B><B><I>, hòng dạy khắp trời người.</I></B></P>

<P><B><I>     5. Mười ức số diệu trí hiện tiền, hai mươi thứ đại lợi thành tựu</I></B>.</P>

<P>     <B><I>6. Lại thêm tám pháp, Tịnh Độ tùy nguyện vãng sanh, được nhập Chánh Định, chư thiên thường đến ủng hộ.</I></B></P>

<P><B><I>     7. Dù tội khó sám hối, ghẻ lở cũng được tiêu trừ, dẫu vờ vĩnh thọ trì, tự đượm mùi hương trầm, xạ.</I></B></P>

<P><B><I>     8. Muốn thành tựu nghiệp tối thắng, thân tự tại càng trang nghiêm.</I></B></P>

<P><B><I>     9. Búi tóc xoắn ốc xoay theo chiều phải, đầu đội mão hoa, khoác tấm da hươu trên vai bên trái, tóc xanh buông rủ.</I></B></P>

<P><B><I>     10. Anh lạc để trang nghiêm, hương hoa dâng cúng dường.</I></B></P>

<P><B><I>     11. Tâm tin sẽ cảm Phật, nên khiến thân có quang minh. Tượng vẽ chẳng khác chân thân, bởi đó, thỏa mãn các nguyện</I></B> <I>(đoạn này ca tụng Bất Không Quyến Sách Kinh</I><I><B>[21]</B></I><I>)</I></P>

<P> </P>

<P>     (1) Bất Không Quyến Sách Kinh: <I>"Phật tại Bố Đát Lạc Ca sơn, Quán Tự Tại cung điện. Kỳ địa hữu vô lượng bảo thụ, châu táp trang nghiêm"</I> (Phật ngự tại núi Bố Đát Lạc Ca, trong cung điện của ngài Quán Tự Tại. Nơi cuộc đất ấy có vô lượng cây báu vây quanh trang nghiêm).</P>

<P>     (3) Trong lời tựa cuối kinh Bất Không Quyến Sách có đoạn: <I>"Các nước trong xứ Ấn Độ đều gọi kinh này là viên thần châu Như Ý".</I></P>

<P>     (4 & 5) Kinh chép: <I>"Vãng tích hữu Phật, hiệu Thế Chủ Vương Như Lai, ngã tùng bỉ Phật, thọ thử chú tâm, giáo hóa vô lượng bách thiên thiên tử, linh thú Bồ Đề. Dĩ thị công đức, hoạch thập ức tam-ma-địa bất không diệu trí"</I> (Thuở xưa có Phật hiệu là Thế Chủ Vương Như Lai, ta nhận lãnh chú tâm này từ nơi đức Phật ấy, giáo hóa vô lượng trăm ngàn thiên tử, khiến họ tiến nhập Bồ Đề. Do công đức ấy, đạt được mười ức tam-ma-địa, bất không diệu trí).</P>

<P>     Kinh còn chép: <I>"Nhược nhân ư nguyệt bát nhật, chuyên tâm trai giới, bất tạp dư ngữ, tụng chú thất biến, hiện tại đắc nhị thập chủng thù thắng lợi ích"</I> (Nếu có người trong ngày mồng Tám mỗi tháng, dốc lòng trai giới, chẳng xen tạp những lời nào khác, tụng chú này bảy biến thì trong hiện tại sẽ đạt được hai mươi thứ lợi ích thù thắng).</P>

<P>     (6) Kinh chép: <I>"Phục hoạch bát pháp: Nhất giả, lâm chung kiến Quán Tự Tại Bồ Tát, tác tỳ-kheo tượng, hiện tiền ủy dụ... Bát giả, mạng chung tùy nguyện vãng sanh chư Phật Tịnh Độ"</I> (Lại đạt được tám pháp: Một là lâm chung thấy Quán Tự Tại Bồ Tát hiện thân tướng tỳ-kheo ở trước mặt vỗ về, khuyên nhủ... Tám là mạng chung, tùy theo ý nguyện vãng sanh Tịnh Độ của chư Phật).</P>

<P>Kinh còn chép: <I>"Hữu thử chú xứ, tức hữu thập nhị ức chư thiên ủng hộ"</I> (Chỗ nào có chú này thì chỗ ấy liền có mười hai ức chư thiên ủng hộ).</P>

<P>     (7) Kinh chép: <I>"Nhược nhân tạo chư trọng tội, hủy nhục thánh hiền, phỉ báng chánh pháp, đương đọa Vô Gián địa ngục, thọ chư kịch khổ, chư Phật, Bồ Tát diệc bất năng cứu. Nhược văn thử chú, nhất nhật dạ, thọ trì trai giới, tụng thử chú tâm, sở tác tội nghiệp, hiện thế khinh thọ, hoặc tao hàn nhiệt, cập chư tiễn giới, bất phục đương đọa địa ngục. Sở tạo tội nghiệp tất đắc tiêu trừ</I>" (Nếu có người tạo các trọng tội, hủy báng, nhục mạ thánh hiền, phỉ báng chánh pháp, sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián, chịu các nỗi khổ dữ dội, chư Phật, Bồ Tát cũng chẳng thể cứu, mà nếu nghe chú này, thọ trì trai giới một ngày một đêm, tụng chú tâm này thì các tội nghiệp đã tạo sẽ chuyển thành báo nhẹ trong đời này, hoặc bị bệnh hàn, bệnh nhiệt và các thứ ghẻ lở, chẳng còn đọa vào địa ngục, tội nghiệp đã tạo đều được tiêu trừ).</P>

<P>Kinh còn chép: <I>"Nhược chúng sanh văn thử chú tâm, trá hiện thọ trì, diệc sanh thắng phước. Như nhân thủ chiên đàn, trầm, xạ, dụng đồ kỳ thân, tuy mạ lỵ, hủy tý, nhi bỉ hương đẳng, chung bất vị thử nhân hủy ngã, lận kỳ hương khí, nhi bất dữ chi"</I> (Nếu chúng sanh nghe chú tâm này, giả vờ thọ trì, cũng sanh phước thù thắng. Như người lấy chiên đàn, trầm, xạ bôi lên thân mình, tuy chửi mắng, rủa xả, nhưng những thứ hương ấy trọn chẳng nói 'kẻ này hủy nhục ta' mà tiếc rẻ mùi hương chẳng ban cho hắn).</P>

<P>(8 & 9 & 10) Kinh chép: <I>"</I><I>Thử thần chú thành tựu như thị tối thắng sự nghiệp. Vị thành biện giả, dĩ tố điệp họa Phật tượng, ư hữu biên họa Quán Tự Tại Bồ Tát tượng. Kỳ thân hoàng bạch, đảnh hữu loa kế, cám phát thùy hạ, thủ quan hoa quan, phi lộc bì phú tả kiên thượng. Tự dư thân phần, anh lạc, hoàn, xuyến, nhi vi trang nghiêm. Đàn nội tán bạch hoa, dĩ bát tịnh bình thịnh hương hoa thủy an bát phương"</I> (Thần chú này thành tựu sự nghiệp tối thắng như thế. Kẻ nào chưa thành tựu thì hãy dùng vải điệp trắng vẽ tượng Phật. Ở bên phải [tượng Phật], vẽ tượng Quán Tự Tại Bồ Tát. Thân Ngài màu vàng pha sắc trắng, đảnh đầu có búi tóc xoắn ốc, tóc xanh biếc rủ xuống, đầu đội mão hoa, khoác da hươu bên vai trái. Những phần thân thể khác trang nghiêm bằng anh lạc, vòng, xuyến. Trong đàn rải hoa trắng, dùng tám cái bình thanh tịnh đựng nước cắm hoa, hòa chất thơm đặt ở tám phương).</P>

<P>(11) Kinh chép: <I>"C</I><I>hí thành tụng chú, mãn bát thiên biến, hành giả tự kiến kỳ thân biến phóng quang minh. Quán Tự Tại tiện hiện kỳ tiền, tùy sở nguyện cầu, giai linh mãn túc"</I> (Chí thành tụng chú trọn tám ngàn biến, hành giả tự thấy khắp thân tượng Ngài phóng quang minh. Quán Tự Tại liền hiện ra trước mặt, tùy theo nguyện cầu của hành nhân sẽ đều làm cho được thỏa mãn).</P>

<P> </P>

<P><B><I>1. Chỉ vì Đại Sĩ nhận lãnh pháp môn bí mật, số lượng vốn như vi trần, nhiếp khắp các đà-la-ni diệu ngữ, một hội há tuyên nói trọn!</I></B></P>

<P><B><I>2. Vì thế, đức Phật lại giáng lâm, phàm thánh bèn tái nhóm.</I></B></P>

<P><B><I>3. Sắp nói thần chú Đại Bi, ngầm phóng quang minh thần thông</I></B><I>(Từ đây ca tụng Đại Bi Chú Kinh</I><I><B>[22]</B></I><I>, gồm năm đoạn)</I></P>

<P> </P>

<P>(1) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"</I><I>Thừa thuận thập phương vi trần Như Lai bí mật pháp môn, thọ lãnh vô thất"</I> (Vâng theo pháp môn bí mật của mười phương vi trần Như Lai, nhận lãnh không mất).</P>

<P>Đại Bi Chú Kinh: <I>"Thị diệu pháp tạng phổ nhiếp nhất thiết chư đà-la-ni môn. Hựu thị diệu ngữ tạng, khẩu trung đà-la-ni âm vô đoạn tuyệt cố"</I> (Đây là diệu pháp tạng, nhiếp khắp hết thảy các môn đà-la-ni, lại là diệu ngữ tạng vì trong miệng âm thanh đà-la-ni không đoạn tuyệt).</P>

<P>(2) Kinh chép: <I>"</I><I>Phật tại Bổ Đà Lạc Ca sơn, Quán Thế Âm cung</I><I> </I><I>điện, dữ vô ương số Bồ Tát, Thanh Văn, dĩ chí thiên, long, dạ-xoa, nhân, phi nhân đẳng, giai lai tập hội"</I> (Đức Phật ở núi Bổ Đà Lạc Ca trong cung điện của ngài Quán Thế Âm, cùng vô ương số Bồ Tát, Thanh Văn, cho đến trời, rồng, dạ-xoa, người, phi nhân đều cùng đến nhóm hội).</P>

<P>(3) Kinh chép: <I>"Quán Thế Âm Bồ Tát mật phóng thần thông quang minh, chiếu diệu thập phương sát độ, giai tác kim sắc, nhật nguyệt chi quang giai tất bất hiện. Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật ngôn: - Ngã hữu Đại Bi Tâm đà la ni chú, kim đương dục thuyết"</I> (Quán Thế Âm Bồ Tát ngầm phóng quang minh thần thông, chiếu sáng ngời mười phương cõi nước đều biến thành sắc vàng, ánh sáng của mặt trời, mặt trăng đều [bị che lấp] chẳng hiện. Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật: - Con có Đại Bi Tâm đà-la-ni chú, nay con muốn nói).</P>

<P> </P>

<P><B><I>Ấy là vì: Từ vô lượng kiếp trước, nơi Thiên Quang Vương Phật, nhận lãnh vô ngại đà-la-ni này, vì vị lai tạo lợi lạc trọn khắp. Ngàn mắt, ngàn tay trong một niệm liền trọn đủ, vượt ngay lên Bát Địa, mười phương chư Phật đều phóng quang minh, đồng thời đến chứng minh.</I></B></P>

<P> </P>

<P>Đại Bi Chú Kinh: <I>"</I><I>Ngã niệm quá khứ vô lượng ức kiếp, hữu Phật danh Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai. Bỉ Phật lân ngã cập nhất thiết chúng sanh, thuyết Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-la-ni. Dĩ</I> <I>kim thủ ma ngã đảnh, ngôn: - Nhữ đương trì thử tâm chú, phổ vị vị lai ác thế nhất thiết chúng sanh, tác đại lợi lạc. Ngã ư thị thời, thỉ trụ Sơ Địa, nhất văn thử chú, siêu Đệ Bát Địa. Ngã phát thệ ngôn: - Nhược ngã đương lai năng lợi lạc nhất thiết chúng sanh giả, linh ngã thân thiên thủ thiên nhãn cụ túc. Phát thị nguyện dĩ, ứng thời cụ túc. Thập phương Phật tất phóng quang minh, chiếu xúc ngã thân"</I>(Tôi nhớ trong quá khứ vô lượng ức kiếp, có Phật hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai. Đức Phật ấy thương tôi và hết thảy chúng sanh, nói Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm đà-la-ni, dùng cánh tay sắc vàng xoa đầu tôi, nói: 'Ông nên trì tâm chú này, vì khắp hết thảy chúng sanh trong đời ác mai sau mà làm lợi lạc'. Khi ấy, tôi mới trụ Sơ Địa, vừa nghe chú này liền vượt lên Bát Địa. Tôi thốt lời thề: 'Nếu trong tương lai con có thể lợi lạc hết thảy chúng sanh thì khiến cho thân con đầy đủ ngàn mắt, ngàn tay'. Phát lời nguyện ấy xong, ngay lập tức bèn đầy đủ. Mười phương chư Phật đều phóng quang minh chiếu chạm thân tôi).</P>

<P> </P>

<P><B><I>1. Phàm là người học Phật, hãy nên phát thệ nguyện rộng lớn.</I></B></P>

<P><B><I>2. Trước hết, mở mười nguyện, rộng phát Bồ Đề, lại trở vào tam đồ, giải thoát trọn khắp.</I></B><B><I></I></B><B><I></I></B></P>

<P><B><I>3. Xưa lễ Không Vương Phật, nhân chẳng khác quả, nay xưng danh Đại Sĩ, thoạt đầu, lúc cuối chẳng hai.</I></B></P>

<P><B><I> </I></B></P>

<P>(1 & 2) Đại Bi Chú Kinh: <I>"</I><I>Dục tụng trì giả, ư chúng sanh khởi từ bi tâm, tiên đương tùng ngã phát nguyện"</I> (Người muốn tụng trì, hãy khởi tâm từ bi đối với chúng sanh, trước hết hãy theo ta phát nguyện). Mười nguyện chính là nguyện tôi sớm biết hết thảy pháp, nguyện tôi sớm đắc mắt trí huệ, nguyện tôi mau độ hết thảy chúng sanh, nguyện tôi sớm đắc phương tiện khéo, nguyện tôi mau ngồi thuyền Bát Nhã, nguyện tôi sớm được thoát biển khổ, nguyện tôi mau đắc đạo giới định, nguyện tôi sớm lên non Niết Bàn, nguyện tôi mau về nhà vô vi, nguyện tôi sớm cùng chứng thân pháp tánh.</P>

<P>Kinh còn chép: <I>"N</I><I>gã nhược hướng đao sơn, đao sơn tự tồi chiết. Ngã nhược hướng hỏa thang, hỏa thang tự tiêu diệt. Ngã nhược hướng địa ngục, địa ngục tự khô kiệt. Ngã nhược hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ tự bão mãn. Ngã nhược hướng Tu-la, ác tâm tự điều phục. Ngã nhược hướng súc sanh, tự đắc đại trí tuệ"</I> (Nếu ta hướng về núi đao, núi đao tự sụp vỡ. Nếu ta hướng về lò lửa, vạc sôi, lò lửa, vạc sôi tự tiêu diệt. Nếu ta hướng về địa ngục, địa ngục tự khô cạn. Nếu ta hướng về ngạ quỷ, ngạ quỷ tự no đủ. Nếu ta hướng về Tu-la, ác tâm tự điều phục. Nếu ta hướng về súc sanh, tự đắc đại trí huệ).</P>

<P>(3) Hoằng Mãnh Hải Huệ Kinh: "<I>Tích Diêm Phù Đề hữu vương danh Thiện Thủ, hữu ngũ bách vương tử. Đệ nhất thái tử danh Thiện Quang, trị Không Vương Quán Thế Âm Phật, nãi phát thập nguyện. Nhất nguyện tri nhất thiết pháp, nhị nguyện thừa Bát Nhã thuyền, tam nguyện đắc trí huệ phong, tứ nguyện đắc thiện phương tiện, ngũ nguyện độ nhất thiết nhân, lục nguyện siêu sanh tử hải" </I>(Xưa kia, trong Diêm Phù Đề có vua tên là Thiện Thủ, có năm trăm vương tử. Thái tử thứ nhất tên là Thiện Quang, gặp đức Không Vương Quán Thế Âm Phật, bèn phát ra mười nguyện. Nguyện thứ nhất là biết hết thảy pháp, nguyện thứ hai là ngồi thuyền Bát Nhã, nguyện thứ ba là được gió trí huệ, nguyện thứ tư là đắc phương tiện khéo, nguyện thứ năm là độ hết thảy mọi người, nguyện thứ sáu là vượt biển sanh tử). Bốn nguyện còn lại giống như phần kinh văn đã dẫn ở trên. Hơn nữa, trước mỗi câu nguyện trong mười nguyện của Đại Bi Chú Kinh, đều có câu<I>"Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm", </I>còn trong đoạn văn nói về mười nguyện ấy [của kinh Hoằng Mãnh Hải Huệ], trước mỗi câu nguyện chỉ thiếu hai chữ Nam Mô.</P>

<P> </P>

<P><B><I>1. Lại niệm Bổn Sư, rồi mới trì thần chú.</I></B></P>

<P><B><I>2. Khi ấy, diệt trọng tội trong một ức vạn kiếp, tùy nguyện vãng sanh, đắc mười lăm thứ sống tốt lành, lại không chết thảm.</I></B></P>

<P><B><I>3. Dẫu là độn căn, vẫn đắc tiểu quả, thành tựu huệ thân, chẳng do ai giác ngộ.</I></B></P>

<P> </P>

<P>(1 & 2) Kinh chép: <I>"</I><I>Phát nguyện dĩ, chí tâm xưng niệm ngã chi danh tự, diệc ưng chuyên niệm ngã Bổn Sư A Di Đà Như Lai, nhiên hậu tụng chú, nhất túc mãn ngũ biến, trừ diệt thân trung bách thiên vạn ức kiếp sanh tử trọng tội. Nhược chư nhân thiên tụng trì Đại Bi chương cú giả, lâm mạng chung thời, thập phương chư Phật giai lai thọ thủ, dục sanh hà quốc, tùy nguyện vãng sinh. Tụng trì Đại Bi thần chú, nhược bất sanh chư Phật quốc giả, ngã thệ bất thành chánh giác. Tụng trì Đại Bi thần chú, ư hiện sanh trung, nhất thiết sở cầu bất quả toại giả, bất đắc vi Đại Bi Tâm đà-la-ni dã. Duy trừ bất thiện, trừ bất chí thành"</I>(Phát nguyện xong, hãy chí tâm xưng niệm danh hiệu ta, cũng nên chuyên niệm Bổn Sư của ta là A Di Đà Như Lai rồi mới tụng chú. Một đêm tụng đủ năm biến, sẽ trừ diệt trọng tội trong trăm ngàn vạn ức kiếp sanh tử. Nếu các trời người trì tụng chương cú Đại Bi thì lúc lâm chung, mười phương chư Phật đều đến xòe tay tiếp dẫn. Muốn sanh về cõi nào, sẽ tùy theo lòng mong, sanh về cõi ấy. Tụng trì thần chú Đại Bi mà nếu chẳng sanh về các cõi Phật thì ta thề chẳng thành Chánh Giác. Tụng trì thần chú Đại Bi mà trong đời này hết thảy sở cầu chẳng được toại nguyện thì chẳng đáng gọi là Đại Bi Tâm đà-la-ni, chỉ trừ kẻ chẳng lành, hoặc chẳng chí thành)</P>

<P>Lại nữa, người tụng trì tâm chú Đại Bi được mười lăm thứ sanh tốt lành, chẳng bị mười lăm thứ chết thảm. Một là chẳng bị chết vì đói khát khốn khổ. Hai là chẳng bị chết vì xiềng xích, giam cầm, đánh đập. Ba là chẳng bị oán gia cừu nhân hại chết. Bốn là chẳng bị chết trong chiến trận. Năm là chẳng bị chết vì ác thú tàn hại. Sáu là chẳng bị rắn rết cắn chết. Bảy là chẳng bị chết vì nước trôi, lửa cháy. Tám là chẳng bị chết vì trúng thuốc độc. Chín là chẳng chết vì trùng độc làm hại. Mười là chẳng điên loạn, mất trí mà chết. Mười một là chẳng chết vì rơi té từ núi, cây, vách đá. Mười hai là chẳng chết vì bị kẻ ác ếm đối, quỷ mị. Mười ba là chẳng chết vì tà thần, ác quỷ thừa dịp hãm hại. Mười bốn là chẳng chết vì bệnh ngặt dây dưa. Mười lăm là chẳng tự hại chết trái lẽ.</P>

<P>[Mười lăm chỗ sanh tốt lành là]: Một là thường sanh về nơi có vua tốt lành. Hai là thường sanh vào nước tốt lành. Ba là thường gặp thời tốt lành. Bốn là thường gặp bạn lành. Năm là thân căn đầy đủ. Sáu là đạo tâm thuần thục. Bảy là chẳng phạm giới cấm. Tám là tất cả quyến thuộc đều nghĩ đến nhân nghĩa, hòa thuận. Chín là của cải đầy đủ. Mười là thường được người khác cung kính, nâng đỡ. Mười một là tất cả của cải không bị kẻ khác cướp đoạt. Mười hai là những điều mong mỏi đều được vừa lòng. Mười ba là long thiên, thiện thần luôn thường ủng hộ, bảo vệ. Mười bốn là tại chỗ sanh về thường thấy Phật, nghe pháp. Mười lăm là được nghe chánh pháp, có thể ngộ được nghĩa rất sâu).</P>

<P>(3). Kinh chép: <I>"</I><I>Nhược năng tinh thành dụng tâm, trai giới sám hối, khẩu trung ngập ngập tụng thử đà-la-ni, thanh thanh bất tuyệt giả, tứ Sa-môn quả, thử sanh tức chứng. Kỳ lợi căn hữu huệ quán giả, Thập Địa quả vị, khắc hoạch bất nan"</I> (Nếu có thể dụng tâm tinh thành trai giới, sám hối, trong miệng luôn ra rả tụng trì đà-la-ni này chẳng ngớt tiếng thì sẽ chứng bốn quả Sa Môn ngay trong đời này. Những người lợi căn có huệ quán thì sẽ đạt được quả vị Thập Địa chẳng khó).</P>

<P>Kinh còn chép: <I>"Bồ Tát vị giai Sơ Trụ giả, tốc linh đắc cố, hựu linh đắc đáo Phật địa cố. Tự nhiên thành tựu tam thập nhị tướng, bát thập tùy hình hảo"</I> (Sẽ làm cho Bồ Tát nhanh chóng đạt được địa vị Sơ Trụ, lại còn làm cho đạt đến địa vị Phật. Tự nhiên thành tựu ba mươi hai tướng, tám mươi thứ vẻ đẹp phụ). Phẩm Phạm Hạnh của kinh Hoa Nghiêm nói: <I>"Tri nhất thiết pháp tức tâm tự tánh. Thành tựu huệ thân, bất do tha ngộ"</I> (Biết hết thảy pháp chính là tự tánh của cái tâm. Thành tựu huệ thân, chẳng do người khác giác ngộ).</P>

<P> </P>

<P><B><I>1. Chạm gió thổi thân người trì chú, thường sanh trước Phật. Dính nước tắm từ thân người ấy, cùng về Tịnh Độ.</I></B></P>

<P><B><I>2. Khen ngợi công đức, mười hai tạng rộng lớn chưa thể bao trùm. Xưng dương, cầu nguyện, bốn mươi tay cùng làm há nào trọn hết.</I></B></P>

<P><B><I>3. Cầu biệt tướng Đại Bi, phải đủ mười tâm. Tổng trì thần chú này, tuyên dương chín hiệu.</I></B></P>

<P><B><I>     4. Sức oai thần như thế, trước Bồ Tát, quả chưa từng nghe [có ai giống vậy]! Kinh văn rộng lớn, dẫu Như Lai cũng sẽ tùy hỷ.</I></B></P>

<P> </P>

<P>     (1) Đại Bi Chú Kinh: <I>"</I><I>Nhược chư nhân thiên tụng trì thử đà-la-ni, kỳ nhân nhược tại giang, hà, đại hải trung mộc dục, kỳ trung chúng sanh, đắc thử nhân dục thân chi thủy, triêm trước kỳ thân, nhất thiết ác nghiệp, tất giai tiêu diệt, tức đắc chuyển sanh tha phương tịnh độ, liên hoa hóa sanh, bất thọ thai thân, thấp noãn chi thân. Hà huống thọ trì, độc tụng giả? Nhược tụng trì giả, hành ư đạo lộ, đại phong lai thời, xuy thử nhân thân mao, phát, y phục, dư phong hạ quá, chư loại chúng sanh đắc kỳ nhân phiêu thân phong xuy trước thân giả, nhất thiết ác nghiệp tịnh giai diệt tận, bất thọ tam ác đạo báo, thường sanh Phật tiền. Đương tri thọ trì giả, phước đức quả báo bất khả tư nghị"</I> (Nếu các trời người tụng trì đà-la-ni này, nếu như người ấy tắm gội trong sông, rạch, biển cả, những chúng sanh ở trong ấy được nước tắm của người ấy dính vào thân thì hết thảy ác nghiệp đều được tiêu diệt, liền được sanh về Tịnh Độ trong những phương khác, hóa sanh trong hoa sen, chẳng còn phải mang những thân thai, noãn, thấp sanh. Huống hồ kẻ thọ trì, đọc tụng? Nếu người tụng trì đi trên đường sá, khi trận gió lớn lùa tới, thổi qua lông, tóc, y phục trên thân người ấy, các loại chúng sanh do được hơi gió thừa sau khi đã thổi qua thân người ấy chạm vào thân thì hết thảy ác nghiệp đều tiêu diệt sạch, chẳng mắc báo đọa trong ba đường ác, thường sanh trước Phật. Hãy nên biết quả báo, phước đức của người thọ trì chẳng thể nghĩ bàn).</P>

<P>      (2) Mười hai tạng là: 1) Phật tạng 2) Quang minh tạng 3) Từ bi tạng 4) Diệu pháp tạng 5) Thiền định tạng 6) Hư không tạng 7) Vô úy tạng 8) Diệu ngữ tạng 9) Thường trụ tạng 10) Giải thoát tạng 11) Dược vương tạng 12) Thần thông tạng. Bốn mươi tay[23]: Kinh văn quá rườm rà nên không sao lục.</P>

<P>      (3) Đại Bi Chú Kinh: <I>"Đ</I><I>ại Phạm thiên vương bạch Bồ Tát ngôn: - Duy nguyện Đại Sĩ, vị ngã thuyết thử đà-la-ni hình mạo trạng tướng. Quán Thế Âm Bồ Tát ngôn: - Đại từ bi tâm thị, bình đẳng tâm thị, vô vi tâm thị, vô nhiễm trước tâm thị, không quán tâm thị, cung kính tâm thị, ty hạ tâm thị, vô tạp loạn tâm thị, vô kiến thủ tâm thị, vô thượng Bồ Đề tâm thị"</I> (Đại Phạm thiên vương bạch Bồ Tát rằng: "Kính xin Đại Sĩ hãy vì con nói hình mạo, tướng trạng của đà-la-ni này". Quán Thế Âm Bồ Tát nói: "Tâm đại từ bi, tâm bình đẳng, tâm vô vi, tâm không nhiễm trước, tâm không quán, tâm cung kính, tâm khiêm hạ, tâm không tạp loạn, tâm chẳng chấp vào kiến giải, tâm vô thượng Bồ Đề chính là hình mạo, tướng trạng [của chú Đại Bi]").</P>

<P>Lại nữa, trong kinh này, đức Phật bảo A Nan: "<I>Như thị thần chú danh Quảng Đại Viên Mãn, danh Vô Ngại Đại Bi, danh Cứu Khổ, danh Diên Thọ, danh Diệt Ác Thú, danh Phá Ác Nghiệp Chướng, danh Mãn Nguyện, danh Tùy Tâm Tự Tại, danh Tốc Siêu Thượng Địa Đẳng đà-la-ni"</I> (Thần chú như thế này tên là Viên Mãn Rộng Lớn, tên là Vô Ngại Đại Bi, tên là Cứu Khổ, tên là Kéo Dài Tuổi Thọ, tên là Diệt Đường Ác, tên là Phá Nghiệp Chướng Ác, tên là Thỏa Nguyện, tên là Tùy Theo Tâm Nguyện Mà Tự Tại, tên là Đà-la-ni Giúp Hành Nhân Nhanh Chóng Vượt Lên Địa Vị Cao Hơn). Tổng cộng gồm chín tên.</P>

<P>      (4) Đại Bi Chú Kinh chép: <I>"A </I><I>Nan</I><I> ngôn: - </I><I>Thử Bồ Tát danh tự hà đẳng, thiện năng tuyên thuyết như thị đà-la-ni? Phật ngôn: - Thử Bồ Tát danh Quán Thế Âm, bất khả tư nghị oai thần chi lực. Quá khứ vô lượng kiếp trung, dĩ tác Phật cánh, hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai. Đại bi nguyện lực, vị dục phát khởi nhất thiết Bồ Tát, an lạc thành thục chư chúng sanh cố, hiện tác Bồ Tát. Nhữ đẳng đại chúng chư Bồ Tát giai ưng cung kính, mạc sanh khinh mạn"</I> (ANan thưa: - Danh hiệu của vị Bồ Tát ấy như thế nào mà có thể khéo tuyên nói đà-la-ni như thế ấy? Phật đáp: - Vị Bồ Tát này tên là Quán Thế Âm, sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn. Trong vô lượng kiếp về quá khứ, Ngài đã thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Do đại bi nguyện lực, vì muốn phát khởi hết thảy các Bồ Tát, an lạc thành thục các chúng sanh, nên thị hiện làm Bồ Tát. Đại chúng và các vị Bồ Tát các ông hãy đều nên cung kính Ngài, chớ sanh lòng khinh mạn). Đức Phật lại dạy: <I>"N</I><I>hữ đại từ bi, an lạc chúng sanh, dục thuyết thần chú, Như Lai tùy hỉ"</I> (Ông đại từ bi, an lạc chúng sanh, muốn nói thần chú, Như Lai tùy hỷ).</P>

<P> </P>

<P>      <B><I>1. Ngoài những thứ tối thắng trong ba đời ấy, Ngài còn diễn nói mười lăm loại chân ngôn, hết thảy tùy tâm, nêu cặn kẽ bốn mươi tám ấn pháp.</I></B></P>

<P><B><I>     2. Trên đảnh Tu Di, thân hóa hiện minh phi</I></B><B><I><B>[24]</B></I></B><B><I>. Cõi trời Tịnh Cư, mắt xuất hiện diệu nữ.</I></B></P>

<P><B><I>3. Bao trùm Liên Hoa Bộ, có chú tâm bảy chữ. Khoác lầm tràng hoa, được Phật thỉnh ba lượt.</I></B></P>

<P><B><I>     4. Nhận lời Kim Cang cầu khẩn, từng hiện thân Diệp Y. Trọn khắp pháp giới được xông, hương ấn càng phong phú.</I></B></P>

<P><B><I>     5. Trang nghiêm địa ngục, nói nhân duyên nhiều kiếp. Đảnh sen bí mật, giống Như Ý thần châu.</I></B></P>

<P><B><I>     6. Đảnh hiện La Sát, hiệu Nhất Kế Tôn. Đầu hiện Mã Vương, ấn tôn Thiên Chuyển.</I></B></P>

<P><B><I>     7. Câu tâm chú sáu chữ, Như Lai còn phải tìm cầu. Đà La Ni ngàn tay, người dịch từng mong thánh chứng.</I></B></P>

<P><B><I>8. Thanh tịnh phụng thỉnh, trời lạy Bạch Y. Viên mãn từ bi, tướng tôn Thanh Cảnh.</I></B></P>

<P><B><I>9. Nói danh hiệu Như Lai, phá ác, sanh thiên. Tu quán hạnh Bồ Tát, đem thân làm Phật.</I></B></P>

<P><B><I>10. Vô biên thần chú như vậy, diệu dung thật nhiều.</I></B></P>

<P>     <B><I>11. Không gì chẳng nhằm đặt các con ngồi yên trên xe, chỉ đường phẳng phiu dẫn đến đạo tràng.</I></B></P>

<P><B><I>     12. Làm Phật sự lớn lao, phù hợp lời Bảo Tạng dự ghi. Viên mãn quả Bồ Đề, đáng hưởng Phật Thích Ca huyền ký</I></B> <I>(đoạn này ca tụng những bộ chú kinh khác)</I><I></I></P>

<P><I> </I></P>

<P>     (1) Trong Kim Cang Khủng Bố Tập Hội Phương Quảng Nghi Quỹ Quán Tự Tại Bồ Tát Tam Thế Tối Thắng Tâm Minh Vương Kinh, Đại Sĩ nói tâm chân ngôn và những bài chân ngôn đầu, đảnh, nhãn[25] v.v..., tổng cộng là mười lăm chân ngôn. Trong Quán Tự Tại Bồ Tát Đát Phạ Đa Lị Tùy Tâm Đà La Ni Kinh, Đại Sĩ nói thần chú và bốn mươi tám ấn pháp.</P>

<P>      (2) Theo Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng Tam Muội Đại Giáo Vương Kinh, đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai lên đảnh núi Tu Di, nhập các tam-muội, xuất sanh mười sáu Kim Cang đại Bồ Tát[26]và bốn vị Như Lai là A Súc, Bảo Sanh, Quán Tự Tại Vương, Bất Không Thành Tựu. Mỗi vị Như Lai ấy cũng hiện ra các hình tượng Kim Cang. Đức Tỳ Lô Giá Na lại nhập bốn môn tam-muội, xuất sanh bốn vị đại minh phi. Bốn vị Như Lai cũng xuất sanh bốn vị đại minh phi[27].</P>

<P>Theo Đại Phương Quảng Mạn Thù Thất Lợi Kinh và Quán Tự Tại Bồ Tát Nghi Quỹ Kinh, đức Thế Tôn xem khắp Tịnh Cư thiên cung, tán thán Quán Tự Tại Bồ Tát, thọ ký Ngài sẽ thành Phật. Đại Sĩ trở về chỗ ngồi, nhập Phổ Quang Minh Đa La tam-muội, từ tròng mắt phải phóng ra ánh sáng, hiện thành diệu nữ[28]. [Vị diệu nữ ấy] bảo khắp các chúng sanh:<I>"Thề vượt khổ hải, dạo khắp các thế giới"</I>, trở về chỗ Phật, lễ Quán Tự Tại, cầm hoa sen xanh, đứng chiêm ngưỡng.</P>

<P>     (3) Theo A Lỗ Lực Kinh, Quán Thế Âm Bồ Tát nói [chân ngôn]: <I>"Án, a lỗ lực ca sa phạ ha"</I> (Aum, arolik, svaha). Đây chính là tâm chú của hết thảy [những thần chú] trong Liên Hoa Bộ. Người trì tâm chú này sẽ sanh về Cực Lạc.</P>

<P>Theo Quảng Đại Liên Hoa Trang Nghiêm Mạn Noa La Diệt Nhất Thiết Tội Chú Kinh, do quốc vương Phạm Thọ ngẫu nhiên đến chùa, vị Tăng trong chùa dùng tràng hoa đang khoác trên đảnh tượng Phật để đón vua. Vua đeo vào liền bị nhức đầu, em gái vua khuyên hãy đến gặp Phật. Phật nói sử dụng vật của thường trụ thì quả báo là quyết định đọa địa ngục. Vua lại hỏi phương cách cứu vớt như thế nào, Phật bèn ba lần thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát nói thần chú.</P>

<P>     (4) Theo Diệp Y[29] Quán Tự Tại Kinh, đức Phật ở tại thế giới Cực Lạc, ngài Kim Cang Thủ thỉnh Quán Tự Tại Bồ Tát hãy nói Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát Chú và các phương pháp trì tụng, cầu nguyện.</P>

<P>Trong Tục Tạng của Nhật Bản, có Quán Tự Tại Bồ Tát Đại Bi Trí Ấn Châu Biến Pháp Giới Lợi Ích Chúng Sanh Huân Chân Như Diệu Hương Ấn Pháp (một quyển) do ngài Bất Không dịch vào đời Đường.</P>

<P>     (5) Theo Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh, từ dưới địa ngục hiện ra đại quang minh chiếu khắp nước Xá Vệ, hiện sự đại trang nghiêm. Trừ Cái Chướng Bồ Tát hỏi là nhân duyên gì, Phật bèn vì Ngài nói những chuyện cứu khổ trong nhiều kiếp của Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát.</P>

<P>Trong Như Ý Luân Đà La Ni Kinh, Quán Tự Tại Bồ Tát bạch Phật:<I>"Con có Đại Liên Hoa Phong Kim Cang Bí Mật Như Ý Luân Chú, như châu Ma Ni, khiến cho chúng sanh được mãn sở nguyện".</I></P>

<P>     (6) Theo Nhất Kế Tôn Đà La Ni Kinh, Quán Tự Tại Bồ Tát từ trên đảnh hóa ra một La Sát vương[30], nói chú hàng phục các quỷ thần ác.</P>

<P>Trong Đà La Ni Tập Kinh có pháp ấn chú của Mã Đầu Quán Âm[31]và tâm ấn chú của Thiên Chuyển Quán Âm[32].</P>

<P>     (7) Theo [Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh], hết thảy Như Lai chẳng biết tìm đại minh chú sáu chữ của đức Quán Âm ở đâu, bèn trải qua bao kiếp tìm cầu bài chú sáu chữ ấy. Đấy chính là câu chú <I>"Án, ma-ni bát-di hồng" </I>(Aum, mani padme hum).</P>

<P>Theo Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Thần Chú Kinh thì [bài chú nói trong kinh ấy] có thể diệt tội, trị bệnh, thỏa mãn những điều mong cầu, khác với Đại Bi Tâm Chú. Ngài Trí Thông đời Đường dịch xong kinh ấy, khẩn cầu Bồ Tát ứng hiện, liền cảm được Bồ Tát chứng minh.</P>

<P>     (8) Trong Thanh Tịnh Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Hiền Đà La Ni Kinh, Đại Sĩ nói chú Phụng Thỉnh, chú Kết Giới, chú Căn Bản. Có thiên nữ mặc áo trắng, quỳ hướng về Bồ Tát.</P>

<P>Trong Tục Tạng của Nhật Bản có Đại Từ Bi Viên Mãn Vô Ngại Thanh Cảnh Đại Bi Tâm Chú Ấn, một quyển, do ngài Bất Không dịch vào đời Đường.</P>

<P>     (9) Theo Nhất Thiết Như Lai Danh Hiệu Chú Kinh, lúc Phật mới thành đạo, ngài Quán Tự Tại nói chú này, người thọ trì chẳng đọa ác đạo, sanh lên trời, thành Phật.</P>

<P>Theo Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm Chân Ngôn Du Già Quán Hạnh Nghi Quỹ; trước hết, hãy quán thân của Bổn Tôn là Quán Tự Tại cho được thành tựu, tu các chú, ấn. Kế đó, quán tưởng cách sắp xếp các chủng tự trong thần chú [trên thân hành giả] (Bố Tự Pháp) khiến cho thân mình và thân của Bổn Tôn như hình hiện bóng trong gương, chẳng một, chẳng khác.</P>

<P>     (10) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Ngã năng hiện chúng đa diệu dung, năng thuyết vô biên thần chú"</I> (Ta có thể hiện rất nhiều thân tướng nhiệm mầu, nói vô biên thần chú).</P>

<P>     (11) Lời tựa ở phía sau bộ Bất Không Quyến Sách Chú Kinh có đoạn:<I>"Đây chính là lời chí lý về Chủng Trí trong ba đời, là chỗ tiến nhập cùng cực hòng chứng Chân trong Thập Địa, chuyển các con lên ngồi yên trên xe, chỉ đường phẳng phiu dẫn đến đạo tràng".</I></P>

<P>     (12) Trong kinh Bi Hoa, Bảo Tạng Phật thọ ký [cho Quán Thế Âm Bồ Tát]: <I>"Nhữ vi Bồ Tát thời, dĩ năng đại tác Phật sự" </I>(Trong lúc làm Bồ Tát, ông đã có thể thực hiện Phật sự lớn lao).</P>

<P>Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Viên mãn Bồ Đề, quy vô sở đắc"</I> (Viên mãn Bồ Đề, trở về chỗ không có gì để đạt được).</P>

<P>    </P>

<P>     <B><I>1. Do vậy, trong vườn tiên nhân thành Ba La Nại, Hoa Đức Tạng Bồ Tát thưa rằng:</I></B></P>

<P><B><I>     2. Muốn phổ độ chúng sanh, hãy nên đắc Như Huyễn tam-muội.</I></B></P>

<P><B><I>     3. Sao buổi sớm lưa thưa, cảm khái Đông Độ khó bề gặp gỡ, khảy ngón tay vượt thoát, ngưỡng mộ sự vô lượng cõi </I></B><B><I>Tây</I></B><B><I> Phương.</I></B></P>

<P><B><I>     4. Cầu Thế Tôn phóng bạch hào quang, tiến thẳng về An Lạc. Đại Sĩ hiện thân tướng tử kim, sang trụ cõi Diêm Phù</I></B> <I>(Từ đây trở đi ca tụng kinh Thọ Ký, gồm ba đoạn)</I></P>

<P><I> </I></P>

<P>      (1 & 2) Theo Quán Thế Âm Thọ Ký Kinh[33], Phật ở tại Vườn Nai (Lộc Uyển) của tiên nhân trong thành Ba La Nại, Hoa Đức Tạng Bồ Tát bạch Phật: - Làm thế nào để được bất thoái nơi Bồ Đề và năm thứ thần thông, đắc Như Huyễn tam-muội, có thể hóa hiện thân hình tùy theo từng loại chúng sanh hòng thành thục thiện căn cho họ, vì họ thuyết pháp khiến họ đắc Bồ Đề?</P>

<P>     (3) Kinh chép: <I>"Ư</I><I> thử chúng trung, hữu đắc thị tam muội giả hồ? Phật ngôn: - Di Lặc, Văn Thù đẳng, lục thập Chánh Sĩ. Tha phương hữu Bồ Tát thành tựu như thị tam-muội giả hồ? Phật ngôn: - Tây Phương An Lạc thế giới, Quán Thế Âm, Đắc Đại Thế đắc thị tam-muội. Phục thứ, nhược Bồ Tát tùng bỉ Chánh Sĩ, thất nhật thất dạ, thính thọ thị pháp, tiện đắc Như Huyễn tam-muội. Đức Tạng ngôn: - Bỉ quốc ưng hữu vô lượng Bồ Tát đắc thị tam-muội. Phật ngôn: - Như thị, như thị, hữu vô lượng A-tăng-kỳ Bồ Tát đắc thị tam-muội"</I>(Trong đại chúng đây, có vị nào đắc tam-muội ấy hay không? Phật nói: "Di Lặc, Văn Thù, sáu mươi vị Chánh Sĩ". Phương khác có Bồ Tát thành tựu tam-muội như thế hay chăng? Phật nói: "Tây Phương An Lạc thế giới có Quán Thế Âm, Đắc Đại Thế đắc tam-muội ấy. Lại nữa, nếu có Bồ Tát trong bảy ngày bảy đêm nghe nhận pháp này từ vị Chánh Sĩ ấy thì sẽ đắc Như Huyễn tam-muội". Đức Tạng nói: "Trong cõi ấy phải có vô lượng Bồ Tát đắc tam-muội này". Phật nói: "Đúng như vậy, đúng như thế, có vô lượng A-tăng-kỳ Bồ Tát đắc tam-muội này").</P>

<P>     (4) Kinh chép: <I>"Hoa Đức Tạng bạch Phật ngôn: - Nguyện linh bỉ Chánh Sĩ, chí thử thế giới. Thế Tôn tức phóng mi gian Bạch Hào tướng quang, chí An Lạc thế giới"</I> (Hoa Đức Tạng bạch Phật rằng: - Xin hãy làm cho vị Chánh Sĩ ấy đến thế giới này. Thế Tôn liền phóng quang minh từ tướng Bạch Hào giữa chặng mày chiếu đến thế giới An Lạc). Quán Kinh: <I>"Quán Thế Âm Bồ Tát thân tử kim sắc"</I> (Quán Thế Âm Bồ Tát thân màu vàng tía).</P>

<P>    </P>

<P>     <B><I>1. Đại Sĩ liền cung kính bạch A Di Đà Phật, dẫn ngài Thế Chí đi theo.</I></B></P>

<P><B><I>     2. Suất lãnh bốn mươi ức quyến thuộc quy y, hóa hiện đài báu lớn mười hai do-tuần.</I></B></P>

<P><B><I>     3. Bảy tầng trân bảo, trọn đủ trang nghiêm, hoa sen bốn màu, đua chen tỏa sáng.</I></B></P>

<P><B><I>     4. Tám vạn bốn ngàn ngọc nữ, chia nhau cầm quả, nâng hoa. Như Lai ba mươi hai tướng, dâng bình, hiến hương cúng dường.</I></B></P>

<P><B><I>5. Ao báu, cây báu, gió Cực Lạc nghiễm nhiên. Diệu nhạc, diệu âm, trời Dạ Ma diễn tấu đâu bằng!</I></B></P>

<P><B><I>     6. Chẳng đi mà đến, phô vẻ diệu dung thù đặc. Vô vi mà thành, hiện trang nghiêm nơi đời trược.</I></B></P>

<P><B><I>     7. Nhất niệm, nhất thời, chiếu khắp Phật hội, vô pháp, vô đắc, thọ ký Bồ Đề.</I></B></P>

<P> </P>

<P>     (1 & 2) Quán Thế Âm Thọ Ký Kinh: <I>"Nhĩ thời, Quán Thế Âm cập Đắc Đại Thế, bạch bỉ Phật ngôn: 'Ngã đẳng dục nghệ Sa Bà thế giới, lễ bái, cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật'. Phục cáo tứ thập ức Bồ Tát quyến thuộc cộng vãng thính pháp. Dĩ thần thông lực</I>, <I>các vị quyến thuộc, hóa tác tứ thập ức trang nghiêm bảo đài, tung quảng thập nhị do-tuần"</I> (Khi ấy, Quán Thế Âm và Đắc Đại Thế Bồ Tát bạch với đức Phật cõi ấy rằng: "Chúng con muốn sang thế giới Sa Bà lễ bái, cúng dường Thích Ca Mâu Ni". Lại bảo bốn mươi ức Bồ Tát quyến thuộc hãy cùng đi nghe pháp. Ngài dùng sức thần thông, vì mỗi một quyến thuộc, hóa ra bốn mươi ức đài báu trang nghiêm, mỗi đài có kích thước là mười hai do-tuần).</P>

<P>     (3) Các đài báu ấy do vàng, bạc, lưu ly, xích châu, xa cừ, mã não hợp thành. Lại dùng xích châu, chiên đàn, các thứ hoa sen xanh, đỏ, vàng, trắng để trang nghiêm. Vãng Sanh Luận: <I>"Gió nhẹ lay hoa lá, ánh sáng chen lẫn chuyển biến".</I></P>

<P>     (4) Trên đài lại hóa ra tám vạn bốn ngàn ngọc nữ, hoặc cầm hoa sen bốn màu đứng nghiễm nhiên, hoặc cầm hết thảy hoa quả đứng nghiễm nhiên. Trên đài có tòa sư tử trang nghiêm bằng các báu, trên mỗi tòa đều có hóa Phật [trọn đủ] ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo để tự trang nghiêm thân. Mỗi đài lại có tám vạn bốn ngàn bình bằng các thứ báu nhiệm mầu, đựng đầy hương bột bày ở trên đó.</P>

<P>     (5) Trên mỗi đài đều có tám vạn bốn ngàn các cây báu đẹp đẽ, giữa các cây báu là ao bảy báu, nước tám công đức đầy ắp trong đó. Các hoa sen bằng nhiều chất báu, màu sắc, ánh sáng chiếu rực. Gió nhẹ lay động các hàng cây báu, phát ra âm thanh vi diệu. Âm thanh ấy hòa nhã, vượt xa nhạc trời.</P>

<P>     (6) Kinh chép: <I>"Nhĩ thời, Quán Thế Âm, Đắc Đại Thế, dữ kỳ quyến thuộc bát thập ức chúng Bồ Tát, như lực sĩ khuất thân tý khoảnh, tùng bỉ quốc một, chí thử thế giới. Dĩ thần thông lực, linh thử thế giới địa bình như thủy. Dữ bát thập ức Bồ Tát tiền hậu vi nhiễu, dĩ đại công đức trang nghiêm thành tựu, đoan nghiêm thù đặc, vô khả vi dụ"</I> (Khi ấy, Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát cùng với quyến thuộc là tám mươi ức[34] các vị Bồ Tát, như trong khoảng lực sĩ co duỗi cánh tay, biến mất nơi nước kia, đến thế giới này. Do sức thần thông khiến cho thế giới này mặt đất bằng phẳng như nước. [Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát] cùng với tám mươi ức Bồ Tát vây quanh trước sau, dùng đại công đức trang nghiêm thành tựu, đoan nghiêm thù thắng đặc biệt không thể tỷ dụ được).</P>

<P>Phần Hệ Từ Truyện trong sách Châu Dịch lại viết: <I>"Vô tật nhi tốc, bất hành nhi chí" </I>(Chẳng nhanh mà lẹ, chẳng đi mà đến). Sách Trung Dung có câu: <I>"Bất kiến nhi chương, vô động nhi biến, vô vi nhi thành"</I>(Chẳng thấy mà hiện bày, chẳng động mà biến, không làm mà thành)<I>.</I></P>

<P>(7) Vãng Sanh Luận: <I>"Ánh sáng vô cấu trang nghiêm, trong một niệm và một thời chiếu khắp các hội Phật, lợi ích các chúng sanh".</I></P>

<P>Kim Cang Kinh: <I>"Dĩ thật vô hữu pháp, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thị cố, Nhiên Đăng Phật dữ ngã thọ ký, tác thị ngôn: - Nhữ ư lai thế, đương đắc tác Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni"</I> (Do thật sự không có pháp để đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho nên Nhiên Đăng Phật thọ ký cho ta, nói như thế này: - Trong đời mai sau, ông sẽ thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni)</P>

<P> </P>

<P>     <B><I>1. Lúc đó, Thế Tôn truy từ nhân quá khứ, nhằm chỉ dạy quả vị lai.</I></B></P>

<P><B><I>     2. Trong cõi Chúng Bảo Phổ Tập Trang Nghiêm, có danh hiệu tôn quý là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương.</I></B></P>

<P><B><I>     3. Cõi An Lạc Đức Tụ khó thể sánh bằng. Hàng Duyên Giác, Thanh Văn thảy đều lui gót.</I></B></P>

<P><B><I>     4. Cõi chủng tánh Đại Thừa, vĩnh viễn dứt gièm báng. Thọ mạng thuận lòng muốn, há còn luận thời kiếp? Ấy là Đại Sĩ trong khi tu hạnh Bồ Tát, thệ nguyện cực sâu, nên lúc thành Như Lai, sự trang nghiêm hết sức tuyệt diệu.</I></B></P>

<P> </P>

<P>     (1 & 2) Về nhân duyên trong thuở xưa, xin xem trong phần trước. Quả vị lai là theo như Quán Thế Âm Thọ Ký Kinh: Trong kiếp lâu xa chẳng thể tính toán trong tương lai, khi Chánh Pháp của A Di Đà Như Lai diệt, Quán Thế Âm Bồ Tát thành Đẳng Chánh Giác, hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai, cõi nước tên là Chúng Bảo Phổ Tập Trang Nghiêm. Sự trang nghiêm trong cõi nước ấy, dẫu chư Phật giảng nói trong hằng sa kiếp vẫn chẳng thể hết được!</P>

<P>     (3) An Lạc Đức Tụ chính là cõi nước của Kim Quang Sư Tử Du Hý Phật. Kinh chép: <I>"Kim Quang Sư Tử quốc độ trang nghiêm, phương ư Công Đức Sơn Vương quốc độ, toán số sở bất năng cập" </I>(Đem so sự trang nghiêm trong cõi nước của Kim Quang Sư Tử Phật với cõi Công Đức Sơn Vương Phật thì dùng toán số cũng không thể sánh bằng được). Kinh còn nói: <I>"Kỳ Phật quốc độ, vô hữu Thanh Văn, Duyên Giác chi danh; thuần chư Bồ Tát sung mãn kỳ quốc"</I> (Cõi nước Phật ấy không có danh từ Thanh Văn, Duyên Giác, thuần là các Bồ Tát đầy ắp trong nước ấy). Trong Pháp Hoa Kinh có đoạn văn nói năm ngàn vị [Thanh Văn, Duyên Giác] rời chỗ rút lui [khi đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu của ngài Xá Lợi Phật giảng về đạo Nhất Thừa].</P>

<P>     (4) Vãng Sanh Luận: <I>"Cõi căn tánh Đại Thừa bình đẳng, không có danh từ đáng bị chê gièm như nữ nhân và thiếu căn, chủng tánh Nhị Thừa chẳng thể sanh về cõi ấy".</I> Quán Thế Âm Thọ Ký Kinh: <I>"Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai, tùy kỳ thọ mạng"</I> (Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai, thọ mạng tùy theo ý muốn).</P>

<P>    </P>

<P>     <B><I>Hơn nữa, Như Lai tại thế, nhờ vào Phật lực gia trì. Đức Phật nhập Niết Bàn, cảm thương quần sanh, truyền trao chỗ quy ngưỡng, tựa nương. Lại mở môn quán tưởng, khéo nói pháp tư duy</I></B> <I>(Từ đây trở đi là ca tụng phần kinh văn giảng về phép quán hoa tòa và quán tưởng thân tướng Đại Sĩ trong Quán Kinh, tổng cộng bốn đoạn).</I></P>

<P> </P>

<P>     Trong Quán Kinh, bà Vy Đề Hy bạch Phật: <I>"Như ngã kim giả, dĩ Phật lực cố, kiến bỉ quốc độ. Nhược Phật diệt hậu, chư chúng sanh đẳng, trược ác bất thiện, ngũ khổ sở bức, vân hà đắc kiến A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới</I>" (Như con hiện nay do nhờ Phật lực, được thấy cõi nước kia. Nếu sau khi Phật diệt độ, các hàng chúng sanh trược ác chẳng lành, bị năm nỗi khổ bức bách, phải làm sao để thấy thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật?). Lại nói: <I>"Duy nguyện Thế Tôn, giáo ngã tư duy"</I> (Kính xin đức Thế Tôn hãy dạy con cách tư duy).</P>

<P> </P>

<P>     <B><I>1. Rộng bày y báo, chánh báo, đã thấy Di Đà, quán trọn sắc thân, lại nghĩ tới Bồ Tát.</I></B></P>

<P><B><I>     2. Đứng bên trái Như Lai, tưởng đặt tòa Bồ Tát.</I></B></P>

<P><B><I>     3. Sen hiện tám vạn bốn ngàn cánh, ánh sáng báu tỏa ngời, rộng hai trăm năm mươi do-tuần, những đường gân trên cánh hoa hệt như nét vẽ cõi trời.</I></B></P>

<P><B><I>     4. Trăm ức châu vương, phóng quang như lọng. Tám vạn kim bảo, trang hoàng làm đài.</I></B></P>

<P><B><I>     5. Trên đảnh Tu Di, bảo tràng cao lớn khó bề chiêm ngưỡng . Cung trời Dạ Ma, sánh với màn che [trên tràng] đành kém trang nghiêm.</I></B></P>

<P><B><I>     6. Bảo châu lóa mắt, có vô lượng quang minh. Mây rợp sắc vàng, làm Phật sự mười phương.</I></B></P>

<P>    </P>

<P>     (1) Trong Quán Kinh, phép quán thứ bảy là Hoa Tòa Tưởng, phép quán thứ tám là Tượng Tưởng, phép quán thứ chín là Biến Quán Nhất Thiết Sắc Thân Tướng (quán trọn khắp hết thảy tướng nơi sắc thân), phép quán thứ mười là quán tướng sắc thân chân thật của Quán Thế Âm Bồ Tát.</P>

<P>     (2) Kinh chép: <I>"Phục đương cánh tác nhất đại liên hoa, tại Phật tả biên, như tiền liên hoa, đẳng vô hữu dị. Tưởng nhất Quán Thế Âm Bồ Tát tượng, tọa tả hoa tòa, diệc tác kim sắc, như tiền vô dị"</I> (Lại nên tưởng một hoa sen lớn ở bên trái đức Phật, giống hệt như hoa sen được nói trong phần trước (tức là phần nói về tòa sen của A Di Đà Phật), trọn chẳng khác gì. Tưởng một tượng Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi trên tòa sen bên trái, cũng là sắc vàng giống như trong phần trước chẳng khác).</P>

<P>     (3 & 4) Kinh chép: <I>"Ư thất bảo trì thượng, tác liên hoa tưởng, linh kỳ liên hoa, nhất nhất diệp thượng, tác bách bảo sắc, hữu bát vạn tứ thiên mạch, do như thiên họa. Hoa diệp tiểu giả, tung quảng nhị bách ngũ thập do-tuần. Như thị liên hoa, hữu bát vạn tứ thiên diệp. Nhất nhất diệp gian, hữu bách ức Ma Ni châu vương, dĩ vi ánh sức. Nhất nhất châu, phóng thiên quang minh. Kỳ quang như cái, thất bảo hợp thành, biến phú địa thượng. Thích Ca Tỳ Lăng Già bảo, dĩ vi kỳ đài. Đài hữu bát vạn Kim Cang Chân Thúc Ca bảo, diệu chân châu võng, dĩ vi hiệu sức"</I> (Trên ao bảy báu, tưởng có hoa sen. Tưởng trên mỗi cánh của đóa sen ấy đều có màu sắc của trăm thứ báu, có tám vạn bốn ngàn đường gân giống như nét vẽ cõi trời. Hoa sen như vậy có tám vạn bốn ngàn cánh. Trong mỗi một cánh có trăm ức Ma Ni châu vương trang hoàng chói ngời. Mỗi một viên châu tỏa ngàn quang minh. Quang minh ấy như cái lọng do bảy báu hợp thành, che khắp trên mặt đất. Chất báu Thích Ca Tỳ Lăng Già dùng làm đài hoa. Trên đài có tám vạn báu Kim Cang Chân Thúc Ca, lưới kết bằng chân châu đẹp đẽ để trang hoàng). Thích Ca Tỳ Lăng Già (Sakrā-bhilagna-mani-ratna), cõi này dịch là Năng Thắng. Chân Thúc Ca (Kimśuka) cõi này dịch là Xích Sắc.</P>

<P>     (5 & 6) Trên đài có bốn trụ tràng báu, như trăm ngàn vạn ức núi Tu Di. Trên tràng treo màn báu như cung trời Dạ Ma. Năm trăm ức bảo châu vi diệu trang hoàng chói ngời. Mỗi viên châu có tám vạn bốn ngàn tia sáng, mỗi tia sáng bao gồm tám vạn bốn ngàn thứ sắc vàng ròng khác nhau. Mỗi một sắc vàng chiếu khắp cõi báu, chỗ nào cũng biến hóa thành đài Kim Cang, thành lưới chân châu, thành mây các loại hoa, thực hiện Phật sự trong mười phương.</P>

<P>    </P>

<P>     <B><I>1. Mặt Đại Sĩ như vàng Diêm Phù Đàn, đảnh đầu lộ nhục kế.</I></B></P>

<P><B><I>     2. Thân sắc vàng tía, hiện bóng chúng sanh trong năm đường. Mão trời Ma Ni, hóa Phật cao ngàn dặm đứng trên đó.</I></B></P>

<P><B><I>     3. Trong viên quang, chư thánh giáng lâm, nơi hào tướng bảy báu gồm đủ.</I></B></P>

<P><B><I>     4. Lưu xuất vô lượng Như Lai, trọn khắp mười phương thế giới.</I></B></P>

<P><B><I>     5. Cánh tay như sen thắm, bàn tay dường hoa bình</I></B><B><I><B>[35]</B></I></B><B><I>.</I></B></P>

<P><B><I>     6. Quang minh, anh lạc, hiện khắp trang nghiêm, nét ấn nhu nhuyễn, phóng quang chuyển vần.</I></B></P>

<P>     <B><I>7. Tuy đủ ba mươi hai tướng đại nhân, đảnh đầu vẫn kém Thế Tôn, dạo bước năm trăm ức đài đỡ gót, khác gì đức Phật.</I></B></P>

<P><B><I>     8. Chỉ nghe danh hiệu, được phước há biết bến bờ. Nếu được nhìn kỹ, trừ chướng chẳng còn dư sót.</I></B></P>

<P>    </P>

<P>     (1) Theo Quán Kinh, mặt Bồ Tát như sắc vàng Diêm Phù Đàn, trên đảnh có nhục kế.</P>

<P>     (2) Kinh chép: <I>"Thân tử kim sắc, cử thân quang trung. Ngũ đạo chúng sanh, nhất thiết sắc tướng, giai ư trung hiện. Đảnh thượng Tỳ Lăng Già Ma Ni bảo, dĩ vi thiên quan. Quan trung nhất lập hóa Phật, cao nhị thập ngũ do-tuần"</I> (Thân màu vàng tía, khắp thân phủ trong ánh sáng. Hết thảy sắc tướng của chúng sanh trong năm đường đều hiện trong quang minh ấy. Trên đảnh có mão trời bằng chất báu Tỳ Lăng Già Ma Ni, trong mão có một vị hóa Phật đứng, cao hai mươi lăm do-tuần). Một do-tuần bằng bốn mươi dặm cõi này.</P>

<P>     (3 & 4) Quán Kinh: <I>"Đảnh hữu viên quang, diện các bách thiên do-tuần. Viên quang trung hữu ngũ bách hóa Phật, nhất nhất hóa Phật, hữu ngũ bách hóa Bồ Tát, vô lượng chư thiên, dĩ vi thị giả. Hựu my gian hào tướng, bị thất bảo sắc, lưu xuất bát vạn tứ thiên chủng quang minh. Nhất nhất quang minh, hữu vô lượng vô số hóa Phật. Nhất nhất hóa Phật, hữu vô số hóa Bồ Tát, dĩ vi thị giả, biến hiện tự tại mãn thập phương giới"</I> (Trên đảnh có viên quang, mỗi phía chiếu xa tới trăm ngàn do-tuần. Trong viên quang có năm trăm hóa Phật, mỗi một hóa Phật có năm trăm hóa Bồ Tát và vô lượng chư thiên làm thị giả. Lại nữa, tướng bạch hào giữa hai mày có đủ màu của bảy báu, tỏa ra tám vạn bốn ngàn thứ quang minh. Trong mỗi một quang minh có vô lượng vô số hóa Phật. Mỗi một hóa Phật, có vô số hóa Bồ Tát làm thị giả, biến hiện tự tại trọn khắp các cõi trong mười phương). Trong kinh Lăng Nghiêm, Di Lặc Bồ Tát nói: <I>"Thức tánh lưu xuất vô lượng Như Lai"</I>.</P>

<P>     (5 & 6) Quán Kinh: <I>"Tý như hồng liên hoa sắc, hữu bát thập ức vi diệu quang minh, dĩ vi anh lạc. Kỳ anh lạc trung, phổ hiện nhất thiết chư trang nghiêm sự. Thủ chưởng tác ngũ bách ức tạp liên hoa sắc. Thủ thập chỉ đoan, nhất nhất hữu bách vạn tứ thiên hoạch, do như ấn văn. Nhất nhất hoạch, hữu bát vạn tứ thiên sắc. Nhất nhất sắc, hữu bát vạn tứ thiên quang. Kỳ quang nhu nhuyễn, phổ chiếu nhất thiết"</I> (Cánh tay như màu hoa sen hồng, có tám mươi ức quang minh vi diệu để làm anh lạc. Trong các chuỗi anh lạc, hiện khắp hết thảy các sự trang nghiêm. Lòng bàn tay có màu của năm trăm ức hoa sen nhiều màu. Mười đầu ngón tay, mỗi ngón đều có tám vạn bốn ngàn đường vân giống như nét khắc trên ấn. Mỗi một đường vân có tám vạn bốn ngàn sắc. Mỗi một sắc có tám vạn bốn ngàn ánh sáng. Ánh sáng ấy mềm mại, chiếu khắp hết thảy). Vãng Sanh Luận lại ghi: <I>"Mềm mại xoay tròn chung quanh".</I> Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Như Lai tùng luân chưởng trung, phi nhất bảo quang, tại A </I><I>Nan</I><I> hữu, hựu phóng nhất quang, tại A </I><I>Nan</I><I> tả"</I> (Từ bàn tay có hình bánh xe[36] của Như Lai tỏa ra một tia sáng báu chiếu tới bên phải ANan, lại tỏa ra một tia sáng chiếu về bên trái của A Nan).</P>

<P>     (7) Theo Quán Kinh, các thân tướng khác [của Quán Thế Âm Bồ Tát] đều có trọn đủ các thứ hảo, giống như Phật chẳng khác; chỉ có nhục kế trên đảnh và Vô Kiến Đảnh Tướng là chẳng bằng Thế Tôn. Kinh còn nói khi Ngài giở chân lên, dưới chân có tướng bánh xe ngàn căm, tự nhiên hóa thành năm trăm ức đài quang minh.</P>

<P>     (8) Quán Kinh: <I>"Như thử Bồ Tát, đản văn kỳ danh, hoạch vô lượng phước, hà huống đế quán, tác thị quán giả, tịnh trừ nghiệp chướng, trừ vô số kiếp sanh tử chi tội"</I> (Vị Bồ Tát như vậy, chỉ nghe danh hiệu Ngài sẽ được vô lượng phước, huống là quán sát kỹ. Người quán tưởng Ngài như vậy sẽ trừ sạch nghiệp chướng, trừ tội trong vô số kiếp sanh tử).</P>

<P>    </P>

<P>     <B><I>1. Là vì: Chúng sanh dễ độ, chỉ vọng tưởng khó trừ. Phật pháp vô biên, tại chế tâm một chỗ.</I></B></P>

<P><B><I>2. Nhưng khởi, diệt không ngừng, quả thật do tâm mắt lỗi lầm.</I></B></P>

<P><B><I>     3. Muốn khuất phục Kiến Hoặc, Tư Hoặc, không gì bằng đổ công quán tưởng.</I></B></P>

<P><B><I>     4. Tuy Dụng quy về ý thức, tâm sanh tử vẫn hệt như xưa, huân nhập A Lại Da Thức, có thể chấp trì thành chủng tử.</I></B></P>

<P><B><I>     5. Hệt như ở chung quanh, dường thấy nơi canh, tường.</I></B></P>

<P><B><I>     6. Chẳng phải là chí thành cảm thánh, thì cũng là tâm này làm Phật!</I></B></P>

<P>    </P>

<P>     (1) Lục Tổ Đàn Kinh: <I>"Nhân tánh bổn tịnh, do vọng niệm cố, cái phú Chân Như, đản vô vọng tưởng, tánh tự thanh tịnh"</I> (Tánh của con người vốn tịnh, do vọng niệm che lấp Chân Như. Chỉ cần không có vọng tưởng thì tánh tự thanh tịnh). Trong Tứ Hoằng Thệ có <I>"pháp môn vô lượng thệ nguyện học".</I> Di Giáo Kinh: <I>"Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện"</I> (Chế ngự tâm vào một chỗ thì không chuyện gì chẳng hoàn thành).</P>

<P>     (2) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Sử nhữ lưu chuyển, tâm mục vi cữu"</I> (Khiến cho ông bị lưu chuyển là do lỗi của tâm và mắt).</P>

<P>     (3) Niệm Phật có bốn cách: Trì danh, quán tượng, quán tưởng và Thật Tướng.</P>

<P>     (4) Sách Đại Thừa Chỉ Quán giảng: <I>"Lấy ý thức nương tựa cái tâm này để tu Chỉ Quán, niệm niệm huân tập bổn thức, sức giải tánh được tăng thêm, ý thức càng thêm sáng suốt, nhạy bén. Huân tập cái tâm lâu ngày, cho nên giải tánh viên minh, soi rõ cái Thể của chính mình chỉ là Chân và Tịch, ý thức liền dứt bặt".</I> Bổn thức chính là A Lại Da Chủng Tử Thức.</P>

<P>     (5) Sách Trung Dung có câu: <I>"Như tại kỳ thượng, như tại kỳ tả hữu"</I>(Như là ở trên đó, như là ở hai bên đó). Trong tiểu truyện của ông Lý Cố đời Hậu Hán có nói vua Thuấn khi ăn thì thấy vua Nghiêu hiện trong canh, khi ngồi thì thấy vua Nghiêu hiện nơi tường.</P>

<P>     (6) Quán Kinh: <I>"Thị tâm tác Phật, thị tâm thị Phật"</I> (Tâm này làm Phật, tâm này là Phật). Sách Đại Thừa Chỉ Quán có đoạn viết: <I>"Nhờ vào tưởng để huân tập cái tâm thì chư Phật ở ngay trong tâm đều hiển hiện. Có thể thấy rằng đức Phật được thấy đó chính là vị Phật chân thật xuất thế. Hết thảy chư Phật là do tâm tạo ra".</I></P>

<P> </P>

<P>     <B><I>1. Vàng, bạc, cùng các báu, nào phải châu trong búi tóc; sữa, lạc, hai thứ tô, hương vị vẫn kém Đề Hồ.</I></B></P>

<P><B><I>     2. Cảm khái diệu quán khó thành, chẳng gì bằng lễ kính. Than thở tụng kinh bị chuyển, không chi hơn trì danh.</I></B></P>

<P><B><I>     3. Giơ tay, cúi đầu đều thành Phật đạo. Danh tự rốt ráo, Nhị Tức viên dung. Pháp giản dị nhưng cao rộng, môn phổ cập càng nhiệm mầu</I></B> <I>(Đoạn này ca tụng sự lễ kính, trì danh. Dựa theo sự phán định của ngài Thiên Thai đối với phẩm Phổ Môn thì: "Xưng danh trừ được bảy tai nạn, lễ bái mãn hai nguyện". Trong Vãng Sanh Luận, ngài Thiên Thân đưa lễ kính vào môn thứ nhất, trì danh vào môn thứ ba. Vì thế, trước khi ca tụng kinh Pháp Hoa, đem lời khuyên niệm đặt trước phần ca tụng).</I></P>

<P> </P>

<P>(1) Phẩm An Lạc Hạnh kinh Pháp Hoa có đoạn: <I>"Như Chuyển Luân Vương, kiến binh chúng chiến hữu công giả, tùy công thưởng tứ, dữ chủng chủng trân bảo kim ngân đẳng, duy kế trung minh châu, bất dĩ dữ chi"</I> (Như vua Chuyển Luân thấy các quân lính chiến đấu có công bèn tùy theo công mà ban thưởng, ban cho những thứ như vật quý báu, vàng, bạc v.v... chỉ có viên minh châu trong búi tóc là chẳng ban cho).</P>

<P>Ngài Thiên Thai phán giáo, đem năm vị đối ứng với năm thời: Thứ nhất là kinh Hoa Nghiêm, giống như từ bò sanh ra sữa. Tiếp đó là Tam Tạng Giáo (Tạng Giáo) chuyển phàm thành thánh, giống như chuyển sữa thành lạc. Kế đến là thời Phương Đẳng, bài xích, quở trách Thanh Văn, hạ thấp Tiểu Thừa, ngưỡng mộ Đại Thừa, như chuyển lạc thành sanh tô. Tiếp đó là thời Bát Nhã, vâng lời Phật sắc truyền, lần lượt dạy nhau, tâm dần dần thông thái, như chuyển sanh tô thành thục tô. Kế đó là thời Pháp Hoa, được thọ ký thành Phật, như chuyển thục tô thành Đề Hồ[37].</P>

<P>(2) Ngài Thiện Đạo nói: <I>"Chúng sanh chướng nặng, cảnh tế, tâm thô, quán khó thành tựu"</I>. Đàn Kinh: <I>"Tâm mê, Pháp Hoa chuyển; tâm ngộ, chuyển Pháp Hoa. Tụng kinh lâu chẳng hiểu, bèn đối với nghĩa kinh, trở thành kẻ oán cừu"</I>.</P>

<P>(3) Pháp Hoa Kinh: <I>"Hoặc hữu nhân lễ bái, hoặc phục đản hiệp chưởng, nãi chí cử nhất thủ, hoặc phục tiểu đê đầu. Dĩ thử cúng dường tượng, tiệm kiến vô lượng Phật, tự thành vô thượng đạo"</I> (Hoặc có người lễ bái, hoặc lại chỉ chắp tay, thậm chí giơ một tay, hoặc lại khẽ cúi đầu. Dùng đấy cúng dường tượng, dần thấy vô lượng Phật, tự thành đạo vô thượng). Kinh còn chép: <I>"Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng </I><I>Nam</I><I> Mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo"</I> (Nếu người tâm tán loạn, đi vào trong tháp miếu, niệm Mô Phật một tiếng, đều đã thành Phật đạo).</P>

<P>Ngài Thiên Thai dùng Lục Tức để luận Phật:</P>

<P>1) Lý tức</P>

<P>2) Danh tự tức</P>

<P>3) Quán hạnh tức</P>

<P>4) Tương tự tức</P>

<P>5) Phần chứng tức</P>

<P>6) Cứu cánh tức.</P>

<P>Nhưng Hàng Bố[38] chẳng ngại Viên Dung, Viên Dung chẳng ngại Hàng Bố. [Nhị Tức] được nói ở đây chính là Danh Tự Tức và Phần Chứng Tức, Nhị Tức dung thông, chẳng nói đến Lý Tức, bởi lẽ, Lý Tức chỉ gồm Lý tánh chưa khởi Sự tu.</P>

<P> </P>

<P><B><I>1. Do nhập lưu tướng, Đại Sĩ phát khởi môn Diệu Nhĩ.</I></B></P>

<P><B><I>2. Ngũ Quán viên dung, bốn âm thù thắng.</I></B></P>

<P><B><I>3. Vì vậy, trong kinh Phật Đảnh, A Nan Đà thỉnh cầu phương tiện, nơi hội Pháp Hoa, Vô Tận Ý khải vấn nhân duyên.</I></B></P>

<P><B><I>4. Diệu Đức đã tự tuyên nói, thần lực càng được Phật khen.</I></B></P>

<P><B><I>5. Nếu có thể niệm niệm tín tâm, sẽ khế hợp quán quán diệu giác.</I></B></P>

<P><B><I>6. Dẫu bị xô rớt hầm lửa, lửa biến thành ao nước mát trong. Tuy trôi giạt biển khơi, nước hóa thành trưởng dưỡng.</I></B></P>

<P><B><I>7. Thuyền giạt nước quỷ, thành sắt bỗng hóa ra vò vàng. Thân ngã đầu non, dường Tu Di khẽ rơi hạt cải.</I></B></P>

<P><B><I>8. Đi qua đường hiểm, giặc dấy lòng Từ, phép vua xử tội, đao như cắt nước.</I></B></P>

<P><B><I>9. Trong chốn giam cầm nhốt kín, vạch đất nhọc công. Ếm, rủa, độc dược xảy tới, khạc trời, tự bẩn.</I></B></P>

<P><B><I>10. Gặp gỡ thú dữ, độc xà, lòng thành cảm hóa vật. Tiêu tan sấm rền, chớp giật, sức chuyển được trời.</I></B></P>

<P><B><I>11. Lìa sân, lìa dục, ba độc trọn tiêu. Cầu con trai, mong sanh gái, đôi lòng cầu đều được thỏa nguyền.</I></B></P>

<P><B><I>12. Làm bậc lương y, tự đạt thượng thọ. Diệt trừ phiền não, quyết chứng tam-ma.</I></B></P>

<P><B><I>13. Hễ niệm Ngài đều chẳng uổng công, phước đức chẳng hề luống mất.</I></B></P>

<P><B><I>14. Không gì chẳng một dạ vì chúng sanh, nên Bồ Tát cảm được thập phổ</I></B> <I>(Đoạn này ca tụng phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa và mười bốn thứ Vô Úy được nói trong chương Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, nhưng lấy bài kệ trong [phẩm Phổ Môn của] kinh Pháp Hoa làm chủ, nhằm nói lên những điều ứng nghiệm nhỏ nhặt của người lễ kính, trì danh [Bồ Tát]).</I></P>

<P> </P>

<P>(1) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Nhân nhập lưu tướng, đắc Tam-ma-đề"</I> (Do nhập vào trong tướng lưu xuất [của tánh Nghe] nên đắc Chánh Định). Kinh còn chép: <I>"Do ngã sở đắc viên thông bổn căn, phát diệu nhĩ môn" </I>(Do ta đắc được sự viên thông tận gốc rễ của Căn nên phát sanh môn Nghe mầu nhiệm).</P>

<P>(2) Pháp Hoa Kinh: <I>"Chân quán, thanh tịnh quán, quảng đại trí huệ quán, bi quán, cập từ quán, thường nguyện, thường chiêm ngưỡng"</I>(Chân quán, thanh tịnh quán, trí huệ quán rộng lớn, bi quán và từ quán, thường nguyện, thường chiêm ngưỡng). Kinh còn chép: <I>"Diệu âm, quán thế âm, phạm âm, hải triều âm, thắng bỉ thế gian âm, thị cố thường tu niệm"</I> (Tiếng diệu, tiếng xét đời, phạm âm, tiếng sóng biển, trỗi vượt tiếng thế gian, cho nên hãy thường niệm).</P>

<P>(4) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Ngã hựu hoạch thị viên thông tu chứng vô thượng đạo cố, hựu năng thiện hoạch tứ bất tư nghị vô tác diệu đức"</I>(Ta lại đạt được viên thông này, tu chứng đạo vô thượng, lại có thể khéo đạt được bốn thứ diệu đức vô tác chẳng thể nghĩ bàn). Pháp Hoa Kinh:<I>"Quán Thế Âm Bồ Tát hữu như thị đẳng đại oai thần lực, đa sở nhiêu ích"</I> (Quán Thế Âm Bồ Tát có những sức oai thần to lớn như thế, tạo nhiều lợi ích)</P>

<P>(5) Pháp Hoa Kinh: <I>"Niệm niệm vật sanh nghi"</I> (Niệm niệm đừng sanh lòng nghi). Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Do ngã bất tự quán âm, dĩ quán quán giả" </I>(Do chính tôi không quán âm thanh, mà quán nơi tự tánh của phép quán)[39]. Kinh còn chép<I>: "Thượng hợp thập phương chư Phật bổn diệu giác tâm"</I> (Trên là hợp với tâm diệu giác sẵn có của mười phương chư Phật).</P>

<P>(6) Pháp Hoa Kinh: <I>"Giả sử hưng hại ý, thôi lạc đại hỏa khanh, niệm bỉ Quán Âm lực, hỏa khanh biến thành trì"</I> (Giả sử nẩy lòng hại, xô té hầm lửa lớn, do sức niệm Quán Âm, hầm lửa biến thành ao). Phẩm Thập Hạnh của kinh Hoa Nghiêm có đoạn: <I>"Bồ Tát vị thế gian nhất thiết thiên nhân tác thanh lương trì"</I> (Bồ Tát làm ao trong mát cho hết thảy trời người trong thế gian). Pháp Hoa Kinh: <I>"Hoặc phiêu lưu cự hải, long, ngư, chư quỷ nạn, niệm bỉ Quán Âm lực, ba lãng bất năng một"</I> (Hoặc trôi giạt biển cả, các nạn rồng, cá, quỷ, do sức niệm Quán Âm, sóng mòi chẳng chìm được). [Trong cõi Cực Lạc] nước có tám công đức thì điều thứ tám là trưởng dưỡng các căn, chẳng giống với nước trong cõi này tổn hoại các căn, gây thêm bệnh, chết chìm.</P>

<P>(7) Pháp Hoa Kinh: <I>"Giả sử hắc phong xuy kỳ thuyền phưởng, phiêu đọa La Sát quỷ quốc, kỳ trung nhược hữu nhất nhân xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, thị chư nhân đẳng giai đắc giải thoát La Sát chi nạn"</I>(Giả sử cuồng phong thổi giạt thuyền bè vào nước quỷ La Sát, trong ấy nếu có một người xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát, thì những người ấy đều được thoát khỏi nạn La Sát). Phật Bổn Hạnh Tập Kinh: <I>"Tích hữu ngũ bách thương nhân, nhập hải thái bảo, hốt trị ác phong, xuy thuyền phưởng chí La Sát quốc. </I><I>Chư</I><I> nữ tương bỉ thương nhân, trí thiết thành trung vi thực"</I> (Xưa kia có năm trăm thương nhân vào biển để thâu nhặt của báu, chợt gặp cơn gió dữ, thổi thuyền bè giạt vào nước La Sát. Các La Sát nữ nhốt những thương nhân ấy trong thành bằng sắt để ăn thịt [dần dần]).</P>

<P>Kinh Hiền Ngu Nhân Duyên cũng chép: <I>"Hữu bà-la-môn phụ thọ Bát Quan Trai. Thời vương dạ phần, di nhân tống thực vãng khoáng dã, đạo đa La Sát, vô cảm vãng. Thử phụ tín trì Bát Quan giả, quỷ bất năng hại, toại vãng. La Sát nữ dục thực bất cảm, tặng nhất phủ kim. Phục tiền phùng kỳ muội, kỳ đệ, giai tặng nhất phủ kim"</I> (Có một phụ nữ Bà-la-môn thọ Bát Quan Trai. Khi ấy, vào ban đêm, vua sai người đưa đồ ăn qua chỗ quỷ Khoáng Dã, trên đường có nhiều La Sát, [người ấy] không dám đi. Phụ nữ đó tin quỷ chẳng thể hại được người trì Bát Quan Trai, bèn đi. La Sát nữ muốn ăn thịt bà ta nhưng không dám, bèn tặng cho bà ta một vò vàng. Trước đó, bà ta lại gặp em gái và em trai [của La Sát nữ ấy], mỗi người đều tặng một vò vàng).</P>

<P>Pháp Hoa Kinh: <I>"Hoặc tại Tu Di phong, vị nhân sở thôi đọa, niệm bỉ Quán Âm lực, như nhật hư không trụ. Hoặc bị ác nhân trục, đọa lạc Kim Cang sơn, niệm bỉ Quán Âm lực, bất năng tổn nhất mao"</I> (Hoặc trên chót Tu Di, bị người đẩy té xuống, do sức niệm Quán Âm, như mặt trời trên không. Hoặc bị kẻ ác đuổi, rớt xuống núi Kim Cang, do sức niệm Quán Âm, chẳng tổn hại mảy lông).</P>

<P>Duy Ma Kinh: <I>"Dĩ Tu Di chi cao quảng, nội giới tử trung, vô sở tăng giảm. Tu Di sơn vương, bổn tướng như cố"</I> (Lấy núi Tu Di cao rộng bỏ vào trong hạt cải, chẳng có tăng giảm. Tướng sẵn có của núi Tu Di vẫn y hệt như cũ).</P>

<P>(8) Pháp Hoa Kinh: <I>"Hoặc trị oán tặc nhiễu, các chấp đao gia hại, niệm bỉ Quán Âm lực, hàm tức khởi từ tâm"</I> (Hoặc gặp oán tặc vây, đều cầm đao toan hại, do sức niệm Quán Âm, chúng liền khởi lòng Từ). Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: <I>"Năng linh chúng sanh kinh quá hiểm lộ, tặc bất năng kiếp"</I> (Có thể làm cho chúng sanh đi qua đường hiểm mà giặc chẳng thể cướp bóc).</P>

<P>Pháp Hoa Kinh: <I>"Hoặc tao vương nạn khổ, lâm hình dục thọ chung, niệm bỉ Quán Âm lực, đao tầm đoạn đoạn hại"</I> (Gặp nạn vua gây khổ, sắp bị xử tử hình, do sức niệm Quán Âm, đao liền gãy từng đoạn). Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Sử kỳ binh qua, do như cát thủy, diệc như xuy quang, tánh vô dao động"</I> (Khiến cho vũ khí của chúng giống như cắt nước, cũng giống như thổi ánh sáng, tánh không dao động).</P>

<P>(9) Pháp Hoa Kinh: <I>"Hoặc nhân cấm già tỏa, thủ túc bị nữu giới, niệm bỉ Quán Âm lực, thích nhiên đắc giải thoát"</I> (Hoặc do bị gông cùm, chân tay bị xiềng xích, do sức niệm Quán Âm, tháo gỡ, được giải thoát). Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Năng linh chúng sanh cấm hệ già tỏa, sở bất năng trước"</I> (Có thể làm cho chúng sanh bị giam cầm mà gông xiềng không trói buộc được). Thời cổ, người ta vạch đất làm nhà tù.</P>

<P>Pháp Hoa Kinh:<I> "Chú trớ, chư độc dược, sở dục hại thân giả, niệm bỉ Quán Âm lực, hoàn trước ư bổn nhân"</I> (Nguyền rủa, các thuốc độc, muốn làm hại đến thân, do sức niệm Quán Âm, trở ngược kẻ làm hại). Ngài Liên Trì giải thích: <I>"Như ngậm máu phun lên trời, lại bẩn chính mình"</I>.</P>

<P>Tứ Thập Nhị Chương Kinh: <I>"Ác nhân hại hiền giả, do ngưỡng thiên nhi thóa, thóa bất chí thiên, hoàn tùng kỷ đọa"</I> (Kẻ ác hại người hiền, giống như ngửa mặt nhổ lên trời, nhổ chẳng tới trời lại rơi xuống chính mình).</P>

<P>(10) Pháp Hoa Kinh: <I>"Nhược ác thú vi nhiễu, lợi nha trảo khả bố, niệm bỉ Quán Âm lực, tật tẩu vô biên phương. Ngoan xà cập phúc yết, khí độc yên hỏa nhiên, niệm bỉ Quán Âm lực, tầm thanh tự hồi khứ"</I>(Nếu ác thú vây quanh, nanh vuốt bén đáng sợ, do sức niệm Quán Âm, chúng bỏ chạy mất tích. Rắn độc, bò cạp, rết, phun hơi độc mịt mù, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng lui chạy hết). Lại chép: <I>"Vân lôi cổ, xiết điển, giáng bạc chú đại vũ, niệm bỉ Quán Âm lực, ứng thời đắc tiêu tán"</I> (Trời nổi sấm, nháng chớp, tuôn mưa đá, mưa to, do sức niệm Quán Âm, ngay lập tức tan mất).</P>

<P>Trong Mật Bộ có Tiêu Trừ Nhất Thiết Thiểm Điển Chướng Nạn Kinh, Quán Tự Tại Bồ Tát có nói thần chú [dứt trừ những tai nạn mưa giông, sấm sét].</P>

<P>(11) Pháp Hoa Kinh: <I>"Nhược hữu chúng sanh, đa ư dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện đắc ly dục. Nhược đa sân khuể, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện đắc ly sân. Nhược đa ngu si, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện đắc ly si"</I> (Nếu có chúng sanh lắm dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ được lìa dục. Nếu lắm nóng giận, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ được lìa giận. Nếu lắm ngu si, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ được lìa si).</P>

<P>Lại nói: <I>"Nhược hữu nữ nhân, thiết dục cầu nam, lễ bái cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện sanh phước đức, trí huệ chi nam, thiết dục cầu nữ, tiện sanh đoan chánh hữu tướng chi nữ, túc thực đức bổn, chúng nhân ái kính"</I> (Nếu có nữ nhân muốn sanh con trai, lễ bái, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, liền sanh con trai phước đức, trí huệ. Nếu muốn cầu con gái, liền sanh con gái có tướng đoan chánh, đã gieo cội đức từ kiếp trước, được mọi người yêu mến, kính trọng).</P>

<P>(12) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Cầu tam-muội đắc tam-muội, cầu trường thọ đắc trường thọ"</I>. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có đoạn nói: <I>"Ư chư bệnh khổ vị tác lương y"</I> (Làm lương y cho những kẻ bệnh tật khổ sở).</P>

<P>Pháp Hoa Kinh: <I>"Bi thể giới lôi chấn, từ ý diệu đại vân, chú cam lộ pháp vũ, diệt trừ phiền não diệm"</I> (Thể bi răn như sấm, ý từ diệu dường mây, tuôn mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não). Tam-ma là tam-muội.</P>

<P>(13) Pháp Hoa Kinh: <I>"Văn danh cập kiến thân, tâm niệm bất không quá, năng diệt chư hữu khổ"</I> (Nghe tên và thấy thân, tâm niệm chẳng luống uổng, diệt khổ trong các cõi). Lại chép: <I>"Nhược hữu chúng sanh, cung kính, lễ bái Quán Thế Âm Bồ Tát, phước bất đường quyên"</I> (Nếu có chúng sanh cung kính, lễ bái Quán Thế Âm Bồ Tát, phước chẳng luống uổng). <I>"Đường quyên"</I> còn nói là bỏ phí.</P>

<P>(14) Pháp Hoa Kinh: <I>"Nhữ đẳng ưng đương nhất tâm cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát"</I> (Các ông hãy nên nhất tâm cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát).</P>

<P>Ngài Thiên Thai sớ giải phẩm Phổ Môn nói có mười loại phổ: 1) Từ bi phổ 2) Hoằng thệ phổ 3) Tu hành phổ 4) Ly hoặc phổ 5) Nhập pháp môn phổ 6) Thần thông phổ 7) Phương tiện phổ 8) Thuyết pháp phổ 9) Thành tựu chúng sanh phổ 10) Cúng dường chư Phật phổ.</P>

<P> </P>

<P align=center><B>Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng</B></P>

<P align=center><B>Quyển 1, phần 2 hết</B></P>

<P> </P></P>

<BR clear=all>

<P class=MsoFootnoteText>[1] Nguyên văn <I>"dương diệm"</I> (mirage) là một loại ảo ảnh. Khi trời nắng gắt, những chỗ bị nắng chiếu xuống, nhìn xa trông lấp loáng như nước thì gọi là "dương diệm".</P>

<P>[2] Phạm Chí (Brahmacarin) có nghĩa là "có chí hướng cầu sanh lên cõi trời của Đại Phạm Vương", được sử dụng với hai nghĩa:</P>

<P> 1. Chữ Phạm (Brahma) chỉ hàng Bà La Môn như phần nói về ngoại đạo trong sách Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập đã giảng: <I>"Chủng tánh Bà La Môn tự xưng là từ miệng Phạm Thiên sanh ra, cao quý nhất trong bốn chủng tánh, riêng dùng chữ Phạm để đặt tên cho chủng tánh của mình. Chỉ riêng năm xứ Thiên Trúc có chủng tánh này, các nước khác không có. Chữ Phạm Chí dùng trong các kinh có cùng ý nghĩa với danh từ này".</I></P>

<P>2. Phạm Chí là tiếng gọi chung những hàng ngoại đạo xuất gia ở Ấn Độ. Đại Trí Độ Luận, quyển 56 giảng: <I>"Phạm Chí là hết thảy ngoại đạo xuất gia. Nếu có kẻ nào vâng thờ pháp của bọn họ thì cũng gọi là Phạm Chí".</I></P>

<P class=MsoFootnoteText>[3] Thôi thăng (推升): Đây là từ ngữ được dùng bởi đại sư Thanh Lương trong Hoa Nghiêm Kinh Sớ khi viết khoa phán nhằm phân chia mỗi chương tham học của Thiện Tài đồng tử thành các tiểu đoạn.<I>"Thôi thăng"</I> là sau khi mỗi vị thiện hữu đã dạy cho Thiện Tài hiểu biết cảnh giới của pháp môn do chính mình tu học, bèn nói "ta chỉ biết một pháp môn, không thể biết trọn hết Bồ Tát hạnh. Vị thiện hữu kế tiếp tốt đẹp hơn ta, sẽ dạy cho ngươi biết rõ về Bồ Tát hạnh" (đó gọi là Thôi, tức đề cao) với ngụ ý là thể hiện ý khiêm hư, đề cao cảnh giới của địa vị kế tiếp nhằm thúc đẩy Thiện Tài dũng mãnh tu tập, tiến lên địa vị cao hơn (Thăng) trong năm mươi hai địa vị Bồ Tát.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[4] Tông ở đây là giáo nghĩa chủ yếu, chánh yếu của một bộ kinh.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[5] Xin lưu ý đây cũng là sự thị hiện nhằm dạy pháp, chứ không phải thật sự đức Quán Thế Âm Bồ Tát chưa chứng Thập Địa, vẫn còn thuộc địa vị Tùy Thuận Nhất Thiết Chúng Sanh Hồi Hướng.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[6] Cây to nhất trong các cây xung quanh thì được tôn là "thụ vương" (cây vua, cây chúa).</P>

<P class=MsoFootnoteText>[7] Thệ Đa lâm (Jetavāna), thường được biết dưới danh xưng phổ biến hơn là Kỳ Viên hoặc Kỳ Hoàn tịnh xá. Khu rừng này vốn là hoa viên của thái tử Kỳ Đà (Jetakumāra) do ông Cấp Cô Độc (Anāthapindika) dâng cúng. Trong các kinh Đại Thừa thường gọi khu rừng này là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên (Jetavane Anāthapindikassa ārāma).</P>

<P>[8] Thập Bát Giới là sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) phối hợp với sáu trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) và sáu thức. Mười tám giới biểu thị toàn bộ sự nhận thức của con người đối với hiện tượng và sự vật chung quanh. Do vậy, ta có nhãn giới, nhĩ giới, tỷ giới, cho đến ý giới, sắc giới cho đến pháp giới, nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Dùng trí huệ Bát Nhã để quán chiếu, mười tám giới này chỉ là phân biệt, vọng tưởng, chấp trước tạo ra, bản tánh của chúng là Không, cho nên Tâm Kinh mới bảo <I>"vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới" </I>(không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới).</P>

<P class=MsoFootnoteText>[9] Śāri là một loại chim, thường được dịch là Thu Lộ, cặp mắt rất đẹp và trong vắt. Phong tục Ấn Độ thời ấy hay gọi tên con theo tên mẹ. Mẹ của ngài Xá Lợi Phất tên là Śāri nên Ngài được gọi là Śāriputra (con của bà Xá Lợi, con bà Thu Lộ).</P>

<P class=MsoFootnoteText>[10] Vua Ba Tư Nặc (Prasenajit, dịch nghĩa là Thắng Quân, hay Thắng Quang) là vua nước Kiều Tát La (Kosala), thuộc vương triều Aiksvāka, là một vị cư sĩ hộ pháp nổi tiếng thời ấy. Thoạt đầu, vua không tin Phật, do thấy trưởng giả Cấp Cô Độc (Tu Đạt Đa) không tiếc của trải vàng để mua bằng được rừng Thệ Đa dâng lên Phật làm tinh xá, vua bèn thống lãnh các đại thần đến thăm Phật. Vua đến tinh xá với vẻ hống hách ta là chủ một nước, coi Phật như một tu sĩ khổ hạnh toan đến kiếm chác lợi dưỡng trong xứ Kiều Tát La, huênh hoang nói: "Ta nghe nói có một vị đại giác ngộ tên là Phật Đà, nhưng ta không hiểu! Có nhiều người tu hành khổ hạnh trong núi sâu rừng thẳm mấy chục năm cho đến khi già lụm cụm vẫn chưa giác ngộ, làm sao người trẻ tuổi này lại giác ngộ cho được?" Đức Phật ngồi yên trong thất, trả lời:<I>"Đại Vương! Đa số khinh người trẻ tuổi, nhưng thế gian có bốn sự không thể coi thường. Một là vương tử trẻ tuổi, hai là rồng con mới sanh, ba là đốm lửa nhỏ tí, bốn là tăng lữ trẻ tuổi. Vương tử tuy nhỏ mai sau cũng là vua một nước, rồng con rồi sẽ trưởng thành, phun mưa vẫy gió, đốm lửa nhỏ tí cũng đốt cháy cả cánh đồng, tăng lữ trẻ tuổi chỉ cần vâng giữ đạo nghiệp, sẵn lòng cứu độ chúng sanh, chẳng phân biệt đều có thể chứng vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chớ nên ác khẩu, kẻo mắc tội chướng"</I>. Vua nghe nói, ngỡ ngàng nín lặng, vì từ trước đến nay, chưa ai dám cãi vua. Phật lại từ tốn thuyết pháp khiến cho vua giải ngộ, chí thành quy hướng, thề trọn đời ủng hộ Tam Bảo.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[11] Bốn mươi hai tự mẫu này chính là bốn mươi hai chữ cái trong một loại tiếng Phạn cổ, gọi là Tất Đàm (Siddham). Ba kinh Bát Nhã, Niết Bàn và Hoa Nghiêm đều giảng về những pháp, những ý nghĩa được biểu thị bởi bốn mươi hai chữ ấy. Phật môn Trung Hoa có riêng một nghi thức xướng tụng bốn mươi hai chữ này, gọi là Hoa Nghiêm Tự Mẫu Xướng Tụng (theo ngu ý, tại Việt Nam thuở trước cũng có nhiều nơi tụng đọc nghi thức này vì nhà xuất bản Sen Vàng có in nghi thức Hoa Nghiêm Tự Mẫu do Hòa Thượng Thiện Hoa phiên âm).</P>

<P>[12] Liên Hoa Bộ là một trong năm bộ của Kim Cang Giới (Phật Bộ, Liên Hoa Bộ, Bảo Bộ, Kim Cang Bộ, Yết Ma Bộ), hoặc một trong ba bộ của Thai Tạng Giới (Phật Bộ, Liên Hoa Bộ, Kim Cang Bộ). Nếu hiểu một cách nông cạn thì trong Thai Tạng Giới, những chú ngữ của Phật thuộc về Phật Bộ, chú ngữ của Bồ Tát thuộc Liên Hoa Bộ, chú ngữ của quỷ thần thuộc về Kim Cang Bộ. Hiểu theo Kim Cang Giới, năm bộ chính là Ngũ Trí của Như Lai từ Đại Viên Kính Trí của Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật lưu xuất. Liên Hoa Bộ tượng trưng cho tâm Bồ Đề thanh tịnh sẵn có của chúng sanh, vừa tiêu biểu cho tâm đại bi của mười phương Như Lai. Dù bị lưu chuyển trong sanh tử, tâm Bồ Đề thanh tịnh sẵn có của chúng sanh vẫn chẳng hoen ố, như hoa sen mọc trong bùn nên gọi là Liên Hoa Bộ. Ở đây, cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh nói Quán Thế Âm Bồ Tát làm bộ chủ Liên Hoa Bộ là dựa theo quan điểm Thai Tạng Giới. Trong Thai Tạng Giới Mạn Đồ La, hai viện Quán Âm và viện Địa Tạng đều thuộc Liên Hoa Bộ, tôn Mã Đầu Quán Âm làm Bộ Chủ, Bạch Y Quán Âm làm Bộ Mẫu. Nếu nói theo Kim Cang Giới thì Liên Hoa Bộ Chủ là A Di Đà Phật, Kim Cang Pháp Ba La Mật Bồ Tát (Kim Cang mật hiệu của Quán Thế Âm Bồ Tát) là Bộ Mẫu.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[13] Na-dữu-đa là cách phiên âm khác của chữ Na-do-tha (Nayuta). Một Na-do-tha là một ngàn ức.</P>

<P>[14] Thập Nhất Diện Quán Âm (Ekādaśa Mukhānām Avalokiteśvara) là một trong sáu hóa thân được tôn sùng nhất của ngài Quán Âm. Với hóa thân này, Ngài đặc biệt cứu vớt chúng sanh trong loài A Tu La, ban bố lợi ích trừ bệnh, diệt tội, tăng phước trong đời hiện tại. Hiện thời, trong Đại Tạng có ba bộ kinh nói về hóa thân này là Thập Nhất Diện Quán Âm Thần Chú Kinh do ngài Da Xá Quật Đa dịch vào năm Bảo Định thứ 4 (564) đời Bắc Châu và quyển thứ tư trong bộ Đà La Ni Tập Kinh do ngài A Địa Cù Đa dịch vào năm Vĩnh Huy thứ 4 (653) đời Đường. Ngài Huyền Trang cũng dịch Thập Nhất Diện Thần Chú Tâm Kinh vào năm Hiển Khánh nguyên niên (656) đời Đường. Thật ra, cả ba bản này đều là bản dịch khác nhau của một hội trong bộ Đại Kim Cang Đạo Tràng Kinh. Ngài Bất Không có dịch một nghi quỹ niệm tụng là Thập Nhất Diện Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm Mật Ngôn Niệm Tụng Nghi Quỹ. Bản kinh này giảng rõ các nghi thức niệm tụng, kết giới, cách vẽ tượng, các phương pháp cúng dường v.v... Theo các sớ giải, với hóa thân này, Đại Sĩ có mười một mặt, mười mặt phía dưới được xếp thành ba tầng tượng trưng cho mười phương và ba đời, đồng thời biểu thị Đại Sĩ đã vượt khỏi Thập Địa, một mặt trên cùng là mặt A Di Đà Phật, biểu thị Đại Sĩ đã thật sự chứng Phật quả. Thân tượng Thập Nhất Diện có nhiều tay, cầm tịnh bình, cành dương liễu, Nhật Tinh Ma Ni, bảo châu, chĩa ba, bảo bát, xâu chuỗi, dây quyến sách, hoa sen, gậy đầu lâu, kết các ấn như Thí Vô Úy, Dữ Nguyện v.v... Đa phần các tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn được thờ hiện thời đã kết hợp giữa tượng ngàn mắt ngàn tay và Thập Nhất Diện này.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[15] Phần cốt tủy của một bài thần chú được gọi là Chú Tâm. Chẳng hạn phần lớn chú Lăng Nghiêm là danh xưng của chư Phật, Bồ Tát, chư thiên, quỷ thần, phần chính thức của bài chú bắt đầu bằng chữ Án (Om, Aum).</P>

<P class=MsoFootnoteText>[16] Kinh này có tên gọi đầy đủ là Thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni Chú Kinh (1 quyển), do cư sĩ Trúc Nan Đề (Pháp Hỷ) dịch vào thời Đông Tấn.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[17] Tỳ Xá Ly (Vaishali, Vesali, Visálá): Còn phiên âm là Duy Da Ly, là vương thành của thị tộc Licchavi (kinh thường gọi là "Ly Xa chủng tánh" hoặc "Ly Xa tộc tử"). Thành này được đặt tên theo vua Vishal của thời cổ Ấn Độ. Đức Phật giảng kinh ở đây khá nhiều lần. Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ hai cũng được tổ chức tại kinh thành này. Am La (Am Ba La, Yêm Ma La) chính là quả xoài.</P>

<P>[18] Dạ-xoa (Yaksha), còn phiên âm là Dược Xoa, dịch nghĩa là Tiệp Tật Quỷ (quỷ nhanh lẹ), Khinh Tiệp (nhẹ nhàng, nhanh chóng), Dũng Kiện (mạnh mẽ) là một loài quỷ trong tám bộ quỷ thần (thiên long bát bộ). Loài quỷ này dưới quyền thống lãnh của Bắc Phương Tỳ Sa Môn thiên vương. Dạ-xoa thân hình đen đúa, mặt mũi hung ác, đầu không có tóc, tay cầm chĩa sắt, gồm ba loại: Địa hành dạ-xoa, hư không dạ-xoa và thiên dạ-xoa. Theo Đại Nhật Kinh Sớ, dưới quyền Tỳ Sa Môn thiên vương (Mật giáo thường được gọi là tài thần Kumbera - Câu Tỳ La), có tám vị Dạ Xoa đại tướng rất nhiệt tâm hộ trì Phật pháp. Tên của họ là Ma Ni Bạt Đà La (Bảo Hiền), Bố Lỗ Bạt Đà La (Mãn Hiền), Bán Chỉ Ca (Tán Chi đại tướng), Sa Đa Kỳ Lý, Hê Ma Phược Đa, Tỳ Sái Ca, A Tra Phạ Ca và Bán Già La.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[19] Kỳ Bà (Jivakajiva), còn phiên âm là Kỳ Vực hoặc Thời Phược Ca, dịch nghĩa là Cố Hoạt hay Năng Hoạt (cứu sống), ông là con của Bình Sa Vương (Tần Bà Sa La) và bà Nại Nữ, là một vị thần y nổi tiếng nhất Ấn Độ thời đức Phật. Trong Quán Kinh, chính Kỳ Bà đã can ngăn A Xà Thế đừng giết mẹ khi bà Vy Đề Hy lén lút đem thức ăn vào ngục để duy trì mạng sống của vua Tần Bà Sa La.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[20] Thế chủ: Các vị chúa tể trong cõi đời, chỉ chư thiên, chư thần quản lãnh, chẳng hạn như Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên Vương, Đại Phạm Thiên Vương, Chủ Dạ Thần, Chủ Hải Thần, Chủ Không Thần, Chủ Phong Thần v.v...</P>

<P>[21] Trong Đại Tạng, có rất nhiều bản kinh nói về Bất Không Quyến Sách Quán Âm như Bất Không Quyến Sách Chú Kinh do ngài Xà Na Quật Đa dịch vào đời Tùy, Bất Không Quyến Sách Tâm Chú Vương Kinh do ngài Bảo Tư Duy dịch vào đời Đường, Bất Không Quyến Sách Thần Biến Chân Ngôn Kinh do ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch cũng vào đời Đường, Bất Không Quyến Sách Thần Chú Tâm Kinh do ngài Huyền Trang dịch vào đời Đường, Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Bất Không Vương Bí Mật Tâm Đà La Ni do ngài Thi Hộ dịch vào đời Tống v.v... Trong các bản đó, bản Bất Không Quyến Sách Thần Biến Chân Ngôn Kinh của ngài Bồ Đề Lưu Chi đầy đủ nhất.</P>

<P class=MsoFootnoteText>Bất Không Quyến Sách Quán Âm (Amogha-pasa Avalokiteśvara), còn gọi là Bất Không Quảng Đại Minh Vương Quán Thế Âm Bồ Tát, hoặc Bất Không Tất Địa Vương Quán Thế Âm Bồ Tát, mật hiệu là Đẳng Dẫn Kim Cang. Bất Không có nghĩa là "không gì chẳng thành tựu". Dây Quyến Sách vốn là sợi dây thừng để quăng bắt thú của thợ săn (gần giống như dây lasso của các chàng chăn bò ở châu Mỹ), hàm ý Bồ Tát dùng lòng từ bi trói lôi chúng sanh lìa bỏ ác nghiệp, dẫn về chánh đạo. Bất Không Quán Âm Bồ Tát thường được tạc tượng đầu đội mão báu có hóa Phật đứng ở giữa mão, một mặt, bốn tay, vẻ mặt tươi cười, hai tay phía trên lần lượt cầm hoa sen và xâu chuỗi, hai tay phía dưới kết ấn Thí Vô Úy, hoặc là một mặt ba mắt, cầm hoa sen, chĩa ba, dây Quyến Sách và kết ấn Thí Vô Úy, vai trái khoác da hươu, ngồi xếp bằng trên tòa sen.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[22] Trong Đại Tạng, cũng có rất nhiều bản kinh về chú Đại Bi như Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Đà La Ni Thần Chú (Trí Thông dịch), Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đà La Ni Thân Kinh (Bồ Đề Lưu Chí dịch), Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Chú Bản (Kim Cang Trí dịch), Kim Cang Đảnh Du Già Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Tu Hành Nghi Quỹ (Bất Không dịch) v.v... Bản đầy đủ và gãy gọn nhất là bản Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh do ngài Già Phạm Đạt Mạ dịch dưới đời Đường nên Hòa Thượng Thiền Tâm dùng bản này để dịch sang tiếng Việt. Thần chú Đại Bi được lưu hành trong Phật môn hiện thời cũng dựa theo cách phiên âm trong bản dịch của ngài Già Phạm Đạt Mạ.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[23] Bốn mươi tay (đúng ra là bốn mươi hai tay) ở đây chính là bốn mươi cánh tay của Bồ Tát được nói trong kinh Đại Bi, mỗi cánh tay cầm một thứ pháp khí, có bài thần chú tương ứng nhằm thỏa một nguyện đặc biệt của hành nhân, chẳng hạn như: <I>"Nếu muốn vãng sanh thập phương Tịnh Độ thì hãy nên cầu nơi tay cầm hoa sen xanh, chú rằng: - Án, phạ nhật ra, đạt ma, nĩnh la bát nạp ma, ốt bệ đa, bột đà vĩ sái dĩnh, sa phạ hạ".</I></P>

<P class=MsoFootnoteText>[24] Minh phi (Vidyā-rājñī): Minh (Vidyā) là một danh xưng khác của Đà La Ni. Do đà-la-ni có công năng diệt trừ tối tăm phiền não nên gọi là Minh (sáng). Do có công năng tăng trưởng hết thảy công đức nên gọi là Phi (Rājñī). Đại Nhật Kinh Sớ, quyển 9, giảng: <I>"Minh là đại huệ quang minh, Phi, tiếng Phạn là La Thệ (</I><I>rājñī), là danh xưng giống cái của chữ Vương (Raja). Phi có nghĩa là tam-muội, tức là Đại Bi Thai Tạng tam-muội vậy".</I> Do Đà La Ni có công năng sanh trưởng hết thảy pháp công đức nên dùng Phi (nữ nhân) để biểu thị. Hơn nữa, trong Mật Giáo, trí huệ được coi là tĩnh, còn phương tiện là động, cho nên dùng nữ để biểu trưng trí huệ, nam biểu trưng phương tiện. Vì thế, mỗi một bài chú thường có minh vương và minh phi xuất hiện để biểu thị lực dụng trí và hạnh của chân tâm bổn giác cùng hành, cũng như biểu thị sự từ bi, nhu thuận cứu khổ của trí huệ.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[25] Trong một bài kinh dạy về thần chú trong Mật Tông, nhất là trong những kinh điển thuộc hệ thống Kim Cang Giới luôn gồm nhiều thần chú nhằm thể hiện lực dụng vô biên của bổn tôn (vị tôn thánh nói ra bài chú ấy), ngoài chánh chú, còn có tâm chú (chú cốt lõi), đảnh chú, nha chú, nhãn chú v.v... cũng như rất nhiều bài chú nhằm giúp cho hành giả thanh tịnh thân tâm, chánh tâm nhập định quán tưởng như chú kết giới, chú giáp trụ, chú sái tịnh v.v...</P>

<P>[26] Mười sáu vị Kim Cang Đại Bồ Tát là 1) Kim Cang Tát Đỏa (Phổ Hiền Bồ Tát, ngài còn có mật hiệu là Kim Cang Thủ) 2) Kim Cang Vương (Diệu Bất Không Vương Bồ Tát, còn có mật hiệu là Kim Cang Câu) 3) Kim Cang Ái (Ma La Bồ Tát, vị này còn có mật hiệu là Kim Cang Cung) 4) Kim Cang Hỷ (Cực Hỷ Vương Bồ Tát) 5) Kim Cang Bảo (Hư Không Tạng Bồ Tát) 6) Kim Cang Quang (Đại Oai Quang Bồ Tát) 7) Kim Cang Tràng (Bảo Tràng Bồ Tát) 8) Kim Cang Tiếu (Thường Hoan Hỷ Căn Bồ Tát) 9) Kim Cang Pháp (Quán Tự Tại Bồ Tát, còn có mật hiệu là Kim Cang Nhãn) 10) Kim Cang Lợi (Diệu Cát Tường, tức Văn Thù Bồ Tát, còn có mật hiệu là Kim Cang Huệ) 11) Kim Cang Nhân (Khởi Bình Đẳng Tâm Chuyển Pháp Luân Bồ Tát, mật hiệu là Kim Cang Trường) 12) Kim Cang Ngữ (Vô Ngôn Bồ Tát) 13) Kim Cang Nghiệp (Nhất Thiết Như Lai Xảo Nghiệp Bồ Tát) 14) Kim Cang Hộ (Cực Nan Địch Tinh Tấn Bồ Tát, còn có mật hiệu là Kim Cang Từ Hữu) 15) Kim Cang Nha (Tồi Chư Ma Bồ Tát, còn có mật hiệu là Kim Cang Bạo Nộ) 16) Kim Cang Quyền (Nhất Thiết Như Lai Quyền Bồ Tát).</P>

<P class=MsoFootnoteText>[27] Tỳ Lô Giá Na Phật xuất sanh bốn vị minh phi: Kim Cang Hỷ Hoan Đại Minh Phi, Kim Cang Man Đại Minh Phi, Kim Cang Diệu Ca Đại Minh Phi, Kim Cang Vũ Đại Minh Phi. A Súc Phật xuất sanh Kim Cang Hương Đại Minh Phi, Bảo Sanh Phật xuất sanh Kim Cang Hoa Đại Minh Phi, Quán Tự Tại Vương Phật xuất sanh Kim Cang Đăng Đại Minh Phi, Bất Không Thành Tựu Phật xuất sanh Kim Cang Đồ Hương Đại Minh Phi.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[28] Vị diệu nữ này chính là Đa La Bồ Tát (Ārya Tārā), thường được dịch nghĩa là Độ Mẫu. Do thân chính của Ngài có màu xanh lá cây nên thường gọi là Lục Độ Mẫu. Từ vị Lục Độ Mẫu này lại xuất sanh ra 21 vị Độ Mẫu nữa. Mật Tông Tây Tạng đặc biệt sùng bái Đa La Bồ Tát, nhất là các vị Bạch Độ Mẫu, Hoàng Độ Mẫu và Xích Độ Mẫu. Mỗi một vị Độ Mẫu tượng trưng cho một khía cạnh đặc biệt trong sự cứu độ của Quán Thế Âm Bồ Tát, chẳng hạn như Bạch Độ Mẫu chuyên ban bố sự trường thọ, chữa trị bệnh tật và bình an.</P>

<P>[29] Theo như kinh chép, Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát (Parna-Savari) có hình dạng như thiên nữ, trên đầu đội mão báu, trên mão có Vô Lượng Thọ Phật ngồi. Thân Bồ Tát có bốn tay, trang nghiêm bằng anh lạc, vòng vàng, xuyến vàng, cánh tay thứ nhất bên phải đặt ngang ngực cầm quả Cát Tường, cánh tay phải thứ hai kết ấn Thí Nguyện, cánh tay trái thứ nhất cầm búa, cánh tay trái thứ hai cầm dây Quyến Sách, ngồi trên hoa sen, ngang hông quấn y kết bằng lá cây (do vậy gọi là Diệp Y).</P>

<P>[30] Vị La Sát Vương này chính là Nhất Kế Tôn La Sát. Sở dĩ gọi là Nhất Kế (Ekajati: một búi tóc) vì tượng Ngài mang thân hình La Sát nữ, thân màu xanh pha sắc đen, hoặc nâu hồng, chỉ có một mắt ở chính giữa trán, miệng có một răng nanh chĩa ra ngoài, vểnh lên trên, tóc kết thành búi nhọn hoắt trên đỉnh đầu, đội mão năm nhánh, mình trần, chỉ có một vú nằm chính giữa ngực, tay phải nâng xác người, tay trái cầm tim của Ma và xác sói, khoác da người, vận quần da hổ, cổ đeo chuỗi tràng hạt làm bằng năm mươi ba đầu người còn tươi, một chân co, một chân duỗi, đứng trên xác người đặt trên tòa hoa sen (những điều này đều nhằm biểu thị pháp; chẳng hạn năm mươi ba đầu người còn tươi tượng trưng cho năm mươi ba Tâm Sở, đầu người còn tươi tượng trưng cho vận dụng tâm sở một cách hoạt bát, uyển chuyển. Sợ quá rườm rà nên không sao chép vào đây).</P>

<P class=MsoFootnoteText>[31] Mã Đầu Quán Âm (Hayagriva ) còn gọi là Mã Đầu Minh Vương, Mã Đầu Kim Cang Minh Vương, hoặc Sư Tử Vô Úy Quán Thế Âm, là một hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát khi nói ra bài chú Ha Gia Yết Lị Bà. Theo Phật Học Đại Từ Điển, trên đầu của Bồ Tát có hình đầu ngựa nhằm biểu thị Chuyển Luân Thánh Vương có bảo mã có thể du hóa khắp nơi tự tại, xuất nhập biển sanh tử vô ngại. Đầu ngựa còn biểu thị sự ăn nuốt vô minh trọng chướng một cách vô ngại. Đại Nhật Kinh Sớ, quyển 5, viết: <I>"Ha Da Yết Lị Bà, dịch là Mã Đầu, thân màu chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, như màu mặt trời vừa mới mọc, dùng hoa sen màu trắng làm anh lạc để trang nghiêm thân. Khắp thân tuôn lửa mạnh hừng hực, chói ngời như tràng hoa, móng tay dài bén, hai nanh chĩa ngược lên trên, tóc trên đầu trông như bờm sư tử, hiện tướng cực phẫn nộ. Đây chính là Phẫn Nộ Trì Minh Vương của Liên Hoa Bộ"</I>. Ngài hiện thân phẫn nộ nhằm hàng phục những kẻ tâm sân nộ, cống cao, ngã mạn, cũng như trấn nhiếp những thiên ma toan phá hoại Phật pháp.</P>

<P>[32] Thiên Chuyển Quán Âm là danh hiệu gọi theo tên bộ kinh Thiên Chuyển Đà La Ni Quán Thế Âm Bồ Tát Chú Kinh do ngài Trí Thông dịch vào đời Đường (ngài Huyền Trang cũng dịch bài chú này trong Chú Ngũ Thủ Kinh, một tên gọi khác của kinh này là Năng Diệt Chúng Tội Thiên Chuyển Đà La Ni Kinh). Theo như kinh văn: <I>"Nghiệp chướng tụ tập trong ngàn kiếp, nhất thời niệm tụng đều tiêu diệt sạch, đạt được thiện căn của một ngàn đức Phật tụ tập, vượt khỏi giới hạn lưu chuyển sanh lão bệnh tử trong ngàn kiếp. Sau khi bỏ thân liền thấy một ngàn vị Chuyển Luân Thánh Vương</I>".</P>

<P class=MsoFootnoteText>[33] Bài kinh này có tên đầy đủ là Quán Thế Âm Bồ Tát Đắc Đại Thế Bồ Tát Thọ Ký Kinh, 1 quyển, do ngài Đàm Vô Kiệt dịch vào thời Lưu Tống.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[34] Nguyên văn chép đoạn này là <I>"tứ thập ức Bồ Tát"</I>, vậy thì tại sao đến đoạn sau lại nói là tám mươi ức. Kiểm trong chánh kinh, chúng tôi thấy vì lời kinh trong lời tụng và chú giải của cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh đã bị trích lược dễ gây hiểu lầm. Theo chánh kinh, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, mỗi vị có bốn mươi ức Bồ Tát làm quyến thuộc. Do vậy, có đến tám mươi ức Bồ Tát theo hai Ngài đến thế giới Sa Bà.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[35] Hoa bình: Cái bình đẹp lộng lẫy, rực rỡ.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[36] Giữa lòng bàn tay và bàn chân của đức Phật có hình bánh xe ngàn căm.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[37] Không rõ thời ấy, những thứ này được dùng theo nghĩa nào, chứ nếu căn cứ theo hiện thời thì Lạc chính là lớp kem sữa, váng sữa, ngưng đọng khi đem thắng (cô đặc) sữa, hoặc sữa chế thành gia-ua (yogurt). Sanh Tô là phần chất béo của sữa kết đông lại, Thục Tô là Sanh Tô đã khử nước, còn Đề Hồ chính là phó-mát (cheese).</P>

<P>[38] Hàng Bố nói đầy đủ là Thứ Đệ Hàng Bố Môn. Hàng là Hàng Liệt (để theo từng dãy), Bố là Bố Trí (xếp đặt). Đây là một thuật ngữ nhằm diễn tả từng giai đoạn địa vị tu tập của Bồ Tát từ lúc sơ phát tâm cho đến khi chứng được Phật Quả. Hàng Bố đối lập với Viên Dung. Theo ngài Thanh Lương, từ địa vị Bồ Tát tiến đến Phật quả gồm hai môn:</P>

<P>1) Sơ Hậu Tương Tức (đầu tiên và sau rốt không sai, không khác): Nghĩa là lúc mới phát tâm thì đã thành Chánh Giác (đây là nói trên mặt Lý, giống như Lý Tức Phật trong tông Thiên Thai). Đó gọi là Viên Dung Môn.</P>

<P>2) Sơ Hậu Thứ Đệ (Đầu tiên và sau rốt theo thứ tự): Tức là năm mươi hai địa vị tu chứng từ Thập Tín, Thập Trụ... cho đến địa vị Đẳng Giác (Thập Tín chưa được kể là Pháp Thân đại sĩ, nên thường nói là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, tức là những địa vị từ Thập Trụ cho đến Đẳng Giác Bồ Tát). Phải theo thứ tự mà lần lượt tấn tu nên gọi là Hàng Bố Môn.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[39] Trong bộ Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, pháp sư Viên Anh đã giảng như sau:<I>"Câu này nói về sự tự tu: Do phép quán của tôi chẳng lấy âm thanh làm đối tượng để quán. Chữ Quán trong câu thứ hai chính là nói về trí Năng Quán. Nghĩa là trí quang chẳng chiếu ra ngoài, nên nói 'chẳng tự quán âm thanh của thế gian'. Do vậy, câu thứ nhất là lìa khỏi trần cảnh, câu dưới là nói về chiếu tánh, trái trần, hiệp giác".</I></P>

<P class=MsoFootnoteText><I></I><EM></EM> </P><EM>

<P align=center><B>Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng</B></P>

<P align=center><B>Quyển 1</B></P>

<P align=center><B>觀世音菩薩本跡感應頌</B><B>,</B></P>

<P align=center><B>卷一</B></P>

<P align=center><B>彭澤菩薩戒弟子許止淨述</B></P>

<P align=center><B>Phần 3</B></P>

<P align=center>Bành Trạch Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn</P>

<P align=center>Ấn Quang Đại Sư giám định</P>

<P align=center>Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa</P>

<P align=center>Giảo chánh: Minh Tiến và Huệ Trang</P>

<P> </P>

<P>      <B><I>1. Phàm phu càng mong ngóng, nối gót bậc tịnh thánh.</I></B></P>

<P><B><I>      2. Phước báo thế gian, lòng Thái Tử vốn chẳng mong cầu. Nhân duyên Tịnh Độ mới chính là đại bi thệ nguyện.</I></B></P>

<P><B><I>3. Cảm khái địa vị phàm phu như đất trên móng tay, thân người dễ mất chẳng biết bao nhiêu? Rùa mù trúng bộng gỗ nổi, chẳng sánh tày Phật pháp khó bề gặp gỡ!</I></B></P>

<P><B><I>4. Dẫu có thiện căn, được nghe chánh pháp.</I></B></P>

<P><B><I>5. Nhưng ánh sáng hư phù đoạt ảnh<B>[1]</B>, được mấy kẻ chân tu? Dẫu cho kiến tánh minh tâm, vẫn chần chừ lắm nỗi!</I></B></P>

<P><B><I>6. Chỉ cậy vào Phật lực gia trì, mới hòng khỏi lâm chung đọa lạc.</I></B></P>

<P><B><I>7. Ví như trẻ thơ khôn lớn, toàn nhờ ân cha mẹ. Lông vũ yếu toan bay cao, khó trông chờ tự lực.</I></B></P>

<P><B><I>8. Huống hồ Thập Địa chẳng lìa niệm Phật, vốn là pháp tối viên trong Giáo. Bảy ngày liền được vãng sanh, gọn tắt nhất trong các pháp gọn tắt</I></B> <I>(Từ đây trở đi ca tụng sự tiếp dẫn trong Quán Kinh, tổng cộng bốn đoạn, trước hết ca tụng pháp môn Tịnh Độ thù thắng)</I></P>

<P> </P>

<P>(2) Xem phần trên, trong lời chú thích cho phần ca tụng kinh Bi Hoa.</P>

<P>(3) Niết Bàn Kinh: <I>"Đắc nhân thân giả, như trảo thượng thổ. Tam ác đạo thân, như đại địa thổ"</I> (Được thân người như đất trên móng tay. Thân trong ác đạo như đất trong đại địa). Kinh còn chép: <I>"Sanh thế vi nhân nan, trị Phật thế diệc nan, do như đại hải trung, manh quy trị phù khổng"</I> (Sanh trong cõi đời làm người là khó, gặp lúc có Phật trong đời cũng khó, giống như con rùa mù trong biển cả gặp được bộng gỗ nổi). Ngài Khuê Phong nói: <I>"Con rùa mù rớt xuống biển, muốn thoát ra nhưng không được. Trong biển có khúc gỗ nổi, trong khúc gỗ có lỗ bộng chứa được thân rùa. Nếu rùa chui vào đó để trôi đến bờ kia sẽ ra khỏi biển. Ta như con rùa mù, Phật pháp như bộng gỗ nổi".</I></P>

<P>(5) Bài Tứ Liệu Giản của ngài Vĩnh Minh có câu: <I>"Hữu Thiền, vô Tịnh Độ, thập nhân, cửu tha lộ" </I>(Có Thiền, không Tịnh Độ, mười người, chín chần chừ). Tổ Ấn Quang giảng: <I>"Người minh tâm kiến tánh ắt phải đoạn sạch Kiến Tư phiền não không còn sót thì mới khỏi Phần Đoạn sanh tử. Kiến Tư còn chưa đoạn sạch mà đã mạng chung thì luân hồi trong lục đạo vẫn khó thoát y như cũ. Trong mười người đại ngộ, hết chín là như vậy. Tha lộ, nghĩa là đường Bồ Đề xa thẳm, mạng sống trong Diêm Phù ngắn ngủi, chần chừ chẳng thể đạt đến được"</I>.</P>

<P>(6) Duy Ma Kinh: <I>"Bồ Tát ư sanh tử úy trung, đương y Như Lai công đức chi lực"</I> (Bồ Tát sợ sanh tử thì hãy nên nương tựa sức công đức của Như Lai).</P>

<P>(7) Thập Nghi Luận: <I>"Trẻ thơ chẳng thể lìa mẹ, lìa mẹ chắc sẽ té hang, giếng, khát sữa mà chết. Chim non chưa mọc đủ lông cánh, hãy nương cây chuyền cành, chẳng thể đi xa. Lông cánh đã đầy đủ thì mới có thể bay lên không trung".</I></P>

<P>(8) Phẩm Thập Địa kinh Hoa Nghiêm có đoạn: <I>"Địa địa giai vân niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng"</I> (Trong địa vị nào cũng đều nói niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng). Tây Phương Hiệp Luận: "<I>Ngài Chân Hiết Liễu dùng ngàn hạt châu trong cái lưới của Thiên Đế để giảng ý nghĩa Tịnh Độ viên dung. Vì thế, kinh Di Đà thuộc viên cực giáo. Nếu bảo chỉ là viên đôi phần thì sự viên mãn ấy có phần đoạn, ý nghĩa viên mãn ấy chẳng thành!"</I> Kinh Di Đà nói từ một ngày đến bảy ngày chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn thì khi người ấy mạng chung, A Di Đà Phật và các thánh chúng hiện ra trước mặt. Khi người ấy mạng chung, tâm không điên đảo, liền được sanh về cõi Cực Lạc. Niệm Phật là đường tắt tu hành, nhưng trong bốn cách niệm Phật, trì danh dễ nhất, là đường tắt nhất trong các đường tắt.</P>

<P> </P>

<P>      <B><I>Trong Hiển Giáo, Đại Sĩ là bậc Bổ Xứ; trong Mật Tông, Ngài chính là Như Lai. Hiện thân trong các cõi nhiều như vi trần, làm bậc hướng dẫn chánh của chốn Liên Bang.</I></B></P>

<P> </P>

<P>      Đại Giáo Vương Kinh của Mật Tông nói bậc chủ Tây Phương được gọi là Quán Tự Tại Vương Như Lai. Pháp Hoa Kinh: <I>"Thập phương chư quốc độ, vô sát bất hiện thân"</I> (Các cõi nước mười phương, không cõi nào chẳng hiện). Lăng Nghiêm Kinh cũng nói: <I>"Thập phương vi trần quốc độ, giai danh ngã vi Thí Vô Úy giả"</I>(Trong các cõi nước nhiều như vi trần trong mười phương, đều gọi ta là bậc Ban Cho Sự Không Sợ Hãi). Theo lời Vô Tận Ý Bồ Tát hỏi Phật trong kinh Pháp Hoa:<I>"Quán Thế Âm Bồ Tát làm như thế nào để đi khắp thế giới Sa Bà này?"</I> Đức Phật liền nói ba mươi hai ứng thân [mà ngài Quán Âm đã hóa hiện] để vào các cõi nước; nhưng Vô Lượng Thọ Kinh nói Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát hiện đang sống trong thế giới ấy (thế giới Cực Lạc) để tạo sự lợi ích to lớn, nhiếp thủ người niệm Phật sanh về cõi Phật kia. Đại Bi Chú Kinh: <I>"Quán Thế Âm Bồ Tát dĩ tác Phật cánh, vị an lạc thành thục chư chúng sanh cố, hiện tác Bồ Tát. Nhữ đẳng đại chúng, chuyên xưng danh hiệu, mạng chung vãng sanh A Di Đà Phật quốc"</I> (Quán Thế Âm Bồ Tát đã thành Phật, nhưng vì an lạc, thành thục các chúng sanh nên hiện làm Bồ Tát. Hàng đại chúng các ông chuyên xưng danh hiệu [Bồ Tát] thì khi mạng chung sẽ sanh về cõi A Di Đà Phật). Đủ biết Đại Sĩ thị hiện mọi thứ, không gì chẳng nhằm tiếp dẫn vãng sanh mà lập ra!</P>

<P> </P>

<P>      <B><I>1. Người học dùng lễ kính làm cận môn, nhờ trì danh để thâm nhập.</I></B></P>

<P><B><I>      2. Bất luận xưng tụng Đại Sĩ hay ức niệm Di Đà.</I></B></P>

<P><B><I>      3. Chỉ cần trong tâm chúng sanh, lúc nào cũng đều phát nguyện vãng sanh sẽ là ở trong thân Đại Sĩ, mỗi niệm đều có Phật thành Chánh Giác.</I></B></P>

<P><B><I>      4. Do vậy, hoặc là cầm đài vàng để khuyên lơn, khích lệ, hoặc là theo hóa Phật đến tiếp nghênh.</I></B></P>

<P><B><I>      5. Hoặc phóng quang nói kinh sâu xa, hoặc dùng Phạm âm an ủi.</I></B></P>

<P><B><I>      6. Rộng mở phương tiện cho phàm thánh cùng ngự Đồng Cư, bất thoái Bồ Đề, thỏa đại nguyện Niết Bàn</I></B> <I>(Đây phần ca tụng chánh yếu sự tiếp dẫn của Đại Sĩ, kinh Lăng Nghiêm có nói "cầu Đại Niết Bàn đắc đại Niết Bàn", đấy là sự ứng nghiệm to lớn vào lúc lâm chung do lễ kính, trì danh).</I></P>

<P> </P>

<P>      (1) Theo Vãng Sanh Luận, có năm môn thành tựu năm thứ công đức. Một là cận môn, hai là đại hội chúng môn, ba là trạch môn, bốn là ốc môn, năm là viên lâm du hý môn[2]. Lấy lễ bái A Di Đà Phật hòng sanh về cõi ấy, được sanh về thế giới Cực Lạc thì gọi là nhập môn thứ nhất (tức Cận Môn, Cận là gần gũi). Lấy tán thán A Di Đà Phật, tùy thuận danh nghĩa, xưng danh hiệu Như Lai, nương theo trí tướng quang minh[3] của Như Lai để tu hành, được dự vào trong số đại chúng thì gọi là nhập môn thứ hai. Dùng nhất tâm chuyên niệm, nguyện sanh về cõi ấy, tu hạnh Xa Ma Tha[4] tịch tĩnh tam-muội, được nhập thế giới Liên Hoa Tạng thì gọi là nhập môn thứ ba.</P>

<P>      (3) Phát nguyện vãng sanh chính là phát Bồ Đề tâm. Bởi lẽ, trong Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, [Phổ Hiền Bồ Tát dạy Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng] phát mười đại nguyện vương, nhưng nói tóm lại chỉ là <I>"nguyện sanh về Tịnh Độ".</I> Phẩm Xuất Hiện của kinh Hoa Nghiêm có câu: <I>"Bồ Tát ưng tri tự tâm, niệm niệm thường hữu Phật thành Chánh Giác"</I> (Bồ Tát hãy nên biết trong tự tâm, trong mỗi niệm luôn có Phật thành Chánh Giác).</P>

<P>      (4) Theo Quán Kinh, bậc Thượng Phẩm Thượng Sanh thì Quán Thế Âm Bồ Tát cầm đài kim cang cùng với Đại Thế Chí Bồ Tát đến trước hành giả. A Di Đà Phật phóng đại quang minh chiếu thân hành giả, cùng với các Bồ Tát đưa tay nghênh tiếp. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí cùng với vô số Bồ Tát tán thán hành giả, khuyên lơn, khích lệ tâm người ấy. Người Thượng Phẩm Trung Sanh thì A Di Đà Phật và Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô lượng đại chúng, cầm đài tử kim, đến trước hành giả và một ngàn hóa Phật, cùng một lúc xòe tay [tiếp dẫn]. Người Thượng Phẩm Hạ Sanh thì A Di Đà Phật và Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, cùng với các Bồ Tát, tay cầm hoa sen vàng, hóa ra năm trăm vị Phật đến đón người ấy.</P>

<P>      (5) Theo Quán Kinh, người Hạ Phẩm Thượng Sanh sẽ sanh trong ao báu, sau bốn mươi chín ngày hoa sen mới nở. Đại Bi Quán Thế Âm phóng đại quang minh, đứng trước người ấy, giảng nói mười hai bộ kinh rất sâu. Nghe xong tin hiểu, phát vô thượng đạo tâm. Người Hạ Phẩm Trung Sanh sẽ sanh trong ao báu, sau sáu kiếp hoa sen mới nở, Quán Thế Âm dùng tiếng Phạm Âm an ủi người ấy, giảng kinh điển Đại Thừa rất sâu. Nghe pháp ấy xong, ngay lập tức phát vô thượng đạo tâm.</P>

<P>      (6) Sách Di Đà Yếu Giải có đoạn: <I>"Có bốn cõi Phật, một là Phàm Thánh Đồng Cư Độ, hai là Phương Tiện Hữu Dư Độ, ba là Thật Báo Vô Chướng Ngại Độ, bốn là Thường Tịch Quang Độ. [Nói đến] thế giới Cực Lạc chính là nói Đồng Cư Tịnh Độ, cõi ấy theo chiều ngang cũng trọn đủ cả ba cõi Tịnh Độ bậc trên"</I>. Kinh Di Đà: <I>"Nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A Di Đà Phật quốc giả. Thị chư nhân đẳng, giai tất bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ư bỉ quốc độ, nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh"</I> (Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về nước A Di Đà Phật thì những người ấy đều được chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đối với cõi ấy, hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh). Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Cầu đại Niết Bàn, đắc đại Niết Bàn".</I></P>

<P><I>     </I></P>

<P>      <B><I>Than ôi! Làm bạn thù thắng của trọn hết chúng sanh thì mới thỏa lòng cha mẹ. Dốc thâm tâm phụng sự khắp trần sát, vẫn cảm thấy khó báo ân Phật</I></B><I>(tổng kết sự thuyết pháp lợi sanh của Đại Sĩ).</I></P>

<P> </P>

<P>      Quán Kinh: <I>"Nhược niệm Phật giả, đương tri thử nhân, tức thị nhân trung Phân Đà Lợi<B>[5]</B> hoa. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí Bồ Tát vi kỳ thắng hữu"</I> (Nếu là người niệm Phật thì nên biết người ấy là hoa sen trắng trong loài người. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí Bồ Tát là bạn thù thắng của người ấy). Bất Không Quyến Sách Kinh: <I>"Thử thần chú tâm, thị đương lai thế Bồ Tát phụ mẫu"</I> (Thần chú tâm này là cha mẹ của những Bồ Tát trong đời tương lai). Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Tương thử thâm tâm phụng trần sát, thị tắc danh vi báo Phật ân"</I> (Đem thâm tâm này phụng sự trong các cõi nước số nhiều như vi trần, đấy gọi là báo ân Phật).</P>

<P>     </P>

<P>      <B><I>Đối với những kinh văn đã nêu, có thể lấy nguyên bản để làm chứng. Lại trần thuật những sự cảm ứng, những sự việc này chẳng phải là không có chứng cứ, ngõ hầu [độc giả] tu hành chẳng lui sụt lòng tin. Vì thế, viết ra lời ca tụng, chẳng ngại rườm lời</I></B> <I>(Đoạn này tổng kết phần trên, dẫn khởi phần dưới).</I><I></I></P>

<P> </P>

<P><B>2.2. Ca tụng sự ứng hóa trong phương này nhằm hiển thị bi sâu nguyện nặng</B></P>

<P> </P>

<P>      Trong phần này chia thành năm đoạn lớn:</P>

<P>      1) Thị hiện.</P>

<P>      2) Cứu khổ.</P>

<P>      3) Ban vui.</P>

<P>      4) Hoằng pháp.</P>

<P>      5) Nhiếp thọ chúng sanh.</P>

<P>      Trong phần thị hiện lại chia thành sáu đoạn:</P>

<P>      1.1. Hiện tướng nơi Phổ Đà.</P>

<P>      1.2. Hiện tướng ở nơi khác.</P>

<P>      1.3. Hiện tướng trong gỗ đá.</P>

<P>      1.4. Hiện tướng trong loài vật.</P>

<P>      1.5. Hiện quang minh.</P>

<P>      1.6. Hiện thần thông biến hóa.</P>

<P> </P>

<P>      <B><I>1. Thân Phật ngập tràn khắp pháp giới, Phạm âm vang vọng tợ hư không.</I></B></P>

<P><B><I>      2. Quả thật đang hiện hữu khắp nơi, mà cũng chẳng khi nào đoạn tuyệt.</I></B></P>

<P><B><I>      3. Vì vậy, hư không ngút mắt, không gì chẳng phải là thánh dung Đại Sĩ, tiếng sóng vỗ đêm ngày, chính là lời tụng Phổ Môn.</I></B></P>

<P><B><I>      4. Há phải đợi thị hiện biến hóa rồi mới bảo thần kỳ; chờ Ngài du hý thần thông rồi mới tăng lòng tin tưởng, ngưỡng mộ hay sao?</I></B></P>

<P><B><I>      5. Chỉ là mặt trời, mặt trăng tuy sáng, kẻ mù vẫn không trông thấy. Mưa ngọt thấm khắp, hạt giống cháy khó thể nẩy mầm.</I></B></P>

<P><B><I>      6. "Chết rồi diệt mất", tin lời ma của ngoại đạo! "Phật tánh chân thường", báng Như Lai là vọng ngữ.</I></B></P>

<P><B>      <I>7. Đau lòng than thở xưa nay, mấy kẻ biết ân đức? Nếu chẳng thị hiện, làm sao lay tỉnh kẻ mê muội, ngu si?</I></B></P>

<P><B>      <I>8. Đặc biệt nêu bày những gì sử sách chép, nhằm phô tỏ vụng về [ý nghĩa] "Pháp Thân thường trụ"</I></B> <I>(Đoạn này ca tụng chung sự thị hiện, phá mối nghi Đoạn Diệt để vững tín căn).</I></P>

<P> </P>

<P>      (1 & 2) Phẩm Như Lai Hiện Tướng của kinh Hoa Nghiêm có đoạn: <I>"Phật thân sung mãn ư pháp giới, phổ hiện nhất thiết chúng sanh tiền, tùy duyên phó cảm mị bất châu, nhi hằng xử thử Bồ Đề tọa"</I> (Phật thân tràn ngập khắp pháp giới, hiện trước khắp hết thảy chúng sanh, tùy duyên cảm ứng thảy trọn khắp, nhưng luôn ngồi tòa Bồ Đề này). Phẩm Phổ Hiền Tam Muội lại nói: <I>"Nhập ư pháp giới nhất thiết trần, kỳ thân vô tận, vô sai biệt, thí như hư không tất châu biến, diễn thuyết Như Lai quảng đại pháp"</I> (Nhập trong hết thảy bụi pháp giới, thân ấy vô tận, không sai biệt, ví như hư không bao trọn khắp, diễn nói pháp Như Lai rộng lớn). Vãng Sanh Luận: <I>"Âm thanh vi diệu của Như Lai, tiếng Phạm âm vang vọng mười phương, giống như</I> <I>đất, nước, gió, lửa, hư không chẳng phân biệt".</I> Phẩm Bất Tư Nghị trong kinh Hoa Nghiêm có đoạn: "<I>Nhất thiết chư Phật, giai năng dĩ thanh tịnh thanh, khởi tứ biện tài, thuyết pháp bất đoạn"</I> (Hết thảy chư Phật đều có thể dùng tiếng thanh tịnh để khởi bốn thứ biện tài thuyết pháp không ngừng).</P>

<P>      (3) Thơ của Hám Sơn có câu: <I>"Mãn mục hàn không Đại Sĩ nhan"</I> (Hư không ngút mắt là dung nhan của Đại Sĩ) và câu: <I>"Nhật dạ triều thanh tụng Phổ Môn"</I>(Ngày đêm tiếng sóng tụng Phổ Môn).</P>

<P>      (4) Duy Ma Kinh: <I>"Biện tài vô ngại, du hý thần thông"</I>.</P>

<P>      (5) Duy Ma Kinh: <I>"Nhật nguyệt khởi bất tịnh da, nhi manh giả bất kiến"</I>(Mặt trời, mặt trăng há có phải là bất tịnh đâu? Nhưng kẻ mù chẳng thấy).</P>

<P>      (6) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Ngã tích vị thừa chư Phật hối sắc, kiến Ca Chiên Diên Tỳ Đa La Chi Tử, hàm ngôn thử thân tử hậu đoạn diệt, danh vi Niết Bàn"</I>(Xưa kia, trước khi ta được đức Phật răn dạy, gặp các ông Ca Chiên Diên và Tỳ Đa La Chi Tử[6], họ đều nói sau khi thân chết đi sẽ đoạn diệt, đó gọi là Niết Bàn).</P>

<P>      (7) Thơ của ngài Bàng Đạo Huyền có đoạn: <I>"Dã lão phụ tân quy, thôn phụ liên tiêu chức, khán tha gia sự mang, thả đạo bằng thùy lực, vấn cừ, cừ bất tri, đặc địa sanh nghi hoặc, thương ta cổ kim nhân, kỷ cá tri ân đức"</I> (Ông lão gánh củi về, mụ quê dệt suốt đêm, thấy người ta bận bịu, hỏi nhờ vào sức ai, hỏi họ, họ chẳng biết, bởi vậy, sanh nghi hoặc, thương ôi, người xưa nay, mấy ai biết ân đức).</P>

<P>      (8) Đại Tông Địa Huyền Văn Bổn Luận: <I>"Tự tánh của bản thể quyết định thường trụ".</I></P>

<P> </P>

<P><B>2.2.1.1. Hiện tướng ở Phổ Đà</B></P>

<P>     </P>

<P>      <B><I>1. Có lúc thị hiện cho Thuấn Phong trên biển, tướng mãn nguyệt quang minh. Chỉ Sử Hạo nơi vách núi, kim dung chói ngời.</I></B></P>

<P><B><I>      2. Anh lạc chen lẫn, Khâm Sứ họ Phạm chiêm ngưỡng nhiều phen. Bảy báu trang nghiêm, ghi dấu Tào công ba lượt lễ bái.</I></B></P>

<P><B><I>      3. Biệt Truyền vượt biển, mây bỗng trổ sen vàng. Bồng Sơn chúc ly, quang minh ngời chén biếc.</I></B></P>

<P><B><I>      4. Kim tướng vòi vọi, già, trẻ theo Quy Niên cùng nhìn. Bạch y tha thướt, Tăng chúng Phổ Đà chung ngắm.</I></B></P>

<P><B><I>      5. Đắp y ca-sa<B>[7]</B>, mặc hậu rộng tay, ông Giám chiêm ngưỡng thánh dung rành rành. Áo khoác ráng trời, xiêm sắc cầu vồng, Đoan Bá nhìn ngắm mê man.</I></B></P>

<P><B><I>      6. Hiện một bên vẻ mặt rồi lại hiện chánh dung, thuận theo tâm họ Trương kiền thành cầu khẩn. Hình tướng rõ rệt hay lờ mờ, nhằm an ủi lòng ông Đinh buồn bực.</I></B></P>

<P><B><I>      7. Cao tăng đốt ngón tay, nhiều đời cùng chiêm ngưỡng. Cụ già xả thân, tùy thời ắt thấy thánh dung.</I></B></P>

<P><B><I>      8. San hô, bích ngọc, chói rực Túy Chiêu. Lọng báu, chuỗi châu, rạng ngời Hồ Vĩ.</I></B></P>

<P>      <B><I>9. Mũi chân, gót chân, Vô Ẩn do tin nên gặp gỡ. Bé trai, bé gái, ông Lưu thỏa nguyện hâm mộ.</I></B></P>

<P><B><I>      10. Mẹ con Thúc Hình, thấy ni cô xõa tóc. Đồng bọn Hành Nghĩa, nhìn diệu nữ trang nghiêm.</I></B></P>

<P><B><I>11. Đốc Tào Nhân Bổn bảo không khác tượng vẽ. Lái buôn Triệu Hỷ than chẳng giống tranh, tượng</I></B> <I>(tổng cộng hai đoạn)</I></P>

<P> </P>

<P>      (1) Theo Phổ Đà Chí, năm Nguyên Phong thứ ba (1080) đời Tống Thần Tông, Nội Điện Thừa Chỉ[8] là Vương Thuấn Phong đi sứ Tam Hàn[9], gặp trận bão, có con rùa lớn đội thuyền, hết sức nguy ngập. Thuấn Phong kinh hãi, hướng về Triều Âm Động dốc lòng cầu khẩn, chợt thấy ánh sáng sắc vàng chói rực, Đại Sĩ hiện tướng mãn nguyệt, chuỗi châu ngọc sáng ngời, từ động đá bước ra, rùa lặn xuống, thuyền bơi tiếp. Trở về đem chuyện này tâu lên, vua ban danh hiệu là Bảo Đà Quán Âm Tự.</P>

<P>Năm Mậu Thìn (1158) trong niên hiệu Thiệu Hưng đời Tống Cao Tông, Sử Hạo và Trình Hưu Phủ đến động Triều Âm [triều bái] không thấy gì. Một vị Tăng dạy: "Có hang báu trên đỉnh vách núi, có thể thấy được [Đại Sĩ nơi đó]". Họ nghe theo lời, chợt [Đại Sĩ] hóa hiện tướng tốt lành, sắc vàng chói ngời, mày mắt rành rành.</P>

<P>      (2) Năm Bính Dần (1266) trong niên hiệu Hàm Thuần đời Tống Độ Tông, Phạm Thái Úy[10] mắc bệnh mắt, sai con đến động Triều Âm cầu đảo, múc nước suối rửa mắt. Lành bệnh, lại sai con đi lễ tạ. Đại Sĩ hiện thân bên trái, phảng phất trong làn khói nhạt như được ngăn cách bởi một bức màn bằng sa biếc. Tiếp đó, đến hang Thiện Tài, Đại Sĩ và đồng tử cùng hiện. Đại Sĩ mặc áo the, thắt đai nhẹ, chuỗi ngọc xen kẽ, mắt nhìn lấp lánh như sắp nói điều gì.</P>

<P>Năm Chí Hòa nguyên niên (1054) đời Thái Định Đế nhà Nguyên, quan Ngự Sử Trung Thừa[11] là Tào Lập, vâng mạng tới dâng hương ở động Triều Âm, thấy tướng bạch y, khắp thân đeo anh lạc. Do chưa thuận con nước để nhổ neo, ông ta lại lễ bái, Đại Sĩ lại hiện tướng; đến động Thiện Tài, Đại Sĩ cũng hiện thân ở đó, đồng tử khom mình cung kính, mày, mắt, tóc mây, chuỗi anh lạc bảy báu hiện rõ ràng có thể đếm được từng hạt, những người đi theo đều trông thấy.</P>

<P>      (3) Năm Vạn Lịch thứ hai (1574) đời Minh Thần Tông, Biệt Truyền vượt biển đến lễ Đại Sĩ, trong mây chợt xuất hiện đóa sen vàng, thị hiện tướng Bạch Y tha thướt. Ông ta và vị Tăng tên Thúy Vi ở Thành Đô cùng trông thấy.</P>

<P>Năm Đại Đức thứ năm (1301) đời Nguyên Thành Tông, Tập Hiền Học Sĩ[12] là Trương Bồng Sơn phụng chỉ đến làm lễ Chúc Ly[13] ở Phổ Đà, tới động Triều Âm, thấy Đại Sĩ đội mão báu, đeo anh lạc, tay cầm cành dương và chén pha lê biếc. Các đại thần hộ pháp đứng bảo vệ đằng trước, ánh sáng tốt lành tràn ngập cả động.</P>

<P>      (4) Đời Tống, quan Cấp Sự Trung[14] là Hoàng Quy Niên lễ động Triều Âm, đích thân thấy tướng tự tại tử kim ngồi trên đá, những kẻ già trẻ đi theo ông ta đều cùng thấy.</P>

<P>Hôm Nguyên Đán năm Khang Hy thứ ba (1664) đời Thanh, tăng chúng trong núi Phổ Đà thấy ánh sáng trắng như cầu vồng từ nóc Phật điện tỏa ra cuộn quanh núi Tiểu Lạc Ca, Đại Sĩ mặc áo trắng cưỡi ánh sáng bước đi. Người hiểu biết bèn đoán sắp có tai nạn xảy ra.</P>

<P>(5) Năm Khang Hy 29 (1690) đời Thanh, Tổng Binh huyện Định Hải là Lam Lý triều yết động Phạm Âm, thấy Đại Sĩ hiện thân: Mày to, mặt đỏ, râu ria rậm rạp, mắt lộ ánh xanh lẫn trắng, chót mũi hơi trắng, đội mão Kim Khuyên Đại Hỏa Diệm, mặc áo ca-sa sắc vàng pha đen, tay rộng, một tượng Phật nhỏ đứng trên đảnh.</P>

<P>Đời Minh, Hoàng Đoan Bá đến lễ Đại Sĩ, cảm Đại Sĩ hiện thân giữa trời, khoác xiêm sắc cầu vồng, áo bào màu như ráng trời, ông ta kinh ngạc, ngỡ là huyễn cảnh[15]. Những chuyện trên đây trích từ Phổ Đà Sơn Chí.</P>

<P>(6) Theo Cư Dị Lục, Trương Hán Nho người xứ Thương Châu đến động Triều Âm, thoạt đầu lễ bái không được thấy Đại Sĩ. Một cụ già bảo muốn thấy thì phải kiền thành cầu nguyện. Ông Trương quỳ cầu đảo, hồi lâu sau thấy kim quang, Đại Sĩ từ trong vách đá hiện ra, đứng cho thấy một bên của Ngài. Ông Trương lại xin nguyện thấy được chánh diện của Đại Sĩ để trở về sẽ phỏng theo đó mà tạc tượng hòng đảnh lễ. Đại Sĩ bèn hướng mặt ra phía biển, xoay lưng vào động, cách ông Trương chỉ trong gang tấc, mái tóc xanh ánh sắc đỏ, cuộn từng lọn tóc mai, gò má cao, sống mũi cao, áo màu lục, mọi người hoan hỷ làm lễ. Cụ già nói: "Nhằm cảm Đại Sĩ thị hiện, ta xả thân quét dọn ở nơi đây, cho tới nay được nhiều lần thấy Ngài".</P>

<P>Sách Miễn Giới Thiết Yếu Lục chép ông Đinh Triệu Hỷ người xứ Lâm Giang đời Thanh, buôn bán nơi đất Thục, do cầu nguyện cho mẹ được lành bệnh nên đến dâng hương ở động Phạm Âm, thấy hình tượng Đại Sĩ không rõ rệt, liền thầm niệm: "Con từ xa vượt sóng gió, trai giới đến đây, há tấm lòng chưa đủ chí thành ư?" Niệm chưa lâu, chợt thấy Đại Sĩ hiện thân nơi cửa động, áo trắng, một đồng tử áo đỏ đứng đằng trước, chẳng giống với tượng đắp hay vẽ trong thế gian.</P>

<P>(7) Theo Phổ Đà Sơn Chí, năm Đại Trung nguyên niên (847) đời Đường Tuyên Tông, có vị Tăng Ấn Độ đến trước động Triều Âm đốt mười ngón tay. Tay cháy hết, đích thân thấy Đại Sĩ thuyết pháp, trao cho viên đá bằng bảy báu.</P>

<P>Vị Tăng hiệu Đạo Nghi, pháp danh Ngộ Kiên, đốt ba ngón tay cúng Phật, đến Phổ Đà chuyên dốc lòng thành bái yết, được thấy Đại Sĩ. Với câu kế tiếp, xin xem lời chú liên quan trong câu thứ sáu.</P>

<P>(8) Theo Đồ Thư Tập Thành, Vương Tảo tự là Túy Chiêu, vâng theo lời hịch truyền trong quận, đến Phổ Đà Sơn cầu mưa. Do khấn thầm nguyện được thấy Đại Sĩ, chợt thấy có lan can toàn bằng bích ngọc, trên ấy có những nét chạm trổ. Tiếp đó, lại hiện ra những vạch như san hô dài cả mấy thước ở trước mặt một lúc lâu. Ở đằng xa có tượng Bồ Tát, dưới sáng, trên tối, mặc áo trắng, đeo anh lạc, [tượng hiện rõ] rành rành có thể đếm từng hạt [anh lạc] được.</P>

<P>Năm Canh Dần (1230) nhằm niên hiệu Thiệu Định đời Nguyên, quan Quốc Giám là Hồ Vĩ lễ Triều Âm Động, chợt có quang minh sáng rực, một vị Tăng ở bên phải, trưởng giả Nguyệt Cái và Thiện Tài đứng bên trái. Đến động Thiện Tài, đồng tử lại hiện. Lọng báu, tràng kết bằng châu, bày la liệt như rừng trước mặt. Cái tháp bên cạnh tỏa ánh sáng ngời, trong vắt.</P>

<P>(9) Thích Vô Ẩn đời Thanh, tham cứu đắc ngộ, nói: <I>"Danh sơn, sông cái, không đâu chẳng phải là đạo tràng để Bồ Tát hiện bóng. Mũi bàn chân, gót bàn chân, đâu đâu cũng gặp gỡ"</I>. Sư lễ Phổ Đà, cảm Đại Sĩ hiện thân diệu trang nghiêm.</P>

<P>Theo Kỷ Cầu Thư, vào đời Minh, ông Lưu X... ở Mạt Lăng, sanh ra liền ăn chay. Năm hai mươi chín tuổi, triều bái Nam Hải, ngồi trên thuyền phát nguyện được thấy Bồ Tát, chợt trên mặt nước hiện ra hai đóa sen, một đóa có bé trai đứng, đóa kia có bé gái đứng, rồi thấy Đại Sĩ ngồi trên đóa sen to. Họ Lưu lễ bái, trong khoảnh khắc chẳng thấy nữa.</P>

<P>(10) Theo sách Phổ Đà Chỉ Nam, Thịnh Thúc Hình đời Thanh theo mẹ triều bái Phổ Đà. Thoạt đầu, ông ta nghe nói Đại Sĩ hiện thân bèn cười nhạo chẳng tin. Về sau, tại động Phạm Âm liếc nhìn, chợt thấy trên vách đá hiện sắc trắng như bôi phấn; kế đó, nghiễm nhiên hiện hình người, ngũ quan rành rẽ, buông tóc xõa, áo trắng, eo thon, giống như hình trạng tỳ-kheo-ni. Thoạt đầu [Đại Sĩ] ở trong động, rồi bước ra cửa động, càng thấy rõ ràng hơn, ông ta bèn than thở: "Đại Sĩ chẳng thể nghĩ bàn!", chỉ quỳ mọp, khấu đầu mà thôi. Mẹ ông ta thấy giống hệt như vậy; nhưng những người cùng quỳ lễ mỗi người lại thấy mỗi khác.</P>

<P>Theo Cư Dị Lục, thầy Thích Hành Nghĩa đời Thanh cùng bảy vị du tăng, đội mưa thắp hương ở Triều Âm động, kiền thành cầu đảo, chợt thấy trong động hiện ánh sáng ngũ sắc, có hình tượng Đại Sĩ đứng, trang nghiêm diệu hảo, mang hình tướng nữ nhân. Những vị Tăng kia, mỗi người thấy mỗi khác.</P>

<P>(11) Theo Phổ Đà Sơn Chí, năm Ất Mùi (1355) đời Nguyên Thuận Đế, Lưu Nhân Bổn làm Đốc Tào[16], về đến Phổ Đà, thấy Đại Sĩ ở động Triều Âm chẳng khác gì với hình được họa trong bức vẽ. Đối với câu kế tiếp xin xem lời chú thích thứ sáu.</P>

<P> </P>

<P>      <B><I>1. Lại còn Thiện Tài, Long Nữ, chắp tay hầu bên cạnh. La Hán, Vi Thiên, đứng trên mây hộ vệ.</I></B></P>

<P><B><I>      2. Tràng châu, cờ ngọc, la liệt trong sóng, trong mây. Anh vũ, Tần Già bay lượn thơm tho sực nức.</I></B></P>

<P><B><I>      3. Pháp thân chẳng khác, nhưng biến hiện bất đồng.</I></B></P>

<P><B><I>      4. Ví như Xuân về, muôn loài thảo mộc xum xuê, vốn không phân biệt thơm, hôi; trăng in ngàn sông, trọn chẳng nề hà trong, đục.</I></B></P>

<P><B><I>      5. Năm lượt hiện trong triều Vĩnh Lạc, chưa thể truyền sự tốt đẹp hơn xưa. Bức tranh vẽ toàn diện nơi điện Tư Đức, chẳng đủ để bao gồm mai hậu.</I></B></P>

<P><B><I>      6. Bởi thế, Nguyên Quân hối tội, thệ nguyện trang nghiêm. Thịnh Tử dứt nghi, thiết tha lễ bái. Đấy chính là điều thứ nhất trong sự thị hiện của Đại Sĩ vậy</I></B> <I>(Hoa Nghiêm Kinh: "Hoặc hiện sắc thân nhiếp thủ chúng sanh, hoặc hiện chủng chủng bất tư nghị sắc tịnh quang minh võng nhiếp thủ chúng sanh, hoặc dĩ âm thanh, hoặc dĩ oai nghi, hoặc vị thuyết pháp, hoặc hiện thần biến, linh kỳ tâm ngộ, nhi đắc thành thục" (Hoặc hiện sắc thân để nhiếp thủ chúng sanh, hoặc hiện các lưới quang minh thanh tịnh có đủ mọi màu chẳng thể nghĩ bàn để nhiếp thủ chúng sanh, hoặc dùng âm thanh, hoặc dùng oai nghi, hoặc thuyết pháp cho họ, hoặc hiện thần thông biến hóa khiến lòng họ giác ngộ, được thành thục). Vì thế, hai đoạn đầu cùng ca tụng oai nghi thị hiện).</I></P>

<P> </P>

<P>      (1) Theo Phổ Đà Chí, đời Nguyên, Tào Lập đến động Thiện Tài, thấy đồng tử búi tóc xoắn ốc, chắp tay như người sống. Lại nữa, vào thời Vĩnh Lạc nhà Minh, tại động Triều Âm, hiện tướng Bạch Y Đại Sĩ, long vương, long nữ v.v... theo hầu. Lại còn có Vi Đà Thiên Tôn đứng dưới bóng mặt trời, La Hán đạp mây trên biển đến chầu.</P>

<P>      (2) Trong bộ Phổ Đà Sơn Ký của Lỗ Vương đời Minh có chép: <I>"Hoa sen, lọng ngọc, cờ tiết<B>[17]</B> bằng ngọc, tràng kết bằng châu, luôn luôn hiện trong mây, sóng".</I></P>

<P>Sách Hải Nam Nhất Chước có dẫn Phổ Đà Sơn Chí rằng: "<I>Bình báu, hoa sen, bày la liệt trong sóng biển, Tần Già<B>[18]</B>, Anh Vũ, bay lượn trong hương thơm sực nức".</I></P>

<P>      (3 & 4) Phẩm Vấn Minh của Hoa Nghiêm Kinh có chép: <I>"Diệc như địa giới nhất, năng sanh chủng chủng nha, phi địa hữu thù dị, chư Phật pháp như thị. Diệc như không trung nguyệt, thế gian mị bất hiện, phi nguyệt vãng kỳ xứ, chư Phật pháp như thị"</I> (Như cõi đất chỉ một, sanh ra các thứ mầm, chẳng phải đất sai khác, pháp chư Phật như vậy. Cũng như trăng trên không, đời không đâu chẳng hiện, trăng chẳng đến chỗ ấy, pháp chư Phật cũng vậy). Còn chép: <I>"Thí như tịnh minh kính, tùy kỳ sở đối chất, hiện tượng các bất đồng, nghiệp tánh diệc như thị"</I>(Ví như gương sáng sạch, tùy thể chất vật soi, hiện hình tượng sai khác, nghiệp tánh cũng giống vậy).</P>

<P>(5) Theo Phổ Đà Chí, trong hai ngày Mười Chín và Hai Mươi tháng Mười năm Vĩnh Lạc 21 (1423) đời Minh, Đại Sĩ hiện thân năm lần ở động Triều Âm. Tại Tư Đức Đường ở phía sau núi, có treo bức họa gia bảo do Vương Doanh vẽ hình tướng Đại Sĩ thị hiện tại động Phạm Âm núi Phổ Đà, gồm năm mươi ba lần biến hiện. Hình vẽ này được lưu truyền trong cõi đời.</P>

<P>      (6) Theo Phổ Đà Chí, đời Nguyên, Cáp Lạt Ngạt do bị hoa sen bằng sắt ngăn trở thuyền[19] [bèn quay lại Phổ Đà] sám hối, tạ lỗi, đến cầu đảo nơi động Triều Âm, thấy Bạch Y Đại Sĩ hiện thân. Do vậy, bèn đắp tượng trang nghiêm và dựng điện thờ trong động. Đối với câu kế tiếp, coi lời chú số 10 trong đoạn trước.</P>

<P>      <B>Ghi thêm</B>: Trầm My Phong là Thái Thú Đài Loan đời Thanh, đến động Phạm Âm thấy Đại Sĩ hiện thân, báo cho biết ông ta sẽ sanh con trai, [đứa con ấy về sau] chính là quan Biên Tu Vinh Bưu.</P>

<P>Năm Dân Quốc 11 (1922), Lưu Khế Tịnh ở Bành Trạch, đến lễ Phạm Âm Động, thấy Đại Sĩ nhiều lượt hiện thân dưới bốn hình tượng [khác nhau]. Do vậy, bèn soạn bài ký Đại Sĩ Hiện Thân.</P>

<P> </P>

<P><B>2.2.1.2. Hiện tướng ở nơi khác</B></P>

<P> </P>

<P>      1<B><I>. Chùa Huệ Cự tại Trường An đua nhau lưu truyền đài Linh Ứng, ngọn Cô Sơn thành Ma Kiệt, nhiều lần xuất hiện tướng trang nghiêm.</I></B></P>

<P><B><I>      2. Trên núi Mộc Bình, thân tượng choàng anh lạc; trong chùa Dục Vương, đảnh đầu đội tháp.</I></B></P>

<P><B><I>      3. Thiên Vương vằng vặc, giống Như Lai quang minh rạng ngời; bóng tháp trùng trùng, có Bồ Tát hương hoa dâng cúng.</I></B></P>

<P><B><I>      4. Thưởng Linh Chi trì giới luật, sáu cánh tay chen sáng; khử mối nghi cho Tăng Nhẫn, hai nắm tay cùng ngời.</I></B></P>

<P><B><I>      5. Pháp Thường tu tập, chiêm ngưỡng thân tướng phi phàm; họ Hạ vẽ chân dung, thấy kim quang chói rực.</I></B></P>

<P>      <B><I>6. Phong Tường tụng niệm thiết tha, Ngũ Phong Tự hiện thân; chùa Báo Ân đời Vĩnh Lạc, ngàn vị Phật phóng quang.</I></B></P>

<P>      <B><I>7. Lâm Khôi xem kịch, chói ngời thế giới tựa lưu ly, Phổ Minh nói kinh, rủ dương liễu giữa đám mây màu.</I></B></P>

<P>      <B><I>8. Rạng ngời trong ánh đuốc Thị Ngự xứ An Dương, hiện nghi dung trên rèm thiện nhân nơi </I></B><B><I>Nam</I></B><B><I> Quách.</I></B></P>

<P>      <B><I>9. Ấy là tùy lòng thành để cảm có sâu hay cạn, thuận theo tâm mà ứng. Hoặc do pháp duyên vốn dầy hay mỏng, chạm vật liền thông. Tuy cùng lúc hiện thân, quả thật đã khơi lòng tin chẳng ngớt. Đấy là điều thứ hai trong sự thị hiện của Đại Sĩ vậy.</I></B></P>

<P> </P>

<P>      (1) Theo sách Huyễn Dị Chí, tại hang Linh Mẫu ở phía Nam thành Trường An có chùa Huệ Cự. Phía Tây Nam chùa, có một ngọn núi tên là Linh Ứng Đài. Trên đó dựng tháp, trong tháp thờ tượng Quán Thế Âm bằng sắt. Đại Sĩ từng hiện thân tại đây.</P>

<P>Theo sách Đường Tây Vực Ký, tại Cô Sơn Tinh Xá thuộc nước Ma Kiệt Đà ở Trung Thiên Trúc, có tượng Quán Tự Tại Bồ Tát, tượng nhỏ nhưng có oai thần. Thường có nhiều người nhịn ăn để cầu Bồ Tát hiện thân. Từ bảy ngày đến một tháng, sẽ thấy diệu tướng trang nghiêm của Bồ Tát từ tượng hiện ra, an ủi, răn dạy người ấy.</P>

<P>      (2) Theo sách Phật Tổ Thống Kỷ, một buổi sáng trong năm Nguyên Phù (1099) thứ hai đời Tống, thái thú Viên Châu là Vương Cổ cầu đảo [xin hãy đổ mưa] tại tháp xá-lợi trên núi Mộc Bình. Từ trong vách đá phóng quang, thấy Đại Sĩ thân kim sắc, đeo anh lạc. Lại đến chỗ tháp Ngưỡng Sơn, thấy Tứ Châu Đại Sĩ[20], Duy Ma, La Hán, đứng hai bên, [trời liền] mưa to [nước nhiều đến nỗi ngấm] ướt chân.</P>

<P>Theo Dục Vương Sơn Chí, Quách Thừa Quýnh đời Minh đến lễ xá-lợi tại chùa A Dục Vương, thấy Quán Thế Âm Bồ Tát trên đảnh có cái tháp nhỏ, ngồi xếp bằng trong lòng tháp [thờ xá-lợi].</P>

<P>      (3) Phía Đông phủ Tô Châu có hai chùa Đông Thiên Vương và Tây Thiên Vương. Vào năm Đại Lịch thứ ba (769), chợt hiện ra tượng Xí Thạnh Quang Vương Phật[21] và Tỳ La Quán Thế Âm đầy dẫy.</P>

<P>Theo Đàm Hội, năm Vĩnh Lạc thứ năm (1407), Minh Thành Tổ tới Linh Cốc Tự, nhìn ánh mặt trời chiếu lên tháp, từ tầng thứ hai của tháp thấy tượng Quán Âm sắc đỏ, hai bên có bốn tượng Bồ Tát chắp tay đứng hầu, dâng hương hoa cúng dường.</P>

<P>      (4) Đời Tống, ngài Linh Chi trùng tu Ngũ Đài Giới Đàn ở Minh Châu vừa xong, có thần nhân dâng ba viên châu, đặt ở giữa đàn. Châu nhiều lượt phóng quang, trong quang minh có Kim Sắc Phật, hoặc Quán Âm sáu tay, hoặc Thiện Tài, hoặc [trưởng giả] Nguyệt Cái, hoặc long thần dâng châu, hoặc trúc tía, liễu biếc.</P>

<P>Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, Tăng Nhẫn đời Đường đọc kinh Đại Bi, đọc đến phần kinh văn nói về bốn mươi hai tay của Bồ Tát, tới đoạn nói về cánh tay Vô Úy, khởi lòng nghi, bèn kết đàn cầu thỉnh. Từ trong hư không, hiện ra hai tay kết ấn rõ rành rành.</P>

<P>      (4) Theo Cao Tăng Truyện tập 2, Pháp Thường đời Đường dốc lòng theo đúng thời khóa tu hành. Vào nửa đêm, ở trong Phật đường thấy Quán Âm Bồ Tát từ ngoài bước vào cửa, đứng trên hư không, thân tướng hoàn mỹ, phi thường, đeo chuỗi ngọc, chiếu sáng ngời hy hữu.</P>

<P>Đời Tống, họ Hạ ở Hú Sơn, Hải Châu, đời đời vẽ tượng Quán Âm rất khéo léo và rất có giá trị. Có một người ăn mày ghẻ lở máu mủ, dơ dáy chẳng ai muốn đến gần, đem một giỏ cá chép đến xin đổi lấy tranh vẽ. Họ Hạ nói: "Nhà chúng tôi không ăn mặn đã nhiều đời, làm sao chấp nhận thứ ô uế này?" Người ăn mày đáp: "Ông vẽ chưa thật giống, ta có bản vẽ đẹp hơn". Do vậy, bèn quét dọn nhà cửa, dẫn vào, mời ngồi ở phía Nam. Hồi lâu sau, họ Hạ ra xem, thấy đã hiện chân tướng Đại Sĩ, kim quang chiếu tỏa chung quanh.</P>

<P>      (6) Vị Tăng tên Phong Tường, pháp danh Dữ Khải, lễ bái, tụng niệm tha thiết ở chùa Ngũ Phong, một đêm nọ đích thân chiêm ngưỡng Đại Sĩ.</P>

<P>Theo sách Hoàng Minh Thông Kỷ, vào năm Vĩnh Lạc 15 (1417) đời Minh, vua ban kinh Phật cho chùa Đại Báo Ân, trong ngôi tháp ở chùa hiện hào quang ngũ sắc, trong ấy có ngàn vị Phật, Quán Âm, La Hán, các thứ diệu tướng đều nhóm họp.</P>

<P>      (7) Theo Dạ Đàm Tùy Lục, Lý Lâm Khôi thường cùng mười mấy người cùng trang lứa đi xem kịch. Đêm về, trời tối đen như mực, chợt thấy núi, sông, đại địa cùng phóng quang minh. Ở ngay trước mặt cách mười mấy bước chân, Đại Sĩ hiện tướng báu, cao mấy chục trượng, nét hoa văn trên áo, chuỗi anh lạc sáng ngời như ráng mây, mặt tựa trăng tròn sáng ngời, thần thái dị thường, chiếu rạng tột cùng thế giới đều như lưu ly. Họ Lý vừa chiêm ngưỡng vừa lạy, miệng tụng Phật hiệu không ngừng, những người cùng đi chẳng thấy.</P>

<P>Sư Thích Phổ Minh đời Tống, ở xứ Thiên Trúc, tịnh tọa suốt ba tháng, cảm Đại Sĩ hiện thân, nói rõ hành trạng từ đầu đến cuối. Do vậy, Sư bèn soạn Quán Âm Bổn Hạnh Kinh. Soạn xong, lại cảm Đại Sĩ hiện thân tử kim, tay cầm tịnh bình có cành liễu xanh, đứng giữa đám mây nhiều màu, hồi lâu mới biến mất. Xem chuyện này trong lời tựa bộ Quán Âm Bổn Hạnh Kinh.</P>

<P>      (8) Theo sách Nam Hải Từ Hàng, quan Thị Ngự[22] Trương Chi Quý là người huyện An Dương, tỉnh Hà Nam, trì kinh Quán Âm, rộng hành phương tiện. Về sau, con ông ta bệnh nguy ngập, bèn thỉnh Tăng tụng kinh. Đại Sĩ hiện thân trong ánh đuốc, đại chúng kinh ngạc, cảm thán, đứa con liền hết bệnh.</P>

<P>Theo Tỉnh Am Di Thư, đời Thanh, vị thiện nhân họ Cố ở Nam Quách, cả nhà ăn chay, thờ Phật. Vào ngày Mười Chín tháng Sáu năm Bính Thân (1686) đời Khang Hy, Đại Sĩ hiện thân nơi rèm trúc, nghi dung nghiễm nhiên, trông như một bức vẽ vậy. Ngài Tỉnh Am viết lời tán: <I>"Đại Sĩ hiện dấu tích, rủ lòng ứng quần sanh, đầm lạnh in bóng trăng, hang trống tiếng vang vọng, từ dung chẳng rút nhỏ, rèm trúc chẳng phình to, chân thân từng phiến một, hiện pháp giới vi trần. Ứng duyên mà hiện đến, duyên hết liền rời đi. Ứng hiện như thế nào? Chỉ do lòng Thành cảm"</I>.</P>

<P>      (9) Trong bài ký của Lỗ Vương đời Minh có đoạn: <I>"Đại Sĩ linh chân huyền giám, tùy theo sức lớn nhỏ, hay duyên dầy mỏng, lòng Thành cạn hay sâu mà ứng hiện"</I></P>

<P> </P>

<P><B>2.2.1.3. Hiện tướng nơi gỗ đá</B></P>

<P><B><I> </I></B></P>

<P><B><I>      1. Cây bách cổ thụ xứ Như Tuyền, hiện hình như người sống. Trên gỗ Sam thơm am Thủy Nguyệt, người và chim đều trọn.</I></B></P>

<P><B><I>      2. Giang Đô tạo chiến hạm, hiện bóng hai tràng hoa. Lâm An đốn củi, thấy tượng cao một thước.</I></B></P>

<P><B><I>      3. Cột chùa Bạch Vân chợt hiện bảo châu, khe suối Thiên Trúc, gỗ thơm chuyển tới.</I></B></P>

<P><B><I>      4. Trong đá Uẩn Bích tại huyện Tùng Tư, dựa cội trúc nhập Thiền. Giữa viên Không Thanh của nhà hoàng tộc, lửng ngang trời sống động.</I></B></P>

<P><B><I>      5. Thạch nhũ động Bằng Hư, nước nhỏ giọt</I></B> <B><I>thành hình Tự Tại. Khám đá dưới đáy biển, hơi giống đảo Phổ Đà.</I></B></P>

<P><B><I>      6. Tướng báu trang nghiêm, Văn Tĩnh trân tàng<B>[23]</B>. Mài rửa hình ảnh lờ mờ, Nguyên Mô đích thân được thấy.</I></B></P>

<P><B><I>      7. Bản Kiều chặt trúc, mây Từ cao ngang lóng trúc. Họ Cố mài gạch, tượng Tống Tử, Tỳ Kheo cùng hiện.</I></B></P>

<P><B><I>      8. Đấy chính là: Nơi đầu lông hiện cõi nước, chốn phàm vĩnh viễn ngự, vi trần chuyển pháp luân, tai dân quê thường nghe. Đấy chính là sự thị hiện thứ ba của Đại Sĩ vậy.</I></B></P>

<P> </P>

<P>      (1) Theo sách Khoáng Viên, trong năm Tân Dậu (1657) niên hiệu Thuận Trị đời Thanh, phủ Kim Lăng chế thuyền đi biển, ra lệnh cho các quận huyện đốn gỗ. Tại hương trấn Như Tuyền, có cây bách cổ thụ to mười mấy người ôm, bèn cưa chặt. Trong gỗ có hình tượng Quán Âm Đại Sĩ hết sức đoan nghiêm, đẹp đẽ, có đồng tử đứng hầu bên cạnh. Những hình ảnh như gộp đá, suối chảy, rừng trúc, chim Anh Vũ, những chi tiết tỉ mỉ đều trọn đủ, cả hai mặt khối gỗ đều có. Họ bèn đem một mặt gỗ khảm vào vách của Tây Tự tại huyện, mặt kia không biết về đâu.</P>

<P>Theo sách Quân Lang Ngẫu Bút, tại Thủy Nguyệt Am ở Dương Châu, trên gỗ Sam có hình tượng Bạch Y Đại Sĩ nghiễm nhiên, Thiện Tài, anh vũ, rừng trúc đều đầy đủ.</P>

<P>      (2) Theo sách Hy Triều Tân Ngữ, vào năm Nhâm Dần (1662) đời Khang Hy nhà Thanh, tại hải cảng chốn kinh thành truyền lệnh tạo chiến hạm. Trong vườn nhà họ Lưu ở Giang Đô có một cây Ngân Hạnh[24] đã mọc mấy trăm năm cũng bị đốn. Cưa ra, trong cây có hai tượng Quán Âm Đại Sĩ, đeo tràng hoa thiên nhiên xinh đẹp. Mọi người kinh hãi than thở, đem cúng cho chùa Phước Duyên.</P>

<P>Theo sách Quái Viên, năm Giáp Thìn (1604) đời Vạn Lịch nhà Minh, ở phía Bắc ngọn núi thuộc huyện Lâm An, thôn dân đốn cây làm củi, thấy trong cây có tượng Quán Âm cao đúng một thước, mày, mắt, y phục, trang sức giống hệt như được chạm trổ, liền thờ trong thôn, hương đèn chẳng dứt.</P>

<P>      3. Theo Di Kiên Chí, trong niên hiệu Thuần Hy đời Tống, có vị Tăng chùa Bạch Vân ở huyện Mân Thanh, do thấy lớp sơn son của cột điện tối tăm, xỉn màu, liền bảo thợ sơn tô phết lại. Do dưới lớp sơn cũ có nét hằn lờ mờ, liền cậy sơn ra, thấy có một viên bảo châu trong cột, trong châu có tượng Quán Âm nhập Định, mày mắt rõ ràng, người xem không ai chẳng cúi đầu dốc lòng lễ kính.</P>

<P>Theo Thiên Trúc Chí, trong niên hiệu Thiên Phước nhà Thạch Tấn[25], vị Tăng xứ Thượng Thiên Trúc là Đạo Dực mộng thấy khe nước trước núi phóng quang, liền tìm được khối gỗ thơm kỳ lạ, cao mấy thước. Bửa ra, bên trong có hình tượng Đại Sĩ do thiên nhiên tạo thành; do vậy, bèn khắc thành tượng.</P>

<P>      (4) Theo Diệc Phục Như Thị Tập, tại huyện Tùng Tư tỉnh Hồ Bắc, trong sông sanh ra đá ngũ sắc. Từng thấy có một người dân địa phương nhặt được hòn đá màu xanh nhạt. Lúc mới mài thì thấy trong mạch đá ẩn hiện cành trúc, mài thêm nữa thì thấy cành lá phân minh, ngọn trúc hơi rủ xuống, Đại Sĩ ngồi ngay ngắn dựa lưng vào thân trúc, pháp tướng trang nghiêm, mắt, mày đều rõ rệt. Về sau có thương nhân mua lại, đem đi mất.</P>

<P>Theo Quái Viên, hoàng tộc nhà Minh ở đất Sở[26] có cất giữ một viên đá màu vàng, to bằng bàn tay, ban ngày tỏa sáng, có tượng Bạch Y Quán Âm, lông mày, tóc, anh lạc, tướng hảo thành tựu, dường như khảm vào hư không, lay động như người sống. Uẩn Bích và Không Thanh đều là tên của những viên đá.</P>

<P>      (5) Theo Cư Dị Lục, trong các chỗ núi sông nổi tiếng của đất Điền (Vân Nam), đất Kiềm (Quý Châu), hai động Bằng Hư và Thanh Khê đứng đầu. Những mầm đá ở Thanh Khê là lạ lùng nhất. Động Bằng Hư có thạch nhũ như hình cái chuông, nước nhỏ giọt đọng thành hình Đại Sĩ, La Hán [tinh xảo], dẫu là thợ chạm trổ chẳng thể nào sánh bằng.</P>

<P>Theo Tri Bất Túc Trai Tùng Thư, gần đây có một người tìm được tượng Quán Âm bằng đá trắng ở đáy biển, phía trên tượng lại có am, hơi giống như hình dạng của gộp đá Bổ Đà (Phổ Đà), điêu khắc tinh tế. Về sau, tượng này thuộc về tay một lái buôn ở đất Mân (Phước Kiến).</P>

<P>      (6) Theo Đệ Nhất Công Đức Lục, ông Tôn Văn Tĩnh cất giữ một trăm lẻ một khối đá; do vậy, bèn đặt tên chỗ mình ở là Bách Nhất Sơn Phòng. Trong ấy, một khối đá được Văn Tĩnh quý nhất, giấu kỹ, cao chưa đầy nửa thước, trong đá có hình Quán Âm Đại Sĩ, tướng báu trang nghiêm, nét hoa văn trên áo, anh lạc, tỉ mỉ trọn đủ. [Nhìn tượng ấy xong] nhìn vào cái bình phong làm bằng đá Đại Lý, thì thấy [tài nghệ điêu khắc những cảnh như] núi cao, trăng nhỏ, nước rơi, đá lộ, và sóng biển, mặt trời buổi sớm, hạc, nai quẩn quanh bên cội đào v.v... [trong tấm bình phong ấy] chẳng đáng để nói tới nữa!</P>

<P>      Theo sách Thiết Võng San Hô, ông Thang Nguyên Mô kể đã từng thấy một viên đá màu xanh dương, to bằng trứng ngỗng nhưng dẹp, phía trên có tượng Quán Âm lờ mờ như bức vẽ, đem mài rửa thì càng hiện rõ.</P>

<P>      (7) Theo Nhẫn Am Ngữ Lục, người xứ Bản Kiều chặt trúc, trong mười ba lóng trúc đều có tượng Quán Âm Đại Sĩ.</P>

<P>Theo Nhất Hạnh Cư Tập, ông Cố Văn Diệu, vợ là Tống Thị, chuyên thờ Đại Sĩ. Một đêm kia, con họ là Tấn Phương mộng thấy hai vị Đại Sĩ mặc áo chằm vá rách rưới dường như cầu xin điều gì. Sáng ra, có người đem bức họa Quán Âm có hình dạng như một vị Tăng do Ngô Đạo Tử[27] vẽ và bức tượng thêu Tống Tử Quán Âm đến rao bán, bèn vội trả đúng giá, bồi tranh, sửa chữa như mới rồi đem tặng cho Nguyệt Thanh Am. Đến Tết, Tấn Phương lại mộng thấy hai vị Đại Sĩ bảo: "Sắp ra đi" liền vội đến am xem, thấy treo nơi vách chạn đã lâu, bèn thỉnh về, treo trong tịnh thất, Nhụ Nhân[28] lễ kính không bỏ sót buổi nào. Một hôm, nơi vách gạch của tịnh thất, chợt thấy Đại Sĩ hiện tướng tăng nhân. Tám hôm sau, lại thấy Đại Sĩ hiện tướng Tống Tử Quán Âm[29], Thiện Tài, Long Nữ, trước sau cùng xuất hiện, liền cho khắc tượng lên gạch, kim dung sáng ngời.</P>

<P>      (8) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Ư nhất mao đoan, hiện Bảo Vương sát, tọa vi trần lý, chuyển đại pháp luân"</I> (Trong đầu sợi lông, hiện cõi Bảo Vương, ngồi trong vi trần chuyển đại pháp luân). Sách Trang Tử có câu: <I>"Đại thanh bất nhập ư lý nhĩ"</I>(Tiếng tăm to lớn chẳng lọt tai dân quê).</P>

<P> </P>

<P><B>2.2.1.4. Hiện tướng trong loài vật</B></P>

<P><B> </B></P>

<P><B>      <I>1. Bèn có nghêu, hàu trong bếp, ba lượt hiện kim dung. Ba ba dưới đáy nồi, hai phen bày diệu tướng.</I></B></P>

<P><B><I>      2. Xương cẳng bò của Hoài Sâm, chất tủy xương ngưng đọng thành vàng. Răng hàm lợn của Vô Cữu, viên châu nơi búi tóc to như hạt thóc.</I></B></P>

<P><B><I>      3. Trứng gà họ Tuân đời Đường, diệu tướng trang nghiêm. Kén tằm họ Đàm, nghiễm nhiên tướng hảo.</I></B></P>

<P><B><I>      4. Phàm giết hại loài vật như thế, chính là làm thân Phật chảy máu.</I></B></P>

<P><B><I>      5. Riêng thương xót con một, thay chúng sanh chịu khổ. Đấy là sự thị hiện thứ tư của Đại Sĩ.</I></B></P>

<P> </P>

<P>      (1) Theo Truyền Đăng Lục, vua Đường Văn Tông thích ăn hàu. Một hôm, ngự soạn[30] có một con hàu to, dao bửa không được, vua tự tay bửa lấy thì vỏ hàu tách ra, bên trong là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát. Vua kinh dị, đựng trong hộp gỗ đàn hương bịt vàng, thờ trong chùa Hưng Thiện.</P>

<P>Theo sách Di Kiên Chí, Du Tập đời Tống làm Thái Úy huyện Hưng Hóa, ngồi thuyền ngược sông Hoài. Nhà thuyền hằng ngày mua nghêu, hàu làm thức ăn. Ông Tập thường mua lại, thả xuống sông. Ngẫu nhiên họ mua được một con nghêu to, ông Tập trả giá gấp bội mà vẫn không chuộc được. Họ liền bỏ vào nồi, chợt vang ra tiếng lớn, ánh sáng hừng hực toả lên. Nhìn vào, con nghêu đã tách vỏ, hiện ra tượng Quán Âm Đại Sĩ, tướng hảo đoan nghiêm, áo, mão, anh lạc, và lá, cành trúc đều do những viên ngọc trai nhỏ kết thành. Ông Tập bảo nhà thuyền niệm Phật sám hối, đem tượng về thờ trong nhà.</P>

<P>Lại nữa, ông Trịnh Bá Dần thấy tượng Quán Âm trong một con nghêu ở Sở Châu, diệu tướng trang nghiêm, cành dương, tịnh bình đều đủ.</P>

<P>Theo Đông Pha Tạp Ký, Ngô Bích là người đất Mân, từng tới nhà viên Trung Thừa họ Kim ăn tiệc. Họ nấu ba ba, gỡ thịt ba ba ra, thấy trong ấy có một tượng Quán Âm, đầu đội lúp vàng, áo trắng, đeo trang sức, mày, mắt, áo, xiêm như vẽ, tay phải rủ xuống, tay trái đặt lên ngực, chân đứng trên hoa sen. Khách dự tiệc không ai chẳng kinh hãi, liền sai đổ canh đi. Dựa theo chuyện này, Quái Viên viết chuyện Hà Bích.</P>

<P>Theo Âm Chất Văn Tân Biên, Dương Hiếu Chiêm ở Tô Châu thích ăn ba ba. Một hôm, đầy tớ vừa mổ ba ba, thấy có tượng Quán Âm Đại Sĩ rành rành, kinh hãi, chùn tay, cả dao lẫn thịt ba ba đều vứt xuống sông. Chạy đi báo với họ Dương, Dương giận dữ, quở là bịa chuyện, hết sức trách phạt. Đầy tớ thưa: "Con đền mạng chứ không dám giết!" Dương nói: "Đem ra chợ, ắt có người giết"; ông ta vừa đi vào trong nhà, thấy con ba ba vừa mua trước đó, lển nghển bò ra. Họ Dương bảo: "Quả nhiên mày nói dối tao, nay nó vẫn còn đây mà!" Ép đầy tớ đem ba ba đi nấu, Dương ăn vào được một lúc liền chết tươi.</P>

<P>      (2) Theo sách Hải Nam Nhất Chước, sư Thích Hoài Sâm thấy bầy chó trong thôn giành nhau gặm một cái xương cẳng bò, cắn nhau điên cuồng không ngừng, dùng gậy đuổi không được. Do vậy, bèn đoạt lấy, chẻ ra, chất tủy xương bên trong đông cứng như vàng, thành hình tượng Bồ Tát, hoa văn trên áo, chuỗi ngọc, tướng hảo lạ lùng đẹp đẽ.</P>

<P>Theo Cư Sĩ Truyện, vào đời Tống, có người dân ở huyện Hoạch Gia mổ lợn để cúng tế. Có con chó săn gặm xương đầu lợn, gằm ghè suốt bốn ngày nhưng không nhá được. Chẻ ra xem, thấy trong răng hàm lợn có một tượng Như Lai, trên búi tóc có một hạt châu to bằng hạt thóc, nhắm mắt, ngồi xếp bằng, tròng mắt ẩn kín. Triều Vô Cữu bèn viết lời tán dương.</P>

<P>Theo Quái Viên ghi chép, phía sau chuyện Đại Sĩ hiện thân tướng trong con ba ba ở bếp nhà viên Trung Thừa họ Kim có câu: <I>"Nhưng chuyện tượng Quán Âm hiện trong răng lợn của người đời Đường vẫn chưa đủ gọi là hiếm có"</I>, tức là đã lầm Tống thành Đường vậy.</P>

<P>      (3) Theo Dị Văn Lục, vợ người đầu bếp nhà họ Tuân đời Đường cầm mấy quả trứng, làm rớt xuống đất, bên trong có tượng Quán Âm Đại Sĩ ngồi trên hoa sen, Thiện Tài, Long Nữ chầu hầu hai bên, tịnh bình, cành dương. Sách Quái Viên Bút Ký cũng chép chuyện này.</P>

<P>Di Kiên Bính Chí ghi: <I>"Ở nhà Đàm Tăng, tôi thấy trong kén tằm có tượng nhỏ, hình trạng giống như Quán Âm".</I></P>

<P>      (4) Theo giới luật, làm thân Phật chảy máu là một tội trong Ngũ Nghịch.</P>

<P>      (5) Niết Bàn Kinh: "<I>Bồ Tát tu từ bi hỷ, đắc trụ cực ái nhất tử chi địa. Hà danh nhất tử? Như phụ mẫu ái tử yểu vong, nguyện dữ bình mạng, Bồ Tát diệc nhĩ"</I>(Bồ Tát tu từ bi hỷ, đắc địa vị Cực Ái Nhất Tử. Vì sao gọi là Nhất Tử (con độc nhất)? Giống như con yêu của cha mẹ chết mất, nguyện bỏ mạng theo con, Bồ Tát cũng giống như thế). Phẩm Thập Hồi Hướng kinh Hoa Nghiêm có câu: <I>"Ngã đương phổ vị chúng sanh, ư nhất thiết thế giới ác thú trung, tận vị lai kiếp, thọ nhất thiết khổ, bất linh chúng sanh đọa địa ngục. Ngã đương ư bỉ địa ngục, súc sanh, Diêm La Vương đẳng xứ, dĩ thân vi chất, cứu thục nhất thiết ác đạo chúng sanh, linh đắc giải thoát"</I> (Tôi sẽ vì khắp chúng sanh trong đường ác nơi hết thảy thế giới, đến tột cùng kiếp vị lai chịu hết thảy nỗi khổ, chẳng để cho chúng sanh đọa vào địa ngục. Tôi sẽ ở trong những chỗ địa ngục, súc sanh, Diêm La Vương v.v... ấy, đem thân thay thế hòng cứu chuộc hết thảy chúng sanh trong ác đạo khiến họ được giải thoát).</P>

<P>     </P>

<P> <B>2.2.1.5. Hiện quang minh</B></P>

<P> </P>

<P>      <B><I>1. Bèn có chuỗi anh lạc từ triều đình trả lại, sắc tối tăm bèn sáng bừng. Hiện Bảo Sơn cho Khâm Sứ, giữa đêm [mà thấy rõ ràng] như vẽ.</I></B></P>

<P><B><I>      2. Hình truyền vách Đông, sáng rực hai cung Đường, Tống. Tượng thờ Tây Thiên, ba đạo quang minh xông ngất mây trời.</I></B></P>

<P><B><I>      3. Bước khỏi Lạc Ca, sắc hiện như cầu vồng. Thiên Trúc công thành, quang minh át mặt trời.</I></B></P>

<P><B><I>      4. May gặp dịp thánh đản, có châu quang tại động Triều Âm. Nhằm lễ cầu phước cho hoàng thất, hiện kim sắc thanh lương.</I></B></P>

<P><B><I>      5. Tôn xưng bà Ngô, bình tịnh thủy phát sanh linh cảm. Thờ tại Qua Châu, gương tỏa viên quang chiếu sáng tột cùng.</I></B></P>

<P><B><I>6. Bài ký ghi chuyện Lôi Phong thọ giới, sáng rực khắp sân. Mừng được Vương Diễm đón về, quang soi ba thước.</I></B></P>

<P><B><I>7. Ngoài màn bệnh Tăng, thấy rõ gót vàng. Bên bãi dân chài, đầu sắt tỏa ngời ánh lửa.</I></B></P>

<P><B><I>8. Sùng Thánh ghi chép cảnh tượng lớn lao, tướng bạch hào còn mãi. Từ Lâm vui tu lễ bái, đóa liên hoa thường tỏa quang minh.</I></B></P>

<P><B><I>9. Tả Khê dốc lòng niệm, sắc màu hệt mây trời. Khai Quýnh trọn chí thành, vách chùa ngời kim sắc.</I></B></P>

<P><B><I>10. Ấy là vì chúng sanh Phật tánh vốn sẵn Ma Ni, Bồ Tát làm duyên huân tập, dường như gương sáng.</I></B></P>

<P><B><I>11. Bổn Giác, Thỉ Giác ngầm hợp, liền không ngăn cách ta - người.</I></B></P>

<P><B><I>12. Thần châu rực rỡ, chẳng do bên ngoài mà có. Lưới thiên đế trùng trùng, vốn sẵn giăng xen. Đấy chính là sự thị hiện thứ năm của Đại Sĩ vậy</I></B>.</P>

<P> </P>

<P>(1) Theo Thiên Trúc Chí, tượng Quán Âm ở chùa Thượng Thiên Trúc thân đeo anh lạc đều làm bằng thất bảo do nhà Tống ban tặng, quý báu, hiếm có trên đời. Sau khi Hàng Châu quy phục, do thấy chuỗi anh lạc có thần quang, [quan lại địa phương] bèn đem dâng lên triều đình. Đến kinh sư, chuỗi anh lạc mờ câm không sáng nữa. Vua bèn bảo: "Nếu muốn trở về chùa Thiên Trúc, mong đến lúc... sẽ lại phóng quang minh". Tới kỳ hạn, thần quang ngút trời, bèn rước trở về [chùa Thượng Thiên Trúc].</P>

<P>Theo Phổ Đà Chí, Thị Lang[31] Lưu Đạt và Cấp Sự Trung Ngô Sức đời Tống cùng đi sứ Cao Ly trở về. Suốt bốn ngày đêm, trăng tối, mây dầy, chẳng biết phương hướng. Thủy thủ kinh hoảng, bèn hướng về phía Đại Sĩ lễ bái, trong khoảnh khắc, thần quang ngập tràn mặt biển, bốn phía sáng trưng như ban ngày, thấy núi Chiêu Bảo, liền lên được bờ.</P>

<P>(2) Đời Lương, Trương Tăng Do vẽ tượng Quán Âm và Thế Chí ở vách Đông chùa Thiện Tịch tại Đức Dương, hào quang chiếu bốn phía. Đến đời Đường, Võ Tắc Thiên hạ lệnh thỉnh tượng vào cung, ánh sáng càng rực rỡ. Đường Trung Tông càng thêm khen ngợi khôn cùng. Đến đời Tống, Trần Thánh Du có được hai bức tượng này, rất quý trọng. Năm Chánh Hòa thứ sáu (1116), đem dâng lên Tống Huy Tông. Vua sai vẽ lại để giữ trong cung cấm, ánh sáng càng sáng ngời.</P>

<P>Theo Thiên Trúc Chí, năm Chí Chánh 20 (1360) đời Nguyên, đất Hàng mắc nạn đao binh, chùa cháy sạch, thánh tượng chẳng biết lạc về đâu. Thừa Tướng đăng bảng vàng tìm tượng, bèn tìm được tượng trong trảng cỏ, rước về an trí tại chùa Tây Thiên. Khi ấy, tượng phóng quang minh to lớn, chiếu tận trời thẳm, chia thành ba tia sáng. Một tia chiếu về phương Đông như hướng tới Phổ Đà. Một tia chiếu về Thượng Thiên Trúc, một tia chiếu về phía chùa Tây Thiên hiện thời, đại chúng càng thêm kính ngưỡng.</P>

<P>(3) Đối với câu trước, xin xem lời chú thích thứ tư trong phần hiện tướng ở Phổ Đà. Theo Thiên Trúc Chí, vị Tăng tên Đạo Dực khắc tượng xong, bạch quang tỏa sáng ngời, ban đêm ánh sáng ấy chói mờ các ngọn đuốc, ban ngày che lấp ánh sáng mặt trời.</P>

<P>(4) Theo Phổ Đà Chí, vào đêm Mười Chín tháng Hai năm Chánh Thống thứ hai (1437) đời Minh, Đại Sĩ hiện bảo châu nơi động Triều Âm, phóng đại quang minh.</P>

<P>Năm Khang Hy 50 (1711) đời Thanh, Tri Phủ Mã Trụ Thạch đến Phổ Đà chủ trì đạo tràng Chúc Ly, cảm Đại Sĩ phóng đại viên quang kim sắc trên rặng núi Thanh Lương.</P>

<P>(5) Theo Thiện Nữ Nhân Truyện, vợ của Lã Hoằng đời Tống là Ngô Thị thờ Đại Sĩ có linh cảm. Vì thế, được người ta gọi là Quán Âm Huyện Quân[32]. Trong tịnh thất, bà ta để mấy chục cái bình, chứa đầy nước sạch, tay cầm cành dương tụng chú, cảm Đại Sĩ phóng quang chiếu vào bình.</P>

<P>Vợ chồng ông X... ở Qua Châu, thờ ba tượng Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền Đại Sĩ, sáng tối lễ bái. Năm Vạn Lịch 13 (1585), ba tấm gương sau tượng[33] ban đêm phóng đại quang minh chiếu khắp cả nhà, suốt cả ba đêm như thế.</P>

<P>(6) Theo Phật Tổ Thống Kỷ, đời Tống, trong niên hiệu Nguyên Phong, ngài Lôi Phong Huệ Tài thọ giới nơi các vị như Linh Chi Chiếu v.v... Tượng Quán Âm phóng quang, giảng đường sáng bừng. Ngài Tịnh Từ Thủ Nhất có viết bài Giới Quang Ký.</P>

<P>Đời Lưu Tống[34], Vương Diễm thuở nhỏ sống tại Giao Chỉ, vị Tăng tặng cho tượng Quán Âm để cúng dường. Về sau, trở về kinh, lễ kính không mệt mỏi. Do sửa nhà, phải gởi tượng vào chùa Nam Giản. Mấy tháng sau, chợt mộng thấy tượng đứng trong một xó, bèn đón về. Đêm ấy, tượng Phật trong chùa đều bị trộm sạch. Về sau, tượng phóng quang xa tới ba thước, kim quang lóa mắt.</P>

<P>(7) Theo Cao Tăng Truyện tập 2, đời Ngụy, sư Đạo Thái mộng thấy có người bảo: "Ông sẽ mất năm bốn mươi hai tuổi". Đến năm ấy bị bệnh, một người bạn khuyên quy y Đại Sĩ, liền kiền thành tụng niệm suốt bốn ngày đêm không ngừng. Chợt thấy dưới tấm màn ở chỗ đang ngồi có quang minh từ ngoài cửa chiếu vào, thấy gót chân Quán Âm kim sắc chiếu sáng ngời, bảo Đạo Thái: <I>"Ngươi niệm Quán Âm phải không?"</I> Đạo Thái vén màn cúi đầu lễ thì đã không còn thấy nữa, liền được sống thọ.</P>

<P>Theo Phổ Đà Chí, năm Khang Hy 13 (1674) đời Thanh, có mấy chục chiếc thuyền chài đậu ở bãi Thiên Bộ Sa. Ban đêm chợt thấy ánh lửa sáng tận trời; sáng ra thấy một đầu tượng Phật nằm giữa cát, chẳng biết là từ đâu mà có, mới biết ánh sáng ban đêm chính là Phật quang, liền khênh về thờ tại chùa sau.</P>

<P>(8) Theo Nhĩ Hải Tùng Đàm, chùa Sùng Thánh ở phía Nam thành Đại Lý đất Điền (Vân Nam) tạo tượng Đại Sĩ bằng đồng, cao hai trượng bốn thước, eo thon, chân trần, giống như tranh vẽ của Ngô Đạo Tử. Tượng đúc xong, bạch hào quang phủ lấp suốt ba ngày ba đêm. Đến nay vào khoảng chuyển mùa giữa Xuân và Hạ, cũng thường phóng quang.</P>

<P>Ngài Thích Hoằng Tán đời Thanh muốn báo ân cha mẹ, dùng vải bạch điệp vẽ tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi. Tượng vẽ xong, nhóm đại chúng giảng Đại Bi Sám, tu tập, lễ bái suốt hai mươi mốt ngày, cảm Đại Sĩ phóng kim sắc quang, tay cầm hoa sen xanh và hồng, nhiều lượt phóng bạch quang. Về sau, hễ ai lễ bái, tu tập trước tượng, từ hoa sen thường phóng ra bạch quang. Do vậy, bèn soạn bộ Từ Lâm Tập.</P>

<P>(9) Theo Cao Tăng Truyện tập 3, ngài Tả Khê Huyền Lãng đời Đường vẽ tượng Quán Âm nơi vách điện, đốt hương chú tâm niệm, cảm được ngũ sắc quang. Đạo tục đều chiêm ngưỡng, than là chưa từng có.</P>

<P>Theo Từ Lâm Tập, Thích Khai Quýnh mắc bệnh, thở ra không hít vào được. Khai Quýnh nhất tâm niệm danh hiệu Đại Sĩ, dần dần lành bệnh. Do vậy, nghiêm túc, thành kính vẽ tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn: Người vẽ dùng giấy che mũi, giấy lẫn mực đều được gia trì bằng thần chú. Đêm vẽ xong tượng, quang minh sáng ngời, vách chùa Từ Lâm đều như sắc vàng ròng.</P>

<P>(10) Viên Giác Kinh: <I>"Thí như thanh tịnh Ma Ni bảo châu, ánh ư ngũ sắc, tùy phương các hiện, viên giác tịnh tánh hiện ư thân tâm, tùy loại các ứng, diệc phục như thị"</I> (Ví như bảo châu Ma Ni thanh tịnh tỏa ngời ánh sáng năm màu, phương nào cũng hiện, tánh Viên Giác thanh tịnh hiện trong thâm tâm, ứng theo từng loại cũng giống như thế).</P>

<P>Khởi Tín Luận: <I>"Thể tướng của Giác có bốn nghĩa lớn, ví như gương sạch. Duyên thứ tư huân tập cái gương, nghĩa là nương theo pháp để xuất ly, chiếu khắp tâm chúng sanh khiến họ tu thiện căn, ứng theo tâm niệm mà thị hiện".</I></P>

<P>(11) Khởi Tín Luận: <I>"Nghĩa của Bổn Giác là đối ứng với Thỉ Giác để nói, bởi lẽ Thỉ Giác cũng giống như Bổn Giác<B>[35]</B>".</I></P>

<P>(12) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Phương ngộ thần châu, phi tùng ngoại đắc"</I> (Mới hiểu rằng viên thần châu chẳng phải do bên ngoài mà được). Trong phần giảng về sự xen lẫn của thân và cõi nước, Thể và Dụng thấu triệt lẫn nhau, kinh Hoa Nghiêm có dùng nghĩa <I>"các viên châu nơi cái lưới của Đế Thích hiện bóng, chiếu rọi lẫn nhau".</I></P>

<P><I> </I></P>

<P> <B>2.2.1.6. Hiện thần thông, biến hóa</B></P>

<P><B> </B></P>

<P><B>      <I>1. Bèn có: Nơi tịnh thất bà Trần, trên tòa hiện thân vàng. Trong bình bà cụ Trịnh, tiền chảy thành tượng báu</I></B></P>

<P><B><I>      2. Ngăn thuyền nhằm cảnh tỉnh, sen sắt nở tầng tầng. Chặn di dân khỏi biển, chiếc bát vàng chợt nổi.</I></B></P>

<P><B><I>      3. Giữa sóng Giang Âm, yểng báo chuông trở về. Ni am nước Sở, bồ câu vẽ thánh tượng.</I></B></P>

<P><B><I>      4. Giúp núi Điểm Thương đúc tượng, ngòi rãnh chảy đồng lỏng. Thành tựu khuôn chùa Thiên Trúc, núi Vân Phòng lở đất.</I></B></P>

<P><B><I>      5. Gương Phong Môn, hiện ảnh Đế Thích, chư thiên. Động Triều Âm, hóa hình Diêm La, ngọc nữ.</I></B></P>

<P><B><I>      6. Trí Cần hiếu dưỡng, thấy cành cành ngồi chật Như Lai. Tâm Đạt lòng thành, mộng lá lá in hình Bồ Tát.</I></B></P>

<P><B><I>      7. Quốc vương soi gương, hiện bóng núi thần. Phổ Minh đúc chuông, ngân vang huyện bạn.</I></B></P>

<P><B><I>      8. Thánh tượng Thọ An, từ biển giạt vào. Túi kinh Đổng Cát, từ nước vọt lên.</I></B></P>

<P><B><I>      9. Tay nắm xương Lợi Tân Bồ Tát, cách đêm vẫn còn. Thân hiện vẻ dung nhan thiên nữ, trong khoảnh khắc ba phen biến hóa.</I></B></P>

<P><B><I>      10. Trong lò bà Tôn, vươn đóa sen xanh. Trai phòng ông Mậu, trúc rủ lọng biếc.</I></B></P>

<P><B><I>     11. U Khê gia bị, thân hóa hiện chuông vàng. Phổ Đà hiển linh, cánh hoa trôi nâng ngón.</I></B></P>

<P><B><I>      12. Chùa Quang Phước tôn sùng kim thân, vốn trồi lên từ giữa bùn lầy. Thánh tượng đến xứ Hồi Long, đất thù thắng chẳng lo nước lụt.</I></B></P>

<P><B><I>      13. Phác Lão chùa Thanh Nguyên, vách hiện hoa sen. Cô gái xứ Bình Tuyền, giường ngăn dương liễu.</I></B></P>

<P><B><I>      14. Thiện Tài thoát nạn, nhặt áo da dê, đào, táo. Trâu Hạo tụng kinh, hiện điềm lành xá-lợi, cành tre. Những chuyện như vậy là do Như Huyễn tam-muội, nào có phải hư huyễn, thần kỳ! Hãy nên biết đấy là Đối Trị Tất Đàn, tâm bi mẫn thật ban rộng khắp. Đấy chính là sự thị hiện thứ sáu của Đại Sĩ vậy.</I></B></P>

<P><B><I> </I></B></P>

<P><B>      </B>(1) Theo Biện Chánh Luận, đời Đường, vợ ông Trần Nguyên Phạm là Trương Thị nhất tâm thờ Phật, luôn nguyện tạo tượng Quán Âm để thờ phụng, nhưng thiếu tiền bạc, chẳng thể thỏa nguyện. [Trải qua một thời gian sau], chợt có một tượng Quán Âm bằng vàng, cao chừng năm thước hiện trên tòa cao, tỏa ánh sáng nhiều màu chiếu bốn phía, mọi người đều than lạ.</P>

<P>Theo sách Nam Hải Từ Hàng, đời Tống có bà lão họ Trịnh ở Ngô Giang xin tiền nơi chợ, cất trong bình, muốn thuê vẽ thánh tượng [Quán Âm]. Chợt hàng xóm hỏa hạn cháy lan. Bà cụ tìm được cái bình cũ trong đám tro tàn, tiền đã bị nung chảy thành tượng báu Đại Sĩ, cao chừng một thước, chuỗi anh lạc, tịnh bình, cành dương đều trọn đủ, khéo léo, tinh xảo tuyệt diệu.</P>

<P>      (2) Phổ Đà Chí có nói về nguyên do của cái tên <I>"biển Liên Hoa".</I> Một là dưới thời hoàng đế cuối cùng của nhà Hậu Lương, vị Tăng Nhật Bản tên là Huệ Ngạc, lấy tượng Quán Âm từ núi Ngũ Đài đem về nước mình. Đi đến nơi đây, khắp biển nẩy sanh hoa sen sắt, thuyền không thể tiến được. Hai là khi Tống Thái Tổ sai Vương Quý đến núi lễ Phật, Quý nghĩ: "Giữa chốn biển khơi sóng vỗ ào ạt, làm sao có Bồ Tát được?" Lúc trở về, liền có hoa sen sắt ngăn thuyền. Ba là tướng nhà Nguyên tên Cáp Lạt Ngạt bái yết động Triều Âm, chẳng thấy gì, bèn giương cung bắn vào động. Quay thuyền trở về, khắp biển chợt trổ đầy hoa sen sắt. Bốn là Minh Thái Tổ sai Thang Hòa đến Phổ Đà, muốn phá chùa. Thuyền đậu cạnh núi Chiêu Bảo, chợt mặt biển hiện ra hoa sen sắt, cánh hoa sáng rực như sắc vàng nung, xông chiếu khắp trên dưới, thuyền đi chẳng được phải quay lại. Hơn nữa, Thang Hòa toan dời dân đảo đi nơi khác, thấy trên mặt biển nổi lên một cái bát vàng, nay hãy còn tên núi là Kim Bát Vu Sơn (núi bát vàng).</P>

<P>      (3) Theo Quái Viên, chùa Quán Âm ở Giang Âm được trùng tu vào thời Gia Tĩnh nhà Minh, không có chuông. Một hôm, ngoài sông trôi tấp vào hai cái chuông to, sóng dữ vỗ vào chuông, tiếng vang mấy dặm. Trên mỗi chuông có một con yểng đậu, kêu liên tục: <I>"Chuông trong chùa Quán Âm".</I> Dân cư bèn đưa một chuông vào chùa, chuông kia để xuôi theo dòng, chẳng biết về đâu.</P>

<P>Đời Tống, chùa Thiên Tiên ở Tương Dương, trên vách điện vẽ hình Thiên Thủ Quán Âm. Tương truyền, đầu niên hiệu Vũ Đức đời Đường, vị ni trong chùa tìm thợ vẽ hình; có một cặp vợ chồng bế đứa con gái đến xin nhận vẽ, hạn định bảy ngày sẽ vẽ xong cả điện. Đến ngày thứ sáu, bà ni nghi ngờ, đẩy cửa vào, thấy vắng lặng, có hai con bồ câu bay vụt đi. Thánh tượng đã vẽ thành, chỉ có tay kết ấn là chưa vẽ xong.</P>

<P>      (4) Chùa Sùng Thánh ở phía Tây đất Điền nằm dưới chân núi Điểm Thương, to lớn, đẹp đẽ, tinh xảo, lợp ngói lưu ly[36], sàn và lối đi lót toàn bằng đá Điểm Thương. Trong niên hiệu Thiên Bảo, tăng sĩ nhà chùa quyên mộ tạo tượng Đại Sĩ. Còn chưa đủ số thì ban đêm trời mưa to, ngòi rãnh đều tuôn ra chất đồng lỏng, bèn khởi công đúc tượng đồng. Tượng toàn bằng đồng vàng, chỉ có dưới chân là bằng đồng đỏ, ấy là vì đồng không đủ, cho nên Đại Sĩ ban thêm. Chỗ đồng đắp thêm vào có kẽ hở to bằng cây kim, ghé tai nghe như có tiếng sóng vỗ oàm ạp trên sông. Ghé miệng hút thì cam lộ đầy miệng. Xem chuyện này trong sách Nhĩ Hải Tùng Đàm và Liễu Nhai Ngoại Biên.</P>

<P>Theo Hồ Nhuyên Tạp Ký, trong niên hiệu Khang Hy đời Thanh, Thích Hối Sơn đúc tượng Đại Sĩ bằng đồng ở chùa Thiên Trúc, muốn làm khuôn đúc tượng, nhưng khó tìm được đất. Chợt gặp cơn mưa lũ, núi bị lở, chỗ núi lở phía sau Bạch Vân Phòng lộ ra toàn là đất sét nhiều đến một trăm thạch, đủ dùng [để làm khuôn].</P>

<P>      (5) Theo Quái Viên, phía trong cửa Phong Môn thành Tô Châu, có vợ chồng nhà nọ thờ Quán Âm. Nơi tấm gương treo phía sau tượng, chợt hiện bóng hạc bay vờn trong mây. Lại hiện hoa sen nhiều màu và hình tướng Đế Thích, chư thiên, cả vạn người đến xem.</P>

<P>Theo Phổ Đà Chí, năm Tuyên Đức thứ hai (1427) đời Minh, trong động Triều Âm hiện tướng Diêm La Thiên Tử, có hai ngọc nữ đứng hầu.</P>

<P>      (6) Theo Cao Tăng Truyện tập 2, sư Trí Cần đời Đường tinh thành, dũng mãnh, việc làm đều được ngầm gia hộ. Mẹ Sư bị bệnh gầy mòn, Sư siêng năng vì mẹ niệm Quán Âm, lá cây trong nhà đều hiện hình hóa Phật, cả nhà cùng thấy, bệnh mẹ liền lành.</P>

<P>Theo Linh Cảm Phú, Thích Tâm Đạt trụ tại Phong Tra Am ở Ninh Hải, chí thành lễ Quán Âm, mộng thấy những chiếc lá trên cây trong sân đều hiện hình Quán Âm, đạo tâm càng thiết tha.</P>

<P>      (7) Theo Đường Tây Vực Ký, xưa kia, quốc vương Tăng Già La ở Nam Hải lấy kính soi mặt, chẳng thấy mặt mình mà thấy trong rừng cây Đa La ở nước Ma Kiệt Đà, có ngọn núi nhỏ, trên núi có tượng Quán Âm Bồ Tát. Do vậy, bèn vẽ hình lại cho người đi tìm, chỉ thấy Cô Sơn là gần giống. Vì thế bèn dựng tinh xá, đây chính là nơi Đại Sĩ thị hiện.</P>

<P>Vị Tăng đời Tống là Phổ Minh tu Quán Âm Sám Pháp, được thấy Đại Sĩ. Về sau đúc chuông, tiếng chuông vang xa đến bảy mươi dặm.</P>

<P>      (8) Theo Hiện Quả Tùy Lục, Trương Đại Trị trấn thủ Sùng Xuyên, có tượng Đại Sĩ từ ngoài biển giạt vào, thỉnh tượng đến phía Nam thành, tu bổ ngôi chùa cổ Thọ An để thờ phụng.</P>

<P>Theo Minh Tường Ký, đời Tấn, Đổng Cát tụng Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh rất tinh tấn, có ai bị bệnh mời ông đến tụng kinh phần nhiều lành bệnh. Có người cùng chí hướng là Hà Hoảng Giả trúng độc, vội cho mời ông. Đi giữa đường, nước suối tràn dâng, chẳng thể đi được nữa. Ông Cát nói: "Con cứu nạn gấp cho người ta, chẳng tiếc thân mạng, xin đức Phật và Quán Âm hãy thầm soi xét lòng thành" rồi đội túi kinh lên đầu, nhào xuống nước lội qua. Lẽ ra nước phải lút đầu, nhưng chỉ ngập tới gối. Lên được bờ, túi kinh rơi mất, vừa buồn vừa hối hận. Đến nhà ông Hoảng, thấy túi kinh đặt trên tòa cao, buồn vui xen lẫn, nâng lên xem, kinh vẫn khô như cũ. Khi ấy, người trong thôn đều tin theo Phật.</P>

<P>      (9) Theo Cảm Thông Lục, ông Lưu Tát Ha đời Tấn, cõi đời gọi là Lợi Tân Bồ Tát, mất đi, xương vụn như hạt quỳ (hạt hoa hướng dương). Hễ ai mắc tai chướng liền đến chỗ ông mất tìm [xương ông] trong cát, sỏi; hễ tìm được thì cát, không tìm được thì hung. Có người tìm không được, bèn tìm ở phía bên trái tượng Quán Âm, đến tối lạc mất. Sáng hôm sau đi tìm, thấy vẫn ở trên tay của tượng. Trong Bắc Tề Thư[37], nơi tiểu truyện của Từ Chi Tài có chép: Vào đầu niên hiệu Vũ Thành, ông Từ thấy trên không trung có vật năm màu, đến gần, vật ấy biến thành một phụ nữ, thân cao mấy trượng, trong khoảng bữa ăn, biến thành Quán Thế Âm Bồ Tát.</P>

<P>      (10) Đời Minh, ông Trần Trang Tĩnh thờ Phật, gả con gái cho họ Tôn. Ngày Mười Chín tháng Sáu năm Vạn Lịch thứ 5 (1577), mở hội Quán Âm Trai. Trai hội xong, đốt giấy trong lò; lúc tro sắp nguội, bèn đặt lò dưới bàn Phật. Từ trong lò chợt vươn lên một cành sen xanh hãy còn ngậm búp, sắc biếc dường như nước đọng. Ba hôm sau, do bị một bà bầu sờ vào, hoa liền bị héo.</P>

<P>Theo Quái Viên, Mậu Nguyên đời Minh là người huyện Thường Thục, trong trai phòng[38] thờ tượng Quán Âm. Trong niên hiệu Vạn Lịch, Mậu Nguyên đi dự lễ Chúc Ly ở chùa Thiên Trúc trở về, chợt thấy dưới tòa Đại Sĩ trổ một búp măng. Trong nửa tháng, măng mọc dài hơn một trượng; từ chót đầu búp măng lại trổ những giò măng, nhánh dài rũ xuống, những nhánh ngắn cong lên kết thành hình cái lọng biếc, che đầu Đại Sĩ.</P>

<P>      (11) Đời Minh, đạo tràng U Khê tại núi Thiên Thai đúc chuông to. Thị giả Hữu Pháp trì Phổ Môn Phẩm một ngàn biến để cầu gia bị, mộng thấy Bồ Tát hóa thân làm hồng chung, kim quang chói ngời. Tụng kinh đủ số thì chuông đúc xong.</P>

<P>Theo Phổ Đà Chí, tượng Quán Âm Bất Khẳng Khứ cũ nhiều lượt hiện sự thần dị. Viên quan đứng đầu quận bèn thỉnh tượng vào thành để cầu phước cho dân. Chợt có vị Tăng đi đến, xin gỗ quý để khắc. Tượng khắc xong, chẳng biết biến đâu mất! Đến niên hiệu Gia Định đời Tống, ngẫu nhiên tượng bị sứt mất một ngón tay. Sau này, ở trước động, giữa sóng nổi lên một cánh hoa, nhìn kỹ thì ra là ngón tay bị mất [ở ngay trên cánh hoa đó]. Tượng đang được thờ hiện thời chính là tượng này.</P>

<P>      (12) Theo sách Hải Nam Nhất Chước, vào năm thứ mười mấy thời Đạo Quang nhà Thanh, Tuần Phủ tỉnh Giang Tô là Lâm Tắc Từ tâu lên vua: Trong năm Khang Định nguyên niên (1040) đời Tống, bị đại hạn, chợt có tượng Quán Âm bằng đồng từ bùn lầy trồi lên, đem thờ trong chùa Quang Phước ở núi Đặng Úy thuộc Ngô Huyện, trời liền đổ mưa to. Từ thời Nguyên, Minh trở đi, mỗi lần bị hạn hán hay lụt lội, cầu đảo liền ứng nghiệm ngay. Năm trước hạn hán, thỉnh tượng nhập thành, nhiều lượt mưa thấm đẫm. Năm nay, vào lúc giao mùa giữa Xuân và Hạ, vừa mới khấn thầm, liền được linh ứng. Và khi bệnh dịch lưu hành, hễ cầu đảo liền ứng nghiệm, ân trạch thấm khắp đất Tam Ngô[39].</P>

<P>Bài ký Hồi Long Am ở huyện Lâm Xuyên có đoạn: - Miền Bắc châu Bác Khê này rộng chưa đầy một dặm, bốn mặt nước bao quanh. Xưa kia có người từ Nghi Hoàng dùng thuyền chở tượng Đại Sĩ lên quận. Đến đây, thuyền không tiến được. Đối trước tượng, bói xem có phải là Đại Sĩ muốn lưu lại nơi đây để lập chùa hay không? Quả nhiên bói được quẻ tốt, do vậy dựng nhà thờ tượng trong ấy. Đây không phải là vùng đất cao, nhưng khi nước lụt chẳng bao giờ ngập đến nền chùa, ai nấy đều lấy làm lạ.</P>

<P>(13) Theo Hiện Quả Tùy Lục, Nghê Phác Lão bị bộ Công nhốt lầm vào ngục, ngày đêm đảnh lễ Đại Sĩ, lễ sám, tụng kinh, đột nhiên trong ngục hiện ra hoa sen đầy vách, không lâu sau được thả ra. Về sau, cụ xuất gia, trụ trì chùa Thanh Nguyên, hiệu là Khiếu Phong hòa thượng.</P>

<P>Theo Liễu Nhai Ngoại Biên, một cô gái ở Bình Tuyền, thuở nhỏ vừa thông minh vừa xinh đẹp, dốc lòng thành thờ phụng Quán Âm. Về sau, bị gả cho con nhà họ Vưu, [chàng Vưu] dáng vẻ thô lậu. Lúc sắp thành hôn, cô gái tự cảm thương bạc mệnh, cầu khẩn Đại Sĩ, nguyện giữ thân thanh tịnh. Đã thành hôn, tuy nằm cùng giường, chàng Vưu thấy một đống dương liễu chặn ngang thân cô gái, rốt cục chẳng thể gần gũi vợ được!</P>

<P>      (14) Theo sách Pháp Uyển Châu Lâm, Từ Thiện Tài đã bị giết rồi sống lại, trải qua mấy bữa, hết sức đói lạnh, bèn đi dọc theo khe nước dưới hàng cây, nhặt được một cái áo cừu bằng da dê, một đôi vừa giày vừa vớ, phía trước lại có một bát đựng hơn một thưng vừa đào vừa táo, xanh tươi, đỏ, trắng như vừa mới hái, nên khỏi đói lạnh. Nếu chẳng phải là thần lực của Đại Sĩ, há đang giữa mùa Đông lại nhặt được đào, táo tươi nguyên?</P>

<P>Theo Cư Sĩ Truyện, vào đời Tống, lúc Trâu Hạo làm quan ở Tương Dương, mộng thấy Đại Sĩ đích thân thuyết pháp cho mình. Do vậy bèn vẽ tượng được thấy trong mộng. Thời Tống Huy Tông, ông Hạo làm quan đến chức Thị Lang. Lúc Thái Kinh[40] nắm quyền, đẩy ông ta đi Thiều Châu; ông Hạo thờ phụng tượng vẽ càng thêm kiền thành, quỳ tụng Hoa Nghiêm, có xá-lợi xuất hiện trong tay áo. Phía sau bức tượng ấy sanh ra ba nhánh trúc, cành che rủ xuống, giống bức vẽ rừng trúc và gộp đá Phổ Đà trong cõi đời chẳng khác gì!</P>

<P> </P>

<P>      <B><I>Phàm trong cõi này, hoặc hiện sắc thân, hoặc bày huyễn tướng, lớn thì như thế giới, núi, sông, nhỏ thì như vi trần, ngọn cỏ, hạt cải, không gì chẳng thuận theo lòng người mong muốn, ứng niệm mà sanh. Như vậy thì đáng tin tưởng rằng Pháp Thân Đại Sĩ trải bao kiếp vẫn chẳng mòn, luôn thường viên mãn trọn khắp mười phương </I></B><I>(Từ đây trở đi là tổng kết về sự thị hiện, răn nhắc khuyên tu, gồm bốn đoạn. Đoạn này nhằm tổng kết đoạn văn nói về sự thị hiện, ca tụng Pháp Thân thường trụ).</I></P>

<P> </P>

<P>      Hoa Nghiêm Kinh: <I>"Thập Địa Bồ Tát tùy tâm sở niệm, năng ư thân trung, hiện hằng hà sa thế giới vi trần số Phật sát, phục quá thử số vô lượng vô biên"</I>(Thập Địa Bồ Tát tùy theo tâm niệm có thể từ trong thân hiện hình trong các cõi Phật nhiều bằng số vi trần trong hằng hà sa thế giới, lại còn hiện hơn số ấy vô lượng vô biên lần).</P>

<P> </P>

<P>      <B><I>1. Tín tâm đã định, xin hãy hiểu nghĩa thêm.</I></B></P>

<P><B><I>      2. Pháp Thân của chư Phật chính là tự tánh của chúng sanh.</I></B></P>

<P><B><I>      3. Nước dậy sóng mòi, chỉ là tùy duyên. Vàng và nhẫn vốn chẳng biến đổi.</I></B></P>

<P><B><I>      4. Nổi chìm Ngũ Trược, thân thanh tịnh chẳng nhơ. Đọa lạc tam đồ, đức trang nghiêm vẫn đủ.</I></B></P>

<P><B><I>      5. Uổng công nhận bọt nước, bỏ bê biển cả, luyến mến Tứ Đại giả danh. Lầm tớ là chủ, theo đuôi duyên ảnh lục trần. Chạy theo dục trong khoảnh khắc, chịu đắng cay trải kiếp, chẳng đáng thương lắm thay!</I></B> <I>(Đoạn này ca tụng Phật tánh của chúng sanh và Phật tánh của Đại Sĩ chẳng hai, chẳng khác, phá trừ tà kiến Đoạn Diệt).</I></P>

<P> </P>

<P>      (2) Phẩm Minh Pháp của kinh Hoa Nghiêm có câu: <I>"Nhất thiết chúng sanh, dữ chư Như Lai đồng nhất thể tánh"</I> (Hết thảy chúng sanh và các Như Lai có cùng một thể tánh).</P>

<P>      (3) Khởi Tín Luận: <I>"Như nước biển và sóng, chẳng một, chẳng khác. Sóng do gió động, chứ tánh nước chẳng động. Nếu như lúc gió lặng thì sóng động liền diệt, chứ tánh nước chẳng diệt. Chúng sanh cũng vậy, tâm thanh tịnh nơi tự tánh do gió vô minh động nên khởi lên sóng thức. Ba chuyện như vậy chẳng một, chẳng khác; nhưng tịnh tâm nơi tánh là cái gốc của thức dao động. Khi vô minh diệt, sự lay động của thức bị diệt theo, nhưng trí tánh chẳng hoại"</I>. Mật Nghiêm Kinh: <I>"Như Lai thanh tịnh tạng, thế gian A Lại Da, như kim dữ chỉ hoàn, triển chuyển vô</I> <I>sai biệt"</I> (Thanh tịnh tạng của Như Lai và A Lại Da Thức của thế gian, giống như vàng và nhẫn, xoay chuyển không sai khác).</P>

<P>      (4) Khởi Tín Luận: <I>"Tâm tánh vốn là thanh tịnh, tuy có nhiễm tâm, nhưng thường sáng sạch chẳng biến đổi".</I> Sách Đại Thừa Chỉ Quán cũng viết: <I>"Từ vô thủy đến nay, tuy bị pháp nhơ bẩn là vô minh che đậy, nhưng tánh tịnh chẳng đổi, vì nhiễm pháp vốn lìa tâm tướng".</I> Sách còn viết: <I>"Khi tâm này bị nhơ, vẫn trọn đủ hai tánh phước và trí, chẳng khác gì Phật. Chỉ vì bị nhiễm pháp che lấp nên [hai thứ tánh phước và trí] chẳng thể hiện lộ".</I></P>

<P>      (5) Lăng Nghiêm Kinh: <I>"Thí như trừng thanh bách thiên đại hải khí chi, duy nhận nhất phù âu thể, mục vi toàn triều, cùng tận doanh bột"</I> (Ví như vứt bỏ trăm ngàn biển cả trong lặng, chỉ chấp nhận một bọt nước coi như là toàn bộ biển khơi, tột cùng các đại dương).</P>

<P>Duy Ma Kinh: <I>"Tứ đại hợp cố, giả danh vi thân. Tứ đại vô chủ, thân diệc vô ngã"</I> (Do tứ đại hợp lại nên giả gọi là thân, tứ đại không có chủ, thân cũng không có ngã).</P>

<P>Kinh Lăng Nghiêm có thí dụ nhận giặc làm con, nhà Thiền bảo là "coi tớ là chủ", đều nhằm tỷ dụ sự lầm tưởng ý thức là chân tâm vậy!</P>

<P>Viên Giác Kinh: <I>"Vọng nhận tứ đại vi tự thân tướng, lục trần duyên ảnh vi tự tâm tướng"</I> (Lầm tưởng tứ đại là tướng của tự thân, coi hình bóng của sáu trần duyên là tướng của tự tâm).</P>

<P> </P>

<P>      <B><I>May gặp được bậc Đại Thánh, là bậc đạo sư trong biển trí, hằng thuận chúng sanh, làm từ phụ trong nhà lửa. Muốn cầu giải thoát thì Ngài đáng làm bậc quy y, huống là những điều cứu khổ ban vui vụn vặt. Ngài có thể làm chỗ nương tựa để chấn động kẻ mù, khơi gợi kẻ điếc, noi gương sáng cho thế hệ sau dõi theo lớp trước</I></B> <I>(Đoạn này nối tiếp ý "tâm tánh bất diệt" trong đoạn văn trên, khuyên người hãy quy y Đại Sĩ. Nêu chung lòng Bi cứu khổ, lòng Từ ban vui của Đại Sĩ để khuyến khích hành giả).</I></P>

<P> </P>

<P>      Trong phần kinh văn của kinh Hoa Nghiêm kể về sự tham học Đại Sĩ của Thiện Tài đồng tử có câu: <I>"Thiện tri thức giả, trí hải đạo sư"</I> (Thiện tri thức là bậc dẫn đường trong biển trí). Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có câu: <I>"Cửu giả hằng thuận chúng sanh"</I> (Điều thứ chín là hằng thuận chúng sanh).</P>

<P> </P>

<P>      <B><I>1. Xét ra thì huyễn thân không có Thể, trọn chẳng có gì dính dáng sanh tử. Cảnh vọng toàn là không, ghét - yêu lấy đâu nương gởi?</I></B></P>

<P>      <B><I>2. Chẳng biết thân an thì đạo mới tốt đẹp, duyên đủ rồi mới hòng chứng quả.</I></B></P>

<P><B><I>      3. Trong lời phát nguyện của ngài Vĩnh Gia còn mong gìn giữ thân tâm. Trong bài lễ văn của ngài Đại Huệ, cũng cầu An Lạc. Chưa từng thật chứng, đừng chuộng bàn xuông. Chỉ vững tín tâm, quyết không luống uổng</I></B> <I>(đây là vì kẻ ham chuộng Khẩu Đầu Thiền mà đâm một mũi kim, khuyên người ta hãy chết lòng noi theo thực tiễn, quy y Đại Sĩ)</I></P>

<P> </P>

<P>      (2) Trong Tiểu Chỉ Quán có đoạn: <I>"Kinh dạy</I>: <I>"Thân an tắc đạo long"</I> (Thân an ắt đạo thịnh). Niết Bàn Kinh: <I>"Ca Diếp Bồ Tát ngôn: 'Nhược lợi căn giả, hà bất hiện tại nhập Niết Bàn da?' Phật ngôn</I>: - <I>Thị nhân Tứ Đại doanh liệt, bất năng tu đạo. Hoặc Tứ Đại khang kiện, vô hữu phòng xá, ẩm thực, y phục, chúng duyên bất cụ, bất đắc Niết Bàn. Hữu nhất tỳ-kheo tu đạo, bất đắc quả. Ngã cáo A </I><I>Nan</I><I>, dữ dĩ phòng xá, cụ chư sở tu, tức đắc Tu Đà Hoàn quả"</I> (Ca Diếp Bồ Tát nói: - Nếu là kẻ lợi căn, sao hiện thời chẳng nhập Niết Bàn? Phật dạy: - Người ấy Tứ Đại suy yếu, chẳng thể tu đạo. Hoặc là Tứ Đại mạnh khỏe, nhưng không có nhà cửa, thức ăn, y phục, chẳng đầy đủ các duyên nên chẳng đắc Niết Bàn. Có một tỳ-kheo tu đạo, chẳng đắc quả. Ta bảo A Nan cấp nhà cửa cho người ấy, lo đủ những thứ cần dùng, người ấy liền đắc quả Tu Đà Hoàn).</P>

<P>      (3) Trong bài Phát Nguyện Văn của ngài Vĩnh Gia có đoạn: <I>"Trước khi đắc đạo, thân không bệnh bất ngờ, chẳng bị chết yểu. Đúng khi hết tuổi thọ thì thân không đau khổ, tâm chẳng tán loạn".</I> Lại còn có đoạn: <I>"Ở nơi an ổn, không có các chướng nạn, trộm cắp, giặc cướp, phép vua, lao ngục, gông cùm xiềng xích, đao, thương, tên, giáo, thú dữ, độc trùng, té núi, chết chìm, lửa vây, gió cuốn, nhà sụp, kèo mục. Phàm hết thảy các tai nạn đều chẳng phải hứng chịu"</I>. Ngài Đại Huệ Cảo nhiều lần được Đại Sĩ gia bị, liền soạn Lễ Quán Âm Văn để những điều mong cầu được tăng thêm, có những câu như: <I>"Con nay thọ trì thánh hiệu, lễ bái thánh tượng, diệt tội, tăng huệ, đắc đại thọ mạng, đắc đại an lạc".</I></P>

<P><I> </I></P>

<P><B>* Phụ Lục - Phổ Khuyến Giới Sát Ngật Tố Vãn Hồi Kiếp Vận Thuyết </B>(Khuyên khắp mọi người hãy kiêng giết ăn chay để vãn hồi kiếp vận)</P>

<P> </P>

<P>      <I>(Bồ Tát thường hiện thân loài vật để răn nhắc người đời hãy kiêng giết ăn chay; vì thế, tôi đem bài văn này đính kèm sau phần nói về sự thị hiện hòng làm sáng tỏ ý nghĩa của sự hiện thân trong loài vật ngõ hầu người đọc sanh lòng kinh sợ)</I></P>

<P> </P>

<P>      Người đời quen thói tàn nhẫn lắm thay! Chuyện gì cũng lấy sát sanh để thành lễ, chẳng biết như vậy là sai! Ôi! Hết thảy chúng sanh sống cùng ta trong vòng trời đất, cùng có cái thân huyết nhục, đồng bẩm thụ tánh tri giác, cùng biết tìm lành tránh dữ, tham sống sợ chết. Huống chi kinh Phật thường nói: "<I>Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều kham làm Phật, đều trong vô lượng kiếp đến nay, đây - kia làm cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc của nhau".</I> Há có nên vì muốn báo ân, báo đức, cầu phước, cầu thọ, hoặc tế lễ thiên địa, thần thánh, và cúng giỗ tổ tông, họ hàng, hoặc phụng dưỡng cha mẹ, hoặc đãi đằng khách khứa, bè bạn, hoặc vì sướng khoái bụng miệng ta, bồi bổ thân thể ta, mà chuyện gì cũng đều giết các sanh mạng để mong bày tỏ tấc lòng thành của ta, thỏa thích tâm ta, chẳng nghĩ đến chúng nó hứng chịu các nỗi khổ cùng cực, chẳng đoái nghĩ đại ân của những người từng làm thân thuộc đời trước vậy.</P>

<P>Vả nữa, thiên địa lấy hiếu sanh làm đức, Nho gia vâng giữ ý niệm <I>"cùng là ruột thịt, vật giống hệt như ta"</I>, sao chẳng sanh tâm trắc ẩn nhân từ yêu thương muôn vật, mà cứ quen thói bạo hành mạnh ăn thịt yếu? Phải yêu thương loài vật thì mới có thể yêu thương dân được, hễ thương dân ắt phải yêu thương loài vật! Nếu đối với dị loại còn chẳng nỡ giết thì chắc chắn chẳng nỡ giết hại người dân là đồng loại của ta. Nếu coi giết hại loài vật là chuyện bình thường, ắt sẽ giết người ngập thành tràn đồng, chẳng những không thương xót, ngược lại còn coi đó là chuyện sung sướng, khoái trá. Ấy là vì hễ thói giết chóc vừa tăng trưởng thì cái tâm nhân từ sẽ bị mất ngay!</P>

<P>Còn như tế lễ thiên địa, thánh nhân, há chẳng thể dùng nếp, gạo thơm[41], rau, quả để tỏ lòng thành, cần gì cứ phải sát hại mạng loài vật? Chúng ta sống trong vòng trời đất, được trời đất che chở thì phải nên tích đức, làm điều nhân để bổ khuyết quyền dưỡng dục của trời đất. Nếu luận về chuyện báo ân, dù có tan xương nát thân cũng khó thể báo đáp được muôn một, há những loại thịt trâu, dê, lợn... tanh tưởi, hôi dơ, lại có thể [dùng để] báo ân được ư? Huống chi Thiên Đế và người cõi trời thanh tịnh, thơm tho, thanh khiết há lẽ nào còn hâm hưởng[42] những mùi vị ô trược, hôi nhơ ấy chăng? Ấy chính là dùng cái tâm tham lam cốt thỏa thích bụng miệng của chính mình để suy lường tâm trời đất. Lại xem trời đất như những quỷ thần ở trên không, dưới nước thì vu báng, miệt thị, khinh nhờn, ô nhục thiên địa quá đáng! Ngay như hai kỳ tế lễ Xuân - Thu ở thánh miếu văn võ[43], các tỉnh, phủ, châu, huyện đều giết trâu, dê, lợn v.v... để cúng tế, ngỡ đó là báo ân, đáp đức, sùng thánh, trọng đạo.</P>

<P>Quang Tự nguyên niên (1875) đời Thanh, tại Văn Miếu thuộc tỉnh thành Thiểm Tây, một ngày trước bữa tế mùa Thu, tôi đến đó lễ yết. Trong điện Đại Thành[44], những con trâu, dê, lợn v.v... đều bày trên giá, để nguyên con, chỉ mổ bỏ ruột gan mà thôi. Mùi tanh hôi, tình trạng thê thảm gai mắt, nhức mũi, chẳng nỡ thấy nghe! Khi ấy, tôi vừa mới theo đòi học vấn, vẫn còn bắt chước Hàn, Âu báng Phật, mà đã khôn ngăn than thở sườn sượt: "Có nên biến lòng kính trọng thánh nhân rốt cuộc trở thành sự khinh nhờn thánh nhân đến mức cùng cực như thế này chăng?" Cứ thử bảo những người tế lễ ấy ngủ lại qua đêm trong điện để họ nhìn cho quen mắt, ngửi cho quen mùi, ắt họ sẽ cật lực cự tuyệt chẳng chịu ở! Huống hồ bậc đại thánh nhân<I> </I>trăm đời <I>"Tổ Thuật Nghiêu Thuấn, Hiến Chương Văn Vũ, Vạn Thế Sư Biểu"</I>[45] của Nho Gia lại cam lòng hâm hưởng những vật ô uế chẳng thể kham nổi ấy ư?</P>

<P>Lại như ở phía Đông ngoài cửa miếu là chỗ để giết trâu, tôi trông thấy một cái nồi lớn, nước chứa trong ấy ô trược chẳng thể kham nổi vì nó là nước để rửa trâu. Nghĩ đến liền muốn phát ói. Than ôi! Bẩn thỉu đến thế mà dùng làm lễ vật để tôn kính thánh nhân được ư? Nếp, tẻ không thơm tho, do Minh Đức bèn thành thơm tho, sao không dùng nếp, gạo thơm, rau, quả để tỏ lòng chí thành? Hơn hai ngàn huyện trong thiên hạ, mỗi năm hai lần khinh nhờn Văn Võ nhị thánh[46], khiến cho mấy vạn sanh linh đều lâm vào tử địa, thật là "khinh thánh, giết vật" quá lớn! Sao không có bậc đại nhân tôn kính thánh nhân, yêu tiếc sanh mạng loài vật ra mặt thay đổi vĩnh viễn lệ cũ, lập ra cách thức mới, khiến cho oai linh của hai vị thánh chẳng bị những thứ đó xông sực ô uế, mấy vạn sanh mạng chẳng bị làm thịt để làm thức ăn cho những người tế lễ? Thánh nhân ôm lòng "thương dân, yêu vật", há muốn chính mình bị ô uế, khinh miệt, lại còn làm cho mấy vạn sanh linh cùng lâm vào tử địa ư?</P>

<P>Quan Đế lúc còn sống thì tinh trung lòa nhật nguyệt, hạo khí ngút trời đất, phú quý chẳng dâm, nghèo hèn chẳng thay đổi, oai vũ chẳng thể khuất phục; mất đi, làm thần cai quản núi Ngọc Tuyền. Thời Tùy Văn Đế, Trí Giả đại sư đến Ngọc Tuyền[47], Quan Đế bèn vận dụng thần lực xây dựng chùa miếu, lại cầu được truyền giới để làm cái gốc cho đạo Bồ Đề và phát nguyện ủng hộ Phật pháp <I>(xem Quan Đế Toàn Thư và Ngọc Tuyền Tự Chí).</I> Vì thế, các tùng lâm trong thiên hạ đều gọi Ngài là Già Lam Bồ Tát, cùng với Vi Đà Bồ Tát trấn giữ sơn môn. Hơn một ngàn năm qua, hộ quốc, hộ dân, được tôn lên địa vị đế vương, há cam lòng nhận lãnh những con trâu, dê, lợn v.v... còn sống ô uế chẳng kham nổi, cho chúng nó là những thứ ngon lành để hâm hưởng ư? Dẫu là bọn tham ăn hèn tệ cùng cực trong thế gian cũng chẳng đến nỗi đành lòng ngửi những thứ hôi nhơ ấy, mà lại bảo là Quan Đế ưng chịu ư? Sao lại coi hai vị thánh nhân văn võ hèn tệ cùng cực đến mức như thế ấy? Ô hô, buồn thay! Nếu như có bậc đại nhân hiểu rõ lý lẽ, thực hành lòng kính thật sự dấy lên sửa bỏ thói quen hèn hạ khinh thánh hại vật ấy, tôi sẽ thơm thảo đảnh lễ, chúc tụng khôn ngằn.</P>

<P>Còn như cúng bái tổ tông, cố nhiên nên dùng nếp, gạo thơm, rau, quả để tỏ lòng tôn kính, cần gì phải giết chóc hoặc mua [thịt, cá] từ hàng đồ tể? Cổ nhân cúng tổ tiên còn cầu thóc lúa từ nơi người có lòng nhân, nay vì trọn hết lòng thành tưởng nhớ người trước của ta mà khiến cho những loài vật kia đều chịu nỗi thảm bị giết hại cắt xẻ thì chẳng những đánh mất lòng nhân trắc ẩn của chính ta mà còn đánh mất sâu xa đạo tôn kính tổ tiên! Lấy giết chóc để tỏ lòng kính, ấy là đại nghịch! Huống chi tổ tông chẳng phải là bậc thánh nhân đã đoạn Hoặc chứng Chân, ắt phải luân hồi trong lục đạo tam đồ, chẳng vì họ làm phước để họ được siêu thăng thì là đã đánh mất đạo [hiếu kính] của người đời sau, há có nên mặc tình sát sanh gây nên chuyện "đã té giếng còn bị quăng đá" nữa ư?</P>

<P>Còn như phụng dưỡng cha mẹ, thức ăn rau quả há chẳng đủ vị ngọt bùi mà cần phải ăn thịt, hãm cha mẹ ta vào cảnh đời đời kiếp kiếp bị giết để đền trả mối nợ oan uổng vì được ta hiếu dưỡng hay chăng? Nếu chẳng biết sự lý tam thế nhân quả, luân hồi lục đạo thì còn dung thứ được. Nay đã hiểu rõ chuyện người và súc sanh tuần hoàn, báo ứng, những chuyện ấy được thấy thấu triệt trong hai mươi bốn bộ sử và các sách vở, mà vẫn cố chấp thói quen hèn tệ chẳng chịu sửa đổi, cứ mong cho chính mình và cha mẹ cùng hứng chịu quả báo ấy, kẻ như vậy chẳng đáng gọi là hạng đã mất trí cuồng tâm, đem Tỳ Sương, trầm độc dâng cho cha mẹ mà mong được trường thọ, yên vui ư? Đáng buồn thay! <I>(Những sự tích nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo trong các bộ sử chép rất nhiều. Muốn biết đại khái thì hãy xem sáu câu vấn đáp về vấn đề "thân diệt, tinh thần vẫn còn" trong ba trang từ bốn mươi ba đến bốn mươi lăm của bộ Dục Hải Hồi Cuồng sẽ biết đại lược. Lại nữa, Phật, Bồ Tát muốn làm cho con người kiêng giết, phóng sanh nên dùng lòng đại từ bi, thị hiện thân trong dị loại, giết rồi mới biết là thánh nhân thị hiện, khiến cho con người chẳng dám giết các loài vật để ăn ngõ hầu đây - kia</I> <I>cùng được giải thoát. Chuyện như vậy rất nhiều, chẳng thể ghi trọn, nên xem đoạn văn "Vật loại hiện tướng" (hiện thân trong loài vật) nơi trang ba mươi trong quyển 1 của bộ Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng sẽ biết đại khái. Nguyện những ai xem xong đều sanh chánh tín).</I><I></I></P>

<P>Nói đến chuyện đãi đằng khách khứa, bạn bè, vốn nhằm để thỏa lòng, phô bày tình cảm, sao lại dùng chuyện sát sanh thê thảm để giúp cho bữa tiệc thanh khiết ấy? Loài vật cùng với ta và bạn ta chẳng hề có nỗi oán giết cha, sao lại xẻ thịt chúng bày thành tiệc để giúp cho khách khứa vui sướng? Cứ thử nghĩ đến tiền nhân hậu quả thì dù có ăn cũng chẳng thể nuốt trôi được! Người đời cưới vợ sanh con vốn để tiếp nối dòng giống, đó là chuyện tốt lành nhất, nếu như ăn thịt thì không còn gì hung hiểm hơn được nữa! Ta muốn cho vợ chồng giai lão[48], con cháu đầy đàn, mà làm cho những con vật kia chịu nỗi bi thương lìa đàn, hoặc bị nỗi thảm dao xẻ; đêm thanh suy nghĩ, yên lòng được chăng? Lại nữa, người ta cứ mỗi khi gặp dịp vui như chúc thọ, cưới vợ, sanh con v.v... nếu vô ý nói đến những chữ Chết, Tang v.v... chủ nhân không vui, nếu có chuyện như làm hư vỡ đồ đạc chẳng hạn liền cho là bất tường. Cớ sao giết các sanh mạng, cắt, chặt, nấu, nướng, cho đến xé ăn, lại ngược ngạo coi là vui, là lễ, là tốt lành, may mắn? Thật ra, ấy là cái tâm gì vậy? Chính là [làm theo] thói quen không suy nghĩ đó thôi!</P>

<P>Nếu nói đến chuyện để tự cung phụng mình thì lại càng không nên giết. Nên nghĩ rằng: Ta sanh trong thế gian có công đức gì đối với nhân dân và muôn loài, có phước trạch gì đối với tổ tông, cha mẹ, nay được nhờ phước ấm của tổ tông, cha mẹ che chở sâu dầy, chẳng cực lực làm lành để tăng thêm phước cho tổ tông, cha mẹ, lại cứ mặc tình sát sanh ăn thịt, chẳng những bất lợi cho chính mình, mà còn gây liên lụy cho tổ tông, cha mẹ! Huống chi ta bẩm thụ di thể từ cha mẹ, hằng ngày dùng loài vật để bồi bổ, lâu ngày khí chất sẽ biến đổi theo, thật đáng sợ!</P>

<P>Nay tôi nêu chứng cứ đại lược ngõ hầu người biết yêu thương chính mình sẽ tận lực dứt bỏ thói tham ăn ngon ấy. Sách Vạn Thiện Tiên Tư chép: <I>"Đàn bà có thai ăn thịt thỏ thì con bị môi sứt, ăn chim sẻ thì mắt lé, ăn cua thì phần nhiều con bị đẻ ngang, ăn ba ba thì cổ ngắn đầu teo, ăn cá chình, lươn thì phần nhiều khó sanh, ăn thịt ếch thì phần nhiều con bị câm ngọng".</I> Sách Đại Đới Lễ[49] chép:<I>"Ăn thịt thì dũng cảm nhưng hung hãn, ăn ngũ cốc thì trí huệ, khéo léo; đều là khí chất [của chính mình] bị chuyển biến theo khí chất của từng loài vật vậy"</I>. Khí chất do cha mẹ để lại cho ta vì ăn thịt mà dần dần bị biến đổi ngấm ngầm thành khí chất của loài vật, đấy là đại bất hiếu!</P>

<P>Từng thấy [người ta] chữa trị kẻ cứa cổ nhưng chưa đứt khí quản bằng cách cắt thịt chim hay thịt gà sống đắp vào chỗ bị thương, khi lành rồi chỗ ấy bèn mọc lên lông gà. Tuy đắp ở bên ngoài nhưng chỗ ấy vẫn là thể chất của súc vật. [Như vậy thì] suốt cả đời ăn thịt để bồi đắp bên trong há chẳng đáng kinh sợ hoảng hốt ư? Như vậy là gìn giữ di thể được bẩm thụ từ cha mẹ đó sao? Huống chi chất thịt đều chứa chất độc, do lúc [con vật] bị giết, hận tâm kết lại cho nên người ăn thịt phần nhiều hay sanh ghẻ chốc, khi ôn dịch lưu hành hay mắc bệnh truyền nhiễm. Người ăn chay thường ít mắc phải những chứng ấy. Phàm muốn giải thoát oán nghiệp, giữ gìn thân thể thì không thể không biết [chuyện này].</P>

<P>Nếu nói: "Tam sanh ngũ đỉnh[50], nhờ vào loài vật để tỏ lòng thành; nếu như ông vừa nói thì pháp do cổ thánh hiền đã lập đều sai trái hết hay sao?" Đáp: Thánh hiền thuận theo thói tục mà lập pháp, lúc đầu chẳng phải là thật nghĩa rốt ráo. Nay đã biết sự thật người và súc sanh luân hồi thì cố nhiên phải bỏ Quyền theo Thật, há nên chấp Quyền bỏ Thật, tổn thương đức hiếu sanh của trời đất, chôn vùi lòng nhân bất nhẫn của chính mình? Huống chi, nhờ vào vật để tỏ lòng Thành thì sao không mượn nếp, gạo thơm, rau, quả mà cứ phải dùng những vật máu thịt ô uế? Há chẳng phải là nói trời, đất, đức Khổng, đức Quan thích vật nhơ uế, ghét những món thanh khiết ư? Không có gì khác ngoài việc quen thói chẳng biết là sai đó thôi! Đến như việc cúng tổ, phụng dưỡng cha mẹ, đãi khách, tự dùng, hễ nhìn lại sẽ đều biết rõ là sai, đều [hãy nên] thay đổi thói cũ, nên tôi chẳng nói tỉ mỉ.</P>

<P>Nếu như lại nói: "Nếu như ông nói thì hoàn toàn chẳng sát sanh ăn thịt, ắt loài vật sẽ đầy dẫy trọn khắp thế giới, biết làm sao đây?" Đáp: Những thứ bị con người ăn đều là do con người làm cho chúng nó sanh sôi nẩy nở. Những loài lợn, dê, gà, vịt kia nếu như nhốt riêng các loài đực - cái, trống - mái thì chưa quá mười năm, chúng nó sẽ vĩnh viễn không tồn tại nữa! Huống chi những giống cọp, báo, chó sói, rắn, rết, con người đều chẳng ăn, sao từ cổ đến nay chúng nó chẳng đầy khắp thế giới vậy? Phải biết: Nếu con người ăn thịt nhiều thì người ta lập ra cách để những giống lợn, dê, gà, vịt v.v... sanh trưởng cho nhiều! Thật ra, quá nửa đều là vì bụng miệng tham muốn, chẳng tiếc mạng loài vật, phải theo nghiệp thọ báo, thác sanh trong những loài vật ấy để bị người ta giết ăn!</P>

<P>Do vậy, kinh Lăng Nghiêm nói: <I>"Tham lẫn ái cùng nẩy nở. Do tham chẳng thể ngưng dứt nên các loài noãn, thai, thấp, hóa trong thế gian cậy mạnh hiếp yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Người ăn dê, dê chết thành người, người chết thành dê, như thế cho đến mười thứ sanh loại, chết chết sống sống ăn nuốt lẫn nhau"</I>. Kinh Phạm Võng dạy: <I>"Nếu là đệ tử Phật thì do từ tâm bèn hành nghiệp phóng sanh, hết thảy người nam đều là cha ta, hết thảy người nữ đều là mẹ ta. Đời đời ta chẳng bao giờ không sanh ra từ họ".</I> Vì thế, lục đạo chúng sanh đều là cha mẹ ta, giết chúng để ăn thịt chính là giết cha mẹ ta. Kinh Lăng Già dạy: "<I>Hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay luân hồi chẳng ngơi trong sanh tử, không ai chẳng từng làm cha mẹ, anh em, con cái, quyến thuộc cho đến bạn bè, người thân yêu, kẻ hầu hạ, sanh sang đời khác mang thân chim, thú v.v... Sao lại bắt lấy chúng để ăn thịt?"</I> Trong các kinh Đại Thừa, những câu nói như vậy nhiều lắm, khó thể trích đủ.</P>

<P>Quán lời Phật dạy, có thể biết rằng cái họa sát sanh ăn thịt rất sâu, con người và súc vật tuần hoàn, giết ăn lẫn nhau. Nếu vẫn chấp mê chẳng ngộ thì sẽ trở thành "kẻ đáng thương xót" như đức Như Lai đã gọi. Phải biết kiếp đao binh đều do sát sanh phát khởi. Một ngày trong thế gian chẳng biết giết mấy vạn vạn triệu! Do ác tâm sát sanh ăn thịt và tâm oán hận của những con vật bị giết kết thành kiếp đao binh. Mười mấy năm qua, trong nước ngoài nước chiến tranh, người bị tử vong số đến vạn vạn. Huống hồ thiên tai liên tiếp giáng xuống, lụt lội, hạn hán, ôn dịch, bão lốc, động đất, biển trào, sông tràn, thổ phỉ, đạo tặc, các thứ tai nạn xảy ra dồn dập, thóc gạo đắt đỏ, dân không lẽ sống. Bọn ta gặp phải thời đại này mà vẫn chẳng phát lòng tự thương xót, sanh tâm tự thương mình xót người để mong vãn hồi kiếp vận thì còn quý báu gì để dự vào trong số mục Tam Tài, là <I>"vạn vật chi linh"</I> nữa ư? Nỡ dùng tâm tánh <I>"có thể làm Nghiêu - Thuấn, có thể thành Phật"</I> để trầm luân bao kiếp dài lâu trong biển nghiệp ăn giết lẫn nhau không thể thoát ra được thì chẳng đáng buồn ư?</P>

<P>Thích Ấn Quang soạn</P>

<P> </P>

<P align=center><B>Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng</B></P>

<P align=center><B>Quyển 1, phần 3 hết</B></P>

<P align=center><B>Hết quyển 1</B></P>

<P> </P>

<BR clear=all>

<P class=MsoFootnoteText>[1] Ý nói: Thời gian hư huyễn trôi qua rất nhanh, chẳng mấy chốc đã hết tuổi thọ.</P>

<P>[2] Ốc môn: An trụ nơi địa vị đã tu hành để đạt đến giống như ở yên trong nhà (Ốc) nên gọi là Ốc môn.</P>

<P class=MsoFootnoteText>Viên lâm du hý địa môn: Tu hành thành tựu xong, liền đạt đến địa vị giáo hóa. Do sự giáo hóa ấy, nhằm tùy thuận cơ nghi bèn biến hiện thân hình hoặc thị hiện các hạnh nhằm chiết phục chúng sanh nên gọi là Du Hý (vui chơi).</P>

<P class=MsoFootnoteText>[3] Trí tướng quang minh: Thân do trí huệ kết thành, quang minh sáng ngời.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[4] Xa Ma Tha (Samatha) là Chỉ, tức một trong hai môn tu tập của Chỉ Quán. Chỉ có nghĩa là dứt hết thảy vọng niệm và ngoại duyên, chuyên chú nơi một đối tượng Thiền Định hòng đắc Định, Chỉ thuộc về Định, còn Quán thuộc về Huệ. Chỉ Quán chính là Định Huệ song tu.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[5] Phân Đà Lợi (Pundarīka) là hoa sen trắng.</P>

[6] Ca Chiên Diên ở đây gọi đủ tên là Ca La Câu Ca Chiên Diên (Pakudha Kaccayana, còn phiên âm là Già Câu La Ca Chiên Diên, hoặc Bạt Hưu Ca Chiên, hoặc Bà Phù Đà Già Chiên Na), không phải là ngài Ca Chiên Diên (Katyana) đại đệ tử của đức Phật, mà là một trong lục sư ngoại đạo thường được nhắc tới trong kinh A Hàm và Niết Bàn. Còn Tỳ Đa La Chi Tử (Sanjaya Belatthiputta, còn dịch là San Sa Dạ Tỳ La Chi Tử, hoặc Tiên Xa Na Tỳ La Chi Tử, hoặc Tát Nhã Tỳ Đa La Chi Tử) cũng là một trong sáu vị lục sư ngoại đạo (tức là sáu "đại tông sư" của sáu trường phái triết học ngoại đạo thời ấy). Cả hai ông này đều chủ trương không nhân quả, tin theo thuyết Đoạn Diệt.

<P class=MsoFootnoteText>[7] Nguyên văn "phương bào" (方袍), tên gọi khác của y ca-sa.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[8] Thừa Chỉ: Theo quy chế thời Đường - Tống, có chức quan Hàn Lâm Học Sĩ Thừa Chỉ, chuyên giữ vai trò cố vấn cho nhà vua cũng như biên soạn các mệnh lệnh quan trọng hay bàn định những chánh sự quan trọng.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[9] Tam Hàn chính là ba vương quốc cổ trên bán đảo Đại Hàn, tức là Cao Câu Ly (Koguryo), Bách Tế (Paekje) và Tân La (Silla).</P>

<P>[10] Thái Úy là một chức quan đã có từ thời Tây Hán, hợp với Thừa Tướng và Ngự Sử Đại Phu gọi là Tam Công. Chức Thái Úy thường chỉ được phong khi quốc gia có chuyện động binh lớn vì Thái Úy nắm vai trò tổng tư lệnh trong quân đội. Thời Hán Vũ Đế, chức Thái Úy gọi là Đại Tư Mã, đến các đời sau bèn đổi trở lại là Thái Úy. Đời Tống, trong dân gian quen gọi những quan võ cao cấp nhất tại địa phương là Thái Úy nên ông Phạm Thái Úy đã nói ở đây có lẽ chỉ là một võ quan cao cấp tại một huyện, một phủ mà thôi!</P>

<P class=MsoFootnoteText>[11] Ngự Sử Trung Thừa là chức quan đã có từ thời Tần, chức vụ thấp hơn Ngự Sử Đại Phu, quản lãnh các thứ sử và thị ngự sứ, chuyên lo việc giám sát, đàn hặc các quan, kiêm xét duyệt các văn thư hành chánh nhằm đảm bảo các quan làm việc theo đúng thể chế của triều đình. Thông thường, nếu khuyết chức Ngự Sử Đại Phu, Ngự Sử Trung Thừa sẽ kiêm nhiệm chức trưởng quan của Ngự Sử Đài.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[12] Tập Hiền Học Sĩ là một chức quan của Tập Hiền Viện (còn gọi là Tập Hiền Thư Viện, hoặc Tập Hiền Điện Thư Viện). Tập Hiền Viện là nơi lưu trữ các sách vở, tài liệu nhiều đời của một triều đại. Tùy theo triều đại mà có thể có những danh xưng khác như Thiên Lộc Các, Văn Lâm Quán, Lân Chỉ Điện, Quán Văn Điện, Lệ Chánh Điện v.v... Đời Tống, nhằm dễ quản trị tài liệu, đã tách cơ quan quản trị văn thư thành Tam Quán (Sử Quán, Chiêu Văn Quán và Tập Hiền Thư Viện), và gọi chung là Sùng Văn Viện. Đến đời Nguyên, Tập Hiền Điện đặt dưới quyền quản trị của Bí Thư Giám và có thêm trách nhiệm quản trị các trường học quốc lập tại các phủ, huyện, chiêu hiền đãi sĩ. Tập Hiền Học Sĩ là chức quan đứng thứ hai trong Tập Hiền Viện, dưới quyền Đại Học Sĩ.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[13] Ở đây, Chúc Ly là lễ cầu phước do các quan khâm mạng thay mặt vua đến dâng lễ ở các chùa miếu nổi tiếng linh ứng trong nước.</P>

<P>[14] Cấp Sự Trung là một chức quan đã có từ thời Tần, nhưng chỉ là một chức kèm thêm của các chức Đại Phu, Bác Sĩ, Nghị Lang v.v... với nhiệm vụ làm cận thần cố vấn cho vua trong những trường hợp đặc biệt. Đến đời Tấn, chức vụ này mới trở thành một chức quan độc lập. Thời Tùy gọi là Cấp Sự Lang, từ đời Đường trở đi, đổi trở lại thành Cấp Sự Trung như cũ. Nhiệm vụ của chức quan này là đọc các tấu chương và trình lên vua nội dung tóm tắt, giảo duyệt những chiếu văn được soạn thảo theo lệnh vua, xét xử những đơn từ kêu oan từ các cấp dưới v.v...</P>

<P class=MsoFootnoteText>[15] Nguyên văn "thẩn thị" (蜃市), tức là <I>"hải lâu thẩn thị"</I> (lầu biển, phố sò). Theo truyền thuyết, ở ngoài biển khơi có loài sò to, hơi thở của nó biến ra những cảnh huyễn ảo giống như lâu đài, thành quách.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[16] Đốc Tào là chức quan trông coi việc tu bổ cầu đường, vận chuyển đường thủy, đường biển. Đến đời Minh, Thanh, chức vụ này được gọi là Tào Vận Tổng Đốc.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[17] Tiết (節): Một loại cờ lệnh do các quan ngày xưa cầm đến chỗ trị nhậm, về sau, thường được dùng chỉ chung các loại cờ hiệu. Nguyên thủy, Tiết là một loại tín phù (vật làm tin) bằng ngọc do vua trao cho các đại thần cầm ra các xứ ngoài kinh đô nhằm toàn quyền xử lý mọi việc.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[18] Chim Tần Già, gọi đủ là Ca Lăng Tần Già (Kalavinka), dịch nghĩa là Diệu Âm hoặc Hảo Thanh hay Hòa Nhã, là một loài chim hót rất hay, ngay cả tiếng hát của nhạc thần Khẩn Na La cũng không thể sánh bằng. Loài chim này chỉ sống ở Tuyết Sơn (Himalaya). Anh Vũ là chim két (vẹt).</P>

<P class=MsoFootnoteText>[19] Theo phần Quán Âm Hiện Thần Thông Biến Hóa ngay trong sách này, tướng Nguyên là Cáp Lạt Ngạt bái yết động Triều Âm, chẳng thấy gì, bèn giương cung bắn vào động. Quay thuyền trở về, khắp biển chợt trổ đầy hoa sen sắt, thuyền không thể đi được. Do vậy, ông ta mới quay lại Phổ Đà sám hối.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[20] Tứ Châu Đại Sĩ, còn gọi là Tứ Châu Đại Thánh, hoặc Tứ Châu Phật, hoặc Tăng Già Đại Sĩ, thường được coi là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát. Trong thời Đường Cao Tông, ngài Tăng Già hóa duyên khắp một giải Trường An và Lạc Dương, về sau sang tận miền Ngô - Sở. Sư cầm cành dương liễu, đến khắp nơi thuyết pháp. Có người hỏi: <I>"Sư họ gì?" </I>Ngài trả lời: <I>"Ngã tánh hà?"</I> (có thể hiểu là "ta họ gì?" Hoặc "ta họ Hà"). Hỏi tiếp: <I>"Quê Sư ở đâu?"</I> <I>"Ngã thị Hà quốc nhân"</I> (Ta là người nước nào? hoặc: Ta là người nước Hà). Có người bảo nước Hà ở phía Bắc nước Toái Diệp bên Tây Vực. Về sau, Sư trụ ở Tứ Châu. Có lần Sư bảo chủ nhà trọ: <I>"Đây chính là một ngôi chùa cũ".</I> Chủ nhà kinh ngạc, cho người đào lên, quả nhiên thấy nền chùa cũ, tấm bia đề Hương Tích Tự và một tượng Phật vàng. Người ta đoán đó là tượng Nhiên Đăng Cổ Phật; nhưng Sư bảo đó là Phổ Quang Vương Phật. Năm Cảnh Long thứ hai (708), Đường Trung Tông cho người thỉnh Sư lên kinh thành, vua đích thân ra ngoài thành nghênh tiếp, trăm quan hành lễ. Vua đích thân đề biển tên chùa là Phổ Quang Vương Tự. Sư thị tịch ngày 30 tháng Ba năm Cảnh Long thứ tư, đưa về an táng tại Tứ Châu.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[21] Xí Thịnh Quang Vương Như Lai chính là một vị Phật Đảnh, có tên đầy đủ là Đại Oai Đức Minh Vương Pháp Tánh Kim Luân Phật Đảnh Xí Thịnh Quang Như Lai, xuất hiện từ nhục kế của Phật, nói ra đà-la-ni tiêu trừ hết thảy tai nạn, giáng cát tường. Do toàn thân của vị Phật Đảnh này tuôn rực ánh sáng chói ngời nên có tên như vậy. Nhằm thể hiện Phật trí vô thượng tối thắng nên Phật thường lưu xuất các vị Phật Đảnh (tức các vị hóa Phật xuất hiện từ nhục kế), những vị ấy thường được gọi là <I>"giáo lệnh thân luân</I>" của Phật.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[22] Thị Ngự tức là Thị Ngự Sứ, một chức quan đã có từ đời Tần, Hán, dưới quyền cai quản của Ngự Sử Đại Phu, chịu trách nhiệm kiểm soát lễ nghi trong triều đình. Chức vụ này bị nhà Minh bãi bỏ nên câu chuyện này chỉ có thể xảy ra chậm nhất là vào thời nhà Nguyên.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[23] Trân tàng: Cất giữ như của báu.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[24] Ngân Hạnh (Ginkgo biloba), còn gọi là Bạch Quả hay Ngân Quả, là một loại cây to, cây cao trung bình từ 20-30 mét. Hạt của nó thường được dùng làm thuốc hay nấu chè, thường được Đông Y coi là một vị thuốc bổ có tác dụng tăng cường sức khỏe và trí nhớ. Thậm chí có y sĩ còn đề nghị dùng nó để trị bệnh Alzheimer. Người ta còn chiết xuất các dược chất từ lá để làm thuốc. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy chất MPN (4-methoxypyridoxine) trong hạt Bạch Quả có thể gây nên động kinh cho trẻ nhỏ cũng như có thể gây nên rối loạn tuần hoàn máu ở một số người. Chất nhựa trong lớp vỏ hạt của nó cũng có thể gây dị ứng ngứa ngáy, nổi mụt nhọt.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[25] Thạch Tấn tức là nhà Hậu Tấn (936-947) do Thạch Kính Đường sáng lập vào thời Ngũ Đại, chỉ truyền được hai đời vua (Cao Tổ và Xuất Đế). Gọi là Thạch Tấn để phân biệt với nhà Tây Tấn của Tư Mã Viêm, Đông Tấn của Tư Mã Duệ, và Tấn Vương Lý Khắc Dụng cuối thời Đường. Thiên Phước là niên hiệu của Tấn Cao Tổ (Thạch Kính Đường) sử dụng từ năm (936-942).</P>

<P class=MsoFootnoteText>[26] Sở là tên gọi chung của tỉnh Hồ Bắc (Kinh Sở) và Hồ Nam (Tương Sở), do hai tỉnh này thuộc địa bàn nước Sở thời Chiến Quốc.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[27] Ngô Đạo Tử (685-758), tên thật là Đạo Nguyên, tự là Đạo Tử, về sau lại đổi tên thành Đạo Huyền, người xứ Dương Địch (nay thuộc huyện Vũ tỉnh Hà Nam, là một họa sĩ trứ danh đời Đường, có mỹ hiệu là <I>"bách đại họa thánh"</I> (bậc thánh vẽ vời trong cả trăm đời). Nét vẽ của ông mạnh mẽ, nhưng tỉ mỉ, bay bướm, thanh nhã, rất sống động. Những nhân vật do ông vẽ thường mặc áo dài tha thướt, dường như tà áo bay tung trước gió, màu sắc rất thanh nhã.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[28] Nhụ Nhân: Theo quy chế từ thời Đường - Tống, vợ quan Đại Phu từ Ngũ Phẩm trở xuống gọi là Nhụ Nhân. Về sau, Nhụ Nhân cũng là tiếng gọi chung mẹ hay vợ của các quan.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[29] Tống Tử Quan Âm (đôi khi còn gọi lầm là Tống Tử Nương Nương) là hình tượng Quán Âm có hình dạng một phụ nữ bế một đứa bé trai. Đây là một hình tướng biểu thị lời nguyện <I>"cầu sanh con trai sanh liền được con trai, cầu sanh con gái được con gái</I>" như trong phẩm Phổ Môn đã nói. Theo truyền thuyết, vào đời Tấn, có một người tên là Tôn Đạo Đức ở Ích Châu tuổi ngoài năm mươi vẫn không có con. Có một vị Tăng quen biết bảo: "Ông hãy thành tâm tụng Quán Thế Âm Kinh sẽ được như ý". Ông Tôn kiền thành lễ bái, một thời gian sau mộng thấy Quán Thế Âm Bồ Tát bế một đứa bé trai trao cho, bảo: "Không lâu sau ngươi sẽ sanh được đứa bé bụ bẫm này". Về sau, quả nhiên vợ ông ta sanh con trai.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[30] Ngự soạn: Thức ăn của vua.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[31] Thị Lang là một chức quan đã có từ đời Hán, dưới quyền Thượng Thư. Từ thời Tùy Đường, lập ra sáu bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công, đặt quan Thượng Thư làm trưởng quan, Thị Lang làm phụ tá. Như vậy, Thị Lang tương đương với chức vụ Thứ Trưởng hiện thời.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[32] Huyện Quân vốn là một danh hiệu chuyên để gọi những phụ nữ thuộc các dòng họ lớn hay vợ các quan chức lớn. Danh hiệu này bắt nguồn từ thời Tây Hán, khi Hán Vũ Đế phong cho người chị cùng mẹ khác cha làm Tu Thành Quân (thuở ấy, Quân là người đứng đầu một huyện, Tu Thành là tên huyện). Do vậy, bà ta thường được gọi là Huyện Quân. Kể từ thời Đường, vợ quan Ngũ Phẩm trở lên, Tam Phẩm trở xuống đều được gọi là Huyện Quân; ngay cả mẹ của các quan thuộc ngạch trật ấy cũng gọi là Huyện Quân. Đời Tống, vợ các quan được nhất loạt gọi là Huyện Quân. Còn dưới đời Kim, chỉ có vợ hoặc mẹ các quan Tứ Phẩm bên văn hoặc từ chức Tán Quan Hoài Viễn Đại Tướng Quân bên võ trở lên mới được gọi là Huyện Quân. Thời Nguyên, danh xưng này dành cho mẹ hoặc vợ các quan từ ngạch Tùng Ngũ Phẩm trở lên. Thời Minh, chỉ có chắt gái của Quận Vương mới được gọi là Huyện Quân. Đến đời Thanh, chỉ có con gái của các Bối Tử (Gūsa-i beise, tức tước phong bậc bốn, dưới tước vị vương công)mới được gọi là Huyện Quân.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[33] Tượng Phật thời cổ ở Trung Hoa thường có gắn một tấm gương bằng đồng sau đầu để tượng trưng cho hào quang của Phật.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[34] Triều đại Lưu Tống (420-479) do Lưu Dụ sáng lập vào thời Bắc Triều, khác với Triệu Tống (thường chỉ gọi là Tống hoặc Đại Tống) của Triệu Khuông Dẫn sáng lập về sau này.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[35] Bổn Giác là Phật tánh sẵn có trong tâm tánh của chúng sanh, khi chúng sanh tu thành Phật thì sự giác ngộ ấy được gọi là Thỉ Giác. Thỉ Giác và Bổn Giác xét về tánh chỉ là một, gọi thành</P>

<P class=MsoFootnoteText>[36] Ngói lưu ly đã có từ rất lâu, đã rất phổ biến từ thời Đường, thường dùng để lợp chùa, miếu, cung điện, dinh thự. Ngói làm bằng đất sét trắng trộn với bột đồng, bột đá Lạc Hà (một loại đá lấy từ sông Lạc), hoàng đan (oxyde chì), trộn thêm bột thiếc đen, tiêu thạch (salpeter - KN03) đã nung tán nhuyễn. Đem đất ấy nhồi thành ngói, nung thành hai lượt: Lượt thứ nhất là bảy ngày, để nguội rồi đem ra tráng men, nung lại lần thứ hai suốt ba ngày. Gọi là ngói lưu ly vì nó có sắc óng ánh, trông xa như bằng chất ngọc, nhưng có khuyết điểm là dễ bị vỡ, dễ rạn nứt. Tùy theo cách chế biến, hình dạng và công dụng mà còn chia ra thành nhiều loại ngói lưu ly khác nhau. Do cách chế biến rất tốn công nên ngói lưu ly rất đắt.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[37] Bắc Tề Thư là một bộ sử do Lý Bách Dược soạn vào đời Đường gồm 50 quyển, chép từ lúc vương triều Bắc Ngụy phân liệt cho đến khi triều đại Bắc Tề diệt vong. Sách được soạn xong vào năm Trinh Quán thứ 10 (636), là một bộ sử rất có giá trị, được xếp vào trong hai mươi bốn bộ sử căn bản Trung Hoa.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[38] Trai phòng: Căn phòng hoặc gian nhà thanh tĩnh để làm nơi đọc sách, học tập, hay tu dưỡng, còn gọi là Thư Trai.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[39] Có nhiều cách hiểu chữ Tam Ngô:</P>

<P class=MsoFootnoteText>1) Chỉ chung ba nơi Ngô Hưng, Ngô Quận, Cối Kê.</P>

<P class=MsoFootnoteText>2) Chỉ Ngô Hưng, Ngô Quận và Đan Dương.</P>

<P class=MsoFootnoteText>3) Chỉ Tô Châu, Thường Châu và Tô Châu.</P>

<P class=MsoFootnoteText>4) Chỉ chung cả vùng hạ lưu của Trường Giang.</P>

<P class=MsoFootnoteText>Do ông Lâm Tắc Từ làm Tuần Phủ tỉnh Giang Tô nên chữ Tam Ngô ở đây có lẽ nên hiểu theo cách thứ tư.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[40] Thái Kinh (1047-1126), tự Nguyên Trường, người xứ Tiên Du, Hưng Hóa, là tể tướng Bắc Tống, nổi tiếng gian hùng, tham lam, tàn nhẫn, bốn lượt làm Tể Tướng. Thái Kinh cùng với Tô Thức (Tô Đông Pha), Hoàng Đình Kiên, Mễ Phất được xưng tụng là tứ đại thư pháp gia đời Tống. Về sau, do chán ghét tính gian hoạt của Thái Kinh, người ta gạt tên ông ta khỏi danh sách này, đem thầy của ông ta là Thái Tương thay vào.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[41] Nguyên văn là Tắc (稷), tức là một thứ lúa thân dài đến hơn một trượng, là một giống lúa chín sớm nhất, ngày xưa cho là thứ lúa quý nhất trong trăm giống lúa. Ở đây tạm dịch là "gạo thơm".</P>

<P class=MsoFootnoteText>[42] Hâm hưởng (歆饗): Quỷ thần hưởng đồ cúng tế bằng cách ngửi hơi nên gọi là "hâm hưởng".</P>

<P class=MsoFootnoteText>[43] Thánh miếu văn võ: Miếu thờ Khổng Tử (văn miếu) và võ miếu (thờ Quan Công và các vị trung thần nghĩa sĩ)</P>

<P class=MsoFootnoteText>[44] Đại Thành Điện chính là chánh điện của Khổng Miếu ở Khúc Phụ (quê hương Khổng Tử). Gọi là điện Đại Thành, vì Khổng Tử được sắc phong Đại Thành Chí Tánh Tuyên Vương. Do vậy, chánh điện của những tòa Văn Miếu tại các địa phương đều được gọi là Đại Thành Điện.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[45] Mỹ hiệu tôn xưng Khổng Tử của Nho Gia, ngụ ý: Khổng Tử là bậc vâng giữ, tiếp nối đạo của Nghiêu, Thuấn, phỏng theo, tỏ rõ quy chế, luật pháp của Văn Vương và Vũ Vương, xứng đáng là bậc thầy gương mẫu cho muôn đời.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[46] Tức Khổng Tử và Quan Công.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[47] Núi Ngọc Tuyền nằm ở phía Đông Nam huyện Đương Dương, tỉnh Hồ Bắc.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[48] Giai lão: Sống hạnh phúc với nhau đến thuở bạc đầu.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[49] Đại Đới Lễ tức là sách Lễ Ký. Nguyên thủy, Lễ Ký là một trong sáu kinh trọng yếu của Nho Gia do Khổng Tử biên tập vào thời Xuân Thu Chiến Quốc. Sau khi Tần Thủy Hoàng đốt sách Nho, chôn học trò, Lễ Ký chỉ còn sót lại 130 thiên, được Lưu Hướng thâu thập. Đới Đức đời Hán đã rút gọn 130 thiên ấy thành 85 thiên, nên người đời sau gọi là Đại Đới Lễ Ký. Về sau, cháu của ông là Đới Thánh lại rút gọn bộ Đại Đới Lễ Ký một lần nữa thành 46 thiên, thêm vào các thiên Nguyệt Lệnh, Minh Đường Vị và Nhạc Ký, thành bộ Lễ Ký gồm 49 thiên, với danh xưng Tiểu Đới Lễ Ký. Bộ Lễ Ký được lưu hành hiện thời chính là bộ Tiểu Đới này. Các thiên sách Đại Học, Trung Dung được rút ra từ bộ Lễ Ký, hợp với Luận Ngữ, Mạnh Tử tạo thành Tứ Thư. Tuy mang tên gọi là Lễ Ký, nhưng sách này không chỉ nói đến lễ nghi, chế độ, mà còn bao gồm của những quan điểm nhân nghĩa đạo đức, xử thế thời cổ.</P>

<P class=MsoFootnoteText>[50] Theo Nho lễ, để cúng tế phải dâng ba thứ thịt là bò (hoặc trâu), lợn, dê gọi là "tam sanh" (ba loại động vật dùng để hiến tế). "Ngũ đỉnh" là các thứ cỗ cúng phải được nấu thành năm món (thuở xưa dùng những cái đỉnh đồng không có nắp để đựng vật cúng). Về sau từ ngữ "tam sanh ngũ đỉnh" được dùng để chỉ cỗ bàn cúng tế hậu hĩnh.</P></EM>

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro