Quán thông lưỡng cực Pháp

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Công lý: Công pháp này là để quán thông khí của vũ trụ với khí ở trong thân thể; thổ nạp {vào ra} một lượng lớn; cho phép người tu luyện trong một thời gian ngắn, có thể bài xuất khỏi thân thể những khí bệnh, khí đen, rồi lấy vào đó một lượng lớn khí vũ trụ, tịnh hoá thân thể; mau chóng đến được trạng thái "tịnh bạch thể" {thân tịnh trắng}. Ngoài ra công này trong khi xung quán {tưới mạnh vào} có thể "khai đỉnh", và cũng trong khi xung quán có thể đả khai đường thông đạo ở dưới chân.

Trước khi luyện công niệm nghĩ một chút rằng bản thân như hai cái thùng rỗng rất cao lớn, đỉnh thiên lập địa {đứng ở đất đỉnh chạm trời}, cao lớn không gì sánh được. Khí bên trong thân thể vận động tuỳ theo tay lên xuống; [khi] xông ra khỏi đỉnh [đầu], đạt cho đến chỗ cao nhất của vũ trụ; còn khí xông xuống thì từ chân xông xuống, xông đến tận chỗ thấp nhất của vũ trụ. Sau đó tuỳ theo tay vận động, khí ở hai cực phản hồi vào trong thân thể, rồi lại phóng xuất ra; đi lại tất cả chín lần. Vào lần tưới thứ chín, thì tay trái (nữ là tay phải) ở cực trên đợi tay phải (nữ là tay trái) đi lên. Sau đó hai tay đồng thời thâu hồi quán nhập xuống cực phía dưới, sau đó lại xung quán hướng lên trên thân thể; lặp lại như thế tất cả chín lần, và thu hồi về. Sau khi thu hồi, ở bên ngoài chỗ bụng dưới xoay chuyển Pháp Luân theo chiều kim đồng hồ {đứng từ trước mặt nhìn vào} xoay chuyển khí ở phía ngoài hồi về cơ thể; sau đó kết định-ấn; luyện xong thu thế không thu công.

Quyết: Tịnh hoá bản thể, Pháp khai đỉnh để; Tâm từ ý mãnh, thông thiên triệt địa.

Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, bàn chân cách bằng vai, đứng thẳng tự nhiên, hai chân hơi cong chùng, đầu gối và đùi ở trạng thái buông khuỵ chút xíu; cằm dưới hơi thu vào một chút, lưỡi chạm hàm trên, hai hàm răng hơi hé chút xíu; miệng ngậm kín, mắt nhắm khẽ; mang theo [ý] niệm khuôn mặt hoà nhã. Lưỡng thủ kết-ấn, [rồi] hợp-thập (như hình 3-1 và 3-2).

Đơn thủ xung quán {xung quán từng tay}: Từ khởi thế hợp-thập, làm động tác tay xung lên quán {tưới} xuống, tay thuận theo khí cơ bên ngoài thân thể mà từ từ chuyển động; khí bên trong cơ thể cùng thuận theo tay mà chuyển động lên xuống. Nam tay trái lên trước (như hình 3-3), nữ tay phải lên trước. Tay từ chỗ bên cạnh đầu dần dần xung lên, vượt hết đỉnh đầu, đồng thời tay phải (nữ là tay trái) cũng từ từ quán hạ xuống. Sau đó luân phiên lặp đi lặp lại (như hình 3-4). Hai lòng bàn tay đều hướng vào thân thể, giữ khoảng cách với thân thể ở cự ly 10cm. Khi thực hiện, toàn thân cần thả lỏng; [mỗi] tay lên rồi xuống tính là một lần, xung quán tổng cộng chín lần

Song thủ xung quán {xung quán hai tay}: Khi đơn thủ xung quán đến lần thứ chín, khi để tay trái (nữ là tay phải) ở bên trên, thì đưa tay kia lên, nghĩa là, hai tay cùng ở vị trí xung lên ở trên (như hình 3-5). Sau đó hai tay đồng thời xung quán xuống dưới (như hình 3-6). Khi lưỡng thủ xung quán, lòng bàn tay hướng vào thân thể, cách thân thể khoảng 10cm; tay đưa lên rồi xuống tính là một lần, cộng làm chín lần xung quánSong thủ suy động Pháp Luân {hai tay đẩy Pháp Luân chuyển động}: Sau khi hoàn thành lần thứ chín, hai tay đã đang ở trên quá đầu, rồi hạ xuống qua đầu, ngực, cho đến chỗ bụng dưới, hạ liền cho đến chỗ bụng dưới. Tại chỗ bụng dưới này đẩy chuyển Pháp Luân (như hình 3-7, 3-8, và 3-9). Nam để tay trái ở trong, nữ để tay phải ở trong. Cự ly giữa hai tay, cự ly giữa tay và bụng dưới ước lượng là 4cm, thuận theo chiều kim đồng hồ {nhìn từ phía trước vào} xoay chuyển Pháp Luân bốn lần, để năng lượng bên ngoài thân xoáy hồi vào trong thân. Khi xoay Pháp Luân hai tay cần phải [chuyển động] trong phạm vi bụng dưới Lưỡng thủ kết ấn

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro