quan tri tai chinh 3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

3.1 TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ VÀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ 3.2.1 Đầu tư và các đặc trưng của hoạt động đầu tư Đầu tư có vị trí quan trọng trong quản lý, điều hành doanh nghiệp, là nhân tố chủ yếu trong quá trình sinh lợi lâu dài của doanh nghiệp. Hoạt đồng đầu tư càng trở nên quan trọng trong điều kiện nguồn lực luôn bị hạn chế nhưng chủ thể lại luôn mong muốn tối đa hoá lợi nhuận. Trong quá trình hoạch định rất phức tạp. Đa số cơ hội đều có bản chất dài hạn, còn kết quả lại trong tương lai xa và khó dự đoán. Để có một quyết định đầu tư hiệu quả, người làm công tác tài chính doanh nghiệp cần phải có công cụ để so sánh những điểm thuận lợi và bất lợi trong những cơ hội kinh doanh khác nhau. Một doanh nghiệp chi hàng tỉ đồng để xây dựng một nhà xưởng mới, hoặc để thay thế thiết bị cũ bằng thiết bị hiện đại. Một công ty bỏ ra nhiều triệu đồng để xây dựng thương hiệu riêng. Những việc làm trên có phải là đầu tư hay không? Có người đồng tình, có người không đồng tình. Nhưng tất cả những trường hợp kể trên đều là hy sinh những nguồn lực ở hiện tại để đổi lấy một sự kỳ vọng tốt đẹp cho tương lai. Với ý nghĩa rộng nhất thì tất cả những hoạt động đó đều là đầu tư. Chúng liên quan đến rủi ro và thời gian. Sự hi sinh diễn ra tại thời điểm hiện tại là điều chắc chắn. Trong một số trường hợp, yếu tố thời gian là quan trọng nhất như đầu tư vào trái phiếu kho bạc. Trong trường hợp khác yếu tố rủi ro là quan trọng nhất như chơi xổ số. Trường hợp khác nữa, cả thời gian và rủi ro đều quan trọng ngang nhau như đầu tư vào cổ phiếu.

Một cách tổng quát nhất, chúng ta có thể hiểu đầu tư là sự bỏ vốn ở thời điểm hiện tại để mong đạt được hiệu quả về kinh tế xã hội trong tương lai. Xuất phát từ ý nghĩa bản chất của hoạt động đầu tư, chúng ta có thể phân tích được các dấu hiệu đặc trưng sau đây: Đầu tư là phải bỏ vốn ban đầu. Đầu tư luôn luôn gắn với rủi ro, mạo hiểm. Mục tiêu của đầu tư là hiệu quả. Như vậy, đầu tư là quá trình bỏ vốn ( vốn vô hình, vốn hữu hình) để đạt được một hay nhiều mục đích nào đó. Các mục đích của đầu tư có thể là mục đích chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…hoặc cũng có thể chỉ là mục đích nhân đạo đơn thuần. Trong kinh doanh, hoạt động đầu tư gắn liền với mục đích của hoạt động kinh doanh đó là mục tiêu hiệu quả và phát triển ổn định lâu dài của doanh nghiệp. Đầu tư là quá trình bỏ nguồn lực để triển khai các hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc dịch vụ với một mục đích là thu lợi nhuận. Do vậy, đối với người làm công tác tài chính phải coi lợi nhuận là mục tiêu cơ bản khi lựa chọn dự án đầu tư. 3.2.2. Phân loại hoạt động đầu tư Nhằm mục đích quản lý các hoạt động đầu tư, dựa vào các tiêu thức khác nhau, chúng ta có thể phân loại hoạt động đầu tư trong kinh doanh như sau: - Căn cứ vào cách bỏ vốn, hoạt động đầu tư được chia thành hai hình thức: Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người bỏ vốn đồng thời là người trực tiếp tham gia vào hoạt động và quản lý hoạt động đầu tư. Họ biết được mục tiêu đầu tư cũng như phương thức hoạt động kinh tế của các loại vốn mà họ bỏ ra. Đầu tư gián tiếp là hoạt động đầu tư mà người bỏ vốn không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư, họ không biết đến mục tiêu hoạt động của đầu tư, không hay biết vốn của họ được sử dụng ở đâu, như thế nào. - Căn cứ vào tính chất, hoạt động đầu tư được chia thành hai nhóm: Đầu tư cưỡng bức và đầu tư chủ động. Đầu tư cưỡng bức là hoạt động đầu tư nhằm gia tăng khối lượng sản phẩm hoặc cải thiện chất lượng sản phẩm, dịch vụ theo nhu cầu thị trường. Khi sản phẩm của doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng cạnh tranh hoặc bắt đầu vào giai đoạn suy thoái thì doanh nghiệp phải thực hiện dạng đầu tư này. Nếu không triển khai hoạt động đầu tư cưỡng bức, có thể doanh nghiệp sẽ đối mặt với trạng thái suy thoái, hiệu quả kinh doanh sa sút, thị phần thu hẹp, lòng trung thành của khách hàng bị giảm thấp nhanh chóng... Đầu tư tự chủ động xảy ra khi nhà sản xuất quyết định đưa dây chuyền công nghệ mới vào hoạt động với mục tiêu cơ bản nhằm giảm chi phí sản xuất, tạo cơ hội an toàn cho sản phẩm của họ trên thị trường và khả năng tiếp cận thị trường mới. Hoạt động đầu tư chủ động thường xuyên được triển khai trong doanh nghiệp để tăng công suất, chiếm lĩnh thị phần, dẫn đầu thị trường... - Căn cứ vào thời gian, hoạt động đầu tư chia thành hai loại đàu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn Đầu tư ngắn hạn là đầu tư trong thời gian không quá một năm và chỉ nhằm sử dụng các nguồn vật chất, nhân lực hiện có sao cho hiệu quả nhất. Đầu tư dài hạn là đầu tư trong thời gian trên một năm nhằm tạo ra năng lực sản xuất mới cao hơn. Đầu tư dài hạn có nhu cầu vốn lớn và thời gian hoàn vốn dài. 3.2.3 Ý nghĩa của quyết định đầu tư và các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư Đầu tư là một trong những quyết định có ý nghĩa chiến lược đối với doanh nghiệp. Về mặt tài chính, đây là quyết định tài trợ dài hạn, có tác động lớn tới hiệu quả sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Về mặt tài chính, đây là quyết định tài trợ dài hạn, có tác động tới hiệu quả sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc điểm của các dự án đầu tư là thường yêu cầu một lượng vốn lớn và sử dụng vốn trong một thời gian dài, do đó, các dự án thường bị lạc hậu ngay từ lúc có ý tưởng đầu tư. Sai lầm trong việc dự toán vốn đầu tư có thể dẫn đến tình trạng lãng phí vốn lớn, thậm chí gây hiệu quả nghieem trọng đối với doanh nghiệp. Vì vậy, quyết định đầu tư của doanh nghiệp là quyết định có tính chiến lược, đòi hỏi phải được phân tích và cân nhắc kỹ lưỡng các nhân tố ảnh hưởng. Tuy nhiên, khi xem xét để ra quyết định đầu tư, doanh nghiệp còn bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp, cụ thể là: - Chính sách kinh tế: Trên cơ sở luật pháp về kinh tế và các chính sách kinh tế, Nhà nước tạo môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất – kinh doanh và hướng các hoạt động của doanh nghiệp phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của Chính phủ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của doanh nghiệp, do đó cần dự báo được những thay đổi trong chính sách kinh tế và đánh giá được những ảnh hưởng của yếu tố này đến hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Đặc biệt, doanh nghiệp cần tận dụng các yếu tố khuyến khích trong chính sách phát triển kinh tế. - Thị trường và cạnh tranh: Muốn tồn tại và phát triển, sản phẩm của doanh nghiệp phải đáp ứng các nhu cầu của người tiêu dùng. Không những thế, doanh nghiệp phải định hướng nhu cầu cho các khách hàng tiềm năng đối với các sản phẩm hiện có và các sản phẩm mới. Việc nghiên cứu thị trường quyết định khả năng tồn tại và phát triển của các sản phẩm , từ đó quyết định tới hiệu quả sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. mặt khác, doanh nghiệp cần quan tâm tới khả năng của các đối thủ cạnh tranh, của những sản phẩm thay thế cho các sản phẩm của doanh nghiệp. Các nghiên cứu về thị trường, về các yếu tố cạnh tranh phải được luận giải chi tiết trong luận chứng kinh tế - kỹ thuật. - Chi phí tài chính: Sự thay đổi về lãi suất và chính sách thuế sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến kết cấu vốn và dự toán vốn của doanh nghiệp. Những yếu tố này cũng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động đầu tư. Việc dự báo chính xác sự thay đổi trong chính sách thuế và lãi suất sẽ có thể làm giảm rủi ro cho hoạt động đầu tư. - Tiến bộ khoa học – kỹ thuật: Yếu tố này sẽ ảnh hưởng tới việc lựa chọn các trang thiết bị, phương pháp khấu hao tài sản cố định, chất luợng và giá thành sản phẩm, v.v… Việc sai lầm trong dự báo tiến bộ khoa học - kỹ thuật có thể ảnh hưởng đến tính khả thi và hiệu quả của dự án đầu tư. - Khả năng tài chính của doanh nghiệp: Quyết định đầu tư phải xem xét trong giới hạn về khả năng huy động vốn của doanh nghiệp và dự báo các nhu cầu đầu tư trong tương lai. Việc bỏ vốn trong hiện tại sẽ làm doanh nghiệp mất đi khả năng đầu tư mới trong các thời điểm tiếp theo. Doanh nghiệp cũng cần quan tâm tới dự báo khả năng huy động vốn để đáp ứng các nhu cầu đầu tư trong tương lai, từ đó có sự phân tích và lựa chọn các phương thức, các công cụ huy động vốn thích hợp. 3.2.4 Khái niệm và phân loại dự án đầu tư Để đạt được mục đích đầu tư cần phải có hàng loạt giải pháp của chủ thể quản lý đặt trong sự tương tác với các loại môi trường như môi trường, pháp luật và thể chế, môi trường kinh tế, môi trường sinh thái, môi trường chính trị và môi trường quốc tế. Tất cả các yếu tố để xác lập mục đích, công cụ quản lý và mối mối tương quan với môi trường bên ngoài của hoạt động đầu tư được gọi là một dự án đầu tư. Một cách chính thống, khi đề cập đến khái niệm dự án đầu tư người ta thường dẫn trích theo Luật Xây dựng đã được Quốc hội khóa XI thông qua năm 2003: “ Dự án đầu tư ” là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm, hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định ( chỉ bao gồm hoạt động đầu tư trực tiếp). Dự án đầu tư còn được xem là các hoạt động kinh tế đặc thù với các mục tiêu, phương pháp và phương tiện cụ thể để đạt đến một trạng thái mong muốn. Nội dung của dự án đầu tư được thể hiện trong luận chứng kinh tế - kỹ thuật, là văn bản phản ánh trung thực, chính xác kết quả nghiên cứu về thị trường, môi trường kinh tế - kỹ thuật và môi trường pháp lý, về tình hình tài chính v.v… Từ ý nghĩa đó, chúng ta sẽ phân tích các yếu tố cấu thành một dự án đầu tư: - Nguồn lực: gồm nhân lực, vật lực các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác kể cả đát đai, tiền vốn. - Lựa chọn các giải pháp kỹ thuật, công nghệ, tổ chức quản trị… - Tạo ra được các sản phẩm vật chất hoặc dịch vụ các loại. - Được hoàn thành trong một thời gian nhất định. Để có thể đáp ứng mục tiêu tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở hữu, doanh nghiệp cần có chiến lược trong việc tìm kiếm và lựa chọn các dự án đầu tư mới, doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại và phát triển, đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay. Hướng phát triển cho những sản phẩm mới, kéo dài tuổi thọ của sản phẩm hay làm tăng khả năng thu lợi của sản phẩm hiện có là những vấn đề các nhà quản lý tài chính luôn tìm kiếm lời giải đáp. Trong quản trị, người ta thường tổ chức phân loại dự án đầu tư theo các tiêu thức sau: - Theo tính chất và quy mô dự án đầu tư trong nước nước chia ra thành 3 nhóm dự án theo trình tự quy mô nhỏ dần là : Dự án nhóm A, dự án nhóm B, dự án nhóm C. - Theo tính chất và nguồn vốn đầu tư chia ra các loại dự án: Dự án bằng nguồn vốn tập trung NSNN, dự án bằng nguồn vốn vay, dự án bằng nguồn vốn tự có của đơn vị, dự án hỗn hợp. - Theo trình tự đầu tư, dự án đầu tư có hai loại: Dự án tiền khả thi (dự án sơ bộ), và dự án khả thi (luận chứng kinh tế kỹ thuật hoặc báo cáo kinh tế kỹ thuật). Tính khả thi của một dự án được hiểu là tính hợp lý có thể thực hiện được và khả năng mang lại kết quả là vững chắc. - Theo cơ cấu tài sản đầu tư, có thể phân loại dự án đầu tư của doanh nghiệp thành: dự án đầu tư tài sản cố định, dự án đầu tư tài sản lưu động và dự án đầu tư tài sản tài chính. Đầu tư tài sản cố định là các dự án đầu tư nhằm mua sắm, cải tạo, mở rộng tài sản cố định của doanh nghiệp. Đầu tư tài sản cố định thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng đầu tư của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất. Loại đầu tư này bao gồm: đầu tư xây lắp; đầu tư mua sắm máy móc thiết bị; đầu tư tài sản cố định khác. Các tài sản cố định được đầu tư có thể là tài sản cố định hữu hình hoặc tài sản cố định vô hình. Đầu tư tài sản lưu động là khoản đầu tư nhằm hình thành các tài sản lưu động cần thiết để đảm bảo cho các hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành bình thường. Nhu cầu đầu tư tài sản lưu động phụ thuộc vào đặc điểm của hoạt động sản xuất – kinh doanh, vào nhu cầu tăng trưởng của doanh nghiệp. Đầu tư tài sản tài chính là dự án đầu tư tập trung vào các tài sản chính như mua cổ phiếu, trái phiếu, hoặc tham gia góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác. Hoạt động tài chính ngày càng có tỷ trọng cao và mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp. Phân loại đầu tư theo cơ cấu tài sản đầu tư có thể giúp các nhà quản lý tài chính xây dựng một kết cấu tài sản thích hợp nhằm đa dạng hóa đầu tư, tận dụng được năng lực sản xuất và năng lực hoạt động, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. Ngoài ra để phục vụ công tác thẩm định, dự án đầu tư chia thanh 3 loại: Dự án độc lập, dự án loại trừ, dự án phụ thuộc. Dự án loại trừ (dự án xung khắc) là giải pháp nhằm thực hiện một công việc. Nếu chấp nhận dự án này thì buộc phải từ chối các dự án còn lại như một doang nghiệp sản xuất nước uống đống chai đang cân nhắc lựa chọn dây chuyền vận chuyển hay xe tải nhỏ dể dưa sản phẩm từ khu vực sản xuất vào kho chứa. Việc lựa chon giải pháp này đương nhiên phải loại bỏ giải pháp kia. Chúng là những dự án loại bỏ lẫn nhau. Dự án độc lập là dự án mà khi thực hiện chúng không ảnh hưởng tới các dự án khác, như ngoài dự án vận chuyển, doanh nghiệp này còn dự định mua máy đóng nắp chai. Việc mua máy đóng nắm chai hoàn toàn độc lập với việc mua xe vận tải hoặc dây chuyền vận chuyển. Đó là những dự án độc lập.

Dự án phụ thuộc là dự án mà khi thực hiện nó thì đồng thời phải thực hiện dự án kia và ngược lại. Thường thì các dự án phụ thuộc là những mắc xích trong một chuỗi cung ứng hàng hoá và dịch vụ. Những tình huống cụ thể như dự án xây dựng siêu thị và dự án xây bãi trông xe và đỗ xe; dự án xây dựng nhà máy mía đường và dự án tròng mía nguyên liệu... 3.2 DÒNG TIỀN VÀ CÁC NGUYÊN TẮC HOẠCH ĐỊNH DÒNG TIỀN 3.2.1 Bản chất của dòng tiền trong dự án đầu tư Trong dự án đầu tư, khái niệm dòng tiền (Cash Flow) được xem là thu nhập ròng bằng tiền tại từng thời điểm của dự án. Dòng tiền thể hiện sự vận động (thu vào, chi ra) của tiền tệ trong một dự án đầu tư và cuối cùng là chênh lệch giữa số lượng tiền nhận được và lượng tiền đã chi ra cho một dự án. Quay trở lại khái niệm, chúng ta thấy rằng, bản chất của khái niệm dòng tiền lại xuất phát từ ý nghĩa của thuật ngữ ’ thu nhập ròng bằng tiền ” - Thực chất đây là các khoản thực thu và thực chi đối trừ lẫn nhau. Khi xác định các khoản thu nhập và chi phí bằng tiền trong tài chính, người ta sẽ chỉ quan tâm đến bản chất nghiệp vụ chứ không phụ thuộc vào các kỹ thuật hạch toán như trong kế toán. Đây chính là cơ sở để thấy sự khác biệt giữa hai khái niệm ” dòng tiền ” và ” lợi nhuận ” . Trong khi đánh giá tính hiệu quả về mặt tài chính của dự án, người ta chỉ dựa vào dòng tiền mà không dựa vào lợi nhuận vì dòng tiền phản ánh đúng chính xác bản chất thực của các khoản tiền phát sinh, đồng thời chú trọng đến thời điểm phát sinh nên nguyên tắc tiền tệ có giá trị theo thời gian được tuân thủ nghiêm ngặt - Các yếu tố này tạo ra tính ưu việt của dòng tiền. Trong lúc đó, chỉ tiêu lợi nhuận sẽ có một số các nhược điểm về ký thuật tính toán, đó là: - Lợi nhuận luôn là một kết quả tương đối, không phản ánh chính xác bản chất vì nó phụ thuộc rất lớn vào tính chủ quan của doanh nghiệp cũng như phương thức hạch toán kế toán của doanh nghiệp. - Trong quá trình hạch toán, có nhiều bút toán như trích trước, trả trước, khấu hao, dự phòng ... được sử dụng. Chính những khoản thu nhập và chi phí không bằng tiền này làm cho quy mô của lợi nhuận bị sai khác một cách đáng kể. 3.2.2 Các nguyên tắc hoạch định dòng tiền Từ những phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng, việc xác định dòng tiền sẽ liên quan đến nhiều yếu tố mà chúng ta phải cân nhắc như dự báo doanh thu, dự báo nhu cầu, lựa chọn hình thức huy động vốn... Những sai lầm trong hoạch định dòng tiền sẽ dẫn đến các kết luận sai lầm trong việc lựa chọn hay bác bỏ dự án. Vì vậy, trong quá trình hoạch định doàng tiền, chúng ta phải tuân thủ các nguyên tắc sau: Dòng tiền phù hợp (dòng tiền tăng thêm - incremental cash flow): Nguyên tắc này yêu cầu dò ng tiền cần được đo lường trên cơ sở tăng thêm . Nói cách khác nên đánh giá dòng tiền cho một dự án cụ thể trên góc độ toàn bộ dòng tiền của doanh nghiệp sẽ bị tác động như thế nào nếu dự án được chấp nhận so với tác động khi dự án không được chấp nhận. Vì vậy, cần phân tích tất cả các thay đổi trong dòng doanh thu, dòng chi phí và dòng thuế phát sinh cho việc chấp nhận dự án. Ngược lại, không cần tính đến dòng tiền không bị dự án làm thay đổi. Một dòng tiền phù hợp là một sự thay đổi trong tổng dòng tiền trong tương lai của doanh nghiệp mà được coi là tác động của việc thực hiện dự án. Bởi vì dòng tiền phù hợp được định nghĩa là sự thay đổi hay là chênh lệch với dòng tiền của doanh nghiệp, nên nó còn được gọi là dòng tiền tăng thêm có ý nghĩa của dự án. Khái niệm về dòng tiền tăng thêm là trung tâm của phân tích về dự án, do vậy chúng ta cần hiểu chính xác bản chất của nó. Dòng tiền tăng thêm trong đánh giá dự án là bất cứ có sự thay đổi nào trong dòng tiền của doanh nghiệp trong tương lai mà được coi là hệ quả trực tiếp của việc thực hiện dự án. Từ khái niệm này, ta có thể thấy, các dòng tiền mà sự tồn tại của nó không liên quan đến việc thực hiện hay không thực hiện dự án thì không thể coi là dòng tiền chênh lệch. Trong thực tế, việc tính toán, so sánh dòng tiền khi có và không có dự án là rất phức tạp, đặc biệt là đối với doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên, rất may việc tính toán đó không phải là bao giờ cũng cần thiết. Một khi chúng ta xác định tác động của một dự án đề nghị đối với dòng tiền của doanh nghiệp, chúng ta chỉ cần tập trung vào dòng tiền chênh lệch là kết quả của dự án. Nguyên lý này được gọi là nguyên lý độc lập. Nguyên lý độc lập cho rằng một khi chúng ta đã xác định dòng tiền chênh lệch khi thực hiện dự án, chúng ta có thể nhìn nhận dự án đó như là một doanh nghiệp nhỏ với doanh thu, chi phí, tài sản và tất nhiên là các dòng tiền của nó. Khi đó chúng ta sẽ xem xét, so sánh các dòng tiền của doanh nghiệp này với chi phí đầu tư của nó. Kết quả quan trọng của phương pháp này đánh giá dự án đơn thuần với các giá trị độc lập với hoạt động khác hoặc dự án khác.

aaaaaaaaaaa Trên đây chúng ta đề cập đến dòng tiền tăng thêm do dự án mang lại. Phần tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét một số nguyên tắc liên quan đến dòng tiền đặc thù. Dòng tiền sau thuế (After Tax Cash Flow): Vì đầu tư ban đầu cho dự án là tiền mặt sau thuế nên dòng tiền phải được đánh giá sau thuế. Hơn nữa, đánh giá dòng tiền sau thuế sẽ đánh giá chính xác hơn những lợi ích từ tấm chắn thuế. Loại bỏ chi phí chìm (Sunk costs) Chi phí chìm được định nghĩa là chi phí đã trả hay đã phát sinh phải trả, nghĩa là đã phát sinh từ trong quá khứ trước khi có dự án xuất hiện hoặc không có liên quan gì đến hoạt động của dự án. Loại chi phí này không chịu ảnh hưởng bởi quyết định hiện tại là chấp nhận hay không chấp nhận dự án. Nói cách khác, doanh nghiệp phải trả chi phí này mà không phụ thuộc vào việc có chấp nhận dự án hay không. Theo định nghĩa về dòng tiền chênh lệch, rõ ràng chi phí này không phù hợp cho việc ra quyết định. Do vậy, chi phí chìm sẽ không được tính vào dòng tiền của dự án. Tính vào những chi phí cơ hội phát sinh Khi đề cập đến chi phí, chúng ta thường nghĩ là các khoản tiền đã trả hay là các khoản thanh toán. Tuy nhiên, khái niệm về chi phí cơ hội thì khác. Chi phí cơ hội được định nghĩa là cơ hội thu nhập bị bỏ qua do chấp nhận dự án này mà không chấp nhận dự án khác, trong cùng một điều kiện kinh doanh. 

Tính vào những tác động gián tiếp của dự án Lưu ý rằng dòng tiền chênh lệch của một dự án bao gồm tất cả các thay đổi dòng tiền của doanh nghiệp được gây ra bởi việc thực hiện dự án. Trong nhiều trường hợp, việc chấp nhận dự án có thể gây ra những tác động phụ, kể cả tốt và xấu đối với dòng tiền của doanh nghiệp. Khấu hao tài sản cố định được cộng trở lại vào dòng tiền Khấu hao là chi phí nhưng không phải là dòng tiền chi ra, do đó khi xây dựng dòng tiền cần tính trở lại khấu hao. Chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ lý thuyết khấu hao trong chương sau của chương trình này. Không tính Chi phí tài trợ khi hạch toán dòng tiền Trong phân tích luận chứng kinh tế - kỹ thuật, người ta không quan tâm đến chi phí tài trợ như lãi vay hay cổ tức trả trước. Bởi lẽ chúng ta quan tâm đến dòng tiền do do tài sản của dự án tạo ra. Trong khi đó, các chi phí tài trợ như lãi vay lại thuộc dòng tiền trả cho chủ nợ, không phải dòng tiền từ tài sản (hay cho tài sản). Hơn nữa, mục tiêu của phân tích dự án là so sánh giá trị các dòng tiền dự án mang lại với chi phí đầu tư để tính ra giá trị hiện tại ròng. Mối quan hệ giữa nợ và vốn của chủ là vấn đè thuộc quản lý và nó quyết định sự phân chia dòng tiền giữu chủ sở hữu và chủ nợ. Hơn nữa, mục tiêu của phân tích dự án là so sánh giá trị các dòng tiền dự án mang lại với chi phí đầu tư để tính ra giá trị hiện tại ròng. Mối quan hệ giữa nợ và vốn của chủ là vấn đề thuộc quản lý và nó quyết định sự phân chia dòng tiền giữa chủ sở hữu và chủ nợ. 3.2.3 Các báo cáo tài chính dự toán và phương pháp xác định dòng tiền của dự án Trước tiên, để đánh giá một luận chứng kinh tế - kỹ thuật, nhà phân tích phải bắt đầu với các báo cáo tài chính kế hoạch (hay dự toán). Từ đó, có thể tính toán dòng tiền của dự án để trên cơ sở đó, sử dụng các chỉ tiêu để đánh giá dự án. Các báo cáo tài chính dự toán là phương tiện thuận lợi và dễ hiểu để tóm tắt các thông tin phù hợp về dự án. Để có được báo cáo này, cần có các thông tin dự tính về sản lượng bán, giá bán đơn vị, chi phí biến đổi đơn vị, tổng chi phí cố định, tổng đầu tư cần thiết (bao gồm cả đầu tư vào vốn lưu động ròng). Từ các thông tin này, tacó thể lập được Báo cáo thu nhập dự toán và Báo cáo dự toán vốn đầu tư. Với hai báo cáo này, ta có thể tính được dòng tiền của dự án. Dòng tiền của dự án: Như đã đề cập ở phần trước, dòng tiền của dự án bao gồm 3 bộ phận: dòng tiền từ hoạt động kinh doanh (OCF - Operating Cash Flow), chi tiêu vốn và thay đổi vốn lưu động ròng. Như vậy: Trong đó: Các phương pháp tính toán dòng tiền từ hoạt động kinh doanh Có các phương pháp khác nhau trong việc xác định dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, song cùng mang lại một kết quả giống nhau.
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh của dự án Thay đổi vốn lưu động ròng của dự án Ch i tiêu vốn của dự án = Dòng tiền của dự án + + L ợi nhuận sau thuế Khấu hao = Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh + =

Với các số liệu này, tính toán lợi nhuận trước thuế và lãi vay: EBIT = Doanh thu – Chi phí – Khấu hao = 1.500 – 700 – 600 = 200 $ Giả sử doanh nghiệp không có chi phí lãi vay, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp T = 34%, vậy thuế phải trả là: Thuế = Lợi nhuận trước thuế (EBIT) × T = 200 × 0,34 = 68 $ Tính toán dòng tiền từ hoạt động (OFC): OFC = Lợi nhuận sau thuế + Khấu hao

Xem xét các phương pháp sau: * Phương pháp từ dưới lên (Bottom – up approach) Vì dự án bỏ qua chi phí lãi vay khi tính OFC, ta có thể tính lợi nhuận ròng của dự án như sau: Lợi nhuận ròng của dự án = EBIT – Thuế = 200 – 68 = 132$ Xuất phát từ số dưới cùng – lợi nhuận ròng, cộng với khấu hao, ta được dòng tiền từ hoạt động kinh doanh OCF: OCF = Lợi nhuận ròng + Khấu hao = 132 + 600 = 732 $ * Phương pháp từ trên xuống (Top-down approach) xuất phát từ doanh thu để tính toán dòng tiền từ hoạt động kinh doanh của dự án. Tính toán như sau: OCF = Doanh thu – Chi phí – Thuế = 1.500 – 700 - 68 = 732 $ * Phương pháp tiết kiệm nhờ thuế Công thức tính OCF theo phương pháp tiết kiệm nhờ thuế như sau: OCF = (Doanh thu – Chi phí) × (1-T) + Khấu hao × T = (1.500 – 700) × 0,66 + 600 × 0,34 = 528 + 204 = 732 $

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro