quan tri tai chinh 7

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

7.1 BẢN CHẤT VÀ MỤC TIÊU PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 7.1.1 Bản chất của hoạt động phân tích tài chính Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp hiện nay đang được tiến hành theo hai hướng chủ yếu. Một là, phân tích hiện trạng các báo cáo tài chính (financial statements) và tính toán các chỉ tiêu tài chính đặc trưng (Ratio Analysis). Thông qua một hệ thống các phương pháp và kỹ thuật, giúp người sử dụng thông tin từ nhiều gốc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng thể, lại vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Hai là, phân tích xu hướng diễn tiến của các thông số tài chính chủ yếu (Trends Analysis). Việc phân tích xu hướng sẽ giúp doanh nghiệp nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra các quyết định tài chính phù hợp. Tuy việc phân tích tài chính được tiến hành theo hướng nào đi nữa, chúng ta vẫn phải tuân thủ quy trình tiến hành phân tích tài chính theo ba bước chính sau đây:

- Thu thập thông tin: Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin quản lý có khả năng lý giải và thuyết minh thực trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình dự báo tài chính. Các thông tin nên được kết hợp từ nhiều nguồn khác nhau bao gồm: thông tin từ bên ngoài và thông tin nội bộ, thông tin của kế toán quản trị và thông tin kế toán tài chính. Trong đó, tập trung nhất vẫn phải bám sát các nội dung trong báo cáo tài chính doanh nghiệp. Do vậy, trên thực tế, hoạt động phân tích tài chính thực chất là hoạt động phân tích các báo cáo tài chính doanh nghiệp - Xử lý thông tin: Trong giai đoạn này, sử dụng các thông tin ở các góc độ nghiên cứu, ứng dụng khác nhau để chọn những phương pháp phân tích khác nhau nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra. - Dự đoán và ra quyết định: Trong khâu này, đòi hỏi những người tác nghiệp phải biết vận dụng những thông tin khoa học, chính xác kết hợp với kinh nghiệm, linh cảm của bản thân để đưa ra những quyết định phù hợp. Tuỳ vào từng đối tượng khác nhau sẽ có các mục tiêu phân tích tài chính khác nhau và từ đó, nội dung các quyết định cũng khác nhau. Quy trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được sử dụng rộng rãi trong mọi đơn vị kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức, được áp dụng trong các tổ chức xã hội, tập thể và các cơ quan quản lý, tổ chức cộng đồng. Đặc biệt, sự phát triển của các doanh nghiệp, của các ngân hàng và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để phân tích tài chính chứng tỏ thực sự là có ích và vô cùng cần thiết. 7.1.2 Mục tiêu của hoạt động phân tích tài chính Trong cơ chế thị trường, các thông tin từ hoạt động phân tích tài chính thật sự rất quan trọng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng... Những người phân tích tài chính ở những cương vị khác nhau nhằm các mục tiêu khác nhau . Phân tích tài chính đối với nhà quản trị doanh nghiệp Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để định hướng các quyết định cả ban Tổng giám đốc, Giám đốc tài chính, dự báo tài chính: kế hoạch đầu tư, ngân quỹ và kiểm soát các hoạt động quản lý.

Phân tích tài chính đối với nhà đầu tư Nhà đầu tư cần biết tình hình thu nhập của chủ sở hữu lợi tức cổ phần và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư. Họ quan tâm tới phân tích tài chính để nhận biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Đó là một trong những căn cứ giúp họ ra quyết định bỏ vốn vào doanh nghiệp hay không? Phân tích tài chính đối với người cho vay (nhà tài trợ) Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của khách hàng. Chẳng hạn, để quyết định cho vay, một trong những vấn đề mà người cho vay cần xem xét là doanh nghiệp thực sự cần có nhu cầu vay hay không? Khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào?

Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với người hưởng lương trong doanh nghiệp, đối với cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật sư… Dù họ công tác ở các lĩnh vực khác nhau, nhưng họ đều muốn hiểu biết về hoạt động của doanh nghiệp để thực hiện tốt hơn công việc của họ. Như vậy mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là đánh giá khả năng xảy ra rủi ro phá sản tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, khả năng hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Nói cách khác, phân tích tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính. Phân tích tài chính có thể được ứng dụng theo nhiều hướng khác nhau: Với mục đích tác nghiệp (chuẩn bị các quyết định nội bộ), với mục đích nghiên cứu, thông tin hoặc theo vị trí của nhà phân tích (trong doanh nghiệp hoặc ngoài doanh nghiệp). Tuy nhiên, trình tự phân tích và dự đoán tài chính đều phải tuân theo các nghiệp vụ phân tích thích ứng với từng giai đoạn dự đoán. 7.2. THÔNG TIN SỬ DỤNG TRONG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn thông tin: Từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp đến những thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin đó đều giúp cho nhà phân tích có thể đưa ra được những nhận xét, kết luận tinh tế và thích đáng. Trong những thông tin bên ngoài, cần lưu ý thu thập những thông tin chung (thông tin liên quan đến trạng thái nền kinh tế, cơ hội kinh doanh, chính sách thuế, lãi suất), thông tin về ngành kinh doanh (thông tin liên quan đến vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành, các sản phẩm của ngành, tình trạng công nghệ, thị phần…) và các thông tin về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp (các thông tin mà các doanh nghiệp phải báo cáo cho các cơ quan quản lý như: Tình hình quản lý, kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp…) Với nguồn thông tin nội bộ, trong số các thông tin tài chính mà doanh nghiệp cung cấp cho các cổ đông và các bên liên quan, báo cáo hàng năm (annual report) là quan trọng nhất. Thông thường, trong báo cáo hàng năm, có hai loại thông tin chính. Thứ nhất là phần mô tả các thành tưu đạt được trong năm qua, tự đánh giá mặt mạnh điểm yếu và trình bày kế hoạch kinh doanh tổng thể trong thời gian sắp tới. Thứ hai, các số liệu tài chính được trình bày trong các báo cáo cơ bản đó là Bảng xác định kết quả kinh doanh, hay còn gọi là báo cáo thu nhập ( The Income Statement), Bảng cân đối kế toán (The Balance Sheet) và báo cáo luân chuyển tiền tệ (The Statement of Cashflow). Tất cả các thông tin này sẽ cung cấp một bức tranh kế toán ctương đối hoàn chỉnh và vị thế tài chính của doanh nghiệp. Trên cơ sở cách tiếp cận này, khi đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp, chúng ta phải sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Với những đặc trưng hệ thống, đồng nhất và phong phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan trọng những thông tin đáng giá cho phân tích tài chính. Thêm vào đó, các doanh nghiệp cũng có nghĩa vụ cung cấp những thông tin kế toán cho các đối tác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. 7.2.1. Bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý đối với doanh nghiệp. Thông thường, Bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán: Một bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp. Bên tài sản của Bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp: Đó là tài sản cố định, tài sản lưu động. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo. Đó là vốn của chủ (vốn tự có) và các khoản nợ. Các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán được sắp xếp theo khả năng chuyển hóa thành tiền (khả năng thanh khoản) giảm dần từ trên xuống. Bên tài sản Tài sản lưu động (tiền và chứng khoán ngắn hạn dễ bán, các khoản phải thu, dự trữ); tài sản tài chính; tài sản cố định hữu hình và vô hình. Bên nguồn vốn Nợ ngắn hạn (nợ phải trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp, phải trả khác, nợ ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác); nợ dài hạn (nợ vay dài hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, vay bằng cách phát hành trái phiếu); vốn chủ sở hữu (thường bao gồm: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu mới). Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài sản; bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp. Bên tài sản và bên nguồn vốn của Bảng cân đối kế toán đều có các cột chỉ tiêu: Số đầu kỳ, số cuối kỳ. Ngoài các khoản mục trong nội bảng còn có một số khoản mục ngoài Bảng cân đối kế toán như: Một số tài sản thuê ngoài, vật tư, hàng hóa nhận giữ hộ, nhận gia công, hàng hóa nhận bán hộ, ngoại tệ các loại v.v… Nhìn vào Bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết được loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp cho các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp. 7.2.2. Báo cáo kết quả kinh doanh Một thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo Kết quả kinh doanh. Khác với Bảng cân đối kế toán, báo cáo Kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo Kết quả kinh doanh cũng giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hóa, dịch vụ; so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định đựợc kết quả sản xuất – kinh doanh: Lãi hay lỗ trong năm. Như vậy, báo cáo Kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất – kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Những khoản mục chủ yếu được phản ánh trên báo cáo Kết quả kinh doanh: Doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh; doanh thu từ hoạt động tài chính; doanh thu từ hoạt động bất thường và chi phí tương ứng vời từng hoạt động đó. Những loại thuế như: VAT, Thuế tiêu thụ đặc biệt, về bản chất, không phải là doanh thu và cũng không phải là chi phí của doanh nghiệp nên không được phản ánh trên báo cáo Kết quả kinh doanh. Toàn bộ các khoản thuế đối với doanh nghiệp và các khoản thuế phải nộp khác được phản ánh trong phần: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. 7.2.3. Báo cáo ngân quỹ (Báo cáo lưu chuyển tiền tệ) Để đánh giá một doanh nghiệp có đảm bảo được chi trả hay không, cần tìm hiểu tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp. Ngân quỹ thường được xác định cho thời hạn ngắn (thường là từng tháng) Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập quỹ (thu Ngân quỹ), bao gồm: Dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh (từ bán hàng hóa hoặc dịch vụ); dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động đầu tư, tài chính; dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất thường. Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất quỹ (chi Ngân quỹ), bao gồm: Dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh; dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động đầu tư, tài chính; dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất thường. Trên cơ sở dòng tiền nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ, nhà phân tích thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó, có thể thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đẩm bảo chi trả. Tóm lại, để phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp, các nhà phân tích cần phải đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, qua đó, họ nhận biết được và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp tới mục tiêu phân tích của họ. Tất nhiên, muốn được như vậy, các nhà phân tích cần tìm hiểu thêm nội dung chi tiết các khoản mục của các báo cáo tài chính trong một số môn học liên quan. 7.3. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH 7.3.1. Phương pháp phân tích tài chính Phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính là phương pháp tỷ số. Phương pháp tỷ số là phương pháp trong đó các tỷ số được sử dụng để phân tích. Đó là các tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ tiêu khác. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Bởi lẽ, thứ nhất: Nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và được cung cấp đầy đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành những tỷ lệ tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỷ số của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp; thứ hai: Việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích lũy dữ liệu và thúc đẩy nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ số; thứ ba: Phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách có hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn. Về nguyên tắc, với phương pháp tỷ số, cần xác định được các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu. Để đánh giá tình trạng tài chính của một doanh nghiệp cần so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Như vậy, phương pháp so sánh luôn được sử dụng kết hợp với các phương pháp phân tích tài chính khác. Khi phân tích, nhà phân tích thường so sánh theo thời gian ( so sánh kỳ này với kỳ trước) để nhận biết xu hướng thay đổi tình hình tài chính của doanh nghiệp, theo không gian (so sánh với mức trung bình ngành) để đánh giá vị thế của doanh nghiệp trong ngành. Bên cạnh đó, các nhà phân tích còn sử dụng phương pháp phân tích tài chính DUPONT. Với phương pháp này các nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như thu nhập trên tài sản (ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó đối với tỷ số tổng hợp. 7.3.2. Ứng dụng và hạn chế của phương pháp phân tích tài chính bằng tỷ số Như đã phân tích trong phần đầu của chương này, có ba nhóm chủ thể thường xuyên quan tâm đến các thông số tài chính, đó là: Nhà quản trị doanh nghiệp sử dụng các chỉ số tài chính nhằm phân tích, đánh giá, kiểm soát và cải thiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; Nhà đầu tư thì mong muốn đánh giá hiệu quả và viến cảnh tăng trưởng của doanh nghiệp; nhà tại trợ thì quan tâm đến nhu cầu vốn và khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, dù với mục tiêu gì đi chăng nữa, một vấn đề đặt ra khi xem xét các chỉ số tài chính là chọn chuẩn đánh giá. Đây là một công việc không đơn giản. Bên cạnh đó, các chỉ số tài chính còn bị tác động bởi những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp rất khác nhau. Để gợi ý đi đến nhận định cuối cùng về tình hình tài chính của một doanh nghiệp cụ thể, người ta thường sử dụng hệ thống các câu hỏi sau đây: - Chỉ số chúng ta đang phân tích tăng hay giảm? - Sự biến động này tốt hay xấu so với đối thủ cạnh tranh trực tiếp? so với mức trung bình chung của ngành? so với kế hoạch? - Nguyên nhân gtrực tiếp và nguyên nhấn gián tiếp dẫn đến sự biến động này? - Đâu là nguyên nhân chủ yếu, đâu là nguyên nhân cộng hưởng? - Phương án khả dĩ để cải thiện các thông số? - Việc cải thiện thông số có làm thay đổi các báo cáo tài chính như thế nào/ - Quyết định tối ưu cuối cùng trong tình huống hiện tại là gì? Rõ ràng, việc phân tích các tỷ số tài chính của doanh nghiệp có thể cung cấp cho chúng ta một bức tranh tổng thể và toàn diện về kết quả hoạt động cũng như vị thế kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu hoàn toàn dựa vào các nguồn số liệu tính toán để đưa ra các kết luận thì không phải lúc nào cũng chính xác vì bản chất các thông tin cũng có những hạn chế nhất định. Vì vậy, khi phân tích tài chính bằng tỷ số, chúng ta cần lưu ý đến các vấn đề sau: - Ảnh hưởng của sự đa dạng hoá trong kinh doanh: Một công ty thường kinh doanh nhiều lĩnh vực, nhiều ngành. Vì vậy, rất khó để có thể chọn được một thông số bình quân chung của ngành để so sánh và đưa ra kết luận. - Chỉ số trung bình ngành không phải là hoàn hảo: Mọi doanh nghiệp đều đặt mục tiêu cao hơn mức bình quân ngành, do vậy, nếu cao hơn mức bình quân vẫn chưa kết luận được tốt. - Ảnh hưởng của lạm phát: Lạm phát có thể ảnh hưởng không tốt đến các báo cáo tài chính, nó có thể làm cho giá trị so sánh lệch xa so với giá trị thực. - Ảnh hưởng của tính mùa vụ: Tính mùa vụ trong kinh doanh có ảnh hưởng đáng kể đến giá trị các tỷ số vào những thời kỳ khác nhau. - Ảnh hưởng của các kỹ thuật “ đánh bóng ” dữ liệu trong báo cáo: Kỹ thuật “ đánh bóng ” số liệu (window dressing) thường được sử dụng trong kế toán tài chính. Điều này xuất phát từ các ý tưởng chủ động của các cấp quản trị trong các tình huống khác nhau. - Ảnh hưởng của các phương pháp thực hành kế toán: Các chế độ kế toán khác nhau sẽ cho ra những kết quả báo cáo khác nhau và các phương pháp thực hành kế toán khác nhau cũng cho ra các số liệu báo cáo khác nhau. Vì vậy, trước khi so sánh các thông số tài chính, yêu cầu bắt buộc là phải ra soát các chuẩn mực và phương pháp kế toán áp dụng có đồng nhất hay không. - Ảnh hưởng của tính tương tác hai mặt của các chỉ số tài chính: Rất khó để có thể kết luận một thông số nào đó là tốt hay xấu vì chỉ tiêu này tốt sẽ có thể làm cho các chỉ tiêu khác xấu đi. Chẳng hạn, khi doanh nghiệp muốn cải thiện tình hình tiêu thụ bằng cách thay đối chính sách bán hàng từ phương thức thanh toán trả ngay sang phương thức thanh toán trả chậm. Lúc này, sẽ có hàng loạt các chỉ tiêu được cải thiện như doanh thu tăng, tồn kho giảm... nhưng đồng thời cũng sẽ có một loạt các chỉ tiêu xấu đi như khoản phải thu lớn dần, xuất hiện các khoản nợ khó đòi, rủi ro tăng....
Ảnh hưởng của các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời điểm: Việc sử dụng các tỷ số tài chính một cách độc lập sẽ rất khó đưa ra nhận xét mà yêu cầu người phân tích phải am hiểu chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Tóm lại, các chỉ số tài chính là kết quả của những hành động của doanh nghiệp và các hành động này dẫn đến những thay đổi. Việc phân tích tài chính bằng tỷ số sẽ rất hữu ích nếu biết kết hợp với việc nhận dạng và phân tích sự thay đổi đó theo nhiều chiều hướng khác nhau, nhiều nguyên nhân khác nhau, kết hợp với kinh nghiệm để đưa ra những kết luận xác đáng. 7.4. NỘI DUNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH 7.4.1 Phân tích các tỷ số tài chính Trong phân tích tài chính, các tỷ số tài chính chủ yếu thường được phân thành
nhóm chính:
Tỷ số về khả năng thanh toán: Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
Tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp.
Tỷ số về khả năng hoạt động: Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp.
Tỷ số về khả năng sinh lãi: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất – kinh doanh tổng hợp nhất của một doanh nghiệp. Tùy theo mục tiêu phân tích tài chính mà phân tích chú trọng nhiều hơn tới nhóm tỷ số này hay nhóm tỷ số khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn đặc biệt quan tâm tới tình hình khả năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, các nhà đầu tư dài hạn đặc biệt quan tâm nhiều hơn đến khả năng hoạt động và hiệu qủa sản xuất - kinh doanh. Họ cũng cần nghiên cứu tình hình về khả năng thanh toán để đánh giá khả năng của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thanh toán hiện tại và xem xét lợi nhuận để dự tính khả năng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng chú trọng tới tỷ số về cơ cấu vốn vì sự thay đổi tỷ số này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích của họ.

Mỗi nhóm tỷ số trên bao gồm nhiều tỷ số và trong từng trường hợp các tỷ số được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích. Phần tiếp theo sẽ đề cập tới những tỷ số chủ yếu nhất, phổ biến nhất được dùng trong phân tích, đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc phân tích các tỷ số sẽ có ý nghĩa hơn nếu sử dụng số liệu trong các báo cáo tài chính để minh họa bản chất, cách tính toán và ý nghĩa của cá tỷ số. Vì lẽ đó, một loạt các số liệu minh họa được cung cấp trong các bảng 7.1; 7.2. Đó là Bảng cân đối kế toán và báo cáo Kết quả kinh doanh. Hình thức các báo cáo tài chính được trình bày ở đây là chung nhất cho mọi trường hợp.

Tỷ số khả năng thanh toán nhanh (Quick ratio): Là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm: Tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, tỷ số khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho) và được xác định bằng cách lấy tài sản lưu động trừ phần dự trữ (tồn kho) chia cho nợ ngắn hạn. Khả năng thanh toán Tài sản lưu động – Dự trữ nhanh Nợ ngắn hạn Áp dụng vào Công ty ABC ta tính được tỷ số khả năng thanh toán nhanh: Năm N – 1 = Năm N = Tỷ số trung bình của ngành là 1 Tỷ số khả năng thanh toán nhanh thấp hơn năm trước và cũng thấp hơn so với mức trung bình của ngành. Nguyên nhân là do mức dự trữ của doanh nghiệp tăng lên đáng kể nhưng với tốc độ thấp hơn tốc độ tăng các khoản nợ ngắn hạn. Trong khi đó tiền, tiền hầu như không thay đổi, các khoản phải thu gia tăng phần nào. Những thay đổivề chính sách tín dụng và cơ cấu tài trợ đã làm khả năng thanh toán của doanh nghiệp trở nên yếu kém. Doanh nghiệp không thể thanh toán nhanh các khoản nợ ngắn hạn đến hạn nếu không sử dụng đến một phần dự trữ. Tỷ số dự trữ (tồn kho) trên vốn lưu động ròng: Tỷ số này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm vốn lưu động ròng. Nó được tính bằng cách chia dự trữ (tồn kho) cho vốn lưu động ròng. Đối với Công ty ABC, tỷ số này năm N – 1 là 94,3%, năm N là 135% trong khi tỷ số tham chiếu là là 87%. Như vậy, so với mức trung bình ngành, tỷ số dự trữ trên vốn lưu động ròng của doanh nghiệp là quá cao, đặc biệt năm N, dự trữ cao tới mức toàn bộ vốn lưu động ròng không đủ để tài trợ cho nó. Điều này liên quan tới cơ cấu vốn, cơ cấu tài trợ cũng như cơ cấu tài sản lưu động của doanh nghiệp. = 55,6 – 33,1 ––––– 20,5 = 1,09 = 0,73 80,1 – 46,7 ––––– 20,5

7.4.1.2 Các tỷ số về khả năng cân đối vốn Tỷ số này được dùng để đo lường phần vốn góp của chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn của chủ sở hữu công ty để thể hiện mức độ tin tưởng vào sự đảm bảo an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro xảy ra trong sản xuất - kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm được quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay thì lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ gia tăng đáng kể. Tỷ số nợ trên tổng tài sản (hệ số nợ - Debt Ratio): Thực chất, tỷ số nợ là số nghịch đảo của khả năng thanh toán. Tỷ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường các chủ nợ thích tỷ số nợ trên tổng tài sản vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu doanh nghiệp ưa thích tỷ số này cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp Song, nếu tỷ số nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Đối với Công ty ABC, tỷ số nợ năm N – 1 là 46,1%; năm N là 59,61%; tỷ số trung bình của ngành là 50%. Ta thấy tỷ số năm nay cao hơn năm trước nhiều so với tỷ số trung bình của ngành. Nguyên nhân chủ yếu là do tăng các khoản nợ ngắn hạn (nợ dài hạn và vốn của chủ sở hữu hầu như không thay đổi). Tỷ số nợ năm nay thể hiện sự bất lợi đối với các chủ nợ nhưng lại có lợi cho chủ sở hữu nếu đồng vốn có khả năng sinh lợi cao. Để có nhận xét đúng đắn về chỉ tiêu này cần phải kết hợ với các tỷ số khác. Tuy nhiên, có thể nói rằng, với các tỷ số nợ 59,61%, doanh nghiệp khó có thể huy động tiền vay để tiến hành sản xuất kinh doanh trong thời gian tới. Khả năng thanh toán lãi vay hoặc số lần có thể trả lãi: Thể hiện ở tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế và lãi trên lãi vay. Nó cho biết mức đọ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Việc không trả được các khoản nợ này sẽ thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản.

7.4.1.3 Các tỷ số về khả năng hoạt động Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các tỷ số này để xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Vòng quay tiền (Cash Turnover) Tỷ số này được xác định bằng cách chia doanh thu (DT) trong năm cho tổng số tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân (chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng); nó cho biết số vòng quay của tiền trong năm. Vòng quay tiền của Công ty ABC năm N – 1 và năm N tương ứng là 46,2 và 50,1. So với mức bình quân của ngành là 55,0 thì chỉ tiêu này của doanh nghiệp là thấp. Tuy nhiên, vòng quay tiền năm N cao hơn năm N- 1 chư chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp tốt hơn mà phải kết hợp phân tích một số chỉ tiêu khác. Vòng quay dự trữ (Vòng tồn kho - Inventory Turnover) Là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ số giữa doanh thu trong năm hoặc giá vốn hàng bán đem chia cho giá trị dự trữ (nguyên vật liệu, vật liệu phụ, sản phẩm dở dang thành phẩm) bình quân. Áp dụng vào Công ty ABC ta có: Vòng quay dự trữ:

Kỳ thu tiền bình quân ( có thể được ký hiệu là ACP: Average collection Period hoặc DSO: Day Sales Outstanding ): Trong phân tích tài chính, kỳ thu tiền được sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu (ACR: Accounts Receivable) và doanh thu bình quân một ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp và các khoản trả trước.

Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu × 360/DT Áp dụng vào Công ty ABC ta có: Kỳ thu tiền bình quân: Năm N – 1 = Năm N = Mức trung bình của ngành là 32. Kỳ thu tiền bình quân năm nay cao hơn năm trước và quá cao so với mức trung
của ngành. Đây là một vấn đề đáng chú ý, bởi lẽ, doanh thu hầu như tăng không đáng kể, tỷ số này cao hơn gấp tới 1,7 lần mức trung bình của ngành, chứng tỏ vốn bị
động lớn trong khâu thanh toán, trong khi đó, thị trường tiêu thụ không hề tiến triển được. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
18,5 × 360 ––––– 184,41 = 36 = 54,3 29,5 × 360 ––––– 195,7

Chỉ tiêu này cho biết một đồng thài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = DT/TSCĐ Tài sản cố định ở đây được xác định theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định của Công ty ABC năm N (12,1) hầu như không tăng so với năm N-1 (12) và cao hơn mức trung bình ngành (5,0). Điều này chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng tài sản cố định có hiệu quả. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó được đo bằng tỷ số giữa doanh thu và tổng tài sản và cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = DT/TS

7.4.1.4 Các tỷ số về khả năng sinh lãi (Profitabitity Ratios) Nếu như các nhóm tỷ số trên đây phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt của doanh nghiệp thì tỷ số về khả năng sinh lãi phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý doanh nghiệp. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm (Profit Margin on Sales) : Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế (lợi nhuận sau thuế) cho doanh thu. Nó phản ánh số lợi nhuận sau thuế trong một trăm đồng doanh thu. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = TNST/DT

Tỷ số thu nhập sau thuế trên vón chủ sở hữu (Doanh lợi vốn chủ sở hữu: ROE: Return on Equity ): ROE = TNST/VCSH Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệy quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp.

Doanh lợi tài sản (ROA: Return on Assets): Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn thu nhập trước thuế và lãi hoặc thu nhập sau thuế để so sánh với tổng tài sản. ROA = TNTT&L/TS hoặc ROA = TNST/TS

Ngoài các tỷ số trên đây, các nhà phân tích cũng đặc biệt chú ý tới việc tính toán và phân tích những tỷ số liên quan tới các chủ sở hữu và giá trị thị trường. Chẳng hạn: - Tỷ lệ hoàn vốn cổ phần - Thu nhập cổ phiếu - Tỷ lệ trả cổ tức - Tỷ lệ giá/lợi nhuận - Tỷ lệ Khi sử dụng phương pháp phân tích tài chính DUPONT nhằm đánh giá tác động tương hỗ giữa các tỷ số tài chính, nhà phân tích có thể thực hiện việc tách ROE (thu nhap sau thuế/ Vốn chủ sở hữu) như sau: Tách ROE ROE = TNST/VCSH=TNST/TS × TS/VCSH = ROA × EM (số nhân vốn) ROE phản ánh mức sinh lợi của một đồng vốn chủ sở hữu – Mức tăng giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Còn ROA (Thu nhập sau thuế/Tài sản) phản ánh mức sinh lợi của toàn bộ doanh mục tài sản của doanh nghiệp – Khả năng quản lý tài sản của các nhà quản lý doanh nghiệp. EM là hệ số nhân vốn chủ sở hữu, nó phản ánh mức độ huy động vốn đầu tư từ bên ngoài của doanh nghiệp. Nếu EM tăng, điều đó chứng tỏ doanh nghiệp tăng vốn huy động từ bên ngoài. = Thu nh ập sau thuế –––––––– V ốn cổ phần = Thu nh ập sau thuế –––––––––––– S ố lượng cổ phiếu thường Lãi cổ phiếu –––––––––– ; v.v… Giá cổ phiếu = Giá cổ phiếu –––––––– Thu nh ập cổ phiếu = Lãi c ổ phiếu –––––––– Thu nh ập cổ phiếu

7.4.3 Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian Trong các phân tích tài chính, các nhà phân tích thường kết hợp chặt chẽ những đánh giá về trạng thái tĩnh với những đánh giá về trạng thái động để đưa ra một bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu như trạng thái tĩnh được thể hiện qua Bảng cân đối kế toán thì trạng thái động (sự dịch chuyển của các dòng tiền) được phản ánh qua bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn (Bảng tài trợ), qua báo cáo kết quả kinh doanh. Thông qua các báo cáo tài chính này, các nhà phân tích có thể đánh giá sự thay đổi về vốn lưu động ròng, về nhu cầu vốn lưu động, từ đó, có thể đánh giá những thay đổi về ngân quỹ của doanh nghiệp. Như vậy, giữa các báo cáo tài chính có mối liên quan rất chặt chẽ: Những thay đổi trên Bảng cân đối kế toán được lập đầu kỳ và cuối kỳ cùng với khả năng tự tài trợ được tính từ báo cáo Kết quả kinh doanh được thể hiện trên Bảng tài trợ và liên quan mật thiết tới ngân quỹ của doanh nghiệp. Khi phân tích trạng thái động, trong một số trường hợp nhất định, người ta còn chú trọng tới các chỉ tiêu quản lý trung gian nhằm đánh giá chi tiết hơn tình hình tài chính và dự báo những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp. Những chỉ tiêu này là cơ sở để xác lập nhiều hệ số (tỷ lệ) rất có ý nghĩa về hoạt động, cơ cấu vốn, v.v… của doanh nghiệp. Lãi gộp = Doanh thu – Giá vốn hàng bán Thu nhập trước khấu hao và lãi Thu nhập trước thuế và lãi Thu nhập trước thuế Thu nhập sau thuế Trên cơ sở, nhà phân tích có thể xác định mức tăng tuyệt đối và mức tăng tương đối của các chỉ tiêu qua các thời kỳ để nhận biết tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Đồng thời, nhà phân tích cũng cần so sánh chúng với các chỉ tiêu cùng loại của các doanh nghiệp cùng ngành để đánh giá vị thế của doanh nghiệp. = Lãi gộp Chi phí bán hàng, quản lý (không kể khấu hao và lãi vay) - = Khấu hao - Thu nhập trước khấu hao và lãi = Lãi vay - Thu nhập trước thuế và lãi = Thuế thu nhập doanh nghiệp - Thu nhập trước thuế

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro