quoc hoi 11

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Một số điểm mới trong Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)

Về đánh giá quá trình cách mạng Việt Nam: Kế thừa đánh giá của Cương lĩnh năm 1991, của các văn kiện đại hội thời kỳ đổi mới, nhất là của Đại hội IX, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 đã đánh giá khái quát quá trình cách mạng Việt Nam trong hơn 80 năm qua; vừa khẳng định những dấu mốc lịch sử quan trọng của cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, vừa khơi dậy được lòng tự hào dân tộc, không làm ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại hiện nay.

Về mô hình, mục tiêu, phương hướng. Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 có một số điểm mới như sau:

(1) Bổ sung thêm hai đặc trưng: Đặc trưng bao trùm, tổng quát: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và “Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Hai đặc trưng này đã được Đại hội X bổ sung, nhưng điểm mới so với Đại hội X là chuyển từ “dân chủ” lên trước từ “công bằng”. Bởi vì, cả về lý luận và thực tiễn đều khẳng định: có dân chủ thì mới có công bằng, văn minh; đồng thời, để nhấn mạnh bản chất của xã hội ta là xã hội dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

(2) Tiếp tục bổ sung, phát triển nội dung một số đặc trưng:

- Đặc trưng về con người Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 kế thừa Văn kiện Đại hội X (đã bỏ cụm từ "bóc lột"),  bỏ các  cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công”, viết: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Xác định như thế là chính xác, vì Cương lĩnh nói tới mục tiêu đã xây dựng xong CNXH.

- Đặc trưng về dân tộc. Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 thay từ “tương trợ” bằng “tôn trọng” và thay từ “tiến bộ” bằng “phát triển”. Vì vấn đề đặt ra là, các dân tộc tôn trọng nhau và không chỉ giúp nhau cùng tiến bộ mà còn giúp nhau cùng phát triển.

(3) Kế thừa sự bổ sung, phát triển của Đại hội X về đặc trưng “Do nhân dân làm chủ" (bỏ từ “lao động” sau từ "nhân dân"), bởi vì, xã hội này là xã hội của nhân dân và đặc trưng Cương lĩnh nói tới là mục tiêu đã xây dựng xong CNXH, nên lúc đó, không ai là người không lao động.

(4) Về đặc trưng kinh tế. Cương lĩnh năm 1991 xác định “Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Đại hội X thể hiện có "mềm" hơn, nhưng không mâu thuẫn với Cương lĩnh 1991: “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Để khẳng định rõ mục tiêu khi đã xây dựng xong CNXH, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 viết tương tự như Cương lĩnh năm 1991. Viết như vậy để Đảng ta chủ động lãnh đạo, chỉ đạo, kiên trì phấn đấu thực hiện từng bước trong suốt thời kỳ quá độ.

Về mục tiêu tổng quát, mục tiêu của chặng đường tới.. “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 có điều chỉnh một vài từ; dùng cụm từ “nền tảng kinh tế” thay cho “những cơ sở kinh tế". Viết như vậy vừa thể hiện rõ quá trình phát triển, vừa có ý nghĩa động viên toàn Đảng, toàn dân ta phấn đấu vì một xã hội tương lai tốt đẹp. Về mục tiêu của chặng đường sắp tới, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 chỉ nêu mục tiêu đến khoảng giữa thế kỷ XXI: toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN.

Về các phương hướng cơ bản. Cương lĩnh năm 1991 xác định 7 phương hướng, với nội dung có nhiều trùng lắp những nội dung được đề cập ở mục III: Những định hướng lớn về chính sách kinh tế-xã hội (KT-XH), quốc phòng-an ninh, đối ngoại. Để khắc phục sự trùng lắp, kế thừa cách diễn đạt của Đại hội X, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 nêu 8 phương hướng cơ bản sau đây: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”4.

Để thực hiện đúng các phương hướng cơ bản trên, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 còn bổ sung một nội dung về việc nắm vững và giải quyết "các mối quan hệ lớn như: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ"5;.... Đây là kinh nghiệm của 20 năm qua và có giá trị chỉ đạo trong những thập kỷ tới.

Về định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cương lĩnh năm 1991 chưa sử dụng thuật ngữ kinh tế thị trường. Kế thừa sự bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội Đảng VIII, IX, X, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 viết: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối"6.

 Định hướng về đối ngoại. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”

12. Về hợp tác trong khu vực và quốc tế. Do đó, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 viết “Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế”

13.

. Vì thế, Dự thảo Cương lĩnh năm 2011 viết: “Phấn đấu cùng các nước ASEAN xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh”14.v.v.

Câu hỏi 62: Điểm mới về Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI là gì?

Trả lời:

Có hai điểm mới về Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội trong Điều lệ Đảng khóa XI:

Một là, bổ sung cụm từ “Mặt trận Tổ quốc” vào tiêu đề Chương IX, vào Khoản 1, Khoản 3, Khoản 4 của Điều 41 và Khoản 1 của Điều 42, Điều lệ Đảng khóa XI. Nội dung các mục trên được diễn đạt đầy đủ như sau:

“Chương IX - Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội.

Điều 41:

1. Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội bằng Cương lĩnh chính trị, chiến lược, chính sách, chủ trương; bằng công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kiểm tra, giám sát việc thực hiện.

.........

3. Đảng giới thiệu cán bộ đủ tiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội.

4. Tổ chức đảng và đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, chỉ thị của Đảng; tổ chức đảng lãnh đạo việc cụ thể hóa thành các văn bản luật pháp của Nhà nước, chủ trương của đoàn thể; lãnh đạo thực hiện có hiệu quả.

Điều 42:

1. Trong cơ quan lãnh đạo của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội cấp Trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, do bầu cử lập ra, cấp ủy cùng cấp lập đảng đoàn gồm một số đảng viên công tác trong tổ chức đó. Nơi không lập đảng đoàn thì tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan đó thực hiện chức năng lãnh đạo theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương”.

Hai là, bổ sung cụm từ “lãnh đạo công tác” vào Khoản 3 của Điều 42, Khoản 3 của Điều 43 để làm rõ chức năng lãnh đạo của đảng đoàn và ban cán sự đảng đối với công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng. Nội dung các mục trên được diễn đạt đầy đủ như sau:

“Điều 42:

...

 3. Đảng đoàn lãnh đạo, thuyết phục các thành viên trong tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; liên hệ mật thiết với nhân dân; đề xuất với cấp ủy về phương hướng, nhiệm vụ, tổ chức, cán bộ và quyết định theo thẩm quyền; lãnh đạo công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng.

Điều 43:

...

3. Ban cán sự đảng lãnh đạo quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; đề xuất với cấp ủy về phương hướng, nhiệm vụ, tổ chức, cán bộ và quyết định theo thẩm quyền; lãnh đạo công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng”.

TÌM HIỂU NỘI DUNG CÁC VĂN KIỆN ÐẠI HỘI XI CỦA ÐẢNG

Ðịnh hướng lớn về phát triển văn hóa, xã hội

Về văn hóa

So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) bổ sung, phát triển hai nội dung sau:

- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.

- Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao.

Về con người

So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) có hai bổ sung, phát triển sau:

- Khẳng định: Con người là trung tâm của chiến lược phát triển... Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân.

- Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách.

Về giáo dục và đào tạo

giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Ðổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa... phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ðẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời.

Về khoa học và công nghệ

Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển nhiều, nổi bật là hai nội dung sau: Nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới; Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ.

Về bảo vệ môi trường

Cương lĩnh năm 1991 chỉ xác định 'Tuân thủ nghiêm ngặt việc bảo vệ môi trường, giữ gìn cân bằng sinh thái cho thế hệ hiện tại và mai sau'. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ những nội dung sau: Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa vụ của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch. Coi trọng nghiên cứu, dự báo và thực hiện các giải pháp ứng phó với quá trình biến đổi khí hậu và thảm họa thiên nhiên.

Về chính sách xã hội

So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) có những bổ sung, phát triển sau: Từ chủ trương: 'Kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ' (Cương lĩnh năm 1991) thành 'Kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong  từng bước và từng chính sách'; 'Khuyến khích tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết quả lao động' (Cương lĩnh năm 1991) thành 'Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa nghèo bền vững'; 'thiết lập một hệ thống đồng bộ và đa dạng về bảo hiểm và trợ cấp xã hội' (Cương lĩnh năm 1991) thành 'hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội'.

Bổ sung thêm chủ trương: 'Hạn chế, tiến tới đẩy lùi tội phạm và giảm tác hại của tệ nạn xã hội. Bảo đảm quy mô hợp lý, cân bằng giới tính và chất lượng dân số'.

Về xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh

Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển những nội dung sau:

Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Cụ thể như sau:

- Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Ðảng Cộng sản  Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Xây dựng, phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn.

- Ðào tạo, bồi dưỡng, phát huy mọi tiềm năng và sức sáng tạo của đội ngũ trí thức để tạo nguồn trí tuệ và nhân tài cho đất nước.

- Xây dựng đội ngũ những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi, có trách nhiệm xã hội, tâm huyết với đất nước và dân tộc.

- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Ðảng và dân tộc (Cương lĩnh năm 1991 chưa đề cập đến thế hệ trẻ).

- Thực hiện bình đẳng giới và hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ.

- Quan tâm thích đáng lợi ích và phát huy khả năng của các tầng lớp dân cư khác.

- Hỗ trợ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, giữ gìn bản sắc dân tộc, chấp hành tốt pháp luật các nước sở tại, hướng về quê hương, tích cực góp phần xây dựng đất nước.

- Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số.

- Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Ðấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.

So với Cương lĩnh năm 1991, về định hướng đối ngoại, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển những nội dung sau:

- Khẳng định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực  hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

- Xác định rõ hơn cơ sở của sự hợp tác: Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

- Mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển (bổ sung thêm quan hệ với 'những đảng khác').

Về dân chủ xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị

So với Cương lĩnh năm 1991, về dân chủ xã hội chủ nghĩa, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển những nội dung: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước; nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.

So với Cương lĩnh năm 1991, về nhà nước, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển những nội dung: Nhà nước ta là  nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa  của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#trang