Q1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 1: Đêm hiện hồn

Tôi là một sinh viên vừa tốt nghiệp đại học, khi nắm trong tay cái bằng tốt nghiệp cùng với một cuốn sổ tay tìm việc mong mỏng, trong lòng còn hơi ngơ ngác, như thể đang nằm mơ. Kỳ thực, bốn năm đại học đối với tôi mà nói cơ bản là lãng phí, không có mục tiêu phấn đấu, không có can đảm tìm tòi, chỉ có nhiệt tình cùng với một đám bạn chơi bóng rổ, chơi game online, không chút keo kiệt mà phí hoài thanh xuân.

Sau khi tốt nghiệp, lại nằm ườn ở nhà mấy tháng, ba mẹ cuối cùng chịu hết nổi, thẳng thừng tống cổ tôi tới nhà mợ ở thành phố B, làm một thầy giáo thực tập. Không sai, các vị nghe không nhầm, một kẻ không an phận, chẳng thành thật, gương mặt quanh năm đầy vẻ bất trị như An Tung đồng chí, không ngờ có ngày lại trở thành một thầy giáo, nghe thế nào cũng giống như một câu chuyện cười.

Khi đi, mẹ tôi thập phần lo lắng, lo tôi ở một mình không biết có quen hay không, thậm chí còn lo tôi bị người ta bắt nạt. Nhưng ba tôi vẫn mặt sắt đen sì như cũ, quở trách tôi không làm gì nên hồn, đến tuổi này còn để cho cha mẹ quan tâm. Nhưng tôi biết, bọn họ thực sự không muốn tôi ra ngoài sống một mình thế này…

Trường học nơi tôi tới nhận việc nằm trong khu thành cổ của thành phố B, đường cái rất hẹp, không mấy náo nhiệt, có rất nhiều khu nhà là nhà xây dựng trái phép.

Trường học thực ra cũng không to, nhưng vừa được sửa chữa lại, bên cạnh khu phòng học là khu ký túc xá cho nhân viên trong trường, tuy gọi là ký túc xá nhưng thực ra chỉ mấy mấy căn phòng nhỏ dành cho những giáo viên ở xa không có nhà riêng như tôi mà thôi.

Tôi vác theo cái rương lớn, một bên tay còn quàng một túi hành lý to, nghiêng nghiêng ngả ngả leo lên tầng hai. May phước là ở ngay lầu hai, bằng không chắc chắn mệt đến chết.

Khi đi nhận chìa khóa phòng, bác gái ở phòng quản lý đã nói cho tôi biết trước là tôi còn một người bạn cùng phòng, cho nên vừa mở cửa ra nhìn thấy hai cái giường đơn cũng không có gì ngạc nhiên. Vào nhà gọi hai tiếng, cũng không có tiếng thưa, tôi biết bạn cùng phòng chưa về, nên cũng tự cố tự địa dỡ hành lý xuống, xoa xoa hai bả vai mỏi nhừ, nhìn xung quanh phòng một cái.

Gian phòng có hơi nhỏ, nhưng cũng may là khá đầy đủ. Bên phải có một toa lét nho nhỏ, trong phòng có máy vi tính, hướng cửa sổ cũng không tồi. Còn nhà bếp thì, đàn ông độc thân có thể làm bếp kỳ thực hiếm hoi như lông phượng sừng lân, cho nên không bố trí nhà bếp cũng chẳng sao.

Gian phòng thế này có đủ sức chứa hai người, mà điều khiến tôi càng thêm thỏa mãn là ở chỗ giường đều là giường mới, chăn đệm cũng được giặt giũ chỉnh đốn đàng hoàng, nhìn có vẻ rất thư thái. Vì thế tôi gật gật đầu lẩm bẩm: “Không tồi, nơi này coi như sạch sẽ, xứng đáng cho bổn thiếu gia đặt chân đây…”

“Không sai, hai cái giường là tôi giặt giũ rồi đóng lại đàng hoàng, máy vi tính là tôi mang tới, nếu cậu đến sớm một ngày thôi là biết liền, chỗ này chẳng qua là một cái kho chứa củi thôi, thiếu gia à.”

Giọng nói truyền từ ngoài hành lang vào, chỉ thoáng chốc ngoài cửa đã xuất hiện thêm một người, mặc áo khoác màu trắng, mắt đeo kính gọng vuông. Gương mặt rất tuấn tú, nhưng là một loại tuấn tú hết sức nghiêm trang lạnh lùng.

Anh ta tới gần, nhìn tôi chăm chú một lúc, sau đó chỉ vào cái giường kê cạnh tường trong góc phòng nói: “Cậu ngủ trong đó đi, tôi quen dậy sớm, nằm giường ngoài không ảnh hưởng tới giấc ngủ của cậu.”

Tôi nhìn cái giường nọ một chút, lại nhìn cái giường còn lại kê cạnh cửa sổ, cười cười: “A, không thành vấn đề, tôi họ An, tên gọi An Tung. Không biết anh bạn…à không…đồng nghiệp xưng hô thế nào?” Tuy nói là nói vậy, nhưng người nào có mắt cũng nhìn ra được, giường kê bên cạnh cửa sổ mùa đông thì ấm mùa hạ thì mát, hơn nữa còn rộng rãi hơn, giường kê sát tường đương nhiên không bằng.

“Đồ ích kỷ…” Ấn tượng đầu tiên về đối phương là như vậy.

Nhưng anh chàng này có một cái tên rất nhã nhặn, gọi là Bạch Dực. Là một giáo viên môn lịch sử, tuy cũng chưa tới mức là môn chính, nhưng so với một thầy giáo dạy mỹ thuật như tôi mà nói cũng coi như là bận rộn hơn rất nhiều. Những khi rảnh rỗi, tôi lại mượn máy vi tính của anh ta nghe nhạc hay chơi game, cũng may người này tuy tính cách sắc bén nhưng ở quen sẽ thấy anh ta có thể coi là dễ tính, chí ít, máy vi tính không hề khóa password.

Bạch Dực thích đọc sách, hơn nữa còn có thói quen đọc rất hỗn tạp, thậm chí những cuốn sách mất bìa, phai chữ hay cả những cuốn kinh Phật chán ngắt anh ta cũng xem rất say mê.

Có những lúc buồn chán trò chuyện với nhau, tôi mới phát hiện kỳ thực anh chàng này hiểu biết rất rộng. Nếu anh ta thích, có thể bàn luận với đối phương về bất kỳ lãnh vực gì một cách am hiểu, quả nhiên đống sách kia cũng không phải là vô ích.

Vốn tưởng là công việc này rất nhàm chán, ai ngờ chớp mắt một cái đã qua mấy tháng. Hai ngày sau là ngày Đông chí, mợ đem đến cho tôi một mớ bánh trôi đậu ăn trong ngày Đông chí. Một mình tôi làm sao ăn hết được một đống như thế, liền cho Bạch Dực một nửa.

Hai người chúng tôi ngồi quanh bếp lò cùng ăn bánh trôi mợ làm, tự nhiên cũng phải tìm chuyện mà nói, người ta gọi đây là “chuyện kể bên bếp lò” là vậy…

“Sắp đến Đông chí rồi, hôm nay thật quá sức lạnh. Quần áo rét của tôi mẹ tôi còn chưa gởi tới, gió vừa thổi qua một cái, run lẩy bẩy a.” Tôi chăm chú nhìn vào bếp lò, tham lam hấp thụ chút hơi ấm của nó để bản thân ấm áp hơn.

“Tôi có quần áo lạnh dự trữ đấy, dù sao cậu vừa nhỏ vừa gầy như vậy chắc chắn mặc được.” Bạch Dực dùng cái muôi khuấy khuấy mớ bánh trôi trong nồi, bỗng nhiên dừng một chút, sau đó dường như nhớ ra cái gì bèn tiếp lời: “Đông chí thực ra còn gọi là lễ áo rét, cậu biết không?”

“Áo rét? Chứ không phải gọi là quỷ lễ à?”

Anh ta cười cười: “Cũng có thể gọi như thế, cho nên vào thời gian này con người cần thêm y phục, ăn no mặc ấm, thì âm hồn dưới địa phủ cũng cần thêm y phục, cũng muốn được cúng bái. Đối với bọn họ mà nói, chỉ cần thân nhân trên trần gian còn nhớ tới bọn họ, thắp cho bọn họ một nén nhang, bọn họ sẽ không trở thành cô hồn dã quỷ. Cho nên Đông chí cũng chia làm hai loại, mùa đông của người và mùa đông của quỷ.”

Tôi ừm một tiếng, suy nghĩ một chút lại hỏi: “Vậy tại sao phải ăn bánh trôi?” Vừa nói vừa vớt một viên bánh cho vào miệng, nhưng vừa cắn vào một cái lại phải lập tức phun ra, vì trong nhân bánh lại là mấy hột đậu đỏ còn nguyên vỏ chưa nghiền.

“Hèn chi ê răng muốn chết, sao giữa đám bánh trôi lại có một cái bán thành phẩm vậy không biết?”

“Đó là điềm phát tài đó nha, phỏng chừng trong nồi còn có vài viên nữa như vậy đấy, lúc ăn chú ý một chút, bất quá chỉ cần nấu kỹ thêm lát nữa thì không có vấn đề gì.” Bạch Dực liếc nhìn tôi một cái, đôi đũa cũng nhúng vào nồi nước khuấy khuấy, rõ ràng là đang đề phòng sợ ăn nhằm phải bánh đậu nguyên chưa chín.

“Điềm phát tài?” Tôi nghe mà có chút ngạc nhiên, “Điềm phát tài gì?”

Bạch Dực bưng chén lên, thay đổi một tư thế ngồi thoải mái hơn, sau đó đáp: “Đậu đỏ ấy mà, người đời cho rằng nó là một vật có dương khí rất mạnh, dùng để trừ tà. Mà ngày Đông chí dù sao cũng là ngày quỷ môn mở rộng, cho nên trong nhà có đậu đỏ cũng là để tránh quỷ khí.”

Tôi ngơ ngác gật gật đầu, Bạch Dực liền nói tiếp: “Lúc nãy cậu hỏi chúng ta vì sao phải ăn bánh trôi, đó là vì vào thời cổ đại, ngày Đông chí biểu thị cho một năm cũ đã qua, cho nên chúng ta ăn thứ gì đó tròn tròn, là để mong đoàn viên. Kỳ thực những địa phương khác nhau có những món ăn rất khác nhau trong ngày này. Có nơi ăn hồn đồn (hoành thánh) và sủi cảo, vì Đạo giáo nghĩ ‘hồn đồn’ đồng âm với chữ ‘hỗn độn’, nói cách khác, chỉ có người Tô Châu là ăn hồn đồn.”

“Ngày quỷ môn mở rộng à…” Tôi nhíu nhíu mày, không quan tâm nhiều lắm tới vấn đề bánh trôi nước, nhưng chỉ cảm thấy bốn từ “quỷ môn mở rộng” nghe cực kỳ đáng sợ. Giữa đêm đông lạnh giá kể chuyện ma quái, thế nào cũng cảm thấy sau lưng dường như lạnh buốt.

“A, sợ rồi hả?” Bạch Dực nhíu nhíu mày nhìn tôi cười đểu.

“Sợ cái gì mà sợ! Tôi không tin mấy thứ này, chỉ tin những gì mình thấy thôi! Đừng có mà mê tín trước mặt tôi.” Nói xong lại tiếp tục cúi xuống ăn bánh trôi nước.

“Có một số thứ không phải cứ dùng mắt thường là có thể thấy được.” Bạch Dực cũng không nói gì thêm, chỉ cười cười ăn tiếp.

Bữa tối hôm đó có thể coi là vui vẻ, ngoại trừ việc tôi cắn nhằm ba bốn cái bánh đậu nguyên hạt. Bạch Dực rất cẩn thận, phát hiện cái bánh khả nghi là lập tức phá lớp da bánh ngoài kiểm tra ngay, cho nên không ăn nhầm cái nào.

“Anh đi rửa chén đi, tôi cho anh ăn bánh trôi, anh cũng phải giúp tôi rửa chén.” Ăn xong có hơi quá no, tôi cũng thành con ma lười, vì vậy cầm lấy tờ báo bên cạnh, bắt chéo chân làm ra vẻ ta là đại gia ta không làm việc nhà.

Bạch Dực cũng không phàn nàn, nhanh chóng thu dọn chén đũa, lại thuận tay mở cửa sổ, gió lạnh lập tức nương theo song cửa lẻn vào phòng. Tôi rụt rụt người lại, chịu đựng chưa được mười phút đã phải lập tức ra đóng cửa sổ. Mùa đông tới rồi, thực sự cần phải thêm y phục nha…

Tối Đông chí, mợ gọi tôi tới nhà ăn tối, tôi vốn muốn gọi Bạch Dực đi cùng, nhưng anh ta nói không tiện, nhất quyết không chịu đi. Tôi cũng không muốn miễn cưỡng anh ta, Bạch Dực là người bạn đầu tiên tôi quen được ở chỗ mới, hơn nữa còn là bạn cùng phòng, tuy anh ta đôi khi thích chiếm tiện nghi người khác, nhưng tính cách thực sự không xấu, hành động rất chừng mực. So với những kẻ ngoài mặt thì giả lả trong lòng thì tìm cách lợi dụng người ta, anh ta quả thực là người tốt…

Ăn xong bữa cơm, tôi nghĩ đến sáng mai còn có tiết, nên vội vàng chào cậu mợ ra về.

Ban đêm, khí trời trong trẻo khác thường, ánh trăng đẹp hơn đêm qua gấp nhiều lần. Ở quê tôi người ta gọi ánh trăng thế này là “ánh trăng nước ngọt”, lúc này ánh trăng trải trên mặt đường sáng dịu tựa như một dòng nước ngọt, những đám mây trên trời hầu như không thể che lấp ánh sáng trong trẻo dịu dàng của nó. Nhưng những ngày thế này khí trời cũng đặc biệt lạnh, gió lạnh thổi qua người như thấu tới tận xương.

Mấy hôm trước tôi mới gọi điện thoại cho mẹ nhờ mẹ ký gửi cho một ít quần áo ấm, hiện tại còn chưa kịp tới, cho nên lúc nãy ra đường chỉ còn cách hỏi mượn áo của Bạch Dực. Anh ta cũng tùy tiện ném cho tôi một cái áo khoác vắt hờ trên ghế. Cái áo hơi rộng, gió luồn qua những nếp áo rộng thổi tới người, nhưng vẫn còn tốt hơn là không có, hiện tại tôi cũng chỉ còn cách chấp nhận.

Nhà mợ không cách xa trường học mấy, nhưng chính vì quá gần nên chẳng có trạm xe bus nào. Vì thế tôi chỉ còn biết đưa mặt ra đón gió, từng bước lê về nhà. Hai tay nắm chặt mép áo, tôi rụt cổ dấn bước nhanh hơn, hi vọng có thể về nhà càng nhanh càng tốt, về đến ký túc xá có thể uống một ly trà nóng.

Gió lạnh thổi hàng cây hai bên đường rung lên sàn sạt, rác rến chất ở góc tường cũng theo gió bay tứ tán. Tôi bước vào một con hẻm nhỏ, đây là đường tắt dẫn về trường. Ngọn đèn đường trong hẻm vừa bị hư chưa bao lâu, xa thật xa phía trước mới có một ngọn, tỏa ra ánh sáng yếu ớt nhạt nhòa. Trong hẻm không có một bóng người, trên con đường thanh lãnh mà rét căm căm ngoại trừ tiếng bước chân của tôi và tiếng gió thổi không còn bất kỳ một âm thanh nào khác.

Cũng phải, trời lạnh thế này người nào cũng muốn yên ổn cuộn mình nằm trong nhà, tìm đến con hẻm hoang vu này làm chi. Không khí u lãnh khiến cả con đường xung quanh như chìm trong một màn sương mù nhàn nhạt. Tìm không ra một điểm ấm áp, tôi thở dài một hơi, chà chà hai tay, xốc lại tinh thần, rụt cổ tiếp tục chạy về phía trước, đôi mắt chăm chăm quan sát trước mặt.

Cho nên khi vụt nhìn thấy bóng một người đàn ông trước mặt cách mình không xa, tôi thực sự sửng sốt, vì dường như chỉ trong một khoảnh khắc tôi vừa chớp mắt là ông ta đã xuất hiện vậy, trước đó hoàn toàn không có bóng ai, lẽ nào tôi hoa mắt? Tôi kinh ngạc hồi lâu, nhưng rồi cũng thôi, có lẽ là do ánh đèn đường quá mờ cho nên trông không rõ phía trước có người mà thôi. Tôi âm thầm gõ gõ trán tự cười mình, chẳng biết đang suy nghĩ cái quỷ gì?

Cũng là một người lưu lạc thiên nhai a~ tôi thở dài, buồn chán quan sát người trước mặt. Người nọ mặc một cái áo bành tô cũ màu xám, áo cũ quá nên nhăn nhúm lại. Đầu tóc hoa râm, tư thế bước đi có hơi cứng nhắc. Trên cánh tay của ông ta có một băng vải đen.

“Ồ…chắc có ai trong nhà vừa qua đời…” Trong lòng tôi nghĩ, trong đầu đột nhiên lại nhớ tới chuyện mùa đông của quỷ, chuyện áo ấm này nọ mà hôm trước vừa nói với Bạch Dực, tim tự nhiên thót lên một cái. Tôi lầm bầm một câu “Xui quá”, bước chân tự động nhanh hơn, từ phía sau người đàn ông tìm cách vượt lên trước.

Tốc độ đi của người kia khá chậm, tôi rất nhanh là có thể vượt qua ông ta, chỉ cần vài bước là tôi và người nọ đã đi sóng vai. Ngay khi lướt qua ông ta, tôi vô thức liếc mắt nhìn qua, phát hiện sắc mặt của người nọ trắng bệch như thể không có lấy một giọt máu, cả khuôn mặt chỉ có đôi mắt trông còn có vẻ có thần thái, ông ta cũng nhìn thoáng qua tôi…sau đó hai cánh môi chậm chạp nhếch lên, lộ ra một nụ cười cực kỳ quái dị. Nói thật, nụ cười này giống như thể người ta dùng dao khoét một lỗ hổng trên thân củ cải hay trái bí gì đó, bởi vì ngoại trừ hình dáng trông có vẻ giống như một nụ cười, còn thì tất cả những cơ khác trên mặt ông ta đều không động đậy chút nào, cả gương mặt đều cứng ngắc.

Bụng tôi run lên một cái, lông tơ trên người cũng dựng hết cả lên, không dám suy nghĩ nhiều, chỉ vội vội vàng vàng đi như chạy về phía lối ra của ngõ hẻm.

Mắt thấy lối ra đã ở ngay trước mặt, tôi cũng chạy trốn mệt mỏi, liền thoáng dừng lại, thở dài một hơi, trong lòng bắt đầu oán hận Bạch Dực hôm trước ăn nói lung tung, tuy nói tuyệt đối không tin, nhưng trong tâm lý vẫn để lại bóng ma; lại vừa ảo não bản thân quá nhát gan, biết đâu người kia vừa mất người thân, quá buồn rầu mà thành kỳ quái thì sao…

Trong miệng thầm mắng Bạch Dực vài câu, sau đó nhanh chân bước lên phía trước.

Nhưng đột nhiên tôi dừng lại. Lần này, cả cơ thể đều cứng ngắc như ướp đá, người đàn ông mặc áo khoác xám nọ không biết tự bao giờ lại bước phía trước mặt tôi! Nhưng tôi nhìn rất cẩn thận mà, rõ ràng phía trước làm gì có người, huống chi lúc nãy tôi vừa mới bỏ ông ta lại! Sao lại đột nhiên hiện ra đây…?

Tôi cảm thấy xương hàm của mình như cứng đờ ra, gió lạnh thốc vào huyệt Thái Dương nhức nhối, nhưng sự đau đớn cũng cho thấy, lúc này tôi hoàn toàn không phải đang nằm mơ!

Tôi không biết người đàn ông này làm thế nào đến được đây, trong hẻm không có đường rẽ nào khác, đừng nói chi là đường hay hầm ngầm. Tôi thực sự không biết có ai có thể xuyên qua bức tường xi măng dày như thế rồi sau đó lại xuất hiện trước mặt tôi hay không. Trừ phi…trừ phi người này không phải là con người…

Tôi nuốt nước bọt, không dám bước tiếp. Người nọ cũng không động đậy, ông ta vẫn như cũ đưa lưng về phía tôi, bóng lưng cứng còng như thể một khối đá, thoạt nhìn có chút ôn hòa. Lại một trận gió lạnh nữa thổi tới, tôi đột nhiên tỉnh cả người, vì cơn gió to là thế mà hoàn toàn không làm rung động một sợi tóc hay một góc áo của ông ta, cả người ông ta tĩnh hẳn lại, như thể một loại hình chiếu 3D.

Trong nháy mắt tự nhiên tôi có một cảm giác muốn thử chạm tới người này một cái xem sao, để xem ông ta có phải là thực thể hay không, trong đầu cùng lúc hỗn loạn rất nhiều ý nghĩ tự trấn an tự lừa dối, ví dụ như biết đâu ông ta là một hình chiếu 3D, ông ta là ảo giác của tôi, hay thậm chí, biết đâu ông ta chỉ là một tấm biển quảng cáo.

Tôi mờ mịt khẽ hô lên một tiếng “Này…” bàn tay nắm rất chặt, nghĩ thầm chỉ cần ông ta tấn công tôi là tôi sẽ lập tức cho ông ta một đấm giữa mặt.

Nhưng ông ta vẫn không nhúc nhích, chỉ im lặng đưa lưng về phía tôi.

Tôi thậm chí có thể nghe thấy tiếng tim mình đập thình thịch, nhưng trước mặt vẫn không có một âm thanh nào.

Đột nhiên ông ta quay phắt người lại, lại một lần nữa nở nụ cười kỳ dị lúc nãy ra, nhưng lần này đôi mắt ông ta cũng trợn trắng lên. Hàm răng trắng ởn nhe ra như trong miệng tắc đầy một miệng cải trắng, nụ cười quỷ dị này khiến tôi phút chốc nhớ tới cái mặt nạ quỷ kinh khủng mà người ta phát hiện được ở Ba Thục[1] trước đây.

Tôi thoáng cái lui về phía sau một bước, không đứng vững mà ngã nhào trên mặt đất. Nhờ đó, lại phát hiện thêm một sự thật kinh khủng khiến người ta phải tuyệt vọng. Đó là, ông ta căn bản không đặt chân trên mặt đất! Bàn chân ông ta rõ ràng là lơ lửng cách mặt đất vài cm, so với nói là “đi”, chi bằng nói là ông ta đang “bay”, thảo nào mà không nghe tiếng bước chân, khó trách dáng đi của ông ta cứng ngắc lại quỷ quái như vậy.

Tôi quẫn bách ngẩng đầu nhìn ông ta từng bước từng bước tiến lại gần mình. Lý trí kêu gào tôi mau bỏ chạy, nhưng cơ thể lại đờ ra, ngón tay cũng không sao động đậy nổi, chỉ biết mở mắt trừng trừng nhìn cái miệng trên khuôn mặt kia càng lúc càng mở rộng, như muốn kéo ra tới mang tai.

Chờ cho đến khi ông ta sắp “bước” tới gần, lòng bàn tay tôi vì nắm lại quá chặt, móng tay bấu vào thịt đau điếng người mới khiến tôi bất giác bừng tỉnh, gần như là té ngửa về phía sau. Trong túi áo khoác chẳng biết có cái gì vừa mới rớt ra, tôi đương nhiên không có thời gian đi quan tâm xem nó là cái gì, chỉ phát hiện quái nhân nọ dường như dừng lại không tiến tới nữa, cứng còng nghiêng nghiêng đầu, con ngươi lộn xuống nhìn thẳng vào chỗ bên cạnh chân tôi.

Tôi thở phào một hơi, cũng theo ánh mắt của ông ta nhìn lại, thì thấy mấy hạt đậu đỏ rơi vung vãi quanh đó. Quái nhân dường như rất sợ đậu đỏ, khiến tôi bất thình lình nhớ tới lời Bạch Dực nói là đậu đỏ có khả năng trừ tà, liền vội vàng nắm lấy một nắm đậu ném thẳng vào người nọ. Ông ta liền thét lên một tiếng sắc nhọn thê lương, cơ thể co rút cuộn tròn lại.

Tận dụng thời cơ, tôi cũng vội vàng đứng dậy, hướng về phía trước mà chạy như bị ma đuổi. Có vài lần té sấp xuống đất, nhưng trước sau tôi vẫn không có can đảm quay đầu lại nhìn về phía sau. Cho tới khi về tới ký túc xá.

Lúc về tới nơi, tôi gần như là đâm sầm vào cánh cửa. Bạch Dực đang đọc sách, ngẩng lên kinh ngạc nhìn tôi. Tôi lảo đảo bước tới bên giường, thở dốc từng hồi, trên trán toát đầy mồ hôi lạnh, trên người dính đầy bùn đất, nhìn chật vật không gì sánh nổi.

Tôi kinh hoảng nhắm nghiền mắt, khó khăn nuốt nước bọt, lúc này mới trấn tĩnh lại một chút mà mở mắt ra. Bạch Dực trao cho tôi một chén trà nóng, tôi khô khốc nói cảm ơn, tay run run cầm ly trà dùng hơi nóng của nó để ủ ấm hai tay. Có trời mới biết chuyện tôi vừa trải qua kinh khủng tới cỡ nào.

Bạch Dực ngồi xuống bên cạnh, tôi cũng nhận thức được là mình đã về tới ky túc xá, cũng không sợ như lúc nãy nữa, nhưng một màn kinh khủng vừa rồi vẫn cứ quẩn quanh trong óc, không chịu tan đi.

“Bạch Dực…” Tôi nắm chặt cái ly, để phòng hai tay khỏi run lên, nhưng cổ họng cứ như bị tắc lại, mãi mới thốt ra khỏi miệng: “Lúc nãy tôi vừa nhìn thấy quỷ!” Kỳ thực tôi cảm thấy rất uất ức, trước đó không lâu còn vỗ ngực bảo nhất định không tin, nhưng chuyện vừa xảy ra quả thực quá mức chịu đựng!

“Ồ? Trông nó ra sao?” Anh ta không hề cười nhạo tôi, chỉ bình tĩnh nhìn tôi mà hỏi, ánh mắt thanh lãnh khiến tôi cũng bất giác bình tĩnh lại.

Tôi uống chút nước, liếm liếm đôi môi khô nẻ, sau đó đem chuyện lúc nãy kể hết cho anh ta nghe.

Bạch Dực trầm ngâm một lúc, sau đó vỗ vỗ vai tôi: “Hẳn là gặp phải một người chết được bảy ngày rồi, hôm nay là đêm hiện hồn của người đó.”

Tôi quay lại nhìn anh ta: “Đêm hiện hồn?”

“Hầu hết mọi người sau khi chết được bảy ngày sẽ trở về để gặp mặt thân nhân lần cuối, thứ hai là cũng để lấy đi những thứ thuộc về mình, hay trả những món nợ đã mắc phải khi còn sống, coi như một cách đoạn tuyệt dứt khoát với thế giới này. Nhưng bọn họ cũng không còn là người của nhân gian nữa, cho nên sau đêm hiện hồn bọn họ nhất định phải đi, đi đến nơi thuộc về bọn họ.”

Tôi gật đầu, nhìn lá trà trong chén đang từ từ nở ra mà chậm rãi nói: “Áo lạnh mùa đông cho quỷ…”

Rồi lại nghĩ ra một chuyện khác, tôi ngẩng đầu lên hỏi Bạch Dực: “Nếu hôm nay trong túi áo của tôi không có mấy hạt đậu đỏ, e là trốn không thoát rồi. Tôi nhìn thấy mấy hạt đậu rơi trên đất, nhặt lên ném vào người ông ta mới có thời gian chạy trốn, bảo vệ được một cái mạng này đó.”

Bạch Dực cúi đầu khẽ cười mà không đáp.

“Chờ chút!” Tôi đột nhiên hiểu ra, bình tĩnh nhìn anh ta: “Cái áo này là anh cho tôi mượn lúc ra ngoài, anh biết đêm nay là quỷ lễ, cho nên mới bỏ đậu đỏ bên trong, đúng không?” Tôi cảm động đến mức muốn khóc, dù sao người trước mặt cũng coi như là ân nhân cứu mạng của An Tung này.

“Tôi thực sự không biết là cậu có gặp phải cái gì hay không. Còn mớ đậu đỏ, thực ra là từ lần trước ăn bánh trôi có mấy cái bánh nhét đậu sống bỏ lại trên bàn đó thôi, có lẽ lúc tôi dọn áo không cẩn thận để rơi vào.” Bạch Dực làm ra vẻ “tôi không biết cậu đang nói cái gì”, chỉ đứng lên quay về ghế ngồi đọc sách, suy nghĩ một chốc lại quay lại nói: “Không có việc gì nữa, mau đi tắm rồi đi ngủ sớm đi, nhìn cậu kìa, cả người đầy mồ hôi lẫn bùn đất.”

Tôi thấy anh ta không thừa nhận, cũng không muốn hỏi tới, trong lòng thầm nghĩ lúc này chuyện quan trong nhất là mau mau đi tắm rồi đi ngủ, vì vậy cũng gật đầu.

Tắm nước nóng xong, thân thể thả lỏng lại, cảm thấy không kinh khủng như lúc nãy nữa, tôi chuẩn bị giường đi ngủ.

Chợt nghe Bạch Dực hỏi: “Cậu thực lòng cho rằng người nọ muốn làm hại cậu sao?”

Tôi sửng sốt dừng tay, bởi vì quả thực quái nhân nọ không có lý do gì đi làm hại tôi, nhưng lúc đó chỉ cần một mình ông ta thôi là đủ đáng sợ rồi. Vì thế tôi mới kinh hoàng như vậy.

“Tôi cũng không biết…lẽ nào ông ta không phải muốn bắt tôi theo?” Tôi âu sầu hỏi.

“Ai biết được, ông ta đã bị cậu đuổi đi mất rồi còn đâu.” Bạch Dực không ngẩng đầu lên.

Ngày hôm sau, tôi đi ngang qua con hẻm nhỏ hôm qua, dưới ánh mặt trời, mọi thứ đều trở nên ấm áp hơn hẳn. Trước cửa một căn nhà nọ để rất nhiều vòng hoa tang, qua khung cửa, có thể nhìn thấy trước linh đường đặt một tấm ảnh chụp, người trong ảnh mang nụ cười méo mó cứng ngắc, mặc một cái áo khoác màu xám cũ nát nhăn nhúm, mái tóc hoa râm…

Trong đầu tôi vọng lại câu hỏi cuối cùng của Bạch Dực: “Lẽ nào ông ta thực sự muốn làm hại người khác sao?”

Đêm hiện hồn – End

[1] Ba Thục: là một địa danh từ thời Tiên Tần, nay thuộc địa phận Tứ Xuyên, là nơi sinh sống của rất nhiều tộc người thuộc họ Bách Việt như Bộc, Tung, Tư, Cung, Nô, Di, v.v… đặc biệt rất giỏi chế đồ đồng. Giải thích kỹ Ba Thục thế này là để các bạn làm quen một chút với vùng đất này, trong truyện sẽ còn nhiều lần chúng ta gặp lại những “sản phẩm” của Ba Thục.

(*) Người biên tập nói nhảm: Tục lệ tung đậu để trừ tà ma cũng tồn tại ở Nhật Bản. Thậm chí còn có một ngày lễ riêng dành cho hoạt động này gọi là “setsubun” vào ngày 3/2 hàng năm, tức ngày Lập Xuân (chứ không phải Đông chí như trong truyện trên đây). Vào ngày này, người lớn trong nhà (thường là ông bố) sẽ đội mặt nạ quỷ để con mình ném đậu vào người (không đỏ cũng được), và hô to “Oni wa soto! Fuku wa uchi!” (Quỷ ra ngoài, phúc vào nhà). Xem ra ở các nền văn hóa Đông Bắc Á, đậu là một loại ngũ cốc quan trọng và mang lại điềm lành, trừ tà khí. Ngoài ra, một số thứ khác như muối ăn và gạo cũng là vật trừ tà (cái này thì xem ra có nhiều ở các nước Đông Nam Á hơn)

Chương 2: Cái bóng quỷ

“Bóng quỷ nhi, âm dương lối, đừng quay đầu lại

Tiết thanh minh, mộ cô nhi, một ngọn đèn sáng

Vượt đường đêm, sinh tử hai bên, quỷ quay đầu lại…”

Lúc này trời đã vào xuân, nhưng khí trời tháng ba vẫn còn lạnh tới thấu xương. Cành cây khô quắt ngoài cửa sổ đã bắt đầu vươn những mầm non mới bé bằng lóng tay, nhưng lại nhiễm không khí lạnh nên trông có vẻ còi cọc. Người già thường nói “Rét tháng ba rét quá ba tầng trời” là vậy. Cộng với cái âm lãnh của những cơn mưa phùn, cho nên khắp nơi vẫn chưa thấy bóng dáng vui vẻ của mùa xuân, chỉ có âm hàn tận xương cùng hiu quạnh thê lương.

Tôi không phải là một người dậy sớm, nhưng hôm nay có tiết mỹ thuật ở ngay tiết đầu, cho nên chỉ còn cách không cam tâm tình nguyện chịu đựng cái rét thấu óc mà chui ra khỏi ổ chăn ấm áp.

Xung quanh cửa trường học có rất nhiều quán bán đồ ăn sáng, trong số đó có cửa hàng bán bánh bao của ông già Lý cũng khá hút khách, có thể nói điểm tâm sáng mỗi ngày của tôi hầu hết là mua ở đấy.

Giống như mọi khi, tôi mua mấy cái bánh bao rồi vừa ăn vừa chạy. Không còn cách nào khác, quả thực dậy muộn quá. Nếu không phải Bạch Dực nhắc tôi là hôm nay có thanh tra giáo dục tới, xem chừng tôi còn trễ nữa.

Thở dài một hơi, miệng ngậm bánh bao, tôi nhanh chân hướng về phía trường. Nhưng ai ngờ ông già Lý đột nhiên dùng đôi tay gân guốc như cành cây khô níu chặt lấy tay tôi, lại bỏ thêm hai cái bánh bao thịt thật to vào túi cho.

Tôi ngơ ngác hỏi: “Bác Lý, bác đang làm gì vậy?”

Ông già Lý vẻ mặt cổ quái nhìn quanh một lúc, sau khi xác định là không còn ai khác mới mở miệng hỏi: “Thầy An, tui muốn mượn thầy cậy thầy Bạch tới phụ tui chút chuyện, được hôn? Tại cháu tui nó nói thầy Bạch thẩy dữ lắm, mà tui với thẩy hông quen hông biết chi hết, tui coi thầy ngày nào cũng tới ủng hộ cái tiệm chạp phô nầy, nên muốn cậy nhờ thầy một phen.”

Giọng nói của ông lão đặc sệt giọng địa phương, tôi ngẩn người một lúc lâu mới hiểu được là ông ta muốn tôi giúp nhờ cậy Bạch Dực làm gì đó, cho nên mới cho thêm hai cái bánh bao để “hối lộ”.

Cháu gái của ông lão thực sự đang học lớp 2 trường chúng tôi, biết Bạch Dực cũng không có gì kỳ lạ. Nhưng tôi chỉ ngạc nhiên ông lão này muốn tìm Bạch Dực làm gì, chẳng lẽ là để dạy thêm cho cháu mình? Vì vậy bèn hỏi: “Bác, bác muốn tìm thầy Bạch dạy kèm cho cháu nhà sao?”

Ông lão vội vàng khoát khoát tay, ghé sát đầu vào mặt tôi, giọng nói thấp đi thành tiếng thì thào: “Cháu, cháu gái tui, coi mòi bị quỷ nhập rồi đa!”

Tôi nhất thời ngẩn cả người, vốn trước giờ tôi cũng không tin ma quỷ, nhưng kể từ sự kiện đêm hiện hồn lần trước thì tinh thần “chủ nghĩa duy vật” của tôi cũng rã thành bột hồ luôn. Tôi cũng bắt chước ông lão thì thầm thật nhỏ: “…Quỷ?”

Ông lão gật đầu, túm tôi lôi vào gian trong của tiệm bánh bao, gian nhà rất lộn xộn, chỗ này đặt lồng hấp, chỗ kia chất bột mì. Ông ta lôi ra một cái ghế cho tôi ngồi, sau đó bắt đầu kể lại câu chuyện xảy ra cách đây chưa lâu:

“Cháu gái tui, con nhỏ cũng hiền lành cục mịch lắm hông có hay bắt chuyện với người ta, tui trước giờ hông thấy nó có bạn bè chi hết. Chỉ thỉnh thoảng hay chơi nhảy dây thun với mấy chế bên nhà thôi, nhưng hổm rày tự dưng tui thấy nó không chơi nữa, cũng hổng thèm quan tâm tới ai hết, chỉ biết tới trường về nhà hết ăn lại lăn ra ngủ, còn thì cứ ngồi ịch ra đó mà đờ ra. Mới đầu tui còn tưởng nó giận bạn chớ, mà ai dè hôm trước tui lại thấy một chuyện kinh khủng lắm!”

Ông lão nuốt nuốt nước miếng, hít sâu một hơi rồi mới nói: “Tối bữa đó tui đang chuẩn bị bánh bao đặng sớm mơi bán, tối nào tui cũng bao bánh trước rồi sớm tửng bưng hôm sau mới hấp. Nhưng lúc tui đang lui cui thu dọn, tự dưng nhìn thấy con cháu tui đang cột dây thun ở một góc đường rồi tự nhảy mình ên nó, tui thấy hơi kỳ cục, nên gọi nó hai ba tiếng, mà nó cũng đâu có thèm nhìn tui. Nó làm như hông nghe gì hết vậy đó, cứ một mình nhảy hoài nhảy hoài. Mà tự dưng tui thấy có cái gì đó quái quái, trên đường chỉ có hai tụi tui, vậy mà…vậy mà…trên vách tường lại rõ ràng có tới ba cái bóng!”

Ông già Lý run run vươn ba ngón tay khô đét lên làm dấu hiệu.

“Tui sợ mất mật, vội vàng cõng con nhỏ bỏ chạy, dưng mà cái bóng tự dưng cũng quay đầu lại kéo riết lấy cái bóng của con bé cháu hông chịu buông. Tới hồi tui cũng cảm thấy cháu tui cứ như bị ai đó giữ cứng ngắc vậy, hơn nữa còn khỏe khủng khiếp! Lúc đó tui chỉ nghĩ, thôi, thôi, xong đời rồi! Lụm phải thứ chi đó dơ bẩn rồi! Già như tui thì…thôi còn sá chi nữa…nhưng mà con nhỏ nhà tui mới chút xíu vậy, sao mà nỡ…để cho thứ quái kia túm đi? Thế là tui liều, dùng hết sức bình sanh kéo mạnh một cái, mà hông ngờ tự nhiên thứ kia nó buông ra. Tui liền đem con nhỏ dông tuốt về nhà, canh bên giường nó tròn một đêm.

Hôm sau dậy con nhỏ lại bình thường như hông có chuyện chi hết, báo hại tui còn tưởng tui già đầu rồi nên lú lẫn chớ, dưng mà ở trên cổ tay con nhỏ, thiệt là có một cái dấu tay con nít đỏ hỏn à! Tui mới biết, quả thực tui hông có nằm mơ!”

Tôi xen vào hỏi: “Vậy sau này cháu nhà bác còn thấy thứ đó không?”

Ông lão có vẻ rất kích động, bám chặt tay tôi mà nói: “Có, có chớ! Chỉ cần tới nửa đêm là con nhỏ lại xề tới cái góc đường đó đa! Tui ngăn hông có đặng, mà nhốt nó trong phòng, nó lại đâm đầu vô tường bụp bụp vậy đó! Chưa kể đêm nào cũng có thứ chi đó rảo quanh nhà tui, cứ nghe nó gọi cửa miết, mà mở ra rõ rành hông có ai. Chỉ có một cái bóng thôi. Đêm nào con nhỏ cũng tới bên cạnh nó nhảy dây!” Nói xong, lão lại lấy hai tay ôm mặt, khóc nức nở.

Tôi nhìn ông lão thất thập cổ lai hi khóc ròng trước mặt mình, trong bụng cảm thấy bất nhẫn, nên đành đứng dậy vỗ vỗ vai ông lão, hứa với ông ta là sẽ kể chuyện này lại cho Bạch Dực nghe, hơn nữa sẽ thuyết phục anh ta giúp đỡ.

Ông lão cảm ơn rối rít, còn cố tình dúi thêm cho tôi năm sáu cái bánh nữa. Tôi rời khỏi cửa hàng của ông ta, nhìn qua góc đường trong câu chuyện, thấy nó bất quá chỉ là một góc ngã tư nho nhỏ mà thôi.

Nơi này là khu thành cổ, có nhiều năm dường như chẳng được sửa sang lại gì nhiều, đường xá đều nhỏ hẹp, xe loại lớn khó lòng chen vào nổi. Những góc đường chết thế này tồn tại rất nhiều xung quanh đây, bởi nhiều năm không được sửa sang tôn tạo, nên rác rến chất đống. Nói thật tình, ngoại trừ việc nó có hơi bẩn một chút, còn lại không thấy có gì bất thường.

Mới sáng sớm vì chuyện của ông lão mà bị kéo lại một lúc, đi trễ là chuyện đương nhiên. Kết quả tôi bị lão Phan hói của Ủy ban giáo dục (lão họ Phan, đầu bóng lưỡng như trứng chần nước sôi) lôi ra giảng cho một trận như thể mắng con lão vậy. Chưa hết, còn lục tung mọi khuyết điểm từ trước tới giờ của tôi phóng đại lên một trăm lần mà xa xả tới tấp. Vì thế giữa phòng giáo viên, hình thành một hồi “An Tung bị đấu tố” cực kỳ đặc sắc.

Đau khổ lết qua một buổi sáng, tới giờ nghỉ trưa tôi cũng trốn trong phòng giáo viên, soạn lại một ít tài liệu cần cho tiết buổi chiều, chuẩn bị xong mới chuẩn bị ra ngoài ăn. Trong miệng chỉ lầm bầm làm cách nào để Phan hói nhanh chóng chuyển thành Phan trọc mới cam lòng.

Bàn làm việc của Bạch Dực tình cờ làm sao lại nằm ngay đối diện bàn tôi, chờ mọi người trong phòng giáo viên ra ngoài hết, anh ta chợt phì một cái, sau đó phá lên cười ha hả. Mặt tôi càng thêm âm u, nghĩ thầm tiểu tử ngươi như vậy mà cũng là bạn bè đấy hả, thái độ bỏ đá xuống giếng đó là sao là sao!

Cuối cùng nhịn không được, tôi đập cuốn sách lên bàn một cái “rầm”, lạnh lùng nói: “Cười cười cười, cứ chờ tới lúc anh cũng bị lão nắm đầu coi như con nít rồi mới biết!”

Anh ta thấy tôi có vẻ muốn nổi giận thật sự liền không cười thành tiếng nữa, nhưng khóe miệng nhếch cao vẫn cho thấy anh ta rõ ràng là đang âm thầm chê cười tôi.

“Cậu chỉ đi mua có cái bánh bao mà cũng mất tới nửa buổi, tôi đã có lòng nhắc cậu trước rồi còn gì, hôm nay Phan hói đi thanh tra. Vậy mà cậu còn dám trễ, mà còn trễ tới 45 phút, đủ một tiết nữa chứ! Người anh em, cậu ngầu thật đấy!”

Nhờ anh ta nhắc đến bánh bao, tôi mới nhớ tới chuyện quái dị mà ông lão Lý đã kể, liền chồm người tới trước, dí sát mặt vào mặt Bạch Dực, nheo nheo mắt hỏi: “Có muốn giúp người ta một tay không? Chuyện này đảm bảo anh có hứng thú.”

Bạch Dực dường như có gì đó không được tự nhiên, lui về sau một chút mới nhướn nhướn mày hỏi có chuyện gì. Tôi đem chuyện ban sáng kể hết lại cho anh ta nghe.

Chỉ thấy anh ta cúi đầu suy nghĩ một chút, trong miệng không biết lầm bầm cái gì, sau đó  ngẩng đầu nhìn tôi nói rất nghiêm túc: “Bữa trưa nay cậu mời, buổi tối cùng đến nhà họ Lý.”

“Lại tôi! Tôi không có tiền mà…” Tiền lương của tôi vốn đã thấp tới mức đáng thương rồi, tháng nào cũng phải nhờ ba mẹ chi viện ít nhiều, nếu không chắc chỉ có nước ra đường mà ngủ.

Cửa trường học lúc chiều tà đặc biệt nhộn nhịp, học sinh tan học, xe cộ tắc trước trường cũng nhiều lên, đám người bán hàng rong trước cổng trường bán đủ thứ quà vặt lẫn đồ chơi, ồn ào náo nhiệt không thua gì buổi sáng.

Tôi và Bạch Dực tìm tới tiệm bánh bao của ông lão Lý. Việc buôn bán buổi chiều rõ ràng không bằng ban sáng, nhìn cửa tiệm cũng tự nhiên trở nên quạnh quẽ, ông già Lý đang ngồi bên bếp lò, thỉnh thoảng lại đảo mắt vào gian nhà trong như canh chừng.

Tôi bước tới trước mặt ông lão Lý, cười cười nói đã mang Bạch Dực tới, có gì thì cứ nhờ anh ta. Kỳ thực lúc này, lòng tôi vẫn còn âm ỉ đau cho hai phần cơm thịt xào ớt xanh ban trưa…

Ông lão Lý thấy chúng tôi tới, lập tức bỏ mặc cửa tiệm mà vội vàng kéo chúng tôi vào gian trong. Tôi có thể cảm nhận rõ sự bất lực cùng lo lắng của ông ta dành cho đứa cháu gái, dù sao làm gì có người nào có thể bỏ mặc cốt nhục của mình chứ? Chúng tôi ngồi xuống, ông lão pha một bình trà. Chờ tiếp xong cho hai chúng tôi rồi, ông ta cũng ngồi xuống chỗ đối diện, nhìn cánh cửa phòng bên cạnh, trong mắt tràn đầy ảo não cùng sợ hãi.

“Thầy Bạch, thầy tới thiệt tốt phước cho tụi tui quá, tui nghe nói thầy rành ba cái này lắm, hơn nữa thầy còn có học, chớ như đám thất học tụi tui thiệt không biết phải làm chi bây giờ..” Ông lão hiển nhiên có vẻ rất rụt rè, nói năng cũng bắt đầu không đầu không đuôi, trong lòng tôi thoáng buồn cười là có học thì có ích gì trong mấy chuyện này đâu, nói vậy chẳng thà gọi tiến sĩ tâm lý học tới khám cho rồi.

Tôi lại nhìn Bạch Dực, anh ta không nói gì, chỉ thổi thổi mấy lá trà trong ly, nhấp một ngụm, sau đó im lặng chờ ông lão nói tiếp. Tôi nghĩ nếu cứ thế này thì tình hình sẽ rơi vào im lặng gượng gạo mất, vì vậy nhanh nhảu lên tiếng trước: “Lão Bạch…Anh xem, việc này chắc chỉ có anh mới giúp được cho người ta, người già có thể hoa mắt, nhưng đứa bé này không phải chỉ gặp chuyện lạ có một hai lần, nếu thực là bị hoa mắt thì chi bằng gọi là đục thủy tinh thể…” Cảm giác được bản thân mình càng lúc càng nói lung tung, tôi cũng bậm môi cười gượng vài tiếng, cầm lấy ly trà chăm chú uống.

Bạch Dực hiển nhiên không thích tôi xen miệng vào, quay lại nhìn tôi nhíu mày. Sau đó mới quay về phía ông lão nói: “Chuyện cháu nhà bác tôi cũng nghe An Tung nói qua ít nhiều rồi. Nhưng vẫn còn vài chi tiết nếu không được thấy tận mắt tôi cũng không biết làm thế nào, nếu bác không ngại thì tối nay chúng tôi lại tới. Tôi hứa không làm phiền lâu đâu, chỉ có vài thứ muốn xác nhận lại thôi.”

Ông lão đương nhiên không phiền, ngược lại còn cúi đầu cảm ơn liên tục, còn muốn lưu chúng tôi lại ăn cơm chiều, rồi không chờ chúng tôi đồng ý hay không, đã nhanh nhẹn đứng lên đi nấu cơm.

Tuy chúng tôi cảm thấy hơi ngại, nhưng hai thanh niên độc thân, ngoại trừ căn tin ra thì quả thực không có nơi nào khả dĩ giải quyết vấn đề ngày ba bữa cả. Cả hai đều nhất quyết không nấu cơm, nên bữa tối nay có thể coi như là ăn chực.

Trong bữa cơm tối chúng tôi gặp cháu gái của ông lão, cô bé có vẻ cực kỳ ngạc nhiên khi thấy hai thầy giáo trong trường lại tới nhà mình ăn cơm, nên chỉ lên tiếng chào hai chúng tôi một câu, giọng nhỏ như muỗi kêu, sau đó cúi gằm mặt ăn cơm. Không khí rõ ràng cực kỳ căng thẳng…

Tôi ho khan hai tiếng, muốn hỏi cô bé một ít bài vở hàng ngày, dù sao đây vẫn là vấn đề mà các thầy cô giáo nên quan tâm, không phải sao?

“Trò Lý Ái, dạo này em học tập thế nào?” Vừa hỏi xong tôi đã muốn hối hận, dù sao cũng đâu phải giáo viên môn chính…

“Dạ tốt, cảm ơn thầy.” Lý Ái vẫn không ngẩng mặt lên.

“Trò Lý, dạo này khi đi trên đường khuya, em có thấy gì lạ không?” Bạch Dực hỏi.

Cô bé bỗng nhiên ngẩng phắt đầu lên, nhưng lại nhanh chóng cúi xuống, nhỏ giọng đáp: “Dạ không, không thấy gì hết.”

“Không có ai gọi tên em sao?” Bạch Dực vẫn kiên trì.

Bàn tay nữ sinh hơi run lên, cô bé buông đũa không ăn, cũng không ngẩng lên nhìn chúng tôi. Cái đồng hồ kiểu cũ trên tường gõ từng tiếng chậm rãi, hơi nóng của chén cơm bay lên, nhất thời phủ mờ vẻ mặt của cô bé.

Bạch Dực nhíu mày, nhìn nữ sinh ngồi đối diện, thanh âm thoáng chậm lại: “Có thật không có ai gọi tên em hay không?”

“Dạ không có, chỉ là…có tiếng ai đó hát. Một bài đồng dao rất kỳ quái. Em không biết nó là cái gì, chỉ nghe người đó cứ thế hát mãi. Sau đó im lặng luôn…” Cô bé ngẩn người một lát mới từ từ đáp.

“Có thể cho thầy biết là bài hát gì không?” Nhẹ gật đầu một cái, Bạch Dực hỏi tiếp.

Cô bé ngẩng đầu, gương mặt trắng trẻo tự nhiên hiện lên một nụ cười quái dị: “Không được, vì đây là bí mật.”

Tôi hỏi: “Là bí mật của em với ai?”

Cô bé suy nghĩ một chút, sau đó quả quyết lắc đầu: “Em không nói với thầy được đâu, ‘bạn ấy’ sẽ tức giận mất.”

Hỏi thế này cũng như không, tôi có hơi nản lòng. Đồng dao, quá kỳ quái rồi. Loại đồng dao gì mà có thể khiến cho một đứa bé suốt ngày đến chơi với một cái bóng? Tôi nhìn lại ông lão, phát hiện ông ta đang run lẩy bẩy, có thể là do nhìn sự quỷ dị của cháu gái mình mà không đành lòng, cũng có thể là để tìm cách đè nén sự sợ hãi cực độ của mình. Đột nhiên ông ta mở miệng thều thào:  “Bóng quỷ nhi, âm dương lối, đừng quay đầu lại. Tiết thanh minh, mộ cô nhi, một ngọn đèn sáng. Vượt đường đêm, sinh tử hai bên, quỷ quay đầu lại…”

Cô bé mở trừng to hai mắt nhìn ông nội, ánh mắt vừa như khiếp sợ lại vừa như oán hận, phẫn nộ nhìn ông ta.

Ông lão sắc mặt tái nhợt, chậm chạp lắc lắc đầu: “Bài hát đứa bé đó hát là như vậy, tui nhớ rõ mà…”

Cô bé có vẻ rất tức giận, đứng phắt lên bước ra cửa. Ông lão Lý vội vàng nhào tới túm chặt lấy cô bé, gần như vừa kéo vừa lôi vào phòng.

Bạch Dực nhìn ra ngoài cửa, ngọn đèn đường vàng vọt hắt ánh sáng lên con đường trải xi măng trước cửa, chiếu ra những chỗ nhấp nhô gập ghềnh, sau đó quay lại nhìn tôi đang đờ người ra vì quái dị mà nói: “Đi, đi ra xem.”

Trời đã hoàn toàn tối đen lại, khí trời hôm nay không được tốt lắm, không thấy bóng trăng. Khí hậu lạnh thế này, căn bản là không có ai thèm ra đường. Ngoại trừ một vùng nhỏ bé được ánh đèn đường chiếu tới, còn thì những nơi khác đều là một mảnh đen xám nhờ nhờ, cánh cửa sắt hoen rỉ bị gió đập phát ra những tiếng kẽo kẹt gai người. Thỉnh thoảng có một con mèo hoang phóng ra từ chỗ giữ xe, rồi lại lập tức hòa mình vào bóng đêm đen đặc trước mắt.

Tôi khóa chặt áo khoác để phòng gió lạnh thổi vào. Bạch Dực đi bên cạnh, sau đó nói với tôi: “Bây giờ tôi bắt đầu gọi một cái tên, cậu cũng giúp tôi gọi, cho dù có thấy cái gì đi nữa cũng đừng phát hoảng, có tôi ở đây thì không có việc gì. Nhưng phải nhớ kỹ không được dừng lại. Đi một bước gọi một lần, hiểu chưa?”

Tôi gật đầu, sóng vai đi bên cạnh anh ta, từ cửa hàng của lão Lý chúng tôi quẹo vào ngã tư nhỏ xíu cách đó không xa, rồi tiến thẳng vào ngõ hẻm.

“Lý Ái.” Bạch Dực bước bước đầu tiên. Chưa có chuyện gì xảy ra cả, vì thế tôi cũng theo sát bên cạnh mà gọi to: “Lý Ái.”

Bạch Dực theo tiếng gọi của tôi lại bước thêm một bước, cùng lúc gọi lần thứ hai: “Lý Ái.”

Trên con đường hẻm vắng vẻ chỉ có tôi và Bạch Dực cùng nhau bước đi, cùng gọi tên Lý Ái. Ngay khi sắp đi tới góc đường, tôi đột nhiên cảm thấy có cái gì đó bất thường. Là cái bóng! Đúng, cái bóng của tôi không biết tự lúc nào đã hóa thành hai! Một cái rõ ràng là bóng của một đứa bé, so với cái bóng của tôi thấp bé hơn rất nhiều. Nhưng nó bước đi cùng lúc với tôi, hoàn toàn dựa theo tốc độ tiến tới của tôi, cứ như thể nó là một phần của tôi vậy. Tôi nhìn lại Bạch Dực, cái bóng của anh ta chưa biến thành hai, nhưng rung động rất dữ dội. Có vẻ như cái bóng quỷ kia muốn nắm lấy tay cái bóng của hai chúng tôi, nó len vào bước giữa bóng hai người, khi tôi liếc nhìn sang bên cạnh mình thì phát hiện giữa hai chúng tôi có một cái bóng người nhờ nhờ.

Mồ hôi lạnh rơi đầm đìa, tôi nắm chặt tay lại, tất cả giác quan gần như muốn tê liệt hết. Lại một lần gọi Lý Ái, cái tên thoát ra khỏi miệng cứ như một loại bùa chú nào đó, cực kỳ quỷ dị. Tôi theo Bạch Dực gọi một lần Lý Ái nữa, nhưng giọng nói của tôi đã run bắn lên, gần như không còn là giọng bình thường nữa, mà vừa khào khào vừa mong manh.

Tôi phát hiện giọng nói của Bạch Dực cũng không được bình thường, mà vừa the thé vừa sắc nhọn như tiếng mèo hoang gào, gần như nghe không ra anh ta đang gọi hai tiếng Lý Ái. Tôi vẫn không quên theo sát anh ta mà gọi, không để gián đoạn, nhưng cảm giác cứ như cái tên ấy không phải thoát ra từ cổ họng mình nữa, mà là từ khoảng trống sát bên cạnh vậy, thanh âm chói tai như tiếng móng tay cào lên bảng.

Lần gọi thứ 13… Chúng tôi sắp bước tới ngay góc đường. Thanh âm của chúng tôi cũng đã biến thành giọng của ba người. Đúng, là giọng của tôi và Bạch Dực, ngoài ra còn có một giọng nói phát ra từ chỗ trống giữa hai người. Ba thanh âm, ba cái bóng, chỉ có hai người.

Cuối cùng đã đi tới chỗ rẽ, tôi gần như sắp đứng không nổi nữa, thực sự không dám tưởng tượng phía sau lưng mình là cái thứ gì, chỉ cảm giác “nó” đang ở sát bên người.

Tôi liếm liếm môi liếc nhìn Bạch Dực. Anh ta chợt nắm tay tôi kéo lại, không tiếp tục gọi tên nữa, may là anh ta dừng lại, vì tôi cũng sắp chịu đựng hết nổi rồi, thực sự quá giống như đang gọi hồn!

Tôi nhìn chằm chằm vào cái bóng phản chiếu trên tường, dưới ánh đèn đường, nó trở nên rõ ràng hơn nhiều so với khi đi trên đường. Cái bóng không ngừng run rẩy theo một thứ quy luật nào đó, sau đó, bên tai tôi chợt vang lên tiếng hát: “Bóng quỷ nhi, âm dương lối, đừng quay đầu lại. Tiết thanh minh, mộ cô nhi, một ngọn đèn sáng. Vượt đường đêm, sinh tử hai bên, quỷ quay đầu lại…”

Cái bóng đi theo chúng tôi lúc này đã tách hẳn ra, bài hát đồng dao càng thêm quanh quẩn không ngừng. Quỷ thực sự có thể quay đầu lại sao? Tôi không dám quay lại sau lưng mình nhìn, lại càng không dám nhìn cái bóng kinh khủng trước mặt. Đột nhiên có cảm giác muốn vùng chạy, muốn thoát khỏi cái nơi quỷ quái này, nếu không sẽ phát điên mất, quả thực là một cơn ác mộng điên rồ. Nhưng bàn tay đang nắm tay tôi chợt siết chặt thêm, tôi cũng hiểu tôi không được chạy lúc này, có lẽ phải nói là tôi chạy không thoát, vì bóng của tôi và cái bóng quỷ đang quấn quít một chỗ…nói cách khác nó có thể theo tôi tới bất kỳ nơi đâu. Lúc này mà bỏ chạy, phỏng chừng mất mạng như chơi.

Đứng yên thật lâu, có thể nghe thấy tiếng ô tô ngoài đường lớn không ngừng qua lại. Nhưng trong con hẻm này trước sau vẫn không có một bóng người, chỉ có hai chúng tôi đứng yên không nhúc nhích, gió lạnh thổi cả hai lạnh run người. Bài hát rốt cuộc ngừng lại, cái bóng cũng không nhảy nhót nữa. Nó dừng lại tĩnh lặng như chìm trong cái bóng của chúng tôi, nhưng đột nhiên cái bóng kia vươn tay ra, tôi cảm giác có ai đó đang sờ vào người mình. Không chịu nổi nữa, cả hàm răng đều run lập cập lên.

“Ngươi có thể đi được rồi.” Bạch Dực chợt lên tiếng: “Thứ ngươi muốn, ta sẽ giúp ngươi hoàn thành, hi vọng ngươi giữ đúng lời hứa.”

Đột nhiên cái bóng chậm rãi co rút lại, giống như một bãi nước xấu xí đen ngòm, dần dần tan ra, biến mất vào bóng đêm nơi góc đường. Ngọn đèn trên đầu vẫn như trước chiếu sáng một phần con hẻm, trên đường vẫn như trước không một bóng người qua lại. Bàn tay cầm tay tôi dần dần buông lỏng, tôi cảm thấy Bạch Dực vỗ vỗ vai mình. Tôi cũng yếu ớt gật đầu, ý nói mình không sao.

“Không còn việc gì nữa chứ? Nó còn có thể quay lại không?” Thả lỏng tinh thần rồi mới thấy hai chân sắp tê cứng. Tôi ngồi chồm hổm dưới đất, thực ra là muốn ngồi hẳn xuống mặt đường luôn nhưng lại ngại có vẻ quá chật vật. Bạch Dực đốt một điếu thuốc nhìn tôi một chút, sau đó từ từ xoa đầu tôi.

“Không, chưa tính là xong, vì chúng ta còn một lời hứa với nó chưa hoàn thành.”

“Lời hứa nào?”

“Lúc nãy tôi sử dụng thuật mời quỷ, cũng là một loại hàng linh pháp[1], có thay đổi một chút. Vì thế cái thứ đang bám vào Lý Ái sẽ chuyển sang bám lên chúng ta. Loại thuật pháp này có thể khiến quỷ đáp ứng làm cho cậu một việc. Rất rõ ràng, tôi muốn nó không nên quấn lấy người sống nữa. Còn nó có muốn thành Phật hay không là tùy nó, tôi không xen vào.”

“Vậy anh đáp ứng nó hồi nào vậy? Tôi đâu có đáp ứng đâu!” Càng lúc tôi càng cảm thấy ngơ ngác.

Bạch Dực lắc đầu, tóm lấy tôi kéo về phía nhà ông lão Lý: “Đừng đứng giữa đường nói, nhìn như hai đứa điên ấy, về nhà ông Lý trước rồi tính.”

Cháu gái của ông lão đã thôi không làm ầm ĩ nữa, lúc nãy có lẽ ông lão đã dùng hết sức lực giữ chân Lý Ái, nên lúc này cả hai đang nắm tay nhau thở hổn hển.

Thấy chúng tôi đi đến, ra hiệu mọi chuyện đã ổn, ông ta mới cẩn thận từ từ buông tay cháu mình ra, cô bé con nhìn như vừa đánh mất cái gì, chán chường lê vào phòng.

“Bác Lý, sao bác không cho chúng tôi biết trước đây bác đã giết người!” Chờ Lý Ái đóng cửa phòng, Bạch Dực chợt mở miệng hỏi, ông lão vừa nghe thì đã giật nảy người trợn mắt nhìn, cả cơ thể giống như gà bị cắt tiết, run rẩy từng hồi.

Tôi không thể tin vào tai mình, một ông lão bán bánh bao sao có thể đi giết người?! Tôi đề phòng nhìn ông ta, chỉ sợ ông ta tự nhiên móc đâu đó ra một con dao giết chúng tôi diệt khẩu.

Ánh mắt ông lão chợt mờ đi, ngồi phịch xuống ghế, giọng nói khản đặc cứ như rít ra từ trong cổ họng: “Tui đã giết…tui đã giết chính con gái ruột mình. Chính con gái ruột của mình!”

Cả đầu tôi tê dại đi, tuy tôi không biết rõ ông lão này lắm, nhưng tôi biết ông ta bán bánh bao rất ngon, rất thành thực, đối đãi với người khác cũng tốt. Mà đối với cháu gái càng thêm thương yêu bảo vệ. Giết con gái ruột? Sao có thể chứ?

“Vậy bây giờ chắc bác cũng đã biết cái bóng đó là gì rồi chứ?” Bạch Dực vẫn nhìn chằm chằm ông lão, trên mặt không có biểu cảm gì.

Ông lão đau đớn ôm đầu, thân thể xụi lơ té khỏi ghế, ông ta quỳ rạp trên mặt đất gần như thét lên: “Biết chớ, sao lại không biết được, lúc Tiểu Ái vừa hát là tui đã biết rồi, đó là bài hát chiêu hồn của dòng họ nhà tui, khi con gái tui còn nhỏ tui đã dạy cho nó! Tui có tội với nó lắm, tui biết, nhưng nó sinh ra đã bị đần, làm sao tui nuôi nó cho nổi! Thế nào tương lai của nó cũng không ra gì, chi bằng..chi bằng…”

Tôi lạnh lùng thốt lên: “Chỉ vì thế mà bác giết con mình sao, trên tay bác đã vấy máu cô ấy rồi!”

Ông lão khóc nước mắt giàn dụa ngẩng lên nhìn tôi, đau đớn nói: “Hồi đó ăn còn không có mà ăn, tui còn phải lo cho cả gia đình!”

“Con gái bác cũng tên là Lý Ái phải không?” Bạch Dực thản nhiên hỏi.

“Đúng vậy, tui nghĩ, thôi thì gọi cháu gái tên này luôn, để coi như là cho nó sống thay phần con gái tui, coi như đó là tui bồi thường cho nó…”

“Bác giết cô ấy ở ngay góc đường ngoài kia phải không? Ngay cả một phần mộ cũng không có.”

“Tui…tui…tui sợ người ta biết…”

Tôi không còn dám nghe tiếp nữa, ông lão này đã ra tay giết chính con gái ruột bị thiểu năng bẩm sinh của mình, sau đó chôn cô bé ngay ở góc đường sát bên nhà, quay đầu đi liền coi như không có chuyện gì mà loan tin là con mình đã mất tích. Đứa bé đáng thương cứ như vậy bị phụ thân chôn ngay gần nhà mình, chỉ bởi vì cô bé bị thiểu năng.

“Lời hứa lúc nãy của tôi với cô ấy là, tôi sẽ mang cô ấy tới bên cạnh phụ thân cô ấy, tôi đã mang cô ấy tới rồi.” Bạch Dực lạnh lùng nhìn ông lão, mà ông ta đột nhiên kinh hoàng phát hiện cái bóng của chính mình trên tường chợt hóa thành một cuộn đen đặc, rồi biến thành một cái bóng người khác, ông ta muốn chạy trốn, nhưng cái bóng đã giữ chặt chân ông ta lại, nhìn ông ta như thể đang bị xé nát thành từng mảnh. Ông lão Lý sợ hãi nhìn cái bóng đang quấn lấy mình, gào thét điên cuồng. Bóng dáng của ông ta dần dần cuộn lại, hai cái bóng nhập nhèm hòa làm một, tựa như mực tan vào trong nước.

Tôi muốn đến giúp, nhưng Bạch Dực đã ngăn lại, lắc đầu nói: “Tội nghiệt của một người chỉ có cách dùng đau đớn ngang bằng để bồi hoàn mà thôi. Ông ta không muốn đứa con thiểu năng liên lụy đến mình, vậy từ giờ ông ta phải mang theo linh hồn của con gái mình, cùng cô ấy sống nốt. Còn chúng ta chỉ có thể đứng nhìn, không thể can thiệp, vì đây chính là khế ước của chúng ta với quỷ.”

Bạch Dực nói xong, lập tức quay người rời khỏi căn nhà. Tôi quay đầu nhìn lại lần cuối, thấy cái bóng quỷ nọ vui sướng bám cứng lấy ông lão, tựa như con thú non mới sinh bám chặt lấy cha mẹ của nó, ông lão điên cuồng muốn tháo bóng đèn xuống, vứt ra cửa, ông ta không muốn nhìn cái bóng của chính mình, ông ta trốn xuống bàn, run lẩy bẩy ôm chặt lấy mang tai, rồi lại lắc lắc người dữ dội như muốn cái gì đó rớt ra khỏi người. Ông ta đã phát điên, từ buồng trong, thanh âm của Lý Ái vang ra: “Bóng quỷ nhi, âm dương lối, đừng quay đầu lại. Tiết thanh minh, mộ cô nhi, một ngọn đèn sáng. Vượt đường đêm, sinh tử hai bên, quỷ quay đầu lại…”

Tôi biết ông lão phải trả giá vì sự ích kỷ của mình, Lý Ái thực sự vô tội… Nhưng đôi khi, món nợ quá lớn còn liên lụy tới những người thân yêu nhất cùng mình hoàn trả.

Sau đó, tiệm bánh bao của ông lão không bao giờ mở cửa nữa. Lý Ái được cha mẹ mình mang tới một thành phố khác, có người nói ông lão đã được đưa vào viện dưỡng lão. Cũng có người nói chẳng bao lâu sau ông ta đã chết, cho đến nay, thỉnh thoảng có vài người còn nhắc tới bánh bao của ông ta, nhưng không ai nhắc tới chính ông ta cả.

Một ngày nọ, trong lúc vội vã bước ngang qua góc đường kia, tôi thoáng nhìn thấy hai cái bóng, một cái bóng ngồi xổm trong góc, cái bóng nhỏ hơn bên cạnh vui vẻ nhảy múa. Bên tai còn quanh quẩn một bài đồng dao chiêu hồn…

Đừng vì bất kỳ lý do gì mà vứt bỏ thân nhân của ngươi, bởi vì bọn họ chưa từng rời bỏ ngươi.

Cái bóng quỷ – End

[1] Phép thuật thu phục quỷ

(*) Người biên tập lảm nhảm: Các bạn có bao giờ cảm thấy những bài đồng dao thực sự rất đáng sợ không? Có lẽ trong văn hóa Việt Nam không có, nhưng ở những nước khác, có một số bài đồng dao được coi như những đoạn mật mã hoặc phù chú kỳ quái còn sót lại từ thời cổ đại. Tại Nhật Bản, bài đồng dao nổi tiếng nhất có lẽ là “Kagome kagome”. Có thuyết cho rằng nó là một lá bùa của thuật Âm Dương (Onmyou) dùng để trấn giữ/ bảo vệ một thứ gì đó. Vì những chi tiết trong bài hát này thực ra là để vẽ một ngôi sao sáu cánh, biểu trưng của một lá bùa. Ngoài ra còn có những bài hát hát lên khi tham gia những trò chơi dân gian cũng kỳ quái không kém. Đơn cử là trò chơi “bịt mắt bắt dê” của Nhật, trong bài hát của nó có câu “Ushiro wa daare?” (Thử đoán xem sau lưng bạn là ai?) Nghe có phần kinh khủng, nhỉ.

Chương 3: Tài vận (Thượng)

Hiện nay phần lớn người Trung Quốc đều tin vào vận số, nói thật, tôi cũng là một trong số đó. Người nào có số mệnh của người nấy, phú quý nhờ trời. Ví dụ như có người tự nhiên một bước lên mây, có người lại cả đời hàn vi nghèo khổ. Cũng phải cảm thán một câu, cùng là người, vì sao lại khác nhau một trời một vực như thế nhỉ?

Đúng vậy, là một trời một vực! Sáng sớm hôm nay, ông Lưu bảo vệ chuyển cho tôi một phong thư. Mở ra nhìn thì thấy một phong bì đỏ chót viền vàng, đánh một cái hỉ kết bằng dây cũng màu đỏ tươi. Hiển nhiên là một tấm thiệp mời đám cưới, còn được người ta gọi là bom hồng…trong phút chốc nổ banh trái tim yếu ớt của tôi. Người mời là một người bạn học cùng đại học, gọi là Nghiêm Thừa, khi còn đi học, quan hệ giữa chúng tôi cũng khá tốt.

Nghiêm Thừa khá đẹp trai, học giỏi, miệng lưỡi cũng nhanh nhẹn, cho nên rất được lòng các bạn nữ, có thể nói là “động vật quý hiếm” trong mắt các cô. Chỉ có điều cậu ta nhà nghèo, là sinh viên nông thôn lên thành phố học.

Không giống như chúng tôi là những đứa trẻ thành thị, tương lai của những người như cậu ta đều là do bọn họ tự tay tích cóp từng chút từng chút một mà thành. Nghiêm Thừa từng rất tự ti về bản thân, nhưng lại không muốn bị người khác coi thường, cho nên để có thể bằng bạn bằng bè, hầu như ngày nào cậu ta cũng chịu đựng ăn mì gói với bánh mì khô khốc để có tiền mua tài liệu sách vở.

Có đôi khi nhịn không được tôi cũng nói với mẹ mang đến cho cậu ta ít đồ, khi ấy Nghiêm Thừa rất rụt rè nói làm phiền mấy lần, nhưng cuối cùng đều nhận cả. Tuy nhìn bề ngoài không thấy rõ, nhưng tôi biết cậu ta vẫn luôn nhớ tới chút tình đó, quan hệ bạn bè của chúng tôi cũng từ đó mà hình thành.

Vì thế nói tóm lại, Nghiêm Thừa là một người có đầy hoài bão lẫn dã tâm, cậu ta không cam lòng chịu thua xuất thân của mình, vì thế luôn luôn nỗ lực tỏ ra xuất sắc hơn cả những thanh niên thành phố. Một người như vậy, chuyện thành công quả thực chỉ là sớm hay muộn. Nhưng tôi chỉ không ngờ, chưa tốt nghiệp được bao lâu mà cậu ta đã nhannh chóng thành gia lập nghiệp, thành đạt thênh thang như vậy. Trong lòng vừa mừng cho cậu ta, vừa không thể giấu nổi một chút thê lương, so sánh với tình trạng hiện nay của tôi mà nói, Nghiêm Thừa quả thực là quá hạnh phúc.

Theo thiệp mời còn có một lá thư, trong đó kể lại một vài chi tiết về tình yêu ngọt ngào của cậu ta và vị hôn thê, nhưng kỳ quái nhất là, trong thư cậu ta nói mình có thể phát tài nhanh chóng như vậy là nhờ vào một bí quyết, một bí quyết cổ xưa. Có bí quyết kia thì đường tiến thân sẽ cực kỳ rộng rãi, thăng chức nhanh chóng. Còn nói vì tôi là bạn học tốt nhất của cậu ta nên cậu ta sẽ chỉ để lại bí quyết đó cho tôi mà thôi. Cậu ta muốn tôi tới tham dự hôn lễ, sau đó sẽ đem cái bí quyết độc nhất vô nhị kia ra truyền lại cho tôi, để cả hai chúng tôi đều được phát tài.

Tôi cười cười nghĩ thầm, có chuyện dễ dàng như vậy sao, cho dù trời có thực sự đổ mưa vàng đi nữa, thì e với cái “vận may” của mình thì trên đầu tôi nhất định sẽ vẫn là ánh mặt trời chói lọi khô hanh. Chuyện phát tài trước giờ không có duyên nợ, tôi chỉ mong cả đời có thể sống yên ổn là tốt rồi.

Nói đến tiền, tự nhiên tôi mới nhớ ra, đi dự lễ cưới là phải có tiền mừng!!! Tôi gãi gãi đầu, tiền lương tháng này đã muốn cạn gần hết, mở miệng hỏi tiền ba mẹ thật không có mặt mũi nào, quả thực là phiền phức mà… Cậu ta là bạn thân nhất thời còn học đại học, bạn thân kết hôn mà không có lấy một phần tiền mừng, thật là chuyện không coi được.

Khi tôi còn đang ngồi đó vò đầu bứt tai thì Bạch Dực đã tan tầm về nhà. Tôi suy nghĩ một chút, lại nhìn Bạch Dực một cái. Quyết định, kéo Bạch Dực theo thôi, tiền mừng có thể chia đôi mỗi người một nửa! Dù sao thứ năm tuần này nhà trường tổ chức cho học sinh đi tham quan kiến tập ở một trung tâm khoa học, hai người chúng tôi đều được nghỉ rảnh rỗi ở nhà. Cộng thêm hai ngày cuối tuần, vừa đủ thời gian để đến chỗ Nghiêm Thừa cách thành phố B không xa mà dự hôn lễ!

“Bạch ca! Anh về rồi đó hả!” Tôi vừa lăng xăng pha trà rót nước vừa nhìn anh ta cười cầu tài.

Bạch Dực nghiêng đầu ngạc nhiên nhìn tôi, hồi lâu sau mới nói: “Về rồi, hôm nay cậu…a mà thôi đi, coi như tôi chưa hỏi gì hết!” Anh ta thay y phục, nhấp một ngụm trà rồi ngồi xuống bên bàn vi tính.

Tôi biết anh ta đã phát hiện tôi có âm mưu, nhưng tôi cũng chỉ có anh để chia ngọt xẻ bùi, không tìm anh tôi biết tìm ai? Vì thế tôi cũng kéo ghế ngồi xuống bên cạnh, vui vẻ hỏi: “Lão Bạch, muốn ra ngoài ít lâu giải sầu không?”

Bạch Dực tay gõ bàn phím liên hồi, không thèm ngẩng đầu lên đã đáp luôn: “Không muốn.”

Trong lòng tôi nóng như lửa đốt, nếu anh ta nhất quyết không chịu, tôi sẽ phải một mình bỏ tiền ra. Mà kiếm đâu ra tiền đây hả trời…

Tim tôi run lên một chút, đành nói thật với anh ta là muốn đi tham gia hôn lễ của một người bạn cũ nhưng lại không có đủ tiền, đành phải gọi anh ta cùng đi để chia đôi tiền mừng mỗi người một nửa. Dù sao hai chúng tôi cũng coi như đã là bạn bè thân thiết, cũng không cần phải khách sáo làm gì.

Anh ta ngừng tay, ngẩng đầu nhìn tôi: “Hôn lễ? Thực sự muốn tôi góp tiền đi với cậu?”

Tôi áy náy gật đầu, anh ta lập tức tiếp tục cúi xuống đánh chữ, kiên quyết: “Đừng có mơ.”

Tôi lập tức nổi giận, anh ta đúng là keo kiệt vắt cổ chày ra nước mà! Đột nhiên nghĩ ra, Nghiêm Thừa không phải có cái “bí quyết” bí mật gì đó sao, Bạch Dực thích nhất là những thứ quái dị thế này mà, nếu nói cho Bạch Dực biết, không chừng đồ keo kiệt này sẽ cảm thấy hứng thú. Vì thế tôi lại xích lại gần, ra vẻ thần bí mà thấp giọng nói với anh ta: “Lão Bạch, anh là huynh đệ của tôi tôi mới nói nha, kỳ thực bạn tôi có một bí quyết xưa có thể nhanh chóng phát tài đó! Cậu ta bảo chỉ cần tôi tới, cậu ta sẽ nói cho tôi biết!”

Bạch Dực lúc này mới ngẩng lên thở dài nhìn tôi: “Tiểu An, không ngờ ngay cả mấy lý do vớ vẩn này mà cậu cũng nghĩ ra được, có thể thấy cậu đã nghèo tới mức nào rồi. Muốn tôi đi cũng được thôi, nhưng mà…”

Tôi nuốt nước miếng cái ực, nhìn Bạch Dực chăm chú chờ anh ta nói hết câu.

“Tháng sau và cả tháng sau nữa, bao nhiêu việc nhà cậu phải làm hết.” Suy nghĩ một chút, lại thêm một câu: “Phải giặt đồ cho tôi nữa!”

Tôi trừng to mắt, cắn răng: “Việc nhà tôi làm, nhưng quần áo của anh anh tự mà giặt lấy!”

“Thiệt sao, vậy thì thật đáng tiếc ~ chúc cậu đi chơi vui vẻ ~” Bạch Dực nhấp thêm một ngụm trà, quay lại máy vi tính.

Tôi đi qua đi lại trong phòng, ruột gan rối bời bời. Tiền tiền tiền ~ tiền bạc bức chết anh hùng mà ~ cuối cùng mặt to đỏ lên, hung hăng đập tay lên bàn máy vi tính, gào to uất ức: “Lão tử giặt là được chứ gì!!!”

Bạch Dực cười rất nhẹ, sau đó chỉ chỉ vào màn hình hỏi tôi: “Cậu nói xem nên đi chuyến tàu lúc mấy giờ?”

Tôi ngẩn người ra, lúc này mới phát hiện, trên màn hình rõ ràng là trang web đặt vé xe lửa, trên đó là thời gian biểu chạy của từng chuyến… dây thần kinh cuối cùng của tôi, trong nháy mắt, đứt phựt… Bạch Dực, ngươi khá lắm!!!

Ngày thứ năm hôm ấy khí trời rất xấu, trời đổ mưa dầm dề, tôi và Bạch Dực vội vội vàng vàng leo lên xe lửa, ngồi không đầy 2 tiếng đồng hồ đã tới nơi.

Đó là một thị trấn nhỏ, là nhà của bạn gái Nghiêm Thừa. Khí trời mưa dầm khiến cho cả bốn bề đều tối sầm lại mơ mơ hồ hồ, tầm nhìn bị cản, cách xa vài mét đã không trông thấy gì nữa.

Tôi xuống xe, căng mắt nhìn xuyên qua màn mưa dày đặc nhận ra Nghiêm Thừa đang đứng trên sân nhà ga chờ sẵn. Cậu ta không còn mặc quần jean áo thun nghèo nàn đơn giản như hồi học đại học nữa, mà là một bộ quần áo tây hàng hiệu, cộng thêm gương mặt tuấn tú càng có vẻ một doanh nhân trẻ thành đạt. Nhưng đứng giữa mưa dầm, trông nét mặt cậu ta có hơi tái, hình như cũng gầy đi nhiều, quanh mắt là hai vành đen, thoạt nhìn có vẻ tiều tụy.

Nghiêm Thừa cũng đã nhận ra tôi, vội vàng vẫy vẫy tay từ xa. Tôi và Bạch Dực tiến về phía cậu ta, cậu ta thấy bên cạnh tôi là một người lạ, hiển nhiên có hơi sững lại.

Tôi vội vàng giới thiệu: “Đây là đồng nghiệp của tớ cũng là bạn cùng phòng, tên là Bạch Dực. Vừa đúng lúc rảnh rỗi nên tới kéo anh ấy tới luôn.”

Nghiêm Thừa lập tức vươn tay cười: “Bạn của Tiểu An cũng là bạn của tôi. Hôn lễ ngày mai nhất định phải mời anh uống thật say mới được!”

Bạch Dực mỉm cười bắt tay Nghiêm Thừa: “Xin chào, chúc cậu tân hôn hạnh phúc.”

Nghiêm Thừa nhìn đồng hồ đeo tay một cái rồi nói: “Cảm ơn cảm ơn, được rồi, bây giờ tôi lái xe đưa hai người về nhà nghỉ tạm cái đã, tối nay chúng ta tiếp tục trò chuyện.”

Tôi vỗ vỗ vai Nghiêm Thừa, cảm thán một câu: “Tiểu tử dạo này phát đạt quá nha, nhìn cậu kìa, mặc toàn hàng hiệu, lại còn có cả xe hơi nữa chứ! Chậc chậc, chắc là cuộc sống sung sướng lắm hả?” Cùng lúc đó, lại cảm thấy hơi kinh ngạc, sao cậu chàng này lại gầy đến thế này nhỉ, lúc nãy vỗ vai cậu ta có cảm giác như cậu ta chỉ có da bọc xương. Vì thế tôi vô thức quan sát cậu ta kỹ hơn một chút, thấy trong tròng mắt của cậu ta toàn là tơ máu, môi khô nẻ, thấy cậu ta thỉnh thoảng lại liếm liếm môi.

Cậu ta không nhận ra tôi đang chăm chú nhìn, chỉ mỉm cười vẻ thần bí: “Cậu cũng có thể trở thành như tớ thôi, chỉ cần tin tớ là được.”

Tôi ngẩn người, không phải chứ, hình như… cậu ta đang nói thật? Tôi cứ nghĩ đó chỉ là nói đùa… chợt Bạch Dực tiến tới đẩy lưng tôi một cái, ý bảo tôi nhanh theo kịp người ta, vì thế tôi cũng đành nhanh chân đi, tạm gác mọi thắc mắc lại.

Tới bãi đậu xe, Nghiêm Thừa dừng lại trước một cái Audi A6 mới tinh, thoải mái mở nắp xe sau cho chúng tôi bỏ hành lý vào, giúp chúng tôi ngồi vào băng ghế sau rồi mới mở máy xe, hướng về phía nhà cậu ta.

Trên đường đi, Nghiêm Thừa còn giới thiệu cho chúng tôi phong thổ vùng này, có thể thấy cậu ta vẫn nói nhiều như xưa. Tôi đột nhiên nhớ lại Nghiêm Thừa hồi còn đi học đại học thường hay nói chuyện rất khoan thai, trong lòng chợt cảm thấy có chút nhớ nhung ngày xưa.

“Đại bộ phận người dân vùng này đều trồng cây ăn quả. Gia đình nào cũng rất khá giả, vì trong thôn cách đây 20 năm đã bắt đầu kí một hợp đồng cung cấp trái cây lớn cho thành phố. Loại trái cây đặc sản ở đây là quất (quýt), hầu hết là để xuất khẩu đấy.” Nghiêm Thừa nói, “Vì thế thôn này còn gọi là Cát thôn (thôn may mắn).”

“Vì sao gọi trái quất là cát tường?” Tôi hỏi.

“Dân gian quen viết chữ quất thành chữ ‘kết’, mà chữ kết là do bộ ‘mộc’ cộng với chữ ‘cát’ mà tạo thành, cho nên trái quất biểu thị cho tiền tài và may mắn. Dịp đầu xuân, người ta thường tặng nhau trái quất, để mong một năm mới đại cát đại lợi. Đêm trừ tịch cũng có rất nhiều gia đình có thói quen trồng trước nhà một gốc quất, trên cây còn treo bao đỏ lì xì, thực ra cũng là có ý nghĩa chiêu tài. Hơn nữa quả cây quất có màu vàng, càng thêm hợp ý.” Bạch Dực nhìn ra ngoài cửa sổ, thờ ơ đáp lời.

“Hóa ra anh Bạch Dực cũng biết nhiều quá nhỉ, ha ha. Người buôn bán chúng tôi tin mấy cái này lắm, vận may là thứ hết sức quan trọng mà.” Nghiêm Thừa gật đầu cười: “Thực ra từ khi tôi gặp Tiểu Lan, vận may của tôi mới tốt lên, trúng vé số lớn, gặp được nhà đầu tư tốt, bây giờ cũng coi như có chút thành đạt.” Nói xong, Nghiêm Thừa lộ một vẻ mặt cực kỳ hạnh phúc.

“Chị nhà trông thế nào?” Tôi hỏi.

“Cậu nhìn thấy sẽ biết.”

Căn nhà mới của Nghiêm Thừa quả thực nhìn rất bề thế. Đó là một biệt thự xây hoàn toàn theo phong cách Tây phương, sau nhà có vườn hoa, cạnh nhà có ga ra để xe hơi. Vào cửa nhìn thấy phòng khách, càng thêm huy hoàng tráng lệ.

Lúc này bạn gái của Nghiêm Thừa nghe tiếng chúng tôi tới cũng vừa bước từ trên lầu xuống, áo liền váy màu trắng cực hợp với vóc dáng mảnh mai thanh tú. Da trắng trẻo, nét mặt tinh tế, mái tóc đen dài càng khiến cô có vẻ quyến rũ, đẹp tới nỗi có thể gọi là hoàn mỹ. Thảo nào Nghiêm Thừa mỗi lần nhắc tới cô là lại có vẻ như chìm trong hạnh phúc, quả thực là một người đẹp mà.

Người đẹp mở miệng chào: “Anh là Tiểu An phải không? Em tên là Tô Lan, nghe Nghiêm Thừa thường xuyên nhắc tới anh, ha ha, cảm ơn anh hôm nay tới tham dự hôn lễ của chúng em.” Nói xong lại quay đầu lại nhìn Nghiêm Thừa, ra vẻ muốn hỏi Bạch Dực đứng bên cạnh tôi là ai.

“Anh ấy là đồng nghiệp của Tiểu An, cũng tới tham gia hôn lễ của chúng ta, Tiểu Lan, em thay anh trò chuyện với hai cậu ấy nhé, anh lên lầu chuẩn bị phòng cho khách đã.” Nghiêm Thừa cười đáp một câu rồi nhanh chân đi lên lầu.

Tô Lan pha cà phê cho hai chúng tôi rồi mời chúng tôi ngồi trên sô pha ngoài phòng khách. Tôi và Bạch Dực ngồi xuống mới phát hiện, phòng khách dùng hoa hồng để trang trí, trên bàn trà cũng đặt vài lễ vật dùng cho hôn lễ, nhưng trông vẫn có vẻ quạnh quẽ thế nào.

Hai người sắp kết hôn, mà sao chỉ có hai người bọn họ, cha mẹ hai bên cũng không thấy đâu, họ hàng cũng không tới giúp đỡ. Vì vậy tôi hỏi: “Sao không thấy cha mẹ của Nghiêm Thừa nhỉ? Hai người các bạn kết hôn chắc cần nhiều người giúp chứ nhỉ?”

Tô Lan buông ly cà phê đang cầm xuống bàn, nói: “Mọi người vừa đi giúp chúng em mua vài thứ rồi, phải chút nữa mới về.”

Bạch Dực từ khi bước vào căn nhà này thì gần như hoàn toàn không lên tiếng nữa, chỉ quan sát chung quanh. Tôi biết anh ta là một người trầm mặc, nhưng ngay cả một câu chúc mừng đám cưới cũng không nói thì có vẻ hơi thất lễ. Tôi vừa định ra dấu cho anh ta bắt chuyện, chợt nghe Bạch Dực lên tiếng: “Phòng ốc của hai người bố trí rất cẩn thận, cánh cửa lớn thế này là mạng thủy, tiếp nhận không khí trong lành, ngũ hành cũng đầy đủ.”

“Ha ha ~ Không ngờ Bạch tiên sinh cũng biết phong thủy, bọn em là người làm ăn, đương nhiên phải chú ý tới phương diện này rồi, nghe nói phong thủy thế này có thể đưa tài vận tới.” Tô Lan cười.

“Khó trách, hóa ra chị nhà hiểu rõ phong thủy, hèn gì mà Nghiêm Thừa dạo này phát đạt nhanh đến thế.” Tôi vừa cười vừa nói, chợt trên lầu vang lên những tiếng động kỳ quái, dường như có rất nhiều người đang bước rầm rập trên đó vậy.

Tôi nghĩ trên lầu còn có khách khác, liền hỏi Tô Lan: “Trên lầu ngoài Nghiêm Thừa còn có khách nữa à?”

Tô Lan cười đáp: “Không có ai cả đâu, có lẽ là do cửa sổ chưa đóng chặt, hôm nay trời lại mưa nên gió đập vào đấy mà. Đợi lát nữa em sẽ đi đóng cửa.”

Tôi gật đầu, nhưng vẫn mơ hồ nghĩ những tiếng động ban nãy hoàn toàn không giống như tiếng gió đập vào cửa sổ… Bất quá nếu như chủ nhân đã nói vậy thì cũng không tiện hỏi lại, ba người chỉ nói chuyện nhà, cũng có thể coi như là vui vẻ.

Một lát sau thấy Nghiêm Thừa xuống lầu, Tô Lan buông ly cà phê cười: “Em và A Thừa bây giờ còn phải lái xe ra ngoài mua đồ ăn về nấu bữa tối, hai người cứ thoải mái như ở nhà nhé, nếu buồn thì cứ mở phim lên xem. Em định mời hai người đi quanh đây tham quan một vòng cơ, nhưng xui là hôm nay trời lại mưa, đi ra ngoài có lẽ không tiện.”

Tôi và Bạch Dực đều gật đầu, Nghiêm Thừa bèn dẫn chúng tôi lên lầu đến phòng.

Trên lầu rất nhiều phòng, Nghiêm Thừa mang cả hai chúng tôi vào căn phòng cách đầu cầu thang xa nhất mà nói: “Tiểu An, cậu ở tạm phòng này, bạn cậu ở phòng bên cạnh nhé. Vật dụng thường ngày tớ chuẩn bị trong phòng cả rồi, các cậu cứ yên tâm mà ở, có gì cần nữa thì chờ tớ đi mua đồ ăn về rồi cho tớ biết.”

Tôi vội vàng đáp: “Chắc chẳng có gì đâu, các cậu không cần vội.”

Nghiêm Thừa cười cười: “Được, vậy tớ với Tiểu Lan đi mua đồ một chút. Các cậu cứ thoải mái, anh em với nhau cả, đừng khách sáo làm gì.”

Tôi và Bạch Dực cảm ơn, Nghiêm Thừa mới chào để đi.

Tôi thấy cả hai vị chủ nhà đều đi hết, trong lòng có chút hụt hẫng, sao hôn lễ mà lại lạnh lẽo thế này nhỉ, chẳng lẽ bọn họ chỉ mời có tôi thôi sao? Tôi nhìn sang Bạch Dực, thấy anh ta cau mày.

“Đang nghĩ gì vậy hả, thấy con gái đẹp nên tơ tưởng đấy à? Tôi cảnh cáo anh đó nha, cổ là vợ bạn tôi đó, đừng có lung tung!” Tôi tếu táo nói, nhưng trong lòng cũng ngầm nhận ra, hôn lễ lần này cùa Nghiêm Thừa thật quá kỳ quái, hơn nữa sự thay đổi của cậu ta cũng rất đáng lưu ý.

“Cậu không thấy kỳ lạ à? Lúc nãy dưới lầu cậu cũng nghe thấy đấy, rõ ràng có phải tiếng gió thổi đâu? Hơn nữa còn có phong thủy của nhà bọn họ…Còn nữa, ở đây rõ ràng chỉ có hai người chúng ta, nhưng mà…” Bạch Dực đứng bên cửa sổ nhìn ra ngoài, nói tới đây lại quay lại nhìn tôi, đẩy đẩy gọng kính trên sống mũi, đến trước mặt tôi mà nói: “Bạn của cậu rất kỳ quái, không, cả hai người bọn họ lẫn căn nhà này đều kỳ quái.”

Tôi cũng vô thức gật đầu, đúng, hôn lễ lần này của Nghiêm Thừa vì sao cha mẹ và chị gái của cậu ta không tới? Chỉ có hai người bọn họ, còn thân bằng quyến thuộc đâu? Nhưng dù sao cũng có thiệp cưới, có nhà mới, có cả tân nương, làm sao mà giả được chứ? Tôi lắc đầu nói với Bạch Dực: “Chắc không sao đâu, đừng suy nghĩ nhiều quá, cái gì tới sẽ tới.”

Bạch Dực không đáp lại, ngoài cửa sổ không biết tự lúc nào lại bắt đầu đổ mưa, hạt mưa đập lên cửa sổ, lách cách lách cách. Toàn bộ căn biệt thự bao la chỉ có hai chúng tôi, tự nhiên có cảm giác bị ai đó săm soi, cả người đều như cứng lại.

Chạng vạng tối Nghiêm Thừa và Tô Lan mới về, còn mua thêm hai chai rượu vang đỏ, Tô Lan cười chào chúng tôi rồi vội vàng vào nhà bếp làm cơm.

Nghiêm Thừa cũng nói phải đi chuẩn bị chén bát bàn ghế trước, bảo chúng tôi chờ một chút. Tôi hỏi cậu ta có cần giúp gì không, thì cậu ta chỉ lắc đầu: “Hai người là khách mà, không cần động chân động tay gì đâu. Đợi lát nữa Tiểu Lan làm cơm xong, các cậu có thể nếm thử tay nghề của cô ấy.” Nói xong đem rượu vang sang phòng ăn.

Chẳng bao lâu sau đã nghe thấy mùi thơm của đồ ăn bốc lên ngào ngạt từ nhà bếp, mùi vị nghe có vẻ rất thơm ngon. Nhớ tới bữa trưa nguội ngắt trên xe lửa của tôi và Bạch Dực, huống chi lúc này đã sắp tối, tôi cũng cảm thấy bụng sôi ùng ục, bèn không khách khí, không chờ chủ nhà sang mời đã kéo tay Bạch Dực tới phòng ăn.

Tới phòng ăn, tôi thấy Nghiêm Thừa đang ngồi xổm trên mặt đất, lắc lắc đầu, đầu cúi gằm, vò đầu bứt tai như một con khỉ. Chúng tôi nhìn thấy cảnh đó, cảm thấy hoảng hốt vội hô lên: “Nghiêm Thừa, cậu bị làm sao vậy?”

Nghiêm Thừa chợt quay đầu lại, liếc nhìn tôi, khóe môi hơi nhếch lên, nhưng ánh mắt của cậu ta lúc này cứ như ánh mắt của một cô gái, nếu không phải quen cậu ta lâu năm chắc tôi đã tưởng cậu ta là một người đồng tính rồi. Mà ánh mắt của cậu ta lại còn mang theo một chút tối tăm quỷ quái không nói nên lời…

Chương 4: Tài vận (Hạ)          

“Nghiêm Thừa!” Tôi gọi to, làm sao vậy, cậu chàng này định diễn kịch cho ai xem à? Ngồi trên đất đóng vai khỉ mẹ chắc?

Cậu ta thấy tôi, vội vàng lấy lại vẻ mặt bình thường, đứng lên, chỉnh lại y phục, nhìn chúng tôi có vẻ xấu hổ, cười cười mà nói: “Bị rớt vài thứ, tớ đang tìm.”

Tôi nghi hoặc nhìn cậu ta, cảm giác khắp người cậu ta đều hơi quái dị. Cậu ta dường như đã biến thành một người khác, người này…thực sự là Nghiêm Thừa mà tôi đã quen biết bao lâu nay sao?

Cửa nhà bếp mở ra, Tô Lan bưng thức ăn lên, nhìn thấy chúng tôi đang đứng sững nhìn nhau, liền nghi hoặc hỏi: “Có chuyện gì xảy ra thế? A Thừa, còn đứng đó làm gì, giúp em mang thức ăn lên đi!”

Nghiêm Thừa cũng cười: “Cậu xem, sắp kết hôn nên thần kinh cứ căng ra, không việc gì không việc gì, mọi người ngồi vào bàn đi, tớ mang thức ăn lên.”

Món ăn rất phong phú, đều là những món tôi thích ăn nhất, xem ra Nghiêm Thừa vẫn còn nhớ rõ khẩu vị của người bạn cùng lớp này. Chúng tôi ngồi xung quanh một cái bàn ăn rất rộng bằng gỗ lên nước nâu hồng, tô dĩa đầy bàn, màu sắc hấp dẫn.

Thế nhưng điểm kỳ lạ nhất là trên bàn lại đặt tới tám bộ chén đũa. Tôi ngạc nhiên hỏi Nghiêm Thừa: “Còn có bạn bè khác tới à? Sao lại có tới tám cái chén?”

Nghiêm Thừa đáp: “Không, cái này chỉ là thói quen trong nhà Tiểu Lan thôi, trước ngày hôn lễ để bốn chỗ trống trên bàn ăn, coi như là cúng tổ tiên. Cũng không có gì, để thêm bốn cái chén không ấy mà.”

Tôi và Bạch Dực quay sang nhìn nhau, Bạch Dực nhíu chặt chân mày, nhưng vẫn ngồi xuống, tôi cũng ngồi xuống bên cạnh anh ta.

Nghiêm Thừa lăng xăng rót rượu cho chúng tôi, vừa rót vừa cười: “Nào, cạn ly cạn ly, anh em mình lâu rồi không được vui vẻ uống thế này!”

Tôi cũng nhớ lại thời quá khứ, buổi tối lén uống bia trong phòng ký túc xá đại học, chỉ sợ bị giám thị phát hiện. Đúng là một thời trai trẻ phóng túng. Bây giờ nhìn Nghiêm Thừa hăng hái thế này, tuy không còn là những sinh viên trẻ trung như xưa nhưng cậu ta vẫn là anh em tốt của tôi. Nghĩ thế, tôi bỏ qua mọi nghi ngờ nãy giờ, thoải mái nói: “Đúng thế, khó có dịp cậu kết hôn thế này, phải chúc mừng, chúc mừng nha!”

Nghiêm Thừa giúp tôi rót rượu xong liền quay sang rót cho Bạch Dực, nhưng Bạch Dực chỉ nhẹ nhàng lấy tay chặn trên miệng ly, ôn hòa nói: “Tôi không biết uống, cảm ơn.”

Nghiêm Thừa xấu hổ nói: “Ngày mai là ngày tôi kết hôn mà, uống một chút thôi chắc không sao đâu.”

Tôi có hơi ngại, không ngờ Bạch Dực lại kiên quyết như vậy. Nhưng tôi cũng biết, chuyện anh ta đã không muốn làm thì có nói sao anh ta cũng sẽ từ chối, trái lại càng thêm khiến cả hai bên khó xử.

Vì thế tôi vội vàng chen vào: “Nghiêm Thừa đừng ép anh ấy, anh ấy không uống thì để tớ uống.” Nói xong, nâng ly uống một hơi hết sạch. Nhưng vừa có cảm giác sảng khoái, lại đột nhiên cảm thấy thân thể có gì đó khác thường, như thể một khối băng lạnh lẽo vừa rơi vào đáy dạ dày vậy. Tôi thở dài nghĩ thầm: “Hình như tửu lượng của mình cũng không được tốt.”

Bạch Dực nhìn bộ dạng uống bất cần sống chết của tôi, lắc đầu nói: “Cậu ta cũng không uống được nhiều, chúng ta mau ăn thôi, muốn uống thì để ngày mai trong hôn lễ, tụi này nhất định không từ chối.”

Tôi muốn lên tiếng, nhưng Bạch Dực đã lặng lẽ kéo tay tôi lại, sau đó vừa cười vừa nói với Nghiêm Thừa: “Hôm nay chúng ta tới là để dự hôn lễ kia mà, nếu bây giờ chuốc cậu nhóc này say khướt ra thì ngày mai dám cậu ta không dậy nổi mà dự lễ mất.”

Nghiêm Thừa gật đầu: “Cũng phải, tôi vui quá nên quên mất Tiểu An tửu lượng không cao, vầy đi vầy đi, chúng ta từ giờ cứ lấy trà thay rượu thôi.”

Tô Lan cũng cười: “Đàn ông các anh cứ đụng tới rượu là chẳng biết trời trăng gì cả, đừng uống quá chén mà nên nếm thử tay nghề của em đi.”

Nghiêm Thừa cười làm lành: “Phải phải, hai người nhất định phải nếm thử món ăn của lão bà đại nhân nhà tôi đấy, nhất định là mỹ vị trần gian đó nha!”

Tôi cầm lấy đũa gắp một miếng thịt, nhưng khi vừa đưa vào miệng lại đột nhiên cảm thấy mùi vị của nó kỳ quái không sao tả nổi, giống như món ăn đã để lâu ngày vậy, chẳng tươi ngon chút nào. Nhưng rõ ràng đồ ăn là vừa mua về kia mà? Tôi ngạc nhiên gắp thêm một miếng, phát hiện cảm giác của nó trong miệng thực sự giống như rơm nguội, giống như đồ ăn cúng người chết vậy, chẳng có mùi vị gì cả.

Tôi lén nhìn sang những người khác, nhưng bọn họ chẳng có vẻ gì là phát hiện đồ ăn có vấn đề cả, ngay cả Bạch Dực cũng bình thường. Chẳng lẽ do tôi vừa uống rượu nên vị giác bị tê dại đi?

Tôi khô khốc nuốt thức ăn, nói thật lòng lúc đó tôi rất đói, nhưng làm cách nào cũng không sao nuốt nổi, vừa lúc nãy còn rất hào hứng nếm thử đám đồ ăn phong phú trước mặt, nhưng hiện tại chỉ muốn ngưng.

Tôi liếc nhìn chỗ cái chén không đối diện mình, phát hiện phản chiếu trên mặt bàn trơn bóng như thoa dầu kia, lại là bốn bóng người?! Tôi dụi dụi mắt, nhìn thật kỹ bốn chỗ ngồi còn lại thêm một lần nữa, phát hiện quả nhiên vẫn là bốn chỗ trống, hình như thực sự uống say quá rồi…?

Ăn xong bữa cơm nhạt nhẽo, chúng tôi ra phòng khác ngồi nói chuyện về cuộc sống sau khi tốt nghiệp. Hóa ra sau khi tốt nghiệp, có một lần Nghiêm Thừa vô tình gặp Tô Lan, bị cuốn hút bởi vẻ đẹp và tính cách dịu dàng của cô. Hai người quen nhau không bao lâu thì Nghiêm Thừa một lần mua vé số kiến thiết không ngờ trúng độc đắc, vì vậy, với sự giúp đỡ của Tô Lan, cậu ta thành lập một công ty chứng khoán chuyên mua bán cổ phiếu. Dưới tình hình trì trệ hiện nay của nền kinh tế, công ty của cậu ta vẫn lời một khoản to, giá trị cổ phiếu cũng tăng gấp mấy lần. Chỉ trong một thời gian ngắn, cậu ta đã tích lũy được một nguồn vốn lớn, thật giống như được Thần Tài chúc phúc vậy.

Tôi chợt nhớ tới bí quyết phát tài kỳ bí mà cậu ta nhắc tới trong bức thư, liền thuận miệng hỏi một câu.

“Nghiêm Thừa, cậu nói cậu có thể phát đạt như vậy là nhờ một bí quyết thay đổi tài vận?”

Cậu ta thần bí mỉm cười: “Không sai, tớ nhờ có phương pháp này mới thoát khỏi cuộc sống nghèo khổ trước kia, tớ bây giờ có thể nói là muốn gió được gió muốn mưa được mưa! Cậu cũng có thể đấy, đợi qua ngày mai, tớ sẽ nói cho cậu biết, sau đó cậu cũng có thể phát tài giống tớ vậy!”

Bạch Dực nhíu nhíu mày nghiêm nghị nói: “Cậu thực sự tin thứ phương pháp gì đó có thể cho cậu cái cậu muốn sao?”

Ngưng một chút, anh ta lại tiếp lời: “Đôi khi, thứ cậu muốn có thể phải đổi bằng những thứ còn quan trọng hơn nữa kìa, trên đời này căn bản không có thứ gì cho không biếu không cả.”

Nghiêm Thừa hơi sửng sốt, sau đó lập tức mỉm cười: “Anh nói cũng phải, có lẽ vì tôi là người làm ăn nên có hơi tin vào vận may hơn người khác.” Cậu ta nhìn sang Tô Lan, cô bèn đáp lại bằng một nụ cười ngọt ngào.

Vì vậy cậu ta nói thêm: “Tất cả những gì tôi có bây giờ đều là những thứ tôi tự tay đoạt được!”

Tôi phát hiện Nghiêm Thừa có hơi kích động, chăm chú nắm chặt hai tay, thân thể hơi run lên, cậu ta thở gấp mấy hơi, sau đó quay lại mỉm cười với chúng tôi: “Cậu thấy đấy, có lúc tớ vẫn kích động như ngày xưa vậy. Tớ biết tất cả những gì mình có trong tay lúc này quan trọng tới mức nào, cho nên tớ nhất định sẽ giữ gìn chúng thật kỹ!”

Tô Lan cười: “Thôi được rồi, trời cũng đã muộn, để bọn họ nghỉ ngơi thôi. Ngày mai mới là ngày đặc sắc mà!”

Nghiêm Thừa cười cười quay về phía chúng tôi: “Đúng vậy, cũng không còn sớm nữa, các cậu nghỉ ngơi sớm đi, ngày mai mới là đặc sắc!”

Nửa đêm tôi nằm trên giường, không biết có phải vì ly rượu ban chiều hay không mà cả người tôi cứ lạnh run, lật qua lật lại vẫn không sao ngủ nổi.

Trở mình thêm một lần, tôi đột nhiên cảm giác dưới giường có thanh âm, giống như có cái gì đó đụng vào chân giường vậy. Tôi mở đèn ngủ, xuống giường xốc drap giường lên, đột nhiên nhìn thấy một đôi mắt đang chằm chằm nhìn tôi, toàn bộ cơ thể của nó dán chặt vào mặt dưới ván giường, từ miệng nó phát ra những tiếng ken két. Tôi sợ tới mức ngã lăn ra về phía sau, đụng phải cái tủ tường, thứ quái gở kia lập tức nhảy ra nhanh như chớp, tôi không còn đường lui phía sau, chỉ còn cách dùng hai tay chống đỡ tránh con quái vật kia tới gần.

Nhưng thật không ngờ con quái vật này mạnh kinh người, nó nhấc bổng tôi lên khỏi mặt đất, sau đó tôi cảm thấy mình bị quật thẳng xuống đất, cảm giác như khớp xương bị đánh gãy trong nháy mắt khiến tôi đau đớn tới mức muốn bật khóc.

Nhờ ánh sáng lờ mờ của cái đèn ngủ, tôi mới mơ hồ nhận ra con quái vật này kỳ thực là một cô gái, nhưng cả gương mặt của nó đều xanh sạm lại, cặp mắt to khác thường nhưng không có con ngươi, chỉ có hai hốc mắt đen ngòm trào đầy máu. Mái tóc dài rối bù như một mớ rác, cộng với đầu ngón tay đầy cáu bẩn đen sì.

Nó nắm lấy tôi kéo xềnh xệch trên đất, khiến tôi có cảm giác như bị xé làm hai nửa. Nó kéo tôi thẳng về phía bệ cửa sổ, tôi cố sức giãy dụa nhưng vẫn chẳng có tác dụng gì, khi nó chuẩn bị ném tôi ra ngoài cửa sổ, tôi thậm chí đã nhắm chặt mắt lại chờ chết.

Nhưng đột nhiên lại có cảm giác như có ai đó đang kéo tôi lại, mở mắt ra, tôi nhìn thấy Bạch Dực đang cắn răng ôm chặt lấy người tôi, khi ấy đã ngã một nửa ra khỏi cửa sổ, tôi phát hiện nữ quỷ đã biến mất, còn một nửa người tôi đang vắt vẻo ngoài lan can, nửa còn lại đang được Bạch Dực ôm chặt. Nếu anh ta buông tay ra bây giờ, tôi nhất định sẽ mất thăng bằng mà rơi hẳn xuống dưới.

Bạch Dực vừa gian nan kéo tôi vào vừa gào lên: “Đã tỉnh rồi thì đừng nằm đờ ra đó nữa, mau xuống đây!” Tôi cúi đầu nhìn xuống đất…Má ơi! Phía dưới là một hàng rào sắt vươn lên nhọn hoắt! Tôi mà rớt xuống đó thì chỉ có nước thành thịt xiên!

Tôi nhanh chóng dùng cả chân cả tay quơ quào quay vào. Khi cả người đã an toàn nằm trong phòng tôi mới buông Bạch Dực ra, cả người giống như bị rút hết sinh khí, nặng nề trượt dài xuống, trái tim đập bình bịch kinh hoàng trong lồng ngực, miệng há hốc thở hổn hển, cả người run lẩy bẩy.

Tôi nhìn sang Bạch Dực, thấy anh ta vẫn chưa thay áo ngủ, còn mặc nguyên quần áo như ban ngày, bởi vì lúc nãy ra sức kéo tôi vào nên trang phục trông hơi xộc xệch. Anh ta cũng nhìn tôi, môi mím chặt đầy căng thẳng.

“Nữ, nữ quỷ lúc nãy, anh, anh có thấy không?” Tôi lắp bắp hỏi, tay quơ quào chỉ ra lan can.

“Không thấy, căn bản không hề có nữ quỷ nào cả. Khi tôi vào chỉ thấy cậu đang nhoài người ra lan can chuẩn bị nhảy xuống thôi. Thực sự là quỷ phải nói là bạn cậu mới đúng!” Bạch Dực lạnh lùng nói.

Tôi vừa nghe thế liền lập tức cố chống cơ thể đứng thẳng dậy, tay bấu chặt vào vạt áo Bạch Dực, cảm giác đau đớn như xương bị gãy lúc nãy cũng không thấy nữa, dường như quả thực chưa hề có chuyện gì xảy ra. Nhưng tôi không để ý, chỉ quát lên với Bạch Dực: “Anh đừng nói bậy! Người hại tôi mà lại là Nghiêm Thừa hay sao?!” Vì chuyện kinh khủng lúc nãy, tôi vẫn còn yếu ớt chưa đứng thẳng lên được, mà vì phẫn nộ nên cơ thể run rẩy càng dữ dội hơn.

“Không sai, nếu tôi đoán không nhầm thì bây giờ bạn cậu cũng đang phải trả giá cho tội nghiệt của mình rồi!” Anh ta vẫn lãnh đạm nhìn tôi. Chợt từ phía phòng ngủ chính sau lưng vang lên một tiếng rống kinh khủng, vừa đau đớn vừa nghẹn ngào; tôi liền lập tức xông ra ngoài, phòng ngủ chính là căn phòng nằm ngay đầu cầu thang.

Tuy Bạch Dực nói vậy, trong lòng tôi cũng âm thầm nghi ngờ, nhưng cảm tình bao nhiêu năm vẫn khiến tôi không sao tin nổi là Nghiêm Thừa lại có thể đối xử với tôi như vậy, hơn nữa, giết tôi thì cậu ta được cái gì chứ?!

Nghi hoặc, phẫn nộ, bi thương, tôi dùng toàn bộ sức tàn còn lại của mình phá tung cửa phòng ngủ chính, cừa vừa mở ra, tôi quả thực không dám tin vào hai mắt mình nữa, hai chân lập tức nhũn ra, nhờ có Bạch Dực đứng phía sau đỡ lấy tôi, tôi mới không té sụp xuống đất.

Nghiêm Thừa đang thống khổ nằm trên thảm, trên người cậu ta mọc lên bốn cái đầu, mà bốn cái đầu đó đang ra sức cắn xé cậu ta, cả người cậu ta gần như thành một khối thịt nham nhở. Trên mặt đất vung vãi thịt xương, nhưng không có chút máu nào. Bốn cái đầu liên tục cắn xé cứ như một đám dã thú háu đói, nhưng đám thịt trên người Nghiêm Thừa vừa bị bọn họ cắn nuốt xong thì lại lập tức từ từ mọc lại trên cơ thể cậu ta, trong mắt Nghiêm Thừa tràn đầy đau đớn tuyệt vọng, cậu ta điên cuồng giãy dụa mỗi lần bị cắn.

Nghiêm Thừa có thể nói là đang phải chịu đựng đau đớn như đang chịu nhục hình lăng trì, nhưng kinh khủng nhất là cậu ta vẫn còn lý trí, cậu ta nhìn tôi, muốn hét gào, muốn gọi to, nhưng cổ họng cậu ta đã bị cắn nát thành một lỗ thủng to, tuy vết thương đang thong thả khép lại nhưng vẫn không sao phát ra âm thanh được.

Tôi đứng đờ ra bên cửa, nhìn Nghiêm Thừa chịu đựng cơn đau khủng khiếp mà giãy dụa, theo bản năng muốn đến cứu cậu ta, nhưng lại bị Bạch Dực kéo lại.

Tôi quay đầu nhìn anh ta, không còn sức kêu gọi nữa, chỉ đau khổ nhìn Bạch Dực, ngón tay run run chỉ vào Nghiêm Thừa.

Bạch Dực vẫn lắc đầu: “Vô ích thôi, bốn cái đầu nọ thực ra chính là những thân nhân gần gũi nhất của hắn, cha mẹ, chị gái hắn đấy.”

Tôi quay lại nhìn bốn cái đầu một lần nữa, đích xác, bọn họ đều là những người thân của Bạch Dực, cặp vợ chồng già vốn hòa ái dễ gần trong quá khứ nay đã hoàn toàn biến thành những con ác thú điên cuồng, cắn xé chính con đẻ của mình.

“Vì…sao…?” Tôi yếu ớt hỏi, muốn biết vì sao những chuyện điên cuồng thế này lại xảy ra!

Bạch Dực nhìn tôi một lát, thở dài nói: “Đây là một loại tà thuật có từ xưa, dùng linh hồn của năm người gần gũi với mình nhất buộc chặt lại bên cạnh mình, làm như thế có thể thay đổi tài vận của một người. Thậm chí có thể giúp người đó trở nên giàu có nhất thế giới, bởi vì cho dù người đó có tùy tiện mua vé số, vào sòng bạc chơi bậy bạ vài ván cũng có thể trúng rất to. Giống như thể được Thần Tài chiếu mạng vậy.”

Tôi nhìn Nghiêm Thừa lúc này đã cứng đờ người, rõ ràng là đã chết. Bốn cái đầu vẫn tham lam cắn nuốt cơ thể của cậu ta.

Bạch Dực nhìn tôi đã dại cả người ra, tiếp tục nói: “Vừa đến căn nhà này là tôi đã nghi ngờ rồi, phong thủy ở đây chính là phong thủy ‘ngũ quỷ tài vận’, nhưng tôi tuyệt không dám nghĩ hắn lại dám sử dụng thuật ‘ngũ tuyệt’[1], cho nên tôi không nói gì. Cho đến khi hắn cho cậu uống rượu pha bùa làm cho huyễn trí, tôi mới cảm giác mọi chuyện không hề đơn giản, cho nên tôi không hề quay lại phòng ngủ, nếu không lúc này người chết hẳn phải là cậu rồi.”

“Vì sao?” Tôi thực lòng mong mình chưa từng nghe thấy, chưa từng nhìn thấy bất cứ cái gì.

“Vì muốn phát tài, hắn đã đang tâm hại chết toàn bộ thân nhân của mình. Cảnh sát đương nhiên tra không ra, giống như nếu bây giờ cậu mà chết thì cũng chỉ là tai nạn trượt chân rơi xuống lầu vậy thôi. Nhưng thuật ‘ngũ tuyệt’ có một hạn chế, đó là nhất định trong vòng ba tháng phải giết đủ năm người chí thân, nếu không thần chú sẽ phản phệ, những người thân đã bị giết sẽ quay lại ăn thịt hắn. Giống như những gì cậu đã thấy.” Bạch Dực tiếp, “Hắn không nỡ giết bạn gái xinh đẹp của mình, cho nên mới bắt cậu tới khai đao.”

Tôi nhắm chặt hai mắt, một cảm giác thê lương hơn cả khi bị bán đứng hay phản bội khiến tôi đau đớn không sao chịu đựng nổi. Bạch Dực vỗ nhẹ vai tôi, tiếp tục nói: “Ngày hôm nay có lẽ chính là ngày cuối cùng của thời hạn ba tháng, hắn muốn giết cậu, mà hắn hiểu cậu rất rõ, nhưng hắn chỉ không ngờ là lại mọc ra thêm một người là tôi, mà tôi lại cứu cậu, cho nên hắn lập tức bị phản phệ báo ứng.”

Tôi không nói gì, chỉ nhớ lại một Nghiêm Thừa vừa cao ngạo vừa rụt rè hiền lành thời còn học đại học, vậy mà bây giờ cậu ta đã biến thành một con ác quỷ có thể vì tiền bạc mà sẵn sàng giết sạch toàn bộ thân nhân. Cuối cùng, lại bị chết thảm trong miệng của chính những thân nhân đó.

“Vậy còn Tô Lan?” Tôi hỏi. Người con gái kia là người mà Nghiêm Thừa cho dù có chết cũng không muốn phản bội, có lẽ sự thay đổi của cậu ta thực ra chỉ là vì quá yêu Tô Lan mà thôi. Cậu ta chọn phản bội tất cả, nhưng cũng không bỏ được người con gái mình yêu nhất.

Bạch Dực cau mày: “Cô ta biến mất rồi.”

Tôi không nói gì nữa, chỉ cảm thấy đầu óc trống rỗng, cuối cùng, mê man ngã xuống trong tay Bạch Dực…

Cuối cùng Bạch Dực báo cảnh sát, pháp y kết luận là Nghiêm Thừa chết do nhồi máu cơ tim. Nhưng tôi biết cậu ta bị chính thân nhân của mình xé xác ăn sống, đau đớn như bị lăng trì mới là nguyên nhân khiến cậu ta chết. Đêm trước hôn lễ vốn phải vui vẻ hạnh phúc nhất, ai ngờ lại trở thành địa ngục của Tu La.

Chúng tôi lại quay về ký túc xá. Vì không chịu nổi kích thích của lần này nên sau đó tôi sốt rất cao, mấy ngày không thể xuống giường. Ba mẹ cũng phải đi thâu đêm đến thăm tôi, tôi không nói cho họ biết chuyện Nghiêm Thừa. Kỳ thực, biết chuyện này chỉ có Bạch Dực mà thôi.

Bạch Dực vừa phải làm hết việc nhà vừa phải phụ trách chăm sóc tôi. Tôi thực sự cũng rất áy náy, mạng của tôi là do anh ta cứu, nếu lần này không có Bạch Dực đi theo, có lẽ tôi đã chết mà không biết lý do vì sao, sau đó trở thành một con quỷ tài vận rồi.

Tôi những muốn cảm ơn anh ta thật nhiều, nhưng lại không biết mở miệng thế nào, có rất nhiều câu hỏi vần vũ trong đầu tôi, nhưng cũng không biết phải hỏi ra sao, Bạch Dực lại hoàn toàn không có gì khác trước. Vẫn đạm mạc như thế, cũng vẫn thích…chiếm tiện nghi người khác như thế.

Không sai, bao nhiêu đặc sản ba mẹ tôi mang tới anh ta đều “thầu” hết. Tôi bệnh chưa khỏi, anh ta bảo tôi bệnh phải ăn nhẹ, thế là thay tôi ăn sạch cả. Thậm chí không chút khách khí ăn hết toàn bộ bánh sủi cảo thủy tinh, bánh hạch đào mà mẹ đích thân làm cho tôi!

Sau đó tôi cũng hết bệnh, tuy có một khoảng thời gian dài lúc nào cũng nhớ tới Nghiêm Thừa, nhưng con người vẫn cần phải sống tiếp. Tôi vẫn tiếp tục làm một thầy giáo mỹ thuật thực tập, Bạch Dực cũng không bao giờ nhắc tới chuyện này.

Thật lâu thật lâu sau, lâu tới nỗi khi tôi đã hoàn toàn thoát khỏi bóng ma của chuyện Nghiêm Thừa, tôi lại đột nhiên gặp một người phụ nữ. Khi đó tôi đang ngồi trong tiệm thức ăn nhanh, đang lơ đãng thưởng thức thời gian thanh nhàn, vừa lúc ngẩng đầu, tôi chợt nhìn thấy từ chiếc xe hơi sang trọng có rèm che bên kia đường, một phụ nữ sang trọng bước xuống, tóc dài màu nâu nhạt, làn da trắng nõn, thân hình yểu điệu, quả nhiên là Tô Lan! Tôi tuyệt đối không nhận sai cô ta, nhưng vẻ thanh thuần ngây thơ ngày xưa nay đã biến thành vẻ chín chắn thành thục của một phu nhân giàu có.

Phía sau lưng cô ta, tôi mơ hồ nhìn thấy bốn cái bóng, trong đó có một cái giống Nghiêm Thừa như đúc…

Vì tiền bạc mà hi sinh toàn bộ hạnh phúc cả đời của bản thân, giống như một con quỷ háu đói tham lam cắn xé chính cơ thể mình.

Tài vận – End

[1] Ngũ tuyệt: giết năm người

(*) Người biên tập lảm nhảm: Truyện này làm Lục Mịnh nhớ tới truyện “Thần giữ của” (cổ tích Việt Nam, nhưng hình như dựa vào những phong tục có thật). Nhân vật chính trong truyện đó cũng là một gã người Hoa, dùng trinh nữ để làm thần giữ của, bằng cách giam cô gái xấu số đó dưới hầm vàng, chờ cho cô gái chết dần trong đó, sau đó cô ta sẽ trở thành “thần giữ của” cho dòng tộc đó, ai vào trộm vàng bạc sẽ bị “thần giữ của” giết chết. Tài vận= mạng người, quy tắc này hình như khá phổ biến thì phải?

Chương 5: Bà nội

Mưa dầm tiết Thanh minh, người xưa nói không sai, mấy ngày nay trời đều mưa sụt sùi. Ban đêm, giọt mưa đập vào lớp kính cửa sổ, sinh ra những tiếng lách tách không ngừng, khiến cho cả đáy lòng đều cảm thấy phiền muộn.

Đêm đã khuya, tôi nằm trên giường mơ màng nhìn ra ngoài cửa sổ, nhưng mãi vẫn không sao ngủ được. Bạch Dực đã ngủ say, tiếng thở đều đều của anh ta khiến lòng tự nhiên cảm thấy yên tâm đến lạ.

Tôi trở mình thêm một cái, từ từ nhắm mắt lại. Trong đầu giống như có một thước phim đang tua lại liên tục những chuyện đã xảy ra trong quá khứ, cuối cùng, dừng lại ở một hình ảnh từ rất lâu, một câu chuyện của tôi và bà nội…

Khi đó tôi còn rất nhỏ, mà bệnh chung của những đứa trẻ ở tuổi tôi là nghịch ngợm. Tôi từng cùng một đám bạn phá vỡ kính cửa sổ nhà hàng xóm, chọc thủng lốp xe đạp của một ông già, bắt nạt cô bé con nhà bên cạnh…

Mỗi lần gặp rắc rối tôi lúc nào cũng là thằng nhóc ngốc nghếch xông lên trước gây họa, cho nên đương nhiên cũng trở thành đối tượng bị giáo huấn dữ dội nhất của người lớn. Ba tôi căn bản cứ nhìn thấy tôi là nọc ra đánh, mẹ chỉ dám đứng một bên nhìn, tuy thường khuyên ba là tôi ăn chưa no lo chưa tới, nhưng cũng không dám can thiệp; chỉ có bà nội già cả của tôi, bà nội luôn luôn hơi nheo nheo mắt, là hết lòng che chở cho tôi.

Ba tôi cực kỳ nghe lời bà nội, bà là người phụ nữ có địa vị quan trọng nhất trong nhà. Có người bảo bà tôi vốn là một tiểu thư con nhà giàu, từng được đi học, từng được ra đời giao tiếp, nhưng lại phải lòng ông nội ở chỗ chăm chỉ siêng năng, nên cho dù bị gia đình phản đối vẫn nhất quyết lấy ông. Lấy xong thì bắt đầu theo chồng chịu khổ, nhà bà cố cũng không bao giờ đoái hoài tới, có thể coi giống như bị gia đình từ mặt. Chỉ có anh trai của bà nội thương em gái phải chịu khổ, nên từng nói riêng với bà tôi là ngày nào không chịu nổi nữa thì cứ nói thật, ông ấy sẽ không để em gái ruột mình phải ở bên ngoài chịu khổ. Nhưng cho dù ở những thời điểm khó khăn nhất đi nữa, bà nội cùng thà đi vác than còn hơn ngửa tay xin tiền nhà mẹ đẻ mình.

Trong trí nhớ của tôi, bà nội lúc nào cũng là một người bà mái tóc hoa râm cắt ngắn, trông có vẻ khỏe mạnh trẻ trung hơn tuổi. Y phục lúc nào cũng là màu xanh đậm, là ủi phẳng phiu sạch sẽ. Mùa đông, bà lại quàng thêm một cái khăn san dày kiểu xưa.

Bà nội là như thế, bất kỳ lúc nào tôi gây sự, sau đó gặp rắc rối, bà cũng không trách không đánh, chỉ kéo tôi đến nhà người ta cúi đầu xin lỗi. Tôi vẫn luôn nghĩ rằng bà nội là người hiền lành yếu đuối, mãi cho đến khi chuyện đó xảy ra…

Đó là một mùa hè năm tôi 12 tuổi, tôi cùng bà nội về quê của bà thăm gia đình, cũng coi như là đi nghỉ hè. Nhà bà tôi nằm ở một thị trấn nhỏ bé xa xôi gần núi Kỳ Vân, trong trấn rất hiu quạnh, hầu như thanh niên đều bỏ đi hết, chỉ có người già ở lại giữ trấn và làm nông.

Sau thời gian dài cả nửa thế kỉ, ông nội đã qua đời từ lâu, đến bây giờ bà nội mới được trở về thăm nhà mình, trong trấn hầu như không còn ai nhận ra bà nữa. Nhà bà tôi họ Hứa, thời dân quốc là một dòng dõi thư hương nổi tiếng của vùng này, có người nói thời Tuyên Thống trong họ còn có mấy người đậu tiến sĩ. Mặc dù khi tới thời Cách mạng văn hóa, tất cả những truyền thống xưa cũ này đều bị xóa sổ sạch.

Bà nội nắm tay tôi chậm rãi đi một vòng quanh thôn, dùng trí nhớ xa xưa của mình mà tìm nhà họ Hứa. Cuối cùng, tìm được một ông lão năm xưa đã từng làm công trong nhà.

Bà nội cười tươi bước tới chào hỏi ông lão nọ: “Vương nhị ca, còn nhớ tôi không?”

Ông Vương ngẩng đầu lên, híp mắt nhìn hồi lâu, rồi dường như đã nhận ra bà tôi, liền kích động đến gần như nhảy dựng lên, vội vã chào bà tôi rồi dẫn chúng tôi vào nhà ngồi.

Chúng tôi bước vào phòng, trong phòng rất sơ sài đơn giản, đồ đạc vừa ít vừa cũ. Ông Vương rót cho hai bà cháu hai ly nước, tôi cảm thấy ông ta rất tôn kính bà nội, khi nói chuyện với bà đều gọi là “Nhị tiểu thư”.

Ông Vương ngồi ở đầu ghế, đối diện với chúng tôi, hút một điếu thuốc vấn mà bắt đầu câu chuyện: “Nhị tiểu thư, sao bây giờ bà mới về, ai, đã bao nhiêu năm qua rồi nhỉ. Tiểu thư xuất giá không bao lâu thì Hứa lão gia cũng qua đời, đại ca của bà chỉ có một mình không chống đỡ nổi gia nghiệp được bao lâu, cuối cùng cũng bán hết điền sản đi nơi khác lập nghiệp rồi.”

Bà nội thở dài, năm mươi năm là một thời gian dài tới mức nào, cảm giác quá khứ dần dần đóng bụi trong ký ức thế nào, chỉ có người đã kinh qua năm tháng đổi thay mới có thể hiểu được. Vì thế tôi lúc đó không rõ trong tiếng thở dài của bà mang theo bao nhiêu tiếc nuối lẫn bất đắc dĩ.

Khi ấy tôi là một đứa trẻ đặc biệt ham chơi, nên rất hiếu kỳ đối với thôn trấn bé nhỏ này, kỳ thực vừa vào làng thì tôi đã phát hiện một cỗ quan tài màu đỏ rực để ngay ở đầu làng rồi. Hơn nữa tất cả những ngôi nhà trong làng đều treo những dải lụa màu đỏ rực, mỗi lần gió thổi qua, trên từng cánh cửa nhà đều phần phật những dải lụa đỏ tươi như máu.

Tôi ngảng đầu lên nhìn bà nội: “Bà ơi, sao ở cổng làng lại đặt quan tài? Còn nữa, sao nhà nào cũng treo vải đỏ lên cửa thế?”

Bà nội nhìn sang ông Vương, hiển nhiên cũng không hiểu lý do vì sao. Cặp mắt ông Vương trong phút chốc hơi lóe lên, rõ ràng rất sợ phải đề cập đến vấn đề này, sau đó ông ta vội vàng quay đầu lại nhìn phía sau như thể sợ ai đó nghe lén, rồi mới ghé sát mặt vào chúng tôi mà thì thầm: “Ai, cũng không còn cách nào khác, trong thôn dạo này không yên, có dịch bệnh. Hồi trước chết nhiều người lắm, bây giờ có thể bình an vô sự là nhờ một lão đạo sĩ chỉ cách cho chúng tôi đấy. Ông ta nói trong làng chúng ta có Hoàng đại tiên (chồn) quậy phá, cho nên phải làm cho đại tiên một tòa nhà lớn. Đại tiên chỉ ở trong quan tài, cho nên cần phải dùng gỗ hoàng lê thượng đẳng làm quan tài, chặn ngay giữa làng, coi như là ‘phủ trạch’ của đại tiên. Còn nữa, tất cả các nhà đều phải treo vải đỏ tránh tai nạn.”

Bà nội cũng nhìn bốn phía, sau đó quay lại hỏi ông Vương: “Vậy hiện nay trong làng còn ai là người nhà họ Hứa không?”

Ông Vương cúi đầu suy nghĩ một lát, sau đó đột nhiên ngẩng đầu nói: “Nhị tiểu thư, bà còn nhớ bà có một người họ hàng không, hình như vẫn ở đây. Tên là…tên là Hứa Bì Tử thì phải?”

Bà nội gật đầu: “Nhớ kỹ, nhớ kỹ, phụ thân ông ấy làm nghề mộc, năm xưa ổng tuổi còn trẻ mà tay nghề đã rất khéo rồi.”

“Đúng đúng, nghề mộc của ổng trong trấn này là số một số hai đó, tòa nhà của Hoàng đại tiên cũng là ổng đóng.” Ông Vương nói tiếp, “Để tôi đưa tiểu thư đến gặp ổng.”

Ông Vương thập phần khách khí, đóng cửa nhà rồi dẫn chúng tôi đến nơi ở của Biểu đại gia[1].

Biểu đại gia là một ông lão mù một bên mắt, con mắt còn lại rất nhỏ, khi nhìn cái gì cũng hơi híp lại, mi mắt thỉnh thoảng còn giật giật, nhìn lâu vào con mắt đó tự nhiên cũng muốn chớp chớp mắt theo. Vóc người ông ta rất thấp bé, mặt gầy choắt, bên mép lún phún râu trắng toát. Bộ áo cánh ngắn mặc trên người trông như đã bao nhiêu năm không thèm giặt, tóc bù xù như tổ quạ, trên người tỏa ra một mùi hôi vừa ngửi thấy đã choáng váng cả đầu. Nhưng ông ta nhận ra bà nội ngay, vội vã bước tới nắm tay bà: “Nhị nha đầu! Cô trở về rồi đa! Ta còn tưởng cả đời không gặp lại cô nữa chớ!”

Tôi nhìn Biểu đại gia chăm chăm, ông ta cũng nhìn thấy tôi, sau đó cười: “Đây là cháu nội cô đó hả! Nhìn dễ thương ghê, không ngờ cô còn mang cả cháu về nhà!”

Bà nội cũng cười: “Đã vài chục năm rồi mà, già rồi, tự nhiên là lá rụng về cội, tốt xấu gì cũng muốn quay về nhà nhìn một cái.”

Tôi bất thần chú ý đến bên mắt mù của ông già chợt hiện lên một tia sáng xanh lè, lúc đó tôi tưởng là do ánh sáng phản chiếu, nên vô thức nhắm mắt lại rồi lại mở ra. Biểu đại gia nhìn sang tôi, lại cười cười, một thứ mùi kỳ quái tỏa ra từ trong miệng ông ta phả thẳng vào mặt, tôi cau mày lẩn ra sau lưng bà nội. Biểu đại gia thấy tôi có vẻ e ngại mình nên cũng không nói chuyện với tôi nữa, chỉ quay lại cười cười nói với bà: “Nếu đã tới thì ở lại mấy ngày đi hả, ta đi chuẩn bị chỗ ở cho hai bà cháu. Người nhà họ Hứa tuy không còn ai nhưng nhà cửa thì vẫn còn y nguyên.”

Bà nội vội vàng nói: “Vậy thì phiền phức anh quá, tôi chỉ muốn mang Tiểu An tới cho nó thăm nhà ông bà cố…”

Tôi trước đó chưa từng ở miền quê bao giờ, sau đó tôi mới nhận ra là trong thôn chỉ dùng nước giếng, nằm giường còn phải mắc màn, gian nhà cũng rất cổ xưa. Nơi này là nhà chính của nhà họ Hứa, xem ra ngày xưa là một gia đình cực kỳ giàu có, trên khung cửa còn chạm trổ nhiều hoa văn tinh xảo. Nhưng hiện tại đã thành vườn không nhà trống, trong nhà trống huơ trống hoác, cánh cửa gỗ mở ra liền phát ra tiếng kẽo kẹt, hơn nữa do nhiều năm không có ai tới trông coi quét dọn nên phủ một tầng bụi dày, mạng nhện giăng tứ phía, vừa đẩy cửa ra là rơi lả tả xuống đầu.

Tôi nắm tay bà nội, ánh mắt bà ngây dại nhìn quanh nhà, tôi nghe thấy tiếng bà lẩm bẩm: “Năm mươi năm rồi, cha, mẹ, con đã trở về đây…”

Sau đó bà nội buông tay tôi ra, chỉ nói tôi đừng đi lung tung, còn bà thì phải bắt đầu đi dọn dẹp trong nhà, Biểu đại gia và ông lão Vương cũng bắt tay vào hỗ trợ.

Tôi đi loanh quanh trong sân sau, phía sau nhà cứ như một rừng cỏ dại, khắp nơi đều là cỏ cao quá thắt lưng, vì lúc đó đang là mùa hè nên trong vườn rộn rã tiếng ve kêu.

Tôi quệt mồ hôi trên trán, híp híp mắt nhìn quanh, nơi này với tôi mà nói quả thực quá xa lạ, trong lòng tôi tràn ngập hiếu kỳ, hưng phấn đùa bỡn với đám cỏ dại xung quanh, hoàn toàn vứt những lời dặn dò của bà ra sau đầu.

Chơi đùa thỏa thích trong sân cả nửa buổi, cuối cùng tôi mệt đến đứt hơi phải ngồi bệt xuống một tảng đá, dùng tay quạt quạt trên mặt nhưng vẫn thấy nóng muốn chết, đầu còn hơi nhức nhức. Tôi cảm thấy cơ thể đã hơi mất sức, đang chuẩn bị quay vào nhà, thì chợt phát hiện giữa bụi cỏ nhảy ra một con vật màu vàng! Ban đầu tôi tưởng đó là một con mèo, nhưng con vật nọ có cái đầu lớn hơn nhiều.

Nó chằm chằm nhìn tôi, trong mắt dường như mang theo một thứ cảm giác âm lãnh ghê người nào đó, tôi tự nhiên thấy cả người ớn lạnh, cảm giác nóng bức lúc nãy thoáng cái đã bị quét sạch trơn. Tôi kinh hoàng nhảy dựng lên chạy bổ vào nhà, ai ngờ đang chạy lại đụng phải Biểu đại gia.

Tôi lại vội vàng lui về phía sau, cái mùi tỏa ra từ cơ thể Biểu đại gia quả thực quá hôi thối, giống như một miếng da thuộc nứt nẻ bao nhiêu năm không có ai đụng vào vậy. Ông ta nhếch môi cười hỏi: “Tiểu An, nhìn thấy cái gì vậy hả, sao nhìn sợ hãi vậy? Bà nội cháu đang tìm cháu kìa, mau đi theo ta, đi!”

Tôi nhìn thấy bàn tay khô nẻ vàng ệch nọ đang định chạm vào người mình, đột nhiên sinh ra một cảm giác chán ghét mơ hồ, vì thế lại vô thức lùi về phía sau một bước. Nhưng nghĩ tới trong sân còn có con vật kỳ quái kia, nên cũng không dám quay đầu trở lại.

May quá, bà nội ở trong phòng chợt gọi to: “Tiểu An, đừng chơi ngoài sân nữa, vào nhà rửa mặt ăn cơm đi con!” Tôi vội vã lách người qua Biểu đại gia chuồn vào phòng, nhưng chợt nghe thấy một tiếng gầm gừ khe khẽ như của dã thú thoảng qua tai. Tôi quay lại nhìn Biểu đại gia, thấy ông ta cũng đang chằm chằm nhìn tôi, trong mắt lóe lên ánh sáng xanh sẫm ghê người.

Khi ăn, chúng tôi ngồi xung quanh một cái bàn nhỏ giản dị, đồ ăn là do ông Vương mang tới. Để chúng tôi có thể ăn ngon miệng, ông ta còn đặc biệt giết một con gà mái đang đẻ trứng.

Canh gà rất thơm ngon, tôi đã đói gần chết, đồ ăn vừa mang ra đã hăng hái khua muôi. Bà nội ăn rất ít, nhưng đáng ngạc nhiên nhất chính là Biểu đại gia, ông ta ăn hùng hổ như thể chó sói đói vậy.

Chúng tôi đều cực kỳ kinh ngạc, không ngờ một ông già lại có thể ăn nhiều đến thế, gần như cả con gà đều vào bụng ông ta cả, hơn nữa ông ta còn chẳng để lại bao nhiêu xương. Ông ta nhìn thấy chúng tôi đang kinh ngạc nhìn mình, có vẻ có phần xấu hổ, bèn lau lau miệng, nhai nốt miếng thịt trong miệng rồi buông đũa, nhưng con mắt vẫn tham lam nhìn vào miếng thịt gà trong chén tôi.

Bà nội xấu hổ cười cười: “Anh đã già như vậy mà còn thích ăn thịt gà nhỉ. Đừng khách khí, dù sao chúng tôi cũng ăn không được bao nhiêu, hôm nay cảm ơn anh và ông Vương đã giúp đỡ, nếu không chỉ có một mình tôi thật không biết phải làm sao mới xong việc nổi.”

Biểu đại gia nói: “Không sao không sao. Ta ăn no rồi, còn chuyện gì cần ta giúp không?”

Ông Vương cũng nói: “Đúng đó, Nhị tiểu thư, bà còn cần gì nữa không thì cứ nói nhé. Bà xem gian nhà này cũ quá rồi, bằng không thì mời bà và cậu đến nhà tôi ở tạm đi, bà nhà tôi có thể soạn cho bà và cậu một gian phòng riêng được mà.”

“Không cần, tôi muốn ở lại nhà mình thôi. Đã 50 năm tôi mới quay về một lần, mà có thể đây là lần cuối cùng tôi còn về thăm lại nơi này cũng không chừng.”

Tối hôm đó, bà nội mắc màn giường, rồi dùng nhang muỗi hun trong giường một chút cho hết muỗi. Trong trấn thực ra có điện, nhưng căn nhà cũ đã nhiều năm không có ai này hiển nhiên cũng không có điện. Lo ban đêm trong nhà heo hút tối tăm, ông Vương đã đưa cho bà một ngọn đèn dầu kiểu cũ, bà nội cũng lấy trong hành lý ra một cái đèn pin.

Dưới ánh đèn tù mù, bà nội ngồi trên ghế, trong tay cầm quạt hương bồ quạt quạt một chút cho đỡ oi bức. Vì nóng quá nên bà không đóng cửa ngoài, từ trong phòng có thể nhìn thấy sân nhà đen kịt bên ngoài, từ góc nhà, một làn khói xám mỏng mảnh vươn lên từ khoanh nhanh muỗi vẽ những vòng tròn khói nhàn nhạt vào không trung.

Tôi nằm úp sấp trên giường, vì quá nóng mà không ngừng lật qua lật lại trên giường không sao ngủ nổi. Đúng lúc đó, chợt có một thứ gì đó nhanh như chớp lẩn vào nhà, cây quạt của bà cũng “cạch” một tiếng rớt xuống đất, tôi từ trong màn ngồi dậy thò đầu ra khỏi màn, ngơ ngác hỏi: “Bà ơi, cái gì vậy?”

Bà nội nhanh chóng cầm lấy đèn pin chiếu vào góc nhà nơi nó vừa chạy vào, thấy rõ ràng một cái bóng màu vàng chui xuống dưới rương.

Bà nội liền nhẹ nhàng cầm lấy cây gậy gỗ dựng trong góc nhà rồi chậm rãi tiến về phía cái góc đó, tuy tôi không biết là con gì, nhưng nghe rất rõ tiếng nó sột soạt di chuyển trong bóng đêm. Giữa bóng tối, một cặp mắt phát ra ánh sáng xanh lè nhá lên, nhìn theo động tĩnh của chúng tôi chằm chằm.

Đột nhiên thứ nọ nhảy dựng lên, vòng qua người bà, hướng về cái giường của tôi mà xông tới. Bà nội không kịp phản ứng thì thứ vàng vàng nọ đã chui tọt vào trong màn.

Tôi vô thức cuộn tròn mình lại lui vào góc giường, sợ hãi gọi bà ơi liên tục. Bà nội lập tức chạy tới, nhưng thứ kia rõ ràng nhanh hơn nhiều, bà chưa kịp tới nó đã hung hăng cắn một cái thật mạnh vào mắt cá chân tôi rồi. Trong nháy mắt, mắt tôi chạm phải mắt nó, nhìn thấy đôi mắt cực kỳ âm hàn mà lạnh lẽo nọ, bèn nhớ tới con thú quái dị đã nhìn thấy trong sân nhà lúc chiều.

Bà nội vừa xốc màn lên đã thấy cổ chân tôi toàn là máu, bà hét to lên, dùng gậy đuổi đánh con thú nọ, nhưng nó nhanh cực kỳ, thoắt cái đã lẻn qua người bà mà chạy thoát ra ngoài, trốn vào bóng đêm mênh mông bên ngoài vườn.

Bà nội lập tức xông tới kiểm tra vết thương cho tôi, tôi chỉ cảm thấy chân mình rất đau lại rất nóng, như thể đang bị hỏa thiêu vậy, trong đầu vẫn còn ám ảnh đôi mắt ghê tởm lạnh lẽo kia.

Bà nội có vẻ rất lo lắng, đưa tay kiểm tra trán tôi, tóc tôi đã bị mồ hôi lạnh làm cho ướt đầm. Tôi đột nhiên thấy cổ họng khô nóng, cực kỳ khát nước, vì thế khàn khàn nói với bà: “Bà, con muốn uống nước.”

Bà run run vỗ vỗ lưng tôi: “Tiểu An, con khó chịu ở đâu?”

Tôi đáp: “Con…khát quá…chân…đau quá…” Kỳ thực lúc đó mắt cá chân tôi đã sưng vù lên.

Bà nội lập tức rót cho tôi một ly trà, tôi gần như bị sặc, lại bật ho khan. Bà nội vỗ vỗ lưng tôi, lẩm bẩm trong miệng: “Nguy rồi, bị chồn cắn phải rồi, phải làm thế nào bây giờ…?!”

Qua không bao lâu sau, bà băng qua loa cổ chân cho tôi, phủ thêm y phục rồi cõng tôi trên lưng, chạy sang nhà ông Vương.

Lúc đó đã quá nửa đêm, khí trời oi bức cực kỳ, giữa cánh đồng mênh mông sẫm đen còn mơ hồ nhìn thấy những ánh ma trơi lập lòa xanh biếc. Tới buổi tối là trong thôn đã vắng bóng người qua lại, chỉ có những con chó bị cột trong sân nhà lên tiếng sủa bâng quơ.

Bà nội cố chịu đựng mệt mỏi, nhưng trên lưng áo đã ướt đầm mồ hôi. Trên đường chạy đã mấy lần chúng tôi té ngã, nhưng bà đều ra sức bảo vệ cho tôi không bị thương. Nhưng lúc này lý trí của tôi đã gần như không còn bao nhiêu, tôi mơ hồ nghe tiếng bà đang gọi to tên mình, giọng của bà khàn đặc thảm thiết như đang khóc, nhưng tôi chỉ cảm thấy cơ thể mình cứ dần dần lạnh đi theo từng tiếng gọi của bà, ngược lại, miệng vết thương thì càng lúc càng nóng rực lên.

Rốt cuộc bà cũng chạy tới được nhà ông Vương, bà khẩn thiết gõ cửa, ông Vương liền ra mở cửa. Ông ta nhìn thấy bà, rồi nhìn thấy tôi, rồi mắt ông ta bất thần trở nên kinh hoảng, lập tức sập cửa lại nhốt tôi và bà nội bên ngoài.

Bà nội kích động vô cùng, đập cửa kêu gào không ngừng, van xin ông ta giúp chúng tôi.

Nhưng trong cửa chỉ truyền ra thanh âm run rẩy của ông Vương: “Nhị tiểu thư, bà mau mang cậu đi…đi mau…cậu bị Hoàng đại tiên chọn phải rồi…không…không cứu nổi nữa đâu…chẳng bao lâu nữa cậu ấy sẽ bị Hoàng đại tiên đưa đi làm thế thân rồi. Bà mau đưa cậu ấy đi, đừng hại cả nhà chúng tôi a…”

Bà nội không gõ cửa nữa, bà té sụp xuống đất, nhưng vẫn không ngừng gọi tên tôi, không ngừng nghỉ lấy một giây. Tôi yếu tới mức không mở miệng nổi, tôi biết bà đang gọi tôi, nhưng một thanh âm khác cũng đang vang lên trong đầu tôi, thanh âm kinh khủng đó gọi tên tôi, càng lúc càng thê lương âm u hơn.

Bà nội quay lại nhìn tôi, phát hiện sắc mặt tôi đã đổi thành màu xám ngoét, trên mặt bắt đầu mọc lên một lớp lông mỏng màu vàng, liền hãi hùng tìm cách nhổ sạch đám lông đi, nhưng vừa nhổ xuống thì lông vàng lại mọc ra gần như tức khắc.

Bà nội lại đứng lên, lảo đảo đi gọi cửa những nhà xung quanh, nhưng mọi người vừa nhìn thấy tôi thì cứ y như nhìn thấy quỷ, đều nhanh như chớp khóa chặt cửa lại. Mặc kệ bà gọi cửa van nài thế nào, bọn họ cũng nhất quyết không mở cửa ra, toàn bộ thôn trấn chìm vào im lìm như một thôn chết.

Cuối cùng bà nội cũng không cõng nổi tôi nữa, bà cắn răng, trong mắt tràn ngập kinh hãi lẫn không cam lòng. Nhưng rồi đột nhiên như vừa nghĩ ra cái gì, bà lại giãy dụa muốn ôm lấy tôi, nhưng thực sự không còn đủ sức nữa. May mà cuối cùng bà tìm được một cái sọt cũ, may mà khi ấy vóc dáng tôi còn khá nhỏ bé, bà bỏ tôi vào cái sọt rồi dùng một sợi dây cột cái sọt vào bên lưng, ra sức tha tôi tới nhà của Biểu đại gia.

Nhà của Biểu đại gia chính là mái nhà tranh nằm ngay bên cạnh con đường cái quan nơi đặt cái quan tài. Xung quanh không có ai dám ở, chỉ có một mình ông ta, bà dùng hết sức kéo tôi đi, trên tay để lại một đường rách toác rướm máu. Nhưng bà chỉ cắn răng, dù thở hổn hển khó nhọc đến mấy, bà vẫn không ngừng, không ngừng gọi tên tôi.

Tôi cảm giác cổ chân mình lúc này đã bắt đầu tỏa ra một mùi rất kinh khủng, vết thương đã hóa thành màu đen bầm, từ dưới băng gạc rỉ ra một thứ nước đặc quánh màu vàng. Tôi cố nhướn mắt nhìn xung quanh, phát hiện có vô vàn những đôi mắt màu xanh đậm đang chằm chằm nhìn theo chúng tôi, như thể chỉ muốn thừa dịp lôi tôi đi. Tôi sợ muốn khóc, nhưng phát hiện ngay cả tiếng khóc của mình cũng đã biến thành một thứ thanh âm giống như tiếng thú kêu.

Bà lôi tôi đi thật lâu thật lâu, cuối cùng gần như ngã sấp vào cánh cửa nhà Biểu đại gia, dùng vai đập vào ván cửa. Bà dùng hết sức tàn gọi to: “Xin ngài cứu cháu tôi, xin ngài mở cửa ra với. Tôi xin ngài!!!”

Tôi càng khát hơn bao giờ hết, chân trái đã hoàn toàn tê dại đi không còn cảm giác, ý thức từng chút từng chút một tan rã, nhưng vẫn cảm thấy giữa bóng tối xung quanh hàng trăm con mắt nhìn tôi chằm chằm, chúng phát ra những tiếng hú hét ghê người.

Cửa cuối cùng cũng mở ra, Biểu đại gia nhìn chúng tôi hồi lâu, cuối cùng nói: “Vào đi rồi tính.”

Ông ta giúp bà nội đỡ tôi vào nhà, tôi phát hiện mùi hôi trên người ông ta giống hệt như mùi hôi phát ra trên chân mình. Bà nội run rẩy ôm cánh tay tôi, nhưng tôi không cảm thấy hơi ấm gì, chỉ cảm thấy cả người lạnh run.

Biểu đại gia nhìn ta một chút, rồi thở dài: “Cháu ngươi sợ là không sống nổi tới sáng mai đâu, Nhị nha đầu, chuẩn bị hậu sự cho nó đi.”

Bà nội nước mắt giàn giụa nói: “Không đâu, nhất định còn có cách mà, Biểu đại gia, cầu ngài cứu nó đi, nó là cháu tôi a!”

Nói xong bà lập tức quỳ xuống, liên tục dập đầu trước mặt ông ta. Tôi vẫn cảm thấy những thứ kia chờn vờn quanh nhà muốn bắt tôi đi, nhưng không dám vào phòng. Dường như chúng sợ nơi này.

Biểu đại gia cau mày, vẻ mặt âm trầm, rồi mới mở miệng đáp: “Kỳ thực đây chính là do lỗi của người nhà họ Hứa các người, ngươi nếu đã đi, còn quay về làm gì?”

Bà nội không đáp lời, chỉ ôm chặt tôi một mực lắc đầu. Trong phòng rất tối, gương mặt Biểu đại gia càng có vẻ quỷ dị hơn: “Nhị nha đầu, ngươi cũng biết nhà họ Hứa các ngươi được Đại tiên phù hộ cho nên mới phát đạt được như vậy, nhưng món nợ này cần phải trả. Đại tiên đã muốn thằng bé này đi làm thế thân thì để cho ngài ấy đi.”

Bà nội ngẩng đầu lên run rẩy nói: “Nó là cháu nội của tôi, tôi không cho phép bất kỳ ai làm hại nó được!!!”

Biểu đại gia nhìn chúng tôi thật lâu, rồi mới chậm rãi nói: “Người nhà họ Hứa có cách của người nhà họ Hứa, nếu đã như vậy thì ngươi cứ dựa vào biện pháp cũ, dùng một con mắt của nó mà đổi lấy mạng cho nó vậy.”

Bà nội càng run lên, nhìn Biểu đại gia rồi lại nhìn tôi, cuối cùng nói: “Tiểu An còn quá nhỏ, dùng mắt của tôi đi, tôi dùng mắt mình cứu mạng cho Tiểu An.”

Con mắt duy nhất đục ngầu của Biểu đại gia đảo qua đảo lại, ông ta cười lạnh: “Hắc hắc, đôi mắt của người nhà họ Hứa là cặp mắt Âm Dương, có thể thấy những thứ người thường không sao thấy được, mà ngươi thà từ bỏ nó cũng muốn cứu mạng cháu mình sao? Được, ngươi tự sang nói với Đại tiên đi!” Ông ta chỉ vào cỗ quan tài màu đỏ đặt giữa đường, cả người bà tôi liền run lên, tôi cảm thấy bà đang ôm lấy tôi chặt hơn, như thể sợ rằng chỉ cần buông lỏng tay thì tôi sẽ lập tức bị bóng đêm nuốt mất vậy.

Biểu đại gia vẫn nhe răng cười, lộ ra hàm răng vừa nhọn hoắt vừa vàng như sáp nến mà nói: “Ngươi vừa muốn giữ mạng cho cháu mình, vừa muốn giữ mắt cho nó, vậy ngươi mang đôi mắt mình ra mà trả lại cho bọn họ đi. Ha ha ha, người nhà họ Hứa cuối cùng đều thành thế này!!!”

Bao tử tôi chợt quặn lên, tôi cong người nôn mửa ra một đám gì đó cực kỳ hôi thối khó chịu. Tôi ngẩng đầu lên mờ mịt nhìn bà nội, bà nhìn tôi đầy bi thương, muốn nói với tôi gì đó, nhưng tôi đã không nghe thấy gì nữa. Trước mặt tôi dần dần bị bóng đêm phủ kín, không thấy bà nội, cũng không thấy Biểu đại gia nữa. Không thấy bất kỳ thứ gì nữa, chỉ có một đôi mắt màu xanh đậm nhìn tôi từ xa, trong mắt tràn đầy lạnh lẽo.

Khi tôi lần thứ hai mở mắt ra, đã thấy mình nằm trong bệnh viện trên thị trấn, ba mẹ đều ngồi bên cạnh, nhưng không thấy bà nội đâu. Tôi yếu ớt hỏi bà nội, ba tôi vội trấn an: “Bà nội nằm ở phòng khác, con bị động vật gì đó cắn, có khả năng bị nhiễm trùng, cần phải theo dõi vài ngày. Đừng sợ, ba mẹ đều ở đây.”

Tôi lại nhắm mắt lại, lần này không còn đôi mắt xanh lè đáng sợ kia nữa, mà là một giấc ngủ yên lành.

Sau đó chúng tôi trở về thành phố. Sau chuyện này, thị lực của bà nội càng lúc càng kém đi, cuối cùng hoàn toàn không còn nhìn thấy gì nữa. Bà vẫn hiền lành như trước đây, nhưng tôi biết đôi mắt của bà mãi mãi không thể trở về nữa. Tôi cũng không bao giờ gặp lại Biểu đại gia nữa. Chỉ có một lần khi nói chuyện phiếm với ba, ba mới nói cho tôi biết, kỳ thực nhà bà nội có tập tục cung phụng chồn tinh, mà người nhà họ Hứa có thói quen gọi chồn tinh là “Biểu đại gia”…

.

Mưa vẫn tí tách rơi cả đêm, trong ký túc xá chợt vang lên tiếng điện thoại, sắc trời bên ngoài không biết tự lúc nào đã sáng rõ. Tôi lập tức trở dậy tiếp điện thoại, hóa ra là bà nội, đầu dây bên kia truyền tới giọng nói hiền lành quen thuộc: “Tiểu An à, là bà đây, yên tâm đi, bác sĩ nói khối u của bà là lành tính con à, đã chuẩn bị phẫu thuật cắt bỏ rồi.”

Gánh nặng trong lòng tôi lập tức được dỡ xuống, kích động đến mức run lên, vội vàng nói: “Bà nội không sao là tốt rồi, không sao là tốt rồi.”

Bạch Dực cũng không biết đã tỉnh dậy từ lúc nào, khoác lên vai tôi một cái áo khoác ấm áp. Tôi lập tức cảm thấy cả người ấm hẳn lên, tựa như khi còn bé nằm trong lòng bà nội.

Bà nội – End

[1] “Biểu” tức là họ hàng (bên ngoại), “đại gia” là cách gọi những người đàn ông có tuổi trong nhà. Như vậy “Biểu đại gia” giống giống như “ông họ” (là anh em của ông/bà mình) nhưng trong này để nguyên mà không dịch.

Chương 6: Tóc (Thượng)

“Mái tóc của con người đại biểu cho rất nhiều hàm nghĩa, ở thời cổ đại, tóc đại biểu cho phần tinh túy, hồn phách của một người. Đối với một người phụ nữ, tóc chính là một phần quan trọng cho vẻ đẹp của họ. Vệ Tử Phu thời Hán nhờ có mái tóc dài diễm lệ đã hấp dẫn được Hán Vũ Đế Lưu Triệt. Có nhiều dân tộc đem tóc của cô dâu và chú rể tết lại với nhau, biểu thị cho việc họ sẽ vĩnh viễn trở nên một. Vào thời cổ, nam nữ kết hôn còn được gọi là ‘se tơ kết tóc’…”

Tôi buồn chán mở thêm một trang web mới, mắt liếc qua một chút nội dung bài giới thiệu về tóc, lại vô thức sờ sờ đầu mình. Tóc thực sự quan trọng đến thế sao? Xì ~ đúng là tư tưởng kỳ quái nào cũng có.

Nói đến tóc lại nhớ tới lão Phan hói, trên đầu lão ta đã chẳng còn bao nhiêu tóc nữa, chẳng lẽ tóc mà rụng hết thì con người ta cũng chết sao? Vậy đám hòa thượng ngoài đường chẳng phải đều đã sớm sang Tây Thiên gặp mặt BOSS của mình rồi sao?

“Tầm xàm!” Tôi nhìn lướt qua trang nọ rồi lại tắt đi, những trang học thuật hiện nay chỉ biết dùng những tiêu đề bắt mắt hấp dẫn người đọc, còn thì nội dung chẳng khác nào tiểu thuyết chương hồi.

Tôi dụi dụi mắt ngẩng đầu nhìn đồng hồ treo tường, đã hơn 10 giờ mà Bạch Dực vẫn chưa về, anh ta rất ít khi nào về khuya thế này.

“Ngủ thôi ngủ thôi.” Tôi lẩm bẩm, đứng dậy, chuẩn bị lấy áo ngủ vào nhà tắm. Nhưng vừa vô tình liếc qua khung cửa sổ đã nhìn thấy, hắc ~ Bạch Dực đang đứng cùng một cô bé dưới lầu.

Bạch Dực vốn được nhiều cô giáo trong trường thích, ngay cả đám nữ sinh nhìn thấy anh ta cũng thường đỏ mặt, không giống tôi, lớn thế này rồi mà tay con gái cũng chưa từng nắm, nói ra chắc người ta không ai tin.

Tôi thở dài lắc đầu, sau đó nhanh chóng ẩn sau rèm cửa nhìn lén xuống dưới. Kỳ thực cũng tự biết mình làm thế này là rất ấu trĩ, nhưng chỉ cần nghĩ sau này có thể đem chuyện này ra chọc Bạch Dực là lại chăm chú đóng vai điệp viên 007 chú ý tới từng cử động của hai người dưới lầu.

Trong sân trường không có đèn cao áp, hôm nay lại là đầu tháng, vầng trăng mỏng như lá lúa treo giữa trời, ánh sáng ảm đạm tới mức không trông rõ gương mặt của cô gái dưới lầu trông thế nào, chỉ biết cô ta mặc một chiếc áo đầm màu trắng, tóc ngắn, thoạt nhìn cực kỳ gọn gàng nhã nhặn. Thế nhưng…không hiểu vì sao nhìn cô ta có cái gì không được bình thường…

Đang nghĩ xem cô ta có cái gì không bình thường, thì cô nàng không ngờ đột ngột nắm lấy tay Bạch Dực, lắc đầu liên tục. Bạch Dực vỗ vỗ lưng cô ta như thể đang trấn an.

Lúc này tôi mới chú ý tới, cô bé có mái tóc ngắn, nhưng cô ta thường xuyên dùng tay hất tóc ra phía sau như cách các người mẫu quảng cáo dầu gội đầu hay làm. Hơn nữa cô ta còn thường xuyên đưa tay vuốt vuốt đuôi tóc, rõ ràng có mái tóc ngắn mà cử chỉ lại giống hệt như mình có một mái tóc rất dài. Lẽ nào trước đây cô ta để tóc dài, bây giờ mới cắt nên còn chưa quen?

Thất thần chỉ chóc lát, khi nhìn lại thì hai người nọ đã không còn ở chỗ cũ nữa. Tôi ló đầu ra nhìn xem bọn họ có chuyển sang chỗ khác không. Nhưng chỉ nhìn thấy một mình cô bé đứng cách đó không xa, trông có vẻ sợ hãi kỳ lạ, vừa đi vừa ngoái đầu lại nhìn, cuối cùng lại nhìn quanh một chút rồi vội vàng chạy đi như bị ma đuổi.

“Thực sự là kỳ quái…” Tôi nhìn theo cô bé đang bỏ chạy mà thì thầm.

Nhưng bất thần nghe thấy tiếng Bạch Dực từ phía sau hỏi tới: “Nhoài người ra cửa sổ làm cái gì vậy?”

Tôi quay đầu lại, trong lòng thầm nghĩ: đồ khờ, sao không nói chuyện lâu lâu một chút cho người ta xem trò vui với. Suy nghĩ một chút tôi liền lộ ra một nụ cười âm hiểm, hai tay chắp sau lưng tà tà tiến tới gần anh ta,làm ra vẻ “tôi biết hết rồi nha”.

Bạch Dực vừa về đến nhà, trông nét mặt rõ ràng là mệt mỏi gần chết nên nhắm hờ mắt ngồi trên ghế, đầu ngả vào thành ghế nghỉ ngơi. Nhưng mi mắt không ngừng động, không giống như đang nhắm mắt dưỡng thần mà giống như đang suy nghĩ về vấn đề gì đó.

Tôi ngồi xuống đối diện với anh ta, đang muốn hỏi anh ta và cô bé kia có quan hệ gì, chợt Bạch Dực mở mắt ra nhìn tôi: “Cậu nghĩ gì về tóc?”

Trong lòng tôi nói thầm, sao lại tóc nữa, lẽ nào ngày hôm nay là mùng hai tháng hai Long Sĩ Đầu[1]? Sao lại gặp toàn vấn đề về tóc thế này? Vì vậy tôi bèn trả lời: “Tóc chỉ là tóc thôi mà.” Dừng một chút lại tiếp lời: “Đừng đánh trống lảng, tôi phải hỏi anh với cô bé dưới lầu có quan hệ gì thế? Trễ thế này còn đứng dưới lầu diễn kịch Quỳnh Dao, ngọt ê cả răng ấy!”

Bạch Dực dùng một tay nâng cằm, tay kia nhanh như cắt nhổ một sợi tóc trên đầu tôi xuống, tôi đau quá kêu to lên: “Làm gì vậy! Sao tự nhiên nhổ tóc người ta!”

Bạch Dực săm soi sợi tóc của tôi trong tay, lại lấy từ trong túi ra một sợi tóc rất dài. Sợi tóc mềm mại đen bóng, vừa nhìn đã biết chủ nhân của nó chắc chắn có một mái tóc dài đẹp tuyệt trần. Bạch Dực để cả hai sợi tóc lại gần nhau, trong nháy mắt, sợi tóc dài dường như có hơi động đậy, tuy khó nhận ra bằng mắt, nhưng rõ ràng là nó nhúc nhích tới gần rồi quấn lấy sợi tóc của tôi. Tôi ngẩng lên nhìn Bạch Dực, thấy anh ta không có vẻ ngạc nhiên lắm, chỉ có đôi chân mày là nhíu chặt vào với nhau.

Tôi hỏi: “Sợi tóc này làm sao vậy, anh lấy đâu ra nó thế?”

Bạch Dực vẫn dùng tay đỡ cằm, suy nghĩ một lát rồi hỏi: “Ngày mai là cuối tuần, có hứng thú ra ngoài không?”

Tôi có hơi bực mình, tiểu tử này mới tối nay còn hẹn với con gái nhà người ta, ngày mai đã muốn nắm tay đại gia đây đi dung dăng dung dẻ ngoài đường?! Sao mà quởn quá vậy trời!

Kỳ thực tôi ghét nhất ở Bạch Dực chính là cái tính hỏi một đằng trả lời một nẻo này, cực kỳ khó chịu, anh ta làm tôi có cảm giác anh ta chẳng quan tâm gì tới người hỏi là tôi cả!

Tôi đứng dậy cầm y phục vào phòng tắm, chuẩn bị tắm rửa xong sẽ lên giường ngủ, không thèm trả lời anh ta nữa.

Tôi vào phòng tắm, trong lòng vẫn cảm thấy bực bội, vừa tắm vừa lầm bầm mắng. Nhưng vừa ngẩng đầu lên, tự nhiên nhìn thấy một cái bóng đen lướt qua trong gương? Tôi vội vàng quay đầu lại, nhưng phía sau trống không, cũng không có gì bất thường. Chỉ có trong đầu không ngừng hiện ra những cảnh tượng kinh khủng của những chuyện trước đây.

“Chết tiệt! Từ lúc nào mà mình lại nhát gan đến vậy chứ! Đào đâu ra nhiều chuyện ma tới vậy được!” Thầm mắng mình một câu, tôi lắc lắc đầu như muốn lắc rớt khỏi đầu những suy nghĩ kỳ quái, quay lại tiếp tục tắm gội.

Nước chậm rãi chảy qua da, tôi lấy tay vò vò tóc, nhưng dần dần tôi tự nhiên cảm thấy mùi của nước càng lúc càng kỳ lạ, hình như có hơi…có mùi, hơn nữa trên lưng tự nhiên cảm thấy ngứa ngáy, như thể có cái gì đó xù xù đang cọ vào… cai gì đó xù xù?!

Tôi mở choàng mắt, không quan tâm trên đầu còn xà bông hay không mà đưa tay nhanh chóng chộp ra phía sau lưng, không ngờ lại nắm phải một đống tóc! Nhận ra tình huống lúc này của mình quỷ dị tới mức nào, tôi vội vàng dùng khăn lau qua loa bọt xà bông trên mặt, cuống quít nhìn lại, má ơi, ở chỗ cống thoát nước nhìn thấy rõ ràng một đống tóc đang mắc lại ở đó, theo dòng nước mà đong đưa.

Trong lòng tôi run lên vì ghê sợ, lại sờ sờ ra sau lưng, thấy tóc tôi đã ngắn lại bình thường, nhưng trên tay vẫn là một nùi tóc đen thùi, tỏa mùi kinh khủng.

Vừa suy nghĩ chốc lát, tôi đã hiểu xem ra sợi tóc quái dị lúc nãy cùng với câu hỏi của Bạch Dực nhất định là nguyên nhân. Vì thế lập tức tẩy rửa qua quít, vội vã mặc quần áo tông cửa xông ra ngoài, nhất định lần này phải hỏi anh ta xem có chuyện gì! Chuyện là do anh ta mang tới, hà cớ gì tôi lại là người phải gánh chịu?!

Bạch Dực đang dùng máy vi tính, hai bàn tay liên tục di động trên bàn phím. Tôi đóng cửa phòng tắm một cái “sầm” nặng nề, lao tới trước mặt anh ta, ném đống tóc lên bàn mà kích động hỏi: “Cái quái gì đây, ghê muốn chết!”

Bạch Dực quay đầu sang, đẩy đẩy gọng kính trên sống mũi nhìn tôi một lát rồi nhướn nhướn mày đáp: “Đây là tóc, là thứ đang ám cô gái ban tối đấy. Cậu…ngày mai cậu đi với tôi là hiểu, cũng nhân tiện giúp tôi một tay.”

Tôi phủi phủi tay, chán ghét nhìn đống tóc: “Không đi, nhìn ghê chết đi được! Anh phải nghĩ cách giải quyết gọn nó đi cho tôi, bằng không đừng trách tôi đây không khách khí!”

Khóe môi Bạch Dực hơi xiết lại, sau đó chậm rãi nói: “Cũng được… cậu còn nợ tôi hai trăm đồng đấy nhỉ. Trả mau!”

Tôi nghẹn họng, giờ mới nhớ ra trước đây lúc túng quá có mượn anh ta hai trăm đồng, tôi quên mất nên tưởng anh ta cũng đã quên…

“Hai trăm…thì để tính sau! Tóm lại tôi sẽ không quịt đâu mà lo! Muốn tôi đi cũng được, nhưng phải nói rõ cho tôi nó là thứ gì chứ! Anh không biết lúc nãy tôi gặp phải cảnh tượng khủng khiếp tới mức nào đâu, đám tóc này thực sự quá dễ sợ!” Nói đến tiền là người tôi lại nhũn xuống, thiếu tiền người ta quả thực không có quyền trước mặt người ta làm vương làm tướng mà!

Tôi nhụt chí ngồi phịch xuống ghế, tóc vẫn còn nhỏ nước tong tong, tôi phiền não lắc lắc đầu. Khăn tắm còn ở trong phòng tắm, vốn nên vào đó lấy, nhưng lại nhớ tới đám tóc còn mắc trong đó…quên đi.

Bạch Dực đem cả mớ tóc tôi mới mang ra ném lại vào chỗ tóc trong phòng tắm, cầm bật lửa châm vào tóc, một ngọn lửa cao ngút bừng lên, đám tóc nhanh chóng cháy thành một đống tro tàn. Lửa dần dần tàn, thay vào đó là một đám khói bốc cao, màu khói xanh đến quái dị.

Trong phòng tràn ngập một mùi hôi thối từa tựa như mùi xác chết, tôi vừa bịt mũi vừa nhăn mặt hỏi: “Lão Bạch, đừng quanh co nữa, rốt cuộc có chuyện gì vậy? Thứ này là do anh mang vào nhà, anh ở ngoài làm trò gì tôi không quan tâm, nhưng đừng mang những thứ này vào nhà chúng ta a!”

Bạch Dực đứng lên, mở tung cửa sổ để tản hết mùi hôi, sau đó quay lại nói với tôi: “Có thể nói cho cậu biết cũng được, nhưng có thể cậu sẽ không hiểu nổi, còn nữa, mau mặc thêm áo vào, không sợ đông lạnh chết à!”

Áo ngủ trên người đúng là rất phong phanh, gió lạnh vừa thổi qua tôi đã run cầm cập. Tôi ôm cánh tay, đem cái chăn dày quấn một vòng kín người, dù sao thì cũng sắp đi ngủ rồi.

Bạch Dực ngồi lại vào chỗ cũ, tựa vào lưng ghế mà trầm mặc như thể đang suy tính xem nên nói từ đâu. Tôi bọc người trong chăn nghiêm chỉnh ngồi trên giường, chờ anh ta mở miệng.

“Cô gái mà lúc nãy cậu nhìn thấy tên là Chu Linh, là một học viên của Học viện hí kịch, chủ yếu là học xướng thanh y[2]. Đối với một diễn viên hí kịch mà nói, ngoại trừ khả năng và bản lĩnh nghệ thuật cá nhân thì một bộ trang phục và đạo cụ thật đẹp cũng cực kỳ quan trọng.”

Dừng lại hồi lâu Bạch Dực lại tiếp lời: “Chu Linh nhận được một bộ trang phục cực kỳ sang quý, mà nổi bật nhất là một bộ tóc giả, sợi tóc nọ là rút ra từ bộ tóc giả ấy.”

Tôi nhìn lại sợi tóc, phát hiện nó đã quấn chặt lấy sợi tóc của tôi tự lúc nào, hai sợi tóc nhìn như hòa thành một. Tôi cau mày, chờ Bạch Dực nói cho hết.

“Chu Linh có giọng hát tốt, là nhân tài mới của Học viện, những vai thanh y mà cô ta xướng còn được cả những diễn viên kỳ cựu công nhận. Nhưng cô ta chỉ là một người mới, không có khả năng tự mua được một bộ phục trang quý giá đến như thế. Việc nhận được bộ phục trang này ban đầu được cho là vận may, nhưng chuyện lạ cũng theo đó mà đến…”

“…Giống như những gì tôi đụng phải, đúng không?” Tôi hỏi.

“Ừm… không giống nhau lắm, cũng có thể là tùy người, về vấn đề cụ thể thì để ngày mai chúng ta trực tiếp hỏi Chu Linh vậy.”

Chương 7: Tóc (Hạ)

Đêm đó tôi mơ một giấc mộng, từng bóng từng bóng người một lướt qua trước mặt tôi, kỳ quái, không biết biểu thị cho cái gì. Thế nhưng có một cảnh cứ lập đi lập lại, đó là một sân khấu Kinh kịch, dưới đài đen kịt một mảnh, không khí xung quanh lạnh như băng, lạnh tới nỗi có thể thở ra khói. Dưới đài sân khấu đen kịt nhấp nhô người, từng đám người lắc lư thì thầm to nhỏ với nhau. Tôi đứng bên cánh gà nhìn ra tấm màn che sân khấu trắng toát, trông như màn tang treo trong một buổi lễ truy điệu.

Trên sân khấu chỉ có một chút ánh sáng, tôi nhìn chằm chằm vào cô gái nọ ở trên sân khấu, mái tóc dài buộc cao sau đầu trông như một con rắn đen to lớn quằn quại xung quanh cơ thể cô ta.

Một cánh tay trắng bệch ướt nước mơn trớn trên mặt tôi, bên tai vang lên một giọng hát mơ hồ, ai oán sầu bi. Trong giấc mơ quái lạ này, tôi đã lăn lộn tròn một đêm.

Cả đêm không ngủ ngon, khi tỉnh dậy tôi vẫn cảm thấy đôi mắt mình cay xè nhức buốt, vừa phiền não cào cào tóc, lại phát hiện ra vài sợi tóc dài thượt rơi xuống từ đầu mình, lưng tôi lập tức lạnh đi, chợt nhớ tới chuyện đêm qua.

Tôi giật mình một cái, nhảy dựng lên khỏi giường, phát hiện Bạch Dực đang ngồi trên ghế vừa ăn sáng vừa xem báo. Nhìn dáng vẻ nhàn nhã của anh ta, tôi nghĩ chắc không có chuyện gì to tát vừa xảy ra, vì thế chỉ lầm bầm một hai câu rồi lại chui vào phòng tắm.

Tuy hôm qua sợ tới mức không dám bước chân lại vào đó nữa, nhưng con người lại không thể không vào WC a! Tôi thở dài, bước vào.

Có thể là do ác mộng cả đêm nên tinh thần tôi vẫn còn hơi mơ hồ, cầm lấy ly nước súc súc miệng, lại cầm bàn chải đánh răng cho vào miệng chải chải.

Chải răng xong, khi lấy bàn chải từ miệng ra, lại phát hiện trên bàn chải có mấy cọng tóc dài thượt! Tôi lập tức nhìn vào gương, há miệng ra kiểm tra, may quá, trong miệng không có tóc, nhưng lại phát hiện trên đầu đã mọc dài thêm một mớ tóc!

Tôi đấm một cái thật lực vào tấm gương, vội vàng lau sơ mặt rồi lao vội ra khỏi WC, nắm lấy Bạch Dực đang còn mải xem báo mà nói: “Còn chần chừ cái gì hả! Nhanh đi gặp Chu Linh, mau!!!” Mẹ nó, chỉ vì chuyện này không xảy ra với anh mà anh lại dám nhàn nhã thế à?! Đáng giận mà…

Chu Linh đúng là nhân tài mới của Học viện hí kịch, cho nên dù là cuối tuần thì cô ta vẫn có mặt ở trường khổ luyện. Trong học viện còn nhìn thấy nhiều nữ sinh mi thanh mục tú khác, có người đang tạo dáng tay Hoa Lan Chỉ[3] luyện giọng. Trong Kinh kịch quan trọng nhất là ánh mắt, bởi vì Kinh kịch lấy rất nhiều đề tài ở thời cổ, mà đối với những nhân vật trong những kịch bản thế này thì “thần vận”, cái hồn,  còn quan trọng hơn dung mạo xinh đẹp bên ngoài nhiều. Ví dụ như Mai Lan Phương hay Trình Nghiễn Thu đại sư[4], ở dưới sân khấu họ có thể chỉ là những người rất bình thường, nếu không nói là không xinh đẹp gì. Nhưng chỉ cần đứng dưới ánh đèn sân khấu là họ nhanh chóng hóa thân hoàn toàn vào vai diễn, nghiễm nhiên trở thành hoàng hầu tương tướng, tài tử giai nhân.

Chúng tôi tiến vào khu dạy học. Chu Linh đứng trong đại sảnh nhìn thấy chúng tôi trước, vẻ mặt của cô ta lúc đó giống như vừa được giả thoát vậy. Cô ta thở phào một hơi, sau đó tiến về phía chúng tôi, tối hôm qua không trông rõ dung mạo của cô lắm, nhưng hôm nay trông kĩ mới biết, thực sự là một cô gái xinh đẹp, mái tóc ngắn hoạt bát, nhãn thần cực kỳ nhu hòa, gương mặt thập phần cổ điển, nhưng sắc mặt lại tái nhợt, giống như vẻ tiều tụy khi có bệnh.

Cô ta nhìn tôi nhíu nhíu mày, lại quay sang Bạch Dực: “Xin hỏi vị này là…?”

Bạch Dực gật đầu trả lời: “Là bạn của tôi, cũng bị tóc ‘quấn’ phải.”

Chu Linh nghe tới chữ “tóc”, sắc mặt lại càng thêm tái nhợt, trong mắt rõ ràng tràn đầy phẫn nộ cùng hoảng hốt.

Cô ta dừng một chút, sau đó thấp giọng nói: “Đến phòng hóa trang đi, ở đây nói không tiện.” Nói xong liền quay người lại đi trước, hiển nhiên là muốn dẫn đường cho chúng tôi.

Tôi đi phía sau cô ta, thấy cô ta vẫn dùng tay vuốt nhẹ bờ vai mình như đang vuốt một mái tóc tưởng tượng, trong khoảng khắc, tôi còn nghe từ trong mái tóc của Chu Linh phát ra tiếng sột soạt.

Chúng tôi tới phòng hóa trang, vì hôm nay là cuối tuần nên trong phòng không có ai. Gian phòng khá nhỏ hẹp, là loại phòng hóa trang nhỏ cùng lúc chỉ chứa được chừng ba bốn người. Một mặt tường xếp đầy gương, trước gương là một loạt bàn trang điểm xếp chỉnh tề đủ mọi mỹ phẩm hóa trang. Phía sau lưng là một vài tấm poster của những cô đào nổi danh trước đây, treo đã lâu nên có phần rách nát, một mặt tường treo đầy trang phục và đồ hóa trang Kinh kịch, từng bộ quần áo treo thẳng đứng trên tường cho người ta cảm giác như những thân thể đứng cứng ngắc, không nhúc nhích nhìn chằm chằm cuộc trò chuyện của chúng tôi.

Chu Linh nhìn bốn phía một lượt, thậm chí còn lật hết mớ trang phục lên kiểm tra để chắc là không có ai. Sau đó mới lấy lại bình tĩnh, quay lại nói với chúng tôi: “Tôi cảm giác có ai đó vẫn theo tôi, tôi biết nó ở ngay bên cạnh.” Bởi thường xuyên trang điểm kỹ để lên sân khấu nên chân mày của Chu Linh rất nhạt, gần như nhìn không thấy được, khi cô ta nhíu mày, có cảm giác như cả cái trán cũng nhíu cả vào với nhau.

Bạch Dực hỏi: “Vậy cô có nghĩ ra có vật gì hay người nào có khả năng làm hại cô không?”

Chu Linh ngẩng mặt lên, trong đôi mắt mà tôi vẫn tưởng là ôn hòa kia trong chớp mắt chợt lóe lên một tia độc địa rồi nhanh chóng biến mất. Cô ta cắn cắn môi trả lời: “Gần đây chúng tôi sắp diễn một vở kịch mới là ‘Trường môn oán’, hợp diễn với cô giáo Mai. Đương nhiên cô giáo sẽ là người đóng vai chính Trần A Kiều, nhưng trong đám học sinh sẽ chọn một người đóng một vai quan trọng khác là Vệ Tử Phu, tôi chính là người được chọn đóng vai Vệ Tử Phu.”

Cô lại phất mái tóc tưởng tượng, sau đó lắc lắc tay mình một cách bực tức rồi tiếp: “Kỳ thực trước kia giáo viên không biết phải chọn ai, vì ngoài tôi ra còn một người có tài hoa tương tự như tôi, cô ta, cô ta có một mái tóc vừa dài vừa đẹp, trước giờ chúng tôi thường gọi đùa cô ta là Vệ Tử Phu. Từ khi vở kịch ‘Trường môn oán’ được công bố, cô ta luôn nghĩ rằng chỉ có mình cô ta là xứng với vai Vệ Tử Phu.”

Tôi nhìn Chu Linh thật kỹ, tuy cô ta nói bằng một giọng thản nhiên, nhưng đã mang theo mười phần cảm giác ưu việt. Khi nhắc tới cô gái nọ, trong tóc của cô ta lại vang lên những tiếng sột soạt.

Bạch Dực thấp giọng ừ một tiếng, sau đó hỏi tiếp: “Cuối cùng vì sao giáo viên lại chọn cô?”

Chu Linh nhíu nhíu mày: “Vì cô ta xảy ra chuyện…cô ta không còn nữa…” Trong lúc nói câu này, Chu Linh nhìn lảng sang hướng khác, không nhìn thẳng vào Bạch Dực, cô ta dừng một chút, lại khoát khoát tay bực bội nói: “Chuyện của cô ta và tôi không có liên can gì ở đây cả. Cô ta chỉ là một người cố chấp thôi, thực ra từ đầu cô giáo đã quyết định để tôi diễn Vệ Tử Phu, vậy mà cô ta cứ sụt sùi cứ như thể tôi đã dùng thủ đoạn nào đó vậy. Người như thế quả thực không phù hợp với giới nghệ sĩ.”

Bạch Dực cười cười: “Nếu không có liên can gì tới cô thì sao cô phải lưu ý đến nó như vậy?”

Chu Linh trợn to mắt, nhìn có vẻ tức giận lẫn quẫn bách, nhưng rất nhanh đã điều chỉnh lại tâm tình mà mỉm cười với chúng tôi: “Quên đi, tôi nghe nói Bạch tiên sinh có thể giúp tôi giải quyết vấn đề này nên mới nhờ anh. Nhưng xem ra ngay cả anh cũng không có cách nào, thôi để tôi tiễn các anh về.”

Nhưng ngay khi Chu Linh xoay người lại, cô ta đột nhiên đưa hai tay lên ôm lấy cổ mình, mặt đỏ lên, đầu lưỡi lè ra ngoài, từ từ trượt người ngã xuống đất, hai mắt trợn ngược lên trắng dã.

Tôi và Bạch Dực giật bắn người, vội vàng chạy tới đỡ cô ta, nhưng khi chạm vào cổ cô ta, tôi nhận ra nó cứng lại một cách kỳ quái, hơn nữa còn nóng kinh người. Chu Linh lúc này nhìn như sắp tắt thở tới nơi.

Chúng tôi vừa định gọi xe cứu thương, thì đột nhiên từ vách tường nơi treo y phục vươn ra rất nhiều rất nhiều tóc, giống như một đám tảo biển có sinh mệnh vậy. Chúng tôi hốt hoảng nhìn xung quanh, phát hiện rất nhiều tóc cũng đang chui ra từ mọi ngóc ngách trong phòng.

Bạch Dực đột nhiên kéo mạnh tôi về phía sau, tôi mất đà lui lại, vòng tay đang giữ Chu Linh cũng lòng ra, ngược lại phải vội vàng đưa cả hai tay ôm lấy cánh tay Bạch Dực. Bởi vì trên đầu Chu Linh chợt…trồi lên một cái đầu người, trong tròng mắt không có con ngươi, nhưng hai hốc mắt trống rộng vẫn tỏa ra một cái nhìn vừa phẫn nộ vừa chế nhạo, đầu lưỡi của nó dài thượt, nhưng gương mặt lại cực kỳ nhỏ, hoàn toàn ẩn sâu trong đám tóc của Chu Linh.

Khuôn mặt nọ phát ra những tiếng rít xèo xèo, vẻ mặt chỉ có phẫn uất cùng oán hận, như quỷ dạ xoa dưới đáy địa ngục.

Bạch Dực nắm chặt lấy tôi, nhìn chằm chằm vào khuôn mặt nó, thấy nó chậm rãi há miệng, dùng một giọng khàn khàn mà gào lên: “Cùng chết…cùng chết với ta!!!”

Vừa nghe thấy giọng của nó thì da đầu tôi đã co lại đau đớn, giống như có người đang nắm tóc tôi mà rứt ra vậy, tôi vội vàng ôm chặt đầu rên rỉ. Bạch Dực mím chặt môi, căng thẳng nhìn khuôn mặt không chớp mắt, khuôn mặt cứ như một cái mặt nạ kinh khủng bao bằng da, vặn vẹo cau có.

Chu Linh thống khổ quay lại, nhưng cô ta không thể nhìn thấy khuôn mặt mà chỉ nghe tiếng của nó, trong mắt cô ta không còn chút ngạo mạn nào khi nãy mà chỉ còn vô hạn sợ hãi, cô ta muốn thoát ra ngoài, nhưng đám tóc đã cuốn chặt tay chân cô ta lại. Lúc này tôi mới chú ý phía sau cổ Chu Linh vươn ra một mái tóc dài vĩ đại, từng sợi tóc mọc ra từ chính lỗ chân lông của cô ta, nhìn Chu Linh bây giờ giống hệt như một con vượn lông dài bị chính bộ lông của mình quấn rối.

Chu Linh đau đớn kêu gào, nhưng âm thanh phát ra bị hô hấp ngắt quãng của cô ta làm cho nghẹn lại trong cuống họng, biến thành những tiếng rên rỉ nức nở.

Khuôn mặt quái dị nọ vặn vẹo quay lại. Tuy nó không có con ngươi, nhưng cảm giác bị hai hốc mắt trống rỗng nọ “nhìn” chằm chằm thật giống như bị thú dữ theo dõi trong đêm, khiến cả hai chúng tôi không dám thở mạnh một tiếng. Trong hai hốc mắt trống không kia chẳng có gì ngoài bóng tối vô hạn, nhưng vẫn cực kỳ điên cuồng âm u.

Chúng tôi bị đám tóc buộc lui về phía cửa ra vào, Chu Linh vẫn vùng vẫy muốn thoát ra, nhưng cô ta không còn sức nữa, đám tóc xung quanh cô ta đã siết chặt lại, thậm chí có một vài đám tóc còn vói vào miệng và mũi cô ta. Cuối cùng thì ngay cả những tiếng nức nở cũng thành khó khăn với Chu Linh, cô ta chỉ biết trân trối nhìn tôi và Bạch Dực, trong mắt tràn ngập cầu xin.

Còn tóc của tôi thì cứ như kim nhọn, từng cây từng cây đâm sâu vào não tôi, đau đến mức tôi tưởng mình sắp chết.

Khuôn mặt vặn vẹo những đường nét trên mặt nó thành một nụ cười méo mó, như thể muốn chế nhạo chúng tôi, nó phát ra giọng nói lào khào như đá sỏi: “Để lại sợi tóc của ta cho ta, các ngươi cút hết đi, ta chỉ muốn mạng của con tiện nhân này!!!”

Sau đó nó trừng mắt với tôi, da đầu tôi như bị xé rách đau thấu trời, thân thể cũng từ từ trượt xuống sàn. Bạch Dực lấy tay nâng tôi dậy, anh ta nhìn tôi, rồi lại nhìn sang Chu Linh.

Cả người Chu Linh đều là tóc, cô ta quỳ rạp trên mặt đất, khuôn mặt ma quái kia hiện lên sau gáy cô ta. Cô ta đã không còn động đậy được nữa, chỉ vô thức run rẩy đầu ngón tay. Dưới thân người cô ta là một vũng nước, cô ta đã không thể khống chế nổi bản thân nữa.

Nếu bây giờ chúng tôi bỏ chạy, Chu Linh chắc chắn phải chết ở đây. Tôi cắn răng dùng hết sức bình sinh đứng dậy, nuốt nuốt nước miếng, vỗ vỗ lên mu bàn tay Bạch Dực ra hiệu tôi còn có thể chống cự nổi, mau mau cứu Chu Linh.

Bạch Dực liếc nhìn tôi gật nhẹ đầu, anh ta đã hiểu ý tôi muốn nói. Khuôn mặt nọ lúc này đã vặn vào với nhau vì oán hận cực độ, nó điên cuồng phun tóc ra, gian phòng nhỏ xíu tràn ngập tóc đen kịt.

Tôi run run lên tiếng: “Ngươi…ngươi rốt cuộc có thù oán gì với Chu Linh?! Vì sao phải dằn vặt cô ta như vậy?”

Khuôn mặt xám trắng đột nhiên nhăn nhúm lại như một mảnh đất cằn nứt nẻ. Từ trong hốc mắt trống không của nó đột ngột tuôn ra những dòng máu đỏ tươi, rơi vào vạt áo trắng của Chu Linh nhìn càng chói mắt.

Nó phát ra những tiếng nức nở rít gào chói tai, dường như nó đang khóc, tiếng khóc giống như tiếng móng tay cào lên mặt bảng, nó nói: “Nó đáng chết! Tất cả những gì nó phải chịu bây giờ đều là tội nghiệt, là tội nghiệt!!!”

Nước mắt máu đỏ rực hòa cùng những mảng da bong tróc nứt nẻ của khuôn mặt trào ra khắp người Chu Linh, cô gái đã không còn động đậy nữa, ngoại trừ lồng ngực hơi phập phồng nói cho chúng tôi biết cô ta còn sống, nhưng cũng…không được bao lâu nữa.

Gương mặt huyết nhục không rõ kia tiếp lời: “Ta chính là người cùng cạnh tranh vai diễn với nó…nó đố kị với ta…nó biết nó căn bản không thắng nổi ta..ô ô ô…cho nên đêm đó, khi đám lưu manh tóm được ta, nó không đi cầu cứu, nó lạnh lùng nhìn ta bị đám súc sinh đó làm nhục…!!! Nó không cứu ta!!!”

Tóc bốn phía hung hăng siết chặt lấy Chu Linh như một đám mãng xà hung dữ, chúng tôi thậm chí có thể nghe tiếng xương cốt Chu Linh rạn ra.

Khuôn mặt quay sang chúng ta, vừa hung hăng vừa u oán, nó điên cuồng lay động đám tóc xung quanh, nó không nhìn thấy Chu Linh nhưng lại có thể khống chế cô ta. Nó tiếp lời, giọng thật trầm thấp: “Không phải mày đã nói nếu ta giao lại vai diễn đó cho mày, mày sẽ im lặng sao? Không phải mày đã nói chỉ cần ta buông tha sân khấu, mày sẽ không nói chuyện đó cho ai biết sao? Nhưng cuối cùng mày đã làm cái gì?! Mày vẫn nói với tất cả mọi người, mọi người, mọi người…cả cô giáo, cả bạn bè, cả cha mẹ ta…tất cả đều nhìn ta khinh bỉ như thể ta là một kẻ nhơ nhuốc dơ bẩn. Mà mày!!! Mày vẫn không biết xấu hổ đứng trên sân khấu lẽ ra thuộc về ta, mặc bộ trang phục lẽ ra ta được mặc!!!”

Cả hai chúng tôi đều sững sờ toát mồ hôi, thật không ngờ sự thực lại là như thế, nhưng nếu cứ thế này thì Chu Linh sẽ phải chết. Bạch Dực nắm chặt hai tay lại, anh ta lạnh lùng lên tiếng: “Vì thế ngươi mới dùng chính mái tóc của mình bện thành lời nguyền, dùng linh hồn của mình mà nguyền rủa Chu Linh!”

Khuôn mặt xoay về phía chúng tôi, nhìn chúng tôi chằm chằm một lúc, sau đó cười thật âm độc như thể nhớ tới một thành tích đáng tự hào của mình vậy: “Không sai, ta không thể sống tiếp nữa. Nhưng ta cũng không thể để con ả này thoải mái sống như vậy, đêm trước khi ta chết, ta đã nhổ từng sợi từng sợi tóc yêu quý của ta xuống, cùng với cả da cả thịt ta… hợp với huyết nhục của ta! Linh hồn của ta! Oán hận của ta!”

Đỉnh đầu Chu Linh đột nhiên chảy xuống rất nhiều máu, trên đầu tôi cũng bắt đầu chảy máu, máu chảy vào mắt tôi, đau đến mức chảy nước mắt.

Khuôn mặt khinh bỉ nói tiếp: “Ta dùng mái tóc của mình để làm thành một bộ tóc giả hoàn hảo nhất, trang sức cho nó những vật phẩm quý giá nhất. Ta dùng bưu kiện gửi tới cho nó, mà nó, con ả tham lam Chu Linh này, không chần chừ mà nhận ngay lấy! Nó nhận! Nó nhận! Nó nhận phải lời nguyền của ta!!!”

Nói xong, gương mặt phá lên cười điên dại, vừa cười vừa chảy huyết lệ ròng ròng.

Bạch Dực đạp lên đống tóc trên sàn mà tiến tới gần con quỷ, tôi muốn kéo anh ta lại, nhưng không còn đủ sức.

Gương mặt cảnh giác nhìn Bạch Dực, trong mắt đầy tàn bạo.

“Ngươi làm vậy có đáng không? Không thể luân hồi chuyển thế, chỉ có thể vĩnh viễn làm một con phát quỷ[5]!”

“Không có gì là đáng hay không đáng cả! Bởi vì ta hận! Ta hận! Ta chết cũng không thể để con ả này được sống yên thân!” Gương mặt điên cuồng nói, “Các ngươi mau cút, mau cút đi, để lại sợi tóc Chu Linh đã đưa cho các ngươi lại mà cút đi, tiểu tử này còn có thể giữ được mạng! Ta không có hứng thú giết các ngươi!”

Bạch Dực đột nhiên nhìn nó một cách hết sức bi ai, từ trong túi áo móc ra một sợi tóc, sợi tóc nọ lập tức điên cuồng nhúc nhích hướng về phía Chu Linh.

Sợi tóc quấn trên ngón tay Bạch Dực chặt tới nỗi cắt ngón tay anh ta một đường mảnh rướm máu, Bạch Dực nhìn gương mặt, hỏi: “Ngươi thực sự muốn làm ác quỷ Tu La sao?”

Gương mặt nhăn nhúm rơi rụng cả da thịt, tanh tưởi không gì sánh được, nó lay động đám tóc khổng lồ của mình. Bạch Dực nhìn Chu Linh, lại nhìn gương mặt, thở dài.

Tôi vội hét lên “Đừng!!!” nhưng anh ta chỉ quay đầu lại nhìn tôi, trong mắt tràn ngập bi thương. Trước giờ tôi chưa từng nhìn thấy vẻ mặt này của Bạch Dực, vì thế tôi cũng ngây người ra không cản anh ta được nữa. Bạch Dực cúi đầu rì rầm cái gì đó, sau đó chậm rãi buông lơi bàn tay đang nắm chặt sợi tóc của mình ra. Tôi lập tức lao tới, nhưng đã bị Bạch Dực ôm chặt lại.

Sợi tóc từ từ rơi xuống nền nhà, bùng lên thành một ngọn lửa xanh lam huyền hoặc, ngọn lửa bốc cao nhanh chóng, liếm sạch đám tóc xung quanh, sau đó lan nhanh tới bên người Chu Linh. Gương mặt phát ra một tiếng kêu bén nhọn thê lương, nó điên cuồng vặn vẹo, nhưng ngọn lửa càng lúc càng lớn. Đám tóc quanh đó cũng đã bị đốt rụi.

Tôi nghĩ rằng Chu Linh sẽ bị cháy theo đám tóc, nên vội vàng chạy tới tìm cách cứu hỏa, nhưng Bạch Dực lại ôm tôi kéo lại.

Tôi quát lên với anh ta: “Chu Linh cũng sẽ bị chết cháy mất!”

Anh ta chỉ lắc đầu: “Không, ngọn lửa nghiệp chướng này chỉ chuyên đốt ác quỷ thôi.”

Tôi sững người ra nhìn anh ta, Bạch Dực vẫn đỡ lấy tôi, ngọn lửa xanh lam vẫn thiêu đốt đám tóc trong phòng, tỏa ra một mùi hôi tanh tưởi như của thi thể. Gương mặt thảm thiết gào thét không hừng. Ngọn lửa bùng lên trên người Chu Linh, ánh lửa xanh lam chậm rãi nuốt chửng hết đám tóc trên đầu cô ta và cả gương mặt quỷ đáng sợ kia nữa.

Cuối cùng tôi cũng đã hiểu vì sao ánh mắt Bạch Dực khi nãy lại thê lương đến vậy, đó là vì ngọn lửa nghiệp chướng này sẽ hủy diệt gương mặt quỷ kia, nhưng đồng thời, cũng sẽ hủy diệt toàn bộ hồn phách của cô gái tội nghiệp nọ.

Đến phút cuối cùng khi gương mặt đã sắp bị ngọn lửa nuốt chửng, chợt nó điên dại gầm lên: “Ta sẽ không tha cho nó, nó sống, ta sẽ bám theo nó, lôi nó xuống địa ngục, ta thề với tất cả ác quỷ!!!”

Bạch Dực nhíu chặt mày, anh ta mím môi, không nói gì.

Tôi nhìn chằm chằm vào ngọn lửa xanh biếc đang dần dần thiêu đốt toàn bộ khung cảnh địa ngục trước mặt, gương mặt quỷ cuối cùng rống lên một tiếng, toàn bộ tóc trên người Chu Linh cũng bị đốt sạch.

Gương mặt nhìn chúng tôi oán hận, nhưng lửa đã bén tới nó, thiêu nó thành tro, trong không khí tản ra mùi than cháy, nhưng không có tro tàn.

Ngọn lửa chầm chậm lụi dần. Tất cả tóc đều bị nó đốt hết, gian phòng quay lại trạng thái bình thường như lúc đầu. Trên đầu tôi cũng không đau nữa, máu trên mặt cũng biến mất hết.

Chu Linh yếu ớt quỳ rạp người trên sàn, chân tay run lẩy bẩy.

Chúng tôi bình tĩnh lại, lập tức xông tới kiểm tra tình trạng của Chu Linh. Tôi nâng cô ta dậy, thấy trên đầu cô ta cũng không để lại tro bụi gì chứng tỏ một đám tóc vừa bị thiêu trên đó cả, cả người Chu Linh cũng không tổn hại gì, ngoại trừ một vết siết bầm xanh trên cổ.

Chu Linh chậm rãi hoàn hồn, mở mắt, sau đó ho dữ dội. Cô ta đẩy tôi ra, tự mình từ từ đi tới ghế ngồi xuống, tham lam hít thở một lúc, nhắm hai mắt lại, sau đó lại chậm rãi mở ra, rất lâu cũng không nói gì, chỉ ngây ngốc đờ ra nhìn bóng mình phản chiếu trong gương.

Chúng tôi không biết cô ta đang nghĩ gì, nhưng tất cả những gì chúng tôi và gương mặt đã nói với nhau, cô ta hẳn cũng đã nghe thấy.

Cuối cùng, cô ta mở miệng: “Vì nghệ thuật…ta có thể đánh đổi tất cả, có thể bán đứng tất cả…Cho nên ta không hối hận…”

Trong gương phản chiếu gương mặt tươi cười của Chu Linh, kỳ thực khi cười cô ta rất đẹp, nhưng lúc này tôi chỉ thấy nụ cười đó y hệt như của ác quỷ, băng lãnh, điên cuồng!

Bạch Dực nhìn Chu Linh, nhíu nhíu mày, tôi phát hiện hai tay anh ta siết chặt lại, anh ta cũng giống như tôi, chỉ biết bi ai bất đắc dĩ nhìn con người điên dại trước mặt.

Một lát sau Chu Linh quay đầu lại, hời hợt nói cảm ơn, rồi nhanh chóng đứng dậy bước ra khỏi phòng hóa trang. Nhưng tôi vẫn thấy sau gáy cô ta mơ hồ một khuôn mặt nào đó, mỉm cười quỷ dị mà điên cuồng. Chu Linh lại đưa tay phất đuôi tóc dài tưởng tượng.

“Vì cái gì, vì cái gì mà ngươi thà không được luân hồi, thà rơi vào Tu La, trở thành phát quỷ xấu xí cũng không chịu buông tay chứ?”

Tóc – End

[1] Mùng hai tháng hai Long Sĩ Đầu là một lễ hội lớn của Trung Quốc. Trong ngày này người ta cho rằng con rồng sau một mùa ngủ đông dài đã cất đầu thức giấc, chuẩn bị làm mưa tưới nước cho mùa màng. Ngoài ra ngày lễ này còn có ý nghĩa thiên văn học. Người Trung Quốc chia vòng tròn Hoàng đạo thành 28 khu, gọi là “nhị thập bát tú”, mỗi ngôi sao được gọi là một “túc” (vì mặt trăng mỗi ngày lại đi qua một sao, đến hết tháng thì vừa đủ một vòng, nên gọi là ‘Túc’), lại chia “nhị thập bát tú” vào bốn phía đông tây nam bắc, mỗi phía có bảy túc. Bảy túc ở phía Đông họp thành chòm sao Thương Long, tức “thanh long”, rồng xanh theo cách hiểu của người Trung Quốc. Vào mùa đông, cả bảy túc đều lặn mất. Nhưng đến đầu tháng hai, “giác túc” tức phần sừng của Thương Long hiện lên, nên dân gian gọi là “Long Sĩ Đầu” (rồng cất đầu). Vào mùa đông, người Trung Quốc không dám cắt tóc, chờ qua ngày Long Sĩ Đầu mới cắt tóc, nên An Tung nhà ta mới tự hỏi liệu hôm nay có phải ngày Long Sĩ Đầu không mà thiên hạ quan tâm tới tóc thế ^^ (cảm ơn Baidu yêu quý đã cho Lục Mịnh thông tin)

[2] Thanh y là vai đào chính trong Kinh kịch Trung Quốc. Những vai diễn “thanh y” trong Kinh kịch đều là những vai nữ chính, đoan trang, hiền thục, trong sáng…

[3] Hoa Lan Chỉ là tạo dáng tay dùng ngón cái và ngón giữa chập lại, ba ngón còn lại vươn dài, nhìn giống như bông hoa lan. Cách làm điệu bộ này hiện nay chỉ còn dùng trong nghệ thuật hí kịch.

[4] Mai Lan Phương và Trình Nghiễn Thu là hai trong số “Tứ đại danh đán” của nghệ thuật hí kịch Trung Quốc, hai người còn lại là Thượng Tiểu Vân và Tuân Tuệ Sinh.

[5]Phát quỷ: quỷ tóc

Chương 8: Chợ quỷ (Thượng)

Nhìn chung con người không ai thích đi lại trên đường vào ban đêm, nói thật lòng ra là vì không muốn nhìn thấy những thứ khủng khiếp trong bóng tối. Còn nói một cách cao siêu hơn là vì con người là một động vật không thích bóng tối. Chúng ta là một loại sinh vật chỉ thích sinh hoạt dưới ánh sáng mặt trời, bóng tối không thuộc về người sống. Ánh sáng và hơi ấm, đôi khi còn quan trọng với con người hơn bất kỳ thứ gì.

Nhưng tôi thực ra có phần thích đi dạo trong bóng đêm, vì không khí ban đêm tươi mát trong trẻo hơn ban ngày nhiều, hơn nữa còn cực kỳ yên tĩnh. Những người sống ở thành phố lớn như tôi luôn luôn có khuynh hướng ghét những tiếng động ồn ào náo nhiệt, nhưng rồi lại không thể rời bỏ thành phố nổi.

Hôm nay Bạch Dực bất ngờ bị cảm. Thật khó tưởng tượng một người như anh ta lại có ngày bị cảm. Chỉ biết giữa đêm khuya thanh vắng đang ngủ ngon chợt nghe những tiếng sụt sịt liên hồi, ban đầu tôi tưởng là chuột, nhưng sau đó lại nghe tiếng đóng mở ngăn kéo.

“Chết tiệt, dạo này bộ lũ chuột thành tinh cả rồi à?!” Tôi mơ mơ màng màng ngồi dậy bật đèn, sau đó bất ngờ nhìn thấy Bạch Dực vẫn đang cúi người lom khom bên ngăn kéo, trố mắt nhìn sang.

Một trận trầm mặc, sau đó tiếng hắt xì của Bạch Dực vang lên, giữa yên tĩnh lại càng thêm rõ ràng. Tôi thực ra còn chưa tỉnh hẳn, nghe thế liền thuận miệng hỏi một câu: “Anh đang làm gì vậy?”

Bạch Dực xoa xoa mũi nhìn lại về phía ngăn kéo, tiếp tục sự nghiệp tìm kiếm cái gì đó, giọng nói nghèn nghẹt của anh ta vang lên: “Thuốc cảm trong nhà để đâu thế?”

Nghẹt mũi? Thuốc cảm? Nắm bắt được hai chi tiết quan trọng nhất, tôi sửng sốt tỉnh hẳn cả người – Bạch Dực bị cảm? Sau đó lại nhớ ra, dạo trước tôi bị bệnh nặng, có bao nhiêu thuốc trong nhà đều bị tôi uống sạch cả rồi, liền lập tức ngồi dậy nhíu nhíu mày, khoác áo khoác nói: “Khỏi tìm nữa, tôi uống hết rồi, để tôi đi mua thuốc cho anh.” Dừng một chút lại quay lại hỏi: “Có muốn ăn kẹo không?”

Bạch Dực mở to mắt ngạc nhiên nhìn tôi: “Kẹo gì?” Tôi bối rối ho húng hắng vài cái, lúc nào tôi bị cảm miệng cũng bị đắng nên phải ăn kẹo để thấy thoải mái hơn, cho nên vừa thấy Bạch Dực bị cảm thì đã thuận miệng hỏi thêm, chứ cái sự thật là đường đường nam nhi chi chí mà mỗi lần uống thuốc lại phải ngậm kẹo thật không ra cái thể thống gì. Vì vậy chỉ xấu hổ lấp liếm: “Không, không có gì…”

Nhưng đã quá muộn, Bạch Dực đã nhìn tôi cười tà: “Mỗi lần bị cảm cậu lại phải ăn kẹo à?”

“…” Mặt tôi nhanh chóng đỏ thành khoai lang luộc, miệng hớp hớp nhưng không biết phải giải thích ra sao, mà có khi càng nói lại càng mất mặt. Vì thế đành hung hăng lườm anh ta: “Ông đây muốn nói tới kẹo ho ấy!” Nói xong vội vàng vơ ví tiền mở cửa định đi.

Bạch Dực kéo tôi lại, ho khan vài tiếng: “Bên ngoài trời đang mưa đấy, định không mang dù đã ra đường hay sao hả?” Nói xong lập tức đưa cho tôi cây dù.

Tôi gật đầu, cầm dù chuẩn bị ra khỏi cửa, chợt nghe phía sau một câu nói với theo: “Nếu cậu muốn ăn kẹo thì để mai tôi mua vài gói. Thích kẹo mùi gì nào?”

“Có giỏi thì lập lại xem, tôi mua thuốc diệt chuột về cho anh bây giờ!” Tiện tay cầm một cái dép bên bậu cửa ném vào phòng. Nhưng tôi cũng biết lúc này đã khuya, nên cố không gây ồn ào lắm, chỉ đóng cửa một cái “cạch”.

Thở phì phì tức giận đi xuống lầu, hơi lạnh buổi đêm lập tức thốc tới, tôi kéo khóa kéo của áo lạnh, lẩm bẩm: “Ban ngày rõ ràng còn khá ấm áp kia mà…”

Bên ngoài đúng là đang mưa, nhưng không lớn lắm, một cơn mưa bụi nhè nhẹ thả những hạt nước li ti như phủ một màn sương mỏng như có như không lên thành phố, chỉ dưới ánh sáng của những ngọn đèn đường mới có thể nhìn thấy rõ những hạt nước dày đạc mỏng manh đan vào nhau thành một tấm lưới hơi nước lất phất. Vì vậy tuy nói là trời tháng chạp, nhưng lại mang theo vài phần cảm giác “thiên nhai tiểu vũ nhuận như tô”[1]

Tôi bung cây dù xanh, hít sâu một hơi rồi bước chân ra khỏi tòa nhà ký túc xá, hơi lạnh thấm đẫm nước trong không khí lập tức khiến tôi cảm thấy thoải mái sảng khoái tận tâm can, đầu óc còn mơ hồ vì buồn ngủ cũng nhờ thế mà tỉnh táo nhanh chóng.

Lúc này là sắp hừng đông, hầu như mọi tiệm thuốc đều còn đóng cửa, tôi chỉ còn cách đi hơi xa một chút mới có một cửa hàng tạp hóa mở cửa 24/24. Tuy tản bộ dưới trời mưa cũng có thể coi là một hình ảnh tao nhã, nhưng dù sao cũng là thời gian dùng cho giấc ngủ quý giá, cho nên suy tính hồi lâu, tôi quyết định rời đường lớn để rẽ vào hẻm nhỏ đi cho nhanh.

Con ngõ nhỏ cực kỳ an tĩnh, tiếng bước chân của tôi vì thế càng thêm nổi bật. Trong ngõ có một tiệm cơm nhỏ, trước cửa chất đầy rác, giữa không khí ướt át nước trộn lẫn mùi hôi thối đặc trưng của cống nước. Một con mèo hoang đang mải mê kiếm ăn dường như bị tôi quấy rầy, đề phòng nhìn tôi chăm chú rồi nhanh như chớp nhảy biến vào bóng đêm.

Tôi nhăn nhăn mũi, muốn đi nhanh hơn để tránh mùi hôi từ cái cống ngầm, nhưng trong ngõ nhỏ không có đèn đường, mặt đường cũng nhấp nhô đá sỏi, hơn nữa lại bị mưa làm cho trơn trợt lầy lội, nên chỉ một phút không chú ý, chân tôi đã vấp phải đá ngã sấp về phía trước, cây dù trong tay cũng tuột ra lăn xuống mặt đường phía trước cách đó không xa.

Cũng may té không nặng lắm, tôi thấp giọng mắng một câu, rồi lại chống tay đứng dậy, vỗ vỗ bớt bùn đất trên đầu gối và dưới mông, đi tới định nhặt dù lên.

Nhưng ngay khi tôi vừa cúi đầu nhặt cây dù, thì từ con đường sau lưng cách đó không xa chợt vang lên tiếng bánh xe chuyển lạch cạch lạch cạch trên đường. Tuy âm thanh rất nhỏ nhưng vẫn có thể nghe thấy, hơn nữa dường như càng ngày càng gần.

Tôi nghĩ trong đầu, giờ này chưa sáng mà đã có người đi bán hàng rong rồi sao? Bực tức bung dù, tôi dùng tay còn lại cào cào tóc. Cơn mưa thực sự rất dày, tuy không nặng hạt nhưng cũng đủ thấm ướt phân nửa đầu, từng giọt nước long tong nhỏ qua tóc xuống đất.

Nhìn con ngõ nhỏ đen kịt trước mặt, tôi quyết định nên quay lại đi đường lớn cho an toàn, dù sao thì cũng chẳng còn bao xa. “Thật xui quá, biết thế này thì đừng vào ngõ cho xong, mắc công cả người đầy bùn…”

Lẩm bẩm xoay người lại, đột ngột phát hiện một bà lão đã đứng sừng sững ngay trước mặt tự bao giờ. Tôi sợ tới mức hét lên một tiếng, sao bà lão này chẳng phát ra âm thanh gì cả vậy?!

Tôi vội vàng lùi về phía sau mấy bước, tuy cực kỳ kinh hoàng, nhưng nhớ tới chuyện gặp hổn ma đêm Đông chí lần trước thì thực ra trong lòng đã sớm chấp nhận sự thực. Cũng có thể là do dạo này gặp nhiều chuyện quái dị quá, tới mức não cũng đơ cả ra. Lúc này tôi lại cảm thấy bình tĩnh khác thường, không có cảm giác sợ hãi mấy, dù sao thì gặp phải những thứ đó cũng không phải lần một lần hai, huống chi tôi cũng chưa bị hại bao giờ. Vì thế tôi liền lấy lại bình tĩnh bắt chuyện: “Đại nương, đã khuya thế này còn đi dạo sao ạ?”

Y phục bà lão đang mặc có kiểu dáng rất cũ kỹ, toàn bộ làm bằng gấm màu đen chần bông, kín tới cổ, có cảm giác ít nhất là phải tới sáu bảy lớp. Tà áo bên trái thêu khuy bằng chỉ vàng, một chiếc khăn tay màu trắng được gài bên tà áo. Bà lão trông đã rất già rồi, mái tóc trắng như bông, trên mặt đầy nếp nhăn như mặt khỉ, mũi vừa dài vừa nhọn, gương mặt gầy choắt lại, đôi mắt cũng mờ đục. Sắc mặt tuy không tính là nhợt nhạt nhưng lại cực kỳ vàng vọt, da mặt giống như vỏ bưởi vậy, vàng tới nỗi tôi phải e ngại là bà lão này bị bệnh vàng da. Giữa toàn bộ y phục màu đen, nổi bật nhất chính là mái tóc và chiếc khăn tay trắng toát, cùng với một cây dù giấy kiểu cũ trong tay cũng màu đen nốt.

Bà lão từng bước từng bước thong thả tiến về phía tôi, tay còn lại của bà ta cầm tay đẩy của một chiếc xe kéo bằng gỗ, trên xe được phủ một tấm bạt trắng che mưa, nhìn không thấy pía dưới có cái gì, nhưng vẫn tỏa ra một mùi thơm hấp dẫn của đồ ăn.

“Ta chuẩn bị ra chợ bán đồ ăn sáng ấy mà, cậu trai trẻ lúc nãy bị vấp không đau chứ?” Bà lão hỏi. Âm thanh của bà ta rất khàn và trầm, mang âm hưởng giọng miền Nam rõ rệt. Tôi cố hết sức vểnh tai lên để nghe cho được rõ.

Vội vàng phủi phủi bùn đất trên người, tôi xoa xoa mũi ngượng ngùng cười: “Cháu không sao cả. Bạn cùng phòng của cháu bị cảm, cháu đi mua thuốc cho anh ấy.”

Bà lão híp mắt từ từ tiến lại gần như muốn quan sát tôi rõ hơn. Lúc này tôi mới để ý là đôi bàn chân của bà ta rất nhỏ, rõ ràng là “gót sen ba tấc” tiêu chuẩn. Thời này mà còn tồn tại tục bó chân sao? Đôi giày bà ta đang mang rất tinh xảo, là một đôi giày thêu màu xanh ngọc thêu họa tiết hoa mai màu trắng và tím. Nói thật, đôi giày xinh đẹp nọ ở trên chân một bà lão… tự nhiên nhìn có phần bất thường.

Bà lão cười cười lắc đầu nhè nhẹ: “Còn chưa tới lúc.” Sau đó ra sức kéo cái xe đẩy đi qua người tôi. Bánh xe gỗ lại phát ra tiếng lộc cộc lạch cạch.

Tôi thực sự không đành lòng nhìn một bà lão già cả đến thế rồi còn phải làm việc vất vả để kiếm sống. Tuy tôi không phải một ông thánh, nhưng riêng đối với người già, tôi luôn luôn có một cảm giác cảm thông mãnh liệt. Bọn họ đã vì con cháu mà vất cả cả đời, mà bây giờ còn phải vất vả sinh kế giữa trời đêm đầy mưa, quả thực là đáng thương.

Vì thế tôi vội vàng gọi bà lão lại, trong lòng nghĩ ít nhất nên giúp bà đẩy xe tới nơi mà bà ta cần đến, rồi hãy quay về mua thuốc sau. Bà lão quay đầu lại nhìn tôi.

Tôi cười nói: “Như vầy đi bà, cháu giúp bà mang mấy thứ này đến chỗ bà thường bán. Mưa thế này lỡ bà té thì khổ lắm, dù sao thì thanh niên tụi cháu cũng có sức hơn.”

Bà lão cười híp mắt lại, nhưng vẫn nói không cần, sau đó lại quay lại như chuẩn bị đi tiếp. Tôi đã nói là muốn giúp người ta, nếu bây giờ bỏ đi thì sẽ rất giống như đang nói dối, vì thế liền tiến tới cầm lấy sợi dây đẩy xe, lại vô tình đụng phải ban tay bà lão. Tay bà ta lạnh như vừa lấy từ trong tủ lạnh ra, mu bàn tay gầy trơ xương, khớp ngón tay sưng to, trên tay toàn là vết chai, lại vàng ệch giống hệt như sắc mặt bà ta vậy.

Tôi cũng có phần cảm thấy kinh dị, nhưng ngẫm lại khí trời này khiến cho một người như Bạch Dực cũng phải lăn ra bệnh, thì huống chi một bà lão ngoài bảy mươi! Lòng hơi nhói lên một cái, tôi nắm chặt sợi dây, quay lại nói với bà ta: “Bà bà, đừng khách khí, bà xem hôm nay trời mưa như vậy, bà cứ che dù để ý kỹ dưới chân là được. Cháu đẩy xe giúp bà.” Tôi kéo kéo thử sợi dây, chết tiệt, không ngờ xe lại nặng tới vậy…?

Xếp dù lại móc vào cổ tay, tôi quấn sợi dây kéo xe nhiều vòng quanh bàn tay, nhìn bà lão cười cười xấu hổ rồi dồn hết sức, đến mức mặt đỏ bừng lên, ra sức bước về phía trước. Bà lão cười cười, cầm dù đi trước tôi dẫn đường.

Bên trong cái xe này rốt cuộc là thứ gì vậy không biết? Cho dù có chở đầy sắt đi nữa cũng không nhất thiết phải nặng đến thế này chứ! Tôi chỉ kéo được hơn một phút thì đã mệt đến mức mồ hôi đầm đìa. Giống như không phải đang kéo một cái xe đẩy con con mà là nguyên cả một cái thuyền lớn chất đầy người trên đó vậy.

Bà lão vẫn bung dù im lìm đi phía trước. Nước mưa rơi vào người tôi ướt đẫm, trên lông mi cũng đầy nước khiến tầm nhìn của tôi mờ đục đi, con đường phía trước cũng trở nên nhòe nhoẹt.

Tôi thở hổn hển, theo bà lão tiến từng bước từng bước một, hơi thở toàn khói trắng. Không biết đã đi bao lâu, hai bàn tay tôi bị sợi dây xiết vào, âm ỉ đau từng trận.

Bà lão bước thẳng không hề quay đầu lại một lần nào, để đuổi kịp bà ta, tôi phải đem toàn bộ sức lực cả đời mình ra, thậm chí không cần biết đường xá phía trước thế nào, chỉ chăm chú kéo sợi dây trong tay mình. Đột nhiên tôi phát hiện bà lão im lặng dừng lại. Tôi ngẩng đầu nhìn phía trước, đúng là phía trước có một con đường, nhưng lúc này mưa quá nặng hạt, tôi không nhìn thấy gì, chỉ có hai hàng đèn đường mờ ảo cho thấy con đường trước mặt.

Bà lão quay lại nhìn tôi híp mắt cười: “Tới đây là được rồi, phía trước để ta tự đi.” Dừng lại một chút, bà ta lại gật đầu cười: “Không ngờ cậu thanh niên trông mảnh khảnh thanh tú thế mà cũng khỏe gớm.”

Tôi lập tức buông dây ngồi xổm xuống thở dốc, con đường ngắn ngủi nãy giờ không ngờ còn tiêu tốn thể lực hơn cả thời đại học chơi bóng rổ. Tôi gạt gạt mồ hôi trên trán, cười nói: “Đại nương, cái, cái xe này nặng khủng khiếp nha.”

Bà lão cười cười, rụt rụt cổ, một tay đưa lên che miệng, động tác khiến người ta liên tưởng tới một con khỉ. Bà ta híp mắt nhìn bốn phía một lúc, sau đó xốc tấm bạt che xe lên, tôi mới thấy bên trong toàn là bánh hạt đào, tỏa ra một mùi hương quế thơm phức hòa cùng mùi gạo nếp tinh khiết, thật là dễ chịu.

Bà lão lấy ra hai cái bánh cho tôi, cười mà nói: “Cầm ăn đi, coi như ta cảm ơn cậu giúp ta kéo xe.”

Tôi vốn định chối từ, nhưng nhìn hai cái bánh vuông vắn thơm phức trước mặt, cũng cảm thấy thích thú, vì thế vội vàng phủi phủi hai tay cầm lấy bánh cúi đầu bỏ vào trong áo. Khi ngẩng đầu lên định cảm ơn, đã thấy bóng bà lão mất dạng từ bao giờ.

Tôi nhìn quanh bốn phía, bà lão này đi sao nhanh thế nhỉ, phải biết rằng cái xe nọ nặng tới mức nào chứ! Tôi nhìn lại con đường trước mặt, tối đen như mực, hai hàng đèn đường lúc nãy đã tắt phụt tự bao giờ. Nước mưa đập vào mặt, tôi lắc lắc đầu, lại chợt phát hiện bên cạnh chân mình là một cái khăn tay màu trắng. Tôi nhớ nó dường như là cái khăn vắt trên vạt áo của bà lão, sao lại rơi xuống đây? Bà ta đã đi mất rồi, làm sao tôi tìm ra mà trả lại cái khăn bây giờ?

Ngồi xuống nhặt cái khăn lên, tôi ngắm nó thật kĩ, chỉ thấy trên khăn tay thêu một chữ “Thọ”, ngoài ra không còn trang trí thêm cái gì khác, nhưng rõ ràng khăn làm bằng tơ voan moảng, chạm vào rất mượt mà. Tôi hơi kinh ngạc, một bà lão bán hàng rong mà có thể mua được một cái khăn cao cấp thế này sao? Vừa nghĩ vừa tiện tay cầm cái khăn lên, nghĩ thầm khi trời sáng nên quay lại đây tìm, có lẽ tìm được bà ta để trả khăn tay không chừng.

Vì vậy tôi lại bung dù, vừa quay đầu lại thì đã phát hiện trước mặt chính là con ngõ nhỏ dơ bẩn nơi tôi đã bị ngã lúc nãy. Nhưng rõ ràng đã đi qua không biết bao nhiêu con đường kia mà…? Lẽ nào do cái xe nọ quá nặng, tôi đi không được bao nhiêu mà đã có cảm giác là đi rất lâu? Tôi lắc đầu quyết định không nghĩ về vấn đề này nữa, quay lại mua thuốc mới là quan trọng nhất. Vì thế lập tức chạy vội ra hiệu thuốc mua thuốc cảm, lại mua thêm một ít kẹo the ngậm ho, tuy lúc nãy bị Bạch Dực trêu chọc, nhưng kẹo ngậm thực sự có tác dụng tốt với bệnh cảm.

Trên đường trở về nhà, tự nhiên tôi nghĩ, hình như mình quá tốt với tên khốn Bạch Dực này rồi?

Bạch Dực không quay về giường ngủ tiếp mà đang mặc một cái áo khoác dày ngồi trên ghế đọc sách. Nghe tiếng tôi lộp cộp đi lên lầu, anh ta ra mở cửa trước. Tôi vừa vào nhà, anh ta đã nhíu nhíu mày hỏi tôi có phải đã gặp ai giữa đường không.

Bởi vì trên đường đi đã tiêu hao sức lực quá nhiều, lại phải về nhà gấp, nên tôi nhất thời không đáp lại được tiếng nào. Chỉ vừa cởi giày vừa đưa thuốc cho Bạch Dực, uể oải nói: “Trước tiên để tôi nghỉ một lát, lau khô tóc cái đã, nước mưa làm cả người tôi ướt sũng cả rồi.”

Bạch Dực nhận thuốc, nhưng lại bất thình lình ghé sát mặt anh ta vào mặt tôi, lông mi của tôi chạm vào mũi anh ta, tôi theo phản xạ rụt người về phía sau, không ngờ mất đà té ngửa ra. Bạch Dực nhanh như chớp kéo tay tôi lại, làm tôi ngã đè lên người anh ta.

Tôi lầm bầm bực tức: “Anh làm cái quái gì vậy, bị cảm còn tới gần như thế, lỡ lây cho tôi rồi sao?”

Bạch Dực không thèm trả lời, chỉ dí sát mũi vào người tôi mà hít hít. Tôi không nhịn được nữa, đẩy mặt anh ta ra, rồi lại đột nhiên nhớ ra, lập tức bật người ngồi dậy sờ sờ túi áo: “Chết tiệt, bánh bị đè bẹp rồi. Anh, anh, mau đền bánh cho tôi!”

Tôi đẩy Bạch Dực ra, đứng lên, cái khăn tay trắng từ trong túi quần rơi ra đất, Bạch Dực tò mò nhặt lên nhìn, rồi đột nhiên sắc mặt tái nhợt đi, quay lại hét lên với tôi: “Đồ ngốc tử!!! Sao lại cầm khăn tay của Tá Thọ bà[2] về thế này?!”

Tôi quay đầu lại hỏi: “Cái gì cơ? Cái gì bà?”

Bạch Dực cau mày nhìn tôi một cách nghiêm khắc như đang nhìn một đứa trẻ hư chuyên gây họa, tay nhanh như chớp móc cái khăn tay ra ngoài cửa sổ, sau đó nắm tay tôi kéo đi. Tôi vừa hỏi anh làm gì vậy, vừa không quên che chở cho hai cái bánh trong túi áo.

Anh ta rốt cuộc cũng nhìn thấy thứ tôi đang cầm trên tay, dường như đã hiểu ra cái gì đó, liền buông tay tôi thở dài: “Tiểu tử này, chuyên gây họa nhưng cũng thường có phúc.”

Tôi ngơ ngác như vừa lọt vào sương mù, để mặc anh ta cầm lấy bánh đặt lên bàn, sau đó vẫn tiếp tục nắm tay tôi kéo thẳng vào toa lét.

Mở nước bảo tôi rửa tay, cả anh ta cũng ra sức cố sống cố chết kỳ cọ hai bàn tay mình.

Tôi cũng ngơ ngác làm theo, vừa rửa tay vừa thầm nghĩ hai chúng tôi nhìn thật giống hai đứa khùng. Rửa tay xong, Bạch Dực dùng khăn mặt lau lau tay rồi nói: “Đi lấy khăn lau khô tóc đi cái đã, sau đó từ từ kể lại cho tôi biết làm sao cậu lại đụng phải Tá Thọ bà thế.”

Nói xong điềm nhiên đi ra ngoài, tôi đờ ra nhìn anh ta, cũng ngốc nghếch gật đầu, sau đó ngoan ngoãn lau khô tóc, thay quần áo rồi đi ra. Bạch Dực đang thản nhiên ăn bánh của tôi, tôi vội hét lên: “Đó là bánh của tôi mà! Sao lại tự tiện như thế hả!!!”

Anh ta vẫn bình thản chỉ vào cái đĩa trên còn một cái bánh nói: “Để lại cho cậu một phần đây thôi! Ăn đi, thứ này không phải lúc nào cũng có đâu!”

Tôi lập tức vớ lấy cái bánh cho vào miệng cắn một miếng, nhưng thật kỳ lạ, rõ ràng mùi bánh rất thơm, vậy mà cho vào miệng lại nhạt nhẽo bất ngờ, cảm giác như đang nhai rơm vậy. Tôi miễn cưỡng nuốt một miếng, sau đó đẩy đẩy cái đĩa: “Anh thích ăn như thế thì cho anh đấy…”

Bạch Dực cười cười: “Có biết đây là cái gì không?”

Cách nói của anh ta giống hệt như lão đạo sĩ trong Tây Du Ký quảng cáo cho cây nhân sâm hình người vậy, tôi mím môi: “Chỉ là bánh thôi chứ gì, ngửi còn thấy thơm, ai ngờ vị lại nhạt phèo như thế!”

Bạch Dực không cầm lấy đĩa bánh của tôi, chỉ dùng tay vỗ vỗ má tôi cười vui vẻ: “Ngốc tử! Cậu thực sự gặp may rồi đó, cái này là bánh của Tá Thọ bà, ăn nó có thể trường thọ đó! Tuy không thể sánh bằng tiên đan trường sinh, nhưng thực sự có thể tăng tuổi thọ của con người!”

Tôi nhìn lại cái bánh trắng trắng bày trên đĩa, vì lúc nãy bị Bạch Dực kéo ngã nên méo mó không còn hình thù như ban đầu, nhưng vẫn tỏa ra mùi thơm nhè nhẹ quyến rũ. Tôi nhíu mày, thầm nghĩ không biết bà lão kia có địa vị gì, lại có thể bán loại bánh giúp trường thọ, chẳng lẽ là thần tiên?

Nhưng Bạch Dực dường như lại nghĩ tới cái gì đó, anh ta nhìn tôi lạnh lùng: “Nhưng sao cậu lại cầm khăn tay của lão quỷ bà đó mang về! May mà tôi nhìn thấy, nếu không thì chỉ ít lâu nữa là cả cậu lẫn tôi đều chết bất đắc kỳ tử mất!”

Tôi ngẩn ra, cái gì?! Một hồi thì bảo bánh của bà ta là linh đan diệu dược, một hồi lại nói khăn tay của bà ta có thể giết người?! Tôi nghe mà cứ ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm, vội khoát khoát tay: “Chờ chút chờ chút, vậy anh nói bà lão kia rốt cuộc là tốt hay xấu, là quỷ là tiên hay là một kẻ quái dị hả?”

Bạch Dực dừng lại một lúc, như thể đang suy nghĩ xem nên giải thích thế nào cho tôi hiểu, anh ta đẩy đẩy kính mắt, dùng một tay chống cằm mà hỏi: “Có phải bà lão cậu gặp đó mặc áo liệm, cầm một cây dù màu đen, đẩy một cái xe gỗ không nào?”

Tôi vừa nghe thế liền lập tức gật đầu: “Đúng vậy đúng vậy, anh nói tôi mới nghĩ ra, đúng là bà ta mặc áo liệm, người sống không ai ăn mặc như thế cả!”

Bạch Dực tiếp tục: “Kỳ thực bà ta là một người đã chết, cũng tức là một loại quỷ, nhưng lại có tính hai mặt. Bà ta chuyên đi rút bớt tuổi thọ của những kẻ đem sinh mạng của mình ra thề thốt lung tung. Cho nên tuyệt đối không nên đem chính mình ra thề, tuy chỉ là trong tích tắc mà thôi, nhưng ngôn ngữ vốn là thứ hết sức linh thiêng.” Bạch Dực nhìn tôi một cách nghiêm túc: “Bà ta là một con quỷ như vậy, sau đó lại đem tuổi thọ của những kẻ bà ta đã rút bớt ra làm bánh. Nhưng bà ta không bao giờ tùy tiện đem bánh này bán cho bất kỳ ai, những người có thể được bà ta cho ăn loại bánh này đều là những người mà bà ta đánh giá là người thành thật. Ha ha, nói cách khác, bà ta công nhận cậu là người tốt!”

Mặt tôi hơi đỏ lên, đúng là tôi thường rất lễ phép với người già, mà chính tôi cũng không biết nguyên nhân vì sao. Tôi sờ sờ mũi, bối rối nhìn sang chỗ khác cười cười.

Đột nhiên lại nghe Bạch Dực thở dài: “Nhưng cậu nghìn vạn lần không nên mang khăn tay của bà ta về! Thứ này thuộc về cõi âm, không phải thứ con người có thể đụng vào được. Nó có thể từ từ rút ngắn tuổi thọ của cậu, nếu như giữ quá lâu thì có thể sẽ mất hết tuổi thọ của một đời mất.”

Tôi áy náy phân bua: “Tôi thật sự không biết, tôi chỉ nghĩ nếu lần sau gặp lại thì có thể trả nó lại cho bà ta thôi!”

Bạch Dực dở khóc dở cười nói: “Mà có thể là chính lão bà kia muốn chúng ta đưa trả nó về cho bà ta cũng không chừng. Thôi được, bánh tôi cũng đã ăn, lần này để tôi mang cậu đến chợ quỷ tham quan thử một lần!”

[1] “Làn mưa nhỏ phủ trên đường thẳm, mềm mại như lụa” (thực ra nguyên tác “tô” là bơ – Tô Du Bính ấy mà, nhưng “mềm như bơ” thì nghe hơi buồn cười ^^)

[2] Tá Thọ bà: Bà – mượn – tuổi

Chương 9: Chợ quỷ (Trung)

Thế nào gọi là lối vào âm ty? Mặc dù rất nhiều người từng nói rằng đã chính mắt nhìn thấy Âm Dương giới nơi quỷ hồn cư ngụ, nhưng thực ra nơi đó là một nơi hoàn toàn cách biệt với thế giới con người. Đó là nơi người sống không thể ở, cũng không thể đến, chỉ cần bước chân vào đó là vĩnh viễn trở thành cư dân của nó, không có cách nào quay về dương gian được nữa.

Khi còn bé tôi cũng từng nghe không ít chuyện về âm ty, hầu hết đều là do bà nội kể. Bà nói những người ở đó đều không biết lạnh không biết đói, không có khái niệm về thời gian hay không gian. Bọn họ chỉ cố chấp lập đi lập lại những hành động mà khi còn sống họ còn vương vấn nhất, nếu khi còn sống là một tên cờ bạc, vậy khi chết đi sẽ không ngừng đổ xúc xắc; nếu khi còn sống thích hát xướng, vậy khi chết đi sẽ phải hát xướng từ ngày này sang ngày khác.

Khi đó tôi nghe đến đấy thì đã cảm thấy lạnh buốt sống lưng, nuốt nước miếng ngây thơ hỏi bà: “Bà, tất cả mọi người khi chết rồi đều phải đến đó sao?”

Bà nội sờ sờ đầu tôi mỉm cười trả lời: “Không phải, nếu cả đời làm người tốt thì chết đi có thể đến thế giới cực lạc nha. Không cần phải tới chỗ đó.”

Khi còn bé tôi chỉ biết tin tưởng vào câu nói đó của bà nội, chỉ cần làm người tốt thì không cần phải xuống địa ngục, không cần bước vào lối âm ty. Nhưng lớn lên mới hiểu, một chữ “người tốt” đơn giản là vậy, nhưng lại không dễ làm chút nào. Dù sao đi nữa thì tôi cũng tự thấy mình càng ngày càng cách thế giới cực lạc xa hơn, xem chừng chết đi rồi thế nào cũng phải đến nơi âm u nọ, vĩnh viễn làm đi làm lại một việc. Đó có thể là chuyện gì nhỉ? Tôi tự hỏi rất lâu, cuối cùng kết luận, chắc là việc…ngủ!

Từ khi Bạch Dực nói sẽ đem tôi tới chợ quỷ kia, tôi ngày đêm đều tưởng tượng về nó, trong đầu lúc nào cũng rối tinh rối mù, lo lắng không thôi. Hậu quả là mấy ngày không sao ngủ nổi, cứ vẩn vơ suy nghĩ về chuyện này. Không chỉ vì hiếu kỳ đối với quỷ thành, mà quan trọng nhất chính là do chiếc khăn tay trắng toát kia quá sức chói mắt, mang theo hơi thở chết chóc nặng nề. Mỗi lần về nhà nhìn thấy cái khăn tay móc trên bệ cửa sổ, lại có cảm giác như ngài Bạch Vô Thường[1] đang rình mò bên ngoài vậy, cực kỳ khó chịu.

Không cần biết nơi kia quỷ dị tới mức nào, chỉ cần Bạch Dực bảo cái khăn tay nọ có khả năng ăn mòn sinh mạng của chúng tôi thôi là tôi đã đứng ngồi không yên rồi. Tôi chỉ là một người bình thường, mà có người bình thường nào lại không sợ chết đâu?

Nhưng trái lại, Bạch Dực từ khi ăn cái bánh kia thì hết hẳn bệnh cảm. Thuốc rốt cuộc mua rồi về xếp xó, anh ta cũng không uống, chỉ ngủ một giấc sáng hôm sau đã khỏe mạnh phơi phới hào hứng đi dạy. Tôi âm thầm cảm khái, người như anh ta hạnh phúc biết bao nhiêu, cho dù bị cảm nặng cũng chỉ hắt xì vài cái là xong chuyện.

Hôm nay đã cách ngày hôm đó mấy ngày, tôi vẫn nhịn không dám nhắc, vì sợ can thiệp vào sự chuẩn bị của Bạch Dực, nhưng nhìn anh ta đã mấy ngày trôi qua mà cứ nhơn nhơn như không có chuyện gì, tôi thực sự có hơi mất kiên nhẫn.

Buông giáo án, tôi dùng ngón tay gõ nhè nhẹ lên bàn làm việc của Bạch Dực: “Này, lão Bạch, anh phải tìm cách giải quyết chuyện đó cho sớm đi chứ!”

Anh ta buông tờ bài tập đang chấm dở xuống, ngẩng đầu nhìn tôi hỏi: “Chuyện gì cơ?”

Tôi bị anh ta cắc cớ hỏi ngược lại một câu, lập tức nổi trận lôi đình, trong lòng nghĩ, chỉ có anh mới không sợ chết! Nhưng việc này chỉ có anh ta mới có thể giải quyết, tôi đành nén giận ôn tồn nói: “Lão Bạch, anh quên rồi sao? Cái, cái khăn tay của Tá Thọ bà ấy…!” Vì sợ người ta nghe thấy, tôi bèn đứng lên, nghiêng người tới phía trước thì thầm vào tai anh ta.

Anh ta lại cúi xuống tiếp tục chấm bài, trả lời tôi mà không thèm ngẩng đầu lên nữa: “Cầm thì ũng cầm rồi còn nói sao được nữa bây giờ, cậu cho là chợ quỷ giống chợ chiều gần nhà chúng ta, muốn đi là đi ấy à? Cái khăn tay đó tôi cũng cầm rồi, muốn chết tôi cậu chết chung, sợ gì?”

“Chết tiệt, coi như anh có bản lĩnh có năng lực, tôi không khách khí nói thẳng nhé, tôi không muốn chết, cũng chưa thể chết được! Tôi còn chưa cưới vợ, cũng không nghĩ tới việc nắm tay một thằng đàn ông khác chết chung, nhé!” Tôi biết mình đang rất quá đáng, nhưng quả thực tôi rất sợ những thứ kia. Tuy nhiều người có thể gọi đấy là mê tín, nhưng đó là chỉ khi họ còn chưa thực sự đụng chuyện mà thôi. Còn nếu đã gặp, mọi người sẽ thấy nó không còn là mê tín nữa. Người Trung Quốc gọi đó là mạng, còn người nước ngoài, văn vẻ hơn, thì gọi là định mệnh…

Bạch Dực nhìn dáng vẻ hoang mang sợ hãi của tôi, thở dài một hơi: “Gấp cái gì! Cái khăn đó ở lại đây ít lâu cũng không lập tức hại chết chúng ta được, chúng ta cũng đã ăn bánh của bà ta rồi còn gì, có biết cái gì gọi là triệt tiêu lẫn nhau không?”

Tôi nghe thế liền gật gù, nhưng rồi nhất thời lại đem lòng tiếc số mệnh vừa bị “trung hòa” này. Nếu không, được sống thọ hơn chút đúng là một chuyện may mắn.

Bạch Dực nhìn mớ bài tập trước mặt, lại xoay người nhìn ra sắc trời ngoài cửa sổ rồi quay lại nói với tôi: “An Tung, không cần gấp, tối nay là lúc chúng ta tới chợ quỷ, cậu phải đi mua cho tôi vài thứ, tối nay sẽ cần tới. Thực sự lần này đi tới ‘chỗ đó’ cực kỳ nguy hiểm, cậu nhất định đừng mua nhằm thứ giả đó.”

Tôi chớp chớp mắt mấy cái: “Vậy tức là anh cũng không dám chắc chúng ta có an toàn trở ra hay không?! Vậy mà anh còn thảnh thơi đến thế?” Thật sự quá mức khâm phục cái cá tính thấy chết không sờn này của Bạch Dực, nhưng vấn đề là anh ta cứ việc không sờn cái mạng của anh ta, còn tôi vẫn còn quý mạng mình lắm!

Bạch Dực cười cười: “Tôi chỉ nói tôi có cách đi vào đó, còn có thể an toàn đi ra hay không là tùy vào may mắn của chúng ta tới đâu. Nhưng cái khăn tay kia mà không trả lại thì sớm muộn gì chúng ta cũng thành cư dân vĩnh viễn của nơi đó luôn!”

Tôi xụ mặt xuống, nghĩ thầm, biết vậy thì từ đầu đừng thèm bắt chuyện với bà già kia cho đỡ khổ, giờ thì hay rồi, đã không có gì có lợi còn đẩy cả hai vào nguy hiểm như vậy. Cắn cắn môi, cuối cùng tôi ngẩng lên dứt khoát nói với Bạch Dực: “Vậy còn lo lắng làm gì! Mau nói cho tôi biết phải mua cái gì, tôi đi mua ngay bây giờ!”

Bạch Dực rút giấy bút ghi nhanh mấy từ, sau đó giật tờ giấy ra đưa cho tôi: “Nhớ kỹ đừng mua nhầm, phải hoàn toàn khớp với yêu cầu đấy, bằng không có khi không về được nữa đâu!”

Tôi run run nhận tờ giấy, nhìn qua một chút, càng nhìn càng cảm thấy kỳ quái.

Trên tờ giấy của Bạch Dực chỉ có vài hàng nguệch ngoạc: bốn cây nến trắng, nhưng phải là loại chống được gió, một lượng máu chó mực vừa phải, một cái đầu gà trống, một xấp vàng mã, hai cái chuông đồng.

Tôi nhìn kỹ tờ giấy, lại ngẩng lên nhìn Bạch Dực: “Lão Bạch, thật sự chỉ cần mấy thứ này thôi sao? Sao giống như đi tảo mộ vậy?”

Bạch Dực cười cười: “Đúng thế, mấy thứ này rất cần để chúng ta có thể lọt vào đó an toàn.”

Tôi lo lắng hỏi: “Còn mấy thứ như Khai Quang Phù, Mật tông pháp khí gì đó thì sao?”

“Mấy thứ đó cậu mua nổi à?” Bạch Dực cười nhạo.

Tôi tự động lắc đầu, mấy thứ kể trên, nếu đúng là hàng thật, thì có khi còn đáng giá bằng mấy tháng lương còm của tôi ấy chứ, làm sao mà mua nổi…

Vì vậy anh ta thở dài: “Chỉ cần mấy thứ này được rồi, dù sao thì mấy thứ trên cũng không có tác dụng nhiều lắm đâu…”

Tôi gật đầu, yên lặng gấp tờ giấy lại cẩn thận nhét sâu vào túi.

Hoàn thành xong tiết Mỹ thuật cuối cùng trong ngày, tôi soạn vội sách vở, cho học trò tan học rồi nhanh chóng chạy ra chợ. Thời gian thực sự quá gấp, Bạch Dực nói trong những thứ liệt kê có những thứ chỉ mua được ở những cửa hàng nhất định, cho nên tôi không dám rẽ bừa vào những cửa hàng tạp nham bên đường, chỉ sợ nếu là hàng giả thì hai cái mạng của chúng tôi cũng bị nó hại cho đi luôn. Cái xe đạp bị tôi đạp như đang cưỡi mô tô chạy từ đầu chợ tới cuối chợ, đi một hai vòng như vậy thì những thứ cần thiết căn bản cũng mua xong.

Chỉ còn lại máu chó mực, thực sự tìm không ra. Tôi đi hết những sạp bán thức ăn đều không có, mà cho dù có thì cũng là máu chó vàng chó trắng này nọ, không có máu của chó đen tuyền.

Trong tay xách theo một đống túi lớn bọc nhỏ, tôi đau khổ ra chỗ bán rau ngoài đầu chợ, ngồi xổm xuống bên cạnh cái xe đạp. Lúc này đang là mùa đông nên ngày rất ngắn, thoáng cái mà mặt trời chỉ còn là một vạch hồng mỏng mang ở chân trời phía tây. Trời còn chưa tối hẳn, nhưng đèn đường đã lần lượt sáng lên, tràn ra lòng đường một loại ánh sáng vàng cam nhợt nhạt. Hôm nay là ngày trăng tròn, mặt trăng lúc này đã sáng rực lên, tỏa ra ánh sáng màu ngọc trai bàng bạc, giữa sắc trời xam xám nhạt nhòa, vầng trăng cũng dường như trong suốt. Ánh sáng trăng lúc này cực kỳ huyền hoặc, giống như đang câu hồn người. Giống như chúng ta ngắm trăng, rồi lại phát hiện nó cũng đang ngắm nhìn chúng ta vậy.

Chán nản gục đầu xuống, tôi đau khổ nghĩ vì sao bản thân lại xui xẻo tới vậy, chỉ cần ngày hôm đó đừng có nói chuyện với Tá Thọ bà, thì lúc này đâu đến nỗi…Rõ ràng lúc đó bà ta không muốn tiếp cận tôi, tai bay vạ gió này là do tự tôi rước vào thân, thật sự không còn gì để chối…

Tôi lau mặt, thở dài, trong lòng đã rối tung lên. Nhưng vừa lúc vô tình liếc mắt xuống dưới gầm cái xe đạp dựng cạnh đó, đột nhiên phát hiện dưới xe là một con chó đang nằm, cả người đen bóng! Tôi dụi dụi mắt mình, chỉ sợ bị hoa mắt. Nhưng không, con chó mực kia vẫn đang bình thản nằm không nhúc nhích dưới gầm xe! Đôi mắt tôi sáng rỡ lên, trong lòng cảm ơn trời cảm ơn đất rối rít.

Con chó kia cũng không lớn lắm, là một con chó con, bộ lông đen thuần một sắc không có lấy một sợi lông tạp, bóng loáng như bôi dầu. Nó nằm dưới một cái xe đạp, mắt nhắm nghiền, dường như đang ngủ.

Tôi buông cái túi trong tay xuống, rón rén từng bước tiến tới gần cái xe đạp, chậm rãi nhẹ nhàng cúi người xuống, từ từ bò tới bên cái xe… hai tay mở ra chuẩn bị tóm lấy con chó…Đột nhiên một đôi tay to lớn nặng nề hạ xuống vai tôi, tôi giật bắn người ngẩng lên, hóa ra là ông già trông xe. Ông ta kéo tôi ngã dúi xuống, một tay của tôi cũng bị ông ta bẻ quặt ra phía sau, giống như cảnh sát bắt ăn trộm vậy. Tôi đau tới mức hét ầm lên.

Ông già cũng hét lên: “Dám có can đảm tới đây ăn trộm xe của ông đây, thằng nhãi con này muốn chết rồi phỏng?”

Tôi đau tới mức nước mắt nước mũi giàn dụa, hổn hển nói: “Đại gia, ôi đại gia, ông buông ra, cháu, cháu không có ăn cắp xe đạp, cháu, cháu chỉ cần con chó kia thôi…!”

“Nói dóc!” Ông già rõ ràng không tin, dùng lực bẻ tay tôi một cái, tôi đau đến mức hét lên, một đám người liền ùa tới vây quanh chỉ chỉ trỏ trỏ, có vẻ ai cũng nghĩ tôi đúng là ăn trộm xe.

Tôi vội vã hô to: “Đại gia, đại gia đại ân đại đức, cháu thật sự không ăn cắp xe đạp mà! Cháu là giáo viên, giáo viên đó! Trong túi áo của cháu có thẻ chứng nhận công tác đấy, không tin ông tự xem đi!!!”

Ông già rút cái ví từ túi áo của tôi ra, thấy chứng minh thư, hai tay mới thoáng thả lỏng ra, nhưng vẫn không buông tha. Tôi âm thầm kêu khổ, tự hỏi sao lão già này lại mạnh tới vậy chứ! Ông ta mà ra tay mạnh thêm chút nữa thì tay tôi đã trật khớp rồi. Ông ta quay sang tôi hỏi: “Vậy cậu rình mò bên đống xe đạp làm cái gì? Không ăn cắp xe cần gì phải lén lút như vậy?”

Trong lòng tôi kêu khổ không ngừng, đã bảo mấy lần là vì con chó kia thôi mà. Đang khi chuẩn bị giải thích, chợt tôi nhìn thấy thấp thoáng bóng dáng của Bạch Dực trong đám đông người xung quanh, liền gào to: “Lão Bạch, mau tới giúp tôi đi! Lão Bạch!!!”

Bạch Dực không cam tâm tình nguyện chút nào nhưng vẫn phải tiến tới, vì mọi người đều nhìn sang anh ta. Anh ta ho khan bước về phía tôi, nói với ông già: “Đại gia, ông thả cậu ta đi, cậu ta thực sự không muốn ăn cắp xe đâu…Chỉ muốn mượn ít máu của con chó nhà ông nuôi thôi.”

Đúng là phân biệt đối xử, ông già vừa nhìn thấy Bạch Dực thì đã tỏ ra hòa hoãn hẳn, nhanh chóng bỏ tay tôi ra, sau đó chỉ vào con chó nói: “Cậu muốn máu của con chó này? Không được không được, vậy nó sẽ chết mất còn gì!”

Bạch Dực vội vã nói: “Không không, không chết đâu mà sợ, chỉ cần một chút máu của nó thôi mà.”

Ông già do dự hồi lâu vẫn có vẻ không muốn đồng ý. Bạch Dực cảm thấy ông ta ngần ngừ, liền lập tức bồi thêm một đòn: “Đại gia yên tâm, chỗ này có 100 đồng, coi như là tiền chúng tôi mua máu của con chó nhà ông!” Nói xong lập tức móc trong túi ra 100 đồng.

Ông già thấy tiền đã lập tức đồng ý. Lại còn hăng hái lấy dao bầu trong nhà mình ra chuẩn bị lấy máu con chó.

Con chó con này quả thực rất tinh ranh, vừa thấy chủ nhân cầm dao bước tới, nó không bỏ chạy nhưng trong mắt hiện lên vẻ cầu xin tha thiết, sau đó rên lên những tiếng cực kỳ đáng thương như đang cầu xin tha thứ.

Ông già nhỏ nhẹ trấn an nó, sau đó nhanh như chớp rạch một đường trên đùi con chó. Máu tươi lập tức chảy ra, con chó rít lên đau đớn, có lẽ do quá đau nên cả cơ thể bé nhỏ cứ run bắn lên. Bạch Dực nhanh như chớp nắm lấy chân nó, cầm chén hứng đủ một chén, sau đó sờ sờ đầu nó, quay lại nói với ông già: “Đại gia, cảm ơn ông đã giúp đỡ. Ông nên nuôi con chó này thật tốt, nó có thể giúp ông tránh được nhiều tai họa đấy.”

Ông lão gật đầu, cầm 100 đồng, bế con chó lên đi băng bó.

Cầm chén máu chó trong tay, tôi bước tới bên cạnh Bạch Dực, anh ta đang giúp tôi nhặt mấy cái túi lên, thở dài: “Tôi biết thế nào cậu cũng mua thiếu món này, nhưng không ngờ cậu dám trở thành ăn trộm cơ đấy!”

Tôi vừa nghe thế lập tức phản bác: “Nếu anh đã biết tôi chắc chắn mua không được máu chó sao còn bắt tôi đi?! Mà sao anh cũng có mặt ở chỗ này?” Thực ra tôi cảm thấy rất thắc mắc, vì bình thường anh ta không bao giờ chịu đi chợ.

Anh ta nhìn sang tôi: “Vì ở cái chợ này chỉ có một mình con chó này là chó mực hoàn toàn thôi, hơn nữa còn có linh tính. Trước đây vô tình đi ngang qua tôi mới phát hiện ra, cho nên mới nghĩ nếu cậu mua không được thì để tôi ra đây xin ông già kia một ít.”

“Đã biết là có sẵn thì còn tìm mua làm cái gì, hả! Lão Bạch…anh cứ chờ đó…cứ chờ đó!!!” Run run cầm cái chén trong tay, tôi rít lên.

Bạch Dực chớp chớp mắt thản nhiên nói: “Vì nếu cậu mua đâu đó được thì chỉ mất 50 đồng, cậu vốn là người tiết kiệm mà. Đừng quên, mấy thứ này đều phải cưa đôi tiền!”

Tôi ngớ người, nhìn Bạch Dực cười toe toét bước phía trước, đột nhiên có một loại khao khát muốn cầm chén đổ ào lên đầu anh ta[2], mà nguyên nhân duy nhất ngăn tôi không ra tay… chỉ là vì cái chén này vét của tôi tới 50 đồng!!!

Đem hết mấy thứ này về nhà xong, Bạch Dực bắt đầu lục đục làm gì đó không biết, tôi ngồi bên cạnh anh ta háo hức mở to mắt nhìn, anh ta đột nhiên dừng lại nhìn tôi: “Đến giờ ăn rồi đó, đi xuống dưới nhà mua hai tô mì lên đi, nhớ cay cay một chút.”

Tôi ngẩn ra, nhưng cũng cho là phải, nên gật đầu xuống lầu mua mì, nhưng khi đóng cửa vẫn không kìm được hiếu kỳ mà liếc vào phòng thêm một lần. Chỉ thấy Bạch Dực lôi dưới gầm giường anh ta ra hai cái hộp, nhìn chúng hồi lâu như đang cân nhắc cái gì. Tôi có ý chờ xem anh ta sẽ làm gì với hai cái hộp thì đã nghe giọng Bạch Dực vang lên: “Nhìn cái gì mà nhìn, nhanh nhanh xuống mua mì đi. Không thấy đói bụng à?”

Tôi vội vàng đóng cửa xuống lầu, chột dạ nghĩ sao anh ta biết tôi đang lén nhìn nhỉ? Chẳng lẽ sau gáy có mắt sao? Tôi lắc lắc đầu, mặc kệ, dù sao đến lúc này cũng chỉ còn biết trông chờ vào anh ta, bằng không những chuyện sau này thật không dám tưởng tượng tới nữa. Tôi nhanh chân xuống nhà dưới mua hai tô mì tương ớt, còn đặc biệt bảo người bán hàng cho nhiều ớt một chút. Có lẽ ông bán hàng là người Tứ Xuyên, vừa nghe nói “nhiều ớt” là lập tức dốc thẳng nửa lọ tương ớt vào hai cái tô. Tôi toát mồ hôi nhìn hai tô mì đỏ lòm, chưa ăn đã cảm thấy dạ dày âm ỉ đau.

Khi quay về phòng, Bạch Dực dường như đã chuẩn bị mọi thứ xong xuôi. Trên bàn bày hai cái hộp hình chữ nhật đứng bằng gỗ màu nâu hồng, khắc hoa văn tinh xảo, nhưng mà… nhưng mà… nhìn sao cũng giống hệt như hai cái hũ đựng tro cốt! Mà trên mặt còn dán hai tấm hình của tôi và Bạch Dực! Hai tấm hình này được chụp trong dịp làm thẻ chứng nhận công tác, tôi thường hay chặn nó dưới tấm kính lót bàn. Không ngờ lại bị Bạch Dực đem ra… dán lên hũ đựng cốt! Thật là quá lắm!

Trong tấm ảnh chụp, tôi đang nở một nụ cười cứng ngắc, đành chịu, tôi vốn không phải một người ăn ảnh. Lúc bình thường không thấy gì, nhưng chỉ cần tấm ảnh bị đặt vào một vị trí khác thường thế này, lập tức cho tôi một cảm giác lạnh toát sống lưng. Không ngờ có ngày lại tận mắt nhìn thấy ảnh mình trên hũ đựng cốt… Mà kinh dị nhất là Bạch Dực cũng không ngần ngại gì dán ngay ảnh chính mình lên cái hũ còn lại.

Tôi kích động chỉ vào hai cái hũ lắp bắp hỏi: “Lão Bạch, đây là ý gì thế? Chúng ta đang sống sờ sờ ra đây mà anh đã lo hậu sự rồi là sao?!”

Bạch Dực chỉ liếc tôi một cái rồi không thèm trả lời, thản nhiên đứng dậy lấy hai đôi đũa tới đưa cho tôi một đôi, sau đó ngồi xuống ăn mì: “Ăn trước đi, sắp tới giờ rồi. Ráng ăn cho hết, hôm nay là cơ hội duy nhất có thể tự do vào chợ quỷ đấy.”

Tôi quay đi không nhìn hai cái hũ nữa, lúc này mới có can đảm bưng tô lên bắt đầu ăn, bởi vì thực sự cái cảnh mình nhìn chằm chằm vào hũ đựng cốt của mình mà ăn mì thì có lẽ trên đời này chỉ có hai chúng tôi mới được trải nghiệm mà thôi. Tôi ăn tô mì của mình rất nhanh, vì nó quá cay nên khi ăn xong thì đầu lưỡi của tôi cũng đã tê rần. Bạch Dực cũng ăn rất nhanh, khéo léo vớt hết mì, để tô sang một bên, sau đó nói với tôi: “Mọi thứ tôi đã chuẩn bị xong cả rồi, bây giờ cậu phải dẫn tôi tới cái ngõ hẻm nơi cậu đã gặp Tá Thọ bà ấy, trên đường đi tôi sẽ chỉ cho cậu biết phải làm gì.” Nói xong anh ta đưa cho tôi hũ đựng cốt “của tôi” cùng một tấm vải đen. Còn anh ta thì tự cầm cái hũ của mình, bọc trong một tấm vải đen, lưng đeo ba lô. Tôi cũng học theo anh ta bọc cái hũ trong tay mình vào tấm vải đen nọ, sau đó ôm chắc nó trong tay cùng Bạch Dực ra khỏi nhà.

Trời đã hoàn toàn tối đen lại, chứng tỏ lúc này đã khá khuya. Trên đường chỉ còn vài người lác đác bước ra từ những nhà tắm công cộng, vì thế hai chúng tôi, mỗi người cầm trong tay một tấm vải đen bọc hũ đựng cốt, trở thành trung tâm thu hút sự chú ý tò mò của người đi đường.

Tôi dẫn anh ta tới con hẻm lần trước, lúc này trông nó cực kỳ quạnh quẽ, vì nơi này vốn dơ bẩn nên bình thường cũng không có ai đặt chân vào. Trong không khí ngập ngụa một mùi hôi khó chịu. Tôi cau cau mũi, chỉ vào con đường nhỏ trước mặt ra hiệu cho Bạch Dực là ở đây.

Ánh trăng tròn còn sáng hơn cả những ngọn đèn đường chớp tắt xung quanh, soi rọi con hẻm nhỏ. Bạch Dực không tiến tới, chỉ chằm chằm nhìn vào con đường hẹp dài trước mặt. Tôi tự nhiên cảm thấy do dự, không biết anh ta sẽ làm cách nào để vào được quỷ thành, chợt anh ta quay lại nhìn tôi mỉm cười: “An Tung, yên tâm, không sao đâu. Bây giờ tôi sẽ nói cho cậu biết cách đi, cậu theo sát tôi, tuyệt đối không được buông cái hũ trong tay xuống, cho dù bất kỳ chuyện gì xảy ra, cho dù như thế nào đi nữa, cái hũ này cũng không được rời tay. Hiểu chưa?”

Tôi bất an gật đầu, Bạch Dực hiếm khi nào lại nghiêm túc tới mức này. Anh ta lấy ra hai ngọn nến châm lên, một đặt bên chân tôi, một đặt dưới chân chính mình, sau đó dùng máu chó vẽ một vòng tròn xung quanh hai ngọn nến. Ngọn nến liên tục lập lòe lay động, ngọn lửa xanh dài mấy lần bị gió liếm như sắp tắt. Một tầng khói mỏng xám trắng nhẹ nhàng uốn lượn xung quanh hai chúng tôi. Tôi mua loại nến phòng được gió, nên chỉ cần không phải là phong ba bão táp thì nến sẽ không tắt dễ dàng.

Còn lại hai cây nến, Bạch Dực cũng đốt lên, sau đó nhét một cây vào tay tôi. Tôi nhìn ngọn nến trong tay mình, sau đó lại ngơ ngác nhìn sang Bạch Dực, thấy anh ta nghiêng nghiêng cây nến trên nắp hũ đựng cốt cho vài giọt sáp tan chảy rơi xuống, sau đó cắm cây nến lên đỉnh hũ, tôi cũng cứ thế ngơ ngác làm theo.

Bạch Dực nhìn tôi gật đầu, sau đó dùng một ngón tay đặt lên môi, ý bảo không được nói, lại lấy hai cái chuông ra, một treo vào thắt lưng mình, một treo cho tôi, rồi lầm bầm gì đó trong miệng mà bắt đầu tiến về phía trước. Những ngọn gió sắc lạnh mùa đông thổi qua con hẻm nhỏ tối tăm cuốn theo những chiếc lá vàng rơi trên đất, phát ra những âm thanh sột soạt.

Tôi theo sau lưng Bạch Dực, nhìn anh ta dùng ngọn lửa của cây nến lần lượt đốt từng tờ vàng mã, vừa đốt vừa lẩm bẩm gì đó không rõ. Con hẻm này dường như còn thông với những con hẻm khác nữa, vì chúng tôi cứ thế đi hết con hẻm này tới con hẻm khác. Khói xám tỏa ra từ những tờ vàng mã bị đốt không ngừng lượn lờ xung quanh, cảnh vật xung quanh cũng như nhòe đi, mùi ẩm thấp gay mũi của vàng mã như muốn đè bẹp cả mùi rác rến xung quanh. Lúc này trong con ngõ nhỏ chỉ có tiếng bước chân của tôi và Bạch Dực cộng với tiếng chuông nho nhỏ lanh canh bên hông, còn lại đều lờ mờ thành một màu đen đen xam xám, đến cuối cùng thì tôi cũng chẳng còn phân biệt được liệu đây có phải là con hẻm gần trường học hay không nữa, chì biết không ngừng tiến lên phía trước.

Chúng tôi giữ im lặng hoàn toàn, ánh trăng sáng lúc nãy không biết tự bao giờ đã bị che khuất gữa tầng tầng mây đen kịt, bốn phía chỉ còn ánh sáng leo lét yếu ớt từ hai ngọn nến của tôi và Bạch Dực mà thôi. Trong gió, ngọn lửa chập chờn lúc mạnh lúc yếu, rọi hai cái bóng vặn vẹo lên bờ tường xung quanh. Bóng tối như đã nuốt chửng toàn bộ hơi ấm của mặt đất, tôi chỉ cảm thấy quanh mình ớn lạnh từng hồi, tô mì tương ớt cay nóng bỏng lưỡi lúc nãy đã biến mất đi đâu không rõ.

Chương 10: Chợ quỷ (Hạ)

Không biết đã đi bao lâu, cuối cùng dường như cũng tới được cuối ngõ, nương theo ánh sáng lờ mờ của ngọn nến có thể nhìn thấy một bức tường cao đen đen trước mặt. Nhưng Bạch Dực cứ như không nhìn thấy gì, cứ thế tiến lên phía trước. Tôi muốn kéo anh ta lại nói cho anh ta phía trước là bờ tường, không thể đi qua được, nhưng không hiểu sao mọi lời nói cứ như tắc lại trong cổ họng, không thể thốt nên lời. Trước mặt tôi, Bạch Dực vẫn đi thẳng tới, tôi cũng chỉ biết run run cắn chặt môi, cùng Bạch Dực tiến lên.

Theo từng bước chân, lại cảm thấy choáng váng cả đầu, mắt mũi cũng càng lúc càng nhập nhèm đi như say rượu vậy, tôi lắc mạnh đầu, nỗ lực giữ cho bản thân không ngã sấp xuống.

Lúc này Bạch Dực đi rất chậm, nhưng những lời rì rầm trong miệng của anh ta lại càng lúc càng to lên, tuy tôi không nghe được bất kỳ lời nào có nghĩa, nhưng phát hiện anh ta cứ niệm xong một câu lại tiến lên một bước. Tôi theo sát bên cạnh anh ta, hai chúng tôi cứ thế chậm rãi đi về phía bức tường, thế nhưng thật kỳ quái, chúng tôi càng tiến lại gần nó, nó dường như lại càng rút ra xa chúng tôi hơn, bức tường mà tưởng như chỉ đi vài bước là đụng phải nay càng lúc càng lùi xa, cuối cùng biến mất hẳn.

Đi khoảng trên dưới 100 bước, bức tường đã không còn thấy đâu nữa, chúng tôi đặt chân trên một con đường nhỏ, tuy không trông rõ cảnh tượng bốn phía, nhưng tôi dám khẳng định nó không còn là con hẻm nhỏ gần trường lúc nãy nữa. Tôi quay lại phía sau, chỉ thấy một mảnh đen kịt, xa xa truyền tới tiếng lá reo soàn soạt. Nhưng ở một nơi rất xa rất xa, vẫn thấp thoáng hai điểm sáng lập lòe bé nhỏ.

Bạch Dực không rì rầm nữa, anh ta vừa đi vừa nói với tôi: “Chúng ta đang ở trên đường Âm Dương, hai ngọn nến phía sau chúng ta có máu chó bảo vệ, còn có phù chú, người thường nhìn không thấy, mà ma quỷ cũng không lại gần được. Nó là ngọn đèn chỉ đường của chúng ta, nhất định chúng ta phải trở về trước khi nó kịp tắt. Nếu không, chúng ta sẽ lạc đường giữa lối âm ty ngang dọc này.”

Hơi lấy lại bình tĩnh, tôi cúi đầu nhìn ngọn nến trong tay đã cháy sắp tới phân nửa, nghĩ nó giống như một loại đồng hồ báo giờ, vì vậy gật đầu nói: “Tức là trước khi ngọn nến này cháy hết thì cho dù chuyện có xong hay không thì chúng ta vẫn phải trở về đúng không? Vậy đừng tốn thời gian nữa, đi thôi!” Tôi vừa nói vừa bước tới.

Bạch Dực gật đầu rồi cũng nhanh chóng bước theo. Mỗi bước chúng tôi đi, cái chuông đeo bên hông lại vang lên những tiếng ngân trong trẻo, không biết có phải là ảo giác hay không mà tiếng chuông ở đây dường như ngân xa hơn, vang vọng khắp bốn phía. Xung quanh đột nhiên xuất hiện thêm rất nhiều cái bóng lảo đảo tiến tới, như thể bị tiếng chuông hấp dẫn vậy.

Tôi bối rối nhìn quanh, sau đó vô tình nhìn lên trời. Ánh trăng đã lại hiện ra tròn vành vạnh, nhưng ánh sáng ôn nhuận như nước của nó không biết tự bao giờ đã biến mất, mặt trăng hóa thành đỏ rực như máu, thứ màu sắc như máu chảy này thật khiến người ta bất an.

Bùn đất trên đường cũng cực kỳ nhuyễn và ẩm ướt, mỗi bước có cảm giác như đang đạp lên sợi bông mà đi, lúc nào cũng dường như sắp lún xuốn, vì thế tôi không dám nhìn lung tung xung quanh nữa, chỉ chuyên chú nhìn thẳng phía trước mà tiến tới.

Hai người chúng tôi chậm rãi im lìm đi trên đường, tay cầm hũ đựng cốt, như thể hai người đang đi đưa ma mà tiến bước trên con đường nhỏ hẹp hoang vắng, chỉ có tiếng chuông không ngừng ngân nga. Dần dần tôi cảm thấy cái hũ càng lúc càng nặng xuống, đất dưới chân càng lúc càng xốp, bước chân của tôi càng lúc càng khó khăn, giống như đang phải lê bước trên một tấm nệm thật dày.

Bạch Dực nhìn sang tôi, anh ta rõ ràng cũng đang phải cố hết sức, nhưng cho dù như thế thì cả hai chúng tôi đều không thể đổ một giọt mồ hôi nào, cái cảm giác khô ráp này thật khiến người ta cảm thấy cơ thể như muốn bị rút kiệt.

Tôi ra sức ôm cái hũ càng thêm chặt, chỉ sợ nó rơi từ trên tay xuống, nhướn mắt nhìn về phía trước nhưng chỉ nhìn thấy một trời khói trắng xóa. Càng lúc nhiệt độ xung quanh càng xuống thấp, trong không khí dày đặc sương mù ẩm thấp lạnh tới xương.

Cái hũ thực sự càng lúc càng nặng, mà người tôi càng lúc càng nhẹ đi, không còn đủ sức giữ nó nữa, tôi cắn chặt răng, trong lòng tâm niệm câu Bạch Dực nói là cho dù chuyện gì xảy ra đi nữa cũng tuyệt đối không được buông hũ. Thoáng liếc qua Bạch Dực, tôi thấy trên mu bàn tay của anh ta cũng nổi đầy gân xanh, những khớp ngón tay cứng còng lồi hẳn ra ngoài lần da, chứng tỏ anh ta cũng đang khổ sở như tôi vậy.

Phía trước vẫn là một mảnh trắng xóa, tôi thở dài cúi đầu xuống nhìn đường, nhưng dưới chân tôi nào đâu phải là đất đá! Rõ ràng là một tập hợp những gương mặt khác nhau, có cười, có khóc, có vui, có buồn, thập phần quái dị. Biểu hiện trên những gương mặt này cực kỳ đơn điệu, chỉ có một loại cảm xúc duy nhất chứ không có những loại tình cảm nào khác.Giữa đám gương mặt, tôi có cảm giác như thoáng nhìn thấy Nghiêm Thừa và Chu Linh, bọn họ bỡn cợt nhìn tôi, khuôn miệng há hốc, những đường nét vặn vẹo. Bốn phía rùng rùng nổi lên những tiếng người ồn ào, có lúc như đang khóc, có lúc lại như đang cười, gió thổi càng thêm lạnh lẽo, tiếng rên la xung quanh càng thêm bi ai.

Tôi sợ run lập cập, suýt chút nữa là cái hũ đã tuột khỏi tay rơi xuống đất. Bạch Dực lập tức đỡ lấy tôi, đầu tôi dựa vào lồng ngực của anh ta, lại bất thần phát hiện, anh ta…tim không đập! Vô thức thu lại hai tay ôm lấy cái hũ vào ngực mình, không biết nên gọi là y như rằng, hay nên gọi là ngoài dự tính mà phát hiện bản thân… cũng không có tiếng tim đập! Trong nháy mắt đầu tôi như vừa nổ tung ra, thật đáng sợ, chẳng lẽ chúng tôi đã chết rồi sao?! Đột nhiên, tôi kích động chỉ muốn quay đầu lại bỏ chạy.

Bạch Dực dường như cảm thấy tôi định làm gì, vì anh ta đột nhiên giữ chặt lấy người tôi. Tôi ngơ ngác ngẩng lên nhìn, thấy ánh mắt anh ta vẫn bình tĩnh như thường lệ, nhưng đôi môi mím chặt, hiển nhiên là vì anh ta đã dùng một tay giữ lấy tôi, chỉ còn có một tay giữ cái hũ của mình. Có lẽ thực sự là do quá cố sức nên tay anh ta run lẩy bẩy, tôi sợ cái hũ của anh ta rơi xuống đất nên cứng người lại không dám động đậy nữa. Anh ta nhìn tôi hồi lâu, sau đó khó khăn mở miệng nói: “Đừng…quay đầu lại, tin…tôi, tiếp tục đi.”

Tôi nhắm chặt mắt, lấy lại bình tĩnh, thầm tự nói với mình: không được quay đầu lại, không được hại chết Bạch Dực, vì tôi gây chuyện mà anh ta lại phải tới đây, cho dù có gian nan cách mấy cũng phải giúp anh ta sống sót quay về. Tôi làm tôi tự chịu, không thể liên lụy tới anh ta!

Khi mở mắt ra lần nữa, những gương mặt lúc nãy đã biến mất, con đường lại trở về thành con đường như cũ. Bạch Dực nhìn sang tôi, ánh mắt cực kỳ ôn hòa. Đột nhiên tôi thật muốn nhìn anh ta mỉm cười, cái hũ trên tay vẫn nặng nề như cũ, nhưng ít ra tôi không phải chỉ có một mình, còn có Bạch Dực, ít ra anh ta vẫn ở bên cạnh tôi.

Tôi khó khăn nhếch nhếch môi cố vẽ thành một nụ cười, nhưng có lẽ lúc này trông tôi còn khó coi hơn đang khóc. Bạch Dực không thu tay về, vẫn một tay đỡ tôi một tay ôm cái hũ của mình, tôi biết anh ta muốn dìu tôi đi. Tôi định đẩy tay anh ta ra, nhưng hai bàn tay tôi lúc này đã lạnh băng, cứng còng lại, khi cố sức cử động tay, tôi phát hiện trong cơ thể mình máu không còn tuần hoàn nữa. Cánh tay không nghe lời tôi nữa, tôi chỉ đành liếm liếm đôi môi khô khốc mà ra sức tiến tới. Cái hũ cứ thế càng lúc càng nặng, chúng tôi cứ thế vừa đỡ vừa dìu nhau, từng bước vẫn cứ thế gian nan, nhưng không thể quay đầu lại, chỉ có thể tiếp tục đi.

Tiếng chuông ngân nga bên tai như muốn giữ cho ý thức của chúng tôi không bị trôi đi mà càng thêm vang dội, quanh quẩn khắp nơi trên con đường.

Chúng tôi dần dần nhìn thấy một vài điểm sáng màu xanh lục phía trước, Bạch Dực nhẹ nhàng nói bên tai tôi: “Sắp tới rồi, cố thêm một chút.”

Tôi gật đầu, vốn muốn thở phào một cái, nhưng chúng tôi lúc này đã không còn hô hấp nữa, thật chẳng khác nào hai xác chết có ý thức.

Ánh sáng đèn càng lúc càng gần, tôi phát hiện hóa ra chúng là những ngọn đèn lồng, nhưng lại màu xanh lè, chúng xâu lại với nhau thành hai chuỗi treo dài dài tới tận một cái cổng thờ ở phía đầu đường, xung quanh không có gió nhưng chúng vẫn nhẹ nhàng lắc lư. Cổng thờ sơn toàn bộ một màu đỏ rực, đỏ tới nỗi đổ thành màu đen, trên hai cái cột chạm khắc những hình thù ma quỷ mặt xanh nanh vàng, trên đầu cổng thờ đề bốn chữ đại tự màu son đỏ: U Minh Quỷ Thị.

Ánh sáng phía trước vẫn rất mờ ảo, bốn phía chập chờn sương trắng, nhưng vẫn có thể cảm thấy bên trong cổng thờ có rất nhiều người, con đường cũng không phải là bùn đất nữa mà lát đá tảng. Kiến trúc xung quanh trông không rõ lắm, chỉ mơ hồ thấy được những bờ tường xám ngắt, rõ ràng là phong cách kiến trúc Huy phái, nhưng cột nhà và cửa sổ đều sơn màu đỏ rực, giống như kiến trúc thời kỳ Minh – Thanh.

Tôi biết chúng tôi đã chính thức bước vào chợ quỷ. Vừa bước chân qua khỏi cổng thờ thì sương mù cũng đột ngột tan hết, chỉ để lại những đường khói xám rất mỏng mang theo hơi nước giăng giăng xung quanh. Bên tai đột nhiên tràn ngập thanh âm, có hò hét, có nói chuyện, nhưng lại không nghe rõ bọn họ đang nói gì, chỉ cảm thấy âm điệu bình bình ngang ngang, không có chút lên xuống nào. Cảm giác này quả thực đáng sợ, tuy xung quanh ồn ào náo nhiệt là thế, vậy mà vẫn cảm thấy tĩnh lặng đến gần như áp lực.

Xung quanh rộn ràng nhốn nháo như một cái chợ thứ thiệt. Nhưng mọi người đều mặc áo liệm, đội một cái mũ cao cao, là loại mũ đội cho người chết bằng sa tanh. Bọn họ giống hệt như người sống, nhưng chỉ khác ở chỗ là trên mặt bọn họ cứng đờ không có cảm xúc, bọn họ làm tất cả mọi thứ với một vẻ mặt lạnh băng, không hỉ nộ ái ố. Tôi nhìn bọn họ như đang nhìn một vở kịch quái dị.

Bạch Dực không thèm để ý tới người khác, chỉ chăm chăm tìm kiếm Tá Thọ bà trên đường. Ta đi theo anh ta, phát hiện trong chợ này bán toàn những thứ dành cho người chết, ví dụ như bán áo liệm, khố liệm…ngay cả giường chiếu gối đầu cũng đều là loại dành cho người chết, hai đầu gồ lên, ở giữa lõm xuống. Tiền bạc bọn họ trao đổi là tiền vàng mã nguyên bảo và cả tiền giấy bình thường, nhưng rõ ràng tiền vàng mã có giá hơn, tiền giấy có giá trị khá thấp.

Có cảm giác ở đây giống hệt như một con đường chuyên bán đồ mai táng trên dương thế, nhưng so với trần gian còn quỷ khí ghê rợn hơn, quả nhiên không hổ danh là chợ quỷ.

Ngọn nến đã cháy hơn nửa, tôi có phần khẩn trương nắm hũ đựng cốt trong tay thật chặt, mà bởi vì nắm chặt quá nên miếng vải đen xộc xệch lệch qua một bên, lộ ra tấm ảnh của tôi trên đó. Tôi nhìn qua một cái, lập tức sợ tới bủn rủn cả người, nó đâu còn là ảnh chụp của tôi nữa, mà chỉ còn là một gương mặt trống không, chỉ có mấy lỗ thủng màu đen cho thấy vị trí của mắt mũi miệng, còn lại là trắng ởn. Sao lại như vậy? Tôi nhìn sang Bạch Dực, thấy anh ta không hốt hoảng chút nào, chỉ nhẹ nhàng gật đầu: “Chúng ta hiện tại đang là người chết, chỉ có bảy phách thôi, trong cái hũ này là ba hồn của chúng ta, nếu cậu mà buông nó xuống thì ba hồn sẽ lập tức bị thổ địa nuốt hết, như vậy chúng ta cũng lập tức biến thành người chết thực sự, trở về không được nữa.”

Tôi lập tức ôm sát cái hũ vào lòng, cái hũ này chính là mạng của tôi, thảo nào Bạch Dực cứ nhấn đi nhấn lại là nhất quyết không được buông nó ra, nếu không không về được. Nếu nó thế thì ba hồn của tôi có hình dạng giống như tấm ảnh chụp này hay sao? Nghĩ tới đây tôi rùng mình một cái, khô khốc nuốt nước miếng, nghĩ thầm cho dù cái hũ này có nặng như núi Thái Sơn đi nữa cũng đừng hòng tôi buông tay… Có chết cũng không buông, vì hễ buông tay sẽ lập tức chết thật = . =

Xung quanh vẫn thỉnh thoảng lướt qua vài bóng người, nhìn kỹ thì thấy mặt bọn họ trắng bệch như thạch cao, có những bóng ma nữ chỉ có hai gò má và đôi môi là đỏ như máu, còn lại đều trắng ởn, hơn nữa kỳ quái nhất là tròng mắt bọn họ luôn trợn ngược lên, nên chỉ nhìn thấy tròng trắng trắng dã mà thôi.

Tôi sợ tới mức không dám nhìn nữa, mỗi lần đám người chết mặc áo liệm này lướt qua người, cột sống của tôi lại run lên như chạm phải băng. Môi cũng không kìm được mà run run, tôi mạnh bạo cắn chặt môi, muốn ngăn cảm giác run rẩy kịch liệt này lại, nhưng lại phát hiện mình không cảm thấy đau đớn gì cả, lẽ nào vì tôi lúc này đang là người chết nên không còn cảm giác gì sao? Vậy vì sao vẫn cảm thấy sức nặng của hũ đựng cốt? Thật là khó hiểu…

Tôi cứ như thế theo sau Bạch Dực đi giữa con đường vừa ầm ĩ mà vừa quái dị này, giữa hững gương mặt quỷ đáng sợ mà tìm kiếm bóng dáng một bà lão.

Không biết bao lâu chợt nghe thấy mơ hồ từ xa xa, tiếng chuyển bánh xe lộc cộc quen thuộc, tôi kích động nhìn Bạch Dực, Bạch Dực cũng gật đầu, có vẻ chúng tôi đã thực sự tìm ra bà ta.

Tiếng bánh xe càng lúc càng rõ, một bóng người tập tễnh hiện ra giữa đám sương trắng xóa, dần dần tiến về phía chúng tôi. Tôi định thần nhìn bà lão, bà ta vẫn giống hệt như lần trước tôi gặp, nhưng lần này thiếu mất cái khăn tay thêu chữ “Thọ”. Chúng tôi tiến tới, Bạch Dực lấy trong ba lô ra cái khăn tay trả lại cho bà ta.

Bà lão vẫn cười, gương mặt nhăn nheo như mặt khỉ, vui vẻ nói: “Không ngờ các vị tìm tới nhanh như vậy, Bạch thiếu gia, đã lâu không gặp.”

Tôi kinh ngạc nhìn Bạch Dực, hóa ra anh ta biết bà lão này? Bạch Dực nhìn tôi một cái, sau đó thản nhiên nói: “Bà bà cố tình giao khăn tay cho cậu nhóc này chẳng qua là muốn ta mang cậu ấy tới đây cho bà chứ gì.”

Tôi vừa nghe thì đã cảm thấy như bị sét đánh trúng người, cái gì? Tá Thọ bà từ đầu đã muốn dụ tôi tới chợ quỷ? Bà lão nhận lại khăn tay, móc nó vào vạt áo mà cười: “Ta đúng là cần hai vị giúp ta một chuyện.”

“Ta sẽ không dẫn cậu ấy tới đây lần nữa đâu.” Bạch Dực trừng mắt với bà lão, bàn tay đang ôm bên hông tôi cũng chặt lại.

Bà lão cười khanh khách: “Không, không cần trở lại nữa, chí ít lúc này thì không cần, chỉ cần hai người giúp ta đi tảo mộ một người bạn già của ta là đủ.”

Tôi nghe mà ngơ ngác, một bà lão quỷ muốn chúng tôi đi tảo mộ? Dạo này chuyện quái dị đúng là có hơi quá nhiều.

“Có thể giúp bà cũng được, nhưng bà phải đảm bảo sau này không được tới quấy rối chúng ta nữa, đồng thời…” Bạch Dực cười khẽ liếc nhìn tôi, trong mắt lóe lên một chút tính toán khôn khéo thường ngày: “Đồng thời, phải cho chúng ta cái chén của bà.”

Tôi ngạc nhiên, chúng tôi cần một cái chén làm gì? Nhưng bà lão lại đột nhiên trở nên trầm tư, dường như rất tiếc nuối, nếp nhăn trên mặt như thể hằn sâu thêm. Cuối cùng giống như đã hạ quyết tâm, bà ta tàn bạo nhìn Bạch Dực, những nếp nhăn trên mặt cũng run run: “Bạch thiếu gia quả nhiên tinh tường, được rồi, cái chén giao cho các vị, nhưng các vị nhất định phải tới đó cho ta. Nếu không ta sẽ lại còn tới tìm các vị nữa!”

Bạch Dực gật đầu, bà lão giao cái chén sứ Thanh Hoa trong tay mình cho chúng tôi, bộ dạng như đang phải bán cháu nội mình đi vậy. Cái chén rất bình thường, dưới đáy chén có một chữ “Thọ” màu đỏ tươi. Bạch Dực rút tay khỏi hông tôi, nhận cái chén, sau đó tiện tay để nó lên nắp hũ đựng cốt của tôi luôn.

Bà lão lại móc ra một tờ giấy đưa cho chúng tôi mà nói: “Trong này có bản đồ, các vị chỉ cần dựa theo tấm bản đồ này đi tìm là được.”

Bạch Dực nhận tờ giấy mở ra trước mặt nhìn, tôi thấy trên tờ giấy có sơ đồ một địa phương nào đó, còn có vài dòng chữ. Dường như là một cái hồ rộng, trên có một hòn đảo nhỏ, trên đảo có sơn có thủy, còn có một căn đình, nhìn giống như một nơi ngắm cảnh chứ không phải một chỗ tảo mộ.

Tôi không hiểu mấy, nhưng cũng biết lúc này không nên ở lại đây lâu, vì thế thúc thúc Bạch Dực ra hiệu nên về. Bạch Dực gật đầu nhét tờ giấy vào ba lô, cúi đầu nhìn ngọn nến chỉ còn lại một mẩu ngắn, cười cười với Tá Thọ bà: “Bà bà, thời gian cũng không còn sớm nữa.”

Tá Thọ bà chỉ nhìn chúng tôi một cái, sau đó không nói không rằng kéo xe bỏ đi. Lần này bà ta không cho chúng tôi bánh nữa, làm tôi có hơi thất vọng, dường như thái độ của Bạch Dực đã làm bà ta khó chịu thì phải.

Tôi lắc đầu thở dài: “Thật đáng tiếc, nếu bà ta cho chúng ta thêm ít bánh thì hay quá.”

Bạch Dực cười: “Cần gì mấy thứ nhỏ nhặt đó, cái chén này là một bảo bối đấy, sau này cậu sẽ thấy.”

“Cái chén này là sao vậy, bảo bối của Tá Thọ bà à?” Nghe tới chữ bảo bối, đôi mắt tôi cũng sáng rực lên, tinh thần phấn chấn hẳn.

Bạch Dực cười toe toét: “Cái này là cái chén thọ, thứ tốt đấy.”

Tôi liếc nhìn anh ta thầm nghĩ, thứ tốt như vậy nhưng cũng đâu có phần của tôi, lần này chỉ có tôi là bị lừa mà thôi. Hóa ra bà lão này từ đầu đã có ý định lừa chúng tôi tới chợ quỷ rồi, để lại khăn tay là cố tình để chúng tôi phải mang tới trả, còn làm bộ tốt bụng cho chúng tôi bánh. Bây giờ nhớ lại cho dù hôm đó tôi không làm gì cho bà ta, bà ta cũng sẽ mượn cớ cho tôi bánh, sau đó giả bộ làm rơi khăn tay mà thôi… Hừ ~ Đúng là một con quỷ hẹp hòi.

Bạch Dực phỏng chừng biết tôi đang nghĩ gì, nhìn tôi một cách bất đắc dĩ: “Đừng tính toán nữa, dù sao cái chén này cũng là của chung, tôi dùng cậu cũng có thể dùng chứ sao.”

Tôi vừa nghe thế lại hăng hái lên hỏi tiếp: “Cái chén này dùng làm gì?”

Bạch Dực liếc nhìn tôi, sau đó nói một cách cực kỳ nghiêm túc: “Dùng để ăn cơm chứ dùng làm gì!”

Tôi thực sự muốn thổ huyết, đang muốn hỏi tới, nhưng Bạch Dực đã nhẹ nhàng buông một câu “Về đã rồi tính tiếp” sau đó chỉ chỉ ngọn nến. Tôi nhìn xuống ngọn nến chỉ còn chừng 3, 4 cm, lập tức cả kinh, mặt xám ngoét lại nhìn Bạch Dực: “Chết rồi… Chúng ta đi tìm bà ta mất nhiều thời gian quá. Có phải chúng ta không còn đủ thời gian trở về đúng không?” Sức nặng trên tay vẫn còn nguyên không chút suy suyển, lúc này do quá sợ hãi mà cái hũ dường như lại nặng thêm vài phần, tôi run run ôm cứng cái hũ, giống như người chết đuối vớ được sợi rơm, bắt đầu hoang mang kích động lên: “Tôi không muốn ở lại chỗ không phải con người này đâu…”

“Hiện tại cậu cũng chẳng phải con người.” Bạch Dực độc ác cười, sau đó thấy tôi thực sự có vẻ lo sợ, mới híp mắt thêm một câu: “An tâm đi.” Dường như tâm tình của anh ta lúc này rất tốt, không biết lôi đâu ra cái đầu gà trống, hướng về phía cái cổng thờ mà ném mạnh tới.

Tôi ngơ ngác nhìn theo cái đầu gà vẽ thành một vòng cung trong không trung, khi sắp đụng tới cái cổng thờ thì đột nhiên như bị cái gì đó chặn lại, rơi vào đám sương mù phía ngoài xa. Bạch Dực vỗ vỗ vai tôi, ra hiệu tiến tới. Tôi nhìn dáng vẻ ung dung tự tại của anh ta, cũng gật đầu, theo anh ta tiến tới phía trước.

Khi chúng tôi vừa qua khỏi cổng thờ thì lại choáng váng một trận, nhưng cái hộp trong nháy mắt không còn nặng như trước nữa, đột nhiên có cảm giác như mình đã đặt chân vững vàng lên mặt đất. Tôi sờ lên trái tim, nó đang đập, sờ lên mặt mình, mồ hôi ròng ròng, cảm giác như vừa sống lại từ cõi chết. Tôi nheo mắt nhìn quanh, phát hiện mình lại quay về con hẻm nhỏ dơ bẩn ban tối, sau lưng chúng tôi không có cổng đền nào cả, chỉ có một bức tường đá xám xịt. Dưới góc tường là cái đầu gà Bạch Dực đã ném đi lúc nãy, cùng với hai ngọn nến đã sắp cháy hết, leo lét những ánh lửa cuối cùng.

Tôi kích động nắm chặt tay Bạch Dực mà hét lên: “Lão Bạch, chúng ta trở về rồi! Chúng ta còn sống!”

“Cẩn thận cái chén đấy.” Bạch Dực cảm thấy tôi có vẻ muốn nhảy xổ tới anh ta chúc mừng, liền nhanh tay lấy cái chén khỏi nắp hũ đựng cốt của tôi, sau đó đưa tay gạt mồ hôi trên trán. Lúc này ngọn nến vừa tắt, một làn khói xám nhẹ nhàng bốc lên. Phương Đông cũng dần sáng lên, mặt trời sắp mọc. Đêm tối đã qua, chúng tôi cũng vừa thoát khỏi chợ quỷ.

Bạch Dực vỗ vỗ tay tôi cười nói: “Được rồi, buông cái hũ xuống đi.” Tôi chỉ chờ có thế, buông tay một cái, cái hũ rớt phịch xuống đất sinh ra một tiếng động không lớn không nhỏ. Lúc này tay tôi đã tê cứng cả rồi, duỗi thẳng ra còn không được, đừng nói chi tới việc thả xuống nhẹ nhàng.

“Nó mà bị vỡ thì cậu xong đời đấy.” Bạch Dực nhìn tôi, đột nhiên hạ giọng như thì thầm. Tôi kinh hãi vội vàng ngồi bệt xuống hoang mang kiểm tra xem nó cái hũ có bị nứt chỗ nào không.

Đột nhiên nghe từ phía sau tiếng cười khẽ của Bạch Dực, vì thế tôi biết mình lại bị anh ta đùa bỡn, chết tiệt! Ngẩng đầu lên định lườm anh ta, phát hiện Bạch Dực cũng vừa buông cái hũ của mình xuống, rõ ràng anh ta cũng không khá hơn tôi là bao, đôi bàn tay đang run lên kịch liệt thế kia.

Nhét cái chén vào ba lô, Bạch Dực bèn rút lại hai tấm hình trên cái hũ, sau đó châm lửa đốt cả hai cái hũ, lại nhặt cái đầu gà trống lên ném luôn vào lửa. Ngọn lửa kêu lách tách, khi hai cái hũ bị cháy, tỏa ra một mùi khét gay mũi, tôi nhăn nhăn mũi. Chờ lửa đốt sắp tàn, Bạch Dực liền bước qua đống lửa sang bên kia, sau đó vẫy vẫy tay với tôi, vì thế tôi cũng bước qua.

Nhất thời tự nhiên cảm thấy cả người ấm áp hẳn lên, tử khí âm lãnh đều tan hết, nếu như nói lúc nãy là sống lại, thì lúc này thực sự là hoàn hồn. Bạch Dực mỉm cười: “Được rồi, có thể hoàn toàn yên tâm rồi.”

Tôi gật đầu, cùng Bạch Dực rời khỏi con hẻm nhỏ, bên ngoài, những bóng người đầu tiên trong ngày đã tấp nập trên đường. Ngoài đường lớn, vang lên tiếng xe cộ qua lại cùng với tiếng còi xe gấp gáp, những âm thanh của nhân gian. Nơi đây, mọi người đều có những tình cảm của riêng mình, đều có nhịp tim đập của riêng mình.

Chợ quỷ – Hoàn

[1] Bạch Vô Thường: là một trong hai người Hắc Bạch Vô Thường, được coi là người “dẫn đường” cho các linh hồn xuống địa ngục. Tương tự như thần chết.

[2] “Cẩu huyết lâm đầu” =))))))))

(*) Biên tập lảm nhảm: Dưới đây là những tư liệu Lục Mịnh tìm được về “quỷ lễ” của Trung Quốc, đọc nghe chơi cho vui, hen:

Ở Trung Quốc có bốn “quỷ lễ” (lễ của quỷ) lớn nhất là ngày mùng ba tháng ba, tiết Thanh Minh, ngày mười bốn (mười lăm) tháng bảy, ngày mùng một tháng mười.

1. Ngày mùng ba tháng ba: Vùng Giang Hoài và Giang Nam coi ngày mùng ba tháng ba nông lịch hàng năm là quỷ lễ, nên cứ chập tối là thường đốt pháo trong sân nhà để làm lũ quỷ đi qua phải sợ mà không vào.

2. Tiết Thanh Minh: là mùa đi tảo mộ.

3. Ngày mười bốn/ mười lăm tháng bảy: tương truyền đây là ngày Diêm Vương mở rộng quỷ môn cho chúng quỷ được một ngày lên nhân gian tùy ý làm bừa, cho nên con người gọi đây là “tháng quỷ”, không mua nhà cất nhà cũng không dựng vợ gả chồng. Vào ngày này dân gian thường đốt vàng mã cho người chết. Đây là một ngày lễ quan trọng, vì nó vừa là quỷ lễ của dân gian, vừa là lễ Trung Nguyên của Đạo giáo, vừa là lễ Vu Lan của Phật giáo.

4. Ngày mùng một tháng mười: tục gọi là ngày “tế tổ”, dùng để kính nhớ tổ tiên. Ngày này bắt đầu chuyển lạnh, nên ngoài vàng mã, hương đèn, người còn sống còn đốt cho người cõi âm rất nhiều quần áo ấm (xem chương 1 để biết thêm chi tiết).

Sau đây là một số điều cấm kỵ không nên làm trong những ngày quỷ lễ:

1. Treo chuông gió đầu giường: chuông gió dễ dẫn các bạn tới, mà ban đêm là lúc con người yếu nhất, dễ bị “xâm thực” nhất.

2. Đi đêm: Những người bát tự quá yếu không nên đi đêm, coi chừng tự rước lấy phiền toái.

3. Đốt vàng mã tùy tiện: Vàng mã là quà tặng cho các bạn, đốt càng nhiều vàng mã các bạn càng tới đông.

4. Ăn vụng đồ cúng: Đồ cúng là đồ ăn dành cho các bạn, chưa được các bạn cho phép đã dám ăn thì sau đó tự mà giữ mình.

5. Phơi quần áo qua đêm: Nếu có bạn nào đó nghĩ quần áo của bạn đẹp quá, mặc thử, sau đó, thuận tiện lưu lại một ít ký hiệu của mình thì…

6. Gọi tên: Đi đêm tuyệt đối không được gọi tên người khác, phải dùng những từ nhân xưng khác mà thay vào, đừng để các bạn nhớ tên mình…

7. Bơi: Có thể sẽ có bạn nào đó xuất hiện chơi trò “quỷ nhấc chân” với bạn, chỉ cần sơ sẩy một ly là cả cái mạng đi đứt như chơi.

8. Nhìn ngó xung quanh: Các bạn thích nhất là chơi trốn tìm, nếu bạn vô tình tìm ra bọn họ, bọn họ sẽ chiếm lấy bạn luôn.

9. Đặt cây gừa trước nhà (gừa chứ không phải dừa nha): Cây gừa là một loại cây tích tụ âm khí, cũng là loại cây các bạn thích nhất, trừ phi bạn muốn mời các bạn ấy vào nhà chơi…

10. Thức đêm: Con người lúc ban đêm là yếu nhất, ma quỷ lúc ban đêm là mạnh nhất, bạn nghĩ là ai sẽ thắng…?

11. Dựa tường: Các bạn thích nhất là bám vào những bức tường mát lạnh, nếu chúng ta dựa tường, vậy quá lý tưởng cho các bạn chơi trò “quỷ triền thân” rồi.

12. Nhặt tiền rơi ngoài đường: Tiền ngoài đường là của ngưu đầu mã diện, dám nhặt tiền của họ sẽ bị họ tìm tới đòi…

13. Dễ dàng quay đầu lại phía sau: Nếu khi đi ngoài ngoại ô hay những nơi vắng vẻ mà nghe “hình như” có ai đó gọi mình thì cũng đừng quay đầu lại, có thể đó là các bạn…

14. Chen vai sát cánh: Con người có ba đốm lửa, một trên đỉnh đầu, hai ở hai bên vai, nếu dập một trong 3 đốm lửa này, các bạn sẽ có cơ hội “triền thân”.

15. Quay đầu dép về phía giường: Các bạn thường nhìn theo đầu dép để phán đoán xem bạn đang ở đâu, nếu bạn quay đầu dép về phía giường mình, vậy OK thôi, các bạn sẽ chui vào ngủ cùng bạn cho nó ấm…

16. Cắm đôi đũa thẳng vào chén cơm trắng: Đó là cách cúng cơm cho người chết, giống như cắm nhang ấy mà, nếu bạn làm vậy, các bạn sẽ tự động diễn dịch ra là bạn muốn cùng họ ăn cơm chung…

17. Độc thân: Độc thân dễ khiến các bạn ước ao, thật đó…

18. Chụp ảnh buổi tối: Khi chụp ảnh buổi tối rất dễ chụp cùng các bạn, sau đó đem các bạn về nhà…

19. Chơi cầu cơ: Lúc bình thường chơi cầu cơ đã là cực kỳ nguy hiểm, đừng nói tới dịp quỷ lễ.

20. Đặt dép chỉnh tề bên cạnh giường: Đôi dép chỉnh tề đặt bên cạnh giường sẽ khiến các bạn ở thế giới bên kia hiếu kỳ, mà vì hiếu kỳ nên các bạn dễ tới quậy…

21. Huýt sáo.

Chương 11: Mộ hoang (Thượng)

“Thiên mục nhập quy tìm mộ hoang

Tứ long vào nước đoạt phách hồn

Bát phương tụ khí hồn không tán

Bắc tôn long ngoan[1] trấn huyền hoàng.”

Bầu trời đêm mùa đông đen đặc như ai đó vừa đánh vỡ cả một nghiên mực sóng sánh lên đó vậy, tối tới mức trông không rõ cảnh sắc xung quanh, tất cả chỉ là những đường viền mờ nhạt. Tôi ngẩng cái đầu bù xù lên, lắc lắc cổ cho bớt mỏi, nhìn những bông hoa tuyết thưa thớt rơi bên ngoài, rồi lặng lẽ tan vào đêm tối, từ trắng chuyển sang đen, từ thực hóa thành hư. Nhìn một lúc, mắt mỏi rồi lại vội vàng chớp chớp mắt, cúi đầu chăm chú vào quyển sách trong tay.

Bạch Dực đang ngồi đối diện tôi, tay lật sách nhanh như máy, trên bàn làm việc của chúng tôi là từng đống từng đống sách, hình dáng đủ kiểu, nhưng tựu chung chỉ có một loại: sách bản đồ. Các loại bản đồ khác nhau trải la liệt trên sàn. Trong góc phòng chất mấy cái tô mì ăn liền, mấy ngày nay đây là thứ duy nhất chúng tôi cho vào bụng.

Đột nhiên Bạch Dực đập bàn một cái rầm, tôi ngẩng phắt đầu dậy, nhanh chóng bước qua chỗ anh ta, nhìn vào tấm bản đồ trong tay anh ta. Anh ta hưng phấn nắm hai vai tôi lắc lắc: “Tìm được rồi! Chính là chỗ này!” Sau đó dùng ngón tay dí sát vào một điểm trên bản đồ.

Tôi dụi dụi cặp mắt sung huyết đỏ ngầu, nhìn chằm chằm chỗ ngón tay anh ta chỉ một lát, rồi sau đó cũng hưng phấn đập bàn một cái rầm, kích động reo lên: “Lão Bạch giỏi quá, đúng là tìm ra rồi!!”

Bạch Dực cười khoái chí, nắm lấy tờ giấy Tá Thọ bà giao cho chúng tôi đang để bên cạnh mà lắc qua lắc lại: “Bà già này đúng là quá tàn bạo mà, ai đời chỗ quan trọng nhất lại vẽ sơ sài như vậy, hại chúng ta mấy ngày nay tìm như muốn điên mới tìm ra cái chỗ quỷ quái này!”

Tôi gật đầu hoàn toàn đồng ý, lần trước đến chợ quỷ thật đúng là đem can đảm bảy tám kiếp ra xài hết ráo, dạo này cứ nhìn thấy những bà lão mặc áo bông kiểu xưa là tự nhiên lại ớn lạnh bỏ chạy. Tuy nói cuối cùng cũng thoát khỏi chỗ quỷ quái đó, nhưng bà lão nọ lại ném cho chúng ta một câu đố khó khăn, muốn chúng ta tìm tới phần mộ không tên không tuổi kia.

Mà đầu mối duy nhất chỉ có mảnh giấy te tua như cái bánh tráng mẻ kia, trên đó chỉ xiên xiên xẹo xẹo vài nét như là một cái hồ, giữa hồ có một hòn đảo nhỏ hình dáng giống một con rùa, bốn phía núi non bao bọc, nhìn giống như một hồ nước ngọt trong đất liền. Nhưng làm thế nào để tìm ra nó thì hoàn toàn không có chỉ dẫn, chỉ có 4 câu thơ ý nghĩa hàm hồ: “Thiên mục nhập quy tìm mộ hoang.Tứ long vào nước đoạt phách hồn. Bát phương tụ khí hồn không tán.Bắc tôn long ngoan trấn huyền hoàng.”

Vì thế hai ngày nay chúng tôi gần như không ăn không ngủ vùi đầu đi tìm cái hồ không tên nọ, mãi cho tới lúc nãy Bạch Dực tìm ra.

Tôi vuốt vuốt mặt, nhìn bản đồ, lòng vẫn chưa hoàn toàn yên tâm, vì vậy lại quay lại hỏi Bạch Dực: “Sao anh dám chắc đây chính là cái hồ bà ta muốn chúng ta tới?”

Bạch Dực gỡ kính mắt xuống, nhéo nhéo sống mũi, nhìn sắc mặt anh ta cũng cực kỳ mệt mỏi, hiển nhiên mấy ngày nay đã vắt kiệt sức anh ta. Bạch Dực quay lại ngồi xuống, khép hờ hai mắt nói: “Hình dáng rất giống nhau, hơn nữa cái hồ này có tên là hồ Thiên Mộ, Thiên Mộ với Thiên Mục, tám chín phần mười là nó đấy không sai đâu.”

Tôi cầm lấy bản đồ, tỉ mỉ so sánh với tờ giấy, đúng là cảm thấy cả hai hòn đảo nhỏ giữa hồ kia đều rất giống nhau, giống như một con rùa chúc đầu xuống nước. Cũng phù hợp với cụm từ “thiên mục nhập quy” trong bài thơ. Nhiệm vụ của chúng tôi lúc này chỉ là tới đó tìm một ngôi mộ hoang mà thôi.

Tôi gật đầu, xếp bản đồ với tờ giấy lại với nhau, sau đó khẽ nói với Bạch Dực: “Vậy chúng ta còn chờ gì nữa? Binh trọng thần tốc, đi nhanh là hơn!”

Bạch Dực nhìn ra ngoài trời: “Mấy ngày nay trời đổ tuyết lớn quá, đường không dễ đi. Tôi nghĩ chúng ta nên chờ thêm vài ngày là hơn.”

Đúng vậy. Mấy năm nay khí hậu cực kỳ bất thường, phía nam không mấy khi đổ tuyết lại chợt hạ liên tục mấy trận tuyết rất to. Nhất là năm nay, mấy ngày trước nhiệt độ còn xấp xỉ 20 độ, hôm qua tự nhiên có một khối khí lạnh tràn về, đột nhiên đổ tuyết, tuyết rơi liên tục suốt mấy ngày, cho đến hôm nay thì ngoài trời đã đóng một lớp tuyết dày sụ. Tôi nhíu mày lo lắng nhìn trời, trong lòng rất gấp, rất sợ đến đó quá muộn sẽ bị bà lão nọ tới trách tội, nhưng nhìn lớp tuyết dày ngoài cửa sổ lại cảm thấy ngần ngại.

Tôi lắc đầu, chán nản quay lại chỗ ngồi, tới phiên Bạch Dực ra đứng cạnh cửa sổ nhìn trời mà nói: “Thực ra cái hồ này cũng không xa, lúc này chúng ta cũng đang được nghỉ đông rảnh rỗi, cả đi lẫn về chắc cũng chỉ tốn vài ngày, nhưng mà…” Anh ta quay lại nhìn tôi, vẻ mặt ngần ngừ như có gì đó muốn nói mà lại không dám, tôi ngẩng đầu nhìn anh ta: “Lão Bạch, có gì thì nói đi, đừng úp mở nữa.”

Anh ta tiến tới trước mặt tôi, cúi người xuống, trịnh trọng vỗ vai tôi mà nói: “Chỉ sợ cậu tiếc tiền vé xe lửa tốc hành thôi.”

Tôi nhất thời nghẹn họng không biết phải nói gì, cuối cùng nhảy dựng lên gạt tay Bạch Dực ra hùng hổ nói: “Đừng cho ông đây là loại keo kiệt bủn xỉn! Tốc hành chứ gì! Có gì to tát đâu, mạng sống vẫn quan trọng hơn tiền chứ!”

Đúng là nhiều chí khí thì ít tài vận, tôi thầm nghĩ cứ thế này thì phỏng chừng bị Bạch Dực cười đến chết mất. Nhưng anh ta nhìn tôi tức đỏ cả mặt, cũng biết mình đùa hơi quá, nên ho khan một hai tiếng nói với tôi: “Tiểu An, tôi chỉ đùa một chút thôi mà, để chúng ta thả lỏng tinh thần một chút, đừng quá lo lắng mà thôi. Bây giờ đi chuẩn bị đồ đạc đi, tôi đi đang ký vé xe. Nếu bà lão kia gấp đến thế thì việc này chắc cũng không tầm thường.”

Tôi đột nhiên nhớ ra, vội gọi Bạch Dực lại hỏi: “Vậy anh xem lần này chúng ta có cần mang theo cái gì không? Theo cách bà ta nói thì chỗ đó có vẻ kinh khủng lắm, nói không chừng ngôi mộ hoang này là một ngôi mộ quỷ không chừng!”

Bạch Dực suy nghĩ một lát, cuối cùng vẫn quyết định lắc đầu: “Bà ta tuy là một quỷ bà bà, nhưng tốt xấu vẫn được coi như bán thần, bà ta sẽ không vô duyên vô cớ bắt chúng ta đi tìm chết nữa đâu, hơn nữa chỗ đó cũng không phải nơi hoang vu không dấu chân người, cho dù có hơi bất thường một chút nhưng chắc không hại tới tính mạng chúng ta đâu.”

Tôi vẫn tiếp tục kèo nài: “Nhưng cứ mang theo cái gì đó phòng thân cho chắc ăn chứ, nếu không tôi cứ thấy lo lo thế nào ấy.”

Anh ta nhìn tôi một lúc, sau đó bật cười: “Tiểu An ơi là Tiểu An, vậy cậu tính mang theo cái gì nào? Dao à? Hay là súng? Gặp phải mấy thứ kia thì vũ khí cũng là vô dụng thôi!”

Tôi bị anh ta hỏi ngược lại nhất thời đớ người, muốn phản bác nhưng phát hiện mình hoàn toàn đuối lý. Bạch Dực nói đúng, nếu thực sự gặp quỷ thì có cho tôi một khẩu Desert Eagle[2] cũng chỉ là phí đạn mà thôi, hơn nữa tôi cơ bản là không biết dùng súng…

Tôi đành ngậm miệng lườm anh ta một cái, sau đó ngoan ngoãn đứng dậy đi thu dọn đồ du lịch.

Buổi chiều ngày hôm sau, chúng tôi đã có mặt trên chuyến tàu tốc hành đến hồ Thiên Mộ, trên thềm ga còn đọng lại một lớp tuyết mỏng vừa rơi, hai bên đường tuyết chất thành đống vun cao, có đoạn đường còn đóng một lớp băng mỏng trơn trượt, không dễ đi chút nào. Lúc này đã sắp tới cuối năm, số người về nhà mừng năm mới rất nhiều, nên xe lửa khá đông. Tôi và Bạch Dực vất vả lắm mới tìm tới chỗ ngồi của mình, ngồi đối diện nhau.

Chỗ ngồi trên xe gần như đầy nhóc, hơn nữa cảm giác sắp được về nhà ai cũng hân hoan, nên hầu như người khách nào cũng thích trò chuyện rôm rả hăng hái, các loại phương ngôn khác nhau lẫn cùng một chỗ, nghe rất lạ tai.

Bạch Dực vẫn chuyên chú nghiên cứu tờ giấy của Tá Thọ bà và tấm bản đồ. Anh ta là một người cực kỳ tỉ mỉ cẩn thận, nhất định sẽ không bỏ qua bất kỳ một chi tiết nhỏ nhặt nào. Nhưng thật không hiểu vì sao anh ta trải qua biết bao chuyện kỳ quái như thế rồi mà vẫn không bao giờ chịu mang theo các loại bùa hộ mệnh này nọ, cũng chẳng biết vì sao lần nào cũng bình an, hóa nguy thành yên. Đó là lý do tại sao tôi lại tin tưởng anh ta tới vậy. Người như thế không cần nói gì, cho dù chỉ cần một ánh mắt của anh ta thôi cũng đủ cho người khác cảm thấy yên tâm.

Tôi chống tay lên cằm nhìn ra ngoài cửa sổ, phong cảnh bên ngoài khá đơn điệu, chỉ thấy những hàng cây khẳng khiu chạy dài cùng với những cột cây số cùng cột điện lùi nhanh về phía sau. Nhiệt độ bên ngoài rất thấp, nhưng trong xe có hệ thống sưởi, vì thế cánh cửa sổ nhanh chóng bị phủ mờ bởi một lớp hơi nước dày, trông không rõ phong cảnh phía xa lắm.

Chán đến chết quay vào, cuối cùng tôi đành kéo cao cổ áo, vùi đầu vào lớp lông dày trên cổ áo mà bắt đầu lơ mơ ngủ. Lúc đang nửa tỉnh nữa mê, chợt có cảm giác như vừa bước vào một hang động, cửa hang bị bít kín, trong hang có một cái rương nhỏ bằng đồng, trên mặt rương bám đầy bụi, không biết đã nằm đó từ tháng nào năm nào. Tôi từ từ tiến gần tới cái rương, nhưng từ khe rương đột nhiên trào ra…máu tươi, xung quanh tối đen như mực, chỉ có một sắc đỏ tươi quái dị tràn ra từ cái rương nọ. Tôi sợ hãi quay người định bỏ chạy, lại bất thần nhìn thấy Bạch Dực đứng chắn phía sau lưng, nhìn tôi cười một cách kỳ quái. Khuôn mặt của anh ta dần dần nhòe đi, máu từ đuôi mắt và khóe miệng anh ta cũng chảy xuống…

Tôi kinh hoàng bật người tỉnh dậy, trước mắt vẫn là toa xe lửa tốc hành, Bạch Dực ngồi đối diện. Anh ta dường như cũng đã mệt mỏi nên đang gục đầu xuống ngủ gà ngủ gật. Nhưng nhìn gương mặt của anh ta lúc này lại khiến tôi nhớ tới gương mặt của anh trong giấc mơ… đầu tôi lập tức đau thốn lên. Tôi nhúc nhích người, đứng dậy run rẩy đi tới chỗ toilet rửa mặt, dòng nước lạnh như băng khiến mặt tôi đau rát lên, nhưng cũng giúp tôi tỉnh táo hơn vài phần. Ngẩng đầu lên nhìn chính mình trong gương, bọng mắt hơi sưng lên, quanh viền mắt là một vòng màu xanh đen chứng tỏ sự mệt mỏi của nhiều ngày mất ngủ liên tiếp, có lẽ vì thế mà gặp ác mộng chăng? Tôi nhếch miệng cười tự giễu với bản thân trong gương, nụ cười cứng ngắc. Nói thật, cái cảm giác bất an kinh hoàng trong mơ vẫn còn đeo bám tôi, khiến cả người tôi lơ mơ như say rượu.

“Quên đi quên đi.” Tôi lắc mạnh đầu, dùng tay áo lau vội mặt mũi rồi nhanh chóng quay về chỗ ngồi.

Bạch Dực đã tỉnh, nhìn tôi chăm chú nói: “Sao sắc mặt tệ vậy, không phải bị cảm đó chứ?”

Tôi nhíu nhíu mày xua tay với anh ta: “Không sao, có lẽ hơi bị say xe chút thôi. Chờ xuống tới nơi đi qua đi lại một chút là ổn ấy mà.”

Hồ Thiên Mộ thực sự không cách nhà chúng tôi bao xa, chỉ cần đi hơn 3 tiếng đồng hồ là tới nơi. Vừa nhảy xuống xe, chúng tôi đã được chào đón bởi những cơn gió lạnh cắt da cắt thịt khiến cả người run bần bật lên. Tuy nói khí hậu phía nam ấm áp hơn nhiều so với phương bắc, nhưng khi đến mùa đông thì cảm giác lạnh lẽo mà còn ẩm ướt ở đây thực ra đáng ngại hơn nhiều so với cái lạnh khô hanh ở trên vùng cao. Cảm giác này cứ như bị dao sắc cứa vào người vậy, cho dù có mặc dày tới đâu đi nữa thì vẫn thấy lạnh khó tả.

Bạch Dực chỉ vào cửa ra của nhà ga, nói với tôi: “Đi tìm khách sạn trú tạm cái đã, ngày mai chúng ta hãy tới hồ Thiên Mộ.”

Tôi gật đầu, hơi thở thoát ra khỏi miệng thành một làn sương trắng toát, thật sự quá lạnh.

Nơi này là một thị trấn cổ, khách du lịch tìm tới khá đông, nên khách sạn đâu đâu cũng có, vừa ra khỏi nhà ga đã nhìn thấy một đống bảng hiệu của đủ loại lữ quán. Chúng tôi chọn một lữ quán gần hồ, ông chủ là dân bản xứ, làm việc rất nhanh nhẹn, nhanh chóng chuẩn bị phòng ốc cho chúng tôi.

Sắp xếp chỗ ở xong xuôi, chúng tôi xuống nhà ăn dưới lầu chọn vài món ăn cho bữa tối, thì thấy ông chủ đang ngồi bên một cái bàn gần quầy hàng, bèn bước tối ngồi xuống bên cạnh ông ta nói chuyện phiếm, thuận tiện hỏi vài thông tin về hồ Thiên Mộ.

Ông chủ thuộc loại hiếu khách, chỉ cho chúng tôi rất nhiều danh lam thắng cảnh xung quanh để đi du ngoạn, Bạch Dực gắp một miếng rau, làm như vô tình mà hỏi: “Tôi vừa thấy gần đây có một cái hồ lớn lắm, giữa hồ còn có một hòn đảo nhỏ, cảnh sắc cũng không tồi nhỉ.”

Ông chủ uống rượu nhà tự pha, miệng nồng nặc mùi rượu nói với chúng tôi: “Mùa này không ra hồ được đâu, trời lạnh lắm, dưới hồ còn có rất nhiều xoáy nước ngầm, nhà đò quanh đây chỉ dám chở hai vị dạo vòng vòng bên ngoài thôi. Cái đảo đó cũng trống huơ trống hoác à, không có cảnh đẹp chi hết, khỏi lên chi cho mắc công.” Dừng một chút để nhấp rượu xong, ông ta lại tiếp tục, lần này hạ giọng rất thấp: “Còn nữa, người ta đồn là trên đảo có ma đó, cái hồ này cũng ghê lắm, không có ngư dân nào dám ra gần đảo bắt cá đâu!”

Tôi nhìn Bạch Dực, thấy anh ta nhíu mày, liền quay lại hỏi như thể đang hiếu kỳ: “Ồ? Nói vậy là sao?”

Ông chủ rụt rụt cổ, nhìn xung quanh cẩn thận mấy lần rồi mới mở miệng: “Có người bảo là ai dám chèo ra đó đều bị lật thuyền hết, lúc trước chết nhiều người lắm, có lẽ là do xoáy nước ngầm quá nhiều, cho nên bây giờ dân chèo đò chủ yếu chỉ phục vụ khách du lịch thôi, không dám ra đó bắt cá nữa đâu.”

Chúng tôi gật đầu, không hỏi thêm nữa mà chỉ nói chuyện phiếm cho qua thì giờ thôi. Sau khi ăn xong về lại phòng, Bạch Dực cũng vẫn giữ im lặng, chỉ chăm chú chuẩn bị phần hành lý cần thiết để ngày mai xuất phát. Tôi ngồi bên cạnh phụ anh ta một tay, nhưng trong đầu vẫn lẩn quẩn những lời ông chủ nói lúc nãy, liền nói với Bạch Dực: “Lão Bạch, anh nghĩ lần này chúng ta đến đó có nguy hiểm lắm không? Xem ra chỗ đó thực sự rất quái dị đó.”

Bạch Dực thở dài trả lời: “Tùy cơ ứng biến.”

Ngày hôm sau tôi và Bạch Dực dậy thật sớm ra thẳng hồ, lúc này đang giữa đông nên khách du hồ rất ít, những người chèo đò đều vắng khách, thấy hai chúng tôi mặc đồ như khách du lịch đều tiến tới chào mời. Nhưng chúng tôi vừa nói là muốn ra đảo thì mọi người lại đồng loạt xua tay từ chối.

Cứ như thế chúng tôi đi đến giữa trưa, hai chân cũng run run, vẫn không có ai dám chở chúng tôi tới đảo, chỉ còn biết nhìn ra hòn đảo nhỏ đầy tai ương kia mà lắc đầu.

Sau đó chúng tôi dần dần đi ra khỏi khu vực ngoạn cảnh, đến gần một chỗ nước cạn, chỗ này không được chăm chút gì, cả một cái cây cũng không có ai trồng, chỉ có một bãi đá trống trải. Hôm nay tuyết cuối cùng cũng đã ngừng, nhưng bầu trời vẫn nguyên vẻ ảm đạm như cũ, từng tầng mây dày nặng nề lững lờ, sắc trời tuyền một mà xám hiu quạnh, mà nước hồ phản chiếu sắc trời cũng hóa thành một màu chì nhàn nhạt, hoàn toàn không giống chút nào với những cụm từ hoa mỹ miêu tả Giang Nam nào là “ba quang lâm li, mỹ hảo tinh trí” gì gì đó. Gió thổi bên hồ ào ạt, cuốn lấy những bông tuyết rơi bên mép nước, thổi bay mái tóc của tôi thành một đống mất trật tự. Tôi híp mắt lơ đãng nhìn về phía bên trái, lại kinh ngạc phát hiện ở dưới kè đá gần đó có bóng một chiếc thuyền. Tôi kéo tay Bạch Dực vội vàng tới gần, chỉ là một đoạn đường ngắn, nhưng do tuyết đọng nên cũng suýt trượt chân té vài lần. Bạch Dực vừa kéo tay tôi lại vừa la lên: “Từ từ thôi từ từ thôi, đừng để chưa kịp xuất phát đã té bổ nhào chứ!”

Tôi gật gật đầu nhưng vẫn không giảm tốc, cuối cùng cũng an toàn tới gần chỗ chiếc thuyền. Chiếc thuyền này tuy đã cũ, nhưng trông vẫn có vẻ khá chắc chắn. Trong khoang thuyền có đặt mấy tấm gỗ để thay bàn ghế, xem chừng đúng là thuyền dành cho khách du ngoạn.

Tôi nhìn bốn phía một chút, không thấy người chèo thuyền đâu, liền gấp gáp xát xát tay vào nhau nói với Bạch Dực: “Lão Bạch, hay là bất quá thì chúng ta cứ mượn tạm cái thuyền này mà tự đi cho rồi? Viết thư lại cho chủ thuyền là được mà?”

Đang lúc Bạch Dực định mở miệng trả lời thì phía sau lưng chúng tôi chợt vang lên tiếng giày lạo xạo. Quay lại nhìn, thấy một người ăn mặc như dân chèo thuyền dẫn theo ba du khách nữa đi tới. Tự nhiên tôi nghĩ, sao mà khéo thế nhỉ?

Bạch Dực lên tiếng trước: “Sư phụ, có thể chở chúng tôi ra giữa hồ đến hòn đảo nhỏ kia có được không?”

Bác lái đò là một người đàn ông trung niên, da màu đồng khỏe mạnh do hàng ngày đều làm công việc phơi dưới nắng, gương mặt bình thường, nhưng bên trái chỗ dưới trán có một vết sẹo to bằng đồng tiền, thoạt nhìn đã biết là loại người quanh năm sống bằng nghề chài lưới. Ông ta nhìn chúng tôi một chút, sau đó hiền hậu cười: “Được thôi, vừa kịp lúc khai trương giúp tôi luôn.”

Ba du khách theo phía sau ông ta là ba thanh niên, hai nam một nữ, gật đầu với tôi và Bạch Dực coi như là chào hỏi rồi bước lên khoang thuyền trước.

Tôi liếc nhìn Bạch Dực ra ý nói không ngờ còn có người khác dám tìm lên đảo, lúc này trời đã dần về chiều, hòn đảo nọ thực sự không thể coi như một danh lam thắng cảnh gì hấp dẫn lắm. Trong lòng tôi còn hơi băn khoăn, nhưng cũng biết không thể trù trừ thêm nữa, bằng không trời sẽ tối, ngày hôm nay coi như uổng công.

Bạch Dực dường như không lo lắng gì cả, thấy người lái đò đồng ý chở chúng tôi lên đảo liền lập tức tới bắt chuyện thương lượng tiền nong. Người lái đò có vẻ là một người thành thật, vì thế chuyện tiền bạc rất nhanh chóng được giải quyết, tôi và Bạch Dực nhanh chóng lên thuyền.

Thuyền nhẹ nhàng tách khỏi bến, bác lái đò này quả thực là một người lão luyện, tuy trên hồ sóng rất lớn mà xem ra con thuyền vẫn ổn định như cũ. Ba thanh niên ngồi hàng ghế đối diện với tôi và Bạch Dực có vẻ rất yên lặng, chỉ chăm chú nhìn cảnh sắc bên ngoài thuyền chứ không lên tiếng. Tôi cũng không dám mạo muội bắt chuyện, bèn nhìn sang Bạch Dực, thấy anh ta dường như cũng bắt chước bọn họ mà nhìn ra cảnh vật bên ngoài.

Tôi nói thầm trong lòng: “Chúng ta có phải là đi chơi thật đâu mà trông anh nhàn nhã thế không biết!” Ba người kia làm thinh khiến tôi cũng tự nhiên cảm thấy lóng ngóng, không biết làm gì khác hơn là cũng nhìn ra ngoài cửa sổ. Lúc này mới thấy, khi đứng trên bờ thì không thể nhìn thấy hết được, hiện tại tiến vào lòng hồ mới phát hiện ra, phong cảnh ở đây quả thực rất đẹp. Xung quanh là núi non trùng điệp, cho dù đang giữa mùa đông cũng vẫn giữ được một vẻ đẹp tráng lệ mà cô tĩnh, đó là một loại vẻ đẹp tú lệ uyển ước đặc thù mà chỉ có ở trời nước núi non chốn Giang Nam mới tồn tại mà thôi. Nếu giả sử lúc này mà là giữa hè trời trong nắng ấm thì cảnh sắc chắc chắn còn đẹp không thể tả xiết hơn nữa.

Chỉ có điều, phong cảnh tuy rất đẹp nhưng trong khoang thuyền lại yên tĩnh tới mức hơi ngột ngạt, chỉ có tiếng bác lái đò thỉnh thoảng vang lên thuyết minh một chút về phong cảnh xung quanh.

“Tứ long vào nước đoạt phách hồn. Bát phương tụ khí hồn không tán…” Bạch Dực đột nhiên thì thầm hai câu thơ trên tờ giấy của Tá Thọ bà, tôi ngạc nhiên quay lại nhìn anh ta, lại phát hiện vẻ mặt anh ta dường như rất kinh hãi về cái gì đó. Vì thế tôi liền ghé sát mặt tới hỏi: “Lão Bạch, anh làm sao vậy?”

Bạch Dực quay lại nhìn tôi thì thào: “Tôi hiểu hai câu thơ này có ý gì rồi!” Anh ta chỉ vào chỗ núi non xung quanh bảo tôi: “Cậu xem, cái hồ này bị vây giữa bốn ngọn núi, giống hệt như bốn con rồng lớn vây quanh hồ vậy. Theo phong thủy mà nói thì cảnh tượng này hình thành nên một loại địa phương âm khí tích tụ nặng nề, không thoát ra ngoài được. Thế nhưng nếu thực là như thế thì chỗ này hẳn đã phải sớm xảy ra chuyện quái dị rồi mới phải, sao còn có thể bình yên tới giờ? Thật là kỳ quặc.”

Tôi gật đầu, địa thế ở đây nhìn kỹ thì quả thực giống như thế cục “tứ long vào nước” trong bài thơ, nhưng nếu là phong thủy hiểm ác như vậy thì chắc chắn không chỉ có hòn đảo nhỏ giữa hồ mới nguy hiểm, mà cả cái hồ này lẽ ra đã thành một bể âm khí dày đặc rồi mới phải.

Đột nhiên phía đuôi thuyền hơi rung lên, tôi vội vàng hỏi người chèo thuyền có chuyện gì, nhưng ông ta vẫn thoải mái trả lời: “Không sao đâu, chúng ta vừa đụng phải xoáy nước ngầm đó mà, ở đây mấy thứ này nhiều lắm. Nhưng tôi đã chèo trên hồ này cả nửa đời người, quen thuộc từng xoáy nước ở đây rồi, yên tâm đi.”

Tôi thấy dáng dấp tự tin của ông ta cũng yên tâm mà gật đầu. Thuyền lại yên ổn tiến lên phía trước, người chèo thuyền nói thêm: “Ở đây trước kia gọi là hồ Thiên Mục[3], vì càng gần giữa hồ xoáy nước càng nhiều. Sau cải cách, khu này thành chỗ du lịch rồi thì mọi người sợ cái tên kia không được may mắn nên sửa tên nó thành hồ Thiên Mộ.”

Ba thanh niên nọ cũng không có vẻ gì là sợ hãi khi thuyền chòng chành, chỉ thờ ơ nhìn bốn phía, dường như không thèm quan tâm tới mấy cái xoáy nước ngầm vậy. Lúc này tôi mới thấy y phục của bọn họ khá phong phanh, giống như trang phục mùa thu, hơn nữa dưới chân họ còn đọng lại một bãi nước, dường như là lúc nãy đi giữa tuyết bị tuyết bám vào quần áo, lúc này mới tan ra. Tôi hơi rùng mình một cái, bọn họ không thấy lạnh à?

Đột nhiên cô gái ngồi giữa chú ý thấy tôi đang quan sát bọn họ, liền ngẩng đầu lên nhìn tôi. Mặt không thể gọi là xinh đẹp hơn người, có vẻ hơi tròn, nói đúng ra là trông cả ba người đều có vẻ mập mạp. Cô gái giật giật môi như đang nói cái gì, nhưng không có lời nào phát ra.

Tôi muốn nghe rõ hơn những gì cô ta đang nói, thì cô ta đã quay mặt nhìn ra hồ. Người chèo thuyền hô to: “Sắp tới nơi rồi, lúc mặt trời lặn tôi sẽ quay lại đây đón mọi người nhé.”

Chúng tôi đều gật đầu, ba người kia xuống thuyền trước, sau đó tôi và Bạch Dực cũng cùng nhau nhảy xuống, vẫy vẫy tay với người chèo thuyền. Ông ta cũng vẫy tay đáp lại, sắc trời mông lung khiến tầm nhìn bị hạn chế, chẳng mấy chốc mà bóng con thuyền đã khuất khỏi tầm mắt chúng tôi. Quay đầu lại quan sát kĩ hòn đảo, tôi rùng mình phát hiện nơi này hoang vắng cực kỳ, dường như đã rất nhiều năm không có ai đặt chân tới, tuyết đọng lại từng lớp dày trên mặt đất, cây cối xơ xác trụi hết lá, một cơn gió thổi qua, từng đợt tuyết ầm ào rơi xuống.

Tôi nuốt nuốt nước miếng, nhìn nơi này mà trong lòng chợt dậy lên một nỗi bất an không tên, dường như hòn đảo này sinh ra một lực hấp dẫn nào đó đối với toàn bộ mọi thứ xung quanh, sự bất an của nó đến từ chính lực hấp dẫn này. Bạch Dực vội vàng mở bản đồ và tờ giấy ra đối chiếu, xung quanh ngoại trừ tiếng nước đập vào bờ thì chỉ có tiếng bước chân của hai chúng tôi, còn ba người kia đã đi trước chúng tôi một quãng khá xa. Bọn họ không đi song song cạnh nhau mà lại đi thành hàng một, cúi thấp đầu, đi rất chậm, giống như một đám người hành hương quái dị. Nếu không phải chúng tôi cần phải dừng lại kiểm tra bản đồ thường xuyên thì đã sớm bỏ bọn họ lại phía sau rồi.

Bạch Dực nhìn quanh, rồi nhìn lại bản đồ một chút, sau đó nói với tôi: “Sắp tới rồi, có lẽ nằm ngay trên đỉnh núi thôi, chúng ta trèo lên thôi.”

Tôi nhìn về phía đỉnh núi, chỗ nọ tĩnh lặng đến rợn người, ngay cả tiếng chim kêu vượn hót cũng không có, ba người nọ cũng đang thong thả tiến lên đỉnh núi, cho dù bị vấp phải đá hay quật phải cành cây vẫn thản nhiên như không. Tôi ngạc nhiên nhìn một chút, vậy mà cũng chịu nổi sao trời, vì thế liền kéo tay áo Bạch Dực nói nhỏ: “Anh xem ba người kia kỳ quái quá.”

Bạch Dực ngơ ngác quay đầu lại, quái dị nhìn tôi một lát, sau đó nhẹ nhàng nói một câu: “Ở đây còn ai khác nữa đâu…?”

Tôi nhất thời ngẩn người ra, cái gì? Không còn ai khác, vậy… vậy ba người kia là… cái gì?! Tôi run rẩy chỉ vào ba người đang đi phía trước: “Ba người phía trước kìa… anh… anh không thấy sao?”

Bạch Dực cau mày: “Không, ở đây chỉ có chúng ta thôi.”

Đột nhiên tôi cảm thấy tứ phía nhiệt độ như vừa hạ xuống dưới 0 độ, máu trong người cũng như bị đông cứng, chỉ có tiếng thở gấp và tiếng tim tôi đập như nổi trống trận. Thối lui mấy bước, tôi ngẩng đầu nhìn ba người kia, phát hiện cô gái quay lại nhìn tôi, giật giật môi, lần này tôi nhìn rất kỹ, cô ta đang nói: “Trong số các người có một người là quỷ…”

Trong số chúng tôi có một người là quỷ, lẽ nào… lúc nãy khi đi qua xoáy nước ngầm tất cả chúng ta thực sự đã gặp nạn? Trong đó có một người đã chết? Bốn phía vẫn yên tĩnh đến quỷ dị, ba người kia vẫn bước chân đều đều, nhưng thế nào cũng không sao nhích về phía trước được, như thể bọn họ đang giẫm chân tại chỗ vậy. Mà Bạch Dực nhìn không thấy bọn họ sao?!

Chương 12: Mộ hoang (Hạ)

Một đống suy nghĩ chạy ngang dọc trong đầu, tôi ra sức lắc mạnh đầu, nhớ tới Bạch Dực đã có lần nói, có một số người do chết quá đột ngột nên thậm chí còn không nhận ra là mình đã chết nữa. Vậy chẳng lẽ là tôi đã chết? Không thể nào, rõ ràng lúc nãy thuyền chỉ hơi chòng chành chứ đâu có lật, người chèo thuyền và Bạch Dực đều nhìn thấy tôi mà? Hay là Bạch Dực chính là người chết? Không có khả năng… Tôi nhanh chóng quẳng suy nghĩ này khỏi đầu. Người ta nói quỷ thoại liên thiên[4], mà ba người đi trước chúng tôi đây mặc quần áo phong phanh lại ẩm ướt, hiện tại nghĩ lại bọn họ cũng không giống người sống, rất có thể là do rơi xuống nước chết đuối, vì thế tôi cần gì phải nghe lời bọn họ nói? Thế nhưng nếu bọn họ là quỷ thì lẽ ra Bạch Dực đã phải nhìn thấy họ rồi mới đúng chứ? Sao lần này anh ta không thấy…?

Bạch Dực dường như thấy sắc mặt tôi càng lúc càng tái nhợt đi, vội đưa tay định đỡ tôi, nhưng đúng lúc đó tôi nhìn xuống gấu quần của anh ta, phát hiện hai gấu quần cũng ướt sũng, giấc mộng trên xe lửa hôm qua tự nhiên ập đến, cảm giác quỷ dị khiến đầu tôi choáng váng. Tôi vô thức lùi lại tránh khỏi tay anh ta, run run nói: “Ở đây không chỉ có chúng ta thôi đâu… Còn ba người nữa, bọn họ cũng lên thuyền đến đây cùng với chúng ta mà!”

Tay Bạch Dực ngừng lại, anh ta nhìn tôi trầm mặc một lúc, sau đó mới thong thả nói: “Ý cậu là ngoài chúng ta ra thì ở đây còn ba người nữa?”

Tôi gật đầu, đang định mở miệng trả lời, chợt phát hiện phía sau lưng Bạch Dực bất thần vươn ra hai cánh tay, hai bàn tay to bè, móng tay màu tím bầm, da trắng nhợt gần như trong suốt. Dần dần từ sau lưng anh ta lộ ra gương mặt của cô gái nọ, tôi kinh hoảng nghĩ thầm, chẳng phải bọn họ đang ở trên sườn núi trên kia sao? Nhìn lại, phát hiện trên sườn núi không còn ai. Tôi quay phắt người lại phía sau, hai thanh niên còn lại đã đứng chực sau lưng tôi tự lúc nào. Trên tóc bọn họ toàn là nước, hai cái đầu trương phình lên, giống như là… giống như là… thi thể ngâm lâu ngày trong nước vậy!!!

Tôi vội vã lui lại, đụng phải Bạch Dực, lại theo bản năng nắm chặt tay anh ta chạy về phía đỉnh núi. Bàn tay anh ta cũng ướt sũng, dường như có hơi…phù…? Tôi run rẩy nắm chặt tay hơn, quay đầu lại cẩn thận nhìn Bạch Dực. May mắn quá, vẻ mặt anh ta vẫn bình thường, chỉ có đôi chân mày nhíu chặt vào với nhau, ánh mắt nhìn chằm chằm lên đỉnh núi, trong miệng lẩm bẩm điều gì không rõ.

Tôi tận lực không dám hoài nghi Bạch Dực, chỉ cắn chặt môi liều mạng leo lên. Ba con quái vật kia cũng bắt đầu đuổi theo, mái tóc của đứa con gái phủ lên vai như một đám rong biển, hai gã con trai thì gần như bò rạp sát đất, trên người toàn là nước nhỏ long tong. Trong tai tôi phảng phất tiếng đứa con gái nghe thê lương như tiếng gió rít qua khe cửa, nó đang không ngừng gào thét: “Trong các ngươi có một kẻ là quỷ, trong các ngươi có một kẻ đã chết…”

Thân thể tôi dường như bị rút sạch sức lực, bước chân cũng càng lúc càng trì lại như đeo đá, chỉ trong chớp mắt, ba quái vật nọ đã muốn đuổi kịp sau lưng. Đứa con gái rõ ràng đang mỉm cười, gương mặt trương phồng tím ngắt, dưới làn da gần như trong suốt đã bắt đầu lấm tấm những nốt thi ban[5] đen bầm. Cái miệng đen ngòm ngáp ngáp, như đang gào thét gì đó với chúng tôi, nhưng không có âm thanh nào phát ra. Nhưng nhìn theo khẩu hình của nó thì rõ ràng nó đang nói với tôi: “Nam nhân bên cạnh ngươi là quỷ!” Hai gã con trai bên cạnh bám chặt vào vách đá như hai con cóc, từ trên người chúng, nước cứ liên tục trào ra.

Đột nhiên Bạch Dực lôi mạnh tôi một cái, kéo tôi chạy thẳng lên phía bắc. Tôi nhắm chặt mắt lại, há hốc miệng chật vật chạy theo sau.

Chạy một lúc lâu, Bạch Dực mới ngừng lại, nói: “Được rồi, chạy tới đây là đủ rồi.”

Phía trước đã hoàn toàn không còn đường tiến nữa, tôi mệt tới nỗi ngồi sụp hẳn xuống, vừa chạy cật lực xong, cả người đều là mồ hôi hột. Gạt mồ hôi trên trán, tôi quay sang Bạch Dực hỏi: “Anh thực sự không trông thấy bọn họ sao?”

Bạch Dực không nói gì, ánh mắt của anh ta lại bị hai tròng kiếng phản chiếu ánh sáng mặt trời che mất. Tôi không khỏi trở nên hoài nghi, liền nói thêm: “Đứa con gái còn nói trong số chúng ta có một người là quỷ nữa chứ. Hừ, có mà ba bọn chúng mới là quỷ ấy, chết tiệt thật!”

Lúc này tự nhiên Bạch Dực mở miệng nói: “Sao cậu biết chắc chúng ta không phải quỷ chứ?”

Giọng nói của anh ta rất trầm, tựa như ánh nến lung lay chớp tắt giữa lối trần gian và địa ngục, tự nhiên tôi cảm thấy mình như vừa rơi thẳng vào một hang động đen đặc sâu hoắm nào đó, cảm giác kinh khủng trong nháy mắt tràn ngập cơ thể, tới mức gần như sự tuyệt vọng.

Tôi vô thức sờ lên ngực trái mình, tim còn đập, tôi còn sống. Tôi ngẩng lên nhìn Bạch Dực, bàn tay run rẩy vươn ra định sờ thử xem anh ta tim còn đập hay không. Đột nhiên bàn tay tôi bị bàn tay mạnh mẽ của anh ta nắm chặt lại, tôi hít mạnh một hơi, đau tới mức trợn to mắt. Bạch Dực cầm tay kéo tôi gần lại, vì quá mệt mỏi và sợ hãi nên trước mắt tôi lúc này cái gì cũng trở nên mông lung, tôi không trông rõ vẻ mặt của Bạch Dực, chỉ cảm thấy gương mặt anh ta cũng tái nhợt khác thường, cảm giác âm lãnh thấu xương trong nháy mắt ngập tràn không khí xung quanh tôi…

Anh ta hỏi: “Cậu tin tôi thật sao? Lẽ nào cậu chưa từng nghi ngờ tôi?”

Tôi nhanh chóng lắc đầu: “Đương nhiên không! Nếu ngay cả anh mà tôi còn không tin được, vậy tôi còn biết tin tưởng ai bây giờ? Mẹ nó, tôi còn biết trông cậy vào ai bây giờ?!” Tôi cảm thấy mình như sắp ngất đi, mà có thể ngất đi lúc này được mới tốt, dù sao có khi chúng tôi đều đã thành quỷ cả rồi cũng không chừng! Kỳ thực, hoài nghi hay không hoài nghi, tôi cũng không rõ nữa, có lẽ phải nói người tôi đang hoài nghi là chính bản thân mình mới đúng, nhưng tôi không dám nói ra mà thôi.

Anh ta chậm rãi buông lỏng tay, lại bỗng nhiên nở một nụ cười nhẹ: “Hóa ra cậu lại dựa dẫm vào tôi tới mức này.”

Đi chết đi! Dựa dẫm?! Lúc này hai người đương nhiên tốt hơn một người nhiều chứ! Một người đối mặt với bốn quỷ ấy à?! Tôi nào phải thần Chung Quỳ[6] chuyển thế, cho nên 2 vs 3 đương nhiên tốt hơn 1 vs 4 nhiều chứ!!! Tôi đã muốn đứng không vững nữa, một tay đỡ ngay mắt, một bên mắt tôi đang đau thốn từng cơn, đã không còn phân biệt được ai là thực, ai là giả nữa. Mà trong hoàn cảnh ai là người ai là quỷ cũng không biết, ngay chính bản thân mình cũng nghi ngờ này mà tôi vẫn một mực đặt lòng tin vào Bạch Dực, đúng là có hơi kỳ lạ thật.

Anh ta đỡ lấy tôi, sau đó mới nói: “Ba kẻ kia hẳn là Thủy Mị, thứ thủy quái kinh khủng nhất, là loại ác quỷ sinh ra từ những kẻ bị chết đuối. Bọn chúng có thể tạo ra đủ mọi loại ảo giác, sau đó kéo nạn nhân xuống nước thành kẻ chết thay cho chúng. Không ngờ lần này chúng lại lên được bờ, bất quá chúng chắc chắn không lên được chỗ này đâu, phương bắc mạng kim thủy, thủy quỷ không thể lên phía bắc được. Nhưng chúng ta cũng bị nhốt cứng ở đây luôn rồi.”

Tôi nhìn quanh một chút, phát hiện chỗ này là một vách núi, trước mặt là vực thẳm, con đường duy nhất xuống dưới đã bị ba con Thủy Mị kia chặn mất. Thời gian lúc này không còn sớm nữa, nếu không xuống nhanh sẽ lỡ thời gian hẹn với nhà đò mất. Mà ba con Thủy Mị kia có vẻ cũng cao cường, có khi chờ không tới lúc chúng tôi chết đói thì chúng đã tìm cách bò lên tới nơi cũng không chừng.

Vì thế tôi gật đầu: “Vậy hiện tại chúng ta nên làm gì đây? Lẽ nào phải xuống dưới 2 chọi 3 với ba con quái vật kia sao?”

Gió vẫn điên cuồng thổi, lúc nãy khi chạy trốn chúng tôi đã bỏ lại toàn bộ hành lý dưới kia rồi, hiện tại có muốn uống miếng nước cũng không đào đâu ra cả, thật là đạn tận lương tuyệt, đường cùng mạt lộ mà!

Bạch Dực nhìn dãy núi bốn phía, sau đó lại nhìn lên đỉnh núi, nhẹ nhàng gật đầu: “Cũng có thể còn có cách khác!” Anh ta nhanh chóng lấy trong túi áo ra tờ giấy của Tá Thọ bà, chỉ vào câu cuối cùng trong bài thơ mà nói: “Một nơi thế này tuyệt không thích hợp để mai táng người chết, như thế, quỷ bà kia muốn chúng ta đi bái tế chắc chắn không phải là một người nào cả, mà có lẽ… là một thứ gì đó mới đúng.”

Nói xong, anh ta tìm một tảng đá lớn, dùng tay phủi phủi tuyết bám trên đó rồi ngồi xuống, nghiên cứu kỹ lại bài thơ.

Tôi không dám quấy rối anh ta, không biết làm gì khác hơn là nhìn tứ phía xung quanh, trong mắt là một mảng hoang vu, dưới kia, ba on quái vật vẫn tiếp tục ra sức leo lên, nhưng dường như bị một bức tường vô hình nào đó cản lại. Đứa con gái chợt ngẩng đầu âm lãnh nhìn tôi, giống như nhìn một tên tử tù sắp lên đoạn đầu đài.

Cái nhìn oán độc hung ác này khiến tôi cả người ớn lạnh. “Trời đã đủ lạnh rồi, đừng có leo lên mà thêm phiền phức cho người ta biết chưa!” Tôi lầm bầm chửi một câu, sau đó lại quay lại nhìn Bạch Dực, thấy anh ta vẫn âm trầm ngồi một chỗ suy nghĩ, liền lắc đầu thở dài, lẩm bẩm: “Cái đảo rùa này sao mà âm tà đến vậy không biết! Nếu sớm biết thế này thì không nhận lời bà lão kia làm gì cả, cùng lắm thì tổn thọ vài năm thôi chứ gì, còn hơn là phải lo lắng không biết có qua nổ ngày mai hay không thế này!”

Đột nhiên Bạch Dực ngẩng đầu lên, mắt sáng ngời nhìn tôi: “Cậu vừa nói gì thế?”

Tôi hơi chột dạ, tôi không có ý làm phiền anh ta suy nghĩ, vì thế hơi ấp úng đáp lời: “Nếu sớm biết thế này thì…”

Bạch Dực khoát tay: “Trước đó nữa!”

Tôi nhớ lại từ từ nói: “Cái đảo rùa này sao mà âm tà đến thế…”

Anh ta reo lên “Đúng, chính là thế! Tôi biết nó đang chôn cái gì ở đây rồi!” Sau đó quay sang nói với tôi: “Đi, phải trèo lên cao nữa, chúng ta chỉ còn cách phải leo tới trên đó thôi!”

Nói xong lập tức bám vào vách đá tìm cách leo lên, tuy ngọn núi này không thể gọi là dốc, xung quanh còn có nhiều bụi cây cho chúng tôi bám vào mượn thế leo lên, nhưng không có gì bảo hộ mà cứ vậy leo núi, thật sự có hơi điên cuồng, lỡ mà ngã xuống thì chưa chắc tìm được xác nữa.

Bạch Dực vươn tay ra trước mặt tôi: “Tin tôi, đi theo tôi đi. Đây là cơ hội duy nhất của chúng ta!”

Tôi nhìn về phía ba kẻ dưới kia, không ngờ thấy bọn chúng bắt đầu chậm chạp bò lên. Xem ra phương bắc khắc quỷ là sự thật, nhưng cũng không phải là tuyệt đối. Tôi run cả người, nghĩ thầm cho dù có ngã chết cũng nhất định không thể để chúng bắt được mình rồi giết chết, vì thế kiên quyết nắm tay Bạch Dực, cố sức bước những bước đầu tiên.

Hiện tại ba con quái vật kia và chúng tôi đã hình thành một đường thẳng người truy ta chạy quái dị, may mắn là vì đang hướng về phía bắc nên tốc độ của bọn chúng không nhanh được như trước, cho nên khoảng cách giữa hai bên cũng càng lúc càng tách xa nhau. Tôi bình tâm, tiếp tục leo lên, sử dụng cả tay lẫn chân, nắm lấy tất cả những chỗ có thể bám vào. Bạch Dực ở trên tôi một khoảng ngắn, cũng đang cật lực leo.

Từ khi lên đảo tôi đã nghĩ trên đảo này có một lực hấp dẫn kỳ quái nào đó, lúc này lực đó càng thêm rõ ràng, dường như càng lên cao thì càng mạnh, hơn nữa, càng có khuynh hướng âm hàn hơn. Vẻ âm hàn này dường như biến thành một dạng tử khí chết chóc nào đó, toàn bộ cây cối xung quanh vì âm khí cổ quái này mà đều rạp hết xuống, như thể đang quỳ xuống cúng bái thứ gì đó trên đỉnh núi vậy. Càng leo lên cao, cây cỏ càng ít đi, chúng tôi càng khó leo. Tốc độ của Bạch Dực rõ ràng đã chậm hẳn lại, khiến tôi ở dưới cũng sốt ruột.

Ba con quái vật phía dưới rõ ràng cũng cực sợ âm khí lạnh lẽo trên này, vì bọn chúng đã ngừng lại không dám leo tiếp nữa, chỉ dán chặt vào vách đá như đang chờ chúng tôi rớt xuống.

Là Thủy Mị mà còn phải sợ hãi thứ đang ở trên đỉnh núi, vậy trên đó rốt cuộc đang chôn giấu cái gì? Tôi nuốt nước miếng, ngẩng đầu nhìn Bạch Dực, anh ta vẫn đang cắn răng liều mạng leo lên, nhưng sắc mặt đã xanh mét lại, cả người run bắn lên, xem chừng anh ta cũng bị ảnh hưởng bởi thứ lực hấp dẫn kỳ quặc trên kia.

Đang khi tôi còn lo lắng không biết anh ta có kiên trì lên nổi tới đỉnh núi hay không, thì chợt viên đá mà anh ta đặt chân lên bất đồ rơi ra, anh ta trượt chân, cả người rơi thẳng xuống! Tôi hít mạnh một hơi, theo phản xạ nắm được tay anh ta, vì thế hai chúng tôi trong nháy mắt biến thành cảnh một tay tôi bám chặt vào một cành cây, tay còn lại túm chặt lấy Bạch Dực.

Kính mắt của Bạch Dực đã rơi hẳn xuống dưới vách núi, mấy thứ kia thấy tế, cũng bắt đầu nhốn nháo kích động, rõ ràng là đang chờ chúng tôi rơi xuống, bọn chúng đều đưa tay lên, ra vẻ muốn tóm lấy chúng tôi.

Tôi chưa từng tưởng tượng ra trọng lượng của một người lại có thể nặng đến mức này, tôi nghiến chặt răng, gân xanh trên hai mu bàn tay đều hằn rõ lên. Những đám cây leo trên vách đá tuy mềm mại nhưng lại dẻo dai khác thường, vì cố sức tóm chặt lấy chúng nên lòng bàn tay tôi đã bị cứa rách hết, một dòng máu mảnh trườn theo lòng bàn tay xuống cổ tay, nhiễm đỏ một phần tay áo, cơn đau thốn óc khiến trong phút chốc cơ thể tôi cũng như muốn mềm đi.

Bạch Dực nhìn tôi, gương mặt lạnh lẽo, rất sến súa mà nói rằng: “Buông tay!”

Tôi không muốn lãng phí sức lực đi cãi nhau với anh ta về cái vấn đề vớ vẩn buông hay không buông này thêm nữa, chỉ cắn chặt răng tìm cách cuốn tay mình nhiều vòng quanh bụi dây leo, cuối cùng cả hai chúng tôi cũng không còn rơi xuống nữa. Tôi vốn muốn dùng cả cơ thể mình dán chặt vào vách đá để ngăn chặn việc rơi xuống, nhưng còn Bạch Dực ở dưới nên không dám.

Bạch Dực thấy tôi không có ý buông tay, liền tự tìm cách giãy khỏi tay tôi, tôi hoàn toàn bị rơi vào thế bị động. Tay Bạch Dực đã sắp trượt khỏi tay tôi. Thấy thế tôi vội vàng quay xuống gào to: “Nếu anh mà chết ở chỗ này tức là lỗi của tôi đó, chết tiệt, tôi cả đời cũng không yên tâm nổi đâu! Nếu anh mà ngã xuống tôi cũng sẽ nhảy xuống cho coi! Muốn chết cả hai cùng chết!” Lời vừa ra khỏi miệng tôi đã muốn hối hận; mẹ nó đúng là thành phim sến lúc 8 giờ tối mất bà nó rồi, cứ thế này có phải tiếp theo sẽ là cành cây gãy không?

Bạch Dực nhìn lại tôi, môi mím chặt không nói gì. Tôi gấp tới mức hai mắt đỏ bừng, ai bảo đàn ông không chảy nước mắt, lúc này tôi phải cố lắm mới ngăn bản thân không khóc rống lên hay không gào thét cứu mạng đây này!

Chợt anh ta mỉm cười, một lần nữa nắm chặt tay tôi, tôi nhìn lại, trong lòng nghĩ, có giỏi sao không đòi sống đòi chết nữa đi, vì thế trừng mắt với anh ta một cái. Nhưng vẫn dùng hết sức kéo anh ta lên một chút. Bạch Dực dường như đã tìm được chỗ đặt chân, vì sức nặng trong tay tôi đã nhẹ đi không ít, tôi thở phào nhẹ nhõm, may mà bụi dây leo này không đứt, không chặt đường sống của chúng tôi… Cũng cảm ơn trời, cuối cùng đã thoát khỏi tình tiết muôn thuở của phim truyền hình.

Bàn tay nắm bụi cây đã rách một đường dài, máu tuôn không ngừng, gần như nhuộm đỏ cả bàn tay và cổ tay. Bạch Dực cuối cùng cũng đã đứng vững, bèn nhanh chóng ôm lấy tôi, dùng tay còn lại của mình bám chắc vào một gốc cây to mọc chìa ra ngoài gần đó, sau đó nhìn tôi bảo: “Buông tay ra đi.”

Tôi nhìn bàn tay bị thương te tua của mình, khẽ thở dài, sau đó đứng thật vững, một tay còn nguyên lành ôm lấy tay Bạch Dực, tay bị thương từ từ buông đám dây leo ra. Lúc này tôi mới phát hiện là cánh tay đó của mình đang run bắn lên, tê dại đi, chẳng còn sót lại chút khí lực nào. Máu trên tay rơi xuống dưới, đám quái vật lập tức nhốn nháo lên như cá mập đánh hơi thấy mùi máu tươi. Xem ra máu người dường như có thể giúp chúng mạnh hơn đủ để trấn áp sức uy hiếp từ đỉnh núi, vì bọn chúng lại một lần nữa bắt đầu leo lên.

Bàn tay này coi như tạm thời hết xài, tôi tự thấy bản thân quả thực không thể leo lên nữa, đành nản chí thở dài một hơi, nghĩ thầm sống được mới ngoài hai mươi năm, không ngờ hôm nay lại bỏ mạng ở đây. Tôi nhắm chặt mắt, chịu đựng con đau, dù sao thì cũng sắp tới đường cùng rồi, tinh thần mới vừa rồi còn rất mạnh mẽ lúc này lại nhũn cả ra, cả người cũng mềm oặt lả đi.

Bạch Dực nhìn bàn tay của tôi, lại nhìn lên đỉnh núi không còn bao xa ở trên kia, kéo tay tôi khoác lên vai anh ta, sau đó vững vàng nói: “Để tôi cõng cậu lên.”

Tôi mở mắt, có lẽ là do mất máu quá nhiều nên lúc này đã không trông rõ trước mắt nữa, chỉ lắc lắc đầu, khàn khàn nói: “Anh leo lên đi, nếu cõng cả tôi theo thì anh không thể lên được đâu!”

Bạch Dực không thèm nói nhiều, buông bàn tay còn lành lặn của tôi ra mà nắm lấy bàn tay bị thương. Tôi đau đến co rúm cả người lại, vô thức ôm chặt lấy anh ta, lòng thầm mắng, chết tiệt, có muốn nắm cũng đừng nắm cái tay bị thương chứ! Anh ta nhìn tôi nói: “Cậu đã không bỏ tôi lại, làm sao tôi có thể bỏ cậu lại chứ? Hoặc là cùng nhau ngã xuống, hoặc là cùng nhau leo lên thôi!”

Tôi không nói gì, hay nói đúng hơn là không thể nói gì, chỉ gật đầu, dùng hai tay quàng qua vai ôm lấy cổ anh ta. Lại lơ đãng nhìn xuống dưới, thấy ba thứ kia có được máu của tôi cứ như phát điên lên, không còn trông giống người nữa mà cứ như ba con thằn lằn màu trắng thật to đang điên cuồng bò lên, ánh mắt dại đi, trong miệng hộc ra những thứ dịch thể màu xanh đen, gớm ghiếc muốn chết.

Bạch Dực thấy tôi đã nằm yên ổn trên vai mình, liền dùng một tay giữ người tôi, một tay dùng sức leo lên, từng tấc từng tấc một. Nói thật, tôi sắp ngất xỉu tới nơi, chỉ biết dùng toàn bộ phần sức lực yếu ớt cuối cùng để ôm chặt lấy Bạch Dực. Lúc này chỉ cần buông tay, khỏi cần nói, nếu không ngã xuống chết thì cũng sẽ bị mấy thứ kia cắn xé.

Gió thổi ù ù bên tai khiến cho mọi giác quan càng thêm trì độn đi. Tôi không trông rõ mặt Bạch Dực nữa, cảm thấy máu trong người cũng sắp đông cứng, cả người lạnh như băng, chỉ có chút hơi ấm tỏa ra từ người Bạch Dực khiến tôi còn mông lung cảm thấy sự sống, cảm thấy mình chưa chết.

Tôi những muốn nói gì đó, nhưng phát hiện cổ họng đã khô đặc lại, nước mắt, cuối cùng nhịn không được trào ra. Bạch Dực biết tôi không chống cự được bao lâu nữa, liền nghiêng đầu lại nhìn tôi, nhíu nhíu mày, anh ta cũng sắp hụt hơi, nhưng vẫn ra sức nói với tôi: “Cố lên.”

Tôi vô thức gật đầu, không biết bản thân thực sự có thể chống đỡ tới cùng hay không? Đoạn đường cuối cùng, Bạch Dực gần như phải trườn lên, không biết có nên gọi là kỳ tích hay không nữa. Thủy Mị ngại thứ đang nằm trên đỉnh núi nên không dám tới gần. Tuy chúng cũng điên cuồng tìm cách leo lên núi, nhưng tốc độ so ra vẫn chậm hơn chúng tôi rất nhiều.

Lên tới đỉnh núi, tôi rốt cuộc có cảm giác chân chạm đất. Bạch Dực nằm vật xuống bên cạnh tôi, hai tay cũng đã bị phá rách nham nhở. Nhưng vừa khi lấy lại sức một chút anh ta đã nhổm dậy, tháo khăn quấn cổ xuống bao lấy bàn tay đang chảy máu của tôi.

Anh ta vỗ vỗ hai má tôi: “Chúng ta lên tới đỉnh núi rồi, cố lên!”

Vì mất máu hơi nhiều nên lúc này tôi thực sự khát nước, vô thức rên rỉ: “Khát nước, tôi khát quá…”

Một lát sau dường như có cái gì đó dán sát vào đôi môi nứt nẻ của tôi, tôi bèn theo bản năng đưa đầu lưỡi liếm lấy, cảm thấy thứ đó dường như dừng lại trong phút chốc, sau đó, một dòng nước ấm áp chậm rãi rót vào miệng tôi, thực sự là cứu mạng mà, tôi theo bản năng sinh tồn vội vàng nuốt lấy.

Sau đó nước liên tục được đưa vào miệng tôi, có nước, tinh thần tôi cũng bắt đầu tỉnh táo lại. Nhưng mắt vừa mở ra thì lập tức lại trợn tròn lên, vì tôi sực nghĩ tới việc làm sao mà lại có nước trong hoàn cảnh này được… Hóa ra là Bạch Dực ngậm tuyết vào miệng cho tan… sau đó đút cho tôi… Mẹ nó, sao lại quay về phim truyền hình sến lúc 8 giờ tối thế này?!

Khi anh ta một lần nữa sắp chạm môi vào môi tôi, tôi lập tức bật dậy đẩy anh ta ra, một ngụm nước chưa kịp nuốt bị sặc vào khí quản, tôi ho rũ người ra, vừa ho vừa run run chỉ tay vào Bạch Dực, mắt nhìn chằm chằm vào đống tuyết trên đất.

Anh ta thấy tôi đã sống lại, liền quay lại vẻ mặt như thường, bình thản đứng đắn giải thích: Yên tâm, tôi lấy tuyết dưới sâu, không lấy tuyết trên bề mặt đâu, sạch sẽ lắm mà.”

Tôi vất vả lắm mới bình tĩnh lại được, hung hăng trừng mắt với anh ta, trong lòng nói bẩn hay sạch đâu phải là chỗ quan trọng! Nhưng nếu tranh cãi về vấn đề này bây giờ thì quả thực xấu hổ, thôi thì tập trung vào chính sự thôi. Tôi choáng váng đứng lên, nhất thời quên mất một tay đang bị thương, dùng tay nhấc người lên, lập tức đau tới mức tỉnh hẳn cả người. Lắc lắc lư lư ngồi xuống, lúc này tôi mới nhớ ra mình đang ở đâu, chuyện gì đang xảy ra, phía dưới còn có thứ gì, và chúng tôi phải làm gì để thoát thân.

Nhưng trông Bạch Dực lúc này khá bình tĩnh, tôi ngẩng lên nhìn anh ta ra ý hỏi, anh ta không trả lời mà chỉ ra hiệu cho tôi nhìn bốn phía. Tôi làm theo, phát hiện chỗ này hẳn là chỗ cao nhất đảo, là một mô đất nhỏ bẳng phẳng, chính giữa có một phiến đá dựng như mộ phần, bên trên để một cái rương, cái rương nhỏ bằng đồng, giống hệt như cái xuất hiện trong giấc mơ của tôi!

Gió vẫn thổi ào ạt như những lưỡi dao vô hình, cuốn theo một đám tuyết trên mặt đất thành những cơn lốc màu trắng mờ che mắt người, tôi dụi dụi mắt nhìn lỹ lại một lần nữa, thực sự là cái rương đã xuất hiện trong mơ.

Bạch Dực vất vả nâng tôi – lúc đó đã ngã sấp xuống đất – đứng dậy, sau đó chậm rãi tiến tới gần cái rương. Tôi yếu ớt hỏi anh ta: “Nó là cái gì vậy?”

“Đây là thứ duy nhất có thể cứu mạng chúng ta – Huyền Hoàng Bích. Cũng là thứ chúng ta có trách nhiệm tới bái tế.” Bạch Dực không quay lại nhìn tôi, chỉ nhẹ nhàng trả lời.

Tôi nghi hoặc hỏi: “Sao lại đặt thứ này ở đây? Mà sao anh biết là nó?”

Lần này Bạch Dực quay lại nhìn tôi, xoa xoa mồ hôi trên trán: “Cậu quên tôi đã nói với cậu rằng chỗ này tụ tập rất nhiều âm khí sao? Một nơi thế này chính xác có thể nuôi dưỡng được ba con quái vật như dưới kia. Nhưng chỗ này lại có thể ngăn chặn bọn chúng, tại sao? Câu trả lời chỉ có một, đó là ở đây có đặt thứ gì đó trấn áp được âm khí, mà câu cuối cùng trong bài thơ của chúng ta là ‘Bắc tôn long ngoan trấn huyền hoàng’.”

Anh ta có vẻ cũng sắp đứt cả hơi, vì khi nói những lời này giọng anh ta run run, phải dừng lại thở dốc một lúc rồi mới tiếp tục được: “Trong ‘Chu Lễ. Xuân quan. Đại tông bái’ có ghi chép rõ: Dùng sáu loại ngọc làm lễ vật, lễ bái thiên địa tứ phương; dùng Thương Bích bái thiên, dùng Hoàng Tông bái địa, dùng Xích Chương dâng cho phía nam, dùng Thanh Khuê dâng cho phía đông, dùng Bạch Hổ dâng cho phía tây, dùng Huyền Hoàng dâng cho phía bắc. Các loại ngọc này thực ra đại diện cho sáu thuộc tính khác nhau, thiên là nhật, địa là nguyệt, đông là Thanh Long, nam là Chu Tước, tây là Bạch Hổ, mà bắc chính là Huyền Vũ. Phương bắc cũng là nơi vạn quỷ tụ tập, cho nên đại diện cho phương bắc, thần Huyền Vũ, có trách nhiệm trấn áp mọi hồn ma phách quỷ; cho nên lễ vật dâng cho Huyền Vũ là Huyền Hoàng Bích cũng đương nhiên trở thành loại ngọc có khả năng trấn áp chúng quỷ.”

“Ý của anh là chúng ta nên mượn tạm viên ngọc này đi làm bùa hộ mệnh?” Tôi kinh ngạc nhìn lại cái rương, trông nó có vẻ khá nặng.

Anh ta cũng quay lại nhìn cái rương đồng: “Thứ này xem chừng đã được để ở đây trên dưới trăm năm rồi, nếu bây giờ mà động vào thì âm khí tích tụ trong nó không phải thứ con người có thể chịu nổi đâu. Hơn nữa thứ này không mang đi được, bằng không nơi này sẽ hóa thành đất quỷ mất. Nhưng đúng là có thể dùng nó để trấn áp ba con quái vật dưới kia dễ dàng.”

Tôi nghe thế cảm thấy hơi chợn, quả nhiên vẫn cần một người phải liều mạng? Vì thế cắn răng nhìn sang chỗ cái rương: “Để tôi tới lấy ngọc. Dù sao lúc này tôi cũng muốn đi hết nổi rồi, chết thì chết thôi mà, để tôi lấy cho!”

Bạch Dực nhìn tôi, tôi biết mình vừa nói với anh ta một câu không lấy gì làm hay lắm, nhưng trong tình huống nước sôi lửa bỏng này, chỉ có biện pháp này là có thể cứu một trong hai chúng tôi mà thôi. Vì thế tôi cắn cắn môi không thèm suy nghĩ nhiều nữa, mà chậm rãi tiến về phía cái rương.

“Để tôi làm thì hơn.” Bạch Dực chợt bình thản nở nụ cười, bàn tay ngăn tôi lại.

Chết tiệt! Có phải là đi ăn chùa đâu mà hăng hái thế? Đây là ôm bom cảm tử, cảm tử đó biết chưa, đừng có làm người ta sởn gai ốc nữa đi, ngày hôm nay sến súa quá đủ rồi! Tôi gạt tay anh ta ra, lảo đảo bước tới gần như ôm lấy cái rương, sau đó quay lại trừng mắt quát Bạch Dực: “Tôi đã bảo để tôi làm! Anh đừng nghĩ tôi vô dụng như vậy, cái gì cũng cần phải nhờ anh tới cứu! Lần này để tôi làm anh hùng một lần đi!”

Lúc này, ba con quái vật kia không biết bằng cách nào mà cũng đã leo dần tới đỉnh núi. Gương mặt đầu tiên tôi nhìn thấy là của nữ quỷ, cả người nó đều tràn ra một thứ dịch thể màu xanh đen hôi thối, cơ thể nó phồng lên, sưng phù như một đống bột nhão quá nước kinh khủng, chậm rãi nhúc nhích bò lên. Sau đó tôi phát hiện ra sau lưng nó là hai cái đầu của hai gã con trai còn lại, có thể nữ quỷ này đã hấp thu cả hai đồng bạn của mình mới có đủ sức mạnh leo lên tới đỉnh núi này. Trông nó có vẻ cực kỳ táo bạo, đôi mắt đỏ lừ, cái miệng mở rộng, lộ ra hai hàng răng nhỏ sắc lẻm nhọm hoắt, hoàn toàn có thể nghiến đứt xương khớp của chúng tôi.

Tôi thấy chúng tôi đang rơi dần vào hoàn cảnh chỉ mành treo chuông, liền không chờ Bạch Dực lên tiếng, cấp tốc mở cái rương trong tay ra. Cái khóa trên nắp rương đã rớt ra từ lâu, tôi dùng cánh tay bị thương kẹp chặt rương, sau đó dùng cái tay lành lặn còn lại mở nắp rương ra.

Quái vật thấy tôi sắp mở rương, lập tức điên cuồng gào thét lao thẳng tới chỗ tôi. Bạch Dực lúc này cũng đã nhìn thấy nữ quỷ, dường như sức mạnh của Huyền Hoàng Bích ở đây khiến nó không thể ẩn thân được.

Anh ta nhanh như chớp lao ra chặn nữ quỷ lại, sau đó rút từ trong túi áo ra một cái túi gấm nho nhỏ mà tôi chưa nhìn thấy bao giờ, sau đó một tay túm chặt lấy nữ quỷ, tay còn lại rắc một ít bột từ trong túi gấm vào thẳng mặt nó. Nữ quỷ như thể đã hoàn toàn phát điên, nhưng bột phấn làm cả cơ thể nó nổi lên những bong bóng nước nhỏ, nó đau đến mức gầm rú điên cuồng, cả người tỏa ra một mùi hôi thối kinh người.

Tôi không có thời gian nhìn cảnh tượng kinh khủng trước mắt, chỉ cắn răng dùng lực, cuối cùng cái rương cũng mở bung ra. Tôi run run cầm lấy khối ngọc bích bên trong, một trận khí âm hàn kinh khủng nhất thời dội thẳng vào người. Ngọc bích là một khối ngọc màu trắng sữa pha vàng nhạt, xung quanh không có bất kỳ vàng bạc nào để trang sức, chỉ là một viên ngọc thuần khiết thiên thành hình khối tròn, viên ngọc lạnh lẽo lạ thường, so với nó, thậm chí băng tuyết đóng dày xung quanh thực sự không là cái gì cả. Trong nháy mắt, linh hồn của tôi giống như bị rút cạn, máu trong người cũng như đông cứng lại hết, đôi chân dường như đã hòa thành một khối với đám băng tuyết xung quanh, mọi cảm giác trên người tôi đều như ngưng trệ lại, giống như đang bị giam trong một khối nước đá khổng lồ, tôi có cảm giác như cơ thể mình đang phải tiếp nhận toàn bộ khối âm khí ghê người đã tích tụ ở đây bao nhiêu lâu rồi vậy.

Tôi không thể thở được nữa, nữ quỷ kia vừa nhìn thấy viên ngọc bích trong tay tôi chợt gào thét rất to, hai cái đầu còn lại trên người nó cũng bắt đầu rít gào lên. Tôi dùng cả hai tay mình giữ viên ngọc, quỳ rạp xuống đất, hai bàn tay tôi dần dần đổi màu, làn da chậm rãi biến thành một màu trắng ngà của ngọc. Nữ quỷ kia đang khốn khổ gào thét, lăn lộn trên mặt đất, dường như đang từ từ tan ra… cuối cùng, chỉ còn sót lại một đám nước đen ngòm, ở giữa chúng, là ba bộ xương khô, hai nam một nữ, mặc y phục mùa thu…

Bạch Dực quay phắt lại nhìn tôi, vội vàng gào to bảo tôi mau buông viên ngọc ra, nhưng tôi không thể buông nó xuống được nữa, viên ngọc giống như dính chặt trên tay tôi vậy. Không! Phải nói là nó đang muốn nuốt chửng tôi, tôi cảm giác cơ thể mình càng lúc càng hóa thành một khối ngọc.

Bạch Dực thấy thế vội chạy tới, nhưng tôi lập tức kêu to: “Đừng tới đây! Thứ này… thứ này có thể nuốt chửng người!”

Nhưng anh ta vẫn không dừng lại, mà ngược lại, còn chạy tới nhanh hơn. Thoáng một cái đã ôm chặt lấy tôi, trong miệng không ngừng lẩm nhẩm mấy câu thơ trên tờ giấy: “Thiên mục nhập quy tầm mộ hoang. Tứ long vào nước đoạt phách hồn. Bát phương tụ khí hồn không tán. Bắc tôn long ngoan trấn huyền hoàng… Linh hồn của vạn vận yểm trong thần ngọc, hôm nay chúng tôi đến bái lạy, tạ ơn bắc tôn…!”

Anh ta niệm mấy lần, cuối cùng tôi cũng cảm thấy cơ thể mình dần dần có lại cảm giác, viên ngọc bích trên tay cũng rơi xuống mặt đất đầy tuyết. Nhưng luồng khí âm hàn trong cơ thể tôi thì còn nguyên đó, khiến tôi run lẩy bẩy. Tôi thậm chí phải dùng răng cắn chặt môi, để hai hàm răng không va vào nhau.

Bạch Dực vỗ nhẹ lên lưng tôi, nhẹ giọng an ủi: “Không sao, không sao nữa, xong hết rồi. Chúng ta hoàn thành lời hứa rồi.”

Tôi ngẩng lên nhìn Bạch Dực gật gật đầu. Anh ta buông tôi ra, cởi áo khoác ngoài của mình ra mà khoác lên người tôi. Tôi giật giật thử ngón tay, nhưng phát hiện bàn tay đã đông cứng lại, ngay cả nhúc nhích đầu ngón tay cũng không được, âm khí của mấy trăm năm tích tụ quả nhiên không tầm thường.

Bạch Dực nhìn bộ dạng hoạt kê của tôi, nhẹ nở nụ cười, cầm hai bàn tay tôi nhét vào trong túi áo, sau đó thỏa mãn gật đầu, ngẩng lên nhìn ánh tà dương phía xa xa. Mặt trời sắp lặn, bầu trời vẫn âm u đầy mây, nhưng ánh chiều tà vẫn đủ sức nhuộm cả mặt hồ thành một màu vàng nhạt mê hồn. Quả là “thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”… Bên bờ hồ, bóng một con thuyền lá khẽ lắc lư theo làn sóng.

Bạch Dực vỗ vỗ người tôi nhẹ nhàng bảo: “Về thôi, việc này coi như xong.”

Tôi run run nói: “Lúc… lúc về… tôi muốn ăn…ăn lẩu…muốn uống… uống canh nóng…”

Anh ta cười đồng ý, sau đó đỡ tôi men theo con đường phía nam đi xuống dưới. Mé phía nam có bậc thang, cho nên dễ đi hơn rất nhiều so với mé phía bắc, nhưng với tình trạng của tôi lúc này thì quả thực không hề đơn giản chút nào. Chờ đến khi xuống tới bến thuyền, ông chèo thuyền đã chờ sẵn ở đó hút thuốc, ông ta nhìn chúng tôi như hai kẻ chạy nạn, vội vã tới đỡ chúng tôi, sau đó hỏi có chuyện gì xảy ra.

Chúng tôi lắc lắc đầu nói là không cẩn thận ngã xuống núi, chứ không dám kể thật. Ông ta gật đầu khen chúng tôi may mắn, sau đó cho chúng tôi lên thuyền, nhanh chóng trở về.

Khi trở về mặt hồ rất phẳng lặng, không thấy xoáy nước ngầm nào. Người chèo thuyền cũng không nói gì, chúng tôi nhanh chóng cập bờ, thanh toán tiền rồi từ biệt ông ta. Ông ta lại chống sào, chiếc thuyền con nhanh chóng biến mất giữa mênh mang sóng nước.

Khi chúng tôi quay về văn phòng quản lý du lịch gần đó, người ta thấy chúng tôi người đầy thương tích, liền lập tức giúp chúng tôi băng bó, còn gọi điện cho bệnh viện địa phương tới. Chúng tôi chỉ dám đơn giản nói là ra hòn đảo nhỏ giữa hồ du ngoạn, không cẩn thận để bị trượt té xuống núi.

Nhưng một nhân viên cứu hộ có tuổi đang có mặt ở đó nghe thế, liền lập tức kinh hoàng hỏi: “Sao hai người ra được hòn đảo đó chứ! Thiệt tình, tên khốn nào dám làm trái quy định như vậy! Đã dặn kỹ là tuyệt đối không được chở khách ra đảo kia mà!”

Chúng tôi nhìn nhau, lần này là tôi lên tiếng: “Có thật không, người chèo thuyền cho chúng tôi là một bác trung niên, da màu đồng, dáng người rất vạm vỡ, trên trán bên trái có một vết sẹo to bằng đồng xu…”

Ly nước trong tay ông nhân viên cứu hộ chợt “xoảng” một cái rơi xuống đất vỡ tan tành. Ông ta kinh hoàng lắp bắp: “Sao… sao có thể như vậy chứ… mùa thu năm ngoái ổng mang theo ba sinh viên chèo thuyền ra đảo, gặp phải xoáy nước ngầm chết đuối hết rồi mà… đến giờ còn chưa tìm được thi thể…”

Cổ tôi cứng đờ ra, tôi run rẩy hỏi thêm: “Ba sinh viên kia… có phải hai nam một nữ… không ạ…?”

Ông ta nhìn chúng tôi chằm chằm mà không trả lời. Tôi nhìn ra bên ngoài cửa sổ văn phòng cứu hộ, dường như phảng phất nhìn thấy giữa làn nước dập dờn của hồ Thiên Mộ bóng một con thuyền nho nhỏ, chập chờn phiêu đãng…

Mộ hoang – Hoàn

[1] Long ngoan là một tên gọi khác của Huyền Vũ

[2] Một loại súng lục nòng lớn bán tự động, được sản xuất chủ yếu ở Israel. (Wikipedia Việt Nam)

[3] Tức là “ngàn con mắt”, ý chỉ những xoáy nước trong hồ

[4] Trong trường hợp này xin hiểu là “quỷ thì thường nói lung tung để mê hoặc con người”

[5] Thi ban là những nốt tụ máu dưới da, thường xuất hiện sau khi chết một khoảng thời gian.

[6] Thần Chung Quỳ là vị thần chuyên diệt quỷ trong thần thoại Trung Quốc.

____________________________________________

Hì hì, xem ra bạn Bạch Dực bắt đầu có tư tâm, mà bạn An Tung bắt đầu bị tấn công rồi. Bạch Dực trong chương này có lúc làm An Tung (và độc giả) thót cả tim, nhỉ, nhưng anh ấy thực sự có lý do riêng để hỏi câu đó đấy… (spoil chút xíu ^^)

Chuyện sau, hai bạn sẽ bái đường thành thân (thật là quá nhanh=)))))))

Chương 13: Song hỉ quỷ sát (Thượng)

Một mùa cuối năm nữa lại sắp đến, cho dù khí trời lúc này rất lạnh, nhưng tất cả mọi người đều hối hả chuẩn bị cho ngày tết. Sự vui sướng đón mừng năm mới tạm thời đẩy lui cái giá rét của trời đông. Rất nhiều người chọn khoảng thời gian này để tổ chức những sự kiện vui mừng, ví dụ như trong trường chúng tôi có tới mấy cô giáo cùng chọn thời điểm này để kết hôn. Mấy ngày nay các cô ấy toàn là nhìn chằm chằm vào tờ lịch bàn, háo hức chờ ngày vui sắp tới.

Nhưng cũng thật kỳ lạ, thời gian này ngoại trừ nhiều đám hỉ thì cũng có rất nhiều đám tang. Có lẽ là do khí hậu quá lạnh, những người thể chất yếu hay những ông già bà cả gần đất xa trời chịu không nổi cái rét cuối năm đều chọn lúc này để ra đi. Hễ bước ra đường là lại gặp những người đeo băng tang trên tay áo, sắc mặt u buồn, trông chẳng có không khí mừng năm mới gì cả.

Thời cổ, người Trung Quốc quan niệm đời người có hai đại hỉ sự, thứ nhất đương nhiên là kết hôn, đó là khi một người tự mình có gia đình riêng, sinh con đẻ cái; nhưng hỉ sự thứ hai chính là khi chết đi, tục gọi là “hồng bạch song hỉ”. Tôi thực sự đến bây giờ vẫn không hiểu người chết đi rồi vì sao lại được coi là đáng mừng? Có phải bởi vì người đó sắp được lên cõi cực lạc hay không? Rốt cuộc thoát khỏi bể khổ nhân gian?

Tôi nhìn chằm chằm vào màn hình vi tính, thờ ơ chơi game online, nhưng đầu óc vẫn không ngừng suy nghĩ miên man về đủ thứ chuyện, có thể coi đây là một thói quen từ lâu của tôi. Sau lần đến hồ Thiên Mộ, tôi về tới nhà chỉ nằm dài ra nghỉ ngơi dưỡng sức, dịp năm mới này cũng quyết định không về quê nữa, nếu không để ba mẹ tôi nhìn thấy mấy vết thương kinh khủng này sẽ tưởng tôi vừa đi đánh trận ở Afghanistan về mất.

Bạch Dực cũng không về quê, anh ta nói là đã qua tuổi ở nhà mừng năm mới với cha mẹ rồi, có về hay không cũng thế. Hơn nữa để lại tôi một mình ở đây cũng không an tâm, cho nên hai anh chàng độc thân chúng tôi cùng nhau mừng năm mới… Nghe ra cũng thật cô đơn…

Khi tôi sắp hoàn thành nhiệm vụ (trong trò chơi) thì chợt nghe có tiếng gõ cửa, bèn vội vàng thu nhỏ cửa sổ trò chơi lại, lật đật xỏ chân vào dép ra ngoài mở cửa.

Lúc đó tôi cứ tưởng là Bạch Dực quên mang ví tiền nên quay về lấy. Vốn anh ta nói muốn đi sắm ít đồ tết, tuy chỉ có hai người cùng nhau mừng năm mới nhưng vẫn có những thứ nhất định không thể thiếu. Tôi lại rất lười mấy chuyện này, càng không muốn chường mặt ra đường giữa trời đông tuyết, nên quyết định ở nhà một mình cuộn chăn chơi game.

Vuốt vuốt mái tóc đã bắt đầu dài phủ gáy, tôi vừa mở cửa vừa càu nhàu: “Sao anh phiền phức quá vậy, cửa nhà…đâu có khóa…ơ…”

Vừa mở cửa liền phát hiện bên ngoài không phải là Bạch Dực mà là một cô gái trẻ, thân hình rất gầy gò, mặc áo khoác dạ màu đen, tóc dài ngang vai, trên cổ choàng khăn trắng, nhìn cũng có vẻ thanh tú, nhưng sắc mặt tái nhợt nên trông hơi yếu đuối.

Tôi vừa nhìn thấy đó là một cô gái liền lập tức sửa lời: “A, xin lỗi bạn. Tôi tưởng là anh bạn cùng phòng chứ, bạn tới tìm ai?”

Tôi đã xác định từ đầu là cô ấy không đến tìm tôi. Từ nhỏ tới giờ, nói ra thật xấu hổ nhưng chưa bao giờ tôi được các cô gái tới tìm đích danh cả. Quả nhiên cô gái trả lời: “Dạ, em tới tìm anh Bạch Dực, nghe nói anh ấy ở đây…”

Giọng nói của cô rất êm tai, nhưng vừa nghe nói cô gái tới tìm Bạch Dực, không hiểu vì sao lòng tôi lại có chút khó chịu. Nhưng tôi chỉ nhanh chóng quy kết là do mình ghen tị với anh ta mà thôi… Chỉ tiếc là đã mất công tìm tới tận đây mà lại không đúng lúc, vì thế tôi đành cười cười nói thật: “Bạch Dực vừa ra ngoài mua ít đồ rồi, lúc này không có nhà.”

Cô gái hơi nhíu nhíu mày, dường như rất ưu phiền. Cô ta vốn đã thanh tú, vừa nhíu mày một chút thì lập tức hình thành một loại vẻ đẹp yếu ớt sầu bi, giống như Lâm muội muội[1] vậy. Vừa nhìn thấy dáng vẻ này của cô ấy tôi đã mềm lòng, đành gợi ý: “Nếu không, bạn có thể vào nhà chờ anh ấy một chút? Anh ấy chắc cũng sắp về rồi.”

“Em tên Triệu Vân Vân, học viên của Học viện hí kịch. Nghe nói anh Bạch Dực rất rành mấy thứ ‘bất bình thường’ nên em đến nhờ anh ấy giúp.” Cô gái khẽ liếc nhìn tôi, nhỏ nhẹ giải thích, hai hàng chân mày cũng từ từ giãn ra.

Lại là Học viện hí kịch nữa sao? Thảo nào giọng nói lại mềm mại như vậy. Nhưng mà sao Bạch Dực biết nhiều học viên của cái học viện này thế không biết? Tiểu tử này, bộ muốn chọc tôi tức chết sao hả trời?! Tôi “à” một tiếng, tránh người sang một bên ra hiệu cho cô gái vào phòng. Bên ngoài trời rất lạnh, cô ta trông sắp chết rét tới nơi, làm sao tôi có thể để cô ta chờ ngoài cửa được chứ?

Tôi cười gật đầu với cô gái: “Tôi tên là An Tung, đồng nghiệp kiêm bạn cùng phòng với Bạch Dực. Bạn vào ngồi chờ chút đi, anh ấy chắc sắp về rồi.”

Triệu Vân Vân mím mím môi, không từ chối gì mà nhẹ nhàng bước vào phòng. Trong phòng có mở máy sưởi, cô gái đương nhiên phải cởi áo khoác và khăn quàng cổ ra. Tôi đứng phía sau lưng cô ta, hơi băn khoăn, trông cô ta chẳng có vẻ gì là bất bình thường cả, vậy tìm tới Bạch Dực làm cái gì không biết?

Nhưng khi cái khăn quàng cổ của cô gái vừa lơi ra thì tôi đã thoáng nhìn thấy trên cổ cô ta có một vết hằn màu đỏ, nhưng khi muốn nhìn kỹ lại thì cô gái đã kéo cao cổ áo che khuất mất. Mà đương nhiên tôi cũng không thể nhìn chằm chằm khiếm nhã vào cái cổ của một cô gái, nếu không sẽ bị mắng là lưu manh mất. Cũng có thể chỉ là một sợi dây đỏ để buộc ngọc bội hay gì đó chẳng hạn, có khi là do tôi thần hồn nát thần tính thôi.

Cô gái nhìn quanh gian nhà, sau đó mỉm cười khen: “Không ngờ phòng của các anh mà cũng sạch sẽ không kém gì phòng các bạn nữ thế này.”

Tôi rót cho cô gái một ly trà, cười đáp lời: “Tất cả là nhờ tay Bạch Dực cả đấy, anh ta có hơi sạch sẽ quá đáng.” Nhưng trong lòng thầm nghĩ, bộ cô tưởng cứ hễ là phòng của đàn ông là phải dơ dáy lộn xộn như cái ổ chó, bít tất treo trên cửa, quần áo vất trên ghế hay sao?

Khi cô gái đưa tay nhận ly trà từ tay tôi, tôi chợt nhìn thấy trên cổ tay cô ta cũng có một vòng màu đỏ. Tôi vô thức mở to mắt nhìn, nhưng chưa kịp nhìn kỹ thì tay cô ta đã rụt lại chìm vào trong lớp lông dày lót ngoài tay áo. Thật kỳ lạ, năm nay là năm tuổi của cô ta hay sao mà phải cột nhiều dây đỏ lên người như thế?

Triệu Vân Vân nhấp một ngụm trà, có vẻ như làm ấm người lên một chút rồi mới mở miệng: “Em được cô giáo Bạch Nguyệt Linh giới thiệu, nghe nói cô giáo là cô của anh Bạch Dực. Cô giáo bảo anh Bạch Dực rất rành mấy thứ…” Cô gái chợt nhỏ giọng, bàn tay đang cầm ly khẽ siết lại, cắn cắn môi mấy cái rồi mới tiếp: “Nghe nói anh ấy có thể trừ tà đuổi quỷ. Em hiện nay đang gặp phiền toái lớn, nếu anh ấy không giúp em, sợ là… sợ là…”

Vừa lúc đó, cánh cửa phòng phía sau lưng chúng tôi chợt kẽo kẹt một tiếng, một cơn gió lạnh thốc vào, cô gái dường như kinh hoảng vì một cái gì đó, nhanh như chớp quay phắt lại phía sau nhìn trừng trừng cánh cửa đang từ từ mở ra. Cho đến khi nhìn thấy dáng Bạch Dực tay xách nách mang túi to túi nhỏ bước vào phòng, cô mới thở phào nhẹ nhõm. Nhưng tôi thì chẳng có gì sợ hãi cả, tôi biết là anh ta.

Bạch Dực tha về rất nhiều thứ, không thèm ngẩng đầu lên mà chỉ gọi vọng vào: “Ra đây phụ một tay đi, nặng chết người ta bây giờ, đã bảo cậu cùng đi mà cậu lại cứ ở nhà chơi game mãi!”

Tôi vội vàng chạy ra cầm lấy vài cái túi, vừa mang vào trong vừa nói: “Hừ, có bao giờ anh nhìn thấy hai thằng đàn ông dắt tay nhau đi sắm tết chưa? Người ta nhà nào cũng là vợ đi với chồng, cha mẹ đi với con cái, ai đời hai thằng nam nhi chi chí mà đòi đi mua đồ với nhau hả?!”

Bạch Dực lườm tôi một cái, cười hừ hừ: “Cậu mà là vợ tôi thì coi như tôi xui trọn kiếp rồi!”

Tôi định tiếp tục cãi lại vài câu, nhưng Triệu Vân Vân ở phòng trong đã ho khan vài tiếng, dường như đã bắt đầu ngượng ngùng với nội dung câu chuyện của chúng tôi. Bạch Dực quay lại hỏi tôi: “Trong nhà có ai vậy? Sao nghe như giọng con gái thế?”

Lúc này Triệu Vân Vân cũng bước ra, nhỏ nhẹ chào Bạch Dực: “Em tên Triệu Vân Vân, cô Nguyệt Linh giới thiệu em tới đây, em muốn nhờ Bạch tiên sinh giúp em một chuyện.”

Bạch Dực nhướn mày nhìn, sau đó vèo một cái biến thành nét mặt lạnh tanh nghiêm túc như thường lệ, chỉ có tôi đứng ngay bên cạnh anh ta mới nghe anh ta lầm bầm: “Lại nữa sao trời… lần trước chuyện con bé Chu Linh kia còn chưa đủ chắc… Cứ muốn gây rắc rối cho cháu mình là sao…”

Sau đó chỉ thấy anh ta khẽ gật đầu, không nói gì thêm, chỉ chăm chú mang hàng hóa trên tay vào trong nhà. Tôi lắc đầu nhìn theo anh ta, vội vàng đưa Triệu Vân Vân vào nhà ngồi lại. Trong lòng thầm than thở: Bạch Dực ơi là Bạch Dực, ở đây mà anh còn sĩ diện cho ai nhìn không biết?

Một lát sau Bạch Dực mới quay lại ngồi xuống ghế, phòng của chúng tôi hơi nhỏ nên để có chỗ cho anh ta ngồi tôi đành phải đứng dựa người vào bên ghế của Bạch Dực. Cô gái nhìn chúng tôi chăm chú, sau đó nhấp một ngụm trà, chúng tôi thì yên lặng chờ đợi cô ta lên tiếng.

Lúc này căn phòng rất yên tĩnh, chỉ có tiếng đồng hồ tích tắc, phải vài phút sau, cô gái mới từ từ bắt đầu câu chuyện của mình: “Em sợ lắm, sợ là mình sắp chết mất! Xin các anh, các anh cứu em với, em biết mình rất đường đột khi chạy thẳng tới đây, nhưng quả thực em không dám chắc mình có còn sống được tới năm mới hay không nữa!”

Chúng tôi ngẩn người ra nhìn cô gái, gì cơ? Sắp chết? Nhìn cô ta bình thường thế kia cơ mà? Tôi và Bạch Dực quay sang nhìn nhau hoang mang, cuối cùng Bạch Dực ho khan một tiếng hỏi: “Bạn họ Triệu đúng không? Bạn…có thể nói rõ một chút được chứ, sao lại sắp chết?”

Triệu Vân Vân cau mày, trong mắt tràn ngập bóng mờ ảm đạm của sự tuyệt vọng, đôi môi hơi run lên, nhưng  vẫn quật cường mà mím chặt lại. Cô ta mở miệng định nói gì đó, nhưng dường như không sao nói nổi, nên lại vội vàng cầm ly trà lên uống liền mấy hớp, vội tới mức ho sặc sụa.

Tôi lo lắng nhìn cô gái: “Rốt cuộc là có chuyện gì xảy ra nào? Đừng vội, nói từ từ thôi.”

“Em có một người bạn trai, nhưng cách đây ít lâu anh ấy bị tai nạn xe cộ, chết rồi…” Nói đến đây, vành mắt cô gái hơi đỏ lên. “Bọn em quen nhau được ba năm rồi, vốn định chờ khi em tốt nghiệp sẽ kết hôn. Gia đình hai bên cũng gặp gỡ nhau bàn bạc xong hết rồi, vậy mà…” Triệu Vân Vân cúi thấp đầu, giọng nói rất nhẹ rất nhu, nếu không phải căn phòng quá mức tĩnh lặng thế này thì sẽ không nghe được.

Cô dừng một chút, cánh mũi hơi sụt sịt, sau đó tiếp tục nói: “Em có mặt ở lễ tang của anh ấy, có rất nhiều người tới dự, mọi người đều khóc lóc thương cảm, càng nghe em càng cảm thấy đau lòng. Nhưng anh ấy lại không nghe thấy được, anh ấy chỉ im lặng nằm trong quan tài nắp thủy tinh trong suốt đó, cái gì cũng không biết nữa… Em nhìn kỹ mặt anh ấy một lần, sau đó không dám nhìn nữa, gương mặt anh ấy đã hoàn toàn biến dạng, sưng phù lên, mà không phải tái nhợt đi, mà là xanh bầm lên. Tủy não chảy ra từ lỗ tai của anh ấy dính cả lên tóc, cả người anh ấy mặc toàn màu đen, giống như là một bức tượng sáp thật to, cái chăn bông màu xanh đỏ lòe loẹt phủ lên ngang người anh ấy… Tất cả cảnh tượng đó trông có vẻ… phi thực thế nào ấy, thậm chí khi đó em vẫn không thể tin được anh ấy lại đang nằm trong đó. Em chỉ cảm thấy buồn nôn thôi, nhưng đó dù sao vẫn là di thể của người em yêu nhất, cho nên em chỉ nôn khan vài cái rồi sau đó không dám nhìn anh ấy nữa. Người nhà anh ấy đều vây quanh quan tài khóc lóc thảm thiết gọi tên anh ấy, nhưng thực ra không có ai dám nhìn thẳng vào anh ấy cả, ai cũng cố ý tránh mặt anh ấy ra. Giữa linh đường chỉ toàn mùi hoa bách hợp nồng nặc, cái mùi như mùi thối rữa đó làm em tưởng tượng có ngày mình cũng sẽ nằm xuống một cái quan tài như vậy, ai cũng khóc lóc, nhưng không có ai dám nhìn thẳng vào mặt em nữa…”

Thân thể Triệu Vân Vân run lên, hai tay ôm lấy hai vai. Cô gái nhắm nghiền mắt như để tự trấn định, sau đó tiếp tục: “Em lùi ra xa khỏi quan tài, vì thực sự không thể chịu nổi nữa. Ảnh chụp của anh ấy đặt trước quan tài, nụ cười trên gương mặt trong ảnh vừa quen thuộc lại vừa xa lạ, nhìn ảnh chụp cứ như nhìn vào linh hồn của anh ấy vậy, mơ hồ toát ra chút quỷ khí… Anh ấy đang cười, nhưng rõ ràng là cười nhạo, cười nhạo em vì sao lại còn sống.

Em dựa hẳn người vào tường, không khóc, tuy em cũng cực kỳ thương tâm, nhưng nước mắt lại không sao rơi xuống nổi. Mẹ anh ấy gào khóc thảm thiết, em nghe tiếng khóc của bác ấy mà sống lưng lạnh toát. Tự nhiên lúc đó em chỉ muốn mọi thứ kết thúc mau mau, để em được đi khỏi đó, rời khỏi anh ấy, rời khỏi cái chết mà thôi… Lúc em quay người lại định đi về, tự nhiên em mới phát hiện ở cửa lớn có một cô gái đang đứng, cô ta có vẻ mặt rất khoái trá, rõ ràng là đang cười. Cô ta mặc sườn xám màu đỏ rực, đôi giày thêu cũng màu đỏ, búi tóc cao, cô ta đang nhìn ảnh chụp của anh ấy ở giữa linh đường mà mỉm cười, em dường như còn nghe thấy được cả tiếng cười của cô ta.

Lúc đó em nghĩ mình coi như cũng là bạn gái của anh ấy, không thể cho phép một cô gái xa lạ ăn mặc lố lăng như vậy xuất hiện trong đám tang của anh ấy, tỏ vẻ không tôn trọng anh ấy như thế. Cho nên em mới gọi một người bạn chung của chúng em, cậu ấy là bạn học của bạn trai em trước đây, chỉ cho cậu ấy thấy cô gái đứng ở cửa: ‘Sao lại có loại người như thế chứ, ăn mặc như vậy mà dám tới lễ tang của anh Kiệt!’

Cậu ấy cũng đã nhìn thấy cô ta, lập tức nổi giận đùng đùng, vì thế liền tiến tới định đuổi cô ta đi. Cô gái nhìn thấy chúng em tiến lại gần nên quay mặt lại nhìn chúng em, lúc này em mới thấy cô ta có gương mặt trắng bệch như thạch cao, đôi môi và hai bên má tô đỏ nhìn như một con búp bê xấu xí. Cô ta mặc sườn xám ngắn tay kiểu cũ, phía dưới là váy dài xẻ một bên, nhìn hoàn toàn giống hệt như mấy cô dâu thời kỳ dân quốc, cô ta không thèm để ý đến chúng em, chỉ đứng đó mà cười, cười hạnh phúc như thể một tân nương sắp kết hôn vậy.

Đột nhiên em thấy lạnh cả người, nên không dám tới gần nữa, em nghĩ cô gái này có hơi quái dị. Nhưng bạn em thì tiến thẳng tới gào vào mặt cô ta: ‘Cô đang làm cái gì ở đây, hả! Chỗ này không phải chỗ cho cô tới dở trò điên!’

Cô ta đột nhiên không cười nữa, chỉ từ từ nhìn sang bạn em, tròng mắt của cô ta trợn trắng lên, hàm răng trắng ởn nhe ra. Cô ta lại bật cười, nhưng không phải mỉm cười như lúc nãy mà là cười như điên như dại. Từ trong miệng cô ta thoát ra một mùi tanh tưởi ghê rợn, em và bạn em đều phải quay mặt đi, đến lúc chúng em quay lại… cô ta… đã biến đâu mất rồi. Em nhìn sang bạn em, cậu ấy cũng cực kỳ kinh hoàng. Sau đó, cả hai chúng em không ai dám nhắc tới chuyện cô gái đó nữa.”

Bạch Dực đẩy đẩy gọng kính, vẻ mặt trở nên cực kỳ nghiêm túc, chứng tỏ chuyện của cô gái này hoàn toàn không đơn giản. Cô gái lấy lại bình tĩnh nói tiếp: “Chúng em cứ tưởng mọi chuyện thế là xong, hũ tro cốt của Kiệt cũng được chôn cất chu đáo. Em cứ tưởng mình sẽ quay lại cuộc sống bình thường, một mình đối mặt với tương lai sau này… Ai ngờ… đó chỉ mới là sự khởi đầu cho hàng loạt sự kiện kinh khủng tiếp theo…!”

Cuối cùng cô gái cũng không kiềm chế được nữa, bắt đầu bật khóc nức nở. Tôi nghĩ trong lòng: nếu như cô ta cứ thế này ra ngoài người ta sẽ tưởng chúng tôi làm gì cô ta mất… vì vậy vội vàng tìm cách an ủi: “Không sao, không sao hết, bây giờ bạn vẫn bình an cơ mà. Bạn nói hết đi, nói xong Bạch Dực nhất định có cách giúp bạn!” Vừa nói xong tôi lập tức cảm thấy đau nhói sau lưng, Bạch Dực vừa bí mật đấm cho tôi một cú, tôi quay lại nhìn, thấy anh ta trừng mắt lườm tôi vẻ bất mãn. Tôi đành làm bộ như không biết, chờ cô gái nói cho xong.

Cô gái lau nước mắt, tiếp lời: “…Vâng, từ lúc đó cả em và cậu bạn đều bắt đầu nhìn thấy những chuyện quái dị. Ví dụ như trên người bọn em bắt đầu xuất hiện những dấu hằn màu đỏ, có đôi lúc còn nghe tiếng con gái khóc ai oán bên tai. Em tưởng đó chỉ là ảo giác, tưởng là vì mình quá đau khổ mà ra, nhưng có một ngày cậu bạn kia hẹn em ra ngoài gặp, em mới biết mọi chuyện không đơn giản như vậy! Ngày hôm đó nhìn thấy cậu ấy em thực sự kinh hoàng, cậu ấy vốn là một thanh niên rất năng động, vậy mà lúc này gầy trơ cả xương sườn, tròng mắt cũng như muốn lồi hẳn ra, giống hệt như một bộ xương biết đi vậy! Cặp mắt của cậu ấy rất tuyệt vọng, cũng rất hoảng hốt. Lúc gặp nhau, cậu ấy yếu tới mức không gọi tên em nổi nữa, chỉ giơ tay ra hiệu cho em tới ngồi thôi. Em vừa ngồi xuống, cậu ấy đã nắm chặt lấy tay em, tay cậu ấy lạnh như băng ấy, cậu ấy bảo: ‘Thôi xong rồi, chúng ta sắp chết hết rồi. Đứa con gái kia, nó cứ một mực theo bên cạnh tớ. Tớ, tớ sợ mình không sống được bao lâu nữa…’ Cậu ấy kích động tới nỗi cả người run bần bật, lúc đó em an ủi cậu ấy: ‘Không thể nào, trên đời này không có quỷ, cậu đừng dọa tớ.’

Nhưng cậu ấy hất tay em ra, hét lên như bị động kinh vậy: ‘Cậu không biết, không biết gì hết… nó lúc nào cũng coi chừng tớ, tớ biết nó ở đó… lúc tớ ngủ nhìn thấy nó ngồi bên giường, lúc tớ uống nước nhìn thấy nó trong ly nước… Nó lúc nào cũng ở bên cạnh tớ, cho đến khi tớ chết đi mới thôi!’

Nói xong cậu ấy kéo tay áo lên chỉ cho em xem, trên tay cậu ấy là một vết siết màu đỏ, hơn nữa còn siết rất sâu, gân xanh chung quanh chỗ đó đều nổi hết cả lên. Em nhìn thấy mà nhăn cả mặt, cậu ấy nói: ‘Nó cũng sắp đến tìm cậu cho mà xem, tớ mà chết rồi thì cậu sẽ là đứa tiếp theo! Tất cả là lỗi tại cậu, vì sao cậu lại chỉ nó cho tớ thấy, tớ mà chết rồi, kế tiếp sẽ là cậu!!!’

Cậu ấy độc địa nhìn em, sau đó vội vàng chạy khỏi nhà hàng. Em ngồi lại tại chỗ, lúc quay lại nhìn theo quả thực em đã nhìn thấy một cái bóng theo sát sau lưng cậu ấy, một cái bóng mặc đồ đỏ… Không bao lâu sau đó thì bạn em đã chết, bác sĩ bảo là do bị suy hô hấp, nhưng em biết, thực ra cậu ấy bị siết cổ chết! Em thực sự sợ quá, bởi vì cậu ấy đã nói em là người kế tiếp, mà lúc nào em cũng có cảm giác như có ai đó luôn theo sát mình. Nó ở kia kìa…”

Cô gái run run chỉ tay ra ngoài cửa sổ, chúng tôi nghiêng đầu nhìn sang, chỉ kịp thoáng thấy một cái bóng mày đỏ nhẹ nhàng lướt qua. Tôi nuốt nuốt nước miếng, cả người tự nhiên cảm thấy lạnh toát, sau đó chột dạ quay lại hỏi: “Sao bạn biết chắc là mình cũng sẽ chết như cậu bạn kia?”

Cô gái kéo tay áo của mình lên, chúng tôi lập tức nhìn thấy trên tay cô ngang dọc toàn những vết siết màu đỏ máu. Cô gái run run nói: “Những vết đỏ này càng lúc càng nhiều lên… Cuối cùng em cũng sẽ chết thảm như anh ấy thôi!” Nói xong lại ôm mặt khóc nức lên.

Bạch Dực nhíu mày, nhìn tôi hỏi: “Nên làm sao bây giờ?”

Tôi thầm nghĩ, cái này sao lại hỏi tôi, tôi cũng đâu có biết phải làm thế nào! Vì vậy tức giận trừng mắt nhìn lại: “Làm sao tôi biết được!”

Bạch Dực lắc đầu nhu nhu huyệt Thái Dương, sau đó thở dài: “Việc này quá mức phiền phức, bạn Triệu, bạn tạm về trước đi, mấy ngày nữa chắc chưa tới nỗi nguy hiểm đâu. Mấy ngày nay nếu được thì đừng tắm, cố gắng giữ cho cơ thể thật khô ráo. Còn nữa, hạn chế đến nhà người khác, cứ bình tĩnh đợi trong nhà mình, bọn tôi sẽ nghĩ biện pháp.” Sau đó anh ta kéo ngăn tủ bàn lấy ra một vòng hương trầm, giao cho Triệu Vân Vân nói: “Hương này khi nào buổi tối ngủ thì đốt lên để bên cạnh người. Tuy không thể trị tận gốc nhưng có thể hóa giải phần nào nỗi khổ hiện nay của bạn.”

Cô gái lập tức ôm lấy vòng hương như đang ôm lấy cứu tinh, kích động cảm ơn Bạch Dực liên tục, sau đó ra về, ra đến cửa còn quay lại cúi chào chúng tôi rất sâu, xin chúng tôi nhất định phải cứu mình, tôi cảm giác được sự sợ hãi kinh khủng của cô.

Chờ cô gái ra khỏi cửa xong, đóng cửa lại rồi, không để tôi kịp lên tiếng thì Bạch Dực đã gắt lên: “Sau này đừng có chưa hỏi han rõ ràng đã nhận lời người ta ngay như vậy! Cậu làm gì có bản lĩnh giúp cô ta chứ hả?!”

Tôi nghĩ, một cô gái nhỏ khóc sướt mướt tới tìm mình xin được giúp đỡ, có thể nào lại từ chối cô ấy hay sao? Nhưng cũng biết lần này mình quả thực quá bộp chộp nên đành ấm ức hừ một tiếng rồi thôi.

Bạch Dực nhìn lại tôi, sau đó thở dài: “Cậu có biết cô bé chọc tới cái gì hay không? Nói thật nhé, tôi cũng không biết mình có giúp được cô ta hay không nữa kìa, có khi số cô ta là phải chết cũng nên.”

Tôi cảm thấy lạnh cả sống lưng, ngay cả Bạch Dực mà cũng phải nói là không chắc, lẽ nào chuyện này nguy hiểm tới mức đó sao?

Nghĩ tới đây giọng tôi cũng như vỡ ra: “Lão…lão Bạch, lẽ nào nguy hiểm tới vậy sao? Không phải anh rất giỏi mấy thứ này sao?”

Anh ta lườm tôi một cái: “Thứ cô ta gặp phải là Song Hỉ Quỷ, nếu thực sự là nó thì 90% là phải chết vào tay nó rồi.”

Vừa nghe thấy thế, tôi lập tức nhảy dựng lên, vội vàng hỏi: “Thực sự không cứu được sao? Phải nhìn cô ấy chết như thế sao?!”

Bạch Dực đứng lên phủi phủi quần áo đáp: “Nếu đã nhận lời thì đành giúp hết sức thôi. Nếu không cô ta mà chết rồi, kế tiếp coi chừng là chúng ta đấy. Loại quỷ này thực ra là một loại Sát[2], nó chết vào đúng ngày kết hôn của mình, vì oán khí quá nặng đến mức không sao tiêu tan nổi, nên biến thành lệ quỷ. Kỳ thực rất khó gặp phải chúng nó, chỉ có vào ngày đại hỉ hay đại bi mới gặp được thôi. Tất cả những người đã nhìn thấy nó sẽ phải chết. Cho nên… chúng ta cũng cần một phương pháp đặc biệt…”

02.08.2014 by Pu.Babee <3 2 phản hồi

Chương 14: Song hỉ quỷ sát (Hạ)

Từ xưa đến nay, yêu ma quỷ quái đại thể đều có cách khắc chết. Vạn vật không thể vượt qua ngũ hành, thoát khỏi lục đạo[3]. Cho nên phương châm của Bạch Dực là chỉ cần ngươi tìm cách hại người, ta tất có cách thu phục ngươi! Nhưng Song Hỉ Quỷ thì khác, nó thực ra là một khối oán khí, một cỗ oán niệm sinh ra khi giây phút hạnh phúc nhất biến thành giây phút đau khổ nhất. Cho nên bọn chúng mới thường quanh quẩn ở hai nơi là lễ cưới và lễ tang, không ngừng lập lại cảm giác hạnh phúc nhất đồng thời cũng bi thương nhất của mình.

Vì oán khí của chúng quá mức kinh khủng, nên những người nào đã lỡ nhìn thấy loại quỷ này thường không thể thoát khỏi oán khí của nó, có thể gọi là loại Sát Quỷ đáng sợ nhất trong các loại Sát Quỷ. Nói một cách đơn giản, chúng giống như những tên sát nhân hàng loạt, gặp người nào giết người đó.

Tôi bắt đầu cảm thấy lo lắng cho Triệu Vân Vân, số mạng của cô gái đúng là số khổ, bạn trai suốt ba năm nay đột ngột qua đời còn chưa tính, lại còn gặp phải thứ sát thần kinh khủng kia đúng ngay trong đám tang người yêu mình, hiện nay chỉ biết suốt ngày ru rú giam mình trong nhà, cảm thấy cái chết mỗi ngày mỗi gần hơn… Bạch Dực cũng rất phiền não, anh ta nói loại quỷ này rất ít khi xuất hiện, nên hiểu biết và ghi chép về nó còn để lại rất ít, anh ta cũng không hiểu nhiều về nó lắm.

Nhưng nói là nói vậy, Bạch Dực vẫn chăm chỉ tra cứu tư liệu hàng ngày. Gian phòng vốn sạch sẽ ngăn nắp nay lại bị một đống tài liệu và bản đồ kỳ quặc nhấn chìm. Đi lại trong nhà mình còn phải rón rén từng bước một, chỉ sợ lỡ chân một bước thì mớ tài liệu còn mỏng hơn xác ve của anh ta sẽ bị bung chỉ hay bục gáy mất. Tôi không hiểu biết gì nhiều, không giúp đỡ được gì, nên đành ngồi một bên lật lật vài cuốn sách giải khuây. Trong đám sách chợt rút ra được một quyển sách rất thú vị, tên là “Hoàng lương quỷ sự tập” chuyên ghi lại những chuyện tà ma quỷ quái thời Minh Thanh. Cuốn sách được viết theo kiểu tiểu thuyết, nên tôi cũng coi nó như một phương tiện đọc giải trí, tuy cuốn sách được viết từ mấy trăm năm trước, nhưng lời lẽ cũng khá dễ hiểu, thoáng cái mà tôi đã đọc được tới nửa cuốn.

Đột nhiên đang đọc thì tôi phát hiện ra một câu chuyện trong đó rất thú vị. Nó kể về một tú tài nửa đêm lên kinh thành đi thi, vì nghèo không có tiền trả tiền đi đường lớn, nên chỉ có thể đi ở trên những con đường nhỏ hoang vắng[4]. Đến một chỗ nọ, hắn gặp một gia đình giàu có, nhà bọn họ hôm đó gả con gái, nên mời hắn vào cùng dự tiệc, uống chén rượu mừng. Vị tú tài đã đói lả nên vui vẻ vào dự tiệc. Nhưng khi nhập tọa, hắn rất ngạc nhiên vì phong tục cưới xin kỳ lạ ở đây, đó là không mời khách, chỉ có tân lang và tân nương ngồi trên ghế cao, tân lang cũng không phải người thật mà chỉ là một bó rơm bó thành hình người, tân nương không hề đội khăn đỏ, để lộ nguyên mặt mà nghiêm nghị nhìn thẳng về phía trước, nhìn bình thản tới mức không giống như đang kết hôn. Tú tài cảm thấy rất kỳ quặc, nhưng nhìn thấy một bàn tiệc đầy rượu và thức ăn ngon trước mặt thì quên hết mà chăm chú cúi đầu ăn. Chợt hắn nhìn thấy trong góc phòng một mỹ nhân mảnh khảnh mà xinh đẹp cực kỳ mặc bạch y. Tú tài đem lòng ái mộ nàng, muốn đến chào ra mắt nên vội vàng tiến tới cung tay cúi đầu chào.

Nhưng khi hắn vừa ngẩng lên thì vị mỹ nhân thanh tú kia đã biến mất tự lúc nào. Sau khi tiệc cưới kết thúc, tú tài hỏi thăm người nhà nọ xem họ có biết vị cô nương mặc bạch y ấy là ai không, nhưng không có ai biết cả. Tú tài trong lòng ôm mối tương tư, không lâu sau nhuốm bệnh qua đời.

Đọc đến đây tôi cảm thấy có hơi buồn cười, đường đường một đấng nam nhi lại vì một cô gái vừa gặp có một lần mà lăn ra chết. Nhưng nhoáng một cái có cái gì vừa lóe lên trong óc tôi, hôn lễ, cô gái mặc bạch y, cuối cùng tú tài chết…?! Tôi lập tức gọi Bạch Dực chỉ cho anh ta câu chuyện trên, anh ta xem qua một chút, càng xem ánh mắt càng sáng rực lên. Tôi chỉ có “cảm giác” là nó có rất nhiều điểm tương tự với chuyện của Triệu Vân Vân, nhưng trong truyện lại không có cách giải trừ.

Nhưng Bạch Dực hăng hái vỗ vỗ vai tôi, vui vẻ nói: “Giỏi lắm, không ngờ cậu lại tìm ra cách. Chuyện này đáng giá đây, có vài chi tiết có thể thử được, chờ tôi tra cứu kỹ rồi chúng ta đi tìm Triệu Vân Vân!”

Tôi nghe thế càng thêm háo hức muốn biết, liền kéo tay anh ta lại hỏi: “Chờ chút chờ chút, lão Bạch anh nói đi, trong câu chuyện cổ này có phương pháp gì sao? Tôi chỉ nghĩ tú tài trong này gặp chuyện rất giống với Triệu Vân Vân mà thôi!”

Bạch Dực nhanh chóng rút ra vài quyển sách trong đống hỗn độn trên sàn nhà, sau đó lật sách nhanh như máy, không thèm ngẩng đầu lên mà đáp nhanh: “Không sai, thứ mà tên tú tài xui xẻo kia đụng nhằm phải là Tang Quỷ trong bộ đôi Hồng Bạch Song Sát. Mỹ nữ mà hắn nhìn thấy trong truyện chính là nữ quỷ, cuối cùng cô ta lấy mạng hắn. Hơn nữa, trong này đã ngầm chỉ cho chúng ta cách trừ Quỷ Sát rồi đấy.”

Nói xong anh ta dùng ngón tay gõ gõ lên mặt bàn, sau đó chợt ngẩng đầu nhìn tôi cười rất… thân thiện: “Có biện pháp rồi, nhưng An tiểu ca, lần này cần cậu giúp một tay đấy.”

Tôi vừa nhìn thấy nụ cười của anh ta thì lông tơ trên người đã dựng đứng hết cả lên, thầm nghĩ thôi tiêu rồi, nhưng vẫn kiên trì hỏi một câu: “Việc này mà cần đến tôi sao?”

Bạch Dực bình tĩnh cười tươi: “Yên tâm, cơ bản là không có gì nguy hiểm cả. Chẳng phải cậu là người đồng ý giúp người ta sao? Vì sao bây giờ cần cậu thì cậu lại đánh bài chuồn thế?”

Tôi vừa nghe thế lập tức nổi giận lườm anh ta một cái, cao giọng nói: “Tôi mà sợ cái gì! Muốn giúp gì thì nói đi, tôi đã nhận lời thì nhất định làm được! Bằng không tên tôi cứ việc đảo ngược lại!”

Bạch Dực lắc đầu cười: “Đây là cậu nói đó nha, đến lúc đó đừng nghĩ tới chuyện đổi ý. Bằng không sau này muốn viết tên cậu sẽ phức tạp lắm!”

Tôi không thèm nhìn bộ dạng đắc ý ngầm của anh ta nữa, trước mặt người ta thì làm bộ như nghiêm túc ít nói, còn trước mặt tôi, thật không khác nào một con khướu, chỉ giỏi leo lẻo suốt ngày! Tôi tức giận nạt anh ta: “Nói, lần này là muốn tôi làm gì? Đi lấy cái gì? Đi gặp ai? An Tung tôi mà từ chối thì không phải đàn ông!”

Bạch Dực cười vỗ vai tôi, gật đầu nói: “Khá lắm, nhờ cậu cả đấy. Tôi đi gọi điện thoại cho Triệu Vân Vân đây, hai ngày nữa là ngày trăng hạ huyền, lúc đó chúng ta có thể giải quyết chuyện này được rồi.”

Khi lần thứ hai gặp lại Triệu Vân Vân, tôi cảm nhận rõ cô gái gầy hơn trước rất nhiều, giống như một nạn nhân bệnh nan y sắp chết, nhưng trong mắt vẫn sáng lên hi vọng sinh tồn. Đa phần con người đều là như vậy, khát vọng sống sót chưa bao giờ tan biến trong tâm hồn bọn họ, cho dù là một khắc trước ngưỡng cửa cái chết, có rất nhiều người vẫn còn rất khao khát muốn sống.

Triệu Vân Vân vừa nhìn thấy chúng tôi đã lập tức tiến tới, sau đó kích động nói: “Thật tốt quá, các anh cuối cùng cũng tới, các anh thực sự có cách cứu em sao? Mấy hôm nay nếu không có trầm hương của Bạch tiên sinh thì chắc em đã chết rồi!”

Có thể thấy rõ trên mu bàn tay, trong lòng tay, trên cánh tay của cô gái toàn là những đường ngang dọc đỏ tươi, cho dù có đốt hương vẫn không sao khống chế được sự khuếch tán của oán khí.

Bạch Dực gật đầu: “Đúng là đã có cách, tuy không phải là đảm bảo 100% nhưng có lẽ đây là cách duy nhất trên đời này có khả năng giúp bạn thoát chết. Chúng ta cũng chỉ còn cách đánh cược với số mệnh mà thôi!”

“Em tình nguyện đánh cược, dù sao thì cũng là chết, em tình nguyện thử mọi cách có thể!” Triệu Vân Vân trong mắt tràn đầy hi vọng nhìn chúng tôi, dường như có hơi kích động.

Tôi cũng bị thái độ của cô làm cho hăng hái, liền vui vẻ nói: “Đúng, cho dù Hồng Bạch Song Sát này có nguy hiểm tới đâu đi nữa thì chúng ta cũng phải thử tìm đường sống giữa cái chết xem sao!”

Bạch Dực có lẽ rất thích dội nước lạnh lên tinh thần của tôi, vì thế tôi vừa mở miệng thì anh ta đã đẩy đẩy kính mắt, lạnh lùng nói: “Đừng nói chắc như vậy, biện pháp này của tôi cũng là lấy từ câu chuyện cổ mà cậu tìm ra, chính xác hay không tôi không biết đâu đấy, nếu thất bại thì mạng của cả ba chúng ta coi như dâng hết vào miệng Tang Quỷ, biết không?”

Triệu Vân Vân vẫn gật đầu, tôi cũng im lặng chờ đợi Bạch Dực cho chúng tôi biết phải làm gì.

Không ngờ Bạch Dực lại mang chúng tôi tới một căn nhà kiểu cổ, lúc tới nơi trời đã sụp tối, nhiệt độ xuống thấp hơn ban ngày nhiều, từng đợt gió lạnh lùa qua cánh cửa gỗ mỏng manh khiến tôi lạnh tới mức run run người. Ở đây xem ra đã nhiều năm không có ai ở, mạng nhện giăng khắp nơi, còn có một vài món đồ dùng xưa, nhưng đều đã cũ tới mức ngay cả bà nội tôi cũng chưa chắc biết cách sử dụng. Bạch Dực ôm theo một bọc to, nói với chúng tôi: “Giúp tôi chuẩn bị với, nhớ đừng to tiếng, bị người ta phát hiện sẽ bị đuổi đấy!”

Tôi cầm lấy cái bao, buồn bực hỏi lại: “Đây là đâu vậy, sao anh tìm ra chỗ này?”

Bạch Dực cười xấu hổ: “Đây là một căn nhà sắp bị dỡ bỏ, trước đây tôi có đến đây, thấy cửa không khóa. Cho nên hôm nay mượn dùng một chút. Cho nên nhỏ nhỏ tiếng thôi, đừng dẫn công nhân phá dỡ nhà tới.”

Tôi tự nhiên cảm thấy khinh bỉ anh ta, nhưng nghe thế cũng hạ thấp giọng: “Vậy anh cần gì phải mang tụi này tới đây?”

Anh ta mang theo một đống đồ đạc, cẩn thận quan sát bên ngoài rồi mới trả lời: “Chúng ta cần một nơi để tổ chức nghi thức, hơn nữa không được là phòng mới mà phải là phòng kiểu xưa cơ, không khí ở đây rất phù hợp.”

Anh ta mang theo rất nhiều vải đỏ, còn có một bao đậu phộng, một bao long nhãn[5], tôi phát hiện mấy thứ này là thứ anh ta mua cách đây vài ngày… Tôi và Triệu Vân Vân càng nhìn càng ngơ ngác, nhưng vẫn làm theo lời Bạch Dực nhanh nhẹn thu dọn bày biện. Cuối cùng cũng thành công biến căn phòng cũ xì này thành một sảnh kết hôn, vải đỏ treo kín cửa sổ, vừa để trang trí vừa để ngăn chặn ánh mắt người đi đường. Bạch Dực bày đậu phộng và long nhãn ra bàn, rót rượu từ trong bầu vào cái chén nhỏ mới mua.

Sau đó anh ta quay lại nhìn tôi cười cười, lấy trong bao ra một bộ trang phục đỏ chói đưa cho tôi và nói: “Vào thay đi rồi ra đây.” Tôi nhìn qua nhìn lại, nhìn thế nào vẫn thấy nó giống hỉ phục của tân nương, liền ném nó lại cho anh ta: “Làm cái gì vậy, đây là y phục của nữ mà, đưa cho tôi làm chi, muốn mặc cũng phải là Triệu Vân Vân mặc chứ!”

Giọng nói của tôi hơi cao lên, nên Triệu Vân Vân vội vàng sợ hãi quay lại trách: “Anh làm gì vậy, đừng làm ồn chứ! Lỡ như bị phát hiện thì kế hoạch của chúng ta hỏng mất!”

Tôi xụ mặt nhìn cô, chỉ chỉ vào bộ trang phục trên tay: “Anh ta muốn tôi mặc y phục kết hôn của nữ, chúng ta có một cô gái ở đây mà, sao lại bắt tôi mặc?!”

Bạch Dực nhún vai nhìn có vẻ rất bất đắc dĩ: “Không còn cách nào khác, cô ấy có việc khác phải làm, mà tôi phải điều khiển nghi thức này, cho nên có thể đóng vai tân nương chỉ còn có mình cậu thôi à, mà đừng có làm rách bộ y phục này nhé, đây là bộ trang phục đóng hí kịch tôi mượn của cô tôi đấy, làm rách là cậu tự đền!”

Buồn cười, tôi đường đường là nam nhi chi chí, không thể nào mặc thứ này được, nếu không thì mặt mũi còn để ở đâu?! Vì thế kiên quyết lắc đầu: “Không được, nếu không anh chỉ cho tôi cách điều khiển nghi thức đi, tôi đi làm thay anh, bộ y phục này anh tự đi mà mặc lấy. Tôi tuyệt đối không mặc quần áo phụ nữ đâu!”

“Bạn An Tung thân mến, nếu bây giờ cậu không thích giúp bọn tôi nữa thì đi về đi! Bất quá, nếu Triệu Vân Vân xảy ra chuyện gì không lành thì chính là tại cậu vì chút sĩ diện con con mà làm hại, trước đây vỗ ngực bảo nhất định sẽ giúp người ta là ai? Là ai? Bây giờ bất quá chỉ yêu cầu cậu mặc hỉ phục có một lần mà cậu đã giãy đành đạch lên!” Bạch Dực nghiêm mặt lại, cố tỏ vẻ nghiêm trang, nhưng không thể giấu nổi vẻ mặt đang cố nhịn cười.

Nhưng quả thực anh ta đã nói tới mức này rồi thì tôi cũng không còn cách nào từ chối nữa, nhìn lại vẻ mặt đau khổ cầu xin của Triệu Vân Vân, thoáng cái tôi đã hiểu thế nào gọi là “tiến thoái lưỡng nan”. Bậm môi nhìn lại bộ hỉ phục đỏ chót lần nữa, vẫn không sao thốt ra một câu đồng ý được.

Bạch Dực và Triệu Vân Vân  nhìn nhau, sau đó anh ta lên tiếng: “Bộ y phục này thực ra là trang phục đóng kịch, không phân nam nữ, trong Kinh kịch có rất nhiều nam đóng vai nữ và ngược lại, chẳng lẽ Mai Lan Phương chưa bao giờ đóng vai nam sao?”

“Đúng thế đúng thế, kỳ thực cũng không có gì đặc biệt, trường bọn em cũng có nhiều nam sinh thường xuyên đóng vai hoa đán đó thôi, có sao đâu, nhìn mãi thành quen rồi.” Triệu Vân Vân thừa cơ thêm vào.

Tôi nhìn vẻ mặt của cô gái vừa ủy khuất vừa cầu xin, cuối cùng đành phải cắn chặt răng hi sinh mà gật đầu: “Được, coi như hôm nay tôi nhượng bộ các người, nhưng nếu các người sau này mà dám đem chuyện này truyền ra ngoài thì đừng trách An Tung này!” Nửa câu sau thực ra là dành cho Bạch Dực, anh ta lúc này vẫn giữ vẻ mặt nghiêm túc, nhưng ánh mắt gian tà như vừa thực hiện được mưu ma chước quỷ gì đó lại cực kỳ rõ ràng.

Bạch Dực nhanh chóng chỉ ra phía sau: “Được, vào đó thay lẹ lên, thay xong đi ra đây tôi sẽ dạy cho phải làm gì.”

Vốn định đốp lại anh ta vài câu, nhưng nhìn bộ dạng này của anh ta rồi thì tôi đành nghẹn lại, chỉ còn biết lắc lắc đầu cầm bộ y phục vào phòng trong.

Nói thật, tôi tuy không cao lớn gì nhưng chí ít vẫn là vóc người tiêu chuẩn của một gã con trai, bộ quần áo này vận vào người tôi có hơi vất vả. Hơn nữa nhìn nó có vẻ mong manh thế nào ấy, tôi sợ nó rách nên càng phải gượng nhẹ hơn. Giữa thời tiết lạnh như vậy mà tôi phải vật lộn với bộ y phục tới mức mồ hôi đầm đìa, lúc này mới biết Trư Bát Giới mặc bộ quần áo trân châu là vất vả tới mức nào.

Lăn qua lăn lại một lúc lâu, cuối cùng tôi cũng mặc được bộ quần áo vào người. Lúc này mới thấy rõ nó quả thực là trang phục diễn kịch, nhưng màu đỏ tươi của nó lại quá sức rực rỡ, cảm giác như được nhuộm bằng máu vậy. Một trận gió lạnh thốc tới, tà áo đỏ tươi bay tung lên, tựa như một mạt màu đỏ quỷ dị thổi qua trước mắt tôi. Tôi cả kinh, vội vàng đỡ vạt váy chạy như bay ra ngoài gặp hai người còn lại.

Bọn họ thấy tôi đều sững người ra một phút, sau đó gương mặt lạnh như băng của Bạch Dực chợt phá lên cười ha ha, cười đến chảy cả nước mắt nước mũi. Triệu Vân Vân che miệng run run người, rõ ràng là đang cười mà không dám to tiếng.

Bạch Dực đi tới vỗ vỗ vai tôi: “Tiểu An à! Cậu là cô dâu buồn cười nhất mà tôi từng thấy đấy, ai đời mặc áo tân nương mà cứ như khúc xúc xích nhảy tưng tưng vậy! Quả nhiên cậu không phải người tầm thường mà!”

Tôi gạt tay anh ta ra, đỏ mặt tía tai quát: “Đừng có mà mỉa mai tôi! Tôi chỉ có thế thôi đấy, làm gì được tôi nào?!”

Triệu Vân Vân vừa cười vừa khuyên giải: “Đâu có sao đâu, anh An Tung… hì hì… cũng rất dễ thương mà, thực ra anh hoàn toàn có đủ điều kiện đi học Hí kịch đấy. Tại dạo này các bạn nam đán[6] càng ngày càng ít…”

Tôi trừng mắt với bọn họ, sau đó nhìn xung quanh một lần, cả gian phòng đều được trang trí một màu đỏ tươi, nhưng không hiểu sao vẫn cứ có cảm giác quỷ quái thế nào ấy. Bạch Dực sắp hai cái ghế ở giữa phòng, trên ghế trùm vải đỏ, nhưng cả hai đều xoay mặt vào trong tường, trước hai cái ghế treo một tấm gương. Sau lưng ghế bày một cái bàn chữ nhật, trên bàn bày nến đỏ, dưa, trái cây, trên khăn trải bàn dán một chữ “song hỉ” màu đỏ rực. Bốn góc phòng đặt bốn thẻ hương, chính là loại hương trầm mà Bạch Dực đã cho Triệu Vân Vân lần trước, bầu không khí nhuốm một mùi thơm trong trẻo nhưng lạnh lùng, bảng lảng khói xám. Làm tôi bất ngờ hơn nữa là lần này Bạch Dực mang theo cả cái chén của Tá Thọ bà, thấy anh ta mang cả bảo bối yêu quý tới, tôi cũng bắt đầu trở nên tò mò, thứ này có tác dụng gì với chúng tôi nhỉ?

Bạch Dực đưa cái chén cho tôi, sau đó chỉ vào một trong hai cái ghế: “Sang đó ngồi xuống, nhớ cho kỹ, trước khi tôi bảo mọi chuyện đã kết thúc, thì tuyệt đối, tuyệt đối không được quay đầu nhìn lại, biết chưa?”

Tôi gật đầu lia lịa kéo tà váy ngồi xuống ghế, cái ghế đã quá cũ, vừa đặt người lên thì đã nghe tiếng nó kẽo kẹt.

Bạch Dực và Triệu Vân Vân đứng sau lưng ghế, tôi nhìn qua tấm gương trước mặt có thể thấy mọi cử động của họ. Bạch Dực đang quay sang nói với Triệu Vân Vân: “Lúc nãy tôi đã nói sơ với bạn rồi đấy, lần này chúng ta sẽ lấy Sát khắc Sát. Tức là chúng ta cần mượn sát khí của Tang Quỷ để trung hòa oán khí trên người bạn.” Bạch Dực nhìn sang tôi một chút, sau đó nói tiếp: “Nhưng nếu chỉ là những hôn lễ bình thường thì nó sẽ không xuất hiện đâu, cho nên đã như vậy thì chúng ta phải chủ động gọi nó tới!”

Lòng tôi hơi run lên, lại còn chiêu hồn nữa chứ, cầu xin lần này đừng nguy hiểm như những lần trước… Bạch Dực đẩy gọng kính nói tiếp: “Thực ra cả tôi lẫn An Tung đều chưa từng gặp Hỉ Quỷ, chỉ có bạn mới thấy nó thôi. Cho nên lần này cũng chỉ có một mình bạn là có thể nhìn tận mặt Tang Quỷ.”

Sắc mặt Triệu Vân Vân tái nhợt đi như người chết, trên gương mặt của cô gái đã mơ hồ hiện lên dấu vết của những vết siết màu đỏ, cô khẽ gật đầu, sau đó kiên định hỏi: “Em sẽ phải làm gì?”

Trong lòng tôi thầm cảm thán, cô gái này thực sự rất kiên cường, gặp phải chuyện thế này mà vẫn có thể bình tĩnh như vậy được. Bạch Dực cũng gật đầu, trên mặt thoáng vẻ khen ngợi: “Thực ra bạn mới là người chiêu quỷ thực sự, bạn chỉ cần đứng ở góc phòng phía đông bắc, chờ đến khi con quỷ vừa xuất hiện ở cửa là bạn phải lập tức tới chỗ nó ngay. Nhớ kỹ nhất định phải nhìn thẳng vào mắt nó, đừng có tránh né. Sau đó bạn phải tự mình mời nó quay về địa phủ, đừng dây dưa trên nhân gian nữa.”

Cả người Triệu Vân Vân run lên, nhưng vẫn gật đầu, chậm rãi tiến về phía đông bắc của gian phòng, sau đó, quay lại nhìn Bạch Dực hỏi: “Nếu làm vậy em có thể sống sót không?”

Bạch Dực mỉm cười trấn an: “Có thể hay không còn phải xem số trời, nhưng tôi sẽ cố gắng bảo vệ bạn được bình an. Nếu thực sự không thể xoay chuyển nổi cục diện, tôi vẫn sẽ đảm bảo để bạn không bị biến thành Sát Quỷ, trở thành cô hồn chết oan lang thang trên dương thế.”

Triệu Vân Vân mỉm cười, khóe mắt ậng nước: “Anh cứ yên tâm, em có chết cũng sẽ không oán không hận gì cả đâu. Tuyệt đối sẽ không làm hại người khác.”

Tôi không thể nói chen vào, chỉ biết ra sức hít thở đều, không khí lạnh buốt khiến tay tôi đông cứng lại đỏ bừng. Để có thể mặc bộ y phục này tôi đã phải cởi hết áo lạnh, nên bây giờ thực sự lạnh tới mức run lẩy bẩy.

Bạch Dực tiến đến ngồi xuống cạnh tôi, sau đó đột nhiên quay sang tôi cười cười: “Nếu sợ quá thì cứ nắm tay tôi này, tôi không cười cậu đâu.”

Tôi không đáp lại, chỉ nhìn thẳng vào cái gương trước mặt, trong gương phản chiếu hình ảnh của tôi và Bạch Dực ngồi cạnh nhau, cảm giác thực sự rất quái dị… Tôi mặc hỉ phục đỏ thẫm, anh ta chỉ mặc quần áo bình thường, nhưng ngồi bên cạnh nhau khiến tôi tự nhiên có cảm giác như một…lễ cưới?! Vừa ý thức được điều này, tôi lập tức sầm mặt xuống, trong lòng tự an ủi mình rằng đây là một nghi thức đặc biệt nên cần phải ăn mặc thế này. Vả lại nếu đã nhận lời giúp người ta thì phải kiên trì cho tới phút chót.

Nhưng nghĩ sao vẫn cảm thấy có chút khó chịu, tên khốn này rõ ràng chỉ vì không muốn làm tân nương nên mới đẩy bộ quần áo này cho tôi đây mà. Tôi trừng mắt với Bạch Dực trong gương, nhưng bàn tay đang cầm cái chén của Tá Thọ bà lại vô thức siết chặt thêm một chút. Thực ra lúc này tôi rất sợ, qua tấm gương tôi có thể nhìn thấy rõ bên ngoài, lúc này trời đã tối mịt, gió lạnh không ngừng gào thét, thổi thốc vào trong. Trong phòng chỉ có vài ánh nến leo lét soi rọi một khoảng không gian chật hẹp, còn lại là một mảnh tối đen như mực.

Tôi bắt đầu nôn nóng, run rẩy hỏi: “Lúc nào… mới kết thúc vậy… tôi… tôi lạnh quá sắp chịu hết nổi rồi…”

“Chờ chút nữa, loại quỷ này nhất định sẽ không bỏ qua một nghi thức thế này đâu.” Bạch Dực liếc nhìn tôi, sau đó vươn tay sang cầm lấy tay tôi, tay anh ta rất ấm, tôi nhất thời có cảm giác ấm áp hơn một chút.

Tôi gật đầu, nhìn vào gương, hình ảnh gian phòng phản chiếu trong gương còn ghê rợn hơn cả thực tế, gương mặt của tôi và Bạch Dực đều trắng bệch ra như sáp, làn khói nhẹ tỏa ra từ mấy thẻ hương vấn vít phía sau khiến bầu không khí càng thêm quỷ dị mà huyền hoặc. Trong góc phòng phía đông bắc, Triệu Vân Vân co rúm người lại chờ đợi, xem ra cô cũng rất lạnh, cả người đang không ngừng run rẩy. Hai ngọn nến đỏ vì bị gió táp liên tục nên cũng chập chờn leo lét, những giọt sáp màu đỏ hồng rơi trên đĩa đậu phộng và long nhãn khiến mọi thứ giống hệt như đồ cúng.

Tôi nuốt nước miếng, đột nhiên cảm thấy bàn tay Bạch Dực nắm tay tôi khẽ siết chặt. Tôi nhìn lại trong gương thì bất thình lình phát hiện một cái bóng trắng chập chờn giữa bóng tối ngoài cửa. Lòng tôi bắt đầu lạnh toát, biết Quỷ Sát đã tới. Cái bóng trắng dần dần đông lại thành một bóng người mặc áo trắng. Khi cái bóng bay vào tới cửa tôi mới nhìn rõ, nó mặc một bộ y phục dài màu trắng, mái tóc dài che khuất gương mặt, đầu cúi xuống, hai tay buông xuôi hai bên người, từng bước từng bước tiến vào phòng.

Mẹ nó ơi, tôi thề là sau này tôi sẽ không bao giờ dám nhìn những người đẹp tóc dài nữa, thật kinh khủng quá đi mất! Tôi nghĩ thầm, lúc này Triệu Vân Vân nên chạy tới đi chứ! Nhưng rõ ràng là cô gái đã sợ tới mức chết trân ở góc phòng rồi, động cũng không dám động, chỉ run bắn lên co người lại trong góc.

Nữ quỷ phát ra âm thanh lục cục trong cổ họng, chậm rãi tiến tới phía sau tôi và Bạch Dực. Bạch Dực nắm tay tôi, lắc đầu với tôi trong gương, ý nói tuyệt đối không được nhúc nhích. Nữ quỷ đã tiến sát tới phía sau chúng tôi, tôi rốt cuộc nhìn rõ gương mặt của nó, đó là một gương mặt trắng bệch như thạch cao, hai bên má là hai dấu tròn đỏ thẫm, trên môi cũng tô một màu đỏ ghê người. Xung quanh mắt nó là một vòng phấn màu đen thẫm, nó không có tròng trắng mắt, chỉ có một đôi đồng tử đen thẫm to đến kỳ quái, xung quanh đầy tơ máu.

Nữ quỷ vươn bàn tay khô vàng sẽ chạm vào bộ y phục đỏ trên người tôi, vẻ mặt tràn đầy ước ao, tôi cứng người lại, máu trong người trong nháy mắt như muốn đông thành đá, trong lòng thầm mắng: “Chết tiệt, nếu ngươi thích ta có thể tặng nó luôn cho ngươi, nhưng đừng có chạm vào taaaaa!!!!”

Tôi lại nhìn về phía góc phòng, Triệu Vân Vân vẫn đang do dự không dám tiến tới. Nữ quỷ sờ áo của tôi xong, liền quay sang chuẩn bị rờ vào người Bạch Dực, ánh mắt càng say mê hơn. Tôi thoáng thấy sắc mặt Bạch Dực tái nhợt đi, tự nhiên lại muốn phá lên cười, nghĩ thầm, lão Bạch, bình thường anh vẫn tự hào mình anh tuấn phong độ lắm mà! Nhìn xem, ngay cả nữ quỷ cũng phải mê anh đó, ha ha.

Bạch Dực siết chặt tay tôi hơn, tôi đau quá, cả người bỗng chốc run lên, nữ quỷ lập tức chú ý tới động tác của tôi, hai tay của nó nhanh như chớp… khoát lên vai tôi. Tôi sợ tới mức hồn sắp bay ra khỏi miệng, cả người run lên không kiềm chế nổi. Nữ quỷ sờ sờ y phục của tôi, kéo kéo tóc tôi, tay nó như hai cành cây khô, cứng ngắc mà khô đét. Sau đó vẻ mặt của nó chợt tràn ngập bi thương lẫn ước ao, giống như đang muốn nói: “Tại sao ngồi bên cạnh anh đẹp trai này lại không phải là ta, tại sao được mặc áo tân nương lại không phải là ta…?”

Tôi sợ tới mức đổ mồ hôi lạnh, cảm nhẫn rõ rệt là nữ quỷ này đang nhìn mình một cách oán hận lẫn đố kị nặng nề, tay nó đã vươn ra chuẩn bị bóp cổ tôi rồi! Hai bàn tay lạnh như hai cục băng kháp lại trên cổ tôi, tôi liền rùng mình một cái, cảm thấy nó đột nhiên dùng sức bóp mạnh! Tôi bắt đầu kinh hoàng, chẳng lẽ nữ quỷ định bóp cổ tôi chết thật sao?

Bạch Dực kéo kéo tay tôi, chỉ chỉ vào cái chén, tôi lập tức cầm chén nâng lên ngang mặt. Nữ quỷ vừa nhìn thấy cái chén, vội vàng buông tôi ra, trong mắt tràn ngập sợ hãi. Nó nhìn tôi một chút, lại nhìn sang Bạch Dực một chút, sau đó từ từ lùi lại định bỏ đi. Tôi và Bạch Dực đều run lên! Nếu nó bỏ đi lúc này, vậy Triệu Vân Vân chỉ có nước mất mạng! Nhưng chúng tôi không thể quay lại, cũng không thể lên tiếng, chỉ biết giương mắt nhìn. Lúc này Triệu Vân Vân cũng cảm thấy con quỷ muốn bỏ chạy, vì thế cô hét lên một tiếng tuyệt vọng rồi nhảy bổ ra, thoáng cái ôm chặt lấy nữ quỷ, cô gái nhìn thẳng vào mắt con quỷ, mà con quỷ cũng nhìn thẳng vào cô. Cả người cô gái run lên, sau đó bắt đầu lẩm nhẩm bằng một giọng run run như muốn vỡ: “Cầu xin ngươi, cầu xin ngươi cứu ta… đừng nên hại người nữa, trở về nơi ngươi phải về đi, cát bụi hãy quay về với cát bụi…”

Nữ quỷ nhìn Triệu Vân Vân chằm chằm, cô gái nắm lấy y phục của nó, cơ thể từ từ trượt xuống sàn, nhưng miệng vẫn lẩm bẩm không ngừng: “Cát bụi trở về với cát bụi, cát bụi trở về với cát bụi… Về đi thôi, đừng du lãng nữa, đừng du lãng nữa…”

Nữ quỷ chậm rãi rời khỏi Triệu Vân Vân, còn Triệu Vân Vân cứ thế quỳ dưới đất, nhìn chằm chằm vào đôi mắt nữ quỷ mà thì thào không ngừng. Nữ quỷ từ từ rời khỏi căn phòng, dần dần biến mất vào bóng tối. Ngọn nến sau lưng tôi cũng vừa tắt, chỉ có ánh trăng trong vắt yếu ớt len qua khung cửa chật hẹp, soi rọi khoảng không lạnh lẽo trong phòng, xung quanh chúng tôi, một mùi hương không tên tràn ngập.

Một lát sau, Bạch Dực mới buông tay tôi ra, quay lại nói: “Xong rồi, Triệu Vân Vân, bạn thử kiểm tra trên người xem còn dấu đỏ nào không?”

Cô gái run run kéo tay áo lên, chúng tôi cũng đồng loạt nín thở. Tay áo từ từ được kéo cao… không thấy vết hằn đỏ nào nữa! Cô kích động kéo tay áo còn lại lên xem, cũng lặn hết cả rồi! Đột nhiên, cô gái òa lên khóc nức nở, chúng tôi biết, đây là những giọt nước mắt vui sướng tột độ, tìm được đường sống trong chỗ chết. Vì thế chúng tôi để cô ấy khóc thỏa thích, nhưng phiền phức lập tức kéo tới, đó là tiếng khóc của Triệu Vân Vân đánh động mọi người quanh đó, bắt đầu có người chạy tới kiểm tra. Bạch Dực hốt hoảng hô to: “Không xong rồi, có người tới, chạy mau!”

Tôi nhìn lại mình, chỉ chỉ vào tà áo dài mà cười khổ: “Tôi thế này làm sao mà chạy được! Tốt xấu gì cũng phải chờ tôi thay đồ đã chứ?!” Nhưng Bạch Dực không thèm nhìn tôi lấy một cái, chỉ nhanh như chớp vơ hết đồ đạc chạy biến ra ngoài, Triệu Vân Vân vừa mừng vừa sợ, cũng run rẩy xách túi chạy theo sau.

Tôi muốn mắng Bạch Dực thật to, nhưng cũng quyết định nhanh chóng ôm quần áo của mình cứ thế chạy ra ngoài.

Ba người chúng tôi cứ thế chạy hộc tốc trên đường, trong số đó nhìn tôi là buồn cười nhất, một anh chàng mặc hí phục chạy trốn khiến mọi người trên đường đều cười cười quay lại nhìn. Mà tại vì mặc váy dài nên tôi cũng không chạy được nhanh, chỉ biết lạch bạch chạy sau lưng hai người kia, rốt cuộc tới một ngã rẽ tương đối vắng, Bạch Dực mới ngừng lại. Tôi chạy tới cuối cùng, vừa thở hổn hển vừa ôm chặt quần áo của mình trong tay, miệng há hốc không ngừng hớp hớp không khí… cuối cùng cũng thoát…

Bạch Dực cũng thở phì phò: “Tới… tới đây thôi… bọn họ… bọn họ không đuổi tới nữa…”

Triệu Vân Vân hoàn hồn, vừa khóc lại vừa cười nói với chúng tôi: “Lần này em vô cùng biết ơn các anh, các anh đã cứu mạng em…!”

Trong lòng tôi thầm nghĩ: “Tôi mới là người thảm nhất đây này! Dọc đường đi có không biết bao nhiêu người chỉ trỏ, chỉ mong trong số đó không có người quen… nếu không quả thực không còn mặt mũi làm người nữa!”

“Cầm bộ quần áo của cậu sang kia thay ra đi.” Bạch Dực nhìn tôi, chỉ vào bụi cây phía trước nói.

Tôi lập tức lạch bạch chạy sang, nhưng lại bị anh ta ngăn lại: “Đưa cái chén đây đã.”

Tôi chỉ muốn thay quần áo ngay cho xong, liền lập tức giao lại cái chén cho anh ta rồi ôm quần áo phóng tới chỗ bụi cây, nhưng trước đó còn kịp loáng thoáng nghe anh ta lầm bầm: “Coi đó, nương tử nhà tôi chẳng dịu dàng tí nào cả.”

Tôi sửng sốt ngẩn người quay lại hỏi: “Anh vừa nói cái gì thế?”

Nhưng anh ta làm vẻ mặt ngơ ngác vô tội phất phất tay với tôi: “Tôi bảo may mà bộ trang phục không bị rách, nếu không là một tháng tiền lương của cậu đi tong rồi. Nhanh nhanh đi thay ra mau!”

Tôi hoài nghi nhìn anh ta, nhưng quyết định tạm thời lờ đi cái đã, thay quần áo xong rồi còn lo bị anh ta mỉa mai sao.

Rốt cuộc mặc lại được bộ quần áo bình thường, tôi mang bộ hí phục ra trả lại cho Bạch Dực, phủi phủi mấy mảnh lá khô bám trên áo: “Được rồi, việc này cuối cùng cũng xong!”

Bạch Dực gật đầu: “Bạn Triệu, nhờ bạn mang bộ y phục này về trả lại cho cô của tôi giúp, nói với cô tôi là tôi cảm ơn.”

Triệu Vân Vân nhận bộ y phục, nhẹ nhàng nhận lời, rõ ràng cô gái vẫn còn rất kích động, cơ thể vẫn còn run run.

Tôi vẫn hơi lo lắng, dù sao thì nữ quỷ kia cũng đã chạm vào người chúng tôi, nên hích khuỷu tay vào người Bạch Dực hỏi: “Lão Bạch, chúng ta không có gì nguy hiểm chứ, Triệu Vân Vân thì an toàn rồi, đừng làm cho chúng ta cũng bị cuốn vào.”

“Không có đâu, chúng ta không nhìn thẳng vào nữ quỷ mà chỉ nhìn qua gương thôi mà, cho nên sẽ không bị sát đâu. Hơn nữa trong tay chúng ta còn có cái chén của Tá Thọ bà, có thể trung hòa hết mọi xui xẻo khi bị nó đụng vào rồi.” Bạch Dực cười cười lắc đầu.

Lúc này tôi mới yên tâm, lại sực nhớ tới cảnh Bạch Dực bị nữ quỷ ve vãn, lập tức cảm thấy buồn cười, liền liếc nhìn Bạch Dực cười gian: “Bạn Triệu, bạn không biết đấy chứ, Bạch Dực công tử của chúng ta rất có mị lực đó nha, ngay cả nữ quỷ cũng không cưỡng lại nổi luôn! Cứ nhớ tới ánh mắt của nữ quỷ kia nhìn Bạch Dực ~ chậc chậc ~ thật là ai oán nha ~”

Bạch Dực tức giận trừng mắt với tôi, Triệu Vân Vân ôm y phục chợt nhỏ nhẹ nói: “Lúc em ôm lấy con quỷ, nhận ra, nó… không có ngực… hình như là một nam quỷ đó…”

Giữa màn đêm khuya khoắt chợt vang lên tiếng cười của tôi, Bạch Dực làm lơ đi thẳng, Triệu Vân Vân nhìn anh ta rồi lại nhìn tôi, chột dạ hỏi: “Em nói sai cái gì rồi à?”

Tôi rất hứng khởi khoát tay cười: “Không có gì! Anh ta ngượng thôi mà! Ha ha ~ vậy bọn tôi về trước nhé. Ha ha ~ bạn cũng có thể sống bình thường như trước rồi!”

Triệu Vân Vân nghiêng đầu nhìn bộ dạng hăng hái của tôi, sau đó cũng mỉm cười theo. Đến góc đường, cô gái chào từ biệt chúng tôi ra về.

Tôi lập tức đuổi theo sau Bạch Dực, cười toe toét: “Lão Bạch, rốt cuộc tôi cũng nắm được đuôi anh rồi nhé!”

Bạch Dực cũng quay lại mỉm cười với tôi: “Truyền thống nhà tôi là làm chồng nhất định phải nhường nhịn nương tử, cho nên cậu muốn cười thì cứ cười đi.”

Mặt tôi lập tức co rút lại, có ý gì hả! Nương tử?! Cái này phải làm cho rõ nha! Tôi lập tức đuổi theo, Bạch Dực vẫn thản nhiên đi trước, không để ý gì đến tôi, làm tôi càng thêm tức.

Trên con đường một đêm cuối năm, chỉ có giọng của tôi hò hét chất vấn, nhưng trong một con hẻm nhỏ tối đen, có thể phảng phất nhìn thấy hai bóng người, một đỏ một trắng, quanh quẩn giữa những dịp buồn vui của con người. Đại ái đại hận của chúng có thể vô tình vô tâm mà cướp đi những linh hồn quý giá của nhân loại.

Song hỉ quỷ sát – Hoàn

[1] Ý nói tới Lâm Đại Ngọc của “Hồng lâu mộng”. Giả Bảo Ngọc gọi nàng là Lâm muội muội (em Lâm) nên độc giả cũng thường gọi theo như thế.

[2] Sát là từ chỉ những loại hung thần ác quỷ, cũng là một loại linh hồn, nhưng chỉ chuyên hại chết người.

[3] Thuyết nhà Phật nói Lục đạo bao gồm thiên đạo, Atula đạo, nhân đạo, súc sinh đạo, ngạ quỷ đạo, địa ngục đạo. Linh hồn con người nói chung là luân hồi trong sáu đạo này.

[4] Theo Lục Mịnh hiểu thì chỗ này giống như “phí giao thông” ấy, các phương tiện đi trên đường lớn (ví dụ như quốc lộ) là phải trả tiền phí.

[5] Dường như đây là sính lễ kết hôn của Trung Quốc, giống như trầu cau của Việt Nam..?

[6] Nam đán là nam chuyên đóng vai nữ trong Kinh kịch.

_________________________________________________

Bạn ma này lúc mới xuất hiện thì cũng ghê gứm lắm, nhưng kể từ lúc bạn quay sang “sàm sỡ” anh Bạch thì bạn đã hoàn toàn bị mất giá thê thảm trên cương vị của một con quỷ có số có má =)))

Chương 15: Niên thú (Thượng)

Tiếng pháo trúc đón mừng năm mới đến, đêm trừ tịch thực ra là để đánh đuổi một loại quái vật có tên gọi là “Tịch”. Có lẽ ai cũng biết câu chuyện này, Tịch chính là một loại niên thú, sợ ánh sáng sợ màu đỏ sợ tiếng vang, cứ theo đó mà suy thì nó cũng chẳng có gì đáng sợ cho lắm. Chỉ cần một chuỗi pháo trúc dài là có thể đối phó với nó. Dù sao tôi cũng không có hiểu biết nhiều về lãnh vực này lắm, đêm trừ tịch chẳng qua là thời khắc chuyển từ một năm cũ sang một năm mới mà thôi, trước kia thì còn có tiền lì xì, còn bây giờ ngoại trừ mỗi năm mỗi già đi một tuổi thì chẳng còn gì đáng hân hoan nữa cả.

Lúc mẹ tôi biết tôi sẽ không về nhà mừng năm mới cũng có hơi nổi giận, nhưng cuối cùng vẫn gửi tới cho tôi ít đồ ăn tết cộng với vài bộ quần áo mới. Bạch Dực cũng nhận được một ít đặc sản dưới quê gửi lên, hai người chúng tôi vội vã đem đồ ăn tẩm ướp cẩn thận rồi mắc lên treo bên cửa sổ cho khô ráo. Người miền Nam dịp tết thường thích ăn thịt vịt tẩm và thịt heo sấy khô. Cho nên tôi rất thích dịp năm mới, bữa cơm tất niên nhất định sẽ có lạp xưởng và thịt vịt ướp muối. Bạch Dực rõ ràng cũng là người miền nam, nhưng khẩu vị nhà anh ta có vẻ nhạt, chỉ gửi tới một ít hải sản.

Mẹ tôi còn gửi tới cho tôi mấy tờ giấy đỏ cắt thành hình chữ “Phúc”, nói là dán trên cửa vào đêm trừ tịch. Nhưng tôi vốn lười, nghĩ có dán hay không dán thì cũng như nhau cả. Nhân tiện có Bạch Dực, liền đem nhiệm vụ này đẩy cho anh ta. Bạch Dực cao hơn tôi cả nửa cái đầu, bình thường tôi vẫn rất ấm ức, nay tiện dịp sai vặt anh ta để báo thù vậy. Tôi ngồi dưới vừa bóc vỏ đậu phộng vừa nhìn xem tờ giấy dán có thẳng hay chưa. Tuy nói tôi cũng không phải người giỏi giang gì, nhưng tốt xấu cũng tốt nghiệp trường Mỹ thuật ra, con mắt đặc biệt xét nét với sự cân bằng. Qua hồi lâu, hai bàn tay đang giữ chữ Phúc của Bạch Dực đã bắt đầu run lên, anh ta quay lại cằn nhằn: “Đã được chưa, cứ thế này mãi thì tôi biến thành vượn tay dài mất!” Tôi không thèm để ý đến anh ta, miệng nhai đậu phộng, hai mắt nheo nheo canh chừng. Cuối cùng cảm thấy đã thỏa mãn, mới gật đầu nói với Bạch Dực: “Được rồi, cứ thế dán vào đi!”

Bạch Dực dán xong tờ giấy, rũ rũ cánh tay cho đỡ mỏi mà liếc nhìn tôi: “Thứ này cần phải dán tỉ mỉ tới vậy sao?”

Tôi vừa bóc đậu phộng vừa nghiêm trang gật đầu: “Đương nhiên, phúc đảo (chữ Phúc dán ngược) là phúc đáo (phúc đến) chứ sao! Anh thường tự hào là đầy bụng kiến thức mà lại không biết điều sơ đẳng này à?”

Anh ta bất đắc dĩ lắc lắc đầu, không nói gì nữa mà quay lại thu dọn đám sách cổ vung vãi trên sàn mấy ngày trước chưa dọn xong. Kể từ khi xảy ra vụ “Song hỉ quỷ sát”, Triệu Vân Vân có tới làm khách nhà chúng tôi thêm mấy lần nữa, lần nào cũng mang theo thứ này thứ kia, nhờ có cô ấy mà bây giờ tôi mới có đậu phộng mà ăn thế này.

Bạch Dực dọn toàn bộ mớ sách cổ cho hết vào rương, trên giá sách chỉ để lại vài cuốn tự điển và sách lịch sử bình thường, còn mấy thứ kỳ lạ thì nhét hết xuống gầm giường, cả căn phòng cũng trở nên thoáng đãng hơn. Lúc này dường như nghĩ ra cái gì đó, anh ta liền quay lại nói với tôi: “Cậu có biết tờ giấy dán trên cửa thực ra là để đuổi niên thú không?”

Tôi gật đầu: “Biết chứ, là Tịch đúng không, cho nên đêm 30 mới gọi là đêm trừ tịch, ý là giết chết con quái thú tên là Tịch này còn gì.”

Anh ta dường như có hơi khó chịu nhíu nhíu mày, sau đó lắc đầu nói: “Niên thú không phải là con quái vật độc ác như con người thường tưởng tượng, sự tồn tại của nó rất quan trọng, tác dụng của nó là để bảo vệ cho khoảng thời gian cuối cùng trong năm. Nhân loại hoàn toàn không thể giết được nó, chỉ có thể đánh đuổi hoặc là tránh né mà thôi.”

Tôi ném mớ vỏ đậu phộng còn lại vào thùng rác, sau đó phủi phủi tay hỏi: “Vậy sao? Còn có cách hiểu này nữa à?”

Anh ta đẩy đẩy kính mắt đáp: “Tịch thực ra sống ở dưới Long cung, chỉ có ngày cuối cùng trong năm mới lên thế giới con người, thực ra nó thuộc về họ nhà rồng, cũng có thể nói là anh em của rồng có sừng.”

Tôi ngạc nhiên hỏi lại: “Nói vậy chẳng lẽ thứ này cũng là một con rồng sao?”

Anh ta khẽ gật đầu: “Nói là nó thuộc họ nhà rồng, nhưng cũng không phải là rồng, trong họ nhà rồng có rất nhiều chi loài khác nhau, người ta nói bàn tay còn có ngón dài ngón ngắn, rồng cũng rất khác nhau. Còn Tịch thực sự không được gọi là rồng.”

Tôi thở dài: “Vậy cũng chẳng có gì quan trọng, nó vẫn là một con quái vật ăn thịt người, cho dù thân phận có tôn quý đến đâu đi nữa thì mọi người vẫn sợ hãi mà lẩn tránh nó.”

Bạch Dực dường như suy nghĩ rất lung, cúi đầu không nói gì nữa. Tôi thấy anh ta không định tiếp lời, cũng quay lại mở máy vi tính lên mạng. Dạo này dịp năm mới cũng không còn cái không khí háo hức đặc biệt như ngày xưa nữa, kinh tế phát triển, người ta ăn mừng từ đầu năm đến cuối năm, không còn mấy ai giữ những tập tục cổ xưa phức tạp nữa.

Lúc này trên QQ vừa có một tin tức mới toanh, tôi hiếu kỳ mở ra xem, trong đó nói người ta vừa vớt được dưới lưu vực Hoàng Hà một cái đỉnh đồng xanh khắc mặt thú, sau khi được giám định bởi bảo tàng lịch sử địa phương thì nó dường như là một vật phẩm có từ thời Tiên Tần, là một loại tế phẩm dùng để tế tự cho sông Hoàng Hà. Trên mẩu tin còn có một tấm ảnh chụp cái đỉnh nọ, ở giữa còn có ảnh chụp hiện trường nơi tìm ra nó. Nói thật, trong mắt một kẻ mù tịt lịch sử như tôi thì cái đỉnh chẳng khác nào một khối kim loại loang lổ bong tróc, đem ra bán ve chai sợ còn không ai thèm mua.

Nhưng Bạch Dực cũng tiến tới đọc mẩu tin, mà càng đọc lại càng chăm chú, cuối cùng anh ta thẳng thừng đẩy hẳn tôi ra mà ngồi xuống trước máy vi tính, lại download mấy tấm ảnh xuống phóng to lên xem, lúc này tôi mới nhìn kỹ được mặt trên của chiếc đỉnh quả thực có khắc hình một con quái thú có râu rất dài, hình dạng không phân rõ là giống sư tử hay cọp, dù sao thì đỉnh đã bị ngâm dưới nước quá lâu, nên hình khắc bên trên cũng đã mờ nhạt nhìn không rõ nữa.

Tôi chen vào nói: “Thế nào lão Bạch, cũng muốn nghiên cứu cả văn vật cổ à, quả nhiên là đa tài nha!”

Chỉ thấy anh ta cúi đầu lẩm bẩm: “Không ngờ lại dám đào cả thứ này lên… coi chừng thứ đó cũng thoát ra luôn rồi…” Sau đó tắt cửa sổ máy tính, gật đầu với tôi: “Chơi tiếp đi, tôi ra ngoài đây.”

Tôi quay đầu lại hỏi: “Đi đâu vậy?”

Anh ta đã khoác xong áo khoác, không thèm quay lại mà đáp: “Đến bảo tàng.”

Tôi vừa nghe thế đã vội vã kéo anh ta lại: “Quay lại quay lại, anh nhìn thử xem bây giờ là mấy giờ rồi? Anh tới nơi coi chừng người ta đã đóng cửa từ đời nào rồi ấy chứ!”

Anh ta nhìn đồng hồ treo tường, rồi lại bất đắc dĩ ngồi xuống, vẻ mặt dường như rất ưu tư, tôi thấy Bạch Dực có vẻ quan tâm đặc biệt tới thứ này, liền hỏi: “Cái cục đồng… à không, cái đỉnh đồng xanh đó có vấn đề gì hay sao?”

Anh ta lắc đầu: “Tôi cũng không dám chắc, cái đỉnh này đã bị ăn mòn quá rồi, trông không rõ nguyên trạng nữa, tôi muốn nhìn tận mắt xem sao, nhưng cũng chỉ còn nước chờ tới sáng mai thôi…” Dứt lời anh ta lại tới mở mấy tấm ảnh lúc nãy ra xem, nhưng hình chụp thực sự không rõ, hơn nữa độ phân giải của tấm ảnh cũng thấp, nếu muốn phóng đại lên nữa chắc chỉ còn nhìn thấy một đống điểm ảnh lem nhem mất. Vì thế rốt cuộc Bạch Dực đành bỏ cuộc.

Cả ngày đủ thứ chuyện xảy ra, vừa phải thu dọn phòng vừa phải chuẩn bị đồ ăn tết, buổi tối chúng tôi cũng chỉ mua đại một ít hoành thánh ăn tạm. Tất cả những thực phẩm ngon nhất đều phải để dành đến đêm 30 mới mang ra ăn, đây là truyền thống của Trung Quốc, bữa ăn cuối cùng trong năm luôn luôn cực kỳ linh đình phong phú, cho dù gia đình có nghèo cách mấy cũng cố chuẩn bị một ít thịt thà ăn trong bữa tiệc tất niên. Bởi vì bữa cơm cuối năm này ngoại trừ mang nghĩa đoàn viên thì còn là để bói may mắn cho năm sau, có ăn được một bữa ngon lành thì năm sau mới làm ăn được thuận lợi.

Ăn cơm tối xong, tôi thỏa mãn nhìn gà ngâm rượu và vịt tẩm treo trước cửa sổ, mơ màng nghĩ tới bữa cơm tất niên linh đình sắp tới. Bạch Dực có thói quen ngủ rất sớm, sớm hơn tôi nhiều, nên khi tôi quyết định đi nằm thì anh ta đã ngáy khò khò từ lâu. Cuộc sống ở ký túc xá đã sớm luyện cho tôi thói quen cử động nhẹ nhàng êm ái để tránh làm mất giấc của người khác. Tôi rón rén chui vào ổ chăn, chuẩn bị đưa tay tắt đèn, đột nhiên nghe bên ngoài dường như có tiếng gõ cửa rất khẽ, cũng rất chậm rãi. Bạch Dực trở mình một cái, vẫn không hề tỉnh giấc. Tôi chán nản khẽ lên tiếng hỏi ai đó, nhưng tiếng động kia lập tức biến mất. Tôi có chút băn khoăn, cũng có chút nghi hoặc, nhưng trời lạnh đêm khuya thế này có ai lại rảnh tới mức mở rộng cửa ra kiểm tra lại? Cho nên tôi chỉ lầm bầm mắng vài câu rồi cũng tắt đèn nằm xuống.

Đến nửa đêm đột nhiên trời đổ mưa, gió rít gào ào ạt bên ngoài khung cửa, giữa trời đêm tĩnh lặng lại càng có vẻ ồn ào hơn. Tôi mơ màng nghe tiếng mưa quật vào cửa sổ lách tách, trong lòng lại đâm lo cho mớ đồ ăn đang treo bên ngoài, vì thế mở mắt nhoài người ngồi dậy, chuẩn bị xuống giường đem mấy thứ kia vào phòng, lại đột nhiên phát hiện trước cửa sổ hình như đang có một cái bóng ngồi chồm hỗm, tôi cả kinh, nhưng không dám lên tiếng vội, chỉ khẽ khàng nằm xuống lại. Cái bóng kia cảm thấy cử động của tôi, liền thoáng dừng lại, một cái đầu gà tuột khỏi tay nó lăn lăn xuống đất, tôi nhìn lại thì thấy nó đã bị gặm nham nhở. Thứ quái dị kia thu người lại cạnh cửa sổ, trong tay ôm đầy đồ ăn của chúng tôi vừa treo buổi tối.

Bạch Dực chọn đúng lúc này để trở mình, quay mặt về phía tôi, vẫn ngủ mê mệt không biết gì. Con quái vật kia lại cách anh ta không đầy 10 mét. Nếu nó quyết định phóng tới, lão Bạch cho dù có lợi hại cách mấy cũng không thể tránh nổi. Mà tôi ở đây lại không dám gây động tĩnh quá lớn, chỉ sợ con quái vật bị đánh động thì chẳng biết sẽ làm gì nữa. Ít ra bây giờ nó vừa nhai cả một con gà, hi vọng sẽ không đói tới mức xông vào ăn thịt người.

Tôi khẽ giọng gọi Bạch Dực một tiếng, nhưng anh ta rõ ràng đang ngủ rất say, chẳng hề cảm nhận được con quái vật sau lưng mình chút nào. Mà thứ kia vẫn có một đống đồ ăn trước mặt nên cũng không có vẻ muốn tấn công chúng tôi, chỉ chăm chú nhai rau ráu mớ đồ tết quý báu của chúng tôi. Có lẽ ban ngày phải thu dọn cả căn phòng quá mệt nên Bạch Dực ngủ say như chết, thứ phía sau anh ta nhai rào rạo ồn ào như vậy mà anh ta vẫn cứ ngủ được! Tôi vừa sợ vừa tiếc, đống đồ tết coi như cúng cho nó hết cả, những gì còn thừa lại thì cũng dính nước bọt của nó, không thể ăn được nữa. Trời mưa quá to, trong phòng lại tối đen nên tôi trông không rõ cái bóng trước cửa sổ, chỉ cảm thấy nó là một cái bóng đen thui, to lớn hơn hẳn người thường, nhưng cũng không phải là động vật, vì dường như nó có mặc quân áo, trên đầu còn mang một cái mão cực kỳ lạ lùng. Trên người tỏa ra một mùi bùn đất rất nặng. Phòng chúng tôi ở lầu hai, vậy mà nó chỉ tay không leo lên tới tận đây, quả thật không thể tưởng tượng nổi.

Quái vật kéo kéo tới mớ lạp xưởng khô, vì tôi sợ chỉ dùng dây treo thì không được chắc nên ban chiều có dùng một thanh sắt xuyên qua treo lên, cho nên lúc này quái vật kéo có vẻ rất vất vả. Quái vật càng kéo càng gấp, âm thanh phát ra cũng càng lúc càng to.

Lúc này Bạch Dực lại từ từ tỉnh giấc, quái vật cũng lập tức chú ý đến anh ta. Thân thể nó hơi khuỳnh xuống, bộ dạng như đang dồn sức chuẩn bị phóng tới. Tôi tái mặt nhìn cảnh tượng trước mặt, nếu lúc này mà không ra tay thì Bạch Dực chỉ có nước chết chắc. Vì thế tôi bèn nắm lấy cái gối ném thẳng về phía cửa sổ. Nhưng tiếc là ném quá gấp, lực tay không chuẩn xác, cái gối không trúng vào quái vật mà lại trúng thẳng vào… giữa mặt Bạch Dực.

Đầu tôi “oành” một tiếng, xong, lão Bạch sắp nổi điên…

Bạch Dực đã hoàn toàn tỉnh táo lại, nhưng vẫn chưa hiểu đang có chuyện gì xảy ra, liền hét lên: “Nửa đêm không lo ngủ đi mà làm cái trò gì vậy hả?!”

Con quái vật kia đã đứng ngay sau lưng Bạch Dực, tại anh ta hét lên với tôi mà lúc này sức chú ý của nó lại chuyển hết sang người tôi bên này. Ngoại trừ một cái chăn đắp ngang người, quả thực lúc này tôi không còn gì để đối phó với nó được nữa cả.

Quái vật bất ngờ phát ra tiếng gầm gừ trong cổ họng, Bạch Dực nghe được, cũng rất thông minh không quay đầu lại ngay mà chỉ nhẹ nhàng hỏi: “Phía sau lưng tôi có cái gì à?”

Tôi vội vã gật đầu, trong lồng ngực tim đập như muốn nhảy vọt ra ngoài. Bạch Dực khẽ gật đầu một cái, lập tức nâng cái gối lên ném thẳng về phía sau, rồi nhanh như cắt lao thẳng sang giường tôi. Quái vật không kịp phản ứng, bị ném trúng ngay giữa mặt, nhưng điểm kỳ quái nhất là nó hoàn toàn không hề phản ứng lại với cú ném, cứ như cái gối vừa bị ném vào vách tường vậy. Tôi lập tức nhoài người tới mở đèn, chỉ thấy sàn nhà đầy thịt gà vương vãi cộng với một đống xương, con quái vật đã biến mất tự lúc nào.

Cửa sổ vẫn đóng chặt. Bên ngoài mưa vẫn đập không ngừng vào khung cửa kính, phát ra tiếng tích táp, nhưng trong phòng tràn ngập một mùi đất ngai ngái ẩm ướt.

Tôi dụi dụi mắt, không phải là ảo giác, tôi nhìn lại Bạch Dực, thấy anh ta đang thu dọn dưới sàn, đem mớ thịt vụn và xương vất vào thùng rác. Vẻ mặt anh ta hoàn toàn không có vẻ gì là kinh hoàng, quả nhiên là gặp nhiều chuyện lạ quá nên quen rồi. Tôi kính phục nhìn anh ta bình thản thu dọn, một lát sau mới hỏi: “Thứ kia sẽ không tới nữa chứ?”

Bạch Dực đáp: “Không biết, lúc nãy tôi không nhìn rõ nó lắm, nhưng xem tình huống thì có thể nó còn trở lại nữa.”

Tôi nhìn ra phía cửa sổ: “Còn quay lại nữa? Lúc đó lấy cái gì cho nó ăn được đây?”

Bạch Dực cười cười: “Không phải còn hai con mồi bự là chúng ta đây sao.”

Ngày hôm sau, dường như không có ai giống như hai chúng tôi, mới sáng sớm ra đã lò dò tới viện bảo tàng. Đêm hôm qua sau khi quái vật đi rồi, hai chúng tôi căn bản là không dám ngủ lại, chỉ mở đèn sáng trưng ngồi chong mắt chờ tới bình minh. Sáng sớm ra Bạch Dực đã vội vàng tới bảo tàng, tôi nghĩ thế nào cũng có liên quan đến quái vật hôm qua, nên không cần anh ta giục cũng tự nguyện đi theo.

Vì đêm hôm qua trời vừa mưa to, chúng tôi lại tới quá sớm nên trong viện bảo tàng lúc này không có khách nào khác, xung quanh hai chúng tôi là một không gian tĩnh lặng rộng lớn. Ánh sáng bên trong bị cố tình làm cho mờ nhạt đi, tạo không khí vừa cổ kính vừa u ám, rải rác những văn vật cổ xưa được xếp đặt xung quanh phòng. Dưới mỗi hiện vật đều có một tấm bảng thuyết minh rõ ràng lịch sử của nó, những luồng ánh sáng mờ ảo chiếu lên hiện vật khiến chúng ánh lên những sắc màu huyền ảo. Chợt có cảm giác như đang bước dưới một đường hầm tối đen, chỉ có những hàng đèn đường nhàn nhạt kéo dài vậy. Có lẽ người thiết kế muốn lợi dụng ý tưởng “dòng sông lịch sử” nên mới cố tình xây dựng nên một hành lang dài tối đen như lòng sông Hoàng Hà, chỉ có từng ngọn từng ngọn đèn chong suốt chiều dài sông. Nhưng theo ý tôi, ý tưởng này chỉ mang tới một thứ cảm giác vô cùng quỷ dị, mấy thứ hiện vật này cứ như đều có mắt, dõi theo từng bước chân của chúng tôi.

Trên cửa có một màn hình giới thiệu thật lớn, trên đó có rất nhiều tư liệu giải thích về thời kỳ văn hóa thời kỳ nhà Thương Chu. Hiếm khi tới tận đây, nên tôi cũng bỏ thời gian đọc thật kỹ, tốt xấu cũng có thêm chút kiến thức. Nhưng Bạch Dực chỉ chăm chăm tìm kiếm tư liệu về cái đỉnh đồng kỳ dị kia, còn lại thì không quan tâm tới, thật uổng cho anh ta làm một giáo viên lịch sử mà lại thờ ơ như vậy. Tôi chưa kịp đọc được bao nhiêu đã anh ta kéo đi. Cái đỉnh đồng có thể được coi là “cái đinh” của đợt triển lãm lần này, nên được đặt ở một vị trí rất nổi bật. Xung quanh hầu như không đặt thêm hiện vật gì khác. Giữa một khoảng không gian rộng lớn chỉ có một khối đồ đồng trơ trọi, trên ảnh chụp không thấy nó có gì đặc biệt lắm, nhưng lúc này được nhìn gần, quả nhiên là một vật vừa cực kỳ cổ quái lại vừa tỏa ra một thứ sức mạnh rung động kinh người.

Mặt ngoài của nó khá thô tháp, thể tích cực lớn. Tuy gọi là đỉnh, nhưng lại có tạo hình rất kỳ quái, nhìn giống hệt như một cái đầu quái thú đang há miệng. Để phối hợp với nó, xung quanh đó còn bật một ca khúc xưa, giai điệu trầm hùng, tiết tấu thong thả.

Bạch Dực vừa nhìn vào cái đỉnh đồng thì sắc mặt chợt biến. Anh ta theo thói quen sờ sờ cằm, cúi đầu không biết đang suy nghĩ những gì. Tôi đi vòng quanh cái đỉnh nhìn thật tỉ mỉ, đột nhiên ở mặt kính phía sau phát hiện một dấu vân tay đầy mỡ.

Tôi vội vã vẫy Bạch Dực tới gần, chỉ cho anh ta dấu tay mà nói: “Lão Bạch, anh nghĩ cái đỉnh này có thể sống dậy hay không vậy?”

Bạch Dực nhìn tôi chằm chằm: “Một cục đồng làm sao có thể hóa thành người được? Tiểu An, cậu ra sức học hành bao nhiêu năm cuối cùng để đổ sông đổ biển thế à?”

Tôi không thèm để ý tới lời châm chọc của anh ta, chỉ cau mày nói: “Vậy anh thử nói xem con quái vật hôm qua là từ đâu chui ra? Tôi nói cho anh biết, từ khi biết anh thì mọi quan niệm ‘bình thường’ của tôi đều đảo lộn hết rồi. Bây giờ anh mà có chỉ vào một cục đá mà bảo tôi đó là một đứa trẻ thì tôi cũng tin cho coi!”

Anh ta cười cười đáp: “Đừng có nói quá lên thế, thứ này tuyệt đối không biến nổi thành người đâu, mà người cũng không biến thành đồng được. Nhưng hai thứ này quả thực có liên quan với nhau.”

Tôi ghét nhất là cái kiểu nói úp mở nhử mồi này của anh ta, ghét nhất bị anh ta coi như một đứa ngốc mà đem ra trêu chọc, nên nóng nảy nói: “Biết cái gì thì nói ra đi, tôi không phải đang tham gia chương trình ‘nhìn hình đoán chữ’ đâu anh hai!”

Anh ta thở dài nói: “Tôi giấu cậu làm cái gì? Thứ này dường như là một cái đỉnh dùng để phong ấn yêu quái, chính cái thứ bị phong ấn bên trong nó mới là phiền phức, thứ kia là gì thì cậu chắc cũng đoán ra được rồi đấy———-nó chính là Tịch, là niên thú, còn tại sao nó tìm tới nhà chúng ta thì chắc chỉ là do tình cờ mà thôi.”

Tôi ngơ ngác lắc lắc đầu: “Nhưng thứ kia chỉ xuất hiện mỗi năm một lần trong đêm trừ tịch thôi chứ? Sao giờ này lại lang thang ở đây? Hơn nữa còn tìm tới trúng nhà chúng ta. Nhất định… nhất định có chuyện gì đó rồi…”

Anh ta cũng gật đầu: “Bởi vì có cái đỉnh đồng này ở đây cho nên nó mới có thể xuất hiện vào thời điểm này trong năm, lúc trước cái đỉnh này chưa bị đào thì nó còn hạn chế chỉ xuất hiện vào đêm trừ tịch, nhưng hiện tại chỉ cần cái đỉnh này còn nằm trên mặt đất thì nó có thể thoải mái đi lại quanh phạm vi gần đây, đương nhiên không còn bị giới hạn thời gian nữa.”

Nghe thấy kết quả không thích nghe nhất, liền cảm thấy mất hết cả tinh thần, chẳng hiểu tôi bị cái gì, dạo gần đây cứ liên tục đụng nhằm những thứ quái dị nguy hiểm thế này không biết? Tôi chỉ là một người bình thường, một thầy giáo dạy mỹ thuật bình thường thôi mà!

Ngay khi tôi đang than thân trách phận thì bên khóe mắt chợt hiện lên một cái bóng đen cao to, đội mão cao, toàn thân đen sẫm. Tôi nuốt nước bọt, kéo kéo áo Bạch Dực: “Hình như… hình như tôi vừa nhìn thấy thứ kia…”

Anh ta gật đầu: “Ừ, thứ kia vẫn luôn ở đây, xem ra nó nghĩ đồ ăn của cậu rất ngon, có thể còn quay lại ăn chực nữa.”

Lúc này tôi hoàn toàn không còn tinh thần đâu mà nói đùa nữa, nếu thực sự thứ này cứ láng cháng ở đây thì tôi chẳng thà về nhà còn hơn, không mua được vé xe lửa thì dùng cách khác, giá nào cũng phải về. Còn hơn ở lại đây chờ thứ kinh khủng kia quay lại.

Tôi kéo tay Bạch Dực, vẻ mặt đầy đe dọa: “Anh mau tìm biện pháp đuổi thứ kia đi cho tôi!”

Anh ta gạt tay tôi ra, quay lại nhìn cái đỉnh đồng: “Nhân loại đúng là một đám không có bản lĩnh, vĩnh viễn chỉ biết ỷ lại vào người khác, lúc trước nếu không đào thứ này lên thì nó đâu có bị buộc phải xuất hiện ở đây? Bất quá chỉ lên nhân gian một năm một lần là cùng chứ gì.”

Tôi trừng mắt nhìn anh ta hét lên: “Đừng có nói về người khác như vậy! Đừng quên anh cũng là một con người!”

Anh ta không thèm phản kháng, chỉ trừng trừng mắt nhìn tôi, hai chúng tôi trừng mắt nhìn nhau, khiến ông bảo vệ từ nãy đến giờ vẫn cảnh giác với chúng tôi nay nhìn thấy chúng tôi có khuynh hướng sắp lao vào nhau, liền vội vàng chạy tới hỏi thăm: “Hai vị, hai người làm sao vậy? Đây là chỗ công cộng, xin chú ý một chút. Đừng quá to tiếng, ảnh hưởng đến những vị khách khác!”

Bạch Dực đành thở dài: “Xem xong rồi, muốn cãi gì nữa thì về nhà rồi cãi!”

Tôi không nói gì, nhưng cứ đứng đây cùng với con quái vật đang chực chờ bên cạnh thì cũng không ổn, huống chi sau khi biết đây là một cái đỉnh phong ấn yêu quái thì tự nhiên có cảm giác nó đầy âm khí hẳn lên, cũng không muốn ở đây thêm nữa.

Bạch Dực không nói gì nữa, chỉ lặng lẽ đi thẳng ra ngoài, nhưng tôi không nhịn được quay đầu lại nhìn phía sau thêm một lần. Chỉ thấy sau lưng ông bảo vệ thấp thoáng một bóng người cao to đen sẫm lẳng lặng đứng nguyên đó. Tôi đã hiểu, thứ kia nhất định sẽ còn quay lại…

Chương 16: Niên thú (Hạ)

Về đến nhà thì đã tới trưa, tôi chơi game online tới tận chiều, không thèm để ý tới Bạch Dực. Anh ta muốn làm gì thì làm, dù sao thì người nằm cạnh cửa sổ là anh ta, muốn bị ăn cũng là anh ta nốt. Tôi không xen vào nữa. Nhưng nghĩ kỹ lại cũng không thể táng tận lương tâm như vậy, Bạch Dực tốt xấu cũng là bạn tôi, đã cứu tôi không biết bao nhiêu lần, cũng có thể coi như huynh đệ vào sinh ra tử có nhau. Tôi không hề cảm thấy hả hê nếu anh ta xảy ra chuyện. Huống chi anh ta mà bị ăn rồi thì tôi cũng không thoát nổi…

Nhìn thấy sắp tới giờ ăn cơm tối, tôi lén nhìn sang Bạch Dực vài lần, sau đó húng hắng ho bắt chuyện: “…Lão Bạch, tối hôm nay ăn nốt chỗ hoành thánh hôm qua được không…?”

Anh ta lật sang trang sách khác, gật nhẹ đầu. Tôi lén lườm anh ta một cái, đây là cái thái độ gì vậy chứ, rõ ràng là đang giận lẫy mà. Một đại nam nhi mà hở chút là giận, thật chẳng khác nào con gái.

Anh ta không nói, tôi cũng chẳng có gì để nói. Kim đồng hồ cứ thế nhích từ từ, sắc trời cũng dần dần tối sầm lại. Ban ngày có thể không cảm thấy có gì phải sợ, nhưng chỉ cần trời vừa sụp tối thì mọi sự sợ hãi cũng theo bóng tối mà ùa tới, xung quanh yên lặng khác thường làm bầu không khí lại càng thêm u quỷ. Lúc này tôi thực sự chịu không nổi nữa, nhưng khi vừa há miệng định lên tiếng thì Bạch Dực bất ngờ bỏ quyển sách cầm trên tay xuống, ngẩng đầu lên nói: “Tôi đi hãm hoành thánh, muốn ăn bao nhiêu cái?”

Tôi nghẹn lại những lời chực chờ sắp vọt khỏi cửa miệng, nuốt nuốt nước miếng mấy cái mới nói: “Hai mươi cái, bỏ thêm một chút ớt.”

Anh ta gật đầu bước tới tủ lạnh, tôi e dè hỏi vọng từ phía sau lưng: “Thực sự không còn cách nào sao?”

Anh ta quay lại: “Cách gì?”

Tôi đảo trắng mắt: “Con quái vật tối qua.”

Anh ta lôi hộp hoành thánh ra: “Cho nó ăn no là được.”

Tôi nhìn hộp hoành thánh: “Vậy nó có chịu ăn hoành thánh không?”

Anh ta thở dài: “Đã bảo rồi còn gì, thứ này thực ra chỉ muốn tìm đồ ăn thôi. Chỉ cần cậu có cái gì đó cho nó ăn thì nó sẽ không đe dọa tới cậu, nói thật, có lẽ với nó thì thịt gà ướp hay thịt vịt sấy treo trên cửa còn có sức hấp dẫn hơn cả cậu nữa.”

“Nhưng vậy cũng không được đâu, thứ này ăn quá nhiều đi. Chỉ một buổi tối mà nó đã ăn sạch mớ đồ ăn cả tháng của chúng ta rồi, làm sao tôi nuôi nổi nó chứ! Tiếp theo phải xuất hầu bao là anh đó, dù sao thì tôi cũng cạn túi rồi, chẳng còn gì để cúng ra nữa đâu.”

Anh ta nhíu nhíu mày, suy tư một hồi lâu rồi nghiêm túc gật đầu: “Cũng phải, cũng không thể để nó cứ thế tới hoài được, phải tìm cách ‘mời’ nó đi thôi.”

Tôi gật đầu thật mạnh, thứ này quả thực làm chúng tôi quá vất vả. Anh ta quay lại nhìn tôi một cái: “Vậy đi, hôm nay tôi ngủ nhờ bên giường cậu, để giường của tôi làm chuyện khác. Có lẽ lúc này nó chưa tới đâu, tôi ra ngoài mua vài thứ đã, hoành thánh cậu làm đi.” Nói xong lập tức khoác áo ra ngoài, tôi đang muốn nói cho tôi theo với, tôi không muốn ở trong phòng một mình… thì anh ta đã đi mất rồi.

Tôi nhìn bốn phía một lượt, trong phòng vẫn y như trước, cái đồng hồ treo trên vách tích tắc điểm từng giây trôi qua. Tôi lập tức mở bao hoành thánh sột soạt, giữa bốn bề im phăng phắc này chỉ có cách làm ra thật nhiều tiếng động mới đỡ sợ hơn mà thôi.

Tôi cắm điện bếp, nhìn xung quanh, cả chai dấm ăn lẫn chai tương ớt đều đặt cạnh cửa sổ… tôi nhíu nhíu mày, nhìn sắc trời bên ngoài đã tối sầm. Tuy trong phòng đèn bật sáng trưng, nhưng chính sự tương phản sáng tối này lại càng khiến cho không khí trong phòng thêm bất an, những nơi có ánh điện rọi tới thì sáng sủa rõ ràng, nhưng những nơi nó không rọi tới thì hoàn toàn tối đen, không biết có cái gì đang ẩn nấp.

Tôi thấp giọng chửi thầm, buộc bản thân phải bước tới cạnh cửa sổ lấy gia vị. Dường như cửa sổ chưa được đóng, rèm cửa bị gió thốc bay tung lên, bên ngoài cửa sổ là một thế giới hoàn toàn tối đen, nhưng nhờ có ánh sáng của những ngọn đèn đường vẫn có thể trông thấy những nếp nhà lờ mờ phía xa. Khí trời cuối năm rét căm căm, lúc này trên đường không có bóng người, gió thổi những tán ngô đồng khô kêu xào xạc.

Tất cả vẫn rất bình thường, tôi khẽ cười một tiếng, tự cười mình nhát gan, bất quá chỉ là trời sụp tối thôi chứ có gì mà sợ, sau đó dũng cảm tiến tới lấy chai tương ớt. Nhưng khi tiến sát đến bên cửa sổ, chợt nhìn thấy… bên kia tấm kính cửa sổ ngồi chồm hỗm một bóng người mặc màu đen từ đầu đến chân, đầu đội mão. Tôi lập tức nhìn lại lần nữa, nhưng cái bóng đã biến mất. Có lẽ là vì lúc này trong phòng còn mở đèn sáng, mà tròng mắt của nó lại quá nhạy cảm. Tôi lập tức lao tới bên máy vi tính, mở volume hết cỡ cho âm nhạc tràn ngập trong phòng. Tôi biết Tịch sợ nhất là tiếng động ầm ĩ, nếu lúc này trong tay có một hai phong pháo thì tốt quá rồi!

Tôi vô thức liếc mắt ra ngoài cửa, phát hiện chữ Phúc dán ngoài cửa đã bị kéo lệch 90 độ, mà rõ ràng là khi dán, tôi đã bắt Bạch Dực phải dán thật đều. Lại đột nhiên nhớ ra Tịch rất sợ màu đỏ, liền nhanh như chớp khoác một cái áo khoác màu đỏ chói lên người, mặc kệ trông nó có buồn cười hay không.

Lúc này nồi hoành thánh bắt đầu sôi lục bục trên bếp, tôi đến bên nồi định thêm ít nước lạnh, phát hiện chỉ còn lại nửa túi hoành thánh, phân nửa còn lại đã biến mất, chỉ còn lại lớp da bánh bọc ngoài. Tôi sợ tới mức thối lui mấy bước, đột nhiên va phải một thứ gì ở phía sau, một cái tay thình lình… đập lên vai tôi. Thoáng cái tóc gáy tôi dựng đứng lên, thiếu chút nữa đã trợn mắt ngất xỉu vì quá sợ rồi.

Nhưng ngay lúc đó thì chợt nghe người phía sau lạnh lùng lên tiếng: “Làm cái gì hãm hoành thánh mà cứ như đang lên đồng thế?”

Tôi nhìn lại, hóa ra Bạch Dực đã về, hồn phách của tôi rốt cuộc cũng an tâm quay về cơ thể, tôi lau lau mồ hôi lạnh trên trán, chỉ chỉ vào nồi lại chỉ chỉ về phía cửa sổ, nhưng miệng cứ ngậm cứng lại không thốt ra nổi một câu hoàn chỉnh, con người những khi quá sợ, ngôn ngữ là sẽ thứ đầu tiên biến mất.

Anh ta nhìn tôi cười nhạt: “Có lẽ thứ kia tới rồi hả, nhìn cậu kìa, sợ tới cái mức đó. Yên tâm đi, nó sẽ không quá lộng hành ở những chỗ sáng đèn đâu, nhưng mà sao lại để âm lượng to đến thế hả? Tôi đi ngoài hành lang còn nghe ầm ầm, bộ muốn giật sập nóc nhà luôn hay sao?”

Tôi đảo mắt một cái, dù sao anh ta đã ở nhà, không còn đáng sợ lắm nữa. Quay ra tắt nhạc xong, sau đó cởi cái áo khoác đỏ trên người xuống nói: “Lúc nãy thứ kia vừa mới tới ăn sạch bách nửa túi hoành thánh… anh mau tìm cách đi, nếu không một ngày nào đó vừa tỉnh dậy coi chừng thấy tay chân đã bị gặm rồi!”

Anh ta phì cười, buông mớ đồ vừa mua xuống bàn, nhìn vào nồi hoành thánh nói: “Đồng chí Tiểu An, nếu cậu bị nó gặm tay gặm chân mà còn ngủ được thì thần kinh của cậu cũng quá chậm lụt đi?”

Có vài loại người trời sinh ra đã muốn bị đánh, đơn cử như tên khốn trước mặt chuyên lấy người khác ra làm trò cười này. Tôi hậm hự nhưng không làm gì được, ai bảo mọi chuyện còn phải chờ anh ta tới giải quyết làm chi!

“Như vậy Bạch lão đại, anh nghĩ nên làm thế nào? Thứ kia nhất định đang trốn trong phòng chúng ta, nếu không chúng ta đừng ngủ nữa, mở đèn canh cả đêm đi?”

Anh ta lắc đầu: “Đúng là chỉ có cậu mới nghĩ ra được cái trò này, đừng ngủ nữa? Cậu có thể chịu nổi mấy đêm nào?”

Tôi nghĩ: nói cũng phải, một ngày hai ngày còn có thể, chứ đợt triển lãm này phải kéo dài chí ít là nửa tháng, lẽ nào cả nửa tháng trời không ngủ nữa sao? Không chờ bị nó ăn thịt thì cũng mệt đến chết.

Bạch Dực chỉ vào cái giường của anh ta nói: “Đầu tiên mang chăn đệm của tôi sang giường cậu trước đi, ăn hoành thánh xong rồi làm tiếp.”

Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, cảm thấy có hơi bị ám ảnh, nhưng nếu bây giờ mà làm ra vẻ sợ sệt thì đúng là mất hết mặt mũi, bèn hùng hùng hổ hổ chạy ào sang vơ vội chăn đệm, không dám nhìn ra cửa sổ mà lập tức chạy ào về giường mình.

Bạch Dực đã hãm xong hoành thánh, không chờ tôi mà bắt đầu ăn luôn. Tôi cũng không khách khí, ngồi xuống ăn vội. Nói thật lòng, sợ hãi làm con người dễ đói hơn hẳn…

Sau khi hoàn thành bữa tối một cách tốc độ, Bạch Dực bắt đầu soạn mấy thứ vừa mua ra. Anh ta mua một ít đồ ăn, còn mua hai dải pháo lớn và một đống bong bóng màu đỏ. Chúng tôi đều phồng mang thổi bong bóng, nói thật, đã lâu kể từ khi học cấp 3 tôi không làm chuyện ngốc nghếch như thổi bong bóng thế này nữa.

Bạch Dực soạn ra một ít chân giò hun khói và bánh mè đen, tôi đưa mấy quả bong bóng thổi rồi cho anh ta, anh ta liền dùng băng keo trong dán mớ đồ ăn này lên mặt ngoài bong bóng.

Cột xong mớ bong bóng, anh ta ngần ngừ nhìn lại cái giường của mình, rõ ràng là có hơi bất đắc dĩ, nhưng cuối cùng vẫn để mớ bong bóng dán đồ ăn lên giường. Lắc lắc đầu mấy cái, anh ta quay lại nhìn tôi: “Nhìn xem, vì cậu mà ngày mai lại phải lau giường nữa.”

Tôi cắn cắn môi, nhìn anh ta bày biện mọi thứ cứ như đang trang hoàng cho ngày lễ thiếu nhi mà không hiểu anh ta đang có ý định gì. Chưa hết, anh ta còn dán lên cửa sổ một đống dây giấy đủ màu, là phần trang trí còn thừa lại sau đợt lễ hội trường. Tôi là giáo viên phụ trách trang trí nên mang mấy thứ này về nhà, lâu quá cũng quên mất, không ngờ Bạch Dực còn nhớ tới.

Tôi thấy anh ta bận bịu cắt cắt dán dán, bèn mang mớ chén đi rửa. Khi tôi quay lại phòng ngoài, đã thấy cả căn phòng bé xíu tràn ngập không khí mừng năm mới của nông thôn Thiểm Tây, chỉ còn thiếu mỗi cây nêu nữa là đủ.

Chỗ nào cũng tuyền một màu đỏ chói chang, bốn góc nhà còn dán bốn lá bùa, trên giường đầy bong bóng đỏ dán đủ thứ đồ ăn… nhìn rất giống một sân khấu hài kịch.

Tôi trợn to mắt nhìn, sắp xếp thế này cũng… quá phô trương thì phải? Anh ta nhìn quanh phòng một lần, sau đó mới gật đầu thỏa mãn nói với tôi: “Cũng tàm tạm được rồi, nếu thế này mà còn không đuổi được niên thú đi thì chúng ta chỉ còn nước chuyển nhà!”

Tôi nhìn căn phòng vừa dọn dẹp sạch sẽ hôm qua nay hóa thành một đống lộn xộn mà dở khóc dở cười, Bạch Dực nhìn nét mặt tôi cũng thở dài mà nói: “Dọn dẹp đi ngủ thôi.”

Căn phòng này bị trang trí thành thế này thì vốn không có quỷ cũng thành ra có quỷ mất, nhất là chỗ cửa sổ hoàn toàn bị màu đỏ nhấn chìm… dưới ánh sáng đèn, nhìn cứ như điều kiện đầu tiên của một ngôi nhà bị ma ám ấy: huyết quang tai ương…

Bạch Dực chui từ toa lét ra, thở phù một cái, sau đó không khách khí tiến thẳng tới cái giường của tôi nằm xuống đắp chăn. Tôi nhìn mà có phần nghẹn lời, nhưng dù sao người ta cũng đã phải cúng cái giường của mình rồi, hơn nữa cũng hết cách, lỡ đâu con quái vật kia lao từ cửa sổ vào thì sao…? Nói chung, cứ sống qua được đêm nay đi rồi tính.

Hôm nay tôi bị cái thứ xuất quỷ nhập thần kia làm cho ám ảnh nên cũng không còn tâm trí đâu chơi game, đành phải tắt đi ngủ sớm, dù sao khi nhắm mắt ngủ thì không biết không hay gì nữa. Tôi dụi dụi mắt, tránh nhìn về phía cửa sổ mà tắt đèn luôn rồi vội vã trèo lên giường ngủ.

Bạch Dực dường như đã ngủ, nằm chiếm nửa bên giường ngoài, đưa lưng về phía ngoài, tôi đẩy đẩy anh ta: “Anh hai, nằm xích vào một chút đi, cho tôi nằm với chứ!”

“Cậu vào mé trong đi, thứ kia lúc kích động có khả năng sẽ xông tới tấn công, tới lúc đó tôi nằm ngoài còn che được một chút.” Bạch Dực không nhúc nhích, chỉ ậm ừ một câu rồi chỉ chỉ vào phía bên trong ổ chăn.

Tôi nghĩ lúc cần quả nhiên anh chàng này rất đáng tin, lời này nghe thật có nghĩa khí, liền cười cười chuẩn bị chui vào trong.

Bạch Dực từ trong chăn hừ nhẹ ra: “Cẩn thận một chút… Cậu nghĩ là mình nhẹ lắm đấy à?”

Tôi ngẩn người, lúc này mới nhận ra là mình đang đè nửa người lên người Bạch Dực, vì thế liền ác ý dùng toàn lực đè mạnh xuống một cái, sau đó mới trở mình lăn vào trong, đắp chăn trùm kín cằm. Hơi ấm từ ổ chăn nhanh chóng phủ kín toàn thân, cảm giác sợ hãi cũng nháy mắt tan gần hết, tôi hạnh phúc ưm một tiếng.

Bạch Dực mở to mắt nhìn tôi, cười nhẹ: “Trời, cậu xem tôi là cái đồ sưởi chăn đấy à?”

“Anh biết là tốt rồi.” Dém chặt bốn góc chăn quanh người, tôi dụi dụi mặt vào cái gối dưới đầu.

“Rồi rồi ~ ngoan ngoãn đi ngủ đi, đừng lăn qua lăn lại nữa.” Bạch Dực vươn tay đè đầu tôi xuống, tôi không tránh được, đành phải hừ hừ giương cờ trắng đầu hàng: “Mệt chết rồi, tôi ngủ là được chứ gì!”

Bên tai lại truyền tới mấy tiếng cười khẽ, bàn tay Bạch Dực rút về, trở mình mấy cái rồi chìm vào im lặng.

Hôm nay ánh trăng dường như rất đẹp, len qua rèm cửa sổ, soi lờ mờ gương mặt nằm nghiêng của Bạch Dực. Tôi mở to mắt nhìn anh ta cơ hồ không chớp mắt, phát hiện anh chàng này có hàng mi thật dài, mũi vừa thẳng vừa cao, lúc nhắm mắt ngủ gương mặt nhu hòa hơn ban ngày rất nhiều.

“Nhìn người ta đủ chưa?” Hai mắt Bạch Dực bất ngờ mở ra, làm tôi hốt hoảng phản xạ nhắm tịt mắt lại, tức giận đáp trả: “Đừng có mà tự hào, ai thèm nhìn anh!”

Bạch Dực bật cười nhạo, lại nhắm mắt lại: “Cậu chỉ là đang ghen tị thôi!”

“…” Tôi tức giận nghẹn cả lời, không biết nên đáp lại thế nào, đành giận dỗi quay lưng lại với anh ta. Bạch Dực cười nhẹ, cũng không nói gì nữa, cả căn phòng chìm lại vào yên tĩnh, chỉ còn nghe tiếng hít thở đều đều của tôi và Bạch Dực. Giường chúng tôi đều là giường đơn, hai người nằm cùng nhau đương nhiên là vừa hẹp vừa chật. Bạch Dực gần như phải dán sát vào người tôi, hơi thở ấm áp mơn man trên cổ làm tôi có hơi ngứa. Tôi ngại ngùng xoa xoa cổ, phát hiện mình chẳng buồn ngủ chút nào, mắt nhắm rồi lại phải từ từ mở ra, nhìn chằm chằm vào vách tường.

Mắt mở to, lỗ tai dường như nghe được mọi âm thanh xung quanh dù là nhỏ nhất, tôi lại bắt đầu hồi hộp, may mà bên cạnh còn có một người khác, tâm cũng yên ổn hơn.

Lúc này tôi bất chợt nghe được một tiếng gõ cửa rất nhỏ, vừa chậm vừa yếu ớt. Nếu không phải xung quanh quá mức yên lặng thì đã bỏ qua nó rồi.

Tôi cắn cắn môi định ngồi dậy ra cửa xem, chợt Bạch Dực vươn người đè tôi lại, lắc lắc đầu ý bảo không được xuống giường, tôi tưởng anh ta đang ngủ, bị hành động đột ngột của anh ta làm cho cả kinh khẽ la lên một tiếng, tuy không lớn nhưng cũng rất dễ nghe thấy, Bạch Dực nhíu nhíu mày, tiếng gõ cửa lập tức ngừng hẳn.

Tôi nghe Bạch Dực thấp giọng chửi thầm một câu, nằm bên trong tôi không thể nhìn thấy tình hình bên ngoài lúc này, nhưng rõ ràng có thể nghe thấy tiếng bước chân, lần này là từ cửa sổ tiến tới, không gian đen đặc như mực trong phút chốc chợt ngập một mùi đất bùn nồng nặc. Tôi cau mũi, Bạch Dực nằm bên cạnh tôi đang mở to cả hai mắt chằm chằm nhìn ra phía cửa sổ, tôi hiếu kỳ nhổm nửa người dậy định xem thứ kia vào nhà bằng cách nào.

Quả nhiên con quái vật nọ đã vào nhà, qua ánh sáng trăng yếu ớt, tôi có thể lờ mờ nhìn thấy hình dạng của nó, nó cao to một cách khác thường, cộng thêm cái mão cao lại càng thêm cổ quái, y phục rách nát hết, cả người tỏa ra một mùi tử khí nồng nặc. Cử động của nó rất rất chậm, dường như nửa người dưới bị cái gì đó rất nặng kéo lại.

Tôi ghé sát vào bên tai Bạch Dực thì thào: “Lão Bạch, thứ kia tới rồi, thực sự tới rồi…”

Thứ kia có vẻ rất thính, tôi chỉ thì thầm có vài tiếng mà nó dường như đã nghe thấy, lập tức nhìn về phía hai chúng tôi. Bạch Dực nhanh như chớp đè tôi xuống cuộn kín trong đống chăn, nhất thời chỉ nghe tiếng tim đập của cả hai chúng tôi, tôi vô thức hơi tránh người sang, nhưng bị Bạch Dực dùng cả hai tay ghì chặt lại, như thể muốn tôi đừng gây ra tiếng động. Về phương diện này anh ta là tay chuyên nghiệp, nên tôi cũng ngoan ngoãn không nhúc nhích nữa chỉ yên lặng xốc lên một phần chăn nhìn qua vai Bạch Dực, cùng đợi mọi sự xảy ra.

Qua hồi lâu, con quái vật kia lại bắt đầu động đậy. Có lẽ nó thực sự đói lắm nên cũng bất chấp chúng tôi hai người ở đây là đã ngủ hay còn thức, chỉ bị mùi bánh mè đen hấp dẫn nhìn sang bên giường Bạch Dực, sau đó không thèm nhìn xung quanh mà hấp tấp chộp lấy mớ đồ ăn trước mắt, nhưng do lực quá mạnh nên khi nó vừa chạm vào bong bóng thì bong bóng đã phát nổ, phát ra tiếng động vang dội.

Yêu quái dường như vừa giẫm phải lửa, vội vàng đưa tay định đánh vào thứ vừa phát ra tiếng động, nhưng nó càng đập thì tiếng động càng vang to hơn, cứ lốp bốp nổ vang. Yêu quái bưng hai lỗ tai định bỏ trốn, thì Bạch Dực đã mở đèn, nó thấy bốn phía đều là màu đỏ rực thì gào lên một tiếng ai oán, sau đó cơ thể dần dần mờ đi, sau cùng biến mất.

Tôi cũng vội vàng trèo xuống khỏi giường, cả căn phòng đã bị quái vật làm cho lộn xộn lên hết, khắp nơi đều là vụn bong bóng, còn có mấy cái bánh mè vứt vương vãi khắp nơi. Bạch Dực tặc tặc lưỡi, bước ra cửa treo một dây pháo, sau đó treo thêm một dây khác ngoài cửa sổ.

Tôi tò tò theo phía sau, không biết mọi chuyện đã xong chưa, con quái vật biến mất quá nhanh, như quỷ hút máu nhìn thấy tỏi vậy, làm tôi có hơi ngơ ngác. Nhưng Bạch Dực trông có vẻ rất thư thái, anh ta gói hết mớ bánh và chân giò hun khói còn nguyên lại treo lên bên cửa, rồi sau đó gõ gõ vào tường ba cái rồi đóng chặt cửa.

Tôi hỏi: “Xong rồi?”

Bạch Dực gật đầu: “Ừ, nó không dám quay lại nữa đâu. Vào nhà ngủ thôi.”

Tôi lo lắng nhìn ra ngoài cửa, nhưng chốc lát sau nghe thấy tiếng sột soạt trong phòng liền vội vàng vào nhà, thây Bạch Dực đã chiếm mất hai phần ba cái giường, liền không khách khí chui vào giường luôn, đắp chăn chuẩn bị ngủ.

Thế nhưng vẫn không ngủ nổi, tôi xốc chăn lên, đẩy đẩy Bạch Dực: “Lão Bạch, nó không quay lại nữa chứ?”

Bạch Dực rõ ràng đã rất buồn ngủ, chỉ ậm ờ đáp: “Không đâu, thực ra Tịch có thính lực cực tốt, tiếng động có nhỏ tới mức nào đi nữa nó cũng nghe thấy. Chính vì thế mà tiếng nổ vang đối với nó mới đáng sợ tới như vậy. Nó nhìn thấy hai phong pháo treo ngoài cửa sẽ tự hiểu là ở đây không hoan nghênh nó tới ăn chực nữa.”

Lúc này tôi mới yên tâm gật đầu, sau đó lập tức hỏi sang câu khác: “Vậy sao nó không mang hình dạng quái thú mà lại mặc quần áo đen, đội mão cao thế? Trông rất khác với niên thú được miêu tả trong truyền thuyết nha.”

Bạch Dực mở mắt thở dài: “Thực ra chúng ta không hề nhìn thấy nguyên hình của nó, thứ cậu nhìn thấy chỉ là một phản ánh của nó đối với riêng cậu mà thôi, nói cách khác đó là hình ảnh mà trong lòng cậu sợ nhất. Cho nên mới nói mọi người nhìn thấy quỷ đều khác nhau đó mà.”

Tôi lại gật đầu, định hỏi thêm câu khác, chợt Bạch Dực đã lên tiếng cắt ngang: “Thôi đừng có hỏi nhiều nữa mà lo đi ngủ đi! Cậu cho tôi là Doraemon cái gì cũng biết hay sao hả!”

Nói xong lập tức tắt đèn cuộn người ngủ. Nhưng trong đầu tôi, những thần thoại hòa cùng với những chuyện quái dị đã gặp lúc trước đang vần vụ lộn xộn trong đó, mãi không sao yên được. Cho đến khi nghe thấy tiếng thở đều đều của Bạch Dực, mí mắt của tôi mới dần dần trĩu xuống, sau đó, nhẹ nhàng trôi vào giấc mộng.

Niên thú – Hoàn

Chương 17: Ngôi nhà cổ (Thượng)

Thành phố nào cũng có lịch sử của riêng nó, mà phần lớn lịch sử của một địa phương nào đó đều khắc dấu rõ rệt nhất trong những ngôi nhà cổ. Đằng sau những cánh cửa cũ kỹ của chúng luôn luôn ẩn chứa những câu chuyện mà người ngoài không thể biết, thậm chí có chuyện còn mang tính chất quyết định đối với lịch sử, cho nên mọi người giữ lại những căn nhà cổ đó để làm viện bảo tàng hoặc làm nhà lưu niệm. Nói chung, ký ức của những căn nhà là một thứ tài sản quý giá mà con người cần giữ gìn. Ngược lại, cũng có những ký ức mà con người chỉ muốn quên đi, muốn vứt mất, chúng bị vĩnh viễn phong ấn bên trong những tòa lầu các, giữa những bức tường đổ nát xa xưa…

Đoạn văn bên trên trích từ tập giáo án của Bạch Dực. Anh chàng này lúc làm việc luôn luôn rất nghiêm túc, thích chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ từ trước, nên giáo án của anh ta dày hơn tôi rất nhiều. Thậm chí ở trong còn có nhiều hình ảnh lấy về từ internet, có thể gọi là văn hay tranh đẹp, không giống tôi…

Tôi lắc đầu đóng tập giáo án lại, không so sánh hai chúng tôi nữa, nếu cứ so sánh thế này thì tâm trạng cũng sẽ giống như chai bia, càng lắc càng tràn bọt mất…

Bạch Dực hôm nay không có nhà, tôi hăng hái hâm lại cơm nguội hôm qua ngồi trước máy vi tính vừa chơi game vừa ăn. Cái tật nghiện game này của tôi bị lão Bạch quở không biết bao nhiêu lần mà kể, nhưng tôi vẫn cứ nghe vào tai trái lại cho ra tai phải, chơi miệt mài tới mức suýt quên mất cái máy là tài sản của Bạch Dực.

Tôi gãi gãi đầu, vì ba mẹ không có ở bên cạnh canh chừng lại đang dịp nghỉ xuân nên trông tôi lúc này lôi thôi không thể tả, tóc đã dài tới mức muốn che khuất cả một bên mắt. Đang suy tính có nên đi cắt tóc hay không thì điện thoại reo, là Bạch Dực gọi về nói tôi ra ngoài giúp anh ta một tay. Vốn tôi định từ chối thẳng, nhưng nghe câu nói cuối cùng của Bạch Dực, ra ngoài có cơm tây ăn… thì lại vô thức đồng ý.

Tôi biết tôi có cái bệnh xấu này, thích tính toán chi li những lợi ích nhỏ nhặt. Nhưng đây đã là thiên tính, từ nhỏ đã có cái tính khư khư giữ của, tôi thở dài một tiếng, nghĩ, xem chừng đến chết cũng chỉ đủ tiêu chuẩn làm một tên dân thường hạng bét mà thôi.

Tôi vội vã ghi lại địa chỉ gặp mặt, lấy áo khoác trên giá khoác lên người rồi ra cửa. Bạch Dực chưa từng giới thiệu bạn bè hay người thân của anh ta cho tôi gặp mặt, hễ nhắc tới gia đình là anh ta lại lảng đi. Có đôi khi tôi cảm thấy anh ta như sống trong một thế giới hoàn toàn tách biệt, ngoại trừ công việc thì hình như điểm tiếp giáp duy nhất của anh ta với thế giới bên ngoài chỉ có mình tôi vậy.

Hiếm có khi anh ta lại chủ động hẹn tôi ra ngoài ăn cơm thế này, tôi tự nhiên có cảm giác hăng hái hẳn lên, chạy vội ra trạm xe buýt. Địa chỉ anh ta đưa cho tôi là một nơi hoàn toàn xa lạ, tuy không xa nhà lắm nhưng xuống tới nơi còn phải hỏi đường chán chê may ra mới tìm được.

Tôi xuống xe, phát hiện trước mặt là một con đường kiểu xưa thoai thoải, xung quanh đều là những ngôi nhà cũ cổ kính, hai bên đường, hai hàng cây xào xạc đổ bóng lên những nóc nhà lớn xây theo kiểu Âu châu. Ánh mặt trời trải thảm trên con đường yên tĩnh, cảm giác ấm áp lạ lùng, nhưng trong lòng tôi chỉ suy tính một việc: sao lão Bạch lại hẹn tôi tới đây, đây không phải là nơi chuyên dành cho các cặp tình nhân hẹn hò thôi hay sao…

Trong lòng có chút chần chừ, nói thế nào nhỉ, tuy lão Bạch là bạn tốt của tôi, nhưng lúc nào tôi cũng có cảm giác có chút lạ lùng nào đó. Giống như giữa chúng tôi còn mang theo một thứ cảm tình nào đó khó thể gọi tên. Nhưng khi suy nghĩ thật kỹ thì lại không biết là gì, Bạch Dực vẫn là Bạch Dực quen thuộc như cũ, tôi lắc lắc đầu, cố gắng bỏ những suy nghĩ vẩn vơ ra khỏi đầu, chăm chú dò biển số nhà. Rốt cuộc tìm được căn nhà cần tìm ở gần cuối đường, tôi phải tự khen mình có khiếu tìm nhà, trên đường không có lấy một bóng người để hỏi thăm mà vẫn mò ra được. Mà số nhà lại chính là 13B…

Lúc tìm được nhà tôi đã sớm đói đến mờ cả mắt, ngẩng đầu nhìn lên, đó là một căn nhà xưa không lớn lắm, cũng không có phong cách gì đặc biệt, nhưng thoạt nhìn là biết đây là một nhà hàng. Trước cửa nó có một bảng hiệu viết bằng tiếng Anh, phông chữ rất đẹp, trước đây do có học mỹ thuật tạo hình nên tôi biết chút ít về những kiểu chữ này, thoạt nhìn là đủ biết đây là một nhà hàng cao cấp.

Đẩy cửa lớn ra, mới phát hiện tuy nhìn từ ngoài chỉ thấy là một căn nhà bình thường, nhưng bên trong thì hoàn toàn khác hẳn. Cửa lớn là loại cửa gỗ nặng, lúc đẩy ra hơi có tiếng kẽo kẹt, nhưng cửa vừa mở ra thì có ngay một cô gái phục vụ ăn mặc cực kỳ khả ái ra đón tiếp. Cô gái có vẻ mặt rất dịu dàng, giọng nói cũng rất êm tai. Tôi nhìn xung quanh một chút, trời đất, thực sự quá sức sang trọng! Nhìn căn nhà từ bên trong cao hơn hẳn bên ngoài, vừa vào đã nhìn thấy một vách tường bằng kính lưu ly chạm phù điêu ngọc nổi, trên trần nhà treo đèn thủy tinh, phong cách trang trí đẫm vẻ xa hoa của giới thượng lưu Thượng Hải xưa. Ở giữa phòng là một cái cầu thang cuốn, nhìn có vẻ hơi khó đi, nhưng có nó điểm xuyết càng tôn lên vẻ sang trọng lộng lẫy kiểu Paris cho căn biệt thự này. Có cảm giác như vừa bước vào gian phòng vũ hội lộng lẫy của con tàu Titanic vậy, những khung cửa sổ xung quanh được khéo léo che phủ phân nửa bằng bộ rèm cửa màu kem buông hờ, phân nửa còn lại đủ nhìn thấy vườn cây xanh rợp bóng mát bên ngoài.

Tôi nhìn muốn hoa cả mắt, cuối cùng ánh mắt như đóng đinh vào bộ đồ ăn bằng thủy tinh trắng muốt và chén rượu cao cổ phản chiếu ánh sáng tinh tế trên bàn. Cô nữ phục vụ ngọt ngào gọi khẽ một tiếng, tôi giật mình một cái, đỏ cả mặt lên, cúi đầu theo cô ta lên lầu.

Cầu thang làm bằng gỗ mộc lê sang quý, mặt trên trơn bóng như được đánh sáp, trên bậc cầu thang trải một tấm thảm dày, lúc bước chân lên không hề nghe tiếng. Tôi nuốt nuốt nước miếng, không ngờ lão Bạch lại mời tôi tới một nơi thế này, đột nhiên cảm thấy vô cùng thấp thỏm. Một cô gái phục vụ khác mặc âu phục màu hồng mang tôi tới một gian phòng kính, tôi lại càng thêm luống cuống, lẽ nào lão Bạch muốn đem tiền lương cả năm mời tôi đi ăn một bữa…? Lỡ như không đủ tiền, trên tin tức ngày mai sẽ có tin là hai thanh niên to gan ăn quịt ở một nhà hàng cao cấp mất…

Phục vụ viên khẽ gõ cửa, gọi một tiếng: “Quản lý Kỷ, An tiên sinh đã tới ạ.” Nói xong liền nghiêng người tránh sang một bên, gật đầu với tôi, ý nói có thể đi vào. Tôi bước vào nhìn sang, lập tức có cảm giác như vừa lọt vào hội bàn đào của Tây Vương Mẫu…

Xung quanh bàn ngồi ba người, Bạch Dực đang vẫy vẫy tay với tôi, ngồi đối diện với anh ta là một đôi nam nữ ăn mặc cực kỳ hiện đại. Người đàn ông cực đẹp trai, hơn nữa trông có vẻ rất có tiền, một thân tây trang thẳng băng, ngồi một cách ưu nhã; mà cô gái lại càng nổi bật, đẹp tới nỗi phải gọi là phong tình vạn chủng, nụ cười hàm tiếu vừa hé thì nhìn còn rạng rỡ tươi tắn hơn siêu sao quốc tế, thành thục, nội liễm lại cao nhã. Tôi đứng đờ người ra đó nhìn, lão Bạch thấy tôi đần mặt ra, liền rời ghế ngồi tới kéo tay tôi ngồi xuống, lúc hai bàn tay anh ta khẽ nhấn vai tôi ra hiệu ngồi xuống thì tôi mới thoát khỏi chấn động mà từ từ hoàn hồn.

Chúng tôi ngồi giữa sân thượng, trên bàn để một ít điểm tâm, hình như món chính vì đợi tôi nên còn chưa được dọn lên. Tôi hắng hắng giọng, hi vọng lúc mở lời sẽ không lắp bắp. Giữa lúc đang định mở miệng tự giới thiệu, chợt đại mỹ nhân đối diện tôi đã lên tiếng trước: “Em là nương tử của Tiểu Dực đúng không?”

Tôi không hề nói lắp, là vì tôi hoàn toàn không thốt nên lời nữa. Cái gì? Con mắt nào của chị nhìn tôi ra con gái? Mặt tôi thoáng chốc đỏ dừ lên, nhưng bởi vì chị ta là một cô gái, hơn nữa lại còn là một đại đại mỹ nhân nên tôi không thể nổi giận được.

Bạch Dực cười cười nói xen vào: “Chị Nguyệt Linh, nghe tin này ở đâu thế?”

Mỹ nhân nháy mắt, chân mày hơi nhướn lên mà trả lời: “Vân Vân nói cho chị biết chứ đâu, nói là để giúp cho nó mà Tiểu An không ngại nhận lời làm tân nương của cậu!”

Tôi rụt rè lên tiếng: “Xin đừng nói vậy, đó, đó chỉ là một nghi thức thôi!”

Lúc này chỉ số thông minh của tôi đã thoái hóa sắp thành 0, nói thừa, kết hôn cũng là một nghi thức vậy! Tôi cắn môi, chết tiệt, biết vậy thì đừng tới. Vốn tưởng chỉ tới ăn lẩu là cùng thôi chứ, ai ngờ lại đưa đầu vào một chỗ khó chịu như vậy.

Người đàn ông ngồi bên cạnh đại mỹ nhân nãy giờ vẫn không nói gì, chỉ mỉm cười bí hiểm, tôi vẫn không hiểu bọn họ gọi tôi tới làm cái gì? Xưa nay không có chuyện vô công thụ lộc, tôi không tin người ta chỉ muốn đãi chúng tôi một bữa cơm miễn phí như thế. Tôi liếc nhìn Bạch Dực, thấy anh ta vẫn rất tự tin, nên cũng không xen miệng vào nữa, cố gắng bày ra vẻ mặt thoải mái nhất.

Mỹ nữ cười cười rồi nói: “Được rồi, không chọc cậu em nữa, chị là Bạch Nguyệt Linh, là cô của Bạch Dực. Nhưng tuyệt đối đừng gọi chị là cô, chị chưa già đến thế, gọi chị là chị Nguyệt Linh được rồi.”

Tôi nhìn vị mỹ nhân trước mặt cầm lấy chén rượu, tao nhã nhấp môi, phỏng chừng chỉ vừa thấm ướt môi là lập tức quay sang ra hiệu bằng mắt với người đàn ông bên cạnh, anh ta lập tức xoa xoa cằm lên tiếng: “Tôi họ Kỷ, tên gọi là Kỷ Quân Hào, hôm nay mời hai vị tới là vì nghe Nguyệt Linh nói hai vị có thể giúp tôi một việc.”

Bạch Dực đang cúi mặt chăm chú ăn chợt ngẩng đầu lên, nhìn sang tôi một chút, sau đó thản nhiên hỏi: “Vậy Kỷ tiên sinh có gì phiền não?”

Kỷ Quân Hào nói: “Đây là một nhà hàng hoa viên do tôi tự đầu tư mở ra. Khi tôi mới sang Rotterdam du học, cái ý tưởng biến đổi một tòa nhà cổ xưa thành quán ăn hoặc nhà hàng là một ý tưởng đầu tư mới rất hữu hiệu. Vì thế sau khi về nước tôi mới mua lại tòa biệt thự này từ tay một người họ hàng xa, sau đó cải tạo nó thành nhà hàng hoa viên cao cấp như hiện nay.”

Anh ta dừng một chút như thể chờ cho chúng tôi phải lên tiếng trầm trồ khen ngợi mình, nhưng đáng tiếc tôi và Bạch Dực đều là loại người thực dụng lại thờ ơ, chỉ quan tâm tới câu chuyện chứ không thèm để ý gì đến anh ta cả; thấy ánh mắt ra hiệu tiếp tục của chúng tôi, anh ta rõ ràng có hơi thất vọng, nhưng lập tức điều chỉnh lại tâm tình mà tiếp tục: “Nơi này nhờ một tay tôi trang hoàng sửa sang lại, thay đổi phương thức quản lý giống như nước ngoài, mà có thể nói đã trở thành một nhà hàng cao cấp rất có tiếng…”

Bạch Nguyệt Linh nhanh chóng cắt ngang câu chuyện say sưa bất tận của anh chàng hãnh tiến nọ: “Quân Hào, nói vào chuyện chính thôi, mà có lẽ nên chờ ăn xong đi rồi nói, ai cũng đói rồi.”

Tôi ném cho Bạch Nguyệt Linh một cái nhìn cảm kích, chị chỉ cười cười. Nói thật, lúc này tôi đã đói sắp chết, chẳng còn sức đâu mà suy nghĩ nữa.

Kỷ Quân Hào có vẻ rất nghe lời Bạch Nguyệt Linh, lập tức dừng câu chuyện lại mà nhấn chuông gọi, phục vụ viên khả ái lúc nãy lập tức bước vào đẩy theo xe chất đồ ăn. Chúng tôi mỗi người một phần giống nhau, nhìn qua có vẻ không nhiều lắm, cũng không biết là món tên gì, chỉ thấy vài con tôm, một miếng bít tết lớn, mùi vị thì… tôi cầm dao nĩa cắt một miếng nhỏ bỏ vào miệng, đúng là rất ngon. Chất thịt non mềm, gia vị vừa ăn, hương liệu đầy đủ

Thế nhưng nếu nói là cao lương mỹ vị thì thật ra thịt bò muối mẹ tôi làm còn ngon hơn. Nhìn cái đĩa không có bao nhiêu, vậy mà lại rất nhiều, tôi ăn xong hết thì cũng cảm thấy no lưng lửng dạ rồi.

Tôi không thích thể loại tiệc này là vì áp lực nó mang lại, lúc ăn mọi người chỉ cúi đầu chăm chú ăn, chỉ sợ lễ nghi phạm sai lầm thì xấu hổ. Không giống cả đám kéo nhau vào quán lẩu, mọi người ăn to nói lớn, không câu nệ trên dưới. Hai bầu không khí như thể hai thế giới khác nhau.

Sau khi ăn xong, người phục vụ lại đưa lên rượu và món ngọt tráng miệng, lúc này bầu không khí mới hòa hoãn hơn một chút, Bạch Nguyệt Linh có vẻ thích nói chuyện hơn Bạch Dực, hơn nữa lại còn có gương mặt đẹp như ngọc, có thể cùng một mỹ nhân như thế ăn uống trò chuyện đúng là chuyện may mắn nhất đời.

Bạch Nguyệt Linh chợt mở miệng: “Được rồi Quân Hào, cậu kể tiếp chuyện đi, lần này nhớ nói vào việc chính thôi đấy.”

Kỷ Quân Hào gật đầu, không nói vòng vo nữa. Hóa ra ngôi nhà này vốn là tài sản của cô họ anh ta, anh ta dùng một căn biệt thự nhỏ cộng với 400.000 tiền mặt đổi lấy. Nói thật lòng, Kỷ Quân Hào rất có mắt nhìn phụ nữ, những cô phục vụ anh ta chọn tới đều khả ái xinh đẹp. Bọn họ cũng là một nhân tố quan trọng cho sự thành công của nhà hàng này. Vốn mọi chuyện đang xuôi chèo mát mái, đột nhiên dạo gần đây trong tòa nhà lại xảy ra khá nhiều chuyện kỳ lạ, có một số đồ vật tự nhiên thay đổi vị trí, còn có mấy cô phục vụ khăng khăng bảo là đã nhìn thấy ma. Thậm chí có một cô gái đang yên đang lành đột ngột té xuống cầu thang, sau đó còn nói có người ở phía sau lưng đẩy cô ta xuống, khiến rất nhiều cô gái khác hoang mang lo sợ. Có nhiều người bỏ việc, những người còn lưu lại chỉ là vì mức lương cao gấp ba lúc trước mà thôi.

Tất cả mọi người đều nói là tòa nhà có ma, nhưng Kỷ Quân Hào vốn là dân du học từ nước ngoài về, đâu có tin chuyện ma quỷ. Thế nhưng anh ta lại rất tin phong thủy, nói là nó có căn cứ khoa học. Vì vậy mà đâm tiến thối lưỡng nan, đúng lúc đó thì anh ta lại biết được cháu trai của Bạch Nguyệt Linh là cao thủ trong lĩnh vực này, mới mời chúng tôi tới xem giúp.

Cá nhân tôi thì thấy anh ta chỉ muốn mướn đại một thầy địa lý nào đó về xem qua loa sau đó tuyên bố mọi tin đồn đều là thất thiệt để anh ta có thể làm yên lòng các cô phục vụ, và không cần ra gấp ba tiền lương giữ chân họ mà thôi.

Tôi và Bạch Dực nhìn nhau, đều ngầm hiểu hết. Bạch Dực ho khan một tiếng, liếc nhìn Bạch Nguyệt Linh một cái, chị ta cũng mở to mắt nhìn lại, sau đó anh ta lên tiếng: “Kỷ tiên sinh, tôi cảm thấy phong thủy của chỗ này đúng là có chỗ không hợp, cửa lớn trang hoàng rất tốt, nhưng không biết anh có thấy không, ngoài cửa nhà có một gốc cây hòe, điều này là không tốt, cần phải dời nó đi. Còn nữa, mặt ngoài của nhà hàng có một mặt lát toàn gương, tuy nhìn có vẻ rất độc đáo, nhưng theo phong thủy học thì đây là một loại ‘quang sát’ không hề có lợi với chủ nhân của căn nhà.”

Vùng chân mày Kỷ Quân Hào nhăn nhúm lại với nhau, không cần phải là nhân tài quản lý cỡ như anh ta cũng biết, cây cối ngoài đường hiện nay là do Lâm Viên quản lý, người dân không được tùy ý chặt phá, nếu không sẽ bị phạt tiền, số tiền chắc chắn đủ để họ Kỷ phải khóc mếu. Chưa hết, mặt tường lát toàn gương dưới kia hẳn cũng đã tốn của anh ta không biết bao nhiêu mà kể, bây giờ mà bỏ đi thì chắc phải thổ huyết mất.

Kỷ Quân Hào bặm môi, suy nghĩ hồi lâu rồi mới nói: “Lẽ nào không còn cách nào khác ngoài chặt cây hay bỏ bức tường gương hay sao? Bạch tiên sinh, tôi và Nguyệt Linh vốn là bạn học cũ mà…”

Lúc này Bạch Nguyệt Linh cũng tiếp lời: “Phải đó Tiểu Dực, nghĩ thử cách khác xem, chỉ cần nằm trong phạm vi của Quân Hào chắc chắn cậu ta sẽ đáp ứng mà.”

Rốt cuộc tôi cũng đã hiểu Bạch Dực và Bạch Nguyệt Linh đang diễn vở kịch gì rồi, hoàn toàn là muốn xén của anh chàng tự phụ mà dốt nát này một khoản bự bự mà thôi. Tôi cũng không nói gì, dù sao hôm nay tôi tới cũng chỉ để ăn chực một bữa, cái khác không nên xen vào.

Bạch Dực nhìn ra ngoài cửa nói: “Vậy cũng được, để tôi và Tiểu An đi dạo xung quanh đây một vòng xem có cách gì hóa giải được hay không.”

Nghe thấy thế, lo toan trong lòng Kỷ Quân Hào dường như đã sụt đi hơn nửa, tôi thiếu chút nữa đã phì cười, nhưng để phối hợp với chiêu “Song kiếm hợp bích” của hai cô cháu nhà họ Bạch nên đành cố mím môi làm ra vẻ nghiêm túc.

Bạch Dực đánh mắt với tôi một cái, tôi gật đầu hiểu ý, lập tức đứng dậy. Bạch Dực cũng đứng dậy nói: “Vậy hai chúng tôi đi quanh đây nhìn một chút, hai vị cứ từ từ trò chuyện, chờ chúng tôi quay lại rồi thống nhất nên làm gì.”

Tuy Kỷ Quân Hào có hơi không an lòng, nhưng Bạch Nguyệt Linh rất nhanh trí kéo tay anh ta lại: “Bạn cũ, chúng ta lâu rồi không gặp mặt, cứ ở đây nói chuyện đi, có gì đã có Tiểu Dực lo rồi còn gì.”

Nói xong liền ngồi xuống thong thả uống cà phê. Tên Kỷ Quân Hào này tuyệt đối có tà niệm với Bạch Nguyệt Linh, vừa nghe tới đó thì mặt mày đã tươi hơn hớn như hoa ngồi lại.

Tôi theo Bạch Dực đi dạo khắp nhà hàng hoa viên rộng lớn này. Hiện giờ đã quá giờ cơm, trong nhà hàng chỉ còn ba bốn người khách ngồi lại uống cà phê, xem báo nước ngoài.

Bên hông phòng khách có một cánh cửa sổ thủy tinh lớn chạm đất, từ đó nhìn ra có thể thấy rõ vườn hoa bên ngoài. Ánh mặt trời nhàn nhạt chiếu qua, trong vườn hoa vẫn còn những loài cây cỏ thuộc về mùa thu, bị gió đông thổi nhè nhẹ mà run run, vừa có vẻ đáng yêu lại vừa kiên cường. Một luồng ánh sáng chan hòa xuyên thấu qua khung cửa kính chiếu rọi lên những bộ đồ ăn thủy tinh trong suốt bên trong, càng thêm chói mắt. Phải thừa nhận Kỷ Quân Hào rất biết cách trang trí cho nhà hàng. Khi nhìn ra vườn hoa, tôi vô tình phát hiện một ông lão, ông ta mặc áo bông màu xanh lam kiểu rất cũ, đầu đầy tóc bạc không được chải cẩn thận, dưới ánh mặt trời càng trắng bóng, giống như đang sống trong một thế giới hoàn toàn tách biệt với vẻ xa hoa ở bên trong này vậy. Ông lão rõ ràng cử động không được nhanh nhẹn lắm, ông ta tỉ mẩn tỉa từng cành cây, chốc chốc lại phải đứng thẳng ưỡn lưng, nghỉ ngơi một lúc rồi lại cúi xuống làm tiếp.

Tôi thở dài một tiếng: “Đời sống dạo này vất vả thật, ngay cả ông già bà cả còn phải ra làm việc thế kia.”

Bạch Dực cũng nhìn ông lão, sau đó quay lại nhìn tôi: “Cậu đúng là kính lão ghê nhỉ, nhưng đừng quên Tá Thọ bà nhé.”

Tôi lườm anh ta một cái, khóe mắt chợt lướt qua một thiếu niên mặc áo đỏ đứng bên cạnh ông lão, mỉm cười nhìn ông ta như nhìn một người bạn thân lâu năm. Cậu ta thực sự rất xinh đẹp, một vẻ đẹp thanh tú mỹ lệ đến mức không phân biệt được giới tính. Thiếu niên thấy tôi đang nhìn liền mỉm cười với tôi một cái. Tôi giật giật môi, đưa tay lên dụi mắt. Khi mở mắt ra nhìn lại lần nữa thì cậu ta đã biến mất, bên cạnh ông lão là một bụi Xá tử hoa[1] đỏ tươi như máu. Ông lão cười cười nhìn đóa hoa rực rỡ bên cạnh mình, sau đó thu thập dụng cụ đi về phía dãy phòng ở phía sau nhà hàng.

Tôi đang định nói cho Bạch Dực biết thì cô phục vụ dịu dàng ngọt ngào lúc nãy đã tiến tới gần chúng tôi, tôi thực sự có ấn tượng tốt với cô gái này, nên chủ động chào cô ta. Cô ta nhìn về phía phòng ăn lúc nãy để xác định Kỷ Quân Hào vẫn còn ở nguyên trong phòng, rồi mới mở miệng: “Nếu hai vị muốn biết sự thực thì xin đi theo tôi!”

Tôi nhìn sang Bạch Dực, thấy anh ta gật đầu liền theo cô gái này đi, cô ta đi đến một góc dưới chân cầu thang liền ngừng lại, sắc mặt không vui tươi như lúc nãy mà nghiêm túc hẳn lên, nói với chúng tôi: “Hai vị tiên sinh, xin đừng nghe quản lý Kỷ nói, ở đây thực sự có chuyện ma quái xảy ra đó…”

Cô gái nhìn xung quanh một vòng, dường như có vẻ rất sợ, sau đó nhìn thật kỹ hai chúng tôi rồi mới tiếp lời: “Có nhiều chuyện quản lý Kỷ không chịu nói thật, nhưng ở đây coi như cũng không có người ngoài…”

Bạch Dực gật đầu: “Nếu vậy thì cô nói thật cho bọn tôi biết đi, ở đây rốt cuộc xảy ra chuyện gì?”

Cô gái nắm chặt lấy mép váy, có vẻ như muốn cố trấn tĩnh lại: “Tất cả các cô gái ở đây đều rất sợ, nói thật cho dù quản lý Kỷ có tăng lương gấp 30 lần cho chúng tôi chúng tôi cũng không muốn làm đâu, nhưng giấy chứng minh nhân dân của chúng tôi lại đang bị ông ta giữ, chúng tôi không còn cách nào khác… Tôi cũng chỉ mới tới làm ít lâu, nghe nói chỗ này làm ăn rất được, Kỷ quản lý lại quen biết rộng, muốn phát triển khu nhà cổ xung quanh đây thành một khu nghỉ dưỡng nhỏ. Ông ta nghe nói đã xin được giấy phép rồi, vì thế có ý muốn thay đổi toàn bộ nhân viên, đuổi việc một số người không cần thiết, sau đó tuyển dụng một nhóm người có khả năng.”

Trong lòng tôi thầm nghĩ, hóa ra tên họ Kỷ này cũng rất có dã tâm, muốn biến chỗ này thành một khu nghỉ dưỡng tư nhân, xem ra tâm địa cũng không tầm thường. Cô gái nhìn thấy chúng tôi cũng có vẻ ác cảm với Kỷ Quân Hào nên yên tâm tiếp lời: “Có rất nhiều người trong số chúng tôi đã lục tục bị quản lý sa thải rồi, số còn lại cũng rất sợ một ngày nào đó không giữ được công việc nữa, thực ra người quản lý Kỷ muốn đuổi đi nhất chinh là bác Tôn…”

Tôi xen vào hỏi: “Có phải là bác làm vườn ngoài kia không?”

Cô phục vụ gật đầu: “Đúng, chính là bác ấy, bác ấy ở đây từ lâu lắm rồi, nghe nói cha ông của bác ấy cũng là người làm vườn ở đây kể từ những đời chủ trước cơ, vì bác ấy tuổi già neo đơn, không vợ không con nên bà cô của quản lý trước khi bán chỗ này đã từng yêu cầu quản lý Kỷ giữ lại bác Tôn. Quản lý Kỷ trước đây vì muốn chóng mua được căn nhà này nên đồng ý, nhưng hiện nay nhà hàng càng lúc càng cao cấp lên, ông ta không muốn một ông già tuổi cao sức yếu như bác Tôn làm vườn cho mình nữa…”

Chúng tôi nghe thế lại càng thêm khinh bỉ họ Kỷ kia hơn, cô phục vụ cũng không khách khí nói cho hết: “Vì thế quản lý Kỷ thường hay tìm cách làm khó dễ bác Tôn, ví dụ như giữa mùa đông mà bắt bác ấy cầm vòi nước tưới cây, cho bác ấy thêm nhiều việc rất nặng nhọc, ý ông ta là muốn bác ấy nản mà bỏ việc. Nhưng không ngờ bác ấy kiên trì đến như thế, nhìn thấy bác ấy vất vả chúng tôi cũng cảm thấy hết sức thương tâm. Sau đó bác Tôn làm việc nặng nhọc quá nên bị xơ gan, mấy lần té xỉu trong bụi cỏ. Lần nào cũng là chúng tôi phải cõng bác ấy vào. Chuyện lạ cũng bắt đầu xảy ra, ví dụ như có mấy người khách đang ăn cơm thì bảo là nhìn thấy trên cầu thang có bóng người, còn nói trên cầu thang có tiếng bước chân rất to, nhưng ai cũng biết cầu thang có lót thảm cách âm, căn bản không thể nghe thấy tiếng chân được. Còn có người nghe thấy tiếng khóc và tiếng trẻ con cười. Vì thế mọi người bắt đầu hoảng sợ.”

Tôi suy nghĩ một chút rồi hỏi: “Nghe thế thì thực lòng mà nói là chuyện cũng không nghiêm trọng lắm, sao tất cả mọi người lại kinh hoàng cứ như bị quỷ triền thân hết cả thế?”

Cô phục vụ lắc đầu trả lời: “Mọi chuyện chưa dừng lại ở đó, chuyện quái dị còn ở phía sau nữa…”

Bất chợt từ đâu bỗng ùa tới một trận gió lạnh buốt, trên cầu thang chợt lăn xuống một thứ gì đó, chúng ta giật nảy người, nhìn lại thì hóa ra là một chiếc hài của con nít màu đỏ tươi, kiểu dáng rất xưa, trên mũi hài còn đính một bông hoa vải to màu đỏ. Cô phục vụ đột nhiên bật khóc, quay đầu vội vàng bỏ chạy, chúng tôi ngăn không kịp.

Bạch Dực ngồi xổm xuống nhặt chiếc hài lên, tôi cũng nhìn sang, chiếc hài nhìn còn mới tinh, nhưng thời này hẳn không còn sản xuất loại hài xưa này nữa, sao có thể có một chiếc lăn từ trên cầu thang xuống được nhỉ? Tôi nhìn lên lầu, chợt phát hiện trong góc lan can, chỗ tối nhất có một đôi mắt đang nhìn chúng tôi chằm chằm, tôi vừa định bước về phía nó thì nó đã biến mất. Tôi không khỏi nhớ tới thiếu niên mặc áo đỏ trong vườn hoa ban nãy, nhưng chiếc hài này thoạt nhìn là biết của con nít…

Tôi nói với Bạch Dực: “Lão Bạch, có lẽ ở đây đúng là có chút tà.”

Anh ta nhìn chằm chằm chiếc hài không nói gì, sau đó lại ngẩng đầu nhìn lên lầu, cuối cùng quay lại nhìn tôi nói: “Chúng ta đi thăm bác Tôn kia một cái.”

[1] Hay còn có những cái tên khác là Mạn châu sa, Bỉ ngạn hoa, tiếng Nhật gọi là Higanbana, còn gọi là lan nhện, màu đỏ, gọi là hoa Bỉ ngạn (bờ bên kia) là vì nó thường được coi là hoa mọc ở bờ địa ngục. Cũng có loại Higanbana màu trắng và tím, nhưng màu đỏ của nó vẫn là màu nổi tiếng nhất.

Chương 18: Ngôi nhà cổ (Hạ)

Vừa bước vào gian phòng nhỏ, chúng tôi đã ngạc nhiên trợn tròn mắt. Trong phòng chỉ có một bóng đèn tròn 20 watt lung lay trên trần, cái nệm giường nhàu nhĩ đã nát tới mức không thể nát hơn được nữa, vách tường chỉ dùng báo cũ dán đỡ cho bớt lạnh, đây đó loang lổ nấm mốc, từ ngoài đã loáng thoáng nghe được một mùi ẩm mốc gay gay mũi. Không có bàn, chỉ có hai cái ghế đẩu hợp lại thành một cái bàn tạm thời, bên trên đặt vài cái bánh bao không khô khốc và một ít dưa muối, cộng với vài chai thoạt nhìn là biết là thuốc. Tôi hoàn toàn không dám tưởng tượng một ông lão bằng này tuổi đầu mà lại có thể sống trong hoàn cảnh khốn khó như vậy.

Bác Tôn vừa làm xong việc, đang nằm nghỉ trên giường, vì khí trời quá lạnh nên trong tay bác ta đang cầm một cái ly thủy tinh đựng nước nóng, thấy hai người lạ tiến vào, nét mặt bác ta thoáng vẻ ngạc nhiên. Chúng tôi không biết phải bắt đầu thế nào, ngay cả Bạch Dực cũng có vẻ hơi lúng túng. Chúng tôi vốn cho rằng những chuyện quái dị gần đây là do bác ta tạo ra để khỏi phải đi khỏi đây, nhưng vừa nhìn thấy hoàn cảnh sống của bác ta thì tôi đã hoàn toàn đồng tình với ông lão có cuộc sống cơ hàn này.

Ông lão từ từ ngồi dậy, phủ ra ngoài một cái áo bông màu xanh bạc phếch, nhìn chúng tôi một chút rồi hỏi: “Hai vị là khách mà quản lý Kỷ mời tới có phải không? Sao lại tìm tới chỗ tôi?”

Bạch Dực khách khí đáp: “Chúng tôi tới là muốn hỏi bác chút chuyện trong quá khứ của ngôi nhà này.”

Ông lão cho chúng tôi hai cái ghế con rồi nói: “Ai, tôi biết các vị cũng nghi ngờ là tôi làm. Nói thật tôi cũng không ưa gì họ Kỷ, nhưng chưa tới mức đem quỷ quái ra dọa người khác.”

Tôi gật đầu: “Chúng cháu biết, chúng cháu chỉ muốn hỏi bác chút chuyện từ ngày xưa ở tòa nhà ngày, vì bác sống ở đây lâu nhất, có nhiều chuyện chắc chỉ có bác mới biết?”

Bác Tôn nhìn chúng tôi hồi lâu, sau đó ngẩng đầu lên nhìn bóng cây ngô đồng um tùm ngoài sân, nói bằng một giọng đầy hoài niệm: “Tôi đã sống ở căn nhà này cả đời, cha tôi cũng trông nom căn nhà này cả đời. Năm xưa căn nhà này là do một phú thương người Tô Châu xây dựng nên. Ngài ấy từng đi du học, là nhóm du học sinh Trung Quốc đầu tiên ở nước ngoài, khi trở về ngài ấy kinh doanh sắt thép, từ từ trở thành một nhà đại phú hào thời bấy giờ. Họ Tôn chúng tôi theo ngài ấy từ Tô Châu đến đây. Nghe nói lão gia có ơn với nhà họ Tôn chúng tôi, nên cha tôi quyết định dòng họ chúng tôi sẽ theo ngài ấy cả đời. Cha từng nói với tôi, họ Tôn chúng tôi phải thay chủ nhân canh giữ căn nhà này cả đời, để báo đáp ân tình.”

Trong lòng tôi cảm động, bác Tôn đúng là một người biết ân biết nghĩa hiếm có. Bác ta nhìn tôi một chút rồi chợt mỉm cười: “Phải rồi, trông cậu giống tiểu thiếu gia lắm, đặc biệt là khuôn mặt và môi.”

Tôi chỉ chỉ vào mình rồi nhìn sang Bạch Dực, anh ta vẫn không nói gì, chỉ chăm chú nghe bác Tôn nói tiếp. Bác ta mỉm cười: “Đúng đúng, nhà này tổng cộng có ba thiếu gia, trong đó cậu nhỏ nhất sức khỏe rất kém, lúc đó tôi cũng chỉ là một đứa nhỏ, mà cậu ấy còn nhỏ hơn tôi mấy tuổi. Cho nên tôi coi như là bạn của cậu ấy vậy. Cậu ấy là một đứa trẻ rất nghịch ngợm, nhưng lại thích cùng tôi chơi đùa, tiếc là không được bao lâu, lúc tiểu thiếu gia được 12 tuổi thì bị một trận phong hàn, không sống được hết mùa đông năm đó đã vội đi…”

Ông lão trầm mặc hồi lâu mới tiếp tục nốt câu chuyện: “Lúc mai táng cậu ấy, chính tôi là người tay y phục cho cậu… Nhớ những ngày cuối cùng, tôi còn nhận lời cậu ấy tới mùa xuân năm sau sẽ dẫn cậu ấy ra gốc ngô đồng phía sau nhà xem tổ chim én… cho cậu ấy nhìn chim én con… nhưng cậu ấy lại không sống được tới lúc đó…”

Căn phòng tối nhờ nhờ, bên ngoài ánh mặt trời tươi tắn, nhưng không chiếu vào nổi căn phòng nhỏ bé này, chỉ len vào được một vài tia sáng yếu ớt chiếu lên cái ly thủy tinh trên tay ông lão, lấp lánh sáng.

Tôi nhìn sang Bạch Dực, thấy anh ta nhìn ông lão chằm chằm hồi lâu rồi mới mở miệng: “Bác Tôn, cảm ơn bác đã giúp đỡ. Bác yên tâm, chúng tôi sẽ tìm cách giúp bác yên ổn ở lại ngôi nhà này.”

Bác ta vừa cười vừa nói: “Cảm ơn các vị, nhưng già này cũng chẳng sống được bao lâu nữa mà kể.”

Tôi nghe thấy thế, tự nhiên cảm thấy cực kỳ khó chịu. Lúc này tôi đã có thể xác định, mấy trò quỷ quái tuyệt đối không phải do bác ta làm ra. Bác ta đã ở đây cả đời, nhất định sẽ không muốn nó bị bỏ hoang trước mắt mình.

Sau khi rời khỏi căn phòng nhỏ, cả hai chúng tôi đều trở nên trầm mặc, tâm tình đều không tốt lắm, đặc biệt càng thêm có ác cảm với tên gian thương Kỷ Quân Hào này, không ngờ vừa nhắc Tào Tháo thì Tào Tháo đã tới. Kỷ Quân Hào giống như thái giám theo sau quý phi mà lếch thếch theo sau đuôi Bạch Nguyệt Linh. Nhìn thấy anh ta, tự nhiên tôi cảm thấy lạnh cả người, hắn còn ở đây tiêu dao khoái hoạt tán tỉnh mỹ nhân, trong khi ông lão đáng thương ngoài kia thì đã bị hắn làm cho bị xơ gan sắp chết!

Kỷ Quân Hào không biết chúng tôi đã gặp bác Tôn, bèn cười ha ha tiến tới, nhưng tôi cảm thấy mọi sự thân thiết của hắn đối với chúng tôi hoàn toàn là vì muốn lấy lòng Bạch Nguyệt Linh mà thôi. Hắn cười hỏi: “Hai vị xem xét thấy thế nào?”

Tôi không muốn nhìn thấy mặt tên ngụy quân tử này nên quay đầu ra ngoài cửa sổ không thèm nhìn, Bạch Dực liếc nhìn hắn, lạnh lùng nói: “Kỷ tiên sinh, tôi vốn tưởng là chỉ có chút vấn đề về phong thủy thôi, nhưng hiện tại xem ra quả thực có chút kỳ quái.” Anh ta cố tình nói rất to, làm mấy vị khách ngồi gần đó đều nghe thấy, Kỷ Quân Hào vội vàng hạ giọng nói: “Bạch tiên sinh, nói chuyện ở đây không tiện, ta vào phòng làm việc nói tiếp đi!”

Gian phòng làm việc của họ Kỷ sang trọng một cách bất thường, nhưng càng lộ vẻ nhà giàu mới nổi quê kệch của hắn lên, chỗ nào cũng nạm vàng khảm ngọc, giống như nhà của lão trọc phú Grandet trong tác phẩm của Honoré de Balzac vậy. Hắn mời chúng tôi ngồi xuống một cái ghế sô pha rộng lót da rồi nhấc điện thoại sai phục vụ mang cà phê vào.

Hiển nhiên câu nói lúc nãy của Bạch Dực đã làm hắn có phần khó chịu, hắn bóp bóp trán sau đó mở miệng nói: “Bạch tiên sinh, An tiên sinh, tôi là một người có bằng đại học, thực sự không tin tưởng mấy cái chuyện thần ma quỷ quái này. Thế nhưng những tin đồn này gây ra ảnh hưởng quá xấu đối với việc làm ăn của nhà hàng.”

Hắn đan hai tay vào nhau, sau đó nói một cách quả quyết: “Tuy tôi không tin có quỷ, nhưng có thể nói nhất định có người đang muốn phá rối. Đương nhiên tôi không muốn nghi ngờ chính nhân công của mình, nhưng nếu phong thủy không có vấn đề gì thì tôi nghĩ tôi có quyền nghi ngờ rằng có công nhân nào đó đang muốn tiến hành những hành vi trả thù có ác ý đối với tôi.”

Tôi thực sự phải khinh bỉ tên khốn này, hắn gọi hai chúng tôi tới hóa ra chỉ để làm màu, nếu chúng tôi nói là do phong thủy, vậy hắn sẽ sửa vài ba chi tiết trong nhà hàng để yên chuyện, nếu không phải, hắn sẽ bảo là do ai đó làm để có cớ đuổi việc những người mang tư tưởng chống đối, mà không cần nói ra cũng biết chính là bác Tôn, quả thực là vô liêm sỉ. Tôi nhìn sang Bạch Nguyệt Linh, thấy trong mắt chị cũng là sự khinh bỉ rõ rệt. Bạch Dực thở dài rồi nói: “Kỷ tiên sinh, nếu anh nghĩ chỉ cần đuổi một người thấp cổ bé họng khỏi nhà hàng là xong hết mọi chuyện thì xin lỗi phải nói thực, tôi nghĩ anh sẽ gặp rắc rối to đấy; tôi biết anh cực kỳ coi trọng nhà hàng này, vậy tôi muốn giúp anh một tay tiêu trừ phiền phức này, nhưng anh phải hứa với tôi một chuyện, đó là để cho bác làm vườn họ Tôn có thể ở lại đây đến hết đời.”

Kỷ Quân Hào cười nhạt: “Hai người quả nhiên đã gặp ông già đó. Được thôi, nếu cháu trai của Bạch Nguyệt Linh đã lên tiếng yêu cầu thì tôi có thể nhận lời. Tất cả là vì tôi nể Nguyệt Linh thôi.” Nói xong nhìn sang Bạch Nguyệt Linh cười cầu tài, chị ta liền đảo mắt, hừ lạnh một tiếng: “Gì mà nể mặt tôi chứ, là do cậu cũng sợ chết đi ấy, sợ sự tình ầm ĩ ra thì không làm sao mà bưng bít nổi, đúng không?”

Bị Bạch Nguyệt Linh vạch trần, Kỷ Quân Hào xấu hổ cười cười, quay lại hỏi chúng tôi: “Vậy hai người cần bao nhiêu người nữa? Hay có thêm yêu cầu gì không?”

Bạch Dực lạnh lùng đáp: “Chỉ cần cho chúng tôi ở lại đây một đêm, cộng thêm một ít gạo nếp và muối diêm là đủ.”

Kỷ Quân Hào nhanh nhẹn gật đầu: “Được, tôi lập tức chuẩn bị phòng cho hai vị, thứ hai vị cần tôi sẽ liên hệ với nhà bếp chuẩn bị.”

Bạch Dực cắt ngang: “Khỏi cần phòng, chúng tôi ở trong đại sảnh là đủ.”

Kỷ Quân Hào hoài nghi nhìn chúng tôi, lại nhìn sang Bạch Nguyệt Linh, thấy chị ta không thèm nhìn mình nửa cái, liền suy nghĩ hồi lâu rồi gật đầu: “Được, lúc đó trong nhà hàng cũng không còn ai. Nhưng tôi chỉ có thể cho hai vị một cơ hội thôi, tôi sẽ không thể để nhà hàng của mình cứ ma ma quỷ quỷ thế này được nữa.”

Tôi nhịn không được cũng lạnh lùng xen vào: “Kỷ tiên sinh yên tâm đi. Chỉ cần anh giữ lời để cho bác Tôn có một chỗ ở thì không ai ngăn cản anh làm giàu hết!”

Kỷ Quân Hào gật đầu. Chúng tôi căn bản không muốn ở cùng một nơi với hắn ta, nên đứng lên về trước. Kỷ Quân Hào muốn giữ Bạch Nguyệt Linh lại chơi, nhưng bị chị ta cười nhạt từ chối: “Bạn cũ, chúng ta cần nói gì thì đã nói hết rồi, nhiều năm không gặp lại, cậu quả nhiên đã thay đổi rất nhiều.”

Chúng tôi rời khỏi gian phòng của Kỷ Quân Hào, vừa bước ra khỏi đó tôi đã nhịn không được mắng to: “Đúng là một tên gian thương khốn kiếp mà!”

Bạch Nguyệt Linh cũng xấu hổ nói: “Xin lỗi, tôi chỉ định gọi hai cậu tới chơi, nhân tiện kiếm một mớ hời, ai ngờ lại thành thế này… Ai, bởi người ta mới nói, tiền đi liền với bạc mà.”

Tôi bình tĩnh lại quay sang Bạch Nguyệt Linh nói: “Chị Nguyệt Linh, cái này không phải tại chị, tên khốn này chắc ăn nhiều đậu hũ quá nên não cũng nhũn ra như đậu hũ rồi, không biết tư duy giống người nữa đâu!”

Bạch Nguyệt Linh phá lên cười: “Cháu dâu đúng là hài hước nha, mắng người mà còn có thể mắng một cách thú vị như vậy.”

Tôi mệt mỏi xua tay: “Chị Nguyệt Linh, đừng gọi em là cháu dâu được không? Được rồi lão Bạch, anh xác định đây không phải do con người làm?”

Bạch Dực dường như đang suy tư cái gì đó, nãy giờ không hề nghe chúng tôi đùa bỡn qua lại. Lúc này nghe tôi hỏi trực tiếp mới như hoàn hồn mà đáp lời: “Ừ, có khả năng lớn là không phải con người. Dù sao nếu không giải quyết tốt chuyện này thì ngoài Kỷ Quân Hào ra, những người phải chịu rắc rối lớn nhất chính là bác Tôn và các cô phục vụ.”

Tôi gật đầu, không thể chỉ vì tên khốn Kỷ Quân Hào này mà mặc kệ những người khác, lúc này cũng chỉ có nước giúp hắn một lần.

Bạch Dực nói tiếp: “Chị Nguyệt Linh về trước đi, ở đây đã có em và nương tử nhà em ở lại giải quyết rồi. Chí ít thì bây giờ chị cũng biết chân tướng họ Kỷ rồi đấy.”

Bạch Nguyệt Linh mỉm cười vẫy tay tạm biệt. Chờ chị ta đi khuất, tôi lập tức cho Bạch Dực một cú vào đầu. Tên này đúng là không sợ thiên hạ đại loạn mà, nương tử cái đầu anh!

Chúng tôi không muốn ở đây chờ tới tối, chủ yếu là vì không muốn nhìn mặt Kỷ Quân Hào. Tôi và Bạch Dực đi dạo xung quanh rất lâu, thậm chí bữa tối cũng là ăn ở ngoài, vì thực sự không muốn cùng tên gian thương kia ngồi ăn một bàn. Cho dù hắn có cho chúng tôi ăn thịt rồng đi nữa thì nếu phải nhìn cái bản mặt hắn chắc tôi đến ói mất. Thật không biết phải làm sao, đi lòng vòng ngoài đường hứng gió lạnh một hồi, cuối cùng tôi quyết định mua một cái bình giữ nhiệt ở một cửa hàng tạp hóa nhỏ ven đường định tặng cho bác Tôn, dù sao trời lạnh thế này nên uống nước nóng mới có lợi cho sức khỏe của bác ấy.

Chờ trời tối sụp xuống, chúng tôi mới quay lại nhà hàng. Đón chúng tôi ở cửa chính là bác Tôn, hóa ra tên hỗn đản Kỷ Quân Hào tuy mở miệng ra là nói không tin có quỷ, nhưng trời vừa tối xuống là đã vội vàng bỏ chạy khỏi nhà hàng mà về nhà riêng rồi. Vì thế trong nhà hàng cũng rất lộn xộn, chủ vừa chạy về nhà là mọi người cũng xôn xao ồn ào đòi về hết. Không ai muốn ở lại nhà hàng bị ma ám này vào buổi tối cả, cho nên cả ngôi nhà rộng mênh mông rốt cuộc chỉ có một mình bác Tôn ở lại trông coi.

Bác ta vẫn mặc cái áo bông màu lam bạc màu mở cửa cho chúng tôi. Nhà hàng sang trọng lộng lẫy ban ngày lúc này đã chìm hẳn vào bóng tối, u ám thâm trầm.

Bác Tôn bật đèn pin cầm tay, nhẹ nhàng nói: “Hai cậu vào mau đi, không thôi lạnh.”

Chúng tôi gật đầu, bước vào phòng mới nhận thấy trong này thực sự rất âm u, máy điều hòa đã tắt nên nhiệt độ trong nhà lúc này thấp hơn hẳn ban ngày, thực sự không ấm áp hơn ngoài đường tí nào, những tấm khăn trải bàn màu trắng bị gió thổi bay phấp phới như cuộn sóng, rèm cửa sổ cũng lay động, trong phòng không để đèn, chỉ có ánh trăng lạnh như nước tràn vào từ những cánh cửa sổ chưa buông rèm, nên nhìn vào chỉ thấy những đường nét mơ hồ của gian phòng, còn lại toàn là bóng tối.

Bác Tôn đi trước dẫn đường, bác ta đã ở đây cả đời, nên không cần đèn đuốc cũng có thể đi lại bình thường như ban ngày. Cái đèn pin trên tay bác ta chỉ là vì chúng tôi mà thôi, cầu thang tối đen được soi rọi một khoảng tròn bằng thứ ánh sáng trắng vàng lù mù của cái đèn pin, phần còn lại chìm thành những đường viền tối sẫm. Chúng tôi cẩn thận leo từng bước một, trong nhà hàng cực kỳ tĩnh lặng, ngoại trừ những tàng cây bị gió thổi xào xạc ngoài vườn thì cũng chỉ có tiếng bước chân rất khẽ của ba người mà thôi. Ngôi nhà này có lịch sử quá lâu đời, nên cho dù có sửa sang trang hoàng thế nào vẫn không giấu nổi một thứ hơi thở u ám nặng nề đặc trưng, thứ hơi thở đã bị dồn nén lại qua không biết bao nhiêu là thăng trầm của thời cuộc.

Bác Tôn đi rất từ tốn, vừa đi vừa nói về tòa nhà cổ này, hình như bác ta rất có cảm tình với tôi, không biết có phải vì trông tôi giống tiểu thiếu gia trong câu chuyện ban chiều của bác ta hay không? Bác chỉ vào phía cuối dãy lầu hai, chỗ gần cánh cửa sổ thủy tinh sát đất mà nói: “Chỗ đó trước là gian phòng cũ của tiểu thiếu gia, cơ thể cậu ấy yếu nên lão gia cho cậu ấy ở trong gian phòng quay về hướng nam, ấm áp một chút, mới có lợi cho sức khỏe của cậu ấy.”

Nhìn về phía ánh đèn pin chiếu tới, chỗ đó đã không còn là một căn phòng nữa mà là một sảnh ăn lớn, ngồi đó ăn có thể nhìn thấy khu vườn phía dưới và toàn bộ quang cảnh xung quanh nhờ cái cửa sổ kính lớn. Tôi đột nhiên cảm thấy sự hoài niệm và tiếc nuối của bác Tôn, bác ta đã ở đây gần cả đời người, vậy mà phải chứng kiến nó thay đổi thành xa lạ thế này, tuy nói là ở đây để lưu lại ký ức cho ngôi nhà, nhưng thực ra, mọi ký ức đều đã bị khóa chặt bên trong những bức tường cả rồi.

Đột nhiên nhớ tới thiếu niên mặc đồ đỏ sáng nay, tôi vội hỏi bác ta: “Bác Tôn, bác có biết một thiếu niên rất đẹp, hôm nay mặc toàn đồ màu đỏ không?”

Bác Tôn lắc đầu: “Không biết, những người ở đây đều lần lượt bỏ đi cả rồi, chỉ còn lại một mình tôi thôi.” Trong mắt bác ta tràn ngập cô đơn lẫn nhớ nhung, tôi quay lại nhìn Bạch Dực, nhưng anh ta đang cúi đầu suy nghĩ gì đó, không đáp lại tôi.

Ông lão đưa chúng tôi tới một gian phòng rõ ràng cũng là phòng nghỉ cho nhân viên, trên bàn bày hai cái túi to, bên trong đựng nếp và muối diêm đúng theo yêu cầu của Bạch Dực. Trên bàn còn đặt hai cái đèn pin, có lẽ Kỷ Quân Hào thực ra khá trông đợi vào kết quả hành động lần này.

Ông lão nhìn quanh gian phòng một chút rồi lo âu nói: “Hai vị, thực sự trong nhà này không có quỷ quái gì cả đâu. Tôi ở đây cả đời mà chưa từng thấy bao giờ…”

Nhưng bác ta còn chưa nói dứt lời thì một cái bóng màu đỏ đã nhanh như chớp lướt qua cửa phòng. Cả tôi lẫn Bạch Dực đều nhìn thấy, nhưng bác Tôn đưa lưng về phía cửa nên không để ý thấy, bác ta thấy chúng tôi đồng loạt biến sắc liền quay lại sau lưng nhìn, nhưng ngoại trừ một mảnh tối đen thì không còn thấy gì nữa, bên ngoài gió thổi ù ù, trong phòng, ba chúng tôi thở nặng nề.

Bạch Dực gật mạnh đầu, nhanh chóng trộn gạo nếp và muối diêm lại thành một đống, sau đó chia làm hai phần, một phần đưa cho tôi, một phần tự mang theo. Rồi quay lại nói với chúng tôi: “Bác Tôn, bác ở yên trong phòng này chờ, Tiểu An, chúng ta chia nhau ra đi tìm con quỷ kia!”

Tôi gật đầu, nhưng sau đó lại lập tức lắc đầu quầy quậy: “Không… tôi không đi một mình đâu… tôi đâu có biết bắt quỷ?!”

Bạch Dực cười xòa: “Chỉ cần thấy nó thì lập tức ném gạo nếp muối diêm vào nó, nó sẽ chạy không thoát nữa.”

Tôi nuốt nuốt nước miếng, cuối cùng đành gật đầu: “Được, chia nhau ra hành động, bác Tôn, bác chờ ở đây nhé, đừng đi lung tung mà nguy hiểm!”

Nói xong tôi và Bạch Dực cầm đèn pin chia làm hai hướng.

Lúc chỉ còn một mình trong căn nhà tối đen mới bắt đầu cảm thấy trống ngực đánh lô tô, tôi nhìn thấy mấy thứ khác thường, cho nên so với người thường càng cảm thấy sợ hơn, tôi húng hắng giọng, bàn tay vô thức siết chặt thêm túi gạo nếp trộn muối. Bất giác ngẩng đầu lên nhìn cái chụp đèn thủy tinh trên trần nhà, cái chụp đèn lộng lẫy xa hoa ban chiều lúc này không được mở lên, nhưng vẫn có ánh trăng rọi vào phản chiếu thành muôn vàn tia sáng li ti huyền ảo, càng thêm đáng sợ. Khi vừa bước ngay dưới cái chụp đèn, chợt… tôi nhìn thấy trên chụp đèn một chiếc hài trẻ con màu đỏ khẽ đung đưa.

Da đầu tôi tê dại đi, nhớ tới chiếc hài rơi xuống cầu thang lúc chiều. Chiếc hài này đung đưa một lúc, phía trên nó bị bóng tối phủ kín không biết là ai hay cái gì, đột nhiên nó dừng lại, lẳng lặng lơ lửng phía dưới chụp đèn.

Tôi sợ đến mức không dám chớp mắt, chỉ e mình mà chớp mắt thì con quỷ sẽ lập tức bỏ chạy. Tôi từ từ vòng qua cầu thang cuốn bước lên lầu, hi vọng có thể nhìn thấy tận mắt thứ quái dị kia là cái gì.

Ngay khi sắp tới nơi, bất chợt cái hài đỏ biến mất. Tôi nhất thời sốt ruột vội vàng nhìn quanh quất xung quanh cái chụp đèn thủy tinh, đột nhiên… một gương mặt tái nhợt thình lình hiện ra ngay trước mặt tôi!

Bởi chuyện xảy ra quá đột ngột nên tôi thực sự không kịp phản ứng, chỉ có kinh hoàng cùng hãi sợ. Gương mặt trắng bệch tới mức tái xanh đó nheo nheo mắt cười với tôi. Hai chân tôi mềm nhũn, ngã vật ra sàn. Lập tức gương mặt nọ biến mất, một cái bóng màu đỏ tươi nháng lên một cái lao vội xuống cầu thang. Tôi sợ tới mức ngưng thở, một hồi lâu sau khi tỉnh lại thì mặt đã muốn tím bầm đi vì thiếu dưỡng khí. Tôi thở phì phì nặng nhọc, xác định lại: đó là gương  mặt của một cô bé gái, tái nhợt như một cái mặt nạ, mái tóc dài bím thành hai bím hai bên.

Tôi lấy lại bình tĩnh, lập tức chạy xuống cầu thang định đuổi theo con quỷ nhỏ kia. Nhưng nó chạy rất nhanh, khi tôi xuống tới nơi thì cái bóng đỏ đã biến mất đâu không rõ. Tôi tìm khắp nơi, thậm chí chui vào gầm bàn kiểm tra vẫn không thấy. Bất tri bất giác mà đuổi tới ngoài cửa lớn, đối diện với mặt tường ốp kính lưu ly thật lớn kia. Đột nhiên tôi nhìn thấy trong gương, bên cạnh mình là một tiểu cô nương đứng đó, mặc sườn xám màu đỏ, tóc bím hai bên, sắc mặt tái nhợt như tờ giấy, tôi hốt hoảng nhìn sang bên cạnh, nhưng không có ai, chỉ mơ hồ nghe vẳng từ trong nhà truyền tới tiếng cười của con nít, nghe tới đâu tóc gáy phải dựng đứng tới đó. Đột nhiên, cái bóng màu đỏ lại xuất hiện ở chỗ cánh cửa sổ thủy tinh chạm đất trên lầu hai.

Tôi tự  nhiên có cảm giác bị con nít đùa bỡn, con quỷ con này rõ ràng là đang chơi trốn tìm với tôi mà! Lúc này ngoài cửa sổ nổi lên một cơn gió to, lá cây soàn soạt nổi sóng, cái bóng đỏ vẫn đứng im trên lầu hai không động đậy.

Tôi cắn chặt môi chạy hộc tốc lên lầu hai, trong lòng nghĩ, cứ thế này chắc là đau tim mà chết mất. Nhưng khi lên tới nơi thì thấy rõ hoàn toàn không phải là cô bé con lúc nãy mà là thiếu niên xinh đẹp mặc áo đỏ trông thấy lúc chiều. Ban ngày nhìn xa không trông rõ lắm, đến lúc này được nhìn kỹ mới thấy, cậu ta quả thực xinh đẹp phi thường, nhưng giữa đôi chân mày lại hiện lên nhàn nhạt bi thương. Gương mặt tuy trắng nhợt, nhưng lại không khiến người ta cảm thấy sợ hãi mà chỉ thấy tràn đầy thanh lệ. Cậu ta vẫn nhìn tôi cười  nhẹ, xung quanh âm u sương mù, không khí dường như được bao phủ bởi một mùi hương rất nhẹ rất nhã.

Cảm thấy thiếu niên không có ý định tấn công, tôi cũng thở phào một hơi, sau đó từ từ tới gần cậu ta, cậu ta vẫn không tránh né. Nhưng càng tới gần tôi càng cảm thấy xung quanh lạnh buốt đi, đường nhìn cũng bị sương mù che phủ, thiếu niên khẽ vươn tay ra, tôi phát hiện bàn tay cậu ta rất gầy, làn da trong suốt. Tôi ngơ ngác đưa tay cầm lấy tay cậu ta, đột nhiên bên tai vang lên tiếng ho khan, nhìn lại thì thấy con quỷ nhỏ lúc nãy đã đứng bên cạnh cánh cửa thủy tinh, một thân đỏ chói, nó bình thản nhìn tôi, một bàn chân đi hài đỏ tươi, chân còn lại để trần, bàn chân nhỏ bé tái nhợt.

Tôi vén vén tay áo, từng bước từng bước tiến về phía cửa sổ, cẩn thận đề phòng nó lại bỏ trốn, nhưng khi tôi bước tới gần mới phát hiện ra, con tiểu quỷ đứng ở đằng sau tấm gương, làm sao mà bắt cho nổi hả trời!

Tiểu quỷ cười cười ác độc nhìn tôi, nụ cười cực kỳ quỷ dị, sau đó, từ hai khóe mắt của nó từ từ chảy xuống huyết lệ đỏ tươi, nó đang khóc. Bên trong cánh cửa sổ thủy tinh phản chiếu một quang cảnh xa lạ, đó là một căn phòng, bày biện xung quanh rất cũ kỹ, nhưng có thể nhận thấy rất cao quý. Ở trên chiếc giường chính giữa phòng là một đứa bé đang vùi mình trong đống chăn dày, mặt mày cực kỳ thanh tú, nhưng rất yếu ớt, nó chốc chốc lại che miệng ho kịch liệt, thậm chí ho ra máu. Đứa bé có vẻ rất cô độc, cả gian phòng to lớn trống không chỉ có mình nó cô đơn nằm trên giường, lúc này cửa phòng chợt mở ra, một thiếu niên bước vào, mặc trường sam kiểu cũ, đứa bé nhìn thấy thiếu niên đột nhiên mỉm cười tươi, có thể thấy nó rất hài lòng. Thiếu niên sờ sờ đầu đứa bé, lau mặt và hai tay cho nó, thấy chút máu còn đọng lại trong lòng bàn tay thì nhíu mày, nhưng sau đó lại lập tức mỉm cười: “Tiểu thiếu gia, chờ cậu hết bệnh rồi, chúng ta ra sân sau xem tổ chim én được không?”

Đôi mắt đen như nhung của đứa bé tỏa ra ánh sáng mong chờ lẫn khát vọng mãnh liệt, ra sức gật đầu: “Quý Sinh nhớ đấy nhé, chờ đầu xuân năm sau, ngươi nhất định phải mang ta leo cây xem tổ chim én đấy nhé!”

Thiếu niên mỉm cười dịu dàng vuốt má đứa bé: “Vâng, chắc chắn đấy, chờ cơ thể tiểu thiếu gia khỏe lại rồi chúng ta cùng đi xem chim én con.”

Những giọt sương đọng trên lan can ngoài cửa sổ đóng lại thành băng, một giọt nước đá đọng lại trên mép cánh hoa Xá tử trông như một giọt nước mắt.

Tôi những muốn nhìn cho rõ hơn, nhưng những cảnh tượng bên trong cánh cửa thủy tinh càng lúc càng nhòe đi, thiếu niên và đứa bé đều lần lượt biến mất. Tôi tự nhiên cực kỳ khao khát muốn biết chuyện gì xảy ra tiếp theo, nên vô thức bước về phía cánh cửa, nhưng lập tức lại bị ai đó kéo mạnh vào. Tôi chợt hoàn hồn nhìn lại, thì ra là Bạch Dực, anh ta đang hốt hoảng nhìn tôi. Tôi ngẩn người hồi lâu mới phát hiện ra, mình đang đứng ngay rìa cầu thang cuốn, chẳng có cánh cửa thủy tinh nào trước mặt cả, nếu bước tới trước một bước thì lập tức sẽ ngã lăn xuống cầu thang ngay.

Tôi sợ tới mức cả người đầy mồ hôi lạnh, thối lui một bước cuộn người trong lòng Bạch Dực run rẩy không ngừng. Bạch Dực thấy thế nhíu mày, dùng tay vỗ vỗ sau lưng tôi trấn an, nhưng sắc mặt vẫn cực kỳ nghiêm trọng, có lẽ là do bị chọc giận: “Con quỷ nhỏ này còn ở trong nhà, nó thoát không được. Hôm nay nhất định phải bắt cho được nó!”

Tôi từ từ phục hồi lại, chỉ ngơ ngơ gật đầu, Bạch Dực đột ngột vỗ vỗ hai bên má tôi mỉm cười: “Vui vẻ lên nào. Đi, tôi biết nó ở đâu rồi!”

Nói xong liền đỡ tôi đến dãy phòng dành cho nhân viên ở lầu hai, tôi vừa sợ tới bủn rủn cả người, nhưng đầu óc vẫn còn tỉnh táo, nên tự nhiên nhớ ra rằng dạo này cần Bạch Dực đỡ hơi nhiều, đột nhiên mặt lại đỏ bừng lên.

Bất quá không cho tôi có thời gian suy tính vì sao lại đỏ mặt, Bạch Dực đã bôn bả mang tôi về phòng bác Tôn đang đợi, ông lão nhìn thấy vẻ mặt sợ hãi đến xám ngoét lại của tôi cũng thất kinh, lập tức hỏi có chuyện gì xảy ra?

Trong nháy mắt chợt tôi phát hiện phía sau lưng bác ta hiện lên một cái bóng màu đỏ, trong lòng tôi hoang mang tự hỏi lần này là ai? Là đứa bé gái hay là thiếu niên? Tôi nghi hoặc nhìn sang Bạch Dực, chỉ thấy anh ta gật đầu: “Đúng, ngôi nhà này thật là ‘vui nhộn’ khác thường đấy, cả yêu lẫn quỷ đều tập họp.”

Bạch Dực vừa dứt lời đã lập tức ném gạo nếp về phía lưng của bác Tôn, chỉ nghe thấy một tiếng trẻ con thét lên chói tai, ông lão lập tức quay lại, phát hiện sau lưng mình là con bé mặc sườn xám đỏ tươi đang ngồi sụp đó.

Tôi vừa nhìn thấy nó thì đã phát cáu, gạt tay Bạch Dực bước ra chỉ thẳng vào con quỷ con mà mắng: “Hay cho đồ tiểu quỷ nhà mi, dám đùa giỡn với ta!” Nhưng khi định tới gần nó thì đột nhiên quanh đó chợt nổi lên sương mù dày đặc kèm theo một mùi hương u nhã lạnh lùng. Bạch Dực chỉ lạnh lùng cười cười: “Chỉ có nhiêu đó đạo hạnh mà cũng dám ra tay trước mặt ta?”

Giữa làn sương mù thơm ngát chợt truyền tới những tiếng khóc rấm rứt, trước mặt chúng tôi xuất hiện hai người, Bạch Dực lập tức lôi trong túi ra một cái túi vải gấm, tôi nhận ra nó là thứ lần trước đối phó với đám Thủy Mị, liền nhanh chóng chặn tay anh ta lại: “Từ từ, đừng vội vàng chưa nói gì đã tiêu diệt người ta.” Không hiểu sao, tôi có cảm giác hai người này không phải là ác quỷ, tất cả những hành động của bọn họ đều khiến người ta có cảm giác bi thương.

Bạch Dực dở khóc dở cười nói: “Tôi đâu có ý định tiêu diệt bọn họ, chỉ muốn xua tan mớ sương mù này thôi.”

Giữa đám sương trắng có thể nhìn thấy bóng thiếu niên áo đỏ kia, tôi gật đầu với cậu ta: “Có gì thì cứ nói đi, chúng ta không muốn làm hại tới các ngươi.”

Sương mù dần dần tan hết, dưới ánh trăng trong trẻo là hai bóng người, tuy trông có vẻ hơi nhợt nhạt nhưng rõ ràng đang đứng trước mặt chúng tôi. Bạch Dực liếc nhìn hai người bọn họ, vẫn không nói gì nhưng cái túi gấm trên tay đã biến mất.

Bác Tôn bị chuyện đang xảy ra trước mặt làm cho choáng váng, nhưng lúc này đã dần dần bình tĩnh lại, từ đôi mắt mờ đục tự nhiên chảy ra hai dòng nước mắt, bác ta run run hỏi con quỷ con: “…Tiểu thiếu gia?”

Tôi ngạc nhiên nhìn lại, khóe miệng giật giật, sau đó hỏi Bạch Dực: “Rõ ràng là một con nhóc mà? Sao lại là tiểu thiếu gia?”

“Đây là một tập tục cổ xưa ở một số địa phương Giang Nam, cho những đứa bé trai có sức khỏe kém ăn mặc như con gái, để cho dễ nuôi.” Bạch Dực nhún vai đáp thản nhiên, nhưng mắt vẫn trừng trừng nhìn tiểu quỷ.

Bác Tôn run run đến gần tiểu quỷ kia, nhưng nó có vẻ sợ gạo nếp trên tay Bạch Dực nên nhanh chóng lẩn ra trốn vào sau lưng thiếu niên áo đỏ, lén nhìn Bạch Dực một cái rồi lại phụng phịu cúi đầu xuống, trên chân chỉ có một chiếc hài, trông có vẻ rất đáng thương. Tôi không đành lòng hỏi nhẹ nhàng: “Chính là ngươi phá rối trong nhà sao?”

Con quỷ con cắn chặt môi gật đầu, lại chảy huyết lệ, làm cho khuôn mặt tái nhợt trông càng thêm quỷ dị. Nhưng ông lão dường như hoàn toàn không sợ nó, chậm rãi đến bên cạnh tôi mà kích động nhìn nó.

“Quả nhiên ngươi không hề rời khỏi căn phòng của bác Tôn, nhưng vì sao lại làm ra nhiều chuyện như vậy?” Bạch Dực đẩy đẩy kính mắt, trong mắt ẩn ẩn tia sáng lạnh.

Đứa bé lui sát lại gần tôi, một hồi lâu mới khiếp sợ lên tiếng, giọng nói thô sắc như tiếng nhị hồ bị lạc âm: “Ai bảo… ai bảo bọn chúng muốn đuổi Quý Sinh đi, bọn chúng đã phá nát phòng của ta bây giờ còn muốn đuổi Quý Sinh đi…” Nói xong lại nhìn về phía thiếu niên áo đỏ: “Ta nhờ ca ca giúp ta trừng phạt đám người dám bắt nạt Quý Sinh… Ca ca đã ở đây từ lâu lắm rồi, anh ấy nhìn ta sinh ra, cũng nhìn ta chết đi…”

Bác Tôn run rẩy mím mím môi, nước mắt trào ra, thì thầm gọi: “Tiểu thiếu gia…”

“Thật sao?” Bạch Dực hừ lạnh một tiếng: “Thế đẩy người ngã xuống cầu thang là thế nào?”

Gương mặt bé nhỏ của con quỷ tự nhiên trông có vẻ cực kỳ phẫn nộ, nhưng bị Bạch Dực nhìn chằm chằm thì đành dịu lại, chỉ nhỏ giọng đáp: “Bởi vì cô ta dám mắng Quý Sinh là lão già đáng chết, lại còn đánh Quý Sinh nên ta mới muốn thay Quý Sinh trả đũa thôi…”

Thiếu niên áo đỏ không nói gì, chỉ chằm chằm nhìn tôi, trong mắt tràn ngập lo lắng cùng van xin, tôi cũng gật gật đầu, nhanh tay gạt hết mớ gạo nếp trong tay Bạch Dực xuống đất. Bạch Dực ngẩn người nhìn hai bàn tay trống không, lại nhìn sang tôi lắc lắc đầu, nhưng tôi chỉ đảo mắt ngó lơ coi như không thấy.

Bác Tôn rốt cuộc bật khóc nức nở: “Tiểu thiếu gia, cậu cần gì phải làm vậy! Cần gì…”

Đứa bé con nghiêng đầu nhìn bác Tôn mỉm cười cực kỳ ngây thơ: “Bởi vì Quý Sinh luôn bảo vệ cho ta và ngôi nhà này, cho nên ta cũng muốn bảo vệ Quý Sinh chứ sao.”

Bàn tay thô ráp của bác Tôn run run chạm tới gương mặt trong suốt của đứa bé, nó vẫn bình thản mỉm cười. Tôi đột nhiên cảm thấy hình ảnh ông lão và đứa bé lúc này dường như đã hòa làm một với bóng hình thiếu niên và đứa bé trước khung kính, nhân sinh phảng phất như đã quay lại lúc ban đầu, đứa bé thinh lặng mà cô độc nọ, thiếu niên đơn thuần chỉ muốn bảo vệ người quan trọng nhất đối với mình nọ, tất cả, tất cả đều quay lại lúc ban đầu, đồng thời, cũng là kết thúc…

Bác Tôn chùi nước mắt, vỗ vỗ đầu đứa bé: “Tiểu thiếu gia, cậu đừng làm ầm ĩ nữa, nơi này đã không còn là nhà chúng ta nữa rồi. Cả tôi nữa, cũng sẽ rất nhanh… rất nhanh gặp lại cậu thôi…”

Đứa bé cười híp mắt nhìn cực kỳ ngoan ngoãn: “Được, ta không nghịch nữa, Quý Sinh, mùa xuân năm sau lại mang ta đi xem chim én nhỏ được không?”

Bác Tôn dịu dàng mỉm cười: “Được, Quý Sinh hứa với cậu.”

Thiếu niên áo đỏ chậm rãi thả vai đứa bé ra, bóng dáng của cậu ta càng lúc càng mờ nhạt, cuối cùng, chỉ vương lại trên sàn một cánh Xá tử hoa, bị cơn gió lạnh ban đêm thổi qua, cuốn bay ra ngoài cửa sổ, biến mất vào bóng đêm của vườn hoa bên dưới.

Bạch Dực đứng bên cạnh cũng vỗ vỗ vai tôi ra hiệu, tôi nhìn anh ta rồi cùng anh ta rời khỏi gian phòng, lúc quay người đi, thấy ánh trăng dịu dàng che phủ hai bóng người bên trong, cơ thể của đứa bé trong suốt sáng bừng. Hai người bọn họ đang mỉm cười nhìn nhau.

Lúc ra cửa, tôi nhìn lại vườn hoa một lần nữa. Dưới ánh trăng, thiếu niên áo đỏ vẫn thinh lặng đứng đó, lẳng lặng nhìn lên cánh cửa sổ phòng nhân viên, bên khóe mắt cậu ta âm thầm rơi một giọt lệ trong suốt. Cậu ta quay sang nhìn chúng tôi, mấp máy môi, rõ ràng là đang nói cảm ơn.

Tôi cảm thấy mắt mình cũng hơi ươn ướt, bèn khụt khịt mũi, Bạch Dực đi bên cạnh kín đáo nhét vào tay tôi một cái khăn tay, nhưng tôi đẩy tay anh ta ra, quật cường nói: “Tôi không có khóc, chỉ là gió lạnh quá nên khóe mắt hơi rát mà thôi.”

Anh ta thấp giọng ừ một tiếng, sau đó đột ngột ôm chầm lấy tôi từ phía sau. Tôi không kịp phản ứng, thoáng chốc ngây người ra, rồi khẽ đẩy đẩy anh ta: “Lão Bạch, anh làm gì vậy?”

Anh ta im lặng một lúc, sau đó cười khẽ một tiếng: “Có lạnh không?”

Chết tiệt, cái này… cái này không phải quá rõ rồi sao… lạnh cứng cả người rồi.

Tôi gật đầu, đưa tay xoa xoa cổ, tên này… đừng có nói sát vào cổ người ta như vậy, ngứa lắm có biết không…

Anh ta không chịu buông, chỉ ôm tôi chặt thêm: “Lúc về nhớ gọi điện thoại cho nhà đi.”

“Sao vậy?” Tôi ngạc nhiên quay lại nhìn anh ta.

Anh ta làm ra vẻ thần bí cười hì hì với tôi: “Mẹ cậu làm thịt bò muối còn ngon hơn đồ ăn ở nhà hàng này làm, nói mẹ cậu làm một ít gởi tới đi. Tự dưng muốn ăn quá.”

Hơi thở ấm áp chỉ cách gang tấc, tôi ngại ngùng nghiêng nghiêng đầu tránh đi, nhưng vẫn không quên thật thà gật đầu. Bạch Dực liếc nhìn tôi một cái, sau đó ôn hòa cười, buông lỏng tay. Tôi dường như còn nghe thấy anh ta thì thầm câu gì đó… nhưng vừa lúc một cơn gió thổi qua, đã cuốn câu nói ấy đi mất.

Tôi nghi hoặc nhìn anh ta, nhưng anh ta chỉ thản nhiên vỗ vỗ vai tôi như không có chuyện gì, giục tôi về mau. Tôi tự nghĩ có lẽ mình nghe lầm, nên cũng khỏa chặt áo khoác bước vội theo sau Bạch Dực về nhà.

Một tuần sau, mọi người đều ở trong nhà mừng năm mới, ngoài cửa treo một phong pháo dài, một mảnh xác pháo màu đỏ vương vãi trên đất. Tôi vẫn lo lắng cho bác Tôn nên không nói với Bạch Dực mà một mình tự tìm tới ngôi nhà cổ kia. Vẫn là con đường nhỏ với hàng cây phủ bóng lòa xòa trên những nếp nhà cổ kính, vẫn là bảng hiệu cũ, tôi bước qua cửa, cô phục vụ kia nhận ra tôi liền mỉm cười bước tới chào. Tôi cũng cười chào hỏi cô, sau đó hỏi bác Tôn đang ở đâu rồi.

Trong đôi mắt to tròn của cô gái thoáng chốc ướt nước: “Bác Tôn không chờ được tới năm mới… Hóa ra bệnh của bác ấy không phải là xơ gan mà là ung thư gan giai đoạn cuối…”

Tôi vừa nghe thế liền cúi đầu chào tạm biệt cô phục vụ rồi bước vào thăm vườn hoa. Vườn hoa thiếu bóng dáng của ông lão, trông có vẻ hơi buồn bã, lá cây vẫn rào rạt rung động như muốn kể những câu chuyện xưa của ngôi nhà này. Tôi lặng lẽ ngắm một bụi hoa Xá tử hoa, bông hoa đã có dấu hiệu héo rũ, trên cánh hoa đỏ tươi bắt đầu lấm chấm những dấu đen của sự tàn úa. Tôi ngồi xổm xuống, lấy tay mơn nhẹ cánh hoa, nhẹ nhàng nói: “Cảm ơn ngươi vẫn theo bảo vệ bọn họ, bao nhiêu năm nay khổ cực cho ngươi rồi.”

Đóa hoa hơi gợn lên theo nhịp gió, tỏa ra một mùi hương u nhã.

Tôi ngồi ngắm hoa hồi lâu, quay đầu lại thì thấy Bạch Dực đã đứng đó chờ từ lúc nào. Tôi chùi nước mắt đọng trên má, ngẩng đầu nói với anh ta: “Chúng ta về nhà thôi.”

Bạch Dực khẽ mỉm cười không nói gì, chỉ theo tôi quay người đi, chúng tôi sóng vai đi giữa con đường nhỏ, dưới tán che xào xạc của hàng cây bên đường, chầm chậm rời khỏi ngôi biệt thự cổ chất chứa biết bao câu chuyện xa xưa.

Ngôi nhà cổ – Hoàn

Chương 19: Tương Tây thi cổ (Thượng)

Người chết rồi coi như là chấm dứt, nhưng không ai cam lòng cứ thế biến mất không để lại chút tăm tích nào trên đời này, vì thế người sống bắt đầu vì người chết lo toan mọi hậu sự, đi đưa đám thành hàng dài dằng dặc, rải tiền âm phủ đầy đường phủ kín cả quan tài. Có nhiều người khi sống rất vất vả, nhưng chết rồi còn được xe Cadillac mui kín có rèm che đưa tới nơi an nghỉ cuối cùng, bất quá, mục đích chỉ là đi hỏa táng mà thôi.

Nửa đêm hôm ấy, tôi nhận được một cuộc điện thoại từ một số lạ, lòng tôi băn khoăn không biết là ai, nửa đêm nửa hôm không ngủ còn gọi điện thoại cho người ta thế này. Tiếp điện thoại lên, bên kia lập tức truyền tới một chuỗi tạp âm xè xè chói tai, tiếng người nghèn nghẹt bên đầu kia điện thoại cũng trở nên kỳ lạ hơn. Tôi a lô a lô mấy lần như lính liên lạc chờ điện báo, mãi một lúc sau tín hiệu mới khá hơn một chút, cuối cùng cũng nghe được bên kia nói gì. Người bên đầu dây kia là một người đàn ông, giọng nói khàn khàn nghèn nghẹt như bị cái gì chặn ngang cổ, ngôn ngữ toàn là phương ngữ vùng Lô Khê[1]. Tôi trước đây có một người bạn học người miền này, nên mới nghe đại khái hiểu là người kia muốn tìm Bạch Dực. Tôi gác ống nghe lên vai, quay lại gọi Bạch Dực đang ngủ dậy: “Lão Bạch dậy mau, có người tìm này.”

Bạch Dực đi ngủ rất sớm, lúc này bị tôi hét gọi dậy bèn giật mình một cái, sau đó lồm cồm ngồi dậy tìm kính mắt đeo lên. Lúc nhận điện thoại còn đưa tay vỗ ót tôi một cái: “Nửa đêm nửa hôm đừng có gọi tên người ta to như vậy, quỷ nghe thấy bây giờ! Đầu tôi bị cậu gọi mà nhức bưng bưng rồi đây này!” Nói xong lập tức đổi giọng ôn tồn nói với bên kia: “A lô, xin hỏi ai đấy?”

Tôi lè lưỡi làm mặt quỷ, sau đó cũng nán lại bên cạnh nghe, tiếng tạp âm trong điện thoại vẫn rất to, nghe như tiếng TV khi mất sóng vậy. Chỉ thấy Bạch Dực nghe một lúc, sau đó nghiêm túc gật đầu đáp: “Biết rồi, sẽ tới nhanh.”

Bạch Dực cúp điện thoại, vuốt vuốt tóc, khoác thêm một cái áo khoác rồi ngồi lên giường trầm tư. Đúng lúc này, đồng hồ trên tường chỉ 12 giờ đêm, ngoài đường vang lên tiếng pháo lẻ tẻ của những người ham vui thức khuya. Anh ta nhìn chằm chằm vào cái đồng hồ treo tường hồi lâu, sau đó quay lại hỏi tôi: “Cậu có ý kiến gì với người chết không?”

Tôi gãi đầu nhìn anh ta ngạc nhiên, thầm nghĩ: ‘Mới đầu năm đầu tháng đừng ăn nói xui xẻo chứ’, nhưng vẫn trả lời: “Không có ý kiến gì đặc biệt, người chết chẳng qua là người từng sống thôi chứ gì. Nhưng nghĩa tử là nghĩa tận, cho nên người ta mới sinh ra cấm kị với người đã chết.”

Anh ta nghiêm trang gật đầu: “Tốt, tư tưởng không tệ, có muốn theo tôi đến Tương Tây một chuyến không?”

Tôi ngạc nhiên hỏi: “Đến đó làm gì? Xem cản thi à?”

Anh ta lắc đầu trả lời: “Không phải, là lễ giỗ 10 năm của ông cố ngoại tôi, người nhà đều phải về, cho nên nếu cậu không có gì kiêng kị thì theo tôi về đó một chuyến.”

Tôi nghiêng đầu suy nghĩ hồi lâu, đúng là khoảng thời gian này rất nhàm chán, kỳ nghỉ năm mới cũng sắp hết. Vì không về nhà ăn mừng năm mới nên ba mẹ có gửi tiền tới, nhưng vẫn chưa dùng vào việc gì. Huống chi nghe nói ở Tương Tây phong cảnh rất đẹp, nhất là vùng Miêu Cương, mang theo văn hóa thần bí kỳ lạ. Nghĩ vậy tôi gật đầu vỗ vai lão Bạch nói: “Được, tôi và anh cùng về, thuận tiện đi du lịch một chuyến, nói xem, người nhà anh có bao ăn bao ở không?”

Bạch Dực vuốt vuốt cằm như đang tự hỏi: “Đó không phải là vấn đề quan trọng, quan trọng là tôi nên giới thiệu cậu thế nào đây, dù sao thì…”

Tôi nghĩ cũng phải, lễ lạc trong nhà người ta chắc chắn không hoan nghênh người lạ, nhưng lúc này Tương Tây rất coi trọng ngành du lịch, chắc là có nhiều quán trọ và địa điểm tham quan chứ nhỉ? Đôi mắt của anh ta nhìn trân trân lên trần nhà sau đó nhẹ nhàng lia xuống mặt tôi: “Lấy danh nghĩa là nương tử của tôi cũng được chứ nhỉ?”

Lại nữa… sau một giây trầm mặc, tôi bắt đầu bạo phát, gầm lên một tiếng, nắm tay lập tức huơ tới. Rõ ràng là anh ta cố tình chọc cho tôi điên lên mà! Câu chuyện của chúng tôi rốt cuộc kết thúc trong hỗn loạn, tôi xốc lại quần áo ngủ xộc xệch, lắc lắc đầu, bàn tay nắm chặt đã run lên, đánh nhau không phải là thế mạnh của tôi, tôi biết rõ, cho nên đành mắng một câu rồi quay về giường đi ngủ. Trong lòng nghĩ: ‘Cùng lắm thì không thèm đi nữa, thế nào chẳng có cơ hội khác… Mà cổ thành Phượng Hoàng mỹ lệ của ta ơi, thiếu nữ Miêu Cương mỹ lệ nữa…”

Không ngờ hôm sau Bạch Dực vẫn mua vé xe lửa cho tôi, tôi có phần cảm kích nhìn anh ta, có thể thấy rõ Bạch Dực hoàn toàn không phải kẻ hay chấp nhất, sẽ không vì một trận đánh nhau mà phá hủy toàn bộ tình cảm huynh đệ gắn bó bấy lâu. Tôi hớn hở chộp lấy vé, Bạch Dực vừa uống trà vừa nói: “Có lẽ lễ giỗ lần này hơi vội, hình như vốn định bảo tôi về từ dịp năm mới, nhưng vé xe lửa lúc đó rất khó mua cho nên chờ bây giờ mới gọi điện thoại. Chiều nay chúng ta xuất phát. Cậu đi chuẩn bị ít hành lý đi, sau đó còn phải đi gấp.”

Tôi gật đầu, trong mắt có chút kích động, lập tức soạn túi du lịch ra nhét mấy thứ quan trọng cần cho chuyến hành trình vào đó. Những người xuất thân từ trường Mỹ thuật luôn luôn rất quen thuộc với việc du lịch, vì khi học thế nào chẳng phải đi đây đi đó vẽ phong cảnh, cho nên tôi biết rất rõ cần phải mang theo những gì. Lúc này cũng vậy, tôi nhanh nhẹn soạn mấy thứ đồ dùng rửa mặt.

Bạch Dực cũng không rảnh rỗi, anh ta đang thu thập những thứ của mình, trong số đó có một cái bao mà trước giờ tôi chưa từng thấy, dường như dùng một lớp giấy dầu rất cũ bao xung quanh, buộc chặt lại. Sau đó lại nhét hết vào túi ni lông cho khỏi thấm nước, cuối cùng mới nhét vào túi du lịch.

Bạch Dực thấy tôi đang hiếu kỳ nhìn sang, liền cười khổ: “Không có gì đâu, phòng ngừa lỡ như cần tới thôi. Nhanh tay lên, xe lửa sắp tới rồi.”

Chúng tôi xách theo hành lý, mua thêm hai hộp cơm hộp rồi đi ra nhà ga. Nói thật lòng, đi du lịch bằng xe lửa là một kinh nghiệm vất vả, nhưng cũng cực kỳ thú vị. Cái cảm giác “rong ruổi trên đường dài” này là một cảm giác cực kỳ phóng khoáng, dễ làm người ta thả lỏng tinh thần. Cho nên tôi mới thích đi du lịch, có thể thỏa mãn được trí tò mò luôn tràn ngập của mình.

Người trên xe lửa không nhiều, bởi vì những ai muốn hồi hương đều đã về từ trước rồi. Mà những người không về nhà thì lúc này cũng đang lo chuẩn bị bắt đầu một mùa công tác mới. Chúng tôi ngồi giữa một toa xe vắng vẻ, mặc dù có hệ thống sưởi, nhưng dường như có ai đó mở cửa sổ nên vẫn cảm thấy từng đợt gió lạnh ùa vào. Ngay chỗ tiếp giáp giữa hai toa tàu có một nhân viên nhà ga đang đứng, thản nhiên nhìn ra cảnh sắc bên ngoài, vẻ mặt cực kỳ lãnh đạm. Có lẽ ông ta đã nhìn thấy những cảnh vật này không biết bao nhiêu lần rồi, tôi nghĩ vậy, cũng nghển cổ nhìn ra ngoài cửa sổ.

Cảnh sắc trước mặt chuyển dần từ những tòa nhà cao tầng, mái nhà chen chúc nhau thành những cánh đồng lúa bát ngát. Lúc này đang là mùa đông nên có nhiều nơi vẫn còn tuyết đọng, những tấm màn plastic bao bên ngoài những cái chòi canh lúa sột soạt lay động theo gió, trông xa giống hệt như những làn khói trắng mờ. Tôi ngồi ngược hướng với hướng tàu chạy, nên nhìn một lúc thì đầu bắt đầu choáng váng, từng cột từng cột điện lướt qua trước mắt khiến đôi mắt đặc biệt mỏi.

Bạch Dực dùng bình thủy giữ ấm hãm một bình trà, chỉ uống một ngụm sau đó đưa sang cho tôi. Chúng tôi ăn cơm hộp vào bữa trưa. Thực ra trong ba lô còn nhiều đồ ăn vặt, nhưng không muốn ăn hết quá mau nên tôi không lấy ra.

Chúng tôi chọn xe lửa tốc hành, nhưng vẫn phải ngồi suốt mười mấy tiếng đồng hồ. Nói cách khác là đến nửa đêm hôm đó xe mới tới nơi, lúc này ngoài cửa sổ đã là một mảnh tối đen như mực. Chỉ có vài ngọn đèn dầu xa xa của những gia đình nông dân cho chúng tôi biết mình đang ở thế giới loài người chứ không phải đang ngụp lặn trong một đường hầm không gian xa xôi nào đó.

Tôi lấy tay chống cằm, ánh mắt xa xăm nhìn vào khoảng không đen thẳm trước mặt. Chỉ có đôi mắt thỉnh thoảng hơi chớp, còn những cơ khác trên mặt đều cứng lại. Bạch Dực lại đẩy cho tôi một ly trà, sương trắng ùa vào bám lên cửa kính thành những  vệt màu xám loang lổ, nhìn ra thế giới bên ngoài thông qua lớp kính phủ đầy sương cứ như đang nhìn vào một thế giới tưởng tượng.

Tương Tây kỳ thực là một khu vực rất lớn, vốn có danh xưng là một trong bốn “yết hầu Tương, Ngạc, Du, Kiềm”. Hồ Nam, Thành Đô, Quý Châu đều có một phần thuộc về địa phận Tương Tây, nhưng ở đây chỉ có một số ít dân tộc thiểu số sinh sống, chủ yếu là người Thổ Gia và người Miêu. Cho nên chỗ này còn được gọi là địa vực Miêu Cương, khí hậu ẩm ướt khiến nó sinh nhiều rắn rết trùng độc. Bà nội tôi từng kể rằng sau giải phóng vẫn còn có nhiều người hành nghề cổ độc vu bàcản thi. Hai thứ nghề nghiệp này có thể nói là những nghề quỷ dị và thần bí nhất. Nhưng hình như đều có quy định do tổ nghề truyền lại, ví dụ như cổ độc bà chỉ chọn những cô gái làm đồ đệ, hơn nữa còn thử thách cô gái bằng cách hạ cổ lên người cô ta, yêu cầu cực kỳ hà khắc. Còn cản thi cũng có những yêu cầu riêng của nghề mình, ví dụ như người hành nghề ít nhất phải đủ 16 tuổi, thân cao trên 1.7m, tướng mạo phải xấu một chút, tốt nhất là càng xấu càng hay, đồng thời cũng không được cưới vợ.

Nơi này còn là một con đường thông thương buôn bán cực kỳ quan trọng, hai đường chuyên vận chuyển trà ngày xưa là Điền và Xuyên đều đi qua vùng này, cho nên đối với các thương nhân cổ đại thì khu vực này là một đầu mối giao thông buôn bán then chốt. Nhưng nơi này lại bị cái đường sá gồ ghề hiểm trở, thập phần khó đi, có thể nói là bán xa không bằng ngồi gần, nhưng lợi nhuận khổng lồ vẫn khiến rất nhiều thương nhân chọn con đường hung hiểm này, cũng có khi vì nó mà đánh mất tính mạng. Cho nên đương nhiên là phải sinh ra một nghề giúp những người không may bỏ mạng nơi đất khách quê người được mang về quê hương cố thổ chôn cất.

Bạch Dực nhìn đồng hồ đeo tay một chút, sau đó nói với tôi: “Sắp tới nơi rồi.” Nói xong rút từ trong ba lô ra một cái túi gấm nhỏ xíu kín đáo đưa cho tôi: “Chỗ này lắm tai nhiều họa, đeo cái này theo bên người để phòng ngừa vạn nhất, trong này có bột hùng hoàng và chu sa trộn lẫn, có thể phòng tránh được rắn rết.”

Tôi cầm lấy cái túi nhỏ, cảm giác không khác mấy với mấy cái túi hương bán trong dịp tết Đoan ngọ, đưa lên mũi ngửi ngửi còn nghe thấy một mùi dược hương nhè nhẹ. Tôi liền giấu kỹ vào áo trong. Một ông già ngồi ghế bên cạnh chợt nghển cổ nhìn sang, ông ta mặc trang phục Thổ Gia truyền thống, trên người có một mùi rất kỳ lạ. Hít hít mấy cái, ông ta liền cười nói: “Ôi cha, không dè tên  nhóc này cũng biết tới loại bột tránh cổ này, xem ra có khiếu với cổ thuật lắm đây.”

Bạch Dực nhẹ nhàng cười đáp lại: “Vậy xem ra bác cũng là dân trong nghề rồi?”

Ông lão nhìn cũng không cao tuổi lắm, nhưng thanh âm cực kỳ khô khốc cứ như một cái máy hát bị hỏng, nếp nhăn kéo dài bên khóe mắt lên tới tận bên thùy tai, sắc mặt đỏ như gan lợn. Ông ta nói vẻ khen ngợi: “Tên nhóc này mắt tốt, ít ai nhìn mà biết lão đây có nghề, vậy để lão cho mi mấy thứ có ích lắm đây.”

Vừa nói ông ta vừa lôi trong cái túi vải buồm để cạnh người ra hai tờ giấy màu vàng ệch, Bạch Dực vừa trông thấy thì trong mắt đã đầy kính trọng: “Hóa ra là một vị khởi cước sư phụ, thất kính thất kính.”

Ông ta cười ha hả, Bạch Dực và tôi đều lễ phép dùng hai tay nhận tờ giấy, trên đó dùng thuốc màu màu đỏ vẽ những kí hiệu hết sức ngoằn ngoèo kỳ quái, không giống chữ, cũng không giống tranh. Bạch Dực nhét tờ giấy vào túi tiền, sau đó hỏi thăm: “Sư phụ đây là đang đi đón Hỉ thần sao ạ?”

Ánh mắt ông lão chợt dịu lại, thoáng cái biến thành một ông lão cực kỳ bình thường, ông ta lắc lắc đầu: “Không, lão đi thăm thằng con, nó đang học đại học trên thành phố ấy, ta ra đó thăm nó.”

Bạch Dực gật đầu: “Xem ra sư phụ đã rửa tay chậu vàng. Cũng tốt, an hưởng tuổi già.”

Nói chuyện hồi lâu, cuối cùng xe lửa cũng tới trạm cuối. Có lẽ là do ngồi lâu quá nên lúc đứng lên, tôi lập tức bị tê chân đau đến cau mặt. Tôi nhăn nhó túm chặt lấy Bạch Dực, anh ta nhìn tôi, cười khổ nói: “Đúng là không có tiền đồ, chỉ ngồi xe thôi mà cũng có thể thảm tới mức này cho được!”

Tôi lắc lắc chân rầu rĩ: “Lão Bạch đừng chọc tôi nữa!”

Sau khi chờ một chút cho cảm giác của hai chân trở lại bình thường rồi, tôi mới buông anh ta ra cầm hành lý từng bước từng bước đi ra cửa. Ông nhân viên nhà ga nọ nhìn thấy dáng đi lung lay buồn cười của tôi, trên khóe miệng cứng ngắc rốt cuộc nở một nụ cười nhẹ.

Đi tới sân ga mới phát hiện khí trời xung quanh vô cùng ẩm ướt, sương mù dày đặc mang theo một thứ mùi cổ quái, không giống mùi mốc, nhưng cũng không dễ ngửi, tất cả cộng với gió rét táp vào mặt thành một loại khí hậu không thân thiện chút nào với du khách. Xa xa là phòng kiểm vé, trước phòng treo một ngọn đèn nhỏ tỏa ra thứ ánh sáng màu cam nhạt leo lét mờ ảo, ngoài ra không thể nhìn thấy xa hơn được nữa, trên sân ga không còn ai, chỉ còn hai chúng tôi run rẩy đứng trong gió, cộng với hai bóng người mờ nhạt đứng dưới bóng đèn tù mù của quầy kiểm vé. Tôi hỏi Bạch Dực: “Có đúng là người nhà anh sẽ tới đón chúng ta không?”

Bạch Dực lắc lắc đầu, anh ta cũng không chắc lắm, chúng tôi đành xốc lại hành lý trên vai mang vé ra phòng kiểm vé, tới nơi mới phát hiện hai bóng người lúc nãy nhìn thấy là hai tấm biển quảng cáo, trong phòng chỉ có một nhân viên kiểm vé đang gà gật. Hai tấm biển bị gió thổi xiêu qua lắc lại, nhìn từ xa trông có vẻ giống người thật đang cử động.

Nhân viên lười biếng nhận hai tấm vé, xé một góc rồi trả lại cho chúng tôi, sau đó không thèm liếc chúng tôi nửa con mắt đã ngoẹo đầu kéo cao cổ áo khoác lên tiếp tục giấc ngủ, tôi nghĩ xem ra lúc nãy chúng tôi đã làm phiền mộng đẹp của anh ta không chừng.

Chúng tôi lếch thếch rời khỏi trạm xe lửa, đứng chờ trước cửa nhà ga hồi lâu, nhưng vẫn không có ai ra đón. Bạch Dực gọi điện thoại thử, nhưng không có ai tiếp máy. Tôi lo lắng nhìn quanh, không biết phải làm sao, đây là lần đầu tiên tôi tới đây, với tôi mà nói tất cả mọi thứ quanh đây đều rất xa lạ.

Bạch Dực nhìn sắc trời, lo lắng nói: “Không nên ở lại đây, bằng không chúng ta tự đi tới đó vậy, nó là một khu trại nhỏ ấy mà…”

Tôi hoài nghi nhìn anh ta: “Anh có biết đường không đấy? Lúc này là nửa đêm đó nghe…”

Anh ta nheo mắt nhìn ra xa: “Coi như là biết đường, đi thôi, có lẽ không nhớ nhầm đâu.”

May mà nhiệt độ ở đây không thấp lắm, hơn nữa đi một lúc thì liền đổ mồ hôi, buổi tối ở đây không có mấy xe cộ qua lại, chúng tôi vất vả lắm mới chặn được một cái xe tải nhỏ, nhìn thì biết là vừa đi chở hàng về. Bạch Dực móc ra 50 tệ, nói cho tài xế địa chỉ để anh ta chở chúng tôi tới nơi. Tài xế nhanh nhảu nhận lời, dùng khẩu ngữ Tương Tây luôn miệng nói ở đây không có nơi nào anh ta không biết.

Lúc tài xế đưa tay nhận tiền, tôi để ý anh ta có hai bàn tay đen thui, như là ngâm quá lâu vào cái gì vậy. Mặt anh ta gầy khẳng, nhưng hai bên má da thịt lại đùn lên, mỗi lần anh ta cười thì toàn bộ cơ mặt cứ như nhăn lại với nhau thành một miếng da nhàu nhĩ, giống như một cái mặt nạ sắp hư. Anh ta cho hai chúng tôi vào thùng xe ngồi, vừa bước vào thì một mùi cay nồng đã xông thẳng ra, khiến tôi chảy nước mắt ròng ròng. Tôi nhìn bốn phía, nào là tiêu, cùng mấy bịch ớt khô. Hóa ra đây là xe chở gia vị, người dân ở đây nổi tiếng ăn cay, cho nên chắc anh tài xế này đã sớm quen với cái mùi cay nồng này rồi. Tôi phải liên tục chùi nước mắt, nhưng thoáng cái trước mắt đã mờ đi.

Tài xế thấy chúng tôi vất vả như vậy cũng hì hì cười: “Tới từ nơi khác đây, đã tới đây là nhứt định phải ăn thử bánh gạo ớt cay của chỗ này đó nghen!”

Xem ra anh ta đã gặp qua không ít khách du lịch, cả cách giới thiệu lẫn nội dung giới thiệu đều không khác gì dân hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp. Tôi chỉ gật gật đầu chứ không dám há miệng, sợ mùi cay xè kia xộc thẳng vào cổ họng.

Bạch Dực ngồi cạnh tôi cũng có phần khổ sở, nhưng anh ta ăn cay khá hơn tôi, nên không đến nỗi nước mắt nước mũi tèm lem khó coi như tôi lúc này. Chỉ là không nói gì, nhìn chằm chằm vào mấy bộ da rắn trong xe, nói thật lòng là cái xe chở hàng này bẩn gần chết, mặt kính thủy tinh đều ám bụi tối mù, đệm ngồi đen thui như thể nhiều năm chưa có người giặt giũ. Tôi định mở cửa sổ xe cho thoáng một chút, đẩy bớt mùi cay ra khỏi khoang, nhưng tài xế đã nhanh chóng ngăn tôi lại: “Chú em chớ mở cửa sổ, không là vận xui chui vào liền, con đường chúng ta đang đi hồi đó gọi là ‘âm lộ’ lận đó!”

Tôi khó chịu rụt tay về sụt sịt mũi mà hỏi: “Âm lộ là cái gì?”

Tài xế ngoặt tay lái, chậm rãi nói: “Con đường này hồi xưa là chỉ dành cho cản thi đi mà thôi, cho nên tối đến là người sống không bước qua đây nữa đâu, nhưng tụi tui là dân buôn bán, cho nên thế nào cũng phải đi qua, chỉ là lúc đi qua tuyệt đối không được mở cửa sổ ra cho khỏi đụng vô mấy thứ của…người chết mà thôi.”

Tôi lau lau mặt hiếu kỳ hỏi: “Bây giờ mà còn những người làm nghề cản thi sao?”

Tài xế cười u ám đáp: “Sao không, dưng mà không cho ai thấy thôi. Mấy cái nghề này nghe nói có thể gọi quỷ tới đó.”

Bạch Dực dường như giật mình nhận ra cái gì đó, thoáng biến sắc mặt. Anh ta quay phắt lại nhìn bóng lưng tài xế, khi tôi định lên tiếng hỏi tiếp thì Bạch Dực đã ngầm đá vào chân tôi một cái, tôi quay lại nhìn, anh ta liền lén viết vào lòng bàn tay tôi một chữ “quỷ”.

Tôi ngẩng đầu lên nhìn kỹ tài xế, nhưng vẫn chưa thấy có gì quái dị. Vì vậy lại quay đầu nhìn Bạch Dực, thì thầm hỏi: “Sao vậy?”

Bạch Dực lắc nhẹ đầu ý bảo đừng lên tiếng, sau đó âm thầm nắm trong tay một túi ớt bột to, sau đó mở miệng nói với tài xế: “Ông anh, sau lưng ông anh có một con sâu kìa!”

Tài xế đột ngột thất kinh, phanh gấp lại, đưa tay quờ ra sau lưng tìm. Bạch Dực nhân lúc anh ta vừa quay lại, liền lập tức ném hết chỗ ớt bột cay xé trên tay mình vào mặt anh ta, tài xế bị rát, bật gào to lên, vội lấy cả hai tay ra sức dụi mắt.

Bạch Dực thừa cơ giật tung cửa xe, túm tay tôi nhảy thẳng ra ngoài. Tôi bị hành động của anh ta làm cho thất kinh, sững người một giây rồi hấp tấp ôm hành lý định nhảy, nhưng cơ thể đột nhiên bị kéo giật về phía sau, khi quay đầu lại liền phát hiện tên tài xế kia hai mắt đỏ ngầu đang túm chặt lấy một chân tôi, lực kéo mạnh như hai gọng kìm, tôi giãy thế nào cũng không được. Cả gương mặt và cơ thể của tên tài xế đều co rút lại, dáng vẻ hòa nhã bình thường lúc nãy đã biến đâu mất, chỉ còn lại sắc mặt hung tàn như ác quỷ. Hai mắt hắn đang bị đau nên lực kéo trên tay càng thêm mạnh, cổ chân tôi gần như bị hắn bóp nát. Hắn rít lên tàn bạo: “Nhãi con, chớ chạy, lâu lắm mới có một tên ngốc như mi khỏi cần chuốc thuốc mê, tiếc lắm!”

Bạch Dực đã nhảy hẳn ra khỏi xe, nhưng một tay vẫn cố sống cố chết nắm chặt tay tôi, cho nên tôi có cảm giác như bị hai người bọn họ xé xác vậy. Chợt trên mu bàn tay của tên tài xế đột nhiên nổi lên một khối nhỏ, sau đó, một…con sâu đen thui chậm rãi chui ra từ dưới da của hắn! Con sâu bò tới với tốc độ cực nhanh, thoáng chốc mà nó đã bò lên đùi tôi, tôi nhìn nó, tóc gáy lập tức dựng đứng.

Con sâu bò loang loáng tới trên đầu gối, chui vào dưới áo khoác. Một tay tôi bị Bạch Dực giữ cứng, tay còn lại còn phải túm chặt ba lô, nên không có cách nào cản nó lại. Chỉ thấy nó lổm ngổm bò tới bên ngực, lại dường như đụng nhằm cái gì đó làm nó hoảng sợ, đột ngột quay đầu bỏ chạy trở lại. Tên tài xế thấy thế trợn tròn mắt kinh ngạc, thừa lúc hắn đờ người ra thoáng thả lỏng tay, tôi lập tức đá cho hắn một cú thật lực, hắn bị đau buông tay, cả người tôi mất điểm tựa, thoáng cái đã ngã ngửa ra khỏi xe, cùng Bạch Dực lăn lông lốc xuống con đường hơi dốc phía dưới bánh xe, tôi chỉ biết ôm đầu mặc kệ cho trời đất quay cuồng xung quanh mình, cho đến lúc “Hự” một cái cả hai chúng tôi đụng mạnh vào cái gì đó mới dừng lại. May mà y phục mùa đông dày cộm, nếu không thì với cũ ngã lúc nãy chắc chắn đã bị trọng thương rồi.

Tôi chật vật chống nửa người lên nhìn xung quanh, tất cả mọi thứ xảy ra quá đột ngột, đầu óc tôi lúc này trống rỗng, chỉ còn hình dạng kinh khủng của con sâu đen thùi lúc nãy là còn in đậm trong trí nhớ. Đang khi xác định lại là không mất mát gì thì tôi chợt nhớ ra Bạch Dực, không biết anh ta lăn tới đâu rồi, lại chợt nghe một tiếng hừ nhẹ sau lưng.

Tôi quay lại, cả người Bạch Dực đập thẳng vào thân cây phía sau, sắc mặt tái nhợt, rõ ràng cú va chạm không nhẹ chút nào. Anh ta bưng một bên vai cắn răng hỏi: “Còn muốn ngồi trên người tôi đến bao giờ?!”

Tôi định thần nhìn lại, mới phát hiện cả người tôi đang đè lên người anh ta, là anh ta ôm tôi lăn xuống, nếu không phải được Bạch Dực dùng cả cơ thể mình che đỡ thì tôi có lẽ đã đập vào thân cây rồi, nếu xui xẻo có khi còn đổ máu không chừng. Tôi giật nảy người nhổm lên, có lẽ đụng vào vết thương của Bạch Dực, anh ta liền nhăn mặt rên lên. Tôi vội vã lăn ra: “Lão Bạch, lão Bạch, anh không sao chứ? Không bị xuất huyết trong chứ? Chết rồi chết rồi!”

Anh ta dùng tay đè chặt chỗ xương sườn: “Không sao, hình như không gãy xương. Cậu cũng không bị thương chứ?”

Tôi nghe mà trong lòng cảm động rưng rưng, đúng là người vĩ đại mà, quên mình vì người khác như vậy! Tôi cảm kích gật mạnh đầu: “Không sao, tôi không bị thương!”

Anh ta liền thản nhiên tiếp: “Vậy phiền cậu mang giùm cả ba lô của tôi luôn đi.” Anh ta chậm rãi đứng lên, tiện đường dựa hẳn sức nặng của mình lên người tôi luôn.

Tôi hai vai khoác hai túi hành lý lớn, sau lưng gánh thêm một cái ba lô, lại còn lại dồn sức đỡ Bạch Dực, nhất thời cảm thấy cả người nặng như đeo đá, mồ hôi mẹ mồ hôi con túa ra như tắm.

Tôi cắn răng hỏi: “Lão Bạch, tên tài xế lúc nãy là cái gì vậy? Sao từ trên tay hắn lại có sâu bò ra là thế nào?!”

Bạch Dực suy nghĩ một chút rồi nói: “Thứ này gọi là cổ nhân, bọn chúng là những gã đàn ông bị cổ bà khống chế, có vài loại cổ thuật cần dùng thịt người làm chất dẫn, cho nên các cổ bà thường thích bắt vài người về làm thuốc, những người đó không hẳn đã chết, nhưng bị cổ bà khống chế thì sống còn không bằng chết.”

Nhớ lại cảnh con sâu chui từ dưới da người lúc nãy ra, cả người tôi lập tức nổi da gà rùng rùng. Nhắc mới nhớ, nếu không phải nhờ túi hương Bạch Dực cho lúc ngồi trên xe lửa, tôi lúc này rất có khả năng cũng trở thành một cái túi chứa sâu rồi. Nghĩ tới đây, không khỏi đưa tay sờ sờ cái túi hương trong túi áo.

Tuy chúng tôi vừa tránh được một kiếp, nhưng cả hai vẫn còn lang thang trên con đường núi độc đạo, xung quanh chỉ có cây cối um tùm mà không có bóng người, sương mù dày đặc hơn cả khi còn chờ trong nhà ga, một thứ mùi ngai ngái quái lạ nào đó tản mác trong không khí, cây cỏ xung quanh bị biến dạng qua màn sương thành những thứ hình thù quái dị, thỉnh thoảng còn có bóng một vài loại động vật nào đó nhanh chóng xẹt qua trước mặt.

Chương 20: Tương Tây thi cổ (Trung)

Tôi nheo mắt nhìn bốn phía, sương mù dày đặc khiến tầm nhìn bị thu hẹp chỉ còn khoảng 2, 3m. Xung quanh không có lấy một nguồn sáng, dù leo lét. Tôi lục lọi một lúc trong ba lô, lôi ra một cái đèn pin cầm tay, tuy hơi nhỏ nhưng ít ra còn thấy được phía trước.

Dưới đất mọc đầy đủ mọi loại dây leo không tên, nếu nhìn kỹ còn thấy rất nhiều loại sâu bọ và côn trùng bò lúc nhúc trên mặt dây leo. Tôi rùng mình, không dám nhớ tới việc mới lúc nãy mình còn lăn lộn trên mặt đất này. Đang cố gắng chiếu đèn pin nhìn kỹ khắp nơi, đột nhiên nghe Bạch Dực “Ủa” một tiếng, sau đó nhanh nhẹn bật người tới, ngồi xổm xuống đất nhặt một tờ giấy gì đó lên, tôi ngao ngán nghĩ: “Mới vừa rồi còn ra vẻ như sắp chết mà…?”

Tôi khệ nệ vác một đống túi theo sau cũng ngồi xuống nhìn, tờ giấy trong tay anh ta đã rách tươm, nham nhở bốn góc, chỉ còn nhìn được mấy chữ viết bằng mực đỏ chói: “Xin cho phép Gọi người chết đi qua.”

Bạch Dực ném tờ giấy xuống đất, sau đó cẩn thận nhìn xung quanh: “Tên cổ nhân kia không nói dối, hèn chi hắn không nhảy xuống xe đuổi theo chúng ta, con đường này quả thực là một âm lộ.”

Tôi dùng đèn pin chiếu đến nền đất xung quanh đó, quả nhiên có rất nhiều những tờ giấy giống hệt như vậy vương vãi khắp nơi, đây chính là một loại tiền âm phủ dùng để “mua đường đi” của giới cản thi. Tôi nhìn lại sắc trời, có lẽ còn vài tiếng đồng hồ trước khi trời sáng. Không khí mang theo hơi nước ẩm ướt khó chịu, gió lạnh thổi qua để lại cảm giác rét cắt da.

Bạch Dực vỗ vỗ lưng tôi: “Lúc này không nên ở mãi một chỗ, không an toàn, rắn rết sâu bọ quá nhiều. Tuy chúng ta có bột trừ cổ, nhưng số lượng của chúng nhiều như vậy, tôi nghĩ nên tiếp tục đi, hi vọng phía trước có nhà dân, có thể cho chúng ta nghỉ nhờ.”

Tôi gật đầu, rồi sực nhớ ra, liền giận dỗi ném lại cái ba lô của anh ta về cho chủ của nó: “Tự mà mang lấy, nhìn anh là biết nãy giờ giả vờ rồi!”

Bạch Dực cười tà cầm lấy ba lô, không phản bác gì.

Chúng tôi đi thêm khoảng hơn một tiếng đồng hồ nữa vẫn không thấy nhà cửa gì. Sương mù xung quanh như len vào tận trong phổi, gây cảm giác nhức nhối khó tả, mớ hành lý cũng càng lúc càng trì xuống. Mắt tôi hoa lên, trong đầu bắt đầu tưởng tượng một ngôi nhà sàn, cùng một đám cô nương Thổ Gia xinh đẹp đang mang một vò rượu nóng tỏa hương ngào ngạt đi tới…

Đột nhiên trước mắt tôi nhá lên bóng dáng của một nóc nhà… Đúng! Là một nóc nhà! Tôi tưởng mình gặp ảo giác, vội đập vai Bạch Dực hỏi: “Coi…coi ở kia có phải có nhà không vậy?”

Bạch Dực nhíu nhíu mày ngập ngừng trả lời: “Ừ… đúng là nhà, nhưng mà…”

Tôi hưng phấn dựng thẳng người lên: “Vậy còn chờ gì nữa, mau mau tới đó nghỉ chân thôi! Nếu cứ đi tiếp thế này thì chân tôi rụng mất!”

Bạch Dực âu lo khẽ gật đầu, rồi lại cười khổ sở: “Có khi tới được đó rồi cậu sẽ không còn muốn ở lại nữa đâu…”

Nhưng tôi lúc này đã rơi vào trạng thái tâm lý nhắm mắt làm bừa không thèm nghe không thèm nhìn thấy gì khác nữa, chỉ chăm chăm nghĩ tìm một chỗ nghỉ ngơi cho đôi chân rệu rã này, ngoài ra không còn gì quan trọng hơn nữa.

Ngôi nhà trông giống như một ngôi miếu hoang đổ nát xiêu vẹo dựng giữa rừng, đèn nhanh lạnh lẽo đã lâu, quả thực chỉ còn lại cái xác nhà hoang tàn, cánh cửa xô lệch đứt lìa hẳn một cái bản lề, cũng không có cổng che rào chắn gì. Chúng tôi vừa bước tới gần thì đã nghe thấy một mùi hôi thối lợm mửa xông từ trong ra, làm như có xác con gì chết bên trong không bằng. Nhưng vừa bước vào cửa thì tôi liền sững người, bên trong gian nhà chính là bốn năm cỗ quan tài, không có cái nào đóng nắp, mùi hôi thối bốc ra từ đó.

Nghe thấy động tĩnh của chúng tôi, một con vật gì đó có bộ lông trắng xám nhanh như chớp ngẩng cái mõm đen thùi của nó ra từ trong một cái quan tài, đôi mắt xanh lục mở to hung dữ nhìn chúng tôi, sau đó lập tức quay đầu chạy thẳng vào trong rừng. Động tác của nó nhanh tới mức khiến tôi trở tay không kịp, bị nó dọa lùi mấy bước, may mà có Bạch Dực vào sau kịp đỡ lại. Anh ta cũng nhìn bốn phía, sau đó cười khổ nói: “Đây là nghĩa trang, còn gọi là khách sạn tử thi, dùng để cho dân cản thi đem tử thi tới trọ lại, người sống… không thường tìm tới.”

Tự mình đào hố chôn mình, tôi lúc này đây không dám có nửa lời than vãn, chỉ cắn chặt răng bước vào phòng. Một trận âm khí lạnh như băng lập tức dội thẳng vào mặt tôi, tôi rùng mình một cái, cảm giác nhiệt độ xung quanh dường như trong thoáng chốc mà tuột hẳn xuống, xung quang tối mò mò, chỉ có những nơi cây đèn pin nhỏ xíu rọi tới là còn trông thấy một chút, trong không khí lẩn quất một mùi hôi gay mũi. Trong gian nhà lớn để bốn năm cỗ quan tài, tất cả đều sứt mẻ bạc hết cả lớp son sơn bên ngoài, lộ ra lớp gỗ bên trong, bốn góc quan tài cũng muốn bị mẻ nham nhở chỉ còn lại bộ khung gỗ lỏng lẻo. Tôi hoàn toàn không dám tới nhìn vào những tử thi trong quan tài, chỉ có thể từ xa xa trông lại, thấy trước mỗi chiếc quan tài đều để một chén cơm không biết đã mốc meo tự đời nào, cơm trong chén đã sớm chuyển thành một màu mốc xanh lục quái dị. Đôi đũa vốn từng được cắm thẳng trên chén cũng xiên xẹo mỗi nơi một cái. Tôi thực sự tò mò vì sao đám động vật kia không hề đụng tới cơm trong chén mà lại chăm chăm nhằm tới những tử thi trong quan tài?

Bạch Dực tìm một chỗ trống, lôi trong ba lô ra hai tấm bạt plastic ngồi xuống. Tôi nghĩ tới phần còn lại của đêm phải nghỉ lại ở nơi kinh khủng này, cả bao tử cũng run lên.

Liếc mấy cái quan tài một lần nữa, tôi vội vàng chạy tới chỗ Bạch Dực ngồi xuống, trong lòng chỉ sợ từ trong quan tài bất thần nhảy ra con cương thi nào đó chạy tới bóp cổ mà thôi. Thực ra mà nói, ở trong này cũng chẳng che chắn được bao nhiêu gió lạnh, vì nóc nhà ngói bạc phếch trên kia đã sớm tốc đi đàng nào rồi, từ bên trong có thể thấy nguyên cả bầu trời sao lồng lộng, gió cũng cứ theo thế mà thốc vào.

Thế nhưng ít ra trong này không có côn trùng sâu bọ. Vì để bảo vệ cho thi thể không bị hư thối và bị biến thành cương thi nên lúc tẩm liệm thế nào người ta cũng ướp vào thi thể rất nhiều độc dược và thủy ngân, cho nên đám sâu bọ kia sẽ không dám tìm tới.

Tôi vòng tay ôm đầu gối ra sức giữ ấm cho cơ thể. Không khí vừa ẩm ướt vừa lạnh lẽo làm tôi có muốn cũng không sao nhắm mắt mà ngủ nổi. Bạch Dực tuyệt không cấm kỵ người chết, đường hoàng ra bẻ một khúc củi quan tài về nhóm lửa. Tuy có vẻ hơi tàn nhẫn với người đã khuất, nhưng cũng phải thừa nhận là nhờ nó mà chúng tôi mới ấm lên một chút được. Trong lòng tôi âm thầm xin lỗi vị “chủ nhà” xui xẻo bên kia, nhưng cũng không biết cách nào khác, nếu cứ để lạnh thế này thì chúng tôi chưa sáng đã viêm phổi mất.

Lửa khá nhỏ, tôi cuộn chặt người ngồi gần như dán sát vào ánh lửa leo lét mà tham lam hứng lấy hơi ấm tỏa ra từ nó. Tuy chỗ này không thể lạnh được như chỗ nhà chúng tôi, nhưng dù sao vẫn là cuối đông, hơn nữa lại còn là nơi có độ ẩm cao như vậy, hơi lạnh mà nó mang lại tuyệt không thể so sánh nổi. Tôi túm chặt áo khoác, liếc nhìn sang Bạch Dực, anh ta đang loay hoay bẻ cành củi ra thành từng mảnh nhỏ ném vào đống lửa con, giúp nó cháy mạnh hơn một chút.

Từ tối tới giờ bị hành xác một trận, lúc này đầu tóc chúng tôi toàn là đất cỏ, trên mặt cũng lem nhem bùn, nếu bây giờ có thêm một cái chăn cho chúng tôi co ro rúc vào thì quả thực nhìn không khác gì dân chạy nạn.

Nghĩ đến thế tôi tự nhiên bật cười. Bạch Dực thoáng ngạc nhiên nhìn sang, sau đó nghiêng đầu hỏi: “Cười cái gì?”

Tôi thu lại nụ cười nhún nhún vai: “Lão Bạch, có phải chúng ta rất rất là xui xẻo không, chỉ đi chơi thôi mà còn có thể ra thế này?”

Anh ta nhìn đống lửa, trêu đùa nói: “Hay là mẹ cậu nói dối tuổi của cậu rồi, hẳn là năm nay là năm tuổi của cậu mới đúng, cho nên mới phạm Thái Tuế thế này.”

Tôi cũng không vừa, lập tức quặc lại: “Có khi là anh phạm Thái Tuế ấy chứ! Đừng đổ hết mọi chuyện xui cho tôi!”

Lại sực nhớ ra trong ba lô có ít lương khô, liền lôi ra một hộp bánh quy cho Bạch Dực: “Ăn đi, chắc anh cũng đói rồi chứ hả?”

Bạch Dực cầm hộp bánh, tôi lại mò thêm hai cái bao ni lông ra đưa cho anh ta một cái: “Đem cái này bao ngoài tay rồi hãy cầm bánh, nước chỉ đủ cho chúng ta uống thôi, không đủ để rửa tay, ít ra giữ vệ sinh một chút.”

Bạch Dực bắt đầu nhai bánh quy rốp rốp, nhưng chúng tôi không dám ăn nhiều vì cả hai chỉ có một chai nước, chỉ sợ ăn nhiều sẽ mau khát.

Gỗ quan tài nổ thành những tiếng lách tách trong lửa, nghe kỹ còn phảng phất có những thanh âm kỳ quái. Đó dường như là tiếng khóc lóc u oán thương cho những kiếp người bỏ thân nơi xa xứ… có lẽ người nằm trong quan tài cũng là một người như thế chăng? Tôi cảm thấy hơi buồn, vì thế lôi ra một ít bánh đặt trước cái quan tài, chắp hai tay lầm rầm khấn: “Xin lỗi, xin lỗi, chúng tôi không còn cách nào khác, chỉ có thể mượn chỗ của ngài tá túc một đêm… xin đừng trách, đừng trách!”

Khi quay về bên đống lửa, tôi thấy Bạch Dực đang cúi đầu cười thầm, bèn lạnh lùng nói: “Tôi là đang tích đức cho anh đó, anh đem quan tài người ta ra làm củi chụm, tôi phải trả lại cho người ta cơm ăn chứ! Coi như sòng phẳng. Anh lại còn dám cười tôi! Coi chừng vị trong kia ra tìm anh tính sổ bây giờ!”

Dường như chỉ chờ có thế, anh ta lập tức cười phá lên: “Không… tôi chỉ muốn nói cho cậu biết, cái quan tài đó bên trong không có thi thể… vậy thôi… ha ha ha!”

Tôi đực mặt ra nhìn, nhưng cũng không có đủ dũng cảm ra kiểm tra lại xem bên trong quan tài có trống thật không, đành tức tối nhìn anh ta, không thèm nói nữa, dù sao lấy gỗ quan tài ra làm củi vẫn là không có đạo đức! Tôi vùng vằng ngồi lại, không thèm nhìn mặt tên vô đạo đức này nữa.

Tôi chống tay lên má ngồi gảy gảy đống lửa. Bạch Dực ngậm bánh quy nhìn chằm chằm vào mặt tôi, nhìn đến mức tôi cũng muốn gai cả người, liền ngước lên hỏi: “Nhìn tôi hoài làm gì vậy!”

Anh ta bất ngờ vươn tay tới phủi một chiếc lá rụng vương trên tóc tôi, sau đó nhẹ nhàng mỉm cười: “Thực ra cậu cũng rất đẹp đấy chứ.”

Tôi sững người sửng sốt, sau đó đưa tay sờ sờ trán Bạch Dực: “Bộ anh bị đụng vào gốc cây mạnh quá nên ngơ ngơ rồi hả? Hay là bị sốt tới mê man rồi?” Vừa nói vừa nghiêm túc kiểm tra… ờ… nhiệt độ cơ thể vẫn bình thường mà? Cũng đâu có thương tích gì? Vì thế liền đảo mắt chán nản, thuận tay đẩy đầu anh ta ra sau: “Anh nói đùa kiểu gì vậy, coi chừng tôi đánh cho anh tỉnh ra bây giờ!”

Bạch Dực chỉ cười tủm tỉm ngồi chống cằm không nói gì, tôi bị anh ta nhìn mãi càng thêm ngượng ngùng, nhưng lại không dám bỏ đi đâu, chỉ biết đỏ mặt cúi đầu nhìn chằm chằm vào ngọn lửa. Mãi một lúc sau thấy anh ta không nhìn sang nữa, mới thở phào nhẹ nhõm.

Gió lạnh vờn trên tóc, tạo cảm giác như có chút siêu thực, bầu trời tối sẫm, tinh tú trốn hết sau tầng tầng mây dày đặc, chỉ những lúc gió thổi xua bớt mây mới lập lòa một vài đốm sáng nho nhỏ yếu ớt, như có như không.

Bên cạnh chợt truyền tới giọng nói trầm ấm của Bạch Dực: “Ngày mai có lẽ trời mưa.”

Tôi ừ một tiếng, lại ngẩng đầu nhìn trần nhà thủng lỗ chỗ, ở lại một nơi thế này một đêm quả là một kinh nghiệm khó có được. Đột nhiên trên mái nhà có bóng một con vật nào đó nhoáng qua, tốc độ cực nhanh, tôi chưa kịp nhìn rõ thì nó đã chạy qua, một tầng bụi dày đã lả tả rơi xuống, trúng ngay vào mắt phải của tôi. Tôi á một tiêng, Bạch Dực vội nghiêng người tới hỏi làm sao vậy.

Tôi tức giận trả lời: “Trên mái nhà có con gì vừa chạy qua, làm bụi rơi hết vào mắt tôi rồi!”

Anh ta bất đắc sĩ lắc đầu: “Cậu rõ ràng xui như vậy mà còn nói là mình không phạm thái tuế? Lại đây, tôi thổi thổi cho.”

Nói xong lập tức vòng tay kéo đầu tôi gần lại, vạch mí mắt tôi lên chuẩn bị thổi. Tôi không thích tư thế này, liền hơi giãy ra ý nói có thể tự lo. Nhưng ngay lúc còn đang giằng co, chợt bên khóe mắt trái của tôi hiện ra một bóng người đứng ngay trước cửa. Người nọ mặc một bộ trường sam bằng vải thô màu xanh, đeo đai lưng màu xanh đen, trên đầu đội mũ vải dựng cao. Dưới chân đi một đôi giầy rơm, cầm trong tay một cái chuông nhỏ, chỉ có khuôn mặt là trông không rõ lắm. Tôi giật nảy người, đầu suýt chút nữa đã tông vào cằm Bạch Dực, vội vã chỉ ra cửa nói: “Chỗ kia… chỗ kia có người!”

Bạch Dực bất thình lình dùng một tay bịt chặt miệng tôi lại, một đôi mắt sắc bén quét vội qua cửa, nhưng ở cửa không có ai, chỉ nghe một tiếng chuông đang vọng lại từ xa xa. Mắt trái của tôi từ nhỏ đã quái dị, có thể nhìn thấy một vài thứ người khác không thấy được. Đặc biệt là khi nhắm mắt phải, chỉ mở mắt trái, thế nào cũng thấy những thứ kinh khủng diễu xung quanh.

Tiếng chuông càng lúc càng to, nghe thấy cả tiếng bước chân chậm rãi theo sau. Tôi có cảm giác hình như không phải là của một người. Mắt phải của tôi bị dính bụi còn bịt kín, chỉ có mắt trái mở to nhìn xung quanh, chợt phát hiện sương mù xung quanh như dày đặc hẳn lên, đến ánh lửa cũng dần dần chuyển thành một màu xanh lam lạnh lẽo. Tôi sợ hãi muốn mở mắt phải ra để nhìn được bình thường trở lại, nhưng mắt phải vẫn còn bị bụi, huống chi Bạch Dực lúc nãy thổi thổi mấy cái, lúc này nó không chịu mở ra nữa. Tôi muốn nói cho Bạch Dực biết những gì mắt trái của mình đang nhìn thấy, nhưng anh ta đã thấp giọng gằn lại: “Đừng lên tiếng!”

Thanh âm càng lúc càng gần, tôi cảm thấy mấy cỗ quan tài xung quanh cũng dường như bắt đầu động đậy, dộng thình thình như bất an về cái gì đó, lại dường như lo lắng về thứ đang tới gần. Dần dần tôi nghe được tiếng người nói, giọng nói khàn đục u ám như vọng lên từ địa ngục: “Xin cho Gọi người chết đi qua…!” Sau đó giữa màn sương trắng xóa trước cửa xuất hiện một bóng người, bóng người đi tới gần, hóa thành một người đàn ông trung niên, ăn mặc giống hệt như cái bóng lúc nãy đã xuất hiện trước mắt tôi, nhưng lần này có thể trông rõ mặt mũi của ông ta, thật xấu xí đến mức kinh người! Môi vừa dày vừa to, một vết sẹo dài chạy thẳng từ giữa trán xuống tới cằm như muốn xẻ đôi gương mặt ra làm hai nửa, đôi mắt vừa to vừa lồi như mắt ốc bươu.

Ông ta vừa hô to vừa rải tiền giấy xung quanh. Phía sau ông ta có một người đi theo, cao to khác thường, mặc một thân áo mạo màu đen kịt, không có tay áo, nhìn vừa rộng lại vừa dài, cái đầu to đặc biệt, khuôn mặt đen thui, trên đầu đội một cái mũ lông chiên cao, đuôi mũ hếch lên sau lưng. Toàn thân cứng còng, di chuyển về phía trước một cách máy móc, nhưng nhìn kỹ thì có tiết tấu riêng, đặc biệt là chỉ bước lên những tờ tiền âm phủ mà người trước rải xuống đất.

Người mặc trường sam nhìn về phía chúng tôi, rồi thản nhiên như không có chuyện gì mà dẫn người cao to phía sau đi thẳng vào phòng, sau đó để cho người nọ đứng thẳng băng bên cạnh cửa không nhúc nhích, lại lấy ra một đạo bùa từ trong túi áo dán lên trán người cao to nọ, lầm bầm vài câu. Làm xong thì bước sang chỗ chúng tôi ngồi xuống.

Bạch Dực cẩn thận mở lời: “Sư phụ hóa ra là một hành cước sư phụ, hai người chúng tôi chỉ là khách lạc đường, dừng lại đây nghỉ chân mà thôi.”

Người mặc trường sam gật đầu, lấy ra một cái tẩu thuốc kiểu xưa, gõ gõ vài cái lên mũi giầy rơm của mình, từ cái tẩu tỏa ra một làn khói nhẹ. Ông ta hút một hơi, thở ra một làn khói trắng, sau đó mới chậm rãi trả lời bằng một giọng cực kỳ thô trầm: “Rất ít người từng chạm mặt chúng ta, các ngươi sao lại có mặt trên con đường này?”

Tôi dụi dụi mắt mấy cái, bụi trong mắt cuối cùng cũng trôi ra hết, giương đôi mắt hồng hồng lên quan sát kỹ người nọ, chỉ thấy giữa mùa đông mà ông ta chỉ mặc một bộ trường sam mỏng manh, trên chân cũng chỉ đi một đôi giầy rơm, nhưng cạnh và lòng bàn chân đầy vết chai nứt nẻ cho thấy ông ta thường xuyên qua lại trên núi.

Bạch Dực vẫn không hề thả lỏng, nghiêm túc lựa lời: “Trên đường đụng phải quỷ, đành phải đến đây trú tạm một lúc.”

Trường sam gật đầu, không nói thêm gì nữa, lấy bánh nướng và rượu Thổ Gia trong túi ra ăn uống. Bên hông của ông ta treo một cái chuông, nhưng được dùng vải bịt kín lại nên không phát ra tiếng động.

Trường sam thấy tôi chăm chú quan sát mình, cũng nhìn lại, sau đó cười to, trông ông ta cười nhìn còn kinh khủng hơn là khóc. Ông ta ha hả cười mà nói: “Cậu nhóc này nhãn thần có hồn lắm, ta đi lần này chỉ gặp được có hai người các ngươi, hẳn là có duyên.”

Tôi lúng túng nhìn sang Bạch Dực, Bạch Dực vội vã cướp lời: “Trên đường gặp được Hỉ thần, mong hành cước sư phụ cứ yên tâm cất bước, tích nhiều âm đức.”

Tuy tôi không hiểu lắm cách hai người nói chuyện với nhau, nhưng từng nghe bà nội kể dân cản thi không bao giờ tự xưng mình là “cản thi”, mà tự xưng là “hành cước sư phụ”. Giống như đám trộm mộ tự xưng là “đảo đấu”, đám trộm vặt tự xưng là “Phật gia” vậy. Còn cái gọi là “Hỉ thần” chính là thi thể hiện đang đứng im phăng phắc trong góc tường kia. Gặp được Hỉ thần là chuyện may mắn, nghe nói có thể phát tài to, nhưng đồng thời cũng phải gánh nhiều sát khí. Cho nên Bạch Dực mới nói người kia cứ yên tâm đi đường của mình, chúng tôi nước giếng không phạm nước sông.

Trường sam gật đầu có vẻ tán thưởng, uống thêm một hai ngụm rượu, nhưng sắc mặt vẫn cứ tái nhợt kinh khủng. Ông ta ồ ồ nói: “Thanh niên bây giờ khó thấy ai hiểu rõ từ ngữ trong nghê như các ngươi, xem ra các ngươi cũng là dân có nghề. Phải không?”

Bạch Dực lập tức lắc đầu: “Chúng tôi chỉ là hai khách du lịch bình thường, không phải ‘dân chuyên nghiệp’.”

Trường sam tháo mũ ra, gãi gãi đầu, sau đó tìm một chỗ đất trống nằm xuống. Tôi thấy ông ta dường như đã ngủ, liền nhẹ giọng hỏi Bạch Dực: “Lão Bạch, ông ta thật sự là cản thi à? Vậy thứ phía sau cửa kia thực là thi thể sao?”

Vừa nói tôi vừa len lén liếc mắt nhìn người cao to mặc áo đen đứng im trong góc tường kia, trên trán đã bị dán một đạo bùa dài, đứng thẳng tắp như bức tượng không hề nhúc nhích, quả thực nhìn rất giống một cương thi.

Bạch Dực khẽ lắc đầu: “Cản thi rất hiếm gặp, hơn nữa ba mươi sáu công phu truyền lại trong giới bọn họ cực kỳ quỷ dị, nhất là ‘Hoàn hồn công’, cho tới giờ ngoại trừ những đồ đệ được trực tiếp truyền thụ lại thì không còn ai biết cách làm nữa.”

Nghỉ lại trong nghĩa trang đã là chuyện kinh dị, vậy mà lại còn vô tình gặp được nghề cản thi trong truyền thuyết. Tôi nuốt nước bọt, ánh mắt không hề dời khỏi cái thi thể đứng thẳng kia. Bạch Dực cũng không còn cái vẻ thờ ơ như trước nữa mà dùng ánh mắt chăm chú tỉ mỉ quan sát nhất cử nhất động của thi thể.

Sắc trời dần dần chuyển sáng, ngoài cửa sương mù vẫn tràn ngập, nhưng đã có một vai tia sáng len lỏi qua mái nhà mà chiếu xuống nền đất ẩm ướt. Tôi thở phào một tiếng, đêm dài rốt cuộc đã trôi qua. Trên mặt hai chúng tôi đều đầy mệt mỏi. Người mặc trường sam vẫn không hề động đậy, dường như đang ngủ rất say. Thi thể đứng cả đêm vẫn không động đậy nửa bước, y hệt như tượng sáp, nhìn nó, không biết trong lòng cảm thấy sợ hay là có hơi thất vọng…

Dù sao cũng là không quen không biết, chỉ có duyên cùng tá túc dưới một mái nhà một đêm, tôi và Bạch Dực chỉ lẳng lặng thu xếp hành trang sau đó lặng lẽ đi, không nói một tiếng. Cản thi chỉ đi buổi tối, ban ngày nghỉ ngơi, đó cũng là lý do người thường hiếm khi nhìn thấy bọn họ.

Ra khỏi khách sạn tử thi rồi, đột nhiên cảm thấy một thứ áp lực tối tăm nà đó vừa nhẹ nhàng rời khỏi người, dù trên người vẫn còn mang theo một mùi hôi thối đặc trưng. Chúng tôi dựa theo trí nhớ quay trở về con đường nhỏ mà đêm qua đã nhảy xuống khỏi xe, vì đang là ban ngày nên trông nó không âm u kinh khủng như đêm, hơn nữa còn có xe cộ qua lại. Đây đã là thời hiện đại, cho nên rất nhiều thanh niên trẻ không hề tin tưởng vào mấy chuyện “âm lộ”, do đó chúng tôi rất nhanh chóng tìm được một cái xe đẩy. Tài xế rất vui lòng chở chúng tôi tới tận nơi, điện thại đi động của Bạch Dực cũng đã gọi được. Hóa ra sóng điện thoại ở đây không phải không có, mà là rất chập chờn, cho nên đôi khi bị mất sóng gọi không được. Khi người nhà Bạch Dực tới ga đón chúng tôi thì chúng tôi đã đi mất tiêu, hai bên không gặp được nhau. Lúc này biết chúng tôi bình an sắp tới, bọn họ cũng thở phào một hơi nhẹ nhõm.

Khi xuống xe bước vào trại, tôi mới thấy đây quả là một khu định cư điển hình của dân tộc Thổ Gia. Một dãy nhà sàn dài, trên mặt đất là đường đất trải đá, tuy khu trại có hơi cũ nhưng vẫn có rất nhiều người cư ngụ. Trong khu trại cũng có điện, nhưng thông tin thì không hiện đại lắm, nói thẳng ra là ở chỗ này viết thư còn chắc chắn hơn gọi điện thoại.

Các cô gái đều mặc áo cánh ngắn, tay áo dài có thêu những hoa văn hình thù khác nhau cùng với quần lụa rộng, nhìn rất yểu điệu. Thấy hai người lạ từ xa tới đều che miệng cười khúc khích. Một ông chú lớn tuổi thấy chúng tôi tới liền lập tức bước ra, vỗ vỗ vai Bạch Dực: “Ai, cuối cùng cháu cũng tới rồi, lại đây cho ông chú nhìn kỹ xem nào!”

Bạch Dực có hơi bối rối, ông chú cứ vỗ vai anh ta liên tục, anh ta cũng chỉ biết gật đầu không ngừng. Tôi đứng ngoài nhìn thấy có hơi buồn cười, Bạch Dực đúng là hoàn toàn không biết cách đáp lại sự nhiệt tình của người khác, cho nên ngoại trừ cứ trả lời nhát gừng từng câu một được hỏi thì cũng không biết làm gì khác.

Có thể thấy ông chú này là người có địa vị cao, có uy tín trong khu trại, rất có thể là người đứng đầu bổn gia, tất cả mọi người đều có vẻ tôn kính ông ta. Ông ta nhiệt tình đón tiếp chúng tôi, đưa chúng tôi vào phòng riêng. Tầng dưới của nhà sàn không ở được vì đã chất đầy bếp ăn, nên chúng tôi lên lầu hai, ở đó có một bà lão đội khăn xếp trao cho chúng tôi hai chén canh dầu.

Tôi cầm chén canh uống một hớp, tẩy bớt hơi lạnh ám vào người từ đêm qua, sau đó buông chén. Ông chú chờ tới lúc đó mới hỏi: “Tiểu Dực, cậu thanh niên bên cạnh cháu là…?”

[1] Huyện Lô Khê thuộc tỉnh Hồ Nam

Chương 21: Tương Tây thi cổ (Hạ)

Để ngăn chặn Bạch Dực nói bậy bạ gì thêm, tôi vội vàng cướp lời: “Cháu tên An Tung, là đồng nghiệp và bạn cùng phòng của anh Bạch Dực ạ.”

Bạch Dực không kịp mở miệng, cũng chỉ gật gật đầu ý nói đúng là vậy. Ông chú mỉm cười gật đầu, đẩy đĩa hồ đào ra trước mặt chúng tôi. Bạch Dực lên tiếng hỏi: “Ông, lúc nào lễ giỗ bắt đầu?”

Ông chú hơi cau mày, nét mặt trở nên cực kỳ đau buồn: “Ờ… chắc là các cháu phải đợi… đợi thằng con của ông… ai~”

Vừa nói tới đây thì ông chú đã nước mắt ngắn dài, hóa ra con của ông đi làm xa, lâu lắm không về thăm  nhà, sau lại nghe nói không biết vì lý do gì mà đã truyền tới tin dữ nói là anh ta đã chết. Vì thế theo đúng quy tắc của khu trại, ông chú thuê dân cản thi đưa xác con mình về. Dù sao cáo chết cũng quay đầu về núi, người chết cũng phải mang về quê hương mai táng nơi phần mộ tổ tiên.

Tôi và Bạch Dực sửng sốt nhìn nhau, lồng ngực khẽ nảy lên, lẽ nào tay cản thi mà chúng tôi gặp trên đường… lại là thay ông chú đưa thi thể con trai về?

Danh tiếng của ông chú trong vùng này rất tốt, huống chi lại chính là bổn gia, con trai của bổn gia qua đời, chuyện này không thể sơ sài, cho nên ngay cả lễ giỗ mười năm của ông cố cũng phải dời lại, chí ít chờ đứa con tha hương này được đưa về nhà rồi mới cử hành lễ tang luôn thể.

Bởi vì tôi là người ngoài, danh nghĩa chỉ là đi cùng Bạch Dực tới đây tham quan nên chỉ biết nói một câu chia buồn, ngoài ra không làm được gì khác. Ông chú còn có nhiều việc phải chuẩn bị, vừa phải lo lễ tang cho con trai vừa phải lo lễ giỗ cho ông cố nên chỉ kịp ngồi với chúng tôi uống một chén cháo rồi lại phải vội vã đi.

Cả đêm hôm qua không được chợp mắt, lại phải đi quá nhiều, nên hiện giờ tôi không còn sức lực đâu mà du sơn ngoạn thủy nữa. Huống chi vì có lễ tang nên không khí xung quanh cũng rất khó thở, hoàn toàn không có chút nào vui mừng của dịp đầu năm mới. Tuy thế, những gia đình cư ngụ trong khu trại cũng tiếp đón chúng tôi rất chu đáo, không hề bê trễ.

Tôi thấy mọi người xung quanh bận rộn qua lại, chỉ biết ngồi đờ ra một chỗ cạnh Bạch Dực nói chuyện. Ăn xong bữa trưa, cũng có đi chung quanh khu trại tham quan một chút, khắp nơi trong trại đều dựng nên những căn lều to nhỏ khác nhau để chuẩn bị lễ điển. Tuy nói bây giờ đã hiện đại lên nhiều, nhưng ở vùng này vẫn duy trì tập quán mời thổ ty tới cử hành những nghi lễ quan trọng, chỉ có quả phụ và phụ nữ có thai là không được phép tham dự. Những người ngoài như tôi chỉ được đứng ngoài nhìn, không thể cùng những người trong trại tham gia hay chuẩn bị cho nghi thức.

Thời gian trôi qua trong buồn chán, phong cảnh xung quanh thực sự rất đẹp, nhưng tôi không có sức đi quá xa. Nghi thức bên ngoài càng hấp dẫn hơn, nhưng người ngoài lại không được can thiệp. Bạch Dực cũng bị coi như khách, chỉ đi thăm vài người họ hàng rồi thôi, không có chuyện gì làm, hai chúng tôi đành đi dạo loanh quanh gần khu trại.

Cho đến khi có người gọi chúng tôi về ăn cơm chiều, chúng tôi mới theo mấy đứa trẻ trong khu trại quay về, bữa cơm rất phong phú, toàn là đặc sản Tương Tây: có thịt khô xào rau dương xỉ, bắp rang, huyết ba áp[1] , cá chua cay, đặc biệt là những món cá của bọn họ, cực kỳ ngon miệng. Nhưng có lẽ là do ngày mai cản thi sẽ tới nơi nên mọi người đều có hơi bồn chồn, đặc biệt là ông chú, giấu không được sự đau khổ. Có lẽ chúng tôi và con trai ông không cách nhau bao nhiêu tuổi, nên khi nhìn chúng tôi mắt ông ta lại nhòe đi, lúc uống rượu lại dùng tay áo âm thầm gạt nước mắt.

Chúng tôi cũng không biết phải nói gì, dù sao người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh cũng là một nỗi đau khổ khó sánh trong thiên hạ. Ăn xong, chúng tôi quay về gian phòng ngủ đã được chuẩn bị cho mình, chúng tôi không thể ngụ lại trong khu nhà chính vì trong đó bây giờ đã được trang hoàng sửa soạn cho lễ tang, đầy đồ vàng mã, không ai dám cho chúng tôi ngủ cùng nơi với những đồ vật của người chết, nên chúng tôi được chuẩn bị cho một gian phòng ở mé sau. Tuy nói là nhà sau, nhưng được quét tước dọn dẹp sạch sẽ, chăn nệm đều là đồ mới.

Tôi hoạt động cả một ngày đêm, nên cơm nước tắm rửa xong là lập tức chui về phòng nằm duỗi dài người không muốn động đậy nữa. Toàn bộ cơ thể lúc này mới ẩn ẩn đau nhức không thể cử động lấy một ly, chỉ có cái miệng thở đều đều, trông rất giống một con cá mắc cạn.

Có người nói là một ngày đêm trước khi cản thi đưa thi thể về tới nhà, thân nhân của người chết sẽ nằm mơ thấy người chết về nói cho người nhà biết thi thể của mình đã trèo đèo lội suối về nhà để gia đình chuẩn bị lễ tang. Kỳ thực phong tục của người Thổ Gia thường quàn quan tài trong nhà vài ngày trước khi đem chôn, nhưng nếu là do cản thi mang về thì phải lập tức hạ táng ngay, vì thi thể hư thối rất nhanh, mùi hôi thối đó người sống không thể chịu nổi.

Chỉ trong vòng một ngày đêm mà tôi đã được tận mắt chứng kiến hai nghề nghiệp quái lạ nhất Tương Tây là cổ độc và cản thi, cho nên lúc này trong đầu vẫn còn quay cuồng suy nghĩ, huống chi ngoài cửa người qua lại vẫn còn tấp nập, đèn đuốc sáng trưng, cho thấy bọn họ bận rộn tới mức nào. Tuy không phải là con cái ruột thịt trong nhà, nhưng tất cả những gia đình trong khu trại đều là sinh hoạt gần nhau, con cái cũng lớn lên bên cạnh nhau, con người khác cũng như con của mình, sao có thể làm ngơ lúc này?

Tôi nằm thườn thượt trên giường như con cá chết, xung quanh là một bầu không khí xa lạ, nhưng lại rất yên tĩnh. Nhìn qua khung cửa sổ vuông vức trên đầu, thấy bên ngoài đã tối sầm. Ngọn đèn trường mệnh thắp xa xa như dẫn lối cho linh hồn tha hương quay về quê nhà. Trong phòng ấm áp, chăn nệm cũng thoải mái, tôi nặng nề trở mình, mí mắt dần dần díp lại. Mơ hồ nghe có người đẩy cửa vào, tôi nhắm mắt, biết là Bạch Dực, nghe anh ta nhẹ nhàng hỏi: “Ngủ rồi à?”

Tôi ậm ừ một tiếng, sau đó ý thức dần dần chìm vào cơn buồn ngủ ập tới như sóng triều.

Nửa đêm tôi đột nhiên tỉnh lại. Không biết tại sao, rõ ràng là rất mệt mỏi rất buồn ngủ, vậy mà tự nhiên không sao ngủ tiếp được nữa, tôi đứng dậy, nhìn thấy Bạch Dực đang ngủ rất say trên cái giường sát vách.

‘Hay là tại lạ chỗ…?’ Tôi nghĩ thầm, mặc thêm áo khoác ra bên cửa sổ đẩy chấn song ra, một cơn gió lạnh lập tức thốc vào. Tôi siết chặt thêm y phục, nơi này quả là một nơi thế ngoại đào nguyên xa rời đô thị đông đúc chật chội, nhưng lại đơn độc tồn tại giữa một vùng trời nước bao la, tự nhiên khiến người ta có cảm giác bức bí bé nhỏ. Bốn phía đen như mực, ánh trăng lẻ loi xa xa không đủ để soi sáng, trời nặng tầng tầng mây, không khí bị sự yên lặng tuyệt đối ngự trị. Tôi hít sâu mấy hơi, chuẩn bị đóng cửa vào ngủ lại, nhưng lúc tay đặt lên khung cửa lại đột nhiên phát hiện dưới ngọn đèn trước cửa lều tang có một bóng người, tôi thầm nghĩ, giờ này còn có người vất vả ở dưới, quả nhiên là lễ long trọng.

Nhờ ánh trăng nhàn nhạt, tôi có thể nhìn thấy ít nhiều mọi chuyện diễn ra dưới đất, vì thế nổi lòng hiếu kỳ, nheo nheo mắt chăm chú quan sát bóng người dưới ánh đèn, nhưng vừa nhìn thấy kỹ thì tôi đã sợ tới mức giật nảy cả người. Thứ đang lang thang dưới kia… không thể gọi là “con người” được, đầu và tứ chi của nó là người, nhưng thân thể ở giữa đã biến dạng tới mức thê thảm cực kỳ. Tôi cố nén cảm giác buồn nôn cuồn cuộn trong dạ dày, nhưng thứ kia quả thực quá mức ghê tởm, thân thể của nó căn bản chỉ là một đống thịt nhầy nhụa, ruột lòi cả ra ngoài, thậm chí có thể thấy những phần xương sườn trắng hếu lộ ra ngoài qua đống da thịt nham nhở, trông còn kinh khủng hơn cả zombie. Nó dường như đang lang thang vô mục đích xung quanh mấy căn lều ở dưới, miệng há hốc ngáp ngáp như đang gào thét cái gì, nhưng không hề phát ra thanh âm. Được một lúc, nó lảo đảo chạy ra trước nhà lớn liều mạng dập đầu lia lịa, da thịt trên người cũng theo đó mà rơi rụng. Trên mặt đất xung quanh nó đã đầm đìa máu, trông cực kỳ quỷ dị lẫn ghê rợn.

Tôi chưa từng bao giờ gặp phải cảnh tượng kinh hoàng đến thế, cả người run bần bật bấu chặt vào tấm mành cửa sổ nhìn. Khi tôi run rẩy chuẩn bị đóng cửa sổ để khỏi nhìn thấy nữa thì… trên bệ cửa sổ chợt xuất hiên một… cái đầu! Tôi quýnh lên nhìn xuống thân người dưới mặt đất, nó vẫn đang dập đầu, nhưng đầu… đầu không còn nữa!

Cái đầu đặt trên cửa sổ sưng phù, to lớn khác thường, bảo đó là cái đầu chi bằng nói nó là một đống thịt còn đúng hơn. Hai mắt nó đảo ngược trắng dã nhìn tôi, từ cái đầu tỏa ra từng trận mùi hôi kinh người. Miệng nó há hốc ra, bên trong lúc nhúc những con sâu đen bóng bò lổn ngổn, vì trong miệng toàn là sâu, nên dường như nó không nói được, chỉ thấy sâu đen phun ra không ngừng.

Cảm thấy cái đầu to tướng này chẳng qua chỉ là một cái ổ sâu không hơn không kém, tôi bụm chặt miệng liều mạng thối lui về phía sau, chỉ sợ có con sâu nào bò lên người. Đột nhiên tấm bùa mà ông lão trên xe lửa đã cho tôi để trong túi áo trước bất thình lình bốc cháy. Tôi hốt hoảng móc ra vứt ra ngoài, tất cả những con sâu đụng phải lá bùa đều xèo xèo bốc cháy theo, đám còn lại hốt hoảng chạy ngược lại về phía cái đầu, sau đó cái đầu chao một cái lăn ra khỏi cửa sổ rơi xuống dưới rừng cây bên dưới, chỉ còn nghe thấy những tiếng lộc cộc trong đêm khi nó lăn đi càng lúc càng xa.

Đột nhiên tôi cảm thấy cả căn phòng dường như rung lắc dữ dội, hai bên má truyền tới cảm giác đau đớn, bên tai nghe thấy tiếng Bạch Dực mơ hồ mà cấp thiết: “Này! Tỉnh! Tỉnh mau!”

Khi tôi mở mắt ra, nhìn thấy lão Bạch đang ngồi bên cạnh, một tay đỡ đầu tôi dậy, tay còn lại đánh mạnh lên hai bên má tôi. Cảm giác đau tê dại trên mặt khiến tôi thoáng chốc tỉnh lại, nhìn quanh bốn phía không còn cái đầu nào nữa, cũng không có những con sâu màu đen bò lúc nhúc, tôi vẫn đang yên ổn nằm trên giường mình.

Hành động đầu tiên của tôi sau khi lấy lại ý thức là… vươn tay tát Bạch Dực một cái, vì anh ta rõ ràng là đang nhân cơ hội đánh tôi mà! Tôi đẩy mạnh Bạch Dực ra, bụm mặt gào lên: “Sao tự nhiên đánh tôi!”

Anh ta phát điên che bên má bị đánh mà gằn lại tôi: “Câu đó phải là tôi nói mới đúng! Nếu tôi không đánh cho cậu tỉnh lại thì lúc này cậu đã té lăn xuống giường rồi! Làm sao vậy hả?! Gặp ác mộng gì?”

Tôi lấy tay đè huyệt Thái Dương đang nhức bưng bưng, đầu óc vẫn còn hơi choáng váng, nhưng cảm giác rõ ràng xung quanh có vẻ có thực hơn lúc nãy. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, hướng về phía căn lều có ngọn đèn treo trước cửa, dưới ánh đèn tù mù không có bóng ai, chỉ có một hai con thiêu thân bị ánh sáng đèn hấp dẫn mà bay vè vè xung quanh.

Cả người vì quá sợ mà đầy mồ hôi lạnh, tóc cũng ướt sũng, tôi đưa tay chầm chậm vuốt mặt mình, lại nhịn không được mở miệng ra kiểm tra xem có con sâu nào bên trong hay không. Tuy chỉ là một giấc mơ, nhưng là một giấc mơ quá mức chân thực, thật không hiểu vì sao lại làm ra giấc mơ kinh dị đến như thế.

Tôi dại ra ngồi đờ trên giường, Bạch Dực đi rót cho tôi một ly trà, đến lúc đó tôi mới phát hiện ra lá bùa cất trong túi áo ngoài đã hóa thành một đống tro tàn tự lúc nào, nhưng y phục không hề bị ảnh hưởng mảy may, làm như lá bùa tự thiêu cháy vậy. Bạch Dực cũng nhìn thấy, nhưng vẫn không nói gì. Tôi uống một hơi cạn sạch ly nước ấm, nhưng vẫn cảm thấy cổ họng khô khốc, vì thế Bạch Dực lại đứng lên rót thêm cho tôi một ly nữa.

Tôi nhỏ giọng kể lại toàn bộ giấc mơ lúc nãy cho Bạch Dực nghe, anh ta trầm ngâm ngồi bên cạnh giường tôi, càng nghe chân mày càng cau lại. Cuối cùng, tôi lo lắng hỏi: “Lão Bạch… chẳng lẽ tôi trúng phải cổ độc rồi sao…?”

Bạch Dực lắc đầu: “Không, hình như không phải, đây là một loại báo mộng, nhưng mà…”

Anh ta không nói hết câu, chỉ vỗ vỗ đầu tôi nói: “Thôi đi ngủ tiếp đi, chắc không còn gì xảy ra nữa đâu.” Tuy nghe anh ta nói thế, nhưng trong lòng tôi vẫn phập phồng run sợ, huống chi cảm giác cả người như nhũn ra sau khi gặp ác mộng làm tôi cảm thấy lạnh hơn hẳn, chỉ cuộn chăn bao kín người nằm nghe ngóng, không dám ngủ lại. Nghiêng đầu sang nhìn Bạch Dực, tôi thấy anh ta cũng không ngủ, ánh mắt lạnh lùng điềm tĩnh đến đáng sợ cho thấy anh ta đang suy nghĩ rất lung về cái gì đó. Nhìn anh ta như thế, lòng tôi càng thêm sợ hãi: rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra vậy?

Chẳng bao lâu thì có người tới gõ cửa, báo là con trai của ông chú đã “trở về”. Tôi và Bạch Dực giật mình nhìn nhau, sau đó vội vàng mặc quần áo cùng nhau ra ngoài xem.

Trước cửa khu trại đã chật ních người đứng chờ, bây giờ vẫn còn là giữa đêm, đám đông người bao xung quanh khe khẽ bàn tán với nhau. Có người nhịn không được đã bắt đầu bật khóc thút thít, ngoài đường, người cản thi một tay vung chuông đồng, một tay rải tiền âm phủ đang chầm chậm tiến tới. Mọi người vừa nhìn thấy thi thể phía sau thì đã có người bắt đầu gào khóc thảm thiết. Rằng quả thực con trai của ông chú đã trở về…

Người cản thi nhận ra hai chúng tôi giữa đám đông người, nhưng chỉ nhìn một cái rồi không nói không rằng đưa con trai ông chú về phía lều chứa quan tài. Tôi bíu lấy cánh tay Bạch Dực thì thào: “Quái vật tôi nằm mơ thấy ban tối… hình như… hơi giống con trai ông chú…!”

Bạch Dực khẽ giật tay ra, thì thầm trả lời: “Đừng nói ra, nghề cản thi ở đây được coi trọng lắm, ngay cả Đại thổ ty cũng phải nể ông ta vài phần đấy.”

Quả không sai, cả ông chú lẫn thổ ty đều đích thân ra nghênh đón, hai vợ chồng ông chú vừa nhìn thấy thi thể thì đã bắt đầu khóc rống lên. Nhưng đứa con trai của bọn họ chỉ theo tay cản thi đi thẳng về phía gian phòng chuẩn bị lễ tang cho cậu ta mà không buồn nhìn cha mẹ mình lấy một cái.

Quá trình khâm liệm chỉ có thể do một mình người cản thi đích thân thực hiện, người bên ngoài tuyệt đối không được nhìn trộm, ngay cả thân nhân của người chết cũng không được ngoại lệ, lúc đem thi thể “đỡ tới” quan tài cũng chỉ được thực hiện giữa đêm khuya, không được cho ai thấy. Nghe nói là do lúc nhập liệm, cản thi phải thực hiện nghi thức “khởi hồn”, nếu lúc đó có người sống đứng bên cạnh thì có thể khiến thi thể bị động, gọi là “kinh thi”, người sống có thể không được an bình, chưa kể tới khả năng người chết hóa thành cương thi.

Thế nhưng tôi càng nghĩ càng thấy không ổn, người trong mộng kia nhất định là thi thể này, mà tại sao cậu ta lại phải báo mộng cho tôi?

Mọi người đứng chờ ngoài phòng, khắp nơi đều là tiếng khóc nức nở, tôi và Bạch Dực đứng ngay kề cửa nhìn chăm chăm vào cánh cửa đóng kín, đây chính là vị trí mà tôi mơ thấy quái vật lang thang đêm qua. Ngọn đèn đã chập chờn muốn tắt, xung quanh lạnh hẳn đi, tiếng khóc than xung quanh càng vì thế mà ai oán bi thương. Lúc này là lúc đêm sâu nhất, bốn phía đen thui như mực, ngay cả mảnh trăng khuyết ban tối cũng đã bị che khuất bởi tầng tầng mây đen, trong lòng tôi càng lúc càng bất an, nghĩ thầm chắc hẳn có gì quỷ dị ở đây.

Qua hồi lâu, cản thi đi ra, Đại thổ ty bước tới để trả công cho ông ta, người nhà cũng cho tiền lì xì, cản thi nhận tiền xong liền bảo mọi người có thể vào xem mặt người chết. Ông chú kích động vội vã chạy vào, đoàn người bên ngoài, có cả chúng tôi cũng hộc tốc theo sau, thi thể nằm trong quan tài lúc này đã không còn cảm giác quỷ dị như lúc nãy nữa, mà thực sự biến thành một thi thể bình thường, nằm ngay ngắn, sắc mặt trắng nhợt lạnh như băng, trông như vừa đặt lưng xuống ngủ.

Vợ chồng ông chú vừa nhìn thấy đúng là con trai mình lập tức lăn ra khóc, nhưng tôi vẫn cảm thấy quang cảnh có gì đó hết sức kỳ quái. Cản thi đứng tựa lưng vào cửa, vẻ mặt thản nhiên lãnh đạm như thể đã nhìn mãi thành quen. Bạch Dực vẫn nhìn thi thể chăm chú, đột nhiên dường như phát hiện ra cái gì, anh ta nhanh chóng xăm xăm bước tới định đụng vào tử thi, cản thi lập tức quát lên: “Không được đụng!”

Tròng kính của Bạch Dực thoáng xẹt qua một tia hàn quang, anh ta cười nhạt hỏi: “Sao lại không được?”

Trường sam vốn là một gã đàn ông xấu xí, lúc này cặp mắt ốc bươu trừng to càng giống như hung thần muốn giết người, tất cả mọi người nín bặt không dám lên tiếng, chỉ oán hận nhìn Bạch Dực, nhưng vì chúng tôi là khách của bổn gia nên bọn họ không dám cả tiếng mắng. Ông chú hai mắt đỏ ngầu tập tễnh bước ra, khàn giọng hỏi: “Tiểu Dực, có chuyện gì vậy?”

Bạch Dực đưa tay đẩy gọng kính, lạnh lùng cười: “Ta nên gọi ngươi là ‘sư phụ’, hay là ‘tên lừa đảo’ đây?!”

Gương mặt xám xịt của trường sam lộ ra vẻ hung dữ khác thường, hắn tàn bạo gầm lên: “Đồ nhãi ranh không biết nặng nhẹ! Dám đụng vào xác chết để cho nó hóa thành cương thi, tất cả người trong khu trại các ngươi đều phải chết!”

Mọi người vừa nghe tới cương thi thì toàn bộ khu trại đều cả kinh, bắt đầu xì xào bàn tán, ông chú vội vàng kéo Bạch Dực lại nói: “Cháu ơi là cháu, đừng gây sự nữa, đây là đại sự ảnh hưởng tới toàn khu trại đó!”

Gương mặt tuấn tú của Bạch Dực hiện lên vài phần tức giận, rất ít khi tôi nhìn thấy anh ta để lộ ra vẻ mặt đáng sợ đến vậy, anh ta trừng trừng nhìn trường sam, hỏi tôi: “Tiểu An, có biết tại sao cậu lại nằm mơ như vậy không?”

Nhắc tới giấc mơ ban tối, cả người tôi lại run lên, ánh mắt mọi người trong khu trại đồng loạt chĩa sang tôi, tôi bị mọi người chú mục nhìn, cảm thấy có hơi lúng túng, bèn cắn răng hỏi lại: “Vì sao?”

Trường sam vừa nghe thế thì thoáng giật mình, vẻ mặt kinh hãi trừng trừng nhìn tôi như thể đang tự hỏi vì sao tôi lại còn sống đứng đây vậy. Bạch Dực chỉ chờ có thế, liền nhanh chóng tiến tới bên quan tài, lúc mọi người còn đang trợn mắt chưa kịp phản ứng thì anh ta đã nhanh như chớp vươn tay tới, giật mạnh áo liệm ra.

Chúng tôi lập tức kinh hoàng đến không thốt nổi lời nào, tất cả mọi người đều há hốc miệng, bà thím hét lên một tiếng ngã lăn ra ngất xỉu. Mọi người chung quanh cũng theo đó mà bắt đầu gào thét nhốn nháo. Thi thể nằm trong quan tài… rõ ràng chỉ là một khối gỗ. Chỉ có tứ chi và cái đầu là đúng là của thi thể.

Mọi người đều hét lớn hoặc khóc òa lên. Những mẩu tay chân bị cột chặt vào bốn mấu gỗ, mặc áo liệm ra bên ngoài, thoạt nhìn không thể biết bên trong là cái gì. Bạch Dực lạnh lùng gằn giọng: “Đây chính là nguyên nhân cậu gặp ác mộng đấy!”

Lại nhìn trường sam một cái, anh ta tiếp tục: “Bởi vì ông ‘sư phụ’ này… à không, phải nói là hai người mới đúng, bọn họ không phải là dân cản thi, mà chỉ là những kẻ khiêng xác chết mà thôi!”

Trường sam thối lui muốn đào tẩu, nhưng cánh cửa đã lập tức bị mấy thanh niên Thổ Gia lực lưỡng đứng chặn lại. Ánh mắt lạnh lùng của Bạch Dực nhìn chằm chằm về phía hắn, tiếp tục nói: “Ngươi để cho đồng bọn của mình đội cái đầu của thi thể lên, sau đó giả vờ như thi thể đi trên đường. Tới nơi rồi thì các ngươi đem tay chân giấu trong bao ra cột vào đầu gỗ giả làm xác chết, còn thi thể thực sự chắc đã bị các ngươi ném vào một nơi hoang vu nào đó rồi nhỉ!”

Trong cổ họng trường sam chợt phát ra những tiếng lục cục gầm gừ, một lúc sau, chợt nghe hắn cười gằn một tiếng: “Hừ, không ngờ lại bị hai thằng nhãi ranh lật tẩy, bất quá xác chết kia ta không có đem vứt đi, mà là… dùng vào việc khác có lợi hơn rồi!”

Ông chú tức giận tới mức run bắn cả người, ngón tay chỉ vào trường sam hồi lâu, cuối cùng chỉ rít được một tiếng duy nhất: “…Đánh!”

Tất cả mọi người như bị châm lửa, hét lên một tiếng rồi xông lên, thi thể của cậu con trai coi như đã mất, cho dù bây giờ có bắt tên lừa đảo kia trả lại thi thể thì cũng đã bị phân năm xẻ bảy, làm sao còn có thể gọi là di thể được nữa?

Ông chú trợn mắt to tới mức sắp rách mí, đám thanh niên Thổ Gia đều xắn tay áo vác gậy gộc hò la xông tới, chuẩn bị tóm lấy tên cản thi vô lương tâm mà dần cho một trận.

Tôi kinh hoàng đứng nhìn, thầm nghĩ nếu không nghĩ cách can ngăn kịp thì chắc chắn sẽ có án mạng, vì thế chuẩn bị lên tiếng ngăn đám người Thổ Gia lại, nhưng Bạch Dực đã kéo tôi ra sau, tôi thấy anh ta vẫn chằm chằm nhìn trường sam một cách đầy cảnh giác mới để ý, rõ ràng có một đống người hùng hổ xông tới chuẩn bị tóm lấy hắn, vậy mà hắn vẫn cứ thản nhiên đứng yên đó, ánh mắt liếc về phía mọi người ẩn chứa cái nhìn thâm độc.

Nói là nhìn mọi người, nhưng thực ra là nhìn hai chúng tôi, trong mắt đầy ý cười lạnh lẽo khiến người ta phải bất an. Lúc tôi nghĩ hắn chuẩn bị đánh trả, thì một thanh niên Thổ Gia đã dùng gậy gỗ đập một cái thật mạnh lên vai hắn. Cây gậy đập vào mục tiêu vang lên một tiếng “bộp”.

Lập tức cặp mắt của trường sam đảo ngược lên, lộ ra tròng trắng, từ trong miệng hắn hộc ra một đám khói đen mùi tanh hôi lợm mửa. Bạch Dực vừa thoáng thấy thế, lập tức hét lên: “Mau lui lại, đừng đụng tới hắn!”

Đoàn người rất có ý thức cảnh giác, vừa nhìn tay cản thi bắt đầu biến đổi là lập tức tránh ngay ra xa, không ai dám tới gần nữa. Thân thể của trường sam thoắt cái nhũn ra như một cái túi da ngâm nước, tròng mắt hắn đảo bốn phía, trong cổ họng sinh ra tiếng lục cục, trên cổ đùn lên một đống những cục u nho nhỏ chuyển động không ngừng, dường như có cái gì đang chạy bên trong vậy! Trên mặt hắn vẫn lộ vẻ tươi cười, ánh mắt cuối cùng dừng lại trên mặt chúng tôi, trong mắt tràn đầy uy hiếp.

Bạch Dực đỡ người tôi, lạnh lùng nói qua: “Kỳ thực ngươi chỉ là một tên cổ nhân mà thôi, đồng bọn của ngươi chính là một ả vu bà, kẻ hạ cổ độc cho ngươi cũng chính là ả ta, đúng không? Thi thể đã bị ả đem đi chế cổ rồi chứ gì? Ngươi bất quá chỉ là một thứ con rối mà thôi!”

Gương mặt chảy nhũn ra của trường sam càng cười tươi hơn, hắn khanh khách bật cười to. Hai bên má của hắn dần dần sưng phồng lên, lổn nhổn cục u, khoang miệng há hốc ra, trong nháy mắt, từ trong miệng hắn phun ra một đống sâu, nhiều tới nỗi trong thoáng chốc đã bao trùm hết cả gương mặt hắn, chỉ còn một đôi mắt độc ác vẫn nhìn chúng tôi chằm chằm. Dân trong khu trại đều nhốn nháo bỏ chạy, những người ở bên trong thì ép sát người vào những góc phòng, run sợ ôm chặt người, chỉ sợ đám sâu này bám lên mình. Ông chú đứng cạnh chúng tôi đã sợ tới mức té lăn ra đất, không chạy nổi nữa.

Nhưng Bạch Dực vẫn thản nhiên nhìn kẻ kia dần dần hóa thành một bãi sâu. Anh ta lấy trong túi áo ra tấm bùa ông lão trên xe lửa đã cho chúng tôi, rì rầm vài lời, tấm bùa lập tức tự bốc cháy, tỏa ra một mùi thơm lạ lùng. Bạch Dực ném lá bùa vào giữa đám sâu, lập tức đám sâu chạm phải lá bùa đang cháy cũng bùng cháy theo, dần dần hóa thành một đám lửa vĩ đại đốt toàn bộ đám sâu xung quanh, kể cả cái xác nhăn nhũn của trường sam.

Mọi người kinh hoàng đứng lặng nhìn cảnh tượng đáng sợ trước mắt, trường sam nhanh chóng bị thiêu hết chỉ còn một đám thịt cháy. Một lớp khói đen đặc tỏa ra, hôi thối ghê người. Có nhiều phụ nữ không chịu nổi, lập tức che miệng ói. Cảnh tượng cực kỳ hỗn loạn.

Tôi cũng bị đám khói hun đến nghẹt thở, bưng kín mũi miệng, cố hết sức kiềm chế không nôn ra.

Bạch Dực vẫn nhìn chằm chằm vào đám lửa đang lụi dần, sau đó mới nói với tôi: “Đây chính là thứ mà truyền thuyết gọi là thi độc cổ nhân, nếu không có lá bùa do vị cao nhân trên xe lửa cho, thì rất khó đối phó.”

Không khí trước mắt tôi đã mờ đi, thứ này quả thực còn độc hại hơn cả chất thải công nghiệp, khói của nó khiến tôi gần như không mở nổi mắt. Vất vả lắm tôi mới trấn tĩnh lại được, Bạch Dực vỗ vỗ lưng tôi vài cái, tôi lập tức khoát khoát tay, ra hiệu không việc gì.

Tôi thở dài nhìn một đám tro than lẫn lộn đen ngòm, không còn phân rõ đâu là người đâu là sâu nữa. Thật khó lòng tưởng tượng chỉ mới vài phút trước thôi, nó còn là một con người hoàn chỉnh.

Rõ ràng mọi thứ đều đã được trời an bài từ trước, đã cho chúng tôi gặp được vị cao nhân nọ trên xe lửa. Mà đứa con trai của ông chú cũng không chịu nổi nỗi đau đớn bị đem ra chế cổ, nên suốt đêm quay về báo mộng. Cho nên trong giấc mơ, thi thể của cậu ta mới ghê rợn như vậy. Nhưng tại sao lại là tôi?

Cảm thán cùng nghi hoặc xoay vần trong đầu, tuy tất cả mọi người vẫn còn đang bàng hoàng, nhưng phía chân trời đã bắt đầu hửng sáng. Mấy con gà trống trong khu trại cũng cất tiếng gáy vang, xua tan không khí âm u bốn phía. Bạch Dực quay lại tìm ông chú, ông vẫn còn run lẩy bẩy dựa cả người vào quan tài. Bạch Dực vội vàng tới nâng ông ta dậy, quay lại nhìn thi thể mà nói: “Ông chú, con trai của ông vẫn cần phải hạ táng chu đáo, để cho cậu ta được an tâm mà siêu thoát. Còn đám than ngoài kia, cho người dùng xẻng đào hố chôn thật chặt, tuyệt đối không cho phép bất kỳ ai được chạm vào, vì thi cổ là một loại cổ độc rất âm hàn, sinh lực cũng rất ngoan cường. Tuy cháu đã đốt hết, nhưng có thể ở giữa vẫn còn có một hai con chưa cháy.”

Ông chú vừa nghe thấy thế liền lập tức đứng bật dậy, vội vã gọi mấy thanh niên quanh đó: “Mau! Mau! Đi lấy cái xẻng đào đất chôn hết chỗ tro này cho ta! Sau này không ai được phép tới chỗ này nữa!”

Mấy thanh niên Thổ Gia gần đó gật đầu, nhưng xem ra ai cũng sợ, chỉ nhìn nhau mà không dám ra tay. Mãi mới có người dùng hết dũng khí đào một cái hố to, mọi người cùng nhau lấp kín đống tro lại, tuyệt không để nó lộ ra ngoài.

Ông chú chờ cho đến khi mọi việc xong hết, mới quay lại nước mắt ngắn dài nói: “Con trai của ta quả thực số khổ mà!” Rồi lại ngã xuống bên quan tài khóc một lúc lâu, mãi mới có người tới dìu vào nhà.

Bạch Dực nhìn xung quanh một hồi, rồi mới gật đầu ra hiệu chúng tôi có thể đi. Lúc tôi chuẩn bị rời đi, chợt khóe mắt trái của tôi vô tình thoáng liếc qua cái đầu của thi thể con trai ông chú. Từ trong miệng bò ra một con sâu đen bóng, nhanh như chớp nhảy ra ngoài mất dạng, mà khóe miệng của người chết, trong nháy mắt, nhếch lên thành một nụ cười quỷ dị…

“Đa số côn trùng các loại có thể tích trữ dùng làm lương thực qua ngày, duy chỉ có một thứ côn trùng độc hại người, tức thị là cổ, biến hóa khó lường, một ngày ăn nhằm phải, tất biến thành hậu hoạn.” ———-[Chư bệnh nguyên hậu luận – Cổ độc hậu]

Tương Tây thi cổ – Hoàn

_____________________________________________

Chú thích về nghề cản thi (Dịch từ bài có cùng chủ đề trên trang web Baidu):

“Cản thi” là một loại phép thuật trong truyền thuyết của dân tộc Miêu Cương có thể sai khiến thi thể hoạt động. Người Miêu chia phép thuật ra làm hai loại: hắc vu thuật và bạch vu thuật, trong đó cản thi thuộc về bạch vu thuật.

“Cản thi” tức là điều khiển thi thể nhảy từng bước từng bước theo sau lưng pháp sư để quay về cố hương. Nhưng không phải là đem thi thể về tới tận nhà, mà chủ yếu chỉ là đưa thi thể đi qua những khu vực núi non hiểm trở, đường xá gồ ghề mà thôi. Đến khi xuống tới những nơi bằng phẳng thì có thể cho thi thể vào quan tài đưa tiếp về nhà.

Cản thi thực ra không ngại ban ngày hay ban đêm, chỉ là để tránh làm người qua đường hoảng sợ cho nên dân cản thi thường chọn ban đêm mà đi, lại càng khiến cho nghề này được khoác thêm một tầng bí ẩn khiến người ngoài sợ hãi.

Cản thi thông thường cần hai người mặc áo bào pháp sư, cho dù có bao nhiêu thi thể đi nữa thì cũng chỉ cần hai người bọn họ (sư phụ và đồ đệ) điều khiển. Hai người không được thắp đèn lồng, trong tay cầm chuông nhiếp hồn, vừa đi vừa rung để người đi đường biết mà tránh xa, nhà nào có nuôi chó thì biết mà xích chó lại. Nếu số thi thể nhiều hơn một thì dùng dây thừng nối các thi thể lại với nhau, mỗi thi thể cách nhau khoảng 6, 7m, lúc đi đêm, các thi thể đều đội mão lông chiên cao, trên trán dán một đạo bùa vàng.

“Khách sạn tử thi”: Trên đường có những khách sạn tử thi, loại “khách sạn” này thực chất là một nơi để cản thi và thi thể dừng lại nghỉ. Cửa khách sạn quanh năm đều mở rộng, nhưng người sống không bao giờ bước vào. Bậu cửa của những nơi này đều rất cao, nên thi thể không thể bước qua được, chỉ dừng lại ở sau cửa, đứng yên ở đó. Cản thi ban ngày thì vào khách sạn tử thi nghỉ lại, ban đêm lại đi tiếp, có khi gặp trời mưa to gió lớn phải dừng lại mấy ngày.

Phạm vi hoạt động của nghề cản thi thực ra rất hẹp, chỉ gói gọn trong phạm vi khu vực Tương Tây. Tương Tây nằm ở phía tây Hồ Nam, bao gồm bốn khu vực chính là Nguyên Lăng, Lô Khê, Thần Khê và Tự Phổ. Thứ nhất là vì chỉ có Tương Tây là có khách sạn tử thi, thứ hai là vì dân Tương Tây nghe hiểu tiếng chuông, nghe thấy tiếng chuông tự biết tìm cách tránh đường, thứ ba là vì Tương Tây có những con đường bên ngoài khu dân cư, còn các tỉnh thành khác đường đi chủ yếu vẫn là xuyên qua thôn xóm, dễ làm người sống kinh sợ, nên nghề cản thi chỉ thịnh hành ở khu vực này.

Điều kiện hành nghề: Ở Tương Tây từ xưa đã coi cản thi như một nghề quang minh chính đại, muốn học nghề này phải bái sư. Lúc bái sư phải đáp ứng được hai yêu cầu: thứ nhất là can đảm, thứ hai là khỏe mạnh. Muốn học nghề, đầu tiên phải bị thật xấu xí, càng xấu càng tốt. Hơn nữa còn có thử thách. Thử thách thứ nhất là sư phụ sẽ đem người muốn học xoay mạnh vài vòng, xoay xong yêu cầu người muốn học phải lập tức nhìn lên mặt trời mà đoán xem đâu là đông tây nam bắc; nếu không đoán được thì khi đi cản thi ban đêm sẽ không phân nổi phương hướng, không có tư cách cản thi. Thứ hai là phải có khả năng khiêng vác được vật nặng, vì khi gặp những sườn núi quá dốc, thi thể không thể tự mình leo lên được, thì người cản thi phải tự cõng thi thể từng bước từng bước một leo lên. Thử thách cuối cùng là sư phụ sẽ đem một mảnh lá bằng đồng giấu trong một nhà mồ hoang vắng, yêu cầu người học việc tới lấy nó về. Nếu không làm được thì không đủ can đảm để làm nghề cản thi. Nếu vượt qua tất cả những yêu cầu trên thì có thể chính thức bái sư học nghề.

Bình thường, dân cản thi cũng giống hệt người thường, làm nghề nông. Chỉ có những lúc có ai cần cản thi, mới tìm đến họ, hỏi: “Sư phụ, xin mời hành một lần cước” hoặc “Sư phụ, xin mời đi hành cước”. Lúc đó họ mới đem ra một tờ giấy màu vàng đặc chế, cho người thân của người chết ghi tên tuổi và ngày sinh – ngày mất của người chết lên đó, lại đem ra một lá bùa khác dán lên tờ giấy đó và cất kỹ trong người.

Khi hành nghề, cản thi lúc nào cũng phải ăn mặc giống nhau: đi giầy rơm, mặc trường sam bằng vải bố màu xanh, thắt đai lưng màu sậm, đầu đội mũ vải cao, trong túi cất một đống bùa.

Sư phụ dạy đồ đệ, đầu tiên là dạy vẽ bùa. Loại bùa đặc thù này được viết bằng mực đỏ trên nền giấy vàng, lúc gặp chuyện cần kíp có thể dán lên cửa hoặc một thân cây nào đó nằm ở phía tây, hoặc cũng có lúc đốt lên hòa vào nước rồi uống. Kế tiếp là dạy ba mươi sáu loại công phu, thứ nhất là “trạm lập công”, giúp thi thể đứng thẳng lên, thứ hai là “hành tẩu công”, giúp thi thể di chuyển được; thứ ba là “chuyển loan công”, giúp thi thể đi trên đường có thể xoay chuyển; ngoài ra còn có “hạ pha công” (để xuống núi); “quá kiều công” (để qua cầu); “ách cẩu công” vân vân. Ách cẩu công dùng để cho chó ven đường nhìn thấy thi thể khỏi sủa, vì tiếng chó sủa có thể khiến thi thể bị hoảng hốt, dễ sinh ra biến; chưa kể chó nhìn thấy thi thể sẽ lập tức chạy tới cắn xé. Cuối cùng là “hoàn hồn công”, một loại công phu đặc biệt có thể giúp thi thể di chuyển dễ dàng linh hoạt như người còn sống, với điều kiện hồn phách của thi thể phải còn. Loại công phu này trên thực tế là xoa lên người chết một loại thảo dược đặc thù chỉ có ở Tương Tây.

Phương pháp: Khi có người vừa qua đời, bạn bè của người chết sẽ tìm tới cản thi để thương lượng giúp đưa thi thể về quê nhà. Khi pháp sư tới, việc đầu tiên là hỏi thăm ngày sinh và ngày tử của người chết xem có xung khắc gì hay không. Tiếp theo, pháp sư sẽ niệm chú rồi dùng hết sức đâm cây kiếm gỗ đào của mình vào tấm ván giường của người chết. Nếu kiếm gỗ xuyên qua được, tức là người chết đồng ý cho pháp sư điều khiển, pháp sư lúc đó mới tiếp nhận vụ cản thi. Nhưng nếu kiếm không xuyên qua được hoặc bị gẫy thì pháp sư sẽ lập tức quay lưng bỏ đi không tiếp, vì thi thể không chấp nhận cho hắn điều khiển, nếu cứ cố tình ra tay thì có khả năng xảy ra sự biến. Tiếp nhận rồi, cản thi cũng không lập tức lên đường mà chờ thêm vài ngày, cho đến khi có khoảng bốn năm thi thể mới tập trung lại đi một lần. Nhưng thi thể mà pháp sư đã làm phép kỳ lạ là không hề hư thối, mặc kệ khí trời thế nào. Lúc lên đường, pháp sư dán lên các thi thể một đạo bùa, thì thầm niệm chú, thi thể lập tức bật dậy đi theo phía sau pháp sư.

Vén màn bí mật:

a. “Gọi người chết”: Người viết bài này (tức là người viết nó trên Baidu – Lục Mịnh) đã có lần nhặt được một tờ giấy trên đường, trên đó ghi “Xin cho Gọi người chết đi qua”, sau này lại tận mắt được chứng kiến một chuyện kỳ lạ có liên quan tới nghề này. Gọi người chết, cũng tức là cản thi, nhưng phải dùng giọng nói, hét to ra lệnh cho người chết phải đi thế nào. Kỳ thực lúc nhặt được tờ giấy tôi không hề tin, nhưng vào cuối năm 1949, lúc đó tôi là nhân viên quản lý vận tải đường sông ở Tứ Xuyên. Một ngày kia sau giờ ngọ, tôi đi trên đường cái ngoài vùng núi Bành Sơn, có một người đi ngang qua tôi, tôi lập tức chú ý tới, vì người đó bước chân rất quái dị, cứng còng không tự nhiên. Tôi dừng lại nhìn kỹ, bên tai có một người  qua đường nhỏ giọng nói: “Là Gọi người chết đấy!”  Anh ta nhìn thấy vẻ mặt ngơ ngác của tôi nên cố tình đánh động. Tôi nghe thế, càng cố gắng quan sát kỹ hơn: “người chết” mặc trường bào đen, không có ống tay áo, nhìn có hơi cao to hơn bình thường, toàn thân cứng còng nhưng đi một cách rất có tiết tấu tiến về phía trước. Phía trước người chết có một người mặc áo cánh ngắn, bên tay trái xách một cái giỏ cũ, tay phải cầm một cây đèn cũ. Người mặc áo cánh ngắn cũng đi rất kỳ lạ: luôn luôn hơi nghiêng người xoay nửa mặt về phía người chết, ánh mắt nhìn theo người chết chằm chằm, chỉ thỉnh thoảng mới quay về phía trước nhìn đường. Đi một chút anh ta lại thả một tờ giấy lên mặt đường, tôi nghĩ ngay đó là “tiền mãi lộ” dùng để mua đường đi của dân cản thi. Bị lòng hiếu kỳ thôi thúc, tôi đi theo hai bọn họ một đoạn khá xa, những lúc phải leo dốc hay xuống dốc, leo lên cầu hay xuống cầu, người mặc áo đuôi ngắn liền hô to cho người mặc áo đen biết, người áo đen cũng cứ nghe theo hiệu lệnh mà tiến. Lúc đó, tôi nghĩ: Gọi người chết thực ra là “dẫn người chết” thì đúng hơn. Hôm đó đáng tiếc có việc không thể theo tới cùng, sau đó có người kể lại cho tôi biết đoạn kết: Hóa ra chiều tối hôm đó bọn họ đến một quán trọ, người trong quán trọ vừa thấy thì đã biết bọn họ làm nghề gì rồi, vì bọn họ tìm chỗ ngủ rất sớm, khách thường còn chưa tới thì họ đã tìm chỗ trụ lại rồi. Chưởng quỹ liền reo lên: “Hỉ thần tới!” Ông chủ quán nhìn thấy người mặc áo đen phía sau thì vừa mừng vừa sợ: sợ là sợ người chết, mừng là vì “Hỉ thần” là điềm phát tài, bèn dọn cho bọn họ một phòng thật kín đáo, lúc đưa cơm phải đưa thêm một cái bô nước tiểu, vì “Gọi người chết” phải canh thi thể không thể ra ngoài. Đưa cơm phải đưa hai phần, một phần là để cúng Hỉ thần. Nhưng lúc đó Tứ Xuyên vừa giải phóng, có mấy người bộ đội đồn trú ở đó đi kiểm tra nhân khẩu, ông chủ quán cứ thế nói thực, mấy người bộ đội liền tới gõ cửa phòng, yêu cầu mở cửa. Lúc mở ra quả nhiên thấy một người cao to mặc áo bào đen đứng yên trong phòng, trên bàn có hai phần cơm đã hết, chén đũa vừa mới rửa còn ướt. Người mặc áo cánh ngắn khai rõ tên tuổi của người chết, bảo là bọn họ đi từ phương bắc tới.

Nhưng sáng hôm sau, mấy người bộ đội cảm thấy kỳ quặc nên lén quay lại theo dõi, thấy hai người kia rời quán trọ từ rất sớm, hai người bộ đội thấy người mặc áo cánh ngắn lúc này lại là một thanh niên trẻ, trong khi đêm hôm qua là một người hơn năm mươi, liền lập tức yêu cầu bọn họ về đồn điều tra. Lúc đó mới biết được sự thật: Hóa ra bọn họ có hai người, thi thể cũng là có thật, một người đóng vai “Gọi người chết” đi trước dùng giọng nói dẫn đường, người còn lại cõng thi thể trên lưng, giấu toàn bộ cơ thể trong chiếc áo bào đen vừa rộng vừa dài, không nhìn thấy đường, chỉ dựa vào cái lỗ tai mà tiến về phía trước, đồng thời còn phải ra sức giữ cho lưng thật thẳng, quả thực là một nghề vất vả! Bọn họ phải đi suốt ngày đêm, chỉ dừng lại ăn cơm có một lần, vì việc cõng người chết quá cực nhọc nên bọn họ phải thay phiên nhau, do đó mới có chuyện anh bộ đội kia nhìn thấy hai khuôn mặt khác nhau. Người bình thường không thể biết, vì bọn họ đi quá sớm, vả lại làm gì có ai đi theo họ từ ngày này sang ngày khác để kiểm chứng xem có bao nhiêu người? Nghe xong, mấy anh bộ đội cũng khâm phục sức khỏe và khả năng to lớn của bọn họ, vả lại nghĩ bọn họ cũng chỉ khổ cực dùng sức lao động kiếm ăn, liền chỉ khuyên bọn họ không nên dùng ma quỷ lừa gạt người khác mà nên đường hoàng làm việc.

b. Khiêng người chết:

Âm mưu này cũng cần hai người, một đóng vai cản thi, một giả dạng người chết. Một người đi trước rải “tiền mãi lộ”, người đi sau mặc trường bào, mặt mày che khuất, trông có vẻ cực kỳ quái dị, khiến người bên đường sợ mà không dám đi theo nhìn. Thực ra, mãi lộ tiễn là một loại biển báo giúp người phía sau có thể bước lên mấy tờ tiền giấy mà an toàn tiến tới trước.

Trước khi tới nơi hai ba ngày, bọn họ báo cho gia quyến người chết, chuẩn bị tốt quan tài khâm liệm. Sau khi tới nơi là lập tức nhập liệm, quá trình này hoàn toàn do một mình cản thi chịu trách nhiệm, không cho bất kỳ ai tới gần hay nhìn trộm, nói là vì nếu có người khác bên cạnh thì có khả năng sẽ bị biến thành cương thi, mà quá trình “đỡ người chết ra khỏi quan tài” cũng phải tiến hành lúc nửa đêm. Khâm liệm xong xuôi mới cho người thân vào, người thân nhìn thấy đúng là mặt mũi của người chết liền khóc than thảm thiết, không ai có thể ngờ đó chỉ là một âm mưu.

Thực ra, sự thực nằm ở dưới lớp áo liệm. Dưới đó chỉ còn có cái đầu và tứ chi của người chết mà thôi, bị cột chặt vào mấy đầu mẩu gỗ, nhìn từ bên ngoài thì không thể phân biệt được. Còn phần còn lại của thi thể, không biết đã sớm bị bọn họ quăng đi đâu mất rồi!

[1] Món thịt vịt đặc biệt của vùng Tương Tây, cách làm là khi giết vịt thì hứng huyết vào bột nếp, sau đó dùng bột nếp pha máu vịt đó đồ thành bánh, xào với dầu cải rồi hấp chung với thịt vịt.

Chương 22: Tiệc vườn đào dưới trăng (Thượng)

Đến Tương Tây một chuyến về, tôi và Bạch Dực đều mệt mỏi tới mức chỉ có thể nằm gục trong nhà. Chắc không có ai trên đời này đi du lịch mà lại chật vật như chúng tôi được đâu nhỉ, thực lòng mà nói, từ sau khi trở về chỉ cần nhìn thấy con gián con sâu thôi là da đầu tôi lại run lên. Đương nhiên, không thể cho Bạch Dực biết…

Về tới ký túc xá được vài ngày, chúng tôi mới bắt đầu hoàn hồn, nhưng mặt khác, nhờ giúp cho khu trại một việc lớn như vậy nên nghiễm nhiên trở thành đại ân nhân của ông chú, mọi người tặng cho chúng tôi rất nhiều đặc sản. Số đặc sản này không thể dễ dàng mua ngoài chợ, vì trong đó có vài món chỉ được dùng để đem cúng tổ tiên mà thôi.

Bạch Dực thực ra nấu ăn khá ngon, chỉ có điều anh chàng này lười chảy thây, thà đi bộ xuống dưới lầu mua đồ ăn hàng ngày cũng không thích tự mình vào bếp. Nhưng từ khi số đặc sản quý hiếm này vào nhà, anh ta bắt đầu thích ra tay, tôi được ăn ngon, ngày nào cũng mặt mũi tươi hơn hớn.

Mà cũng không hẳn chỉ có ăn, bởi vì trước nay ăn ngoài quá nhiều nên trong nhà không có đầy đủ gia vị. Cho nên người ăn chực như tôi có trách nhiệm phải ra ngoài mua tương gạo mắm muối.

Một tay cầm chai dầu ăn, một tay xách túi gạo, tôi vội vã trở về, trong lòng suy tính đến chuyện tìm mua một cái xe đạp mới.

Người trên đường đông như trẩy hội, thậm chí còn có thể nhìn thấy mấy ông hòa thượng đầu bóng lưỡng mặc áo cà sa đi lại ngoài đường. Miếu Hạ Hải là ngôi miếu đông người lui tới đèn nhang nhất ở thành phố này, miếu không quá lớn, nhưng nghe đồn năm xưa khi Trịnh Hòa sang phương Tây[1] có dừng lại chỗ này tu sửa đội thuyền, lúc thuyền rời bến liền lập ở đây một cái miếu, ban đầu là để thờ Long Vương cùng tổ tiên, nhưng sau này không hiểu vì sao dần dần trở thành một ngôi chùa Phật giáo. Tuy nhiên điều đó cũng không hề ảnh hưởng gì tới lượng khách thập phương đến viếng.

Tôi cố tình đi chậm lại, chỉ sợ đụng nhằm người qua đường. Vì trong số những người tới thắp hương thì người già cả là nhiều nhất, chẳng may đụng phải thì chẳng khác nào tự động nhận về một bà cố ngoại mà hầu hạ.

Nhưng phàm là càng muốn tránh cái gì thì càng dễ xảy ra cái đó, đang đi thì tôi bị một người mặc áo khoác đen bằng len, mang kính râm bản rộng đụng phải. Túi gạo của tôi bị hất rớt xuống lòng đường, tôi còn chưa kịp mở miệng thì gã kia đã gào lên trước: “Đồ chết tiệt, đi đường cái kiểu gì vậy hả, con mắt mọc trên đỉnh đầu à!”

Tôi nhặt túi gạo lên, cũng không chịu nhường: “Là anh đi không có mắt, bị quỷ bám sau người thì có!”

Vừa nghe tới hai chữ “quỷ bám”, người kia chợt giật thót mình như bị điện giật, cả người co rụt lại. Rồi lại như vừa nhận ra cái gì mà đùng đùng nổi giận, vươn tay chộp cổ áo tôi. Trên hai tay tôi nào là dầu nào là gạo nên không thể đánh trả, trong lòng thầm nghĩ: nếu biết muốn đánh nhau thì đã buông hết mấy thứ này xuống đất rồi, cứ như vầy chỉ có chịu đòn thôi. Nghĩ thế, tôi nhắm chặt hai mắt lại, chuẩn bị chịu một đấm trước cái đã, rồi sẽ cho tên khốn này một trận sau.

Thế nhưng chỉ thấy hắn cứ thế nắm chặt cổ áo tôi mà không ra tay, tôi liền mở mắt ra nhìn, thấy phía sau cặp kính bản rộng kia là một đôi mắt nhắm tít, cái miệng toe toét cười hết cỡ. Sau đó từ cái miệng đó thốt một câu: “Anh hùng đi trên đường! Bên hông mang bảo đao!”

Tôi đờ ra nhìn, nhưng vẫn theo quán tính trả lời: “Lục lâm làm hảo hán! Can đảm lưỡng Côn Lôn!”

Chờ tôi vừa dứt lời, anh chàng đeo kính râm đã phá lên cười ha ha, tôi cảm giác như hai bên đang đóng phim võ hiệp cổ trang vậy, nhưng lại rất quen thuộc, dường như đã từng nói với ai đó những lời như vậy…

Người nọ tháo kính râm ra, thân mật vỗ vỗ vai tôi: “Ây, mới có vài năm không gặp mà cả lão sư huynh đây cũng quên rồi sao?”

Tôi gãi gãi đầu cố gắng lục lại trong trí nhớ xem người này là ai, thế nhưng nghĩ mãi vẫn không nhớ ra, lại nhìn người kia trước sau vẫn tươi cười không đổi, tôi không muốn làm hắn ta mất hứng, đành vờ vịt hỏi: “Ủa! Hóa ra là sư huynh! Xin lỗi, trí nhớ của tôi tệ quá, sao lại tới chỗ này?” Dù sao cũng là người ta nhận mình trước, có nhận sai thì cũng là người ta phải xấu hổ trước.

Vẻ mặt của hắn chợt thoáng cái mà sầm hẳn xuống, tôi nhìn xuống cái túi ni lông hắn cầm trên tay, thấy bên trong là một đống bùa lộn xộn, còn có cả một bức tranh “Quan Âm tống tử”.

Hắn nắm chặt chuỗi tràng hạt trong tay nói: “Ai dà… nói ra dài lắm, sư huynh đệ chúng ta mấy năm không gặp rồi, vầy đi, để tớ mời khách, chúng ta kiếm một quán ăn nào đó vừa ăn vừa nói chuyện?”

Tôi nhớ tới bữa cơm Bạch Dực đã làm sẵn sàng ở nhà, nếu không về ăn anh ta sẽ giận, hơn nữa tôi cũng không có ý lãng phí một bữa ngon như vậy, liền lắc đầu nói: “Không cần, bạn cùng phòng của tôi nấu cơm sẵn rồi, hay cùng về nhà ăn một bữa?”

Hắn gật đầu, không hề khách khí mà đỡ giúp tôi túi gạo ra ý cho tôi dẫn đường.

Hai bên nói chuyện một lúc tôi mới nhớ ra anh chàng này là ai, tên hắn là Thương Lạc Tử, lúc nhỏ cùng tôi học chung một lớp hội họa do trường Mỹ thuật mở gần nhà, chúng tôi ai cũng gọi hắn là Lục Tử, ai bảo tên của hắn quá khó đọc làm gì. Lúc xưa hai chúng tôi từng bị xưng là Hỗn Thế Ma Vương, trò nghịch ngợm nào cũng từng thử qua. Nhưng đã rất nhiều năm không có liên hệ gì với hắn rồi, hắn được coi là một thiên tài trong ngành chúng tôi, lúc tôi còn đang học vẽ tĩnh vật thì hắn đã học đắp tượng thạch cao, mà khi tôi còn đang lọ mọ nguệch ngoạc vẽ màu nước thì hắn đã theo giáo sư học vẽ tranh thủy mặc. Sau đó có tin là hắn tham gia một khóa học đào tạo chuyên sâu mà đã chuyển nhà, từ sau đó không còn liên hệ gì với đám nhóc chúng tôi nữa.

Đột nhiên có thể chạm mặt nhau ở một thành phố xa lạ, cả hai đều có cảm giác có duyên phận, hai anh em đương nhiên đều cực kỳ mừng rỡ, nhưng sao tôi cứ có cảm giác Lục Tử đang có gì đó lo lắng sợ hãi, cứ đi vài bước hắn lại dừng lại ngó ngang ngó dọc. Khiến tôi cũng phải tự hỏi là liệu đã có chuyện gì xảy ra cho hắn chăng?

Khi chúng tôi về tới nhà thì Bạch Dực dường như đã nấu xong cơm, từ xa đã nghe thấy một mùi thơm ngát mũi, kích thích dạ dày người ta. Tôi đẩy cửa ra nói với Bạch Dực: “Lão Bạch, tôi về rồi nè. Tôi dẫn theo một người bạn cũ tới ăn cơm nữa.”

Bạch Dực đang đem thức ăn sắp ra bàn, ngoảnh lại nhìn chúng tôi một cái, không thèm nói gì mà chỉ hơi gật đầu. Kỳ thực tôi rất thấp thỏm, vì vốn biết tính Bạch Dực không thích người ngoài bước chân vào nhà, ngay từ đầu anh ta cũng đã giao hẹn với tôi là không được tùy tiện dẫn người lạ vào nhà. Nhưng lần này quả thực không có cách nào khác. Tôi đến trước mặt anh ta lặng lẽ giải thích: “Lão Bạch, đúng là tôi có hơi đường đột, nhưng anh ta là bạn học cũ của tôi, giao tình rất sâu, đã nhiều năm không gặp, hôm nay lại tình cờ gặp lại trên đường nên… Anh thông cảm nhé, hỗ trợ tôi một chút.”

Bạch Dực thở dài một cái, cầm áo khoác xăm xăm bước ra cửa như muốn ra khỏi nhà, tôi thất kinh vội vàng kéo anh ta lại: “Không, không cần nhường phòng cho chúng tôi, hình như cũng không có gì quan trọng đâu mà, bên ngoài lạnh lắm, cơm còn chưa ăn, anh ra ngoài làm gì?”

Lục Tử thấy chúng tôi giằng co trong góc phòng, liền chủ động tươi cười tiến tới lên tiếng với Bạch Dực: “Tôi tên Thương Lạc Tử, hì hì, là bạn học cùng khoa với Tiểu An trước đây, xin chào.”

Bạch Dực thoáng nhíu mày, tôi vội vàng nháy nháy mắt với anh ta, ý nói anh ta đừng để bụng, cũng hi vọng anh ta nể mặt mũi tôi một chút mà đừng phá hư bầu không khí.

Tôi thành thạo đem dầu ăn và gạo cất vào góc phòng, sau đó định cầm lấy cái túi của Lục Tử để cất vào một xó cho hắn, để hắn ngồi chơi được thoải mái, ai ngờ tôi vừa chạm vào cái túi thì hắn đã giật nảy người lên níu lại: “Ấy ấy, cái này… cái này để mặc tớ, bùa này vừa được khai quang hết rồi, người ngoài không chạm vào được…”

Tôi ngẩn người, cảm thấy hắn có hơi quái dị, hình như không còn giống với Lục Tử của trước đây nữa. Tôi chằm chằm nhìn hắn hồi lâu, hắn vội tránh mắt đi, không dám nhìn thẳng tôi.

Khi tôi còn đang hoài nghi về hắn thì Bạch Dực đã bới ra ba chén cơm nói với chúng tôi: “Vậy ăn cơm cái đã, ăn xong thì nói chuyện.”

Ba người chúng tôi ăn cơm trong trầm lặng, trong bữa cơm, Lục Tử chỉ hỏi tên Bạch Dực và vài chi tiết linh tinh khác rồi cúi đầu lặng lẽ ăn. Tôi và Bạch Dực nhìn nhau, cả hai đều đã phát hiện người này quả thực dường như đang sợ cái gì, lúc nào cũng nơm nớp như chim sợ cành cong, chỉ ăn một bữa cơm mà trông cũng hãi hùng như vậy. Nhưng dù sao cũng là bạn cũ, tôi cũng không tiện nói gì thêm. Cuối cùng bữa cơm cũng xong. Hắn uống một ngụm trà, tôi nhìn vào nồi cơm trống không tới đáy mà thầm cảm thán, sợ mà còn có thể ăn tới mức này? Hay là đã mấy ngày hắn không ăn uống đàng hoàng?

Hắn nhìn tôi, cười đầy xấu hổ: “Ây da, không ngờ anh Bạch Dực nấu ăn lại ngon như vậy, còn ngon hơn cả ngoài tiệm…”

Bạch Dực ngồi lên ghế, cầm chén trà đẩy về phía tôi mà điềm nhiên trả lời: “Chỉ là vài món ăn bình thường, không đáng nhắc tới. An Tung, đi dọn chén đi.”

Cách trả thù của anh ta đúng là luôn rất thực tế, muốn anh ta nguôi giận thì mau đi rửa chén. Chờ tôi rửa chén xong quay lại, thấy cả hai người vẫn duy trì một thứ im lặng hết sức kỳ quái, một người bình thản đọc báo uống trà, một người ngồi đối diện đờ ra, hoàn toàn không có ý định bắt chuyện với nhau.

Vì thế tôi đành xoa xoa tay hỏi Lục Tử: “Lục Tử, cậu tới miếu Hạ Hải làm gì vậy, lúc trước cậu đâu có tin mấy cái này?”

Trông hắn lại càng xấu hổ hơn: “Thì bây giờ tin không được sao, hề hề…”

Tôi cảm thấy tên này chắc chắn đã xảy ra chuyện gì rồi, chỉ vì không dám nói cho nên còn chờ tôi tới hỏi mà thôi. Tôi đành thở dài ngồi xuống đối diện với hắn: “Lục Tử, có phải xảy ra chuyện gì phiền phức rồi đúng không? Trông cậu kìa, chẳng còn chút uy phong nào của ngày xưa cả!”

Hắn vuốt vuốt mặt, rụt rè đánh giá tôi một lúc, sau đó do dự hồi lâu rồi mới thử thăm dò: “Ây da, Tiểu An, cậu thông minh hơn hồi xưa nhiều đó, bị cậu nói trúng rồi, tớ dạo này gặp phải một chuyện… kỳ quái…”

Vừa nghe hắn nói thế tôi đã cảm thấy hơi khó chịu, theo cách hắn nói thì lúc xưa tôi rất ngu xuẩn sao? Ngay cả chuyện rành rành như vậy mà cũng nhìn không ra?

Bạch Dực vẫn không nói tiếng nào, chỉ lật báo uống trà, hoàn toàn tỏ ra thờ ơ với chuyện chúng tôi đang nói. Tôi gặng hỏi Lục Tử: “Chuyện kỳ quái gì? Sao lại làm cậu ra nông nỗi này?”

Hắn nhíu chặt mày, trên mặt xuất hiện một tia tối tăm, nhấp một ngụm trà rồi mới e dè nói: “Chuyện này quả thực khó mở miệng…” Rồi chợt hắn thấp giọng lại như thì thào: “Phỏng chừng lần này tớ chọc phải quỷ thật rồi! Mà lại còn là một con nữ quỷ mới chết chứ!”

Tôi càng nghe càng khó hiểu, tên ngốc này làm sao vậy? Bệnh thần kinh à? Hay là thực sự gặp phải thứ không được bình thường? Ăn nói gì mà kỳ quặc vậy? Khóe mắt tôi hơi nheo lại, cố giữ giọng thật bình tĩnh mà hỏi lại: “Vậy rốt cuộc là cậu chọc nhằm thứ gì?!”

Hắn không nghe được vẻ khó chịu trong giọng nói của tôi, nghe tôi hỏi thế ngược lại như được cởi tấm lòng, lập tức thao thao nói tiếp: “Kỳ thực tớ theo một ông chú buôn bán tranh chữ cổ. Có lúc cũng gặp được những thứ thực sự quý giá, mà những bức tranh cổ như vậy thì khi nào vào tay cũng tơi tả rách nát nết, cho nên cần phải có người phục chế lại. Tớ chính là người phụ trách việc phục chế sửa chữa cho chúng.”

Nói đến đây tôi mới nhớ, tôi theo chuyên ngành Mỹ thuật tạo hình bình thường, còn hắn theo chuyên ngành Quốc họa thư pháp, cho nên sau này cũng không thường gặp chúng tôi nữa.

Thực ra nghề phục chế tranh cổ là một loại nghề có từ xưa, các trường phái khác nhau có những tuyệt chiêu riêng, đại bộ phận đều qua bốn bước là yết, tẩy, bổ, toàn. Trong số đó đặc biệt bước đầu tiên, yết, là quan trọng nhất. Chu Gia Trụ[2] trong “Trang hoàng chí” cũng có viết: “Toàn bộ tính mạng của tranh cổ đều nằm trong bước yết.” Bước này đòi hỏi phải có sự cẩn thận tỉ mỉ đến tuyệt đối, mới có thể sửa chữa cho một bức tranh sắp bị hủy hoàn toàn trở thành một bức gần như mới, đồng thời vẫn phải bảo lưu được toàn bộ tinh túy thần thái vốn có của tranh.

Tôi hỏi: “Vậy phiền phức lần này của cậu là đến từ bức tranh nào à?”

Hắn lắc đầu: “Tớ cũng không dám chắc, nhưng dạo này bọn tớ mới có được một bức “Tiệc vườn đào dưới trăng”, theo chuyên gia giám định cho chú tớ thuê về báo lại thì nó chính là một bức tuyệt phẩm thời trung kỳ Minh triều, mà lại còn là do chính tay đại danh đỉnh đỉnh Từ Vị vẽ ra cơ đấy!”

Tôi thất kinh, nếu thực là tranh của Từ Vị, thì chẳng phải là văn vật chí bảo cấp quốc gia rồi hay sao?! Đến đây thì ngay cả Bạch Dực cũng ngẩng đầu lên kinh ngạc nhìn Lục Tử.

Tuy tôi không có nhiều kiến thức lịch sử, nhưng xuất thân từ Mỹ thuật tạo hình đương nhiên phải biết những kiến thức liên quan tới ngành này, nếu không làm sao dám đi làm giáo viên? Từ Vị, tự Văn Trường, lúc già được xưng là Thanh Đằng đạo sĩ, cùng với Trần Đạo Phục đại danh đỉnh đỉnh, đệ tử của Văn Trưng Minh, cùng đồng xưng là Bạch Dương Thanh Đằng. Là một nhân vật trọng yếu kế thừa tinh hoa của “Ngô Môn phái”, bút pháp phóng túng ngông cuồng của ông sau này được coi như bước khai sáng mới cho nghệ thuật vẽ tranh chữ. Kiệt tác lúc già của ông ta, “Mặc hoa”, hiện nay đang được giữ gìn ở bảo tàng Bắc Kinh. Như thế có thể tưởng tượng thấy nếu đúng là tác phẩm của ông ta thì quý giá biết chừng nào!

Tôi chằm chằm nhìn Lục Tử, trong bụng thầm nghĩ, anh chàng này không nói đùa đó chứ, tranh giả tranh nhái thời này không hề thiếu, đừng hòng cầm đồ giả tới đây lừa người! Hắn dường như thấy được sự hoài nghi của tôi, liền nghiêm trang nói: “Tiểu An, là cậu không biết đó thôi, đa phần đồ quý giá trân phẩm đều được cất giấu trong những bộ sưu tập cá nhân, có những thứ mà nếu chủ nhân của nó chịu trưng ra thì đủ để khiến cho cả giới mỹ thuật lẫn sưu tập phải rúng động chứ không chơi! Chúng tớ có chuyên gia giám định chuyên môn, theo giám định của bọn họ, đó đích thực là một tác phẩm từ thời còn trẻ của Từ Vị đã bị thất lạc từ lâu, trên đề từ của bức tranh có chép là tặng cho Trần Đạo Phục, lúc đó đã rất nổi tiếng!”

Hắn tiếp tục nói: “Lúc chúng tớ mới có nó trong tay, nó quả thực rách mướp tới mức sắp hư hỏng hoàn toàn, nhưng khi chú tớ vừa nói đó là tranh của Từ Vị thì tớ đã dồn hết toàn bộ công sức ra để phục chế nó. Chỉ mới giai đoạn đầu tiên là bôi dược liệu chống phân hủy, ngăn côn trùng cùng một vài bước chuẩn bị thôi mà đã mất tròn hai tuần lễ liền. Ban đầu thì vẫn không thấy gì kỳ quái, chỉ thấy bức tranh thực sự rất sinh động, giống như dưới tầng tầng lớp lớp tán hoa đào có thể thấy bóng hai người nâng chén đối ẩm dưới ánh trăng, nét mực đã đạt tới cảnh giới siêu phàm, có thể thấy rõ tác giả của nó phải là một thiên tài mới làm nổi!”

Đích xác, công việc phục chế tranh cổ, trên thực tế giống như một cuộc trò chuyện với tác giả từ thời cổ đại, không chỉ phải bao quát được bố cục lẫn thủ pháp của bức tranh, mà quan trọng hơn là phải hiểu được tính cách của tác giả, cùng với tình cảm gửi gắm trong tranh. Chỉ có như thế mới có thể phục hồi lại hoàn toàn thần thái ban đầu của tranh. Toàn bộ quá trình, tựa như một buổi lễ gọi hồn.

Tôi nghiêm túc hỏi: “Vậy trong quá trình phục chế đã xảy ra chuyện gì sao?”

Bạch Dực đã bỏ tờ báo xuống tự lúc nào, cả người dựa sát vào tôi mà chăm chú lắng nghe.

Lục Tử nhéo nhéo mũi, nói đầy vẻ mệt mỏi: “Ngay cái đêm tớ chuẩn bị yết bức tranh đột nhiên có một cô gái xuất hiện. Thực ra mà nói chuyện này cũng không có gì là lạ, câu thấy đấy, con gái ai chẳng thích một người lãng tử nghệ sĩ lại đẹp trai như tớ đúng không!”

Tôi liếc hắn một cái, kỳ thực trong lòng thầm mắng, có mà đầu trâu mặt ngựa thì có! Cùng là đẹp trai, nhưng hắn và Bạch Dực hoàn toàn không thể so sánh với nhau. Bạch Dực là anh khí mười phần, đẹp thực sự; còn Lục Tử, nhìn sao cũng thấy lưu manh thế nào ấy.

Tôi cắt ngang lời tự khen say sưa của hắn: “Đại ca, tôi biết cậu sát gái nổi tiếng rồi, tiếp tục vào chuyện chính cho người ta nhờ! Chúng tôi không phải tuần san báo lá cải, không cần nghe tiểu thuyết tình cảm ba xu!”

Hắn ho khan vài tiếng, xấu hổ nói: “Rồi rồi, nói vào chuyện chính, thực ra cô gái đó ăn mặc không rõ theo một triều đại nào cả, nói chung cả người quần áo trắng toát, chân mang một đôi giày đen, tóc dài cập lưng, mặt không trang điểm nhưng nước da trắng nõn, chỉ nhìn thôi cũng đủ thấy là một giai nhân, hơn nữa dáng người cũng không tồi… Cô ta tới tìm tớ, nói là muốn làm quen, muốn kết bạn. Tớ cũng rất vui, thực ra lúc đó tớ vừa chia tay cô bạn gái thứ tư, có một người đẹp như thế tới làm quen, đàn ông ai mà không động lòng, đúng không?”

Tôi day day huyệt Thái Dương, lạnh lùng nói: “Không nói vào việc chính, lão Bạch, mở cửa, tiễn khách!”

Hắn lập tức xua xua hai tay hốt hoảng nói: “Ấy, tớ đang nói theo quá trình đấy chứ! Rồi rồi, vấn đề chính là cô ta rất kỳ quái, cảm giác có hơi… siêu thực, sau đó ngày nào cũng tới tìm tớ, không ăn cũng không uống, chỉ nói chuyện phiếm với lại… hì hì… chúng tớ thường hay bàn luận về tranh cổ và thư pháp, cô ta cực kỳ tài hoa, đặc biệt am hiểu sấu kim thể, có vài chỗ thậm chí còn tinh hơn cả tớ là người đã học về hội họa suốt mấy chục năm. Nhưng mỗi lần muốn dẫn cô ta ra ngoài, cô ta lại từ chối. Cô ta chỉ ở trong phòng tớ đợi, mà chỉ lúc nào có mình tớ ở nhà mới xuất hiện. Có lúc tớ còn tưởng cô ta là gián điệp của công ty đối thủ, nhưng cô ta lại hoàn toàn không có hứng thú tới mấy thứ của tớ, cũng không bao giờ bước vào phòng làm việc của tớ cả. Đối với cô ta, thực ra là tớ bắt đầu có cảm giác yêu.”

Nói đến đây, trên mặt hắn xuất hiện một loại thần tình rất mâu thuẫn, có thể thấy lần này Lục Tử thực sự nghiêm túc, hắn suy nghĩ một lúc rồi tiếp: “Công việc của tớ vẫn tiến triển bình thường, nhưng chuyện quái dị cũng theo đó mà xuất hiện, ví dụ như mỗi lần làm việc, tớ lại có cảm giác như bên cạnh có thêm ai đó, đôi khi nghe như có ai đó thì thầm bên tai, toàn là nói về những chỗ quan trọng nhất của bức họa, nhưng khi quay đầu lại thì chẳng nhìn thấy ai cả; những khi tớ muốn chấm bút lông vào nghiên mực thì phát hiện cây bút lông tớ cần đã gác sẵn trên thành nghiên, mà tớ nhớ rõ ràng là đã cắm nó vào giá bút rồi…”

Lục Tử nói tới đây thì bắt đầu tỏ ra kích động, hắn hít sâu một hơi rồi mới tiếp tục nói được: “Cô gái kia hầu như đêm nào cũng xuất hiện, nhưng tớ có cảm giác mỗi lần xuất hiện thì vẻ mặt của cô ta lại thay đổi một ít, hình như… thay đổi gương mặt vậy, nhưng nhìn kỹ thì vẫn có dáng dấp giống như lần đầu tiên gặp mặt, cho nên tớ nghĩ là có lẽ do quen nhau lâu rồi nên không còn cảm giác xa lạ nữa chăng…”

Tôi rụt rụt cổ, đưa tay sờ sờ sau gáy, thực ra chuyện này cũng không có gì đáng sợ cho lắm, những chuyện mà tôi và Bạch Dực đã trải qua, chuyện nào cũng có thể khiến anh chàng trước mặt này phải sợ tới phát điên. Chuyện nhỏ cỡ này tôi đã sớm miễn nhiễm rồi, ngược lại còn cảm thấy hơi… thất vọng, vì tôi chờ đợi một câu chuyện kinh dị hơn cơ. Tự nhiên lúc đó tôi đã nghĩ, hình như cậu chàng này nhiễm “Liêu Trai chí dị” quá nên tự cho mình là Ninh Thải Thần cũng không chừng.

Nhưng đôi mắt của Bạch Dực thì lại cực kỳ chăm chú nhìn thẳng vào người ngồi đối diện, anh ta càng nghe càng tỏ ra có hứng thú, đến mức dựa hẳn vào người tôi mà nghe không sót lời nào. Tôi có hơi ngạc nhiên, lại cảm thấy có phần ngại ngùng, định kiếm cớ nào đó đẩy anh ta đi.

Nhưng Bạch Dực đã lên tiếng trước: “Sau lại thế nào?”

Lục Tử càng suy nghĩ lung hơn, gương mặt quanh năm không đứng đắn bất ngờ lộ ra một vẻ âm khí lành lạnh, hắn nói: “Vì công tác đòi hỏi cho nên phòng ngủ của tớ nằm trong phòng làm việc luôn, để ăn uống ngủ nghỉ gì cũng có thể ở lỳ trong phòng làm việc mà tự lo được, có thể là do lần này lượng công việc quá lớn, mà từ khi gặp cô gái nọ, sức khỏe tớ cứ càng lúc càng kém đi, cho nên có một lần tớ phát sốt, tự nhốt mình trong phòng ngủ, định ngủ một giấc rồi dậy uống thuốc. Đang lúc tớ mơ mơ màng màng, tự nhiên có một bàn tay lạnh buốt sờ lên trán. Tớ giật nảy người, mở mắt nhìn lại thì thấy cô ta ngồi bên giường, vẫn mặc áo trắng tinh từ đầu xuống chân, tớ an tâm lại một chút, bảo cô ta là người có bệnh, cô ta cũng an ủi tớ, bảo tớ phải từ từ dưỡng bệnh. Thế nhưng ngay lúc đó tớ mới sực nhận ra một vấn đề! Đó là… tớ đã khóa cửa ngoài rồi cơ mà! Cô ta… làm sao mà cô ta vào được?! Mà từ trước tới giờ cô ta đã vào nhà tớ bằng cách nào?!”

Nói tới đây Lục Tử kích động tới mức nắm chặt hai tay: “Đột nhiên ý thức được điểm ấy rồi, tớ mới nhận thấy xung quanh cô ta toàn là những chuyện kỳ dị, da của cô ta quá trắng, trắng tới mức gần như trong suốt, cô ta lúc nào cũng im lặng nhìn tớ, nhưng lần này sự im lặng của cô ta làm tớ sởn cả gai ốc! Khóa nhà tớ là khóa Thụy Sĩ được đặt làm riêng theo yêu cầu, cho nên có thể nói chỉ cần tớ khóa cửa là cả căn nhà hóa thành một tòa pháo đài ngay, trừ phi cô ta là không khí, còn nếu không thì tuyệt không thể nào lẻn vào được, khả năng duy nhất đó là… cô ta vốn ở ngay trong nhà tớ, chưa bao giờ đi ra ngoài!”

Nói xong, Lục Tử run run rút từ trong túi áo ra một bao thuốc, rút ra một điếu, châm lửa rít mấy hơi thật mạnh, sau đó mới từ từ nhả khói như muốn tự trấn tĩnh, hắn đưa bàn tay giữ điếu thuốc lên dùng ngón tay cái day day trán: “Tớ nằm trên giường, mà cô ta chẳng nói một tiếng nào, chỉ dùng đôi tay lạnh như băng mà sờ lên mặt tớ, giây phút đó tớ sợ đến run người, chỉ muốn nhanh nhanh chạy ra ngoài thôi. Cô ta cảm thấy tớ muốn chạy, thế là mặt mũi bắt đầu vặn vẹo nhăn nhó, nước da trắng mịn tự nhiên trở nên khô vàng như củi vậy! Ánh mắt của nó cũng thoắt cái hóa thành ác độc, nó nhe răng ra, từ trong miệng nó chảy ra rất nhiều mực đen… vậy mà nó còn cúi xuống mặt tớ đòi hôn! Má nó ơi, tớ thét lên một tiếng! Lúc cái mặt nó ghé sát tới, tớ ném thẳng cái gối vào mặt nó. Ánh mắt nó càng trở nên oán độc hơn, hỏi tớ tại sao không thích nó, nó không đẹp sao! Tớ lúc đó nhìn nó chỉ muốn ói thôi, đẹp cái đầu ấy!

Nó càng tỏ ra tức tối hơn, lao tới người tớ, bóp chặt cổ tớ ghì xuống… mạnh tới mức không giống con người! Đầu lưỡi tớ hộc cả ra, lúc mắt tớ cũng sắp trợn trắng lên thì trong áo tớ rơi ra một viên cổ ngọc, là quà tặng ông chú tặng tớ lúc mới nhập môn. Nó nhìn thấy viên ngọc, lập tức giật người lên chạy ra ngoài.

Thế là tớ lảo đảo choàng dậy mặc quần áo, bỏ chạy luôn. Sau đó không dám về nhà nữa. Nói thật, bức tranh cổ kia tớ mới phục chế được có một phần ba! Sau đó tớ cứ như phát rồ, đi mua hết bùa này đến pháp nọ, chỉ mong con nữ quỷ đó đừng bám lấy tớ nữa!”

Tôi cúi đầu suy nghĩ, rốt cuộc là loại yêu quái gì thế nhỉ, nhưng suy nghĩ mãi vẫn không ra, đành ngẩng đầu lên nhìn Bạch Dực, chỉ thấy anh ta đang vuốt vuốt cằm, mắt nheo lại, cái nhìn mông lung, chứng tỏ đang suy nghĩ rất lung. Dù sao tài năng và năng lực của anh ta tôi rất tin tưởng, cho nên lúc này chỉ quan tâm tới Lục Tử đang bồn chồn ngồi đối diện mà vỗ vỗ vai hắn: “Lục Tử, huynh đệ nhiều năm không gặp, nhìn cậu hóa thành cái bộ dạng này tôi cũng không đành, vầy đi, bây giờ cậu về trước kiếm chỗ nào đó ở tạm. Chờ tớ… và anh Bạch Dực nghĩ ra cách rồi quay lại kiếm cậu sau?”

Lục Tử nghe tôi nói thế thì suýt khóc, vội vàng nói như cầu xin: “Đừng mà, Tiểu An! À không! Anh Tung! Nếu cậu giúp được thì mau mau cứu tớ đi! Nếu không đối phó xong với cái thứ đó thì bức tranh ‘Tiệc vườn đào dưới trăng’ của tớ tiêu mất, nếu tớ không hoàn thành nó đúng hạn thì từ nay không còn làm việc được nữa, danh dự cũng mất trắng đó!”

Tôi lườm hắn một cái, biết thế thì khoan nhận lời giúp vội. Nhưng dù sao cũng là bạn bè nhiều năm, trước đây còn sống cạnh nhau, cũng không thể nhìn người ta thân bại danh liệt. Vì thế ngẩng đầu quay lại nhìn Bạch Dực: “Lão Bạch, anh xem… thế nào?”

Lục Tử không hổ là làm gian thương lâu năm, thoáng liếc qua là biết ngay tôi không có ký lô nào, người quan trọng chính là Bạch Dực, lập tức thay đổi sách lược quay sang Bạch Dực cười cầu tài, còn kín đáo đưa cho anh ta một điếu thuốc: “Anh Bạch, vừa nhìn em đã biết anh là người có bản lĩnh mà, chỉ cần anh giúp em lần này, sau này em nhất định đền đáp xứng đáng mà, chỉ cần anh nói một câu thôi, thì Lục Tử này cho dù có lên núi đao xuống biển lửa cũng tình nguyện theo anh làm việc mà!”

Bạch Dực cầm lấy điếu thuốc sau đó nói với Lục Tử: “Bức tranh của cậu để ở đâu? Tôi muốn đến xem.”

Hắn có vẻ hơi sửng sốt khi nhìn thấy vẻ hứng thú của Bạch Dực, nhưng rất nhanh chóng hoàn hồn: “Bức tranh còn để trong phòng làm việc của em, hai người có thể tới coi.”

Bạch Dực mặc áo khoác vào, sau đó quay sang tôi: “Cậu có muốn đến xem luôn không?”

Tôi nghe thế liền gật đầu, OK, tôi đây cũng không còn nhát gan như hồi xưa nữa đâu nha, đi xem thì đi chứ, vì thế cũng vớ lấy cái áo khoác, sau đó phẩy phẩy tay nói: “Đi! Cùng nhau đi xem, xem có phải bức tranh thành tinh hay không!”

[1] Nguyên văn là “Trịnh Hòa hạ Tây Dương”, là để chỉ chuyện Trịnh Hòa thời Minh phụng mệnh đi sứ sang các nước phía Tây bảy lần bằng đường biển, không chỉ nâng kỹ thuật hàng hải của Trung Quốc lên một tầm cao mới mà còn giúp đẩy mạnh quan hệ kinh tế, văn hóa giữa Trung Quốc và các nước châu Á khác. Từ năm 1405 đến năm 1433, ông đã mang theo hơn 240 chiến thuyền, 27400 binh sĩ và thuyền viên đến rất nhiều nước ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, được coi là một nhà hàng hải vĩ đại của thế giới.

[2] Một nhà sưu tầm cổ vật đời nhà Minh, tác phẩm chính là “Trang hoàng chí”

__________________________________

Trong này có nhắc đến nhiều vấn đề thuộc về thư pháp và thư họa, Lục Mịnh không tiện ghi chú từng phần một. Chỉ nói qua là Văn Trưng Minh, Trần Đạo Phục và Từ Vị đều là những thư pháp gia nổi tiếng của Trung Quốc. Đặc biệt là Từ Vị, được coi như một thiên tài điên, từa tựa như Van Gogh của phương Tây, bút pháp phóng túng mới mẻ, rất được coi trọng.

Còn dưới đây là “Mặc hoa”, tác phẩm của Từ Vị được nhắc tới trong bài. Nói cho đúng, đây là tác phẩm thuộc thể loại “thư họa”, tức là vừa có tranh vừa có thơ đề. Và nó cũng không phải là một bức tranh duy nhất, mà là một chùm tranh gồm nhiều bức, nhiều loại hoa. Bức minh họa dưới dây chỉ là một trong bộ tranh “Mặc hoa” mà thôi.

Chương 23: Tiệc vườn đào dưới trăng (Trung)

Thực ra căn phòng của Lục Tử trông rất bình thường, nhìn bên ngoài chỉ giống như hàng ngàn vạn căn hộ tiêu chuẩn khác khắp Trung Quốc. Hắn giải thích với chúng tôi: “Hai người không biết đấy chứ, những người sưu tầm buôn bán cổ vật như chúng tôi sợ nhất là phô trương để cho người ta biết, hay nhất là mình làm gì đừng có ai hay, bằng không không làm sao ngăn nổi trộm đạo cướp bóc. Phòng làm việc của cả công ty tớ tất cả đều nằm trong những khu dân cư bình thường, bề ngoài không thấy có gì đặc biệt, kỳ thực bên trong khóa kỹ như ngân hàng Thụy Sĩ vậy!”

Nói xong hắn rút ra một cái chìa khóa đặc chế, xoay qua xoay lại vài lần trong ổ khóa, mới mở được cửa, chúng tôi thò đầu vào nhìn thử, bên trong rất vắng lặng, có cảm giác lạnh lẽo khác thường, các cửa sổ đều đóng chặt, trong nhà u ám, rất có cảm giác của một ngôi nhà có ma.

Hắn đóng cửa lại sau lưng chúng tôi, cởi giầy, rồi mang chúng tôi vào thư phòng bên trong. Đây mới chính là chỗ làm việc chính yếu của hắn, trông còn rộng lớn và tiện nghi hơn cả phòng khách, trong góc là cái két sắt lớn, bên cạnh nó là một cái bàn làm việc rất rộng, trên bày đầy bút lông và nghiên mực, còn có những dụng cụ trông rất hiện đại tinh vi, ngay cả kính hiển vi cũng có, có thể thấy trong nghề này hắn là một tay chuyên nghiệp tới mức nào, nếu không thì cũng sẽ không được giao vào tay một tác phẩm của Từ Vị.

Hắn đeo một đôi bao tay giải phẫu vào, mang khẩu trang, đưa cả khẩu trang cho chúng tôi, rồi nhẹ nhàng mở két sắt lấy ra một cuộn tranh được bọc rất kỹ, sau đó cẩn thận bày nó ra trên một tấm bản gỗ (dùng để giữ tranh) mài nhẵn được phủ bằng một lớp véc ni đặc biệt.

Bức trang thực sự rất rách nát, trông giống như một bìa tàu hũ ki, Lục Tử nương nhẹ từng ngón tay mà từ từ mở nó ra. Mãi vài phút sau, cả bức tranh “Tiệc vườn đào dưới trăng” mới hoàn toàn lộ ra dưới con mắt của chúng tôi.

Cảm giác đầu tiên là bức tranh có một kết cấu cực kỳ khác thường, dưới tầng tầng tán hoa đào dày đặc, thấp thoáng nhìn thấy hai bóng người ngồi dưới trăng mà đối ẩm, một người đang đứng, ngẩng đầu nhìn ánh trăng, một người ngồi nâng chén rượu. Bố cục phóng túng, khí thế thoải mái, không câu nệ khung cách. Cái này cho dù có là hàng giả đi nữa thì cũng tuyệt đối là một tác phẩm thượng thừa!

Lục Tử vừa lúi húi vuốt vuốt phủi phủi bức tranh vừa giải thích sơ về nó cho chúng tôi nghe, tranh vẽ bằng giấy Tuyên Thành, cả bức tranh dài chừng 194 cm, bề ngang mép trên là 54 cm, mép dưới là 53 cm. Nhưng đã bị tổn hại hết sức nghiêm trọng, đặc biệt bị sâu mọt gặm gần hết, việc phục chế cực kỳ vất vả.

Bạch Dực nhìn chăm chú bức tranh hồi lâu, đột nhiên trong mắt hiện lên một tia sáng kỳ dị, anh ta chỉ vào người đang ngồi nâng chén hỏi chúng tôi: “Hai người xem, người này hình như đang nâng chén nói chuyện với một người thứ ba khác thì phải?”

Chúng tôi đều đổ dồn mắt vào bức tranh, quả nhiên, người đang ngầng đầu nhìn trời dường như đang ngâm thơ, nhưng người đang nâng chén kia quả thực không hề nhìn người đang đứng, mà là nâng chén hướng về phía rừng hoa đào, nét mặt cực kỳ nhu hòa, như đang mời rượu một người bằng hữu thân thiết nào đó vậy.

Tôi hỏi: “Lục Tử, trong bức tranh này còn có người thứ ba nào không?”

Lục Tử cắn môi, chậc chậc lưỡi hai cái, sau đó tỉ mỉ quan sát lại một lần, cuối cùng đáp: “Không, trong tranh quả thực chỉ có hai người, theo giám định thì dường như hai người này chính là Bạch Dương Thanh Đằng, tức là Trần Đạo Phục và chính Từ Vị đấy. Người lớn tuổi hơn đang ngẩng đầu ngắm trăng kia chắc là Trần Đạo Phục, còn người nâng chén rượu chắc hẳn chính là tác giả bức tranh, Từ Vị, Từ Văn Trường.”

Tôi nhíu nhíu mắt nhìn chằm chằm bức tranh, cảm giác trong tranh thực sự còn một người thứ ba nữa, không phải là hai người đối ẩm, mà là ít nhất phải có ba người, mà có thể còn là rất nhiều người, cảm giác cực kỳ quỷ dị.

Nhìn vào tầng tầng hoa đào, chợt trong óc tôi nảy ra một ý, quay ra nói với hai người kia: “Hai người xem, Từ Vị đang nâng chén hướng về phía rừng đào, phải chăng đây chính là người thứ ba? Từ Vị bình sinh tiêu sái phóng tùng, lúc niên thiếu càng ngông cuồng thoải mái. Hai người nghĩ thử xem, có khi nào người ông ta đang nâng chén mời thực ra không phải người, mà chính là hoa đào hay không?”

Lục Tử nghe thế, hơi giật mình hói: “Vậy chẳng lẽ nữ quỷ kia không phải quỷ mà thực ra là tiên nữ hoa đào? Trong Liêu Trai không phải có rất nhiều chuyện trong tranh có tiên sao, vậy ra, ha ha, xem ra tớ lần này là đào hoa nha!”

Tôi nhíu nhíu mày, lạnh lùng cắt ngang: “Cậu cứ nghĩ là không phải quỷ thì không đáng sợ thật à? Nói cho cậu biết, yêu tinh quỷ mị vân vân đều có thể lấy mạng cậu đấy, cho dù hoa đào người ta có muốn kén cậu làm rể đi nữa thì e chỉ có nước chôn cậu dưới gốc cây của người ta thôi!”

Lục Tử vuốt mặt hì hì cười, nhưng chợt nụ cười của hắn đông cứng lại. Hắn run run chỉ ra cửa: “Hai người, lúc hai người tới… có ai mang giày vải màu đen không…?”

Tôi nghĩ thầm, thời buổi này là thời nào, không phải diễn hí kịch, có mang cũng phải mang giày da bình thường chứ? Tôi cũng theo tay hắn chỉ nhìn ra ngoài cửa, ngoại trừ mấy đôi giày của chúng tôi, quả nhiên còn có một đôi giày vải đen thêu rất khéo, chỉnh tề sắp bên cạnh. Tôi nhìn sang Lục Tử, trông hắn chẳng có vẻ gì là đang đùa cả, bèn thì thào vào tai hắn: “Lục Tử, hình như tiên nữ hoa đào tới tìm cậu rồi kìa…”

Hắn chạy vội ra cửa nhìn, sau đó sợ tới mức mặt trắng nhợt ra, quay lại nói với chúng tôi: “Hai vị, xin nghĩ cách giúp tôi mau đi, tôi thà chết chứ không lấy vợ quỷ đâu ~”

Bạch Dực rất bình tĩnh, chỉ chăm chú quan sát bức tranh rách nát trên bàn, tỉ mỉ xem xét từng phân từng phân một, mặc kệ chúng tôi nhốn nháo về đôi giầy đen trước cửa cũng không thấy anh ta ngẩng đầu lên, dường như đã sớm biết sẽ xảy ra chuyện này vậy, chỉ có chúng tôi thấp thỏm lo sợ.

Tôi vô thức xích lại gần Bạch Dực, kéo kéo tay áo anh ta mà nói: “Lão Bạch, ở đây có cái gì thật ấy, đừng nhìn tranh nữa, thử nhìn xung quanh xem!”

Bạch Dực bị tôi kéo kéo đành ngẩng đầu lên: “Cậu cho tôi là đạo sĩ hàng yêu thật đấy à? Cầm gương bát quái đi chiếu khắp phòng? Ít ra hiện nay cô ta còn không có hứng thú với chúng ta, hoặc là không có ý tấn công chúng ta, chúng ta lo lắng làm cái gì, dù sao tất cả vấn đề đều nằm hết trong bức tranh này rồi.”

Lục Tử sợ tới mức cuống quít cả lên, hắn thấy chúng tôi cũng không biết phải làm sao, vì thế hấp tấp nói: “Vậy chúng ta nên đi ra thôi, thứ kia coi chừng còn ở trong nhà!”

Chưa để cho hắn kịp nói xong thì ngoài cửa đã nhoáng qua một cái bóng trắng, Lục Tử sợ tới mức run bắn lên trốn biệt vào sau lưng Bạch Dực, tôi cũng nuốt nước bọt đánh ực một cái, nhưng chỉ nghe thấy vài tiếng chân vội vã, đợi mãi cũng không thấy chuyện quái lạ nào phát sinh.

Lục Tử dường như đã tới cực hạn rồi, hắn mồ hôi lạnh đầm đìa, lắp bắp nói: “Chúng ta đi, đi thôi, đi ngay, tranh này tớ không sửa nữa. Ai muốn làm thì cứ, cứ làm, đây, đây chỉ muốn toàn mạng thôi!”

Bạch Dực lên tiếng cản Lục Tử, nhưng đôi mắt vẫn chỉ nhìn chằm chằm vào bức họa: “Nếu cậu tin chúng tôi thì để chúng tôi ở lại đây một đêm đi, chúng tôi nhất định có cách giúp cậu!”

Lục Tử còn chưa kịp đồng ý thì tôi đã nhảy dựng lên, cái gì! Căn nhà ma này mà đòi tôi ở lại?! Tôi lập tức chen vào: “Lão Bạch, anh thấy đấy, tôi không làm được cái gì giúp anh đâu! Tôi về trước đi. Ở đây chỉ cần mình anh là đủ rồi còn gì!”

Bạch Dực lắc đầu: “Đây là chuyện của bạn cậu, lẽ nào cậu muốn đổ hết lên người tôi?”

Lục Tử lập tức quay lại nhìn tôi, ánh mắt tội nghiệp năn nỉ, tôi nhìn căn nhà khắp lượt, trong ngực vẫn cứ phấp phỏng bất an. Lục Tử lập tức nói: “Tiểu An, chúng ta chẳng phải gần như là lớn lên bên cạnh nhau sao? Còn nhớ khi còn bé cậu làm vỡ kính cửa sổ nhà số 15, cuối cùng là tớ nhảy ra chịu thay cho cậu chứ ai! Còn nữa…”

Tôi lập tức bịt miệng hắn lại, nếu không thì dám hắn sẽ đem chuyện tôi lúc nhỏ bắt nạt cô bé ở tầng trên cũng lôi ra mà kể lể mất. Không còn cách nào khác, đã đụng phải hai vị ôn thần này thì chỉ còn cách liều mình bồi quân tử mà thôi. Tôi chán nản gật đầu: “Rồi rồi, coi như là tôi vì cậu mà làm vậy! Đừng có mang mấy chuyện lúc tôi còn nhỏ ra mà tỉ tê nữa!”

Bạch Dực nghe thế liền bật cười: “Quen cậu lâu vậy mà chưa thấy cậu nghĩa khí thế này bao giờ! Xem ra lúc còn bé cậu quả thực rất ghê gớm nhỉ?”

Tôi trừng mắt với anh ta, sau đó quay sang hỏi Lục Tử: “Chúng tôi ngủ đâu bây giờ? Chỗ cậu cả cái sô pha cũng không có, làm sao mà ngủ?”

Lục Tử thoải mái đáp: “Hì, đừng nói chỉ có hai người các cậu, có mà ba người tớ vẫn tiếp được như thường, lại đây!”

Nói xong dường như sực nhớ ra là ngoài hai chúng tôi quả thực còn một “khách không mời”, hắn bèn ngậm tăm dẫn chúng tôi vào gian phòng ngủ bên cạnh, cách bố trí rất sang trọng, đặc biệt nhất chính là một cái giường khổng lồ trông có vẻ cực kỳ sang trọng, quả thực là cho dù có là ba người vẫn đủ chỗ lăn qua lăn lại thoải mái trên đó.

Tôi hỏi: “Sao phải mua cái giường gì mà lớn quá vậy?”

Hắn đáp: “Thì để dễ dàng hơn cho chuyện hàng ngày chứ sao…” Đột nhiên lại cười một cái rất tà, chết tiệt, tên khốn này hóa ra là thường đem gái về đây ngủ, bây giờ còn bảo chúng tôi cứ lên đó nằm? Tôi khinh bỉ nhìn hắn, hắn bèn ho khan vài tiếng, nhìn ra chỗ khác lảng tránh ánh mắt của tôi.

Đi qua lại chỉ cho chúng tôi vị trí của vài thứ cần thiết xong, Lục Tử chạy ra khỏi nhà như bỏ trốn, trước khi đi hắn còn nói: “Tớ đành phải nhốt hai người trong nhà khóa cửa ngoài, chìa khóa chỉ có mình tớ có, xin lỗi hai người. Chỉ vì mấy thứ trong nhà, nếu mất bất kỳ món nào thì tớ cũng chết!”

Lòng tôi sôi sục tức giận, tên khốn này còn dám nghi ngờ chúng tôi! Cái cuộn tranh nát như bã đậu của hắn, có trộm về cũng chỉ để vác nợ thôi chứ được cái gì! Nhưng Bạch Dực vẫn có vẻ hết sức tự nhiên, không hề khách khí mà pha một ấm trà Thiết Quan Âm, sau đó vừa uống trà vừa ngồi trong thư phòng đọc sách về tranh chữ.

Tôi cảnh giác nhìn bốn phía, muốn tìm vị trí của nữ quỷ kia, nhưng ngoại trừ tiếng Bạch Dực thỉnh thoảng lật trang sách, ngoài ra không còn động tĩnh nào khác. Cảm giác thật giống như trong tác phẩm “1408” của Stephen King[1], trong đó cảm giác kinh khủng nhất không đến từ sự uy hiếp của những thế lực bí ẩn, mà chính từ bầu không khí đầy áp lực lẫn cảm giác hoang mang sợ hãi không biết cái gì sẽ xảy ra tiếp theo.

Ngày hôm nay Bạch Dực có vẻ yên lặng bất thường, anh ta vốn đã không thích nói nhiều, hiện tại lại im như thóc, chỉ chăm chú uống trà đọc sách. Tôi bèn đến ngồi xuống bên cạnh anh ta, nói: “Lão Bạch, thứ kia có khi nào chỉ bám theo Lục Tử mà mặc kệ chúng ta không? Lúc nãy mới ồn ào là vậy mà Lục Tử vừa đi là yên tĩnh lại ngay?”

Bạch Dực rót cho tôi một ly trà rồi thủng thẳng nói: “Thực ra chuyện này có thể không nằm tại bức tranh, cũng không nằm tại nữ quỷ. Mà là nằm tại chính bản thân câu chuyện.”

Tôi nghe anh ta nói như vịt nghe sấm, phải hỏi lại: “Nằm tại chính bản thân câu chuyện? Là cái gì?”

Anh ta nhấp một ngụm trà, sau đó đẩy kính mắt, nói: “Nói với cậu bây giờ cậu cũng không hiểu, dù sao cậu cũng chỉ cần nhớ ở bên cạnh tôi là được, đừng hỏi lung tung.”

Tôi cảm thấy tức đến nỗi xém chút nữa là đập bàn hất đổ trà rồi, anh ta quả thực quá coi thường tôi đi, làm như tôi là một đứa vô dụng không làm gì nên hồn không bằng! Nói gì thì nói, tôi cũng theo anh ta vào sinh ra tử bao nhiêu lần rồi chứ bộ, cái gì mà còn chưa thấy qua?!

Anh ta không chịu nói, tôi cũng không thèm hỏi lại. Tôi liếc nhìn anh ta một cái, sau đó đứng lên vào phòng ngủ trước.

Trong phòng ngủ có máy vi tính, tôi mở máy lên mạng xem phim, lúc này đương nhiên tuyệt không phù hợp xem phim kinh dị… Bộ phim rất buồn chán, tôi xem một lúc thì bắt đầu gà gật… khi vừa nhắm mắt lại, tự nhiên cảm giác có ai đó khẽ chạm vào vai, rất nhẹ nhàng. Tôi tưởng Bạch Dực, liền bĩu môi hất vai ra, lúc này không phải là lúc làm hòa, ai bảo anh ta coi thường tôi làm chi!

Thế nhưng cảm giác đè nặng lên vai vẫn không mất đi, dần dần tôi cảm thấy rợn người… vì trên vai không phải là tay… mà là giống như một… cái đầu… Bạch Dực không thể nào dựa đầu vào vai tôi… tôi thuận tay sờ sờ… một gương mặt con gái, lạnh như khắc từ băng đá… tóc rất dài… dựa trên vai tôi. Tay tôi lập tức như bị điện giật mà rụt mạnh về, nhưng vẫn tiếp tục nhắm tịt mắt, không dám mở ra. Trọng lượng đè trên vai vẫn không hề giảm bớt, âm nhạc trong máy vi tính cũng tự nhiên thay đổi, biến thành một khúc nhạc xưa cực kỳ quái dị, văng vẳng tiếng tỳ bà ai oán, chỉ nghe bên tai tiếng ngâm nga khe khẽ bằng một thứ ngôn ngữ cổ xưa mà tôi không hiểu…

Tôi biết, có một người đang ghé đầu vào vai tôi… hay là… chỉ có cái đầu?!

Bạch Dực vẫn đang ngồi trong thư phòng, tôi không dám gọi anh ta, cổ họng run lên, đôi mắt vẫn nhắm thật chặt. Tiếng hát rất chậm rãi rất nhẹ nhàng, nhưng tôi hoàn toàn không có cảm giác cái đầu trên vai động đậy chút nào, tiếng hát dường như chỉ đơn giản là thoát ra từ cái đầu, giống như một cái hộp phát nhạc vậy. Miệng nó dán sát vào tai tôi, nên tiếng hát cứ như xuyên thẳng vào tai.

Bởi vì cũng đã từng trải qua quá nhiều chuyện, nên lúc này tôi lập tức nghĩ ra cách nếu không thể hét lên thì phải làm sao tạo ra được âm thanh để đánh động Bạch Dực ở phòng bên cạnh biết là tôi đang gặp chuyện, vì thế tôi cắn răng thả người cho cơ thể rơi tự do xuống khỏi ghế, vai đập một cái “rầm” xuống sàn nhà, cả người tôi nhất thời tê dại đi. Cũng may cái ghế rơi xuống đất, vang lên một tiếng rất to.

Tôi cắn chặt răng rên lên vì đau, nhưng vẫn nhất quyết không mở mắt ra, chỉ nghe bên tai một tiếng thở dài rất nhẹ, tôi cảm giác thứ kia dường như đã đi, sau đó là tiếng bước chân vội vã của Bạch Dực. Khi một đôi tay mạnh mẽ vươn tới đỡ nửa người tôi lên, tôi liền từ từ mở mắt, nhưng… rơi vào mắt tôi là một gương mặt tóc tai bù xù che khuất cả gương mặt, cả mặt bị chôn vùi trong mớ tóc không biết là nam hay nữ, chỉ cảm thấy cực kỳ gầy yếu. Mắt tôi hoa lên, sợ tới mức hét lên một tiếng, đẩy bật kẻ kia ra mà ù té chạy tới cửa, vừa đúng lúc Bạch Dực đi vào, cả người tôi liền húc thẳng vào anh ta. Tôi không dám quay lại, chỉ đưa tay run rầy chỉ vào trong phòng: “Quỷ, quỷ, thật là quỷ đó!!!”

Bạch Dực vỗ vỗ lưng tôi: “Trong phòng không có gì hết.” Từ từ mở mắt ra nhìn lại, quả thật không có ai. Cái ghế ngã chỏng chơ trên đất, máy vi tính vẫn tiếp tục phát bộ phim tình cảm nhàm chán. Bản nhạc xưa đã biến mất. Vậy thứ kia đã tới bằng cách nào nhỉ?

Tôi sợ tới mức phát sặc, vừa ho khụ khụ vừa ra sức hít thở, Bạch Dực đỡ tôi về thư phòng, tôi mới từ từ bình tĩnh lại được, nhưng hai chân cứ run run không kiềm nổi. Lúc này mới thấy tôi coi thường Lục Tử, chế nhạo hắn là nhát gan, nhưng thực ra tôi cũng chẳng hơn gì được người ta.

Vì vậy tôi cũng ngoan ngoãn lại, an tĩnh ngồi chờ bên cạnh Bạch Dực. Dù sao ngẫm lại, tất cả những chuyện trước giờ gặp phải, đâu có chuyện nào thực sự tự giải quyết được đâu, toàn là nhờ tới Bạch Dực ra tay phút cuối, quả thực không có tư cách giận anh ta. Lòng tin vừa được bơm phồng không được bao lâu thoáng chốc đã xẹp xuống, tuy uất ức vì bản thân quá yếu đuối, nhưng cuối cùng thì nỗi sợ đã chiến thắng toàn bộ sĩ diện. Bạch Dực xem sách một lúc, sau đó thở dài một cái, dường như cảm thấy sự buồn bã của tôi mà hạ sách xuống nói: “Thực ra chỉ vì tôi không muốn đợi một mình, có thêm cậu thì dễ chịu hơn mà thôi.”

Tôi ngạc nhiên hỏi lại: “Lão Bạch, anh cũng sợ quỷ sao?”

Anh ta lắc đầu, nhìn tôi trả lời: “Đôi khi, cô độc một mình còn đáng sợ hơn cả quỷ. Cái cảm giác bị mọi người quên lãng chính là thứ cảm giác dễ sợ nhất.”

Tôi ngơ ngác nhìn, trong lòng tự hỏi lão Bạch đã trở thành nhà thơ từ lúc nào? Tôi đành vỗ vỗ vai anh ta nói: “Yên tâm, anh đẹp trai như vậy, lại có bản lĩnh, cảm giác tồn tại mạnh hơn tôi nhiều!”

Anh ta cười cười đứng lên, tôi thấy anh ta muốn đi, cũng vội vàng đứng bật dậy định theo, nhưng anh ta nhẹ nhàng nói: “Tôi chỉ đi đổi quyển sách khác đọc mà thôi, cậu muốn xem sách gì không?”

Tôi bối rối ngồi xuống ghế, liếc nhìn anh ta, anh ta liền đưa cho tôi một cuốn sách: “Trước hết đừng vào phòng ngủ, bỏ lên mạng đi, đọc cái này, là tiểu thuyết đời Đường đấy, có khi làm cậu có hứng thú.”

Cuốn sách này tôi đã xem qua lúc còn đang học đại học, triết lý dễ hiểu, những bài học đưa ra rất gần gũi, năm đó là do một người bạn học khoa Văn học vứt lại trên giường tôi, cho nên lúc không có chuyện gì làm tôi cũng mở ra xem.

Ở giữa có một câu chuyện kể về hoa đào, kể lại chuyện một nhà thơ nổi tiếng đời Đường là Thôi Hộ, một ngày kia đi qua Nam trang ở Đô Thành, vô tình nhìn thấy dưới tán hoa đào một nữ tử dung mạo cực kỳ xinh đẹp. Ông đem lòng yêu nàng, nhưng lúc đó còn đang bận công danh nên đành đi gấp. Sau đó ông đỗ tiến sĩ, nhận chức quan Tiết Độ Sứ Lĩnh Nam, vì thế quay lại chốn xưa muốn tìm người con gái năm nào, nhưng dưới gốc hoa đào năm ấy nay chỉ còn thấy một lá cờ tang trắng toát mà không còn cô nương xinh đẹp dưới hoa nữa. Sau này mới biết, người con gái ấy không sống tới lúc đợi ông trở về đã sớm hương tiêu ngọc vẫn.

Vì lẽ đó, Thôi Hộ mới viết nên bài thơ lưu truyền thiên cổ: Khứ niên kim nhật thử môn trung. Nhân diện đào hoa tương ánh hồng. Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

Bạch Dực nghe tôi khe khẽ ngâm bài thơ này, đột nhiên ghé sát tới hỏi: “Lúc nãy vừa ngâm cái gì thế?”

Tôi nói cho anh ta biết về bài thơ “Đề Đô Thành Nam trang” và điển tích của nó, anh ta chợt gật mạnh đầu, quay trở lại bên bàn làm việc.

Lục Tử lúc nãy bỏ chạy rất vội vàng nên chưa kịp cất bức tranh đi. Bạch Dực cầm lấy kính lúp, chăm chú quan sát lại bức tranh một lần nữa thật tỉ mỉ.

Sau đó, anh ta chậm rãi buông kính lúp xuống, nhìn tôi mỉm cười: “Xem ra bản lĩnh ăn may của cậu đúng là khó ai bì kịp đấy!”

Tôi tự nhiên được khen một câu chẳng đâu vào đâu, đầu tiên là theo phản xạ cười hì hì, nhưng sau đó càng nghĩ càng thấy khó hiểu: “Rốt cuộc chuyện này là sao vậy?” Anh ta vui vẻ nói: “Cứ chờ tới tối, cậu tự hỏi ‘cô ta’ là biết ngay ấy mà!”

Tôi trừng mắt lườm anh ta, hỏi, có mà hỏi cái đầu anh ấy! Nếu có gan thì anh cứ nhìn thẳng vào gương mặt bù xù đó của nó mà hỏi xem, cô em định ở chỗ này chờ ăn cơm tất niên sao, coi chừng tên Lục Tử kia không chịu cho ăn ké đâu…

Nhắc đến ăn chúng tôi mới chợt cảm thấy đói, đã tới giờ cơm tối rồi. Trong tủ lạnh nhà Lục Tử có rất nhiều đồ ăn, hắn là một kẻ ăn xài hoang phí, những kẻ buôn bán cổ vật và tranh hiếm như bọn họ kỳ thực rất giàu có, vì chỉ cần bán được một món hời thôi là có thể ăn nhiều năm rồi. Cái này gọi là ba năm không làm việc, làm việc ăn ba năm.

Bạch Dực xào một chảo mì, nấu một bát canh rồi đuổi tôi ra ngoài. Nhưng căn nhà lúc này quá ư quỷ dị, tôi không dám rời anh ta một tấc, cho dù anh ta đi toa lét cũng nhất quyết đòi đi theo.

Phòng ngủ trở thành khu vực cấm, Bạch Dực không hề ghé mặt vào đó lấy một lần, máy vi tính bên trong vẫn cứ mở, bộ phim đã chiếu hết từ lâu, gian phòng tối mò mò chỉ có ánh đèn màn hình vi tính lấp lóe như trêu ngươi. Yên lặng, yên lặng đến kỳ quái. Không có bất kỳ chuyện quái dị nào. Chỉ có đôi giày vải đen thui ngoài cửa vẫn lẳng lặng xếp đó, nói cho chúng tôi biết “vị kia” vẫn còn ở trong nhà.

Trời nhanh chóng tối sầm lại, tôi vội vàng đi mở hết đèn trong nhà lên, toàn bộ thư phòng trong nháy mắt sáng rỡ lên dưới ánh đèn huỳnh quang trắng lóa. Lúc này tôi mới chú ý đến một bức tranh mỹ nữ treo trong góc phòng rộng chừng vài tấc, ánh mắt của cô gái trong tranh dường như tự tiếu phi tiếu, đôi lúc còn có cảm giác là cô ta đang… nhìn tôi nữa.

Tôi giật mình nghĩ: tên khốn Lục Tử này, sao lại không treo tranh thần Chung Quỳ hay tượng phật gì đó mà lại treo cái thứ quỷ này!

Bạch Dực buông cuốn sách thứ năm xuống, vẻ mặt vẫn bình tĩnh thoải mái cứ như dẫu cho trời có sập xuống cũng vẫn có thể chống đỡ, vì thế tôi hi vọng hỏi: “Anh có phải biết cách trừ con quỷ này rồi phải không? Nếu biết thì làm mau mau đi rồi về nhà, khỏi cần ở lại đây qua đêm mà!”

Anh ta uống thêm một chén Thiết Quan Âm đã pha đến loãng, nhíu nhíu mày trả lời: “Cô ta không chịu ra, theo cách Lục Tử nói thì có lẽ chỉ khi nào ở một mình mới có thể gặp cô ta mà thôi. Nói cách khác là chỉ khi nào chúng ta không phòng bị, hay là khi ở một mình thì cô ta mới ra. Nhưng theo lời cậu kể lúc nãy thì không thể chờ lâu hơn được nữa, chờ nữa cô ta sẽ tích tụ thêm oán khí càng lúc càng sâu, cuối cùng hóa thành lệ quỷ, lúc đó thì chỉ uống trà đọc sách như chúng ta bây giờ tuyệt không phải là đối thủ của cô ta.”

Nói xong, anh ta lại quay lại cuốn sách mới lấy trên tay. Tôi ngoan ngoãn ngồi bên cạnh anh ta, cảm nhận bầu không khí càng lúc càng yên tĩnh một cách quỷ dị, những suy nghĩ trong đầu cũng càng lúc càng hỗn loạn. Tôi nhéo nhéo mũi, soát lại toàn bộ vấn đề từ đầu đến cuối.

Trong bức tranh có quỷ, nhưng Bạch Dực nói chuyện này không phải tại bức tranh, cũng không phải tại con quỷ, mà là tại bản thân câu chuyện nó như thế. Tôi quả thực không hiểu nghĩa câu nói này. Thực ra nếu bức tranh không có quỷ thì nó cũng chỉ là một bức tranh bình thường mà thôi, nhưng sau khi đã phát hiện bí mật kỳ lạ ẩn sau nó rồi, thì tự nhiên cảm thấy cả bức tranh cũng dường như lạ lùng hẳn lên, như thể đang ẩn chứa một bí ẩn nào đó chờ được công bố vậy. Nếu Từ Vị thực sự đang mời hoa đào uống rượu, vậy phải chăng ông ta có quen biết yêu tinh hoa đào này? Mà lại còn là bạn thân thiết là đằng khác. Còn nếu Từ Vị không phải đang mời hoa đào, vậy thì người thứ ba trong tranh là ai? Chuyện này có quan hệ gì tới chuyện bây giờ?

Trong đầu tôi nảy ra hàng loạt câu hỏi, mỗi lúc mỗi khó trả lời hơn.

Đang khi âm thầm suy nghĩ, chợt bả vai bị ai đó vỗ mạnh một cái, tôi giật nảy người nhìn lên thì thấy Bạch Dực đã đứng lên từ lúc nào, chỉ chỉ vào phòng ngủ mà nói: “Tới giờ đi ngủ rồi.”

Tôi nhìn anh ta, rồi lại nhìn lại gian phòng u ám như một vùng cấm địa kia mà lắc đầu quầy quậy: “Không đi không đi! Có thể thứ kia còn ở trong đó, làm sao tôi ngủ được với nó?”

Bạch Dực ngáp một cái, vẫy vẫy tay: “Vậy cứ chờ ở đây đi nhé, tôi đi ngủ trước. Hôm nay cũng mệt quá rồi.”

Nói xong lập tức đi thẳng vào phòng ngủ, tôi ngồi phía sau ấm ức hừ một tiếng, nhưng rồi lại vô thức liếc nhìn qua bức tranh mỹ nữ treo trên tường, tự nhiên cảm thấy sống lưng gai gai lạnh. Nhớ tới lời Bạch Dực bảo con quỷ chỉ xuất hiện khi nào có người ở một mình, tôi lập tức bật dậy lật đật chạy theo sau anh ta.

Chương 24: Tiệc vườn đào dưới trăng (Hạ)        

Phía sau cánh cửa phòng ngủ, mọi thứ vẫn rất bình thường, máy vi tính dừng lại ở cảnh cuối cùng khi hai diễn viên chính ôm nhau, nam cười đến tận mang tai, nữ khóc đến sắp trôi mascara. Trong phòng ngủ có một toa lét riêng, cửa sổ và cửa mở ra ban công đều bị bịt kín lại. Có vẻ đúng như lời Lục Tử nói, trông bên ngoài thì giống như một căn nhà dân bình thường, nhưng bên trong chẳng khác nào một ngân hàng cỡ nhỏ.

Bạch Dực ngồi lên giường vỗ vỗ gối vài cái, sau đó có vẻ thỏa mãn mà đặt đầu xuống nằm luôn, không buồn cởi cả áo ngoài. Tôi trông chừng anh ta có vẻ muốn ngủ tới nơi, liền kéo tay anh dậy cau mày nói: “Thần kinh anh bị đơ hay là thực sự không sợ quỷ thế? Đã biết trong phòng có cái gì đó mà còn dám ngủ tỉnh bơ vậy?”

Bạch Dực kéo ngược lại một cái, làm tôi ngã luôn lên giường nằm cạnh anh ta, tiếp theo nhanh như chớp kéo chăn đắp cho tôi rồi bình thản nói: “Cứ đắp chăn kín cả người thì còn sợ gì nữa, nếu không thì để tôi ôm cậu ngủ nhé?”

Thực sự đoán không ra đầu óc anh ta làm bằng cái gì? Bộ trùm chăn kín đầu thì sẽ không bị quỷ bắt chắc? Vậy bao nhiêu người chết trên giường đó là vì cái gì? Tôi gạt cánh tay ôm hờ bên thắt lưng mình của anh ta ra, định ngồi lên. Nhưng đột nhiên lại cảm thấy sau lưng có một cái gì đó cồm cộm, tôi vặn lưng, đưa tay ra sau kiểm tra, chạm vào thì thấy nó là một cái hộp giấy, tôi ngạc nhiên, cái gì đây nhỉ? Tò mò lấy ra nhìn thử… chết tiệt! Tên khốn Lục Tử kia dám nói cái giường này sạch sẽ?! Vậy chứ cái hộp bao cao su này nằm đây làm gì? Để tối thổi lên làm bong bóng chơi chắc?!

Bạch Dực nhìn bàn tay run run nắm chắc cái hộp giấy của tôi bèn hỏi nó là cái gì, tôi liền vung tay ném thẳng nó vào góc phòng, trùm chăn kín đầu bực tức trả lời: “Kẹo ngọt, anh không thích ăn đâu.”

Tôi quá sợ không dám đưa lưng về phía Bạch Dực ngủ, nên đành xấu hổ mà day mặt lại đối mặt với anh ta. Tuy có hơi khó xử, nhưng ít ra nếu có chuyện gì xảy ra thì còn kịp gọi đối phương. Tới đây tự nhiên nhớ lúc còn nhỏ tôi cũng rất nhát, hay trốn trong ổ chăn của bà nội mà ngủ, không dám đưa lưng lại mà lúc nào cũng xoay mặt về phía bà mà ngủ. Giống như chỉ cần nhìn thấy một gương mặt quen thuộc thì có cảm giác an tâm hơn vậy.

Dần dần tôi cảm thấy mắt nặng trịch xuống, bất giác cũng nhắm mắt lại ngủ. Nhưng tôi ngủ rất chập chờn, vẫn căng thẳng căng tai lên nghe ngóng động tĩnh xung quanh. Bạch Dực ở bên cạnh ngủ say đến không biết trời đất gì nữa, tôi thực sự bội phục anh ta, thần kinh cứ như dân sao Hỏa ấy, sau này nếu không làm giáo viên nữa có thể cân nhắc đi làm nghề trông nhà xác được.

Ngoại trừ tiếng máy điều hòa rì rầm thổi gió và tiếng thở đều đặn của Bạch Dực, xung quanh vắng lặng như tờ. Tinh thần căng thẳng của tôi nhờ đó cũng bắt đầu thả lỏng ra, tự dỗ mình là chỉ cần có hai người ở đây thì thứ kia sẽ không dám xuất hiện… sau đó, bậm bậm môi kéo kéo chăn, yên tĩnh chìm vào giấc ngủ.

Ban ngày có lẽ suy nghĩ cùng lo lắng quá nhiều, nên ban đêm nằm mơ rất hỗn loạn, có hoa đào, có tiệc rượu, có người thứ ba đang đứng đối diện…

…Dường như tôi cũng đã nhập vào tiệc rượu nọ, mùi hương rượu thơm nồng, hòa cùng mùi hương của hoa đào. Xuyên qua tầng tầng hoa đào phô sắc thắm, thoáng như nhìn thấy một khuôn mặt tươi cười đẹp như hoa. Từ Vị vươn tay vẫy vẫy, nụ cười kia càng thêm nở bừng diễm lệ. Nhưng khi nàng còn đang tươi cười nhìn Từ Vị thì ông đã đột ngột xoay người đi, gương mặt tươi cười dần dần hòa làm một cùng gương mặt của mỹ nữ trên bức tranh dán trên tường phòng khách, ánh mắt không còn trong trẻo mà ngập đầy một loại oán độc, một loại oán hận của trăm năm cô độc.

Tôi muốn bước xuyên qua tầng tầng hoa đào mà đi về phía đó để xem người nọ là ai, nhưng cành cây xung quanh đột ngột như có sự sống, tự động quấn chặt lấy thắt lưng, nhìn cây cối xung quanh hoa đào đã rụng hết, chỉ còn những cành cây khô cằn trơ trụi. Bên tai vang lên một khúc nhạc xưa ai oán như khóc như than. Từ từ, chậm rãi, tôi bắt đầu có cảm giác trở lại, từ trong mộng mị thoát dần ra thế giới bên ngoài, cảm thấy ôm chặt lấy tôi không phải là cành cây, mà là một đôi tay…

Bàn tay đó đang… cởi thắt lưng quần của tôi! Đầu tôi như nổ “bùm” một tiếng, lập tức hét lên: “Lão Bạch khốn kiếp, anh định làm gì tôi?!”

Nhưng ngay lúc đó, Bạch Dực cũng cùng lúc ngẩng đầu lên, giận dữ chất vấn: “Cậu định làm gì tôi vậy?!”

Chúng tôi mở to mắt nhìn nhau, thứ xuất hiện ở đó làm tôi sợ tới mức suýt chút nữa cắn phải đầu lưỡi mình! Giữa chúng tôi là một nữ nhân mặc y phục toàn trắng, mẹ ơi! Gương mặt của nó cứ như bị tạt axit vậy, lam nham lở nhở, gần như bị tàn phá toàn bộ; tôi chỉ nhìn thấy phân nửa gương mặt của nó, nhưng trông nó cứ như một thi thể nằm sõng sượt giữa hai chúng tôi vậy, đôi mắt nhìn chằm chằm lên trần nhà, khóe miệng nhếch lên thành một nụ cười oán độc. Đây rõ ràng là gương mặt tôi đã nhìn thấy trong mơ, chỉ trừ việc nó đã bị hủy hoại tan nát rồi.

Tôi và Bạch Dực cùng đồng thời lăn một vòng lao xuống khỏi giường, mà đáng chết nhất là, quần của tôi bị nó cởi phân nửa, tuột xuống tới đầu gối nên căn bản là chạy không được, chỉ đành buông người ngã lăn xuống đất, vai lại đạp xuống sàn đau thấu tới óc. Tôi nhăn nhó thầm nghĩ: cứ té thế này thêm vài cú nữa chắc xương bả vai của tôi nát bấy mất…

Hiển nhiên là Bạch Dực cũng không khá hơn tôi bao nhiêu. Tôi không khỏi mắng thầm: Mẹ nó, bộ nữ quỷ này cô đơn lâu quá nên đàn ông nào cũng muốn sao? Chết tiệt, cứ tưởng chỉ có nam quỷ mới háo sắc, ai ngờ nữ quỷ mà háo sắc lên thì còn quá hơn, một mình nó mà muốn cả hai chúng tôi?

Chờ chúng tôi lấy lại tinh thần nhìn lại trên giường thì hoàn toàn không còn nữ quỷ đâu nữa. Tôi nhìn sang Bạch Dực ở bên kia giường, anh ta trông còn thảm hơn tôi, hai hàng cúc áo đã bị mở bung ra hết, cũng may quần vẫn còn ở đúng vị trí, anh ta nhìn tôi dùng hai tay giữ quần, vẻ mặt vẫn bình tĩnh như không hề cảm thấy xấu hổ.

Tôi chớp thời cơ kéo lại quần, không khỏi tự cảm thấy bản thân quá mức chật vật. Vừa vất vả xốc lại quần, tôi vừa hỏi Bạch Dực: “Chết tiệt, nó biến đâu mất rồi?! Con nữ quỷ này quá đáng thật, còn trơ trẽn hơn cả mấy con nhỏ ngoài tiệm mát xa nữa!”

Bạch Dực vuốt vuốt mặt hỏi tôi: “Cô ta có làm gì cậu không?”

Tôi lắc đầu: “Không có, may mà tôi cảnh giác, vừa thấy có ai nắm lấy quần của mình là lập tức tỉnh lại ngay. Nếu không thì…”

Trông Bạch Dực rõ ràng có vẻ trấn tĩnh hơn tôi nhiều, chỉ bình tĩnh đứng đó vuốt cằm suy nghĩ cái gì đó, thậm chí còn không buồn cài lại cúc áo. Tôi nhìn dáng vẻ thản nhiên như không của anh ta mà hỏi: “Vậy anh cũng không sao chứ…? Thiệt tình, nữ quỷ đó quả thực quá sức xấu xí mà, vậy mà Lục Tử còn khen là một mỹ nhân! Cái mặt của nó quả thực có thể đem ra làm ví dụ cho hậu quả của việc tạt a xít chứ chẳng chơi!”

Bạch Dực hơi ngẩn ra rồi nói: “Đâu có, mặt cô ta rất bình thường mà, đâu có gì kinh khủng đâu?”

Tôi nghe thế lập tức ngừng tay ngơ ngác nhìn anh ta, sau đó vừa huơ chân múa tay làm điệu bộ vừa giải thích: “Không mà, tôi nhìn thấy rõ ràng là một khuôn mặt da chảy xệ hết cả xuống, mắt mũi đều méo mó vặn vẹo kia!”

Bạch Dực cũng không cãi lại, giữa chúng tôi rơi vào một không khí trầm lặng, chúng tôi chỉ chăm chú nhìn nhau hồi lâu, cuối cùng Bạch Dực chậm rãi nói: “Tiểu An, nếu như sợ thì tuyệt đối đừng nhìn lên trần nhà.”

Tôi nghe mà ù ù cạc cạc, trần nhà? Mà thói đời là càng bảo người ta đừng làm gì đó thì người ta lại càng phản xạ làm theo ngay, vì thế tôi… bất giác ngẩng đầu nhìn lên, sau đó, là sợ tới mức chỉ kịp hét lên một tiếng the thé, cả người nhất thời sụm xuống sàn. Hèn gì mà nữ quỷ biến mất nhanh như vậy, hóa ra là nó đang dán sát người trên trần nhà, dưới ánh trăng bàng bạc, má ơi, gương mặt của nó quả thực là kinh dị vượt quá mức chịu đựng của con người! Một nửa xấu đến kinh khủng, một nửa thanh tú mỹ lệ, xấu và đẹp chen lấn vặn vẹo giành giật nhau trên khuôn mặt của nó, hèn gì mà Bạch Dực lại nói là mặt nó không có gì đáng sợ.

Nữ quỷ trông giống hệt một con thằn lằn to, dán sát vào trần nhà. Ánh mắt một hồi thì ôn hòa dịu dàng, một hồi thì oán độc tàn bạo, cả hai loại cảm xúc trái ngược nhau cũng đang quay cuồng trên nét mặt nó.

Bạch Dực nín thở chờ đúng thời cơ thuận lợi, nhảy phóc một cái vượt qua mặt giường chạy tới bên cạnh tôi. Tôi vội ôm chặt lấy cánh tay anh ta lùi lại phía sau vài bước.

Nữ quỷ dường như đang dùng hết sức để khống chế chính bản thân mình, qua một hồi lâu, vẻ cổ quái trên mặt nó cũng dần dần dịu đi, tuy một bên mặt vẫn rất ghê người, nhưng ánh mắt của nó đã bình tĩnh nhu hòa trở lại, chỉ có điều là dường như nó rất sợ chúng tôi, vẫn dán sát trên trần nhà mà không dám xuống.

Nó sợ sệt e dè nhìn chúng tôi, vẻ mặt giống hệt như một thiếu nữ yếu đuối thơ ngây. Tôi lắc đầu than thầm, ta mới là người bị ngươi dọa đến suýt phát khóc đây này, vậy mà nhìn ngươi thì cứ như chính ngươi mới là nạn nhân vậy!

Miệng nó không hề cử động, nhưng âm thanh vẫn phát ra, nó nói: “Xin các vị đừng làm hại ta, ta cũng rất khổ sở.”

Bạch Dực nhăn nhăn mặt nói: “Chúng ta không muốn làm gì ngươi cả, chỉ có ngươi đã dọa cậu nhóc này sợ phát khiếp lên thôi.”

Nghe thế, nó liền quay bên mặt nham nhở lại phía tôi, tôi lập tức nhìn ra chỗ khác, tuy nói là không bao giờ được phép chê một cô gái là xấu xí, nhưng vị này… thật sự quá ngưỡng chịu đựng của tôi rồi.

Nó lại nhìn sang Bạch Dực, chúng tôi và nó cứ thế nhìn nhau một lúc, sau đó nó chậm rãi phát ra tiếng: “Ta không phải người, cũng không phải quỷ… ta là một vết mực mà Văn Trường tiên sinh đã để lại.”

Tuy có thuyết nói rằng vạn vật đều có khả năng biến thành tinh thành mị, nhưng chẳng lẽ cả mực tàu cũng có thể sao? Tôi nghi ngờ nhìn sang Bạch Dực, anh ta bèn gật đầu xác nhận: “Đúng, thứ này không phải quỷ, mà là mị. Thực ra chỉ cần có hình người, ví dụ như được vẽ lại trong tranh chẳng hạn, qua thời gian dài tích lũy năng lượng mặt trời mặt trăng là có thể hóa thành mị. Mà phương pháp nhanh nhất để mị có thể thành tinh là hấp thu tinh khí của đàn ông, cho nên mới có câu nói là trong cõi người thì đàn ông là háo sắc nhất, mà trong cõi yêu thì mị là háo dâm nhất. Vì thế sức khỏe của bạn cậu mới mau chóng xuống dốc như vậy, nếu cậu ta không nhận ra sớm thì coi chừng mất mạng hồi nào không hay rồi.”

Tôi ngơ ngác hỏi thêm: “Nhưng trong bức tranh đâu có người thứ ba nào đâu, vậy nó lấy đâu ra hình người mà hóa thành mị?”

Nữ mị giải thích: “Những nét bút trong tranh đưa qua lại họa thành một cây hoa đào, những cành cây dọc ngang vô tình họa thành một gương mặt người, đó chính là bản thể của ta. Ta chỉ dựa vào nó để có thể được giải thoát khỏi bức tranh đã giam cầm ta suốt mấy trăm năm nay.”

Nó âm trầm nói tiếp: “Văn Trường tiên sinh cực kỳ yêu thích vẽ tranh, cũng thích kết giao với những văn nhân nhã sĩ nào biết thưởng thức tranh của ông ấy. Ông ấy chưa bao giờ câu nệ hay bó buộc hình thức, cho nên phong cách vẽ tranh cũng cực kỳ đặc thù. Thực ra… người thứ ba mà Văn Trường tiên sinh nâng chén mời rượu chính là người nào đang thưởng thức bức tranh đó đấy. Ta… bất quá chỉ là một mị quỷ ngẫu nhiên mà thu được chút linh khí mà thôi.”

Tôi vừa nghe lập tức vỡ lẽ, cảm thán Từ Vị quả không hổ là thiên tài trăm năm chỉ có một. Bố cục tinh tế mà thông minh như thế, e là ngay cả những họa sĩ hiện đại cũng khó lòng mà nghĩ tới, huống chi là vào một thời kì mà lễ giáo phong kiến nghiêm khắc như thời của ông.

Ý nghĩa sâu sắc của bức tranh này chính là sự đồng điệu đồng hoan của tác giả bức tranh cùng với người ngắm tranh, còn nữ mị chỉ là một sự hình thành ngẫu nhiên do nét mực tạo thành. Vậy lẽ nào có thể hiểu là, tất cả những chuyện này xảy ra chỉ là bởi vì nữ mị mang lòng ghen ghét đối với những người thưởng thức tranh như chúng tôi? Cho nên mới sinh ra ý định tấn công?

Bạch Dực nhìn nữ mị: “Nhưng cho dù là như vậy đi nữa thì ngươi cũng cần gì phải biến thành cái dạng này? Chỉ cần bức tranh này còn, thì ngươi vẫn còn có thể tiếp tục sống trong tranh, không bao giờ biến mất kia mà?”

Nữ mị thấp giọng nghẹn ngào nói: “Bởi vì ta đã đợi trong rừng hoa quá lâu quá lâu rồi… Đã lâu như vậy, Văn Trường tiên sinh đã sớm không còn trên nhân thế nữa, nhưng không có một ai, ngay cả chính tiên sinh, nhận ra trong bức tranh còn có một người là ta, một người vẫn kiên nhẫn chờ đợi giữa tán hoa đào, vẫn chờ, chờ người kia quay đầu lại nhìn thấy, chờ người kia nâng chén lên mời ta, mà không phải là những kẻ sẽ nhìn vào bức tranh này… Nhưng mà…”

Tôi thở dài một hơi, không tưởng tượng nổi câu chuyện này quả thực lại giống như một câu chuyện tình Liêu Trai như thế. Lại hỏi: “Vậy sao ngươi lại đi trêu chọc Lục Tử làm gì?”

Ánh mắt nữ mị thoáng chút ngại ngùng, nó nói: “Thương tiên sinh có tài hoa, hơn nữa nếu có thể hướng dẫn hắn một chút, hắn có thể giúp ta thực sự trở thành người thứ ba trong bức tranh. Ta không muốn chỉ làm một cái bóng tạo thành vì nét mực nữa. Mà nếu thực sự không được, vậy ta sẽ hấp thu hết tinh khí của hắn, ta muốn…”

Đột nhiên gương mặt của nó vặn vẹo đi, cả cơ thể nó cũng bắt đầu run lẩy bẩy. Bạch Dực cũng cảm thấy không ổn, bởi vì anh ta dùng cơ thể của mình che chắn trước người tôi. Cả hai chúng tôi chằm chằm nhìn nữ mị đang càng lúc càng trở nên quái dị kia, ánh mắt nó thoắt cái trở nên vô cùng tàn ác, cảm giác của cả người nó cũng thay đổi hẳn. Vẻ mặt nó càng lúc càng nóng nảy, cả người cong lên, tỏa ra một làn sương đen đặc như mực lan, trần nhà màu trắng trong phút chốc bị nhuộm thành một màu đen loang lổ.

Nó đột nhiên hét lên: “Ta muốn biến thành người! Ta muốn người kia nhìn ta! Ta không phải là mực! Ta là người!!!”

Bạch Dực thì thầm với tôi: “Xem ra cô ta không khống chế được bản thân nữa rồi, nếu không còn cách nào khác thì có lẽ chúng ta phải hủy bức tranh đi thôi, cô ta cũng sẽ biến mất cùng bức tranh luôn!”

Tôi giật thót người, hủy tác phẩm của Từ Vị?! Vậy vấn đề không còn là ngồi tù hay không ngồi tù nữa đâu, mà là trực tiếp bị xử bắn đó!

Tôi run run nói: “Lão Bạch, anh nghĩ biện pháp khác để nó bình tĩnh lại không được sao, chỉ cần nó đừng kích động là được, có gì từ từ thương lượng mà! Chứ hủy tranh… nghiệp chướng lắm!”

Nữ mị bắt đầu kích động lắc đầu như điên, những nơi tóc nó quệt qua đều để lại những vết mực dài, từ người nó mực đen cũng nhỏ xuống long tong, nhuộm đen khắp cả cái giường. Cảm giác cả người nữ mị cứ như một nghiên mực to, liên tục sóng sánh tràn mực ra ngoài vậy.

Bạch Dực thở dài não nề: “Cậu nghĩ có thể giữ cô ta nổi sao? Có lẽ bây giờ chỉ có Từ Vị tái thế mới khống chế được cô ta mà thôi!”

Nói đến Từ Vị tôi đột nhiên tỉnh cả người, đúng vậy, vì sao nó không hề dám đặt chân vào gian phòng đang đặt bức tranh chứ! Bởi vì nó không muốn, hay nói đúng hơn là không dám nhìn Từ Vị! Tôi lật đật níu Bạch Dực lại thì thào: “Anh xem có thể giữ chân nó được bao lâu?”

Anh ta nghiêm túc suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Chỉ ba phút, không lâu hơn được nữa đâu.”

Tôi gật đầu: “Hay lắm, anh giúp tôi cầm chân nó ba phút, tôi sẽ có cách cho nó bình tĩnh lại!”

Nói xong tôi lập tức xoay người chạy về phía cửa phòng, Bạch Dực dường như cũng đã hiểu ra ý của tôi, anh ta lập tức xông lên trước yểm trỡ, nữ mị điên cuồng quất tóc tới, mái tóc đen dài như một sợi roi mảnh. Tôi nhìn lại phía sau, Bạch Dực đã bị đám tóc đó quấn chặt, tôi sợ tới mức chạy ù té nhanh về phía phòng làm việc, trong lòng thầm cảm thán: hóa ra anh đảm bảo với tôi ba phút là thời gian mà một người có thể nín thở trước khi chết ngạt! Đổng Tồn Thụy[2] thật nha!

Tôi hấp tấp đá bung cửa phòng làm việc, lao như chớp tới bên bức tranh, nâng cả tấm gỗ nặng muốn chết đang giữ bức tranh lên. Bởi vì trong tay là vật phẩm cấp quốc bảo nên tôi không dám chạy quá nhanh, chợt nghe Bạch Dực bên kia gào lên: “Còn lề mề cái gì đó! Mau tới không tôi bị bóp cổ chết bây giờ!!!”

Ý thức được là Bạch Dực đang gặp nguy hiểm, tôi cũng bất chấp bản vẽ trong tay có thể bị hư hại gì hay không, mạng người dù sao vẫn quan trọng hơn, huống chi, đây lại chính là mạng của Bạch Dực chứ! Tôi phóng trở về phòng ngủ, vừa kịp nhìn thấy Bạch Dực đã bị trói chặt thành một cái kén bằng tóc đen thùi. Tôi giơ cao bức tranh lên, chạy thẳng về phía nữ mị. Nữ mị đang phát cuồng, vừa nhìn thấy bức tranh thì cứ như nhìn thấy kính chiếu yêu, lập tức thét lên một tiếng chói tai, cả mái tóc kinh khủng cũng lập tức rụt hết lại.

Bạch Dực thở hổn hển lảo đảo bước sang chỗ tôi, chúng tôi vẫn xoay cho bức tranh chiếu thẳng vào nữ mị, nó dần dần trở nên an tĩnh lại, chỉ lắc đầu điên cuồng không dám nhìn thẳng vào Từ Vị trong tranh, làm đám mực nước trên người tí tách rỏ xuống sàn.

Nó bi ai khóc lóc: “Tiên sinh, u u, tiên sinh đừng nhìn ta, ta không muốn người nhìn thấy bộ dạng này của ta… Ta không muốn thành người nữa, ta bỏ cuộc…”

Tôi đột nhiên có một loại ảo giác, như thể trong tay tôi lúc này không phải là một bức tranh của Từ Vị mà là một pho tượng phật vậy. Tiếng rên rỉ của nữ mị càng lúc càng thê lương, nó ở trong bức tranh lâu đến vậy, kỳ thực đơn giản chỉ là mong tác giả của bức tranh quay lại nhìn mình một lần. Đáng tiếc hoa rơi hữu ý, nước chảy vô tình. Thê thảm như nó lúc này, thật khiến người ta không nhịn được phải cảm thấy thương tâm.

Bạch Dực nhẹ nhàng nói: “Tích niên kim nhật thử môn trung, nhân diện đào hoa tương ánh hồng, nhân diện bất tri hà xứ khứ, đào hoa y cựu tiếu đông phong. Bài thơ này, Từ Vị có bao giờ ngâm qua chưa?”

Nữ mị nghe Bạch Dực hỏi thế, đột ngột ngơ ngẩn cả người quay lại nhìn bức tranh, sau đó dường như chìm sâu vào hồi ức.

Bạch Dực nhìn nó, chậm rãi tiếp tục nói: “Ngươi thực sự cho rằng vài nét bút của Từ Vị chỉ là để vẽ hoa đào thôi sao? Với tài năng của ông ấy, không có khả năng ‘lỡ tay’ tạo ra ngươi. Ông ấy vẽ bề ngoài là hoa đào, nhưng thực ra là muốn vẽ ngươi ẩn trong hoa đào đó! Sao ngươi có thể nói ông ấy không để ý tới ngươi kia chứ?!”

Nữ mị vừa nghe thấy những lời ấy, lập tức như vừa nghe sét đánh ngang tai, đã mấy trăm năm rồi, chưa từng có ai nói cho nàng biết những lời này, nàng vẫn chỉ biết oán hận với người thứ ba đang đứng ngoài thưởng thức tranh, mà thật không ngờ tài hoa của tiên sinh lại tinh diệu tới mức đó, tinh diệu tới mức khiến nàng vừa ái vừa hận suốt mấy trăm năm.

Dần dần, dung mạo của nàng bắt đầu thay đổi, một nửa mặt nham nhở dần dần khôi phục lại diện mạo ban đầu, thanh lệ như hoa xuân, nàng phiêu nhiên hạ xuống từ trần nhà, hướng về phía bức tranh. Dường như đang đáp lại tiếng gọi từ phía Từ Vị, nàng nhẹ nhàng cất tiếng hát, lần đầu tiên tôi có thể bình tĩnh nghe cho đến hết khúc, là một khúc “Xuân giang hoa nguyệt dạ”.

Nàng dần dần chìm hẳn vào bức tranh, ngay khi cơ thể nàng và bức tranh nhập vào nhau, tôi đột nhiên nhìn thấy Từ Vị đưa tay ra đỡ lấy bàn tay nữ mị. Tôi lập tức run tay, nhưng may mà vẫn còn nhờ đây là bức tranh có giá trị tới mức nào, nếu nó thực sự rớt xuống đất thì có lấy mạng ra cũng đền không nổi.

Rốt cuộc mọi thứ cũng trở về yên tĩnh, chúng tôi cùng đi vào phòng làm việc nhẹ nhàng đặt bức tranh lại trên bàn, chỉ sợ có gì sơ suất. Sau đó, tôi ngồi phịch xuống ghế, uống cạn chén trà để qua đêm lạnh ngắt, quay sang Bạch Dực hỏi: “Có thật là Từ Vị đã cố tình vẽ nàng ta không?”

Bạch Dực liếc nhìn sang tôi lạnh lùng đáp: “Cậu nghĩ tôi là Từ Vị chắc? Sao tôi biết được, nhưng mà lời nói dối thiện ý đó đã cứu mạng hai chúng ta đấy. Bằng không cứ để cô ta lang thang bên ngoài thêm ít lâu nữa, hấp thu thêm một ít tinh khí là có thể hoàn toàn thoát khỏi bức tranh hóa thành tinh rồi!”

Tôi nhất thời tự nhiên cảm thấy thương cảm cho nữ mị kia, chỉ vì một bài thơ cổ cùng với mấy lời giải thích lừa tình của Bạch Dực mà lại quay trở về với bức tranh nơi đã giam giữ mình suốt mấy trăm năm nay. Nhưng nghĩ kỹ lại thì cuối cùng rõ ràng Từ Vị đã đưa tay ra với nàng, cho nên có lẽ giả thiết trên cũng thực sự có lý.

Mà dù sao đi nữa thì nhân diện hay đào hoa cũng chỉ chờ đợi những tài tử tài hoa lại hữu tình như Từ Vị mà thôi, những kẻ phàm phu tục tử như chúng tôi làm sao mà hiểu được. Nghĩ tới đây, lại đột nhiên cảm thấy bài thơ Đường kia như có thêm một tầng nghĩa nữa, nhân diện đúng là không biết đã đi đâu mất, nhưng chẳng phải hoa đào năm ấy vẫn tiếp tục nở rộ chờ đợi Thôi Hộ trở lại hay sao? Mà biết đâu, giữa tán hoa đào cười trước gió xuân đó lại chẳng có một yêu mị cũng si tình biết mấy?

Sáng sớm ngày hôm sau, Lục Tử đến rất sớm, lúc vào nhà còn lấm la lấm lét như sợ cả hai chúng tôi đều bị quỷ vật chết rồi vậy. Vừa thấy hai chúng tôi còn sống, hắn lập tức thở phào nhẹ nhõm. Nhưng khi vừa vào phòng ngủ, sắc mặt hắn lại lập tức hóa thành xấu hổ, sau đó quay lại quan sát chúng tôi một cách quái dị một lúc, trầm mặc cả nửa ngày mới bật ra một câu: “Tiểu An, sao giường ngủ đầy chất dịch gì đó màu trắng như thế…?”

Chúng tôi cả đêm không bật đèn, hơn nữa cái giường vốn đã bị nữ mị rảy mực ướt hết, cũng không còn chỗ ngủ, cho nên cả đêm đều ngồi trong phòng làm việc, cho tới khi Lục Tử tới. Vì thế khi nhìn đám mực đen đêm qua tự nhiên biến thành màu trắng thì cũng cực kỳ ngạc nhiên. Ánh mắt Lục Tử chợt chuyển sang hộp bao cao su bị bóp nát vứt trong góc nhà, đột nhiên kinh hoàng quay phắt lại nhìn chúng tôi, chằm chằm nhìn một cách đánh giá, như thể mới vừa quen tôi ngày đầu vậy.

Tôi bị hắn nhìn tới mức nổi da gà, liền hỏi: “Lục Tử, xảy ra chuyện gì? Có vấn đề gì sao?”

Dường như đột nhiên ý thức được cái gì, hắn lập tức giật nảy người phản ứng lại: “Không có gì, không có gì. Ha ha, cùng lắm thì để tớ thay bộ drap mới là xong ấy mà, hèn chi cậu hỏi kỹ là chăn nệm có sạch sẽ hay không kỹ như vậy, ai mà biết… Tiểu An cứ yên tâm, tớ không có kỳ thị gì đâu, thời này chuyện đó cũng phổ biến lắm mà…”

Tôi nghe hắn nói mà cứ như lạc trong sương mù, nghĩ thầm, tên khùng này đang lảm nhảm gì vậy? Bèn quay lại Bạch Dực, chỉ thấy trong mắt anh ta cũng đột nhiên toát ra một thứ cảm xúc gì đó rất quái dị, tôi hỏi thành tiếng: “Anh có biết tên khùng này đang nói cái gì không?”

Bạch Dực nhẹ nhàng vỗ vỗ vai tôi: “Không có gì, được rồi, người cậu còn… đau không?”

Nghe anh ta hỏi mới nhớ ra, đánh nhau với nữ mị lâu như vậy, trên người toàn là vết thâm tím, tôi liền gật gật đầu: “Đau chứ, đêm qua kịch liệt như vậy, cả người tôi lúc này toàn là vết bầm không!”

Lục Tử lập tức lắp bắp hỏi: “Tiểu… Tiểu An, hóa ra, hóa ra cậu là cái người, người, người ở dưới… sao?”

Tôi liếc nhìn hắn, đang định mở miệng hỏi mới sáng sớm ra đã nói nhảm cái gì vậy, nhưng Bạch Dực đã nhanh miệng xen vào trước: “Ừ, đêm qua không đơn giản, kịch liệt cực kỳ. Cậu cũng đừng hỏi nữa, có nói cậu cũng không hiểu đâu, chỉ có hai chúng tôi hiểu rõ mà thôi. Còn bức tranh, tôi đảm bảo từ nay không còn vấn đề gì nữa, cậu cứ yên tâm mà phục chế.”

Tôi cũng gật đầu: “Ừ, Lục Tử cậu cứ yên tâm đi, nhưng mà chuyện tối qua…”

Lục Tử lập tức gật đầu lia lịa: “Yên tâm yên tâm, chuyện của hai người tớ sẽ không hé răng với ai đâu, tớ vẫn còn biết điều lắm mà! Chỉ là thật không ngờ…”

Lục Tử quả nhiên là người thông minh lại hiểu chuyện, loại chuyện này có nói ra cũng không có ai tin, ai lại nghĩ rằng mực trong tranh có thể hóa thành mị kia chứ? Dù sao thì chuyện cũng đã kết thúc rồi còn gì, coi như giúp được ông bạn cũ một ơn huệ to. Trong lòng thoải mái, tôi cũng toét miệng cười: “Vậy là tốt rồi, vậy tụi này không làm phiền nữa, nói thật, cả đêm tớ không được ngủ…”

Lục Tử tự nhiên nhìn tôi một cách thật thương cảm: “Cậu thật không dễ dàng nhỉ…”

Bạch Dực vỗ vỗ lưng tôi, ý bảo đã đến lúc về, không nên quấy rầy công việc của Lục Tử nữa, dù sao hắn cũng đã rất trễ so với kế hoạch rồi, chỉ có nước làm ngày làm đêm mới mong hoàn thành bức vẽ đúng hạn mà thôi.

Bạch Dực cũng dùng uy tín của mình mà cam đoan nữ mị sẽ không quay trở lại nữa. Thấy Lục Tử gần như rạp sát đất cảm ơn rối rít, anh ta cũng không hề khách khí mà nhân dịp nã của hắn mấy cuốn sách cổ có giá trị. Lục Tử tiếc nuối đưa sách cho chúng tôi, mặt nửa cười nửa mếu mà rằng: “Sách này cũng là đồ cổ đó, bản này lại là bản duy nhất, anh phải giữ gìn cẩn thận đó nha, một đống tiền của người ta đó…”

Bạch Dực nhanh chóng nhận sách, gật đầu rồi kéo tay tôi ra cửa, tại cửa, Lục Tử tiễn chúng tôi bằng cặp mắt lo lắng, còn nói riêng với tôi: “Tiểu An, nếu thực sự đau quá thì nhớ bôi thuốc mỡ, đừng có cố chịu…”

Tôi vỗ vỗ vai hắn: “Tớ đâu có yếu ớt tới vậy đâu, nói cho cậu biết, chuyện này tớ quen rồi, chẳng sợ nữa đâu. Không có việc gì hết, gặp lại sau.”

Bạch Dực nghe đoạn đối thoại của chúng tôi, chẳng biết vì sao mà đột nhiên phì cười, anh ta cố nhịn mà nói: “Vậy, ha ha, chúng tôi cáo từ. Mong cậu sớm thành công với bức tranh.”

Lục Tử ngơ ngác đứng ở cửa, máy móc vẫy vẫy tay, nét mặt chỉ có một từ: kinh hoàng.

Mọi chuyện như thế là kết thúc. Lục Tử phục chế bức tranh rất thành công, ông chú nhà hắn bán bức tranh cho một thương nhân Hoa kiều, mức giá cao tới nỗi nghe nói ông chú hắn cười tươi tới mức trẻ ra thêm mấy tuổi.

Nhưng thương nhân kia cũng là một người có lòng, mua được tranh rồi lập tức tặng cho viện bảo tàng, nói là muốn cống hiến cho nền văn hóa cổ, coi như tấm lòng của một đứa con Hoa Hạ. Trên TV quảng cáo về bức tranh này suốt một thời gian dài, nào là tác phẩm thất truyền của Từ Vị, nào là bố cục tinh tế, phóng túng vượt xa tư tưởng hiện đại. Bởi vì là người phục chế nên cũng có một thời gian Lục Tử rất nổi tiếng trên truyền hình.

Nhìn hắn cười toe toét tự hào như thế xem ra nữ mị cũng khôn còn quay lại tìm hắn nữa. Tôi và Bạch Dực vẫn sống một cuộc sống bình lặng như cũ, ngoại trừ việc nhờ tôi thuyết phục mà anh ta bắt đầu chính thức giữ chân nấu ăn trong nhà thì không còn thay đổi nào nữa. Bất quá bữa ăn dạo này ngon hơn rất nhiều.

Có một ngày tôi nhận được điện thoại của Lục Tử, mời chúng tôi tới tham quan bức tranh, nói để đánh giá xem hắn phục chế tranh thế nào, đồng thời cũng muốn nói lời cảm ơn. Tôi quay lại hỏi Bạch Dực, anh ta cũng gật đầu: Ừ thì đi.

Thế là chúng tôi hai người đến viện bảo tàng, ông bảo vệ vẫn còn nhận ra chúng tôi, chính là người chứng kiến chúng tôi suýt đánh nhau lần trước. Chúng tôi nhìn một vòng, sau đó chuyên chú đi tìm Lục Tử.

Lục Tử mặc một thân áo tàu, trông như Thành Long vậy, thấy chúng tôi, hắn vội vàng xun xoe chạy tới đón, mang chúng tôi tới khu triển lãm tranh, vừa đi vừa tự hào khoe khoang, nào là bức tranh được hắn phục chế sinh động rực rỡ ra sao, nào là ngay cả các lão chuyên gia cũng phải gật gù khen ngợi thế nào… còn khen là tay nghề có thể sánh ngang cùng Từ Vị vân vân.

Tôi âm thầm khinh bỉ hắn nói quá lời, nhưng lúc đi tới trước bức tranh, mới nhận ra tên khốn này quả thực có cơ sở để mà tự mãn. Nếu không được nhìn thấy nguyên bản bức tranh trước kia có thể không biết, nhưng sau khi đã cầm trong tay tờ giấy rách nát kia rồi bây giờ nhìn lại bức tranh hoàn chỉnh trước mặt, mới thấy nó quả thực rực rỡ, phần được sửa chữa vẽ lại hoàn toàn hòa thành một thể với phần nguyên bản. Có thể thấy tay nghề của Lục Tử quả thực rất cao.

Người tham quan rất nhiều, Lục Tử nhanh chóng bị giới truyền thông kéo sang một bên, bỏ lại tôi và Bạch Dực vừa ngắm tranh vừa tấm tắc khen ngợi. Đột nhiên bên cạnh chúng tôi có một cậu bé đứng nhìn tranh, sau đó chỉ vào giữa tán hoa đào: “Ba, ba coi kìa, có phải ở đây có một tiên nữ rất xinh đẹp không!”

Cậu bé có lẽ được cha mẹ mang đi xem triển lãm tranh để tài bồi tâm hồn nghệ thuật, cậu hồn nhiên nhìn bức tranh, trong tranh, giữa rừng hoa đào um tùm nở rực, có vài nét bút phác họa thành dung mạo một thiếu nữ mỹ lệ nhu hòa, hoa đào lộng lẫy xung quanh tựa như trang sức trên tóc nàng. Từ Vị đang ôn nhu mời thiếu nữ uống rượu, hai người nhìn nhau, nhân diện hoa đào, như từ muôn năm trước, vẫn hoàn động nhân mỹ lệ.

Tiệc vườn đào dưới trăng – Hoàn

[1] Một truyện ngắn kinh dị của Stephen King, kể về một căn phòng bị ma ám trong khách sạn, được Mikael Håfström chuyển thể thành phim điện ảnh năm 1997, được biết đến ở Việt Nam dưới cái tên “Căn phòng bí ẩn”

[2] Anh hùng dùng thân mình lấp lô cốt của Trung Quốc =.= Ý bạn An là bạn Bạch thiệt là cảm tử quân ~

Chương 25: Thủ hồ (Nhất)

Trò chơi là một thứ không cần phải dốc nhiều tâm huyết cho lắm, có thể đắm mình trong một thế giới tưởng tượng mà cảm nghiệm một chút hưng phấn của cuộc sống tiếu ngạo giang hồ. Mặc dù trong trò chơi chúng tôi có thể là một nhóm anh hùng hào kiệt võ công cao cường ngày đêm rong ruồi sa trường hành hiệp trượng nghĩa, nhưng ngoài đời bất quá cũng chỉ là một đám nghiện game đến mắt mũi lờ đờ ở trong phó bản mà đánh trang bị cùng kinh nghiệm mà thôi.

Tôi có tổ chức một nhóm nhỏ chuyên đánh phó bản, là đoàn ong thợ chuyên gom trang bị cho cả công hội, suốt ngày vì công hội – cũng tức là ong chúa – mà liều mạng lăn qua lăn lại các phó bản. Mà Lục Tử dạo này tự nhiên thân thiết hơn với chúng tôi, cũng bắt đầu tham gia vào công hội. Hơn nữa, khác với tầng lớp cùng đinh chúng tôi toàn là phải vất vả luyện account từ đầu, hắn rất thoải mái bỏ tiền ra mua một account trên mạng, thậm chí không hề biết một khái niệm nào để chơi game mà đã hùng hổ đi kiếm những người có đẳng cấp cao để gây sự lên mặt anh hùng, làm hại tôi lúc nào cũng phải ra mặt xin lỗi giùm, xấu hổ không biết để đâu cho hết. Thực sự tôi không có khả năng suốt ngày đi theo kèm hắn, cho nên nhân lúc đoàn ong thợ thiếu một chân, tôi bèn lôi ngay hắn vào trám chỗ trống.

Nhưng đó có thể coi là sai lầm lớn nhất của tôi cũng không chừng, khiến một bữa nọ tôi phát điên tới mức suýt chút nữa là giang tay đập nát cái máy vi tính của Bạch Dực. Tên Lục Tử khốn kiếp này đã đần tới một cảnh giới mà tôi không sao hiểu nổi, tên khùng đó, ai đời vất vả lắm mới đánh xong một con boss cỡ bự mà cứ đứng trơ ra đó nhìn, để một thanh bảo kiếm cấp anh hùng cứ thế biến mất trước mắt mọi người. Mặc kệ chúng tôi hò la gào thét thúc giục, hắn vẫn cứ giữ nguyên tư thế đánh boss mà không chịu nhặt đồ. Tôi bất lực hét to một tiếng trước cái máy vi tính, làm Bạch Dực giật nảy người phải chạy tới hỏi tôi có làm sao không.

Tôi ôm đầu, nhìn trừng trừng vũ khí cực phẩm kia vẫn ở lại phó bản, còn cả đội đều bị tống ra ngoài, sau đó không chờ nói chuyện với Lục Tử qua cửa sổ chat nữa mà trực tiếp lao tới điện thoại, điên cuồng bấm số, rồi điên cuồng gào thét: “Mẹ kiếp! Tên khốn nhà ngươi muốn đùa với bọn ông chắc?! Vũ khí cực phẩm tới mức đó có khi mấy tháng nữa cũng đừng hòng mà đào ra được… Sau này đừng hòng ông đây cho ngươi đi phó bản chung nữa!!!”

Lục Tử im thin thít bên kia đầu dây điện thoại hồi lâu, cuối cùng phun một câu: “Thì ai biết đâu, cứ tưởng đánh boss xong là xong luôn chứ, có ai bảo tớ đánh xong phải chờ lượm đồ đâu. Tại lúc đó tớ mắc quá, phải chạy vào toa lét gấp…”

Mắt tôi trợn to tới mức muốn lồi hẳn ra ngoài, một vũ khí cấp anh hùng đó nha, đó là thứ mà bao nhiêu người chơi đều mơ mà không có được đó nha…! Lúc này tự nhiên tôi cảm thấy cảm thông sâu sắc cho những người trong hiện thực vì một món vũ khí bí mật nào đó mà đánh nhau loạn xà ngầu. Vì lúc này tôi cũng đang điên tiết lên đây, chỉ còn thiếu điều thổ huyết nữa mà thôi.

Bạch Dực lắc đầu nhìn tôi, lạnh lùng nói: “Cấm thổ huyết ra tường, bằng không tự mà đi quét sơn lại!”

Tôi quay lại trừng mắt với anh ta, bên kia điện thoại Lục Tử líu ríu nói: “Ôi dà, cần gì phải điên lên như thế, chỉ là mấy thứ không có thật thôi chứ gì! Ở đâu có bán, tớ mua trả lại là xong, ha!”

Tôi cắn răng rít vào điện thoại: “Mua! Làm quái gì có chỗ nào bán mà mua, hả!”

Bên kia đầu dây im lặng một chốc, cuối cùng nói tiếp như chột dạ: “Hay vầy đi, tớ có hai phiếu nghỉ dưỡng ở khu du lịch hồ Thủ Nguyệt, bao ăn bao ở, còn câu cá miễn phí, ăn hải sản miễn phí, hơn nữa xung quanh hồ còn rất nhiều di tích lịch sử đặc sắc, nghe nói vẫn còn con hào bảo vệ thành từ thời Xuân Thu Chiến Quốc cơ đấy. Tớ tặng cho cậu với anh Bạch Dực, coi như xin lỗi vụ này, OK?”

Tôi lúc này đang bốc hỏa, đâu có nghe vào chữ nào, thầm nghĩ chỉ bằng hai cái vé mà đòi bỏ qua? Cho nên quát vào điện thoại: “Tên khốn kia, ngươi cho là đây là chuyện cá nhân chắc? Có biết làm việc tập thể là cái gì không? Có biết vì thanh kiếm này mà bao nhiêu người chết trong phó bản, chỉ mỏi mắt trông chờ chúng ta đoạt được nó hay không?! Chỉ bằng hai cái vé đi hồ Thủ Nguyệt mà coi như là xong sao hả?!”

Nhưng khi tôi chuẩn bị ngắt điện thoại thì Bạch Dực đã nhẹ nhàng tiếp lấy ống nghe, nói nhỏ với Lục Tử cái gì đó. Tôi bực tức ngồi phịch xuống ghế, vừa nhìn thấy tin là công hội khác đã đoạt được thanh kiếm kia thì lập tức tắt màn hình.

Sau đó quay lại hỏi Bạch Dực: “Tên ngốc kia nói gì với anh đó?”

Bạch Dực bình thản đáp: “Tôi nói với hắn là hai cái vé chúng ta nhận, hai ngày cuối tuần sẽ đến đó chơi.”

Vừa nghe thế, tôi đã nổi trận lôi đình với Bạch Dực: “Ai cho anh nhận! Anh đi thì đi, tôi thèm vào! Chỉ cần nhìn thấy thằng ngốc đó là lại cảm thấy tức cho thanh kiếm rồi…”

Bạch Dực mặc kệ tôi tự khóc tự rống một hồi, cuối cùng mới nhàn nhạt cắt ngang chỉ bằng một câu: “Chỉ vì một thanh kiếm giả mà khóc lóc lăn lộn, có điên không? Chẳng thà tới chỗ đó câu cá, tuần sau có cá ăn dần còn thực tế hơn!”

Tôi day day trán, nghe tới đồ ăn thì cơn tức cũng xẹp đi quá nửa, liền hỏi anh ta: “Vậy anh biết câu cá không?”

Anh ta khẽ nhếch miệng cười: “Chút chút.”

Ha, chỉ mới xem phim thôi chứ gì, vậy mà đã khoe khoang với tôi rồi, để tôi chống mắt lên xem “chút chút” của anh là thế nào!

Thứ bảy hôm ấy, khí trời tươi tắn khác thường, bầu trời trong xanh cao vời vợi chỉ gợn vài đám mây nhỏ. Hồ Thủ Nguyệt rất lớn, mặt nước trong suốt, nhìn ra xa có thể trông thấy từng cánh chim chao nhanh trên mặt nước bắt cá. Đây là một hồ nước ngọt, cho nên cá tôm rất dồi dào lại to ngon, có thể coi là một chốn đất lành “hồ rộng tám trăm dặm, tôm cá bắt không hết”.

Ở đây đời đời đều sống dựa vào hồ, nuôi cá nuôi tôm vẫn là nghề chính của cư dân nơi đây, làm du lịch chỉ là một ngành phụ mà thôi. Tôi không biết hóa ra Bạch Dực lại thích câu cá như vậy, hay nói đúng hơn, hình như mọi sở thích của anh ta đều có hơi bất thường. Bất quá nếu anh ta cam đoan có thể câu đủ cá ăn cho cả tuần sau thì tôi cũng mở to mắt mà trông chờ, nếu không được thì càng có cơ hội chọc anh ta một phen chứ gì!

Thật không ngờ tên khốn Lục Tử cũng dám vác mặt tới, vừa nhìn thấy hắn thì mắt tôi đã trợn lên tức giận, đối với tôi, hắn coi như đã trở thành tội nhân thiên cổ từ lâu, thấy hắn cười cầu tài chạy tới, tôi chỉ hận không thể lấy cần câu đâm cho hắn mấy nhát. Nhưng mà vé là vé của hắn, tiền là hắn bỏ ra, tôi cũng chỉ có thể nhịn. Vì thế đành xách cần câu quảy giỏ theo sau Bạch Dực, không thèm nhìn tới hắn nữa, dù sao thì bữa trưa nay cũng là hắn mời.

Thật ra câu cá là một loại hình giải trí rất thích hợp để rèn luyện tính kiên nhẫn, cực kỳ phù hợp cho những người cả ngày chỉ thích ngồi một chỗ trầm tư không cần nhúc nhích. Truyền thuyết kể rằng Ngũ Tử Tư đời Xuân Thu đặc biệt thích câu cá, từ câu cá mà lĩnh ngộ ra không ít mưu lược binh pháp. Nhưng ngoài ra thì ngày xưa, câu cá vẫn chỉ được coi như là một nghề như bao nghề khác, trông chờ vào sự độ lượng của ông trời để kiếm tiền độ nhật.

Đó chính là những suy nghĩ của tôi khi mặt trời dần dần đứng bóng, tôi buồn chán ngồi nhấp nhổm trên cái ghế tựa nông choẹt chỉ ngồi được nửa cái mông, nhấp nhấp cần câu, ánh mắt dần đờ đẫn cả ra. Về sau thì cả cái cần câu cũng lặng đi không nhúc nhích được nữa. Ngồi đồng suốt cả một buổi sáng mà tôi chỉ câu được vài con cá nhép đáng nhét kẽ răng cho mèo, không có lấy một con nào xứng đáng được coi là “có thu hoạch”.

Tôi chống cằm, khẽ lắc lắc cái cổ mỏi nhừ, vô tình liếc sang xô đựng cá của Bạch Dực ngồi cạnh bên, lập tức hiểu ngay tại sao trong xô của mình chỉ có mấy con cá mini như vậy, là vì bao nhiêu cá to đều chui hết vào xô của anh ta rồi, trời ạ! Tôi hừ một tiếng đảo mắt nhìn anh ta một cái, anh ta liếc sang cái xô của tôi, khóe miệng nhếch lên một chút, không nhầm vào đâu được, là một nụ cười khẩy tự kiêu tự đại.

Tôi nhất thời mất hoàn toàn hứng thú ngồi câu cá, vì cho dù có ngồi thêm nửa ngày nữa chắc cũng chỉ được mấy con cá cho mèo ăn là cùng, chẳng lẽ phải làm giống như tên ngốc giàu có Lục Tử, ra chợ mua vài con cá thật to về nhét vào xô để cứu vớt thể diện?

Mà nhắc tới Lục Tử mới nói, tên khốn này căn bản không tới đây để câu cá mà là để câu gái! Chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ ngắn ngủi mà đã làm quen ngay được với một cô em bốc lửa ngồi bên bờ sông trò chuyện, cần câu gác thẳng lên ghế, trong xô nước trong leo lẻo, cả một con cá con cho mèo ăn như tôi cũng không có. Dù sao vé câu cá lần này là hắn mua, tôi cũng không cần tiếc tiền, không muốn câu cá thì thôi, đi dạo quanh hồ một chút. Lúc này đang là tiết Vũ Thủy, tuy cây cối vẫn còn chưa nảy mầm hết, nhưng một số loại cây cũng đã bắt đầu đâm những chồi non mịn màng đầu tiên, trong không khí tản mát một mùi hương tươi mát của buổi đầu xuân. Lạnh thì vẫn còn lạnh, nhưng lại khiến người ta cảm thấy nhẹ nhàng khoan khoái, như vừa hít đầy buồng phổi hương bạc hà mát lạnh vậy.

Bạch Dực thấy tôi đứng lên, liền cười hỏi: “Không câu nữa à?”

Tôi lắc lắc hai chân tê cứng, xua xua tay với anh ta: “Cá to cá nhỏ đã chui hết vào xô của anh rồi, tôi còn câu cái gì? Anh cứ tiếp tục câu, tôi đi dạo một lúc.”

Bạch Dực gật đầu, lại chuyên chú ôm cần câu, vừa lúc tôi nói dứt lời thì anh ta lại giật lên một con cá bông lau to nữa. Nhìn thấy thế, những tay câu cá lão luyện ngồi bên cạnh cũng giật mình, đứng bật dậy bưng xô của mình đi chỗ khác. Tôi âm u nhìn anh ta, lòng thầm nghĩ: lẽ nào là thần câu cá tái thế?

Khi tôi lấy lại tinh thần chuẩn bị đi, Bạch Dực chợt lên tiếng: “Lúc đi dạo nhớ đừng tới quá gần hồ. Ở đây… hình như không sạch sẽ lắm.”

Tôi quay lại ngờ vực nhìn anh ta, rồi lại nhìn ra mặt hồ phẳng lặng xa xa, hệ sinh thái ở đây rất tốt, cảnh sắc tứ bề liễu rủ hoa mọc, bốn phía là nhà cửa của nông dân, khói bếp lượn lờ, mặt nước phản chiếu ánh sáng lung linh, khoe màu xanh trong suốt. Gió nhẹ khẽ thổi, mặt nước khẽ gợn. Một quang cảnh tràn đầy tình thơ ý họa như vậy mà anh ta bảo là không sạch sẽ?

Thế nhưng ở chung với nhau bao nhiêu lâu như vậy, tôi bắt đầu biết chú ý tới những điều Bạch Dực căn dặn, vì tuy những gì anh ta nói không bao giờ mang bằng chứng khoa học mà toàn là những chuyện quái dị ma quỷ không, nhưng những loại chuyện này xuất hiện ở chỗ chúng tôi cũng chẳng phải mới ngày một ngày hai. Vì thế tôi cũng bất giác mà lâm vào suy tư, tâm cũng trầm xuống lo lắng.

Bước trở về bên cạnh anh ta, tôi ngồi xuống hỏi: “Lão Bạch, anh nghĩ chỗ này có thứ gì đó… không bình thường sao?”

Cơ thể anh ta vẫn duy trì một tư thế câu rất thả lỏng, đôi mắt chăm chú quan sát cần câu, chỉ có cái miệng khẽ động: “Đúng vậy, nhưng chỉ cảm thấy một loại oán khí u uất không thể giải thích thôi. Tuy nó rất nhạt, nhưng mà… tôi cũng không biết nữa…”

Tôi lắc đầu đứng dậy, nếu Bạch Dực không cảm thấy rõ ràng, thì có lẽ lần này là thần hồn nát thần tính rồi. Phỏng chừng là do lão Phan hói dạo này bắt anh ta phải chủ nhiệm một lớp, cho nên làm anh ta phiền muộn một thời gian dài, tâm tình cũng không được tốt lắm, nhìn cái gì cũng thấy oán khí…

Anh ta quay lại nhìn vẻ mặt nghi ngờ của tôi, cười cười: “Cứ đi dạo đi, lúc này là ban ngày chắc cũng không có gì lạ lùng đâu. Tôi câu thêm một lát, tuần sau có thêm đồ ăn.”

Nghe anh ta nói thế, tôi cũng cảm thấy nhẹ nhõm hơn, vẫy vẫy tay tiến về phía bờ hồ phía tây.

Hai tay đút túi áo, tôi đi dạo lăng quăng dọc theo bờ hồ thoai thoải, chợt nhận ra từ lúc vào đại học dường như chưa hề có thời gian dạo mát thư thái thế này. Ban đầu tôi còn tưởng khu này giống như những khu du lịch sinh thái khác, nhưng tới rồi mới biết, làng này vẫn là một làng làm nông chính hiệu. Nghề chính của dân trong làng vẫn là đánh cá nuôi tôm. Nhưng chỉ vì dạo này mô hình “làng du lịch” đang thịnh vượng, nên cán bộ trong thôn cũng hô hào vận động mọi người biến làng thành khu du lịch, chứ thực ra, gần như toàn bộ làng vẫn giữ nguyên những nét vốn có của nó, thậm chí còn có nhà cuốc vài khoảnh ruộng nhỏ, trồng rau củ quả nữa. Có thể nói, ngoại trừ dịch vụ cho câu cá và ít nhà trọ quán ăn ra thì còn lại đều không có gì thay đổi. Đương nhiên, loại khu du lịch nguyên sơ này giá tiền cũng dễ chịu hơn rất nhiều so với những khu du lịch chuyên nghiệp khác.

Tuy nói là nói vậy, nhưng đi bộ giữa một vùng không gian quê kiểng thân thuộc, cộng với tiết trời mát mẻ thanh tân buổi đầu xuân, cho nên ngược lại khiến người ta cảm nhận được cảm giác vui vẻ nhẹ nhàng của cái thuở “tháng hai nước hồ xanh, mọi nhà chim xuân hót” xa xưa. Tôi hít sâu đầy lồng ngực, ngẩng đầu nhìn những cành liễu xanh rủ xuống sát mặt nước hồ, chim én có lẽ cũng sắp về, nhắc đến chim én, lại nhớ tới bác Tôn trong căn biệt thự cổ kia, không biết mùa xuân năm nay, hương hồn của ông ấy và tiểu thiếu gia nhà ông ấy có thể nhìn thấy chim én hay không?

Tôi chậm rãi đi hết con đường ngoạn cảnh, thấy phía trước còn một con đường trải dài típ tắp hướng vào rừng, nhưng lại bị mấy bức tường bằng nhựa ngăn lại. Tôi nheo mắt nhìn sang, xuyên qua tầng tầng cây rợp bóng phía trước dường như nhìn thấy một loại bia đá nào đó, màu đá xám trắng loang lổ ẩn dưới tàng cây xanh mướt trông có vẻ cực kỳ huyền bí, nếu không phải thị lực tôi vốn hơn người thì đã không trông thấy rồi. Đột nhiên nhớ tới lời Lục Tử nói ở làng này có nhiều di tích lịch sử lâu đời, vì thế tôi bèn ôm lòng hiếu kỳ, quyết định phá rào, vượt qua bức tường chắn mà bước sâu vào trong rừng.

Tôi cúi lom khom người cố vượt qua những bụi cây um tùm dày đặc để tiến đến bên cạnh tấm bia, phát hiện nó đã sứt mẻ gần hết, trên mặt bia có thể thấy mơ hồ vết khắc, còn lại đều mờ mịt, kể cả con thần thú khắc trên đỉnh bia cũng trông không ra là con gì. Tôi dùng tay xoa xoa mặt bia, một vài hàng chữ khắc hằn vào đá hiện ra, nhưng hình như là văn tự cổ, tôi nhìn không hiểu, hơn nữa chỉ có vài hàng ngắn ngủi, xem chừng cũng không phải là người nào quan trọng. Trải qua bao nhiêu năm tháng như vậy, có lẽ cả dòng họ của người này cũng đã quên mất sự tồn tại của tấm bia rồi. Cũng cảm thấy có chút bi thương, nhưng quả thực, không phải mộ của hào kiệt anh hùng, thì không hoa dâng cũng chẳng rượu cúng. Tôi dạo qua phía sau tấm bia, bất chợt phát hiện trên mặt bia có rất nhiều vết cào của dã thú, dường như là động vật linh trưởng, vết tích rất sâu, giống như có rất nhiều loài thú hoang cùng tới đây cào móng vậy. Trừng trừng nhìn những vết cào hồi lâu, tôi bắt đầu cảm thấy lo lắng: chẳng lẽ ở đây có dã thú thường lui tới? Vậy mà còn dám hình thành khu du lịch? Không sợ khách du lịch gặp tai nạn chết người sao?

Ngay khi tôi đang cảm thấy lo lắng cho vấn đề an toàn ở khu du lịch này, đột nhiên từ phía sau lưng truyền tới những tiếng khóc than đau khổ bi ai, dường như là từ bờ sông cách đó không xa. Tôi cau mày, thầm nghĩ chẳng lẽ vừa nhắc Tào Tháo Tào Tháo tới liền sao, thực sự có người rơi xuống sông?! Vì vậy cũng nhanh chân bước vội ra phía bờ sông đàng trước xem thử. Tôi đưa tay gạt cành cây chắn lối, bước tới một chỗ bờ nước cạn, nhìn thấy rất nhiều dân làng đang vây thành một vòng tròn chật cứng, có vài người đang đỡ một thiếu phụ trung niện đang khóc lóc kêu gào tới mức muốn lả đi, tiếng khóc la rợn người lúc nãy là từ bà ta. Tôi hiếu kỳ xen vào đoàn người, dường như bọn họ đang cực kỳ hoảng loạn nên thậm chí không hề nhận ra là tôi là người lạ, không có ai tới ngăn cản tôi cả.

Tôi cúi xuống thoáng nhìn, sau đó lập tức giật nảy người kinh hoàng, hóa ra là một xác người chết đuối, mà không ngờ chỉ là một đứa bé con. Không biết lúc còn sống đứa bé này trông thế nào, nhưng lúc này cái đầu của nó đã trương phồng lên bằng hai đầu người bình thường, da đã chuyển thành màu tím đen, mắt mũi đều biến dạng không còn trông ra hình người nữa, dường như khi chết nó rất sợ hãi hay rất kinh hoàng về cái gì đó; vẻ mặt của nó cực kỳ dữ tợn, giống như đang cố hết sức mà hít lấy không khí. Hai bàn tay nắm chặt như thể đang muốn giữ lấy vật gì đó, tay chân đều cong lại cứng ngắc. Thân thể của nó cũng phồng to ra, y phục tả tơi lại gần như bị thân thể trướng lên xé rách hết. Có lẽ đã chết được một thời gian khá lâu rồi, toàn bộ thi thể như một miếng bọt biển hút nước căng phồng, tỏa ra một mùi tanh lờm lợm.

Dù sao tôi cũng không phải pháp y, đang đi dạo lại tự nhiên gặp phải một thi thể đáng sợ như vậy, đương nhiên không kịp chuẩn bị tâm lý, dạ dày lập tức cuộn lên, tôi hấp tấp bịt chặt miệng, luống cuống lui lại phía sau vài bước, trong lòng tuy không phải không cảm thấy thương tiếc cho đứa bé bị tai nạn, nhưng cũng không khỏi cảm thấy có hơi… xui xẻo, vì sao lại gặp phải loại chuyện này vào cuối tuần. Khi tôi đang gấp gáp lui bước, chân chợt đạp lên một cái gì đó cồm cộm khiến cả người thoáng chốc lảo đảo. Tôi vội vàng bám lấy cây cối xung quanh, cúi đầu nhặt một thứ từ dưới đất lên, nó là một thứ trông có vẻ rất cổ quái, dường như là một thứ đồ bằng đá có hình chữ nhật hơi cong lên quanh mép, trông có vẻ xưa cũ lắm rồi, bên trên nhìn kỹ còn có một ít hoa văn hình mây cuộn, có vẻ là một loại đồ cổ nào đó. Nhưng một thứ thế này vì sao lại rơi bên hồ? Có quan hệ gì với đứa bé đã chết hay không? Tôi lật qua lật lại nó trên tay, dùng ngón chà chà mặt trên, có thể trông thấy trên mặt khối chữ nhật có hai chữ triện nho nhỏ. Tôi không phải chuyên gia về lãnh vực này, nên quyết định mang về cho Bạch Dực và Lục Tử xem thử. Một người là giáo viên lịch sử, một người là dân buôn bán cổ vật chuyên nghiệp, chắc chắn sẽ biết đây là thứ gì.

Ngay lúc tôi chuẩn bị đi, chợt vô tình liếc nhìn qua bờ hồ, bất thần phát hiện trong bụi cỏ lau dày bên hồ có một thứ gì đó đang động đậy, bởi vì vừa bị dọa cho sợ phát khiếp nên tôi cũng không chắc có phải mình hoa mắt hay không, bèn dụi dụi mắt nhìn kỹ lại, quả thực giữa đám cỏ lau có một đôi mắt hung ác đang trừng trừng nhìn sang, một thứ gì đó có gương mặt đầy lông đen thui đang lạnh lùng nhìn tôi chằm chằm, nó khẽ lay động theo dòng nước, cứ như đang nổi lềnh bềnh trên đó vậy. Thoáng chốc tôi cảm thấy sợ run cả người, nhưng vẫn không dám chắc, liền kéo kéo mấy người đứng gần đó nhất mà hỏi: “Các vị nhìn coi, có phải trong đám cỏ lau có cái gì đó đang chuyển động không?”

Bọn họ ngẩng đầu nhìn về hướng tay tôi chỉ, nhưng nhìn một lúc vẫn không thấy con quái vật lúc nãy đâu, quả thực giống như tôi đã nhìn thấy ảo giác vậy. Vì thế mọi người đồng loạt quay lại nhìn tôi, ánh mắt căm tức như thể vừa bị trêu chọc, dường như đứa bé đã chết là thân thích của bọn họ, bọn họ đang thương xót lại đột nhiên bị một người xa lạ như tôi chen vào chọc tức, vì thế bao nhiêu tức giận đau thương đều chuyển hết lên người tôi, có vài người đã bắt đầu hầm hè xông tới, tôi sợ hãi lùi lại, thật sự nếu không mau chóng giải thích thì có khi đám người này sẽ xông vào đánh tôi một trận cho hả dạ mất.

Tôi vội vàng hoa chân múa tay, dùng mọi khả năng mình có để miêu tả lại thứ vừa nhìn thấy lúc nãy, vừa nghe tôi kể lại đầu đuôi, những người đó chợt thay đổi hẳn sắc mặt, ánh mắt căm tức bất chợt hóa thành một loại vừa kinh hoàng vừa lo sợ. Tôi ngơ ngác dừng tay nhìn bọn họ, lòng nghĩ sao những người này có thể thay sắc mặt còn nhanh hơn cả Jim Carrey[1] thế không biết? Vì thế có chút chột dạ mà e dè hỏi: “Tôi… tôi nói sai cái gì sao…?”

Người phụ nữ đang khóc thê thảm trên mặt đất chợt choàng dậy kéo tay tôi, kích động kêu gào: “Cậu chạy mau! Đừng tới đây nữa! Chạy đi! Nếu không cậu sẽ bị khỉ nước lôi đi bây giờ! Giống… giống như con tôi vậy… Thủ hồ gia gia ơi! Xin ngài thương xót… đừng… đừng kéo người xuống nước nữa…!” Nói xong bà lại giãy mạnh thoát khỏi tay những người dân làng đang giữ chặt mình, chỉ thẳng vào mặt bọn họ mà mắng: “Chỉ tại các người! Các người bị tiền làm mờ mắt! Thủ hồ gia gia đã không muốn cho bất kỳ ai được tới mé tây hồ, vậy mà các người còn đòi mở cái khu du lịch chó má này! Giờ thì hay rồi, Thủ hồ gia gia nổi giận rồi, sớm muộn gì ngài cũng lôi cả cái làng này xuống hồ, đi làm khỉ nước hết!!!”

Nói xong lại giậm chân khóc lóc thảm thiết, tôi vội lùi về phía sau mấy bước, ngạc nhiên nhìn bà ta, một đám người nhanh chóng kéo bà ta ra chỗ khác, lúc tôi còn nghi hoặc bất an nhìn theo thì một người đeo kính, ra vẻ là cán bộ thôn đã tiến tới vuốt mồ hôi trên trán mà nói với tôi: “Cậu đây đừng sợ, thím hai nhà họ Trương là mẹ của đứa bé vừa mới mất, cho nên tinh thần có hơi kích động chút thôi.”

Tôi ngoái nhìn người phụ nữ nọ, bà vẫn sụp người bên cạnh xác chết, cái đầu lắc qua lắc lại theo một cách thật điên cuồng, lại nhớ tới thứ quái vật nấp trong bụi lau lúc nãy, tôi chợt cảm thấy có một cảm giác thương xót kỳ lạ đối với đứa bé nằm chết ở kia: “Sao đứa bé này lại tự nhiên chết đuối được, hay là tại công tác giữ an toàn của các vị còn chỗ hở?”

Vừa nhắc tới vấn đề an toàn, ông ta lập tức trở nên khẩn trương, vội nhìn tôi mà xua xua tay: “Không có không có, làng này sống dựa vào hồ lâu nay kia mà, chỗ nào dành cho khách du lịch tham quan đều có lan can phòng hộ hết, còn chỗ này vốn chỉ là chỗ cho ngư dân neo thuyền đánh cá thôi…” Sau đó ông ta nhìn tôi chằm chằm, nghi ngại hỏi: “Mà cậu đây… hổng phải phóng viên chớ?”

Hóa ra ông cán bộ này sợ phóng viên đăng chuyện có người chết đuối ở chỗ này lên báo, nên tôi lập tức lắc đầu: “Tôi không phải phóng viên, chỉ là du khách tới đây tham quan thôi.”

Ông ta an tâm gật đầu, sau đó thở dài nói tiếp: “Mà đám trẻ con ở đây, có đứa nào không biết bơi đâu chớ, sinh ra bên hồ, lớn lên trong hồ mà. Nhất là thằng con này của thím hai nữa, bơi giỏi như cá vậy, chúng ta ai cũng gọi nó là con rái cá con[2] Tiểu Trương Thuận. Vậy mà một đêm mấy bữa trước, nó thay ba nó đi thu lưới cá, tới giờ chưa thấy về. Ai mà ngờ lại chết đuối bỏ mình chớ, mãi tới hôm nay nó nổi lên mới biết… chắc là do thủy triều đánh dạt vào đây.”

Tôi vẫn còn hơi lấn cấn về cái tên “khỉ nước” mà lúc nãy người phụ nữ kia nhắc tới, liền hỏi thăm: “Vậy hai cái tên ‘khỉ nước’ với ‘Thủ hồ gia gia’ mà thím hai họ Trương nhắc tới là cái gì vậy?”

Ông ta cười khẩy trả lời: “Ôi dào, toàn là mớ mê tín dị đoan của đám ngư dân ven hồ thôi ấy mà! Nói cái gì mà người chết đuối đều biến thành thủy quỷ, tìm cách tha người khác xuống sông chết thay để bản thân được đi đầu thai vân vân. Còn ‘Thủ hồ gia gia’ gì đó cũng chỉ là truyền miệng mà thôi, gì mà như là đại yêu quái thống lĩnh đám thủy quỷ ở trong hồ này vậy đó! Hà hà, cậu đây người thành phố, chắc cũng không tin ba cái thứ nhảm nhí này đâu hả!”

Tôi cũng cười cười gật đầu, nhưng trong lòng thì cực kỳ sợ hãi. Thực ra cái tên “khỉ nước” tôi cũng từng nghe qua, là cách gọi dân gian của thủy quỷ, hay có nơi còn gọi là móc câu nước. Người Trung Quốc không thích nhắc tới từ “quỷ”, nên dùng những cái tên giàu hình tượng khác để thay thế, ví dụ như khỉ nước, là vì bề ngoài của loại quỷ này cũng lông lá đen thùi như khỉ thật vậy, nhưng thực ra là do linh hồn những người chết đuối biến thành. Theo ghi chép trong “U minh lục”[3], thứ này thời cổ đại gọi là “thủy trùng”, có nơi gọi là “thủy tinh”. Chúng có khả năng biến hóa, có thể biến thành đủ thứ khác nhau, dụ dỗ những người không phòng bị ra sát mép nước, sau đó nắm cổ chân họ kéo thẳng xuống đáy sông hồ, mạnh không thể chống lại nổi. Chỉ cần bước lên bờ là bọn chúng lập tức hóa thành yếu ớt, còn không bằng một đứa bé. Nhưng khi ở dưới nước, thì chúng là những u hồn lệ quỷ thuộc loại kinh khủng nhất. Lúc này tôi chỉ nghĩ, đừng nói là nó đã “chấm” tôi, chọn tôi làm người chết thay đó nha…

Cán bộ thôn thấy tôi không phải phóng viên, cũng chẳng giống công an, huống chi tôi chết hay sống hoàn toàn không liên quan gì tới ông ta, mà ông ta cũng là loại người chẳng thèm tin có thần có quỷ, cho nên cũng không thèm quan tâm gì tới tôi nữa mà quay lại lo trấn an dân làng. Tôi liếc mắt nhìn thím Trương, thấy bà ta đang nhìn tôi một cách cực kỳ sợ hãi, làm như tôi sắp chết giống như con bà ta rồi vậy. Tôi bị ánh mắt đó làm cho rùng mình, xương sống lạnh cứng, liền rủa thầm một câu rồi lập tức rời khỏi bến nước, trong lòng cực kỳ hối hận vì đã đến đây.

[1] Diễn viên hài hình thể người Canada.

[2] Nguyên tác là “giống như cành cây trôi trên sóng”, ý là bơi giỏi và tự nhiên, cho nên Lục Mịnh chuyển thành thế này cho dễ hiểu.

[3] Là tập tiểu thuyết thời Nam triều Tống (420 ~ 589) kể lại những chuyện quái dị. Bao gồm 20 cuốn,  do Lưu Nghĩa Khánh (403 ~ 444) biên soạn.

___________________________________________

Đôi khi cái tính con nít của bạn An làm Lục Mịnh cũng phải ngao ngán thay cho bạn Bạch ~

Chương 26: Thủ hồ (Nhị)

Khi tôi trở lại khu câu cá, Bạch Dực đã đứng lên xếp cần câu, nhìn xô cá đầy nhóc, tâm tình tôi mới thoải mái hơn một chút, vì chí ít Bạch Dực có thể nấu mấy món rất ngon với đám cá này. Tham ăn có thể nói là tật xấu lớn nhất của tôi, chỉ cần nghĩ tới đồ ăn là không còn lo lắng như lúc nãy nữa. Anh ta vẫy vẫy tay với tôi, ý bảo tôi tới giúp, tôi liền xắn tay áo tiến tới định giúp anh ta xách xô cá, nhưng vừa tới gần thì anh ta đã bịt mũi nhíu mày nhìn tôi: “Tiểu An, đi đâu về mà cả người lại có mùi tanh tanh thế?”

Tôi kéo góc áo lên mũi ngửi ngửi, quả nhiên nghe thấy mùi đất ngai ngái, tôi ngạc nhiên suy nghĩ, rõ ràng sáng nay mới tắm, sao cơ thể lại bốc mùi… đành vùng vằng cãi lại: “Cả người anh cũng đầy mùi cá đó thôi, ai mà nhận ra anh làm nghề giáo viên nữa, chẳng thà xuống đây đổi nghề làm ngư dân cho rồi!”

Anh ta không tin, bèn dí sát mũi vào cổ tôi ngửi ngửi. Lúc này Lục Tử đang cao hứng bừng bừng trở về, nhìn thấy hai chúng tôi, tự nhiên mặt lại nghệt ra như vừa nhìn thấy phim người lớn không dành cho con nít vậy, quay đầu lập tức đi thẳng. Tôi vội vàng hét lên sau lưng hắn: “Lục Tử, chạy đi đâu đó! Quay lại mau!”

Hắn vừa nghe tôi gọi liền do dự một chốc rồi mới quay lại, lúc tới cạnh chúng tôi còn cợt nhả một câu: “Ây da, người ta sợ làm phiền hai người mà!”

Tôi càng nghĩ càng cảm thấy tên ngốc này dường như đã hiểu nhầm cái gì đó, liền liếc hắn nói: “Quấy rối cái gì, tôi còn sợ quấy rối cậu kia… người đẹp kia đâu?”

Hắn không mang người đẹp về, dừng tay giữa chừng? Hình như có hơi không giống tác phong trước giờ của Lục Tử lắm. Nhưng hắn chỉ xua xua tay nói: “À, về với chồng người ta rồi! Còn để lại cho tớ số điện thoại của cô ta nữa cơ, để tớ lúc nào rảnh rỗi thì gọi.”

Tôi rùng mình hỏi: “Phụ nữ có chồng mà nhà ngươi còn dám động thủ? Không sợ chồng người ta tìm tới đánh cho què chân à?!”

Hắn đáp như đùa cợt: “Yên tâm yên tâm, tớ tự biết chừng mực. Thôi đi ăn cơm đi, coi như tớ tạ lỗi với các anh em. Tớ đặt bàn sẵn luôn rồi.”

Lục Tử vươn người tới định kéo chúng tôi tới nhà hàng, nhưng vừa dí sát mặt tới gần người tôi thì đột nhiên cau mũi hỏi: “Tiểu An, bộ vừa đánh rắm hay sao mà thối quá vậy?”

Tôi lập tức đập cần câu lên đầu hắn, phẫn nộ nói: “Có mà nhà ngươi đánh rắm ấy, ăn nói gì mà thô bỉ thế hả!”

Lục Tử lại vươn người tới nghe nghe, sau đó sờ sờ mũi nói: “Không phải… trên người cậu đúng là có một mùi hôi hôi… nhưng mùi này tớ đã ngửi thấy ở đâu rồi ấy nhỉ…”

Mắt Bạch Dực chợt lóe lên, đột nhiên hỏi: “Có phải cậu đang cầm cái gì đó không?”

Bọn họ nhắc tới tôi mới nhớ ra, trong túi còn cục đá kia còn gì. Vì thế vội vàng lôi nó ra, cặp mắt Lục Tử vừa nhìn thấy nó lập tức đã trợn to lên, nhìn chằm chằm vào khối đá mà hít hà: “Oa, cừ thật! Đây hình như là một khối kiếm cách[1] bằng ngọc đó nha!”

Nói xong lập tức nhét lại cục đá vào túi tôi, nhìn trước nhìn sau một hồi không thấy có ai để ý tới, mới thì thầm: “Tiểu An, đây là đồ cổ đó, cậu kiếm đâu ra được vậy?”

Tôi kể lại sơ lược chuyện lúc nãy cho bọn họ nghe, nghe xong, cả hai đều hơi cúi đầu như suy nghĩ, sắc mặt Bạch Dực càng thêm nghiêm nghị khác thường, đây cũng chính là nguyên nhân làm tôi cảm thấy sợ. Vì mỗi lần anh ta tỏ ra căng thẳng, là câu chuyện lại có xu hướng phát triển theo hướng xấu ngay.

Cuối cùng cũng chính Lục Tử là người phá vỡ sự im lặng nặng nề giữa chúng tôi, hắn cắn cắn môi dè dặt nói: “Kỳ lạ thật… một vật thế này sao lại xuất hiện trong một làng chài bình thường như vầy được? Nếu nó đúng là bảo vật văn hóa thì sẽ không bị đối xử lạnh nhạt thế này đâu… Nếu không phải tớ nhìn cổ vật quen rồi thì căn bản nhìn không ra nó là một khối ngọc nha… Thôi bỏ qua đi, đi ăn trước cái đã. Ở đây tai vách mạch rừng, nếu có người biết chúng ta tìm được thứ quý giá như vậy thì coi chừng bị bắt nộp lên bây giờ.”

Tôi nhìn sang Bạch Dực ra ý hỏi, nhưng thấy anh ta vẫn cau mày im lặng, trong lòng tôi vẫn cảm thấy lo âu, nhưng ít ra ngay lúc này cũng chưa có chuyện gì quái dị phát sinh, nên cũng gật đầu mà đáp: “Đúng vậy, đi ăn cái đã. Lúc về phòng rồi sẽ từ từ nghiên cứu lại sau.”

Nhà hàng thực ra cũng là chỗ chúng tôi ở trọ, nói cho đúng ra là một biệt thự nhỏ của một hộ nông dân. Tầng dưới cùng dùng làm nhà ăn, mấy gian phòng trên lầu cho khách du lịch thuê. Có rất nhiều hộ gia đình ở đây chọn cách kinh doanh này, vừa phục vụ chỗ nghỉ vừa phục vụ cơm nước, đồ ăn thì đều là những món ăn làm từ chính nông sản địa phương, ví dụ như canh gà ta, cơm chiên tôm, cá hấp vân vân. Ăn xong rồi khách có thể lên lầu nghỉ ngơi, rất tiện lợi. Gian phòng của chúng tôi ở vị trí tốt, mở cửa sổ ra có thể nhìn thấy mặt hồ trước mặt.

Nhưng bao nhiêu tâm tư của chúng tôi đều để hết ở chỗ khối ngọc và chuyện quái dị lúc nãy, nên không còn lòng dạ nào thưởng thức hương vị của món ăn. Hơn nữa trên người tôi vẫn bám theo cái mùi khó ngửi đó, cũng không muốn ở lâu trước mặt người khác để người ta phải dị nghị, cho nên cả ba vội vàng ăn cho xong bữa cơm, sau đó lập tức lên lầu. Vào phòng đóng cửa lại rồi, Lục Tử húng hắng vài tiếng rồi nói: “Tiểu An, đem thứ kia ra đây xem nào.”

Quả thực mùi hôi kỳ lạ kia toát ra từ chính khối ngọc, còn phảng phất một mùi máu tanh rất nặng hòa cùng mùi đất gai gai mũi, thực sự rất khó nghe. Lục Tử lấy ra một cái hộp nhỏ, bên trong có vài cái bàn chải nhỏ và khăn lau, là thứ mà hắn thường dùng để chùi con dấu. Hắn vừa cẩn thận nâng niu khối ngọc trong tay vừa nói với chúng tôi: “Đây đúng là cái mùi đặc thù của đồ cổ. Nhất là ngọc, để càng lâu thì ngọc càng tỏa ra một mùi hôi khó ngửi, cho nên rất nhiều kẻ làm giả cổ vật thường ném những khối ngọc còn mới vào bồn cầu để làm giả thành ngọc xưa. Nhưng loại thủ pháp vụng về đó thường không qua mắt được dân chuyên nghiệp.”

Tôi thử để sát mũi vào ngửi ngửi, hèn gì mà Bạch Dực vừa nghe đã biết tôi đang giữ cái gì trong người. Quả nhiên thứ này có vẻ rất nhiều tuổi đây, chờ Lục Tử lau sạch nó xong là có thể biết nó là cái gì.

Lục Tử cầm bàn chải nhỏ, tỉ mỉ chải từng chút một dọc theo những vân hoa văn. Bạch Dực cũng ngồi bên cạnh chăm chú nhìn, vừa khi một góc hoa văn lộ ra là anh ta đã lặng lẽ nói: “Thứ này thuộc thời Ngô quốc.”

Lục Tử làm việc rất cẩn thận chu đáo, trong lĩnh vực này hắn quả thực là chuyên gia. Hắn nhìn qua hoa văn, cũng gật đầu: “Đúng vậy, khối kiếm cách bằng ngọc này là của Ngô quốc. Hoa văn này đúng là loại hoa văn thịnh hành thời cuối Xuân Thu, đầu Ngô. Cái âu khai quật được trong kho tàng Tư Đồ ở thành phố Đan Dương tỉnh Giang Tô năm 1976 cũng mang những hoa văn đan chéo nhau phức tạp giống thế này.

Hắn dùng bàn chải chải sạch khối ngọc xong, rồi dùng vải mềm chà nhẹ qua, khối ngọc liền hiện ra ánh sáng nguyên bản của ngọc cổ, đó là một màu giống như màu đá Moldavite[2], giữa sắc xanh lục sậm vằn vện những vằn màu đen mảnh, hình chữ nhật bo tròn ở hai đầu. Một đầu có đục lỗ, dùng để tra chuôi kiếm vào, chính giữa mặt ngọc có khắc hai chữ triện “Câu Nguyệt”, nét chữ mạnh mẽ khí khái. Nếu có thêm cả chuôi lẫn lưỡi kiếm, chắc chắn không phải là một thanh kiếm tầm thường. Nếu có thể cầm trong tay một thanh kiếm như thế ra trận, thì quả là một hình ảnh cực kỳ oai phong!

Lục Tử đặt khối ngọc lên bàn, Bạch Dực lập tức cầm lên, lấy tay miết nhẹ lên chữ khắc trên mặt ngọc mà kích động thì thầm: “Trên này khắc hai chữ ‘Câu Nguyệt’ này! Chẳng lẽ đây chính là thanh kiếm ‘Câu Nguyệt cổ kiếm’ đã thất truyền từ lâu của Ngô quốc hay sao?!”

Lục Tử vừa thu dọn mọi thứ đi ướng nước, nghe Bạch Dực nói thế thì lập tức phun hết nước ra mà ho khan, tôi sợ hắn phun nước lên khối kiếm cách, vội vàng kéo hắn lại. Hắn kích động nắm chặt hai tay tôi mà phun nước bọt như mưa lên mặt tôi: “Có lầm không vậy chứ!! Chẳng lẽ… chẳng lẽ chính là thanh kiếm lưỡi vàng chuôi ngọc mà Ngô vương Phù Sai đã dùng để bức tử Ngũ Tử Tư hay sao?!!!”

Hắn vừa nói thế, tôi cũng lập tức sợ ngây người, quên mất cả nước miếng phun phèo phèo trên mặt mình mà ngây ra nhìn khối kiếm cách bằng ngọc trong tay Bạch Dực. Tục truyền Ngô vương có một thanh “Câu Nguyệt cổ kiếm”, cùng với thanh “Vương giả chi kiếm” của Việt vương Câu Tiễn hợp thành một đôi hi thế bảo kiếm được xưng là “Thiên hạ xưng bá thành vương”. Thanh kiếm của Câu Tiễn được gọi là “Thành vương”, còn Câu Nguyệt được gọi là “Thủ quốc”. Ngô vương Phù Sai dùng nó để bức tử Ngũ Tử Tư, sau đó khi Việt quốc tấn công Ngô quốc thì bóng dáng của Câu Nguyệt cũng theo loạn lạc mà bị phủ mờ trong suốt chiều dài lịch sử, không còn ai biết tung tích. Nghe kể rằng những bậc vương giả có được thanh kiếm này trong tay, sau khi chiếm được thiên hạ rồi, sẽ được kiếm phù trợ cho được thiên hạ thái bình, thịnh thế muôn đời, thiên thu vạn đại.

Ba người chúng tôi đều lặng người đi bàng hoàng, cuối cùng vẫn là tôi e dè lên tiếng trước: “Thứ này… thực sự là một bộ phận của thanh cổ kiếm đó sao? Nói vậy thì phải chăng… thanh kiếm vẫn còn lưu lạc gần đâu đây?”

Bạch Dực đẩy gọng kính, nheo nheo mắt nhìn khối kiếm cách mà trả lời: “Cũng khó nói, nhưng tôi có cảm giác cái này và tấm bia đá cậu nhìn thấy cùng với chuyện khỉ nước nhất định có liên quan. Thế này đi, Lục Tử, cậu ở đây giữ kiếm cách, Tiểu An, dẫn tôi ra chỗ tấm bia đá xem sao.”

Tôi lập tức gật đầu, nghĩ ở một làng chài bé nhỏ hẻo lánh như thế này mà lại có thể có một phát hiện chấn động đến thế, cũng thực sự có chút hứng khởi. Nhưng bên cạnh đó là một loại bất an không gạt đi nổi, trực giác nói cho tôi biết, chuyện này không đơn giản như vậy.

Còn Lục Tử trước hết vẫn là một thương nhân, hắn lập tức suy nghĩ theo góc độ của một vụ buôn bán, vừa nghe tới tấm bia đá đã lập tức nói: “Hai người đi xem đi nhé, có thể tấm bia đó cũng có giá trị, nếu thực sự có liên hệ với thanh kiếm này là tôi lập tức gọi người tới bán liền, tới lúc đó không quên tiền hoa hồng cho hai người đâu!”

Khi chúng tôi quay lại bên hồ, trời đã ngả về chiều, khu du lịch đầy những đôi trai gái nắm tay nhau đi dạo quanh hồ ngắm phong cảnh, nhưng chúng tôi không còn lòng dạ nào ngắm hoàng hôn, chỉ mải miết đi về phía tây. Quả nhiên khu vực đó là một “điểm mù” an ninh của khu du lịch này, cho tới bây giờ vẫn không có ai tới canh gác. Chúng tôi cúi gập người chui vào bụi cây, từ đây có thể thấy rõ chỗ nước cạn nơi phát hiện xác chết ban ngày. Thi thể đã được đem đi, nhưng theo tập tục của ngư dân ở đây, vẫn để lại một cây nến sáp ong, bốn phía bày đầy những vật dụng lúc sinh tiền của người chết, với ý nghĩa là để dẫn hồn phách lưu lạc trong nước quay về, tránh cho người chết biến thành khỉ nước.

Hồ nước róc rách tiếng nước triều đều đặn dâng lên rồi lại hạ xuống, nghe như hơi thở của thiên nhiên. Triều dâng rồi triều dạt, có lẽ tấm bia đá kia đã chứng kiến cả ngàn năm thủy triều lên xuống thế này rồi nhỉ. Tôi nhìn mặt hồ một cái, sau đó quay đi bước theo Bạch Dực tới chỗ bia đá. Đột nhiên nghe anh ta khẽ hô lên một tiếng: “Thấy rồi.”

Tôi bước nhanh tới, quả thực là tấm bia đá vô danh tôi đã nhìn thấy ban ngày. Bạch Dực phủi hết lá cây bám trên mặt bia, quan sát một lúc rồi nói: “Quả nhiên là đồ có từ thời nhà Ngô.”

Tôi hỏi: “Trên đó viết những gì vậy? Sao chỉ có vài dòng ngắn ngủi thế?”

Bạch Dực mím chặt môi nhìn tấm bia một lúc lâu khiến tôi càng tò mò, giục anh ta mau nói.

Ánh mắt Bạch Dực có hơi kỳ lạ, anh ta quay sang tôi lặng lẽ nói: “Tấm bia này thực ra là do người chết làm cho chính mình.”

Tôi ngẩn người ra, cái gì cơ? Tự lập bia cho mình? Kẻ đó biết mình sắp chết nên tự lập bia cho mình sao?

Tôi gãi gãi đầu chỉ vào tấm bia: “Thì trước hết anh cứ dịch tấm bia này ra cho tôi nghe xem nào, sao kẻ đó chỉ ghi lại cho chính mình có vài hàng như vậy? Cổ nhân luôn luôn coi trọng hậu sự, một tấm bia sơ sài thế này không hợp với lễ giáo lúc đó chút nào!”

Bạch Dực vuốt dọc những dòng chữ khắc mà khẽ đọc: “Nó viết là ‘Sĩ vi tri kỷ giả tử, thiên cổ nhất hận, duy hữu thủ nguyệt’.”

Văn học cổ luôn luôn là điểm yếu của tôi, suy nghĩ mãi mà tôi vẫn không biết tấm bia nói thế là có ý gì, đành quay qua hỏi Bạch Dực: “Anh hiểu kẻ này muốn nói gì không? Tôi chỉ biết câu ‘Sĩ vi tri kỷ giả tử, nữ vi duyệt kỷ giả dung’[3] thôi à…”

Bạch Dực khẽ cười cốc đầu tôi một cái: “Bậy bạ, cái gì mà ‘nữ vi duyệt kỷ giả dung’ ở đây? Câu đầu đúng là có ý là ‘kẻ sĩ chết vì tri kỷ’. Còn ‘thiên cổ nhất hận’, tôi cũng không biết là hận gì, ‘duy hữu thủ nguyệt’ có hai cách hiểu, cách thứ nhất là chỉ cái hồ Thủ Nguyệt này, cách hiểu thứ hai là chỉ thanh kiếm Câu Nguyệt.”

Người thời cổ thường lời ít mà ý nhiều, phần nhiều là để cho người nghe tự suy ngẫm, dựa vào chính khả năng của mình mà lãnh hội. Nếu có ngộ tâm, tất sẽ tự hiểu người ta đang nói cái gì, còn nếu không có ngộ tâm, thì xin lỗi, có nhìn đám chữ đó tới mức thổ huyết cũng đừng hòng hiểu ra. Tuy không thể hiểu hết câu này có ý gì, nhưng xem ra chắc chắn có liên quan nào đó tới Câu Nguyệt cổ kiếm.

Bạch Dực thấy đám chữ này cũng không cung cấp được thêm cái gì cho chúng tôi, liền bước ra phía sau tấm bia xem thử. Tôi càng không hiểu gì, vì thế liền quay ra phía sau lưng nhìn lại chỗ nước cạn nơi thi thể được tìm thấy, nhưng lại đột nhiên phát hiện ngọn nến sáp đã… biến mất, chỉ để lại những vệt sáp trắng nhạt. Trên mặt cát lưu lại một loạt dấu chân ướt sũng, nhìn là biết tuyệt đối không phải dấu chân người, mà cứ như những dấu chân vịt khổng lồ vậy.

Tôi cảm thấy mặt mình tê rần lên, vội vã xoay người gào lên với Bạch Dực: “Lão Bạch lão Bạch, ngọn nến mất tiêu rồi!”

Bạch Dực ngẩng đầu lên khỏi mặt sau tấm bia, đột nhiên anh ta cũng trừng to mắt, thoáng cái kéo lấy tay áo tôi giật mạnh lại, kéo tôi về phía sau tấm bia. Vì lực kéo quá mạnh, mặt tôi liền đập thẳng vào mặt đá, tôi chỉ cảm thấy mũi đau thốn lên, đau tới mức rên rỉ: “Anh bị mắc cái chứng gì vậy, mũi tôi bị đập gãy bây giờ!”

Nhưng Bạch Dực không thèm để ý tới, chỉ nhanh như chớp nhảy phắt ra chặn trước mặt, kéo tôi ra phía sau lưng mình. Tôi bưng chặt mũi nhìn lên, vừa kịp thấy một cái bóng đen nhoáng cái chui vào trong rừng cây dày đặc, tốc độ cực nhanh. Bạch Dực chỉ cẩn thận quan sát bốn phía, âm trầm nói với tôi: “Chỗ này không an toàn, về thôi!”

Không cần anh ta phải nói tôi cũng biết chỗ này lành ít dữ nhiều, thứ đen thùi lúc nãy rất có khả năng chính là vị khỉ nước ban sáng, đúng là bám dai như đỉa vậy. Tôi bỏ bàn tay đang bịt mũi ra, nhìn thấy một màu đỏ ghê người của máu tươi, nghĩ thầm, Bạch Dực đúng là ra tay quá mạnh, nếu anh ta mà cố tình một chút thì không chừng cả cái mặt tôi cũng dẹp lép mất rồi. Anh ta nhìn gương mặt của tôi, cũng có hơi hối hận, liền lấy trong túi quần ra một cái khăn tay chuẩn bị giúp tôi lau mũi. Nhưng tôi vội vàng ngăn bàn tay anh ta lại, cầm lấy cái khăn tự mình lau. Anh chàng này mạnh tay như vậy, bây giờ mà lau một cái dám cái mũi của tôi cũng rớt ra theo quá. Tôi lườm anh ta một cái, bưng mũi nói: “Về trước cái đã, hiện tại không phải là lúc quan tâm tới vấn đề mặt mũi, có xấu đi chút cũng còn hơn là xuống hồ làm khỉ nước!”

Trên đường trở về tôi vẫn bưng chặt mũi, Bạch Dực lẽo đẽo theo phía sau. Những người trên đường nhìn mặt tôi, tưởng tôi vừa bị ai “dạy dỗ”, đều chỉ trỏ thì thầm với nhau. Tôi cúi thấp đầu, thầm mắng cả mười tám đời tổ tông nhà Bạch Dực tơi tả.

Một người đàn ông trung niên tiến tới từ phía xa, tôi nhận ra ông ta là một trong số những ngư dân ban sáng. Ông ta tiến thẳng tới trước mặt tôi, thấy phía sau tôi còn có thêm một người, hơi ngây ra một chút, thế nhưng lại lập tức đi tiếp. Trên thắt lưng của ông ta có cột một sợi dây xô gai màu trắng, bởi vì người chết là đứa nhỏ trong nhà, nên người lớn không cần mang vải tang màu đen mà chỉ cần cột một sợi dây trắng bên hông, biểu thị trong nhà có trẻ con qua đời là được.

Ông ta vội vàng nói với tôi: “Cậu nhóc, đừng ở lại đây nữa, sớm muộn gì cũng gặp xui cho coi. Tui biết cậu không tin, nhưng khỉ nước ở chỗ này khá với những chỗ khác, có thể lên tận trên bờ mà tha người xuống nước đó, tất cả những ai đã trông thấy nó đều sẽ bị nó kéo xuống nước hết đó!”

Tôi nhìn ông ta, cảm thấy có thể tìm hiểu được nhiều điều từ người này, bèn lén nháy mắt với Bạch Dực một cái rồi làm ra vẻ ngây thơ nói với ông ta: “Đại ca, không phải tôi không tin, nhưng mà anh nói chuyện cũng mập mờ quá đi. Tôi không hiểu gì hết, mà khỉ nước là cái gì?”

Ông ta nhìn chúng tôi một chút rồi thở dài: “Hai người không phải người trong thôn, không biết khỉ nước lợi hại tới mức nào đâu. Thằng con nhà tui trước khi gặp nạn cũng nhìn thấy khỉ nước, sau đó mới bị nó lôi xuống hồ. Nhất là những lúc thủy triều, đám khỉ nước ở đây cứ như trúng ma, đều chực chờ bên mặt nước, thấy ai là kéo người đó xuống hồ cho chết đuối liền. Những lúc thủy triều lên xuống, làng này không ai dám ra hồ bắt cá cả. Ai… chúng ta đều biết, bị khỉ nước lôi đi rồi là thế nào cũng phải trở thành một trong số chúng… thương cho con tui…”

Bạch Dực đứng bên cạnh chăm chú lắng nghe, tới đây đột nhiên chen vào hỏi: “Vậy vùng này có truyền thuyết gì về cái hồ này không? Càng xưa càng tốt!”

Ông ta suy nghĩ một chút rồi trả lời: “Những chuyện cổ ở đây nói chung đều là về cái hồ này, nhưng chuyện xưa nhất… có lẽ là chuyện kể là ngày xưa đã từng có một quý tộc nhảy xuống sông tự vận, không ai biết lai lịch của người đó ra sao, nhưng nghe đồn ông ta biết pháp thuật, tự sát rồi cũng không có cá tôm nào dám rỉa xác của ông ta, hơn nữa… hình như là ông ta còn ôm theo một thanh kiếm nhảy xuống hồ nữa.”

Tôi và Bạch Dực quay phắt lại nhìn nhau, cảm thấy có đầu mối, vì thế hỏi ông ta kể chi tiết hơn. Người đàn ông gãi gãi tóc suy nghĩ rồi kể: “Ông nội tui bảo, thân thế của người này rất đặc biệt, nghe nói ông ta chết rất trẻ, lúc chết lại ôm oán hận quá lớn, oán khí không tan nổi, cho nên biến thành Quỷ Vương của thủy quỷ, mà cả thanh kiếm của ông ta cũng rất đáng sợ. Thủy quỷ đều phải nghe lệnh ông ta, mà cái vị ‘Thủ quốc gia gia’ này đặc biệt không thích người ta tới mé tây hồ, kẻ nào dám tới lập tức sẽ bị khỉ nước bắt đi hết. Cho nên chỗ đó biến thành chỗ cấm của làng này. Nhưng sau thời cải cách văn hóa, khách du lịch bắt đầu tìm tới, ban ngày chúng tui cũng bạo gan vài lần tới câu cá. Nhưng gần đây thì đám khỉ nước càng lúc càng hung tợn khác thường, hình như là do oan hồn của vị gia gia này quấy phá, tụi tui cũng cúng cho hồ rất nhiều lần, nhưng không ăn thua gì. Thằng con tui tối bữa trước ra mé tây hồ rồi cũng không còn trở về nữa…”

Bạch Dực hỏi tiếp: “Vậy các vị có biết người này là người thời nào, tên gì không?”

Ông ta chậc chậc lưỡi đáp: “Cái đó thì không biết, nghe nói là người trước cả thời Tần Thủy Hoàng, tên gọi… không biết tên là gì, nhưng tụi tui đều gọi ông ta là ‘Thủ quốc công’, những cái khác… quả thực không biết.”

Tôi xem chừng không còn hỏi thêm được gì nữa, bèn chào hỏi qua loa rồi cùng Bạch Dực về phòng trọ. Dọc trên đường, Bạch Dực đều rất trầm tư như đang suy nghĩ rất lung, lúc chúng tôi vào phòng, thấy Lục Tử vẫn đang nghiên cứu khối kiếm cách bằng ngọc kia. Chúng tôi vừa vào cửa, hắn đã đứng dậy hỏi có thu hoạch gì không.

Tôi tự rót cho mình một ly nước, kể lại chuyện ông ngư dân kia đã nói cho hắn nghe. Hắn gõ gõ lên bàn, thở dài: “Tư liệu như vậy vẫn còn quá ít, chẳng biết thêm được gì cả.”

Bạch Dực lắc đầu: “Chưa chắc, hai người suy nghĩ thử xem, Phù Sai bức tử Ngũ Tử Tư rồi, sau đó bảo kiếm có thể rơi vào tay ai? Một thứ quan trọng như vậy, Ngô vương Phù Sai có ngốc đến mấy cũng không thể giao vào tay người ngoài. Cho nên chắc chắn lúc đó giữ kiếm phải là thân tín, hoặc là trực hệ của Ngô vương.”

Chính xác, nghe rất có lý. Tôi gật đầu, đồng ý với ý kiến của Bạch Dực: “Nói đúng lắm, vậy người nào có thể vừa là thân tín của Phù Sai lại vừa biết pháp thuật nhỉ?”

Lục Tử cắt ngang: “Không thể tin theo lời ông ngư dân kia nói mà nghĩ rằng người đó nhất định phải biết pháp thuật, làm sao có chuyện hoang đường tới mức đó được. Người thời cổ thường cho những hiện tượng tự nhiên dị thường đều là pháp thuật cả, nếu cậu bây giờ mà quay vể thời cổ đại móc ra một cái bật lửa là lập tức tất cả mọi người, coi chừng cả lão hoàng đế cũng phải quỳ xuống trước mặt cậu nữa là.”

Tức là, ngoại trừ khối kiếm cách cộng với một câu chuyện truyền khẩu không đầu không đuôi thì chúng tôi không có gì khác trong tay cả. Kỳ thực, điều làm tôi quan tâm nhất chỉ là làm sao để không bị khỉ nước lấy mạng mà thôi, vì nếu như lời ông ngư dân kia nói là thực, bất kỳ ai nhìn thấy khỉ nước đều phải chết, vậy chẳng phải tôi chết chắc rồi sao?

Bạch Dực nhìn thấu lo lắng trong lòng tôi, liền vỗ vỗ vai khuyên nhủ: “Tôi cảm giác chuyện này vẫn chưa ngã ngũ, hơn nữa chỗ này cũng xa hồ, khỉ nước không thể nào dám tới tận đây mà tìm cậu được đâu, cùng lắm thì mai chúng ta về thành phố, lẽ nào nó có thể đuổi theo cậu tới tận đó?”

Nhưng lần này thì ngay cả những lời bảo đảm của Bạch Dực cũng không làm tôi bớt lo hơn chút nào. Trong lòng dường như luôn luôn có một tảng đá khổng lồ đè nặng, không sao nhẹ nhõm được. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, trời đã tối đen lại, mặt hồ ánh lên một sắc xanh sẫm pha đen huyền ảo, một vầng trăng tròn trặn lửng lơ giữa bầu trời không gợn áng mây. Một khung cảnh tĩnh tại đẹp đẽ đến thế, vậy mà lúc này nhìn lại không hiểu sao cứ cảm thấy có hơi quỷ dị.

Chợt từ xa truyền tới từng đợt thanh la xập xòe cộng với tiếng tụng kinh đều đều của hòa thượng. Ngoài bến sông, ngư dân đang tổ chức lễ cúng cho đứa trẻ vừa chết, bọn họ đốt một đống quần áo mà nó thường mặc khi còn sống bên bờ sông, từ xa vẫn có thể nghe thấy mùi cháy khét lẹt.

Tiếng khóc của người phụ nữ ban sáng lại lần nữa vang lên thảm thiết. Tôi bắt đầu thực sự phát sợ, tay run run vội vã đóng cửa sổ lại, bất an quay lại ngồi lên ghế, ỉu xìu nói với hai người còn lại: “Tôi mặc kệ hết, sáng mai chúng ta về đi! Bọn khỉ nước này thực sự quá đáng sợ mà, tính mạng quan trọng hơn thanh kiếm kia nhiều!”

[1] Kiếm cách là một khối (thường là) hình chữ nhật nằm ở vị trí giữa chuôi kiếm và lưỡi kiếm, có tác dụng bảo vệ tay. Khối kiếm cách của Tiểu An nhặt được có lẽ chính xác trông như thế này:

.

.

[2] Hay còn được gọi là vẩn thạch Tiệp Khắc do nguồn gốc của nó là từ vẩn thạch mà tạo thành. Có sắc xanh lục, đôi khi hơi ngả sang màu rêu rất đẹp. Có ý nghĩa là “cầu cho mối quan hệ được rõ ràng vững chắc”.

3] Kẻ sĩ chết vì tri kỷ, hồng nhan thắm bởi người yêu – Lục Mịnh dịch rất thoát ^^

Chương 27: Thủ hồ (Tam)

Bạch Dực mân mê chén trà trong tay, không nói gì; Lục Tử tuy có vẻ như muốn ở lại tìm tung tích của thanh cổ kiếm, nhưng nhìn dáng vẻ lo sợ của tôi cũng không dám ép. Đột nhiên ánh mắt Bạch Dực như lóe lên, dường như tự đắc vì đã nghĩ ra cái gì đó vậy, nhưng sự biến hóa này chỉ xẹt qua đáy mắt anh ta rất nhanh rồi nhanh chóng biến mất, trở lại vẻ lạnh nhạt như cũ, trước sau vẫn không mở miệng.

Tôi vốn định hỏi anh ta đã nghĩ ra cái gì, nhưng anh ta đã khéo léo dùng ngón trỏ của bàn tay đang cầm chén mà đặt nhẹ lên môi, ý bảo tôi đừng lên tiếng. Để không cắt đứt dòng suy nghĩ của anh ta, tôi cũng đành nhịn mà im lặng, chờ anh ta suy nghĩ cẩn thận đâu ra đó rồi chắc chắn sẽ giải thích. Buồn chán, tôi bèn lơ đãng nhìn ra ánh lửa xa xa ngoài cửa sổ, nghĩ thầm, quả nhiên là những người sinh ra bên hồ, lớn lên trong hồ, cuối cùng cũng gửi thân xác lại trong hồ, đó cũng có thể coi như một sự trở về. Tôi thở dài một hơi, u ám nhìn lướt qua mặt hồ đen đặc rộng lớn. Đột nhiên, giữa mặt hồ, tôi nhìn thấy… một cái bóng người trắng toát!

Lòng tôi trong phút chốc hoảng lên, thân hình của kẻ nọ rất mờ nhạt, ánh trăng chiếu lên người hắn làm thành một đường viền nhàn nhạt. Tôi không khỏi nghi ngờ, người này biết phép đi trên mặt nước hay sao? Bởi vì trông cái bóng thực sự như đang lướt trên mặt nước, nhưng vẫn hoàn toàn không làm cho mặt nước xao động, toàn bộ thân hình như tĩnh lại, kéo theo không khí xung quanh hắn cũng như ngưng đọng theo.

Một ý nghĩ toát ra trong đầu tôi, người này rất có thể chính là “Thủ quốc công” mà ông ngư dân ban chiều đã nhắc tới, nghĩ vậy, tự nhiên cảm thấy một cảm giác khao khát mãnh liệt muốn nhìn thấy hắn tận mắt, làm như nếu nhìn thấy người này thì có thể giải được hết mọi bí ẩn vậy. Mặc kệ hắn là thiện hay ác, là thần hay quỷ, thà tìm thấy hắn trước còn hơn chờ hắn tới tìm, không phải sao!

Để nhìn thấy rõ hơn, tôi vội vã tiến ra trước cửa sổ, nhìn chằm chằm vào cái bóng trên mặt hồ, cái bóng như được phủ mờ bởi tầng tầng ánh trăng huyền ảo. Đột nhiên tôi có cảm giác thật muốn, thật sự muốn lao đầu ra khỏi cửa sổ… bàn tay tôi đã nắm lên bờ cửa, nhưng khi tôi vừa mở rộng cửa ra, thì từ bên ngoài, một cái bóng đen thùi đã chồm lên. Khỉ nước! Nó nhe răng trợn mắt nhìn tôi, tròng mắt đỏ rực như máu. Tôi giật người lùi lại, nó đã xô mạnh vào vai tôi mà nhảy xổ vào phòng. Đang lúc cả đám người chúng tôi còn đang trở tay không kịp, trong phòng lại đột ngột… cúp điện! Lục Tử và Bạch Dực đều la lên. Chuyện xảy ra nhanh như một cái chớp mắt, ba người chúng tôi căn bản không kịp động đậy, vì ánh sáng bất thình lình biến mất nên chúng tôi cứ như ba kẻ mù, tôi vội vã giơ giơ tay ra trước hốt hoảng gọi: “Bạch Dực, Lục Tử! Hai người đâu rồi!”

Đột nhiên cảm thấy đụng phải một người, tôi tưởng là Bạch Dực, liền vội vàng nắm lấy tay người đó, nhưng chạm vào rồi mới thấy, đây tuyệt đối không thể là Bạch Dực được, vì tay áo hắn dài thượt, không phải quần áo của người hiện đại, mà cả người hắn lại ướt đẫm, cứ như… cứ như vừa bước lên từ dưới hồ vậy!!!

Tôi giật tay lại rút lui liền mấy bước, đụng phải ghế, lập tức ngã nhào xuống. Đôi mắt dần dần quen với bóng tối, tôi bèn nhìn chằm chằm vào bóng người đang đứng cạnh cửa sổ kia. Hắn mặc một chiếc áo dài thượt, rộng thùng thình, một tay đang vươn ra về phía tôi, lòng bàn tay mở rộng như đang đòi vật gì đó. Tôi lập tức hiểu ngay, hắn đang đòi lại khối kiếm cách ngọc! Đột nhiên cả người bị ai đó ôm chặt lấy, kéo về phía sau, tôi mất đà ngã vào lồng ngực người ấy. Nhìn lại thì phát hiện là Bạch Dực, trong lòng lập tức yên tâm, liền run run chỉ cho anh ta thấy người bên cửa sổ kia: “Hắn… dường như muốn lấy lại khối kiếm cách hay sao ấy!”

Lục Tử thì đang co người trốn dưới gầm bàn, cả người hắn run tới mức khiến cho cả cái bàn cũng run bắn theo, trong miệng liên tục lẩm nhẩm A di đà phật. Nhưng vấn đề là khối kiếm cách ngọc trên bàn đã không còn ở đó nữa, lẽ nào con khỉ nước lúc nãy đã cướp đi rồi sao? Chợt nghe Bạch Dực từ sau lưng nhẹ giọng thì thầm: “Thứ đó trong tay tôi, yên tâm đi.”

Tôi mếu máo nói: “Chi bằng…chi bằng trả lại cho người ta đi, chúng ta còn giữ nó thì còn không được bình an!”

Cái bóng kia vẫn giữ nguyên tư thế như trước, không thèm động đậy. Toàn thân hắn tỏa ra một thứ hơi lạnh tiêu điều u tịch, ánh trăng chiếu xuyên qua người hắn, hắt lên mặt đất chút ánh sáng lờ mờ. Bạch Dực đỡ tôi đứng dậy, người kia cũng như một con rối, xoay người theo động tác của chúng tôi, cánh tay vẫn giơ ra, dường như hắn biết khối ngọc kia đang nằm trên tay Bạch Dực vậy.

Kỳ thực, so với bóng người không biết tên tuổi này, tôi còn sợ con khỉ nước không biết đang lẩn lút ở đâu trong phòng kia hơn. Nó không biết đang trốn trong xó xỉnh nào, bởi vì Bạch Dực không hề mở cửa phòng, cho nên nó cũng cứ thế giảo hoạt mà giấu mình trong bóng tối, chờ cơ hội nhảy ra.

Tôi liếm liếm đôi môi khô khốc, hỏi: “Ngươi… ngươi là ai?” Giọng nói khàn tới mức ngay cả tôi nghe thấy cũng giật cả mình.

Bóng người vẫn không hề lay động, cũng không thèm trả lời, từ người hắn có thể cảm thấy một loại khí độ lãnh ngạo đến cực điểm. Bạch Dực phía sau cũng bắt đầu thở gấp, có thể thấy ngay cả anh ta cũng bắt đầu lo lắng. Đúng lúc này, Lục Tử đột ngột hét to lên một tiếng, như thể vừa bị ai đó tóm được vậy. Tôi vừa nhìn thấy thì tim cũng gần như ngừng đập, con khỉ nước kia không dám ra tay với chúng tôi, mà lại chọn đúng Lục Tử thân cô thế yếu để tấn công, bọn quỷ này, quả thực là quá hiểm độc mà!

Lục Tử dường như bị bóp cổ, tiếng la trở nên gián đoạn lại khò khè, tôi lo lắng quay sang Bạch Dực: “Không ổn rồi! Lục Tử sắp chết tới nơi rồi, chi bằng chúng ta trả thứ đó lại cho hắn đi, cầu xin hắn cho chúng ta một con đường sống!”

Bạch Dực chỉ suy nghĩ trong chốc lát, một tay cẩn thận ôm chặt lấy tôi, tay còn lại nắm khối kiếm cách ném thẳng ra ngoài cửa sổ. Chỉ nghe Lục Tử hét thảm một tiếng, con khỉ nước lông lá đen ngòm kia đã nhảy phắt ra khỏi cửa sổ, bóng người màu trắng cũng thoáng cái biến mất.

Ba người chúng tôi ngồi phịch xuống đất thở hổn hển, mãi một lúc lâu sau khi có người tới gõ cửa mới hoàn hồn lại. Đứng trước cửa là ông chủ quán trọ, ông ta nói cầu dao tổng không biết bị ai chơi ác đóng lại, cho nên cả nhà trọ mới bị cúp điện. Lại nghe tiếng chúng tôi hét trên này nên lên xem thử, vừa nói xong thì gian phòng cũng đúng lúc sáng lên. Chỉ có một cái ghế ngã chỏng chơ trên sàn, Lục Tử thì cuộn tròn người dưới bàn, bưng cái cổ ra sức thở hào hển.

Tôi vội vàng lên tiếng giải thích với ông chủ đang há hốc miệng ngạc nhiên: “Bạn của tôi lúc nhỏ gặp tai nạn, cho nên bây giờ cứ mỗi lần cúp điện đột ngột là lại như vậy đó, đây là một loại bệnh tâm lý thôi, không sao hết!”

Ông chủ nghe thế cũng gật đầu: “Là vậy sao, thật không phải, đột nhiên xảy ra chuyện này tui cũng rất xin lỗi, có cần tụi tui đưa bạn cậu tới bệnh viện không?”

Tôi vội vã xua tay: “Không, không cân đâu ạ, cậu ta chỉ cần nghỉ ngơi một lát là khỏi ngay ấy mà. Bác cứ đi lo công chuyện đi, ở đây không còn gì phải lo nữa đâu.”

Ông chủ lo lắng nhìn lại Lục Tử thêm một lần nữa, nhưng không nói thêm gì mà vội vã rời đi. Tôi lập tức đóng chặt cửa, nói với Bạch Dực: “Thứ kia có được khối ngọc rồi, chắc sẽ không quay lại nữa đâu nhỉ?”

Lục Tử đã bắt đầu bình thường trở lại, hắn lảo đảo đứng lên bước tới ngồi phịch xuống ghế, bưng ngực thều thào: “Đúng đó, trả lại cho hắn là đúng, có chủ nhân hung ác như vậy, thứ kia mà mang về cũng chỉ mang tới tai họa thôi…”

Bạch Dực trầm mặc nhìn chúng tôi hồi lâu, mãi sau mới thản nhiên nói: “Tôi chưa trả thứ đó lại cho hắn.”

Chúng tôi vừa nghe tháy, liền trợn mắt lên nhìn anh ta, không sao tin nổi, giọng của Lục Tử cũng run lên: “Ối đại ca ơi! Sao anh còn giữ lại cái thứ gây tai họa này làm cái gì!!! Anh đâu phải là loại người vì nghĩa mà quên mạng đâu hả? Hả?!”

Tôi cắt ngang màn quỷ rống của Lục Tử, vì biết Bạch Dực làm thế chắc chắn có lý do của anh ta, cho nên tôi chỉ cố gắng giữ bình tĩnh mà hỏi: “Lão Bạch, anh giữ lại thứ này làm gì? Dù sao nó cũng đâu có quan trọng với chúng ta lắm?”

Bạch Dực lấy khối kiếm cách từ trong túi quần ra mà đáp: “Nếu trả lại nó rồi, coi chừng không quá ba ngày sau chúng ta đều phải ra ma hết, ai cũng chạy không thoát. Chỉ có giữ nó lại mới có đường sống.”

Bạch Dực nói thế tôi mới sực nhận ra, người này thực sự sẽ không cho chúng tôi được sống sót. Vì sao hắn lại không để ai bước chân tới mé tây hồ? Vì sao đứa bé kia lại bị khỉ nước tha xuống chết đuối? Cách giải thích duy nhất là vì đứa bé đó chính là người đầu tiên bắt được khối kiếm cách. Cho nên nó phải chết. Mà người kế tiếp giữ kiếm cách trong tay là tôi liền biến thành mục tiêu truy sát của khỉ nước. Vì kẻ đó muốn giữ kín bí mật của cổ kiếm, cho nên ra sức phong tỏa mọi tin tức dẫn tới kiếm, nếu chúng tôi còn sống thì tức là mối đe dọa vẫn còn. Cho nên, chỉ có cách tốt nhất để giữ bí mật, đó là khiến cho ba người chúng tôi vĩnh viễn câm miệng, vì người chết là loại người duy nhất sẽ không bao giờ để lộ bí mật ra ngoài.

Lòng tôi lạnh toát, bất giác quay lại nhìn Bạch Dực. May có anh ta, may mà anh ta nghĩ ra, không bị tình huống nguy hiểm tức thời làm bối rối tinh thần, bằng không nếu lúc nãy giao ra lá bùa hộ mệnh duy nhất này rồi thì tiếp theo đúng là chỉ còn có nước chờ chết.

Lục Tử rốt cuộc cũng hiểu ra tình hình, thở dài một tiếng nói: “Vậy bây giờ chúng ta phải làm sao? Chẳng lẽ cứ ở đây chờ người kia quay lại tính sổ? Hắn mà biết chúng ta lừa hắn, đảm bảo sẽ không để chúng ta yên lành rời khỏi đây đâu!”

Bạch Dực ngẩng đầu nhìn mặt hồ ngoài cửa sổ, đáp: “Cho nên chúng ta phải chủ động đi tìm hắn, ra điều kiện!”

Nguyên cả đêm đó chúng tôi không sao chợp mắt nổi, Lục Tử nắm chặt khối khai quang cổ ngọc mà sư phụ hắn cho trong tay, niệm kinh lầm rầm cả đêm. Tôi ngồi canh bên cửa sổ, dùng cây móc áo chặn chặt cửa sổ lại, không cho khỉ nước phá cửa xông vào. Bởi vì tôi có cảm giác, lũ khỉ nước này vẫn giữ được trí thông minh của con người, chỉ hình dạng bên ngoài là bị biến đổi mà thôi. Đã là như thế thì những trò như cạy cửa sổ chắc chắn cũng không thể không biết.

Nhưng đáng lo nhất lại chính là Bạch Dực, cả đêm anh ta nắm khối kiếm cách trong tay, không biết suy nghĩ gì mà trầm tư, mặt mày nghiêm trọng kinh khủng. Lục Tử mấy lần gọi, nhưng anh ta đều không nghe thấy. Tôi xua xua tay với Lục Tử, ra hiệu cho hắn đừng làm phiền Bạch Dực. Bởi vì tình huống lúc này của chúng tôi, ngoại trừ trông cậy vào khối ngọc trong tay anh ta để cứu mạng thì không còn cách nào khác.

Một đêm ngủ không yên, phương đông đã hửng sáng tự lúc nào. Ánh trăng trút xuống những lớp sáng nhạt cuối cùng, dần dần bị thay thế bởi những tia nắng chói lọi của vầng thái dương. Ánh sáng ban ngày có hơi chói mắt, tôi động đậy cơ thể, gãi gãi đầu tỉnh giấc, hóa ra cuối cùng vẫn là trụ không được, ngủ thiếp đi tự lúc nào. Trên người tôi đắp cái áo khoác của Bạch Dực, anh ta vẫn đang ngồi bên bàn mà nhìn chằm chằm khối kiếm cách trong tay, tròng mắt đỏ quạch, dường như cả đêm không ngủ.

Lục Tử còn nằm yên trên giường ngủ say như chết, miệng há hốc ngáy khò khò, trong tay còn nắm chặt khối ngọc của hắn không dám buông. Tôi lắc lắc cái cổ cứng đờ, bước tới hỏi Bạch Dực: “Thế nào? Có biện pháp gì chưa?”

Anh ta thấy tôi đã tỉnh, liền cầm lại áo khoác của mình, sờ sờ cằm mà nói: “Xem ra muốn giải quyết dứt điểm thì buộc phải tới bên hồ một lần nữa. Khối ngọc này thế nào cũng phải tra lại cho hắn, nhưng chúng ta cũng phải buộc hắn hứa không được làm hại chúng ta mới được. Nếu không có ngày chết chìm trong bồn rửa mặt nhà mình mất.”

Chúng tôi thực sự không ham muốn thứ này, dù sao với tôi mà nói cả câu chuyện này chỉ là một lần gặp chuyện không may mà thôi, nếu như được lựa chọn tôi thà không bao giờ bước chân tới chỗ này. Nghĩ đến đây, tôi lại không khỏi lườm cái kẻ đầu sỏ gây chuyện kia một cái.

Bạch Dực nhìn tôi, bình thản nói tiếp: “Biện pháp của tôi lúc này cũng chỉ dựa trên sự suy đoán, cho nên chắc chắn là có nguy hiểm. Tỉ lệ thành công có khi chỉ có 50%, cho nên tôi định chuyện này để một mình tôi giải quyết được rồi, cậu về trước với Lục Tử đi. Nếu như…”

Tôi lập tức chặn ngang không cho anh ta nói nữa. Lại bắt đầu cái bệnh anh hùng cá nhân rồi, đây có phải là chuyện cá nhân của anh ta đâu? Đã nguy hiểm như vậy thì càng cần phải có người giúp đỡ chứ? Hơn nữa chẳng lẽ anh ta cho rằng tôi về nhà sẽ an toàn sao? Nếu lỡ mà anh ta thất bại, tôi vẫn như cũ chết đuối trong bồn rửa mặt chứ ích gì? Vì thế, tôi kiên quyết hăm he: “Tôi không quay về, tôi ở lại với anh! Thằng nhóc Lục Tử này nhát lắm, đá cậu ta về trước đi!”

Bạch Dực lắc đầu: “Lần này tôi quả thực không dám cam đoan là có thể bảo vệ tốt cho cậu, nếu chẳng may… chẳng may cậu xảy ra chuyện gì… tôi… tôi làm sao ăn nói với cha mẹ cậu…?”

Tôi trừng mắt với anh ta một cái, anh ta khinh tôi là con nít lên ba sao? Vì thế cố tình nói bằng một giọng nặng nề hơn: “Đừng nói loanh quanh, muốn chê tôi vô dụng thì cứ nói thẳng đi! Tôi thì tôi nói thật nhé, anh nghĩ tôi không muốn chạy chắc?! Nhưng vấn đề ở đây là nếu anh thất bại thì tôi có thể chạy đi đâu nào? Hung tinh đêm qua anh cũng thấy rồi đó, anh xem chạy thoát nổi không?!”

Anh ta khẽ nhún vai, ý nói tôi cũng có lý. Suy nghĩ một chút, cuối cùng anh ta nói: “Cậu nói phải, vậy cậu ở lại đi, nhưng phải nghe theo lời tôi đấy.”

Tôi vội vã gật đầu. Anh ta nhìn tôi thở dài một tiếng, lắc lắc đầu nói: “Ngày hôm trước lúc mới tới đây tôi đã nhận thấy ở đây có một luồng oán khí rất nhạt, nhưng lại thấy phong thủy không có vấn đề nên cũng không dám chắc. Nhưng nay xem ra, đúng là không có lửa làm sao có khói.”

Anh ta mân mê khối kiếm cách ngọc trong tay, tư lự một chút rồi nói tiếp: “Thực ra chúng ta đều có thể đoán được, tất cả cũng chỉ là vì kẻ đã nhảy xuống hồ tự tử kia, mà tấm bia đá trong rừng có lẽ chính là thứ cuối cùng hắn lưu lại trước khi chết.” Dừng một chút, anh ta tiếp lời: “Hắn chết thì ôm theo thanh cổ kiếm này, vậy chắc hẳn phải là quý tộc Ngô quốc, hơn nữa nhất định có quan hệ tới Ngũ Tử Tư.”

Tôi hoàn toàn hiểu được cách suy luận của Bạch Dực, đích xác là nếu Phù Sai vẫn còn giữ Câu Nguyệt cổ kiếm trong tay thì chắc chắn thiên hạ cũng không rơi vào tay Câu Tiễn.”

Tôi nói: “Trên tấm bia nói hắn là ‘sĩ vi tri kỉ giả tử’, lẽ nào hắn là vì Ngũ Tử Tư mà nhảy hồ tự vẫn? Mà ôm theo Câu Nguyệt cổ kiếm là vì để trả thù Ngô vương nghe lời gian thần dèm pha mà hãm hại trung lương?”

Bạch Dực lắc đầu: “Cái này không biết, nhưng nếu hắn có thể chết vì tri kỉ thì có thể coi như một người nghĩa sĩ. Cần phải đến đó để xem xem hắn rốt cuộc vì nỗi khổ gì mà giữ hồ này lâu đến vậy còn không tan nổi oán khí, nói không chừng đó mới là cơ hội cứu mạng của chúng ta.”

Tôi sửng sốt nhìn anh ta, cuối cùng cũng hiểu hết, tất cả những gì Bạch Dực suy đoán nãy giờ đều chỉ là dựa trên một tiền đề, đó là kẻ dưới hồ kia phải là một con quỷ “lương thiện”. Phải đi bàn bạc với một con quỷ “có nhân nghĩa”, “có tính người” để hi vọng nó mở cho chúng tôi một con đường sống… Thảo nào mà Bạch Dực muốn tôi về nhà trước, nhiệm vụ này… thật sự quá sức, cho dù là đối với bất kỳ ai.

Bạch Dực nhìn ra suy nghĩ của tôi, xấu hổ húng hắng ho, rồi đến bên giường lay lay Lục Tử dậy. Tên khốn Lục Tử này thật xấu nết ngủ, há hốc miệng ra chảy nước miếng đầy mặt. Bị Bạch Dực đẩy, hắn lăn người một cái, dựng phắt dậy gào thét trong vô thức: “Có khỉ nước! Có khỉ nước tới!!!”

Tôi tát cho hắn một cái vào ót, hắn làm mất mặt tôi quá, chẳng còn nhỏ nhít gì mà sao nhát gan thế không biết! Tôi thở dài nói: “Lục Tử, tôi và anh Bạch Dực bàn xong rồi, cậu về nhà trước đi, ở đây để kệ tụi tôi tự xử lý.”

Hắn cuối cùng cũng tỉnh táo ra, ngồi lại trên giường chùi chùi nước miếng mà nói: “Hai người liệu giải quyết nổi không? Nếu không được thì tớ có biết một ông đạo trưởng Long Hổ Sơn, hay là thỉnh ổng xuống giúp hai người một tay?”

Bạch Dực lắc đầu: “Nước xa không cứu được lửa gần, huống chi có thỉnh ông đạo trưởng đó tới có khi cũng chỉ là hại người ta bị kéo xuống nước thôi. Loại chuyện này nên tự giải quyết thì hơn.”

Lục Tử cúi đầu ngẫm nghĩ một chút, cuối cùng nói: “Thôi được, tớ ở lại đây cũng không giúp được gì, vầy đi, để tớ trở về tra tìm tư liệu về cái hồ này đã, cho dù có phải quật ba thước đất cũng phải biết chuyện về cái hồ quỷ này!” Nói xong không thèm đánh cả răng, chỉ lau lau cái mặt vài cái rồi mặc quần áo biến mất. Nhìn theo bóng lưng của hắn, tôi thực sự không biết hắn là nóng lòng muốn tra tư liệu, hay là vội vàng đào tẩu đây…

03.08.2014 by Pu.Babee <3 Để lại bình luận

Chương 28: Thủ hồ (Tứ)

Sau khi Lục Tử bỏ chạy rồi, trong phòng chỉ còn tôi và Bạch Dực. Anh ta mặc áo khoác, bước ra mở cửa sổ, tiếng chim hót ríu rít liền tràn vào phòng. Tôi loay hoay chuẩn bị vài thứ, mà thực ra là cũng không biết phải mang theo cái gì, vì thế hết nhét cái này vào lại bỏ cái kia ra, chờ Bạch Dực ra rồi cùng đi. Bạch Dực quay lại nhìn tôi, bật cười: “Cậu mang theo nhiều thứ thế làm gì?”

Tôi ra sức nhét một cái cờ lê sắt to vào túi xách, ngẩng đầu đáp: “Chuẩn bị chứ làm gì, vậy chừng nào chúng ta đi kiếm người kia?”

Anh ta nhìn tôi lắc đầu đầy vẻ bất đắc dĩ, dở khóc dở cười mà nói: “Muốn gặp cũng phải chờ đến tối, chứ ban ngày ai mà thèm ra cho cậu gặp. Tôi chuẩn bị đi câu cá đây, muốn đi cùng không?”

Tôi xấu hổ bỏ cái cờ lê ra, mặc áo khoác theo Bạch Dực xuống nhà ăn. Ban ngày người qua lại rất tấp nập, nào là ngư dân giăng lưới đánh cá, nào là những sạp hàng bán đồ lưu niệm nho nhỏ tranh nhau mở cửa. Cảm giác sợ hãi thấp thỏm cũng tan đi ít nhiều nhờ vào bầu không khí náo nhiệt đầy sức sống này. Bạch Dực có vẻ cực kỳ bình tĩnh, gần như không có vẻ gì là bị chuyện đêm qua dọa, kiếm cách cuối cùng vẫn là nằm lại trên người tôi, vì theo Bạch Dực nói, nếu thực sự cuối cùng mà thất bại thì cứ cầm chắc khối ngọc mà cao chạy xa bay, dựa vào chuyện đêm qua cũng có thể thấy, chỉ cần trong tay chúng tôi có ngọc thì hắn không thể trực tiếp uy hiếp tới chúng tôi được, coi như là một cơ hội cuối cùng.

Chỉ nhìn vẻ bề ngoài thì dường như chúng tôi là hai du khách nhàn nhã đi câu cá như mọi người, thế nhưng có trời mới biết sắp tới có thể xảy ra những chuyện kinh khủng gì. Giữa đám dân làng có mấy người thắt dải xô trắng bên thắt lưng, tất cả bọn họ đều cố tình tránh mặt chúng tôi, đến nhìn còn không dám nhìn, làm như sợ bị xui vậy.

Hồ nước vẫn trong suốt hữu tình, Bạch Dực vẫn câu cá thần sầu như cũ. Nhưng tôi không có hứng quan sát, chỉ cúi đầu ra sức suy nghĩ để mong có thể tìm ra cách gì trong mớ bùi nhùi này chăng, nhưng vẫn không có kết quả gì.

Tôi đột nhiên cảm thấy sự yên tĩnh lúc này mới là đáng sợ nhất, đó là một cảm giác hoàn toàn bất lực trước một thế lực vô hình, một loại phó mặc cho số trời. Thời gian trôi qua chậm khủng khiếp, mang theo một cảm giác áp lực kỳ lạ, khiến tôi càng lúc càng cảm thấy như bản thân bị đè bẹp dưới một khối sợ hãi cùng bức bí. Dạ dày tôi chẳng hiểu vì sao mà tự nhiên nhói đau, Bạch Dực thấy tôi biến sắc, vội lo lắng hỏi tôi làm sao vậy.

Tôi không muốn cho anh ta thấy sự yếu đuối của mình, chỉ vì chút áp lực này mà đau dạ dày, liền cắn răng nói: “Không sao cả.”

Anh ta buông cần câu nói: “Vào trong đình ngồi đi, ngoài này gió lớn. Dù sao còn lâu mới tới tối.”

Tôi gật đầu. Mặt hồ đang phẳng lặng chợt gợn gió, mặt nước chập chờn dâng cao lên, nhưng ngư dân ở đây dường như đã quen với hiện tượng này, nên vẫn thản nhiên gỡ lưới, không thèm để ý tới sóng gió. Gió cuốn theo những hạt nước li ti từ mặt hồ hất tung lên trời, khiến không khí càng thêm ẩm ướt. Nhiều du khách đều đứng dậy thu thập đồ dùng quay về nhà trọ, tôi cùng Bạch Dực cũng thu dọn bước vào căn nhà gỗ nhỏ dùng làm chỗ cho khách nghỉ chân trước nhà trọ. Nơi này thực ra là một căn đình nhỏ, tên đặt cũng cực kỳ phong vận cổ xưa: “Chấp thủ đình”. Bên trong có quầy bán một ít đồ ăn lặt vặt. Nhìn thấy nó, tôi mới nhớ cả ngày hôm nay chưa ăn gì, thảo nào dạ dày lại đau. Bèn tới quầy bán hàng, mua một đĩa bánh bao, ăn một cái, cảm giác cả người đều ấm áp hẳn lên.

Nhưng khi tôi quay lại định hỏi Bạch Dực có muốn ăn không thì đột nhiên phát hiện, anh ta đã biến mất đi đàng nào rồi! Lòng tôi hoảng lên, lập tức dáo dác nhìn xung quanh tìm kiếm, lại bất thình lình nhìn thấy bóng Bạch Dực đang chạy thẳng về phía hồ, dường như đã nhìn thấy cái gì đó vậy. Tôi sốt ruột, vội buông đĩa bánh bao xuống, xốc ba lô trên lưng rồi xông ra ngoài đuổi theo.

Gió gào thét mạnh mẽ, tiếng sóng cuộn ào ạt trên hồ tạo thành một thanh âm tràn đầy cuồng nộ lẫn đe dọa. Tôi chạy dọc theo bờ sông thoai thoải, không thèm quan tâm đã đụng phải bao nhiêu người trên đường đi. Nhưng dần dần thể lực của tôi cũng cạn kiệt, đành nửa ngồi nửa đứng trên đất mà thở hồng hộc. Chờ một lúc cho lại sức, tôi gạt mồ hôi lạnh trên trán, muốn tiếp tục chạy theo thì mới nhận ra, Bạch Dực đã hoàn toàn biến mất.

Tôi nhất thời cảm thấy cả sự tồn tại của mình cũng như chao đảo bất an. Vì Bạch Dực rất hiếm, rất hiếm khi bỏ tôi lại một mình. Chỉ khi nào nhìn thấy cái gì đó cực kỳ khẩn cấp, cực kỳ nguy hiểm mới có thể khiến một người bình tĩnh như Bạch Dực phải hốt hoảng. Lúc này chỉ còn có một mình, đột nhiên sự bất an tràn lên. Tôi đứng lên, nhìn bốn phía. Chỗ này là đầu cùng của khu du ngoạn, xung quanh không có bóng khách du lịch. Ngay khi chuẩn bị quay lưng chạy về, tôi lại thấy bóng dáng Bạch Dực đứng bên cạnh tấm bia đá dưới tàng cây trong rừng, trong lòng tôi ngạc nhiên, anh ta tới đó làm gì nhỉ?

Nhưng lúc này đã tìm được anh ta, lòng tôi cũng nhẹ nhõm không ít, vội nghiêng người nhảy qua hàng rào bảo vệ tiến tới bên cạnh Bạch Dực. Cảm giác dưới chân bùn đất ướt nhơm nhớp, nên mãi một lúc sau tôi mới lép nhép lê người tới được. Bạch Dực đang đứng trước tấm bia, xoay lưng lại phía tôi, nên tôi không nhìn thấy vẻ mặt anh ta lúc này, nhưng đoán rằng cuộc chạy việt dã lúc nãy của anh ta phải có lý do chính đáng, nhưng khi tôi vừa định đưa tay kéo tay Bạch Dực về phía mình, chợt từ phía sau… truyền tới một tiếng hét to của Bạch Dực?! Trong tích tắc, mồ hôi lạnh túa ra ướt đầm trán. Giọng nói phía sau là của Bạch Dực, vậy… vậy bóng lưng trước mặt tôi đây là… ai?!

Bạch Dực vẫn không ngừng gọi to sau lưng, nhưng đầu óc tôi lúc này đã mụ mị cả ra, căn bản không nghe được anh ta đang nói gì! Chỉ biết đần người ra đứng chính giữa, giữa hai người Bạch Dực! Thân ảnh đang đưa lưng về phía tôi chợt bắt đầu run lên. Tôi giật thót mình, cảm giác như có một dòng điện vừa truyền vào người mình, từ miệng hắn truyền ra một giọng nói hoàn toàn không giống chất giọng thanh lãnh của Bạch Dực. Tôi cảm thấy, như để đáp lại chất giọng đó, từ bốn phía trong rừng cây có rất nhiều thứ đang sột soạt, sột soạt bò tới. Từng bóng từng bóng đen thui lướt qua, tốc độ nhanh như ma quỷ, trước khi tôi kịp hoàn hồn thì một con khỉ nước đã nhanh như chớp lao vút từ trong bụi cây ra, nhảy xổ vào người tôi. Gần như cùng lúc đó, tôi cũng bị Bạch Dực từ phía sau lưng nhảy tới xô té lăn ra đất. Tôi bị đè dưới người anh ta, cả mặt đập xuống đất, miệng đầy bùn đất. Tôi hốt hoảng nhìn lại phía sau, đúng là Bạch Dực, đang lo lắng nhìn tôi. Tôi lập tức ngẩng lên nhìn về phía tấm bia đá, phát hiện “Bạch Dực” đứng trước đó vẫn không hề động đậy, chỉ có rất nhiều, rất nhiều nước đang tràn ra dưới chân hắn, hắn lúc này giống như một cái bình chứa đầy nước.

Bạch Dực vội kéo tôi dậy, dường như rất ái ngại cho cái mặt đầy bùn của tôi, nhưng hoàn cảnh hiện tại không phải lúc lo lắng chuyện bẩn sạch, Bạch Dực giả trước mặt chúng tôi vẫn không có động tĩnh. Vì thế Bạch Dực liền nháy mắt với tôi một cái, chúng tôi chậm rãi từ từ lùi về phía sau từng chút một, ánh mắt tôi không hề rời khỏi bóng lưng trước  mặt, phát hiện từ người hắn toát ra một loại cảm giác bi ai vì xuống dốc nào đó. Từ trong rừng phát ra một tiếng hú của khỉ nước thê lương rợn cả người, khắc sâu vào màng não của tôi, tựa như tiếng rên rỉ cầu cứu cuối cùng của một linh hồn vừa đọa vào lòng nước thẳm.

Tôi run bắn lên, nắm chắc khối kiếm cách ngọc trong túi, thấp giọng hỏi Bạch Dực: “Sao anh bảo ban ngày hắn không ra được kia mà!”

Bạch Dực rõ ràng cũng rất ngạc nhiên, anh ta đã đánh mất vẻ bình thản thường ngày, giọng nói cũng hơi run lên: “Người này thực sự điên rồi, hắn căn bản là không muốn sống nữa mà, muốn xuất hiện ban ngày một lần là tiêu hao biết bao nhiêu nguyên khí chứ!”

Từ kẻ nọ thoát ra một tiếng thở dài, như thể đã biết ván cược cuối cùng của mình cũng đã thất bại rồi vậy. Nhưng hắn quả thực quá nguy hiểm, nói như Bạch Dực thì khác nào hắn đã chuẩn bị tinh thần cùng chúng tôi đồng quy vu tận? Loại quỷ cực đoan tới mức này tôi cũng mới thấy lần đầu. Nếu hắn là con người thì cũng là một kẻ cảm tử! Tôi e dè nói: “Lão Bạch, anh cho rằng chúng ta có bao nhiêu phần trăm có thể thoát ra ngoài an toàn?” Tôi không phải không sợ, nhưng chẳng hiểu vì sao lúc này lại cảm thấy điềm tĩnh đến thế. Dường như càng nguy hiểm, con người càng bình tĩnh hơn thì phải? Hay là… đây chính là cảm giác chờ chết…?

Bạch Dực chỉ im lặng chốc lát, sau đó thở dài, làm như đã quyết định xong một điều vô cùng khó khăn vậy. Anh ta gật đầu, nói: “Thứ này đã không còn bao nhiêu năng lực của ngày trước nữa, có lẽ toàn bộ nguyên hồn của hắn vốn là bám trên thân kiếm, cổ kiếm bây giờ không được toàn vẹn, cho nên chỉ bằng chút oán khí hiện nay của hắn cũng không đủ để duy trì sức mạnh.” Nói xong, anh ta không lùi lại nữa mà ngược lại, quyết định kéo tay tôi tiến về phía trước. Tôi vẫn rất sợ, chỉ để mặc cho Bạch Dực kéo cả người mình tới.

Con quỷ vẫn đứng đưa lưng về phía chúng tôi, nhưng dường như hắn đang kiêng kị cái gì, vì hai bờ vai càng run dữ dội hơn. Trong lòng tôi có hơi lo lắng, nhưng vẫn để ý chặt bọn khỉ nước lẩn lút xung quanh. Con quỷ này dường như không thể tấn công chúng tôi trực tiếp, cho nên mối đe dọa lớn nhất chính là lũ khỉ nước đang chực chờ xông lên này.

Thế nhưng điều không ngờ nhất là, lũ khỉ nước vừa nhìn thấy con quỷ kia thất thế là từng bước từng bước, bộ dạng vô cùng nôn nóng, nhe nanh múa vuốt tìm cách xiết chặt vòng vây xung quanh hắn, rống từng hồi tức giận. Thanh âm của chúng chói tai tới mức tôi phải nổi hết da gà. Thấy cảnh đó, tôi ngạc nhiên nên kéo tay Bạch Dực hỏi: “Lũ khỉ nước này không phải thuộc hạ của hắn sao? Sao lại có cảm giác như chúng có thâm thù đại hận với hắn vậy?”

Bạch Dực lạnh lùng nhìn xung quanh, vẻ mặt cực kỳ nghiêm túc. Anh ta nói: “Đương nhiên là thâm thù đại hận rồi, đám khỉ nước này kỳ thực chỉ hận không thể cắn chết người này ngay lập tức mà thôi, hắn hại những linh hồn bị chết đuối không được siêu sinh, vĩnh viễn phải ở lại làm khỉ nước bảo vệ cái hồ này cho hắn. Nói theo cách của người phàm trần chúng ta là chế độ độc tài, quan ép dân làm phản đó mà.”

Tôi không hề quan tâm tới cuộc khởi nghĩa nông dân của đám quỷ này, lúc này mạng sống là quan trọng nhất, vì thế bèn nói với Bạch Dực: “Nhân cơ hội chúng nội chiến với nhau, chúng ta chạy mau!”

Nhưng Bạch Dực làm như không nghe thấy, chỉ kéo tôi tới sát bên người, sau đó quay sang nói với con quỷ kia: “Hiện tại, nếu ngươi muốn an toàn thoát hiểm chỉ có cách là lấy lại khối kiếm cách ngọc này mà thôi, đúng không?”

Nam quỷ nghiêng người gật đầu, cho dù bị nhiều khỉ nước vây quanh như vậy mà trông hắn vẫn không có vẻ hốt hoảng nhiều cho lắm, ngược lại có một loại khí phách thấy chết không sờn, khiến tôi không khỏi cảm thấy kính phục vị Quỷ Vương này.

Nhưng vừa nghĩ thế thì một con khỉ nước đã nhảy xổ ra, liều mạng xông tới định cắn hắn. Con quỷ phản ứng cực nhanh, lách mình một cái tránh sang một bên, sau đó ánh đao trên tay hắn lướt qua, con khỉ nước liều lĩnh đã bị hắn chém đứt đầu. Cái đầu vẫn còn nguyên vẻ hung dữ, cái miệng há hốc như muốn rống lên, nhưng tiếng rống đã bị tắc nửa chừng trong cổ họng chỉ còn phát ra một tiếng “hộc” đau đớn, sau đó nó rất nhanh biến thành một bãi nước đen ngòm, đồng thời cả người con khỉ nước cũng tan chảy, chỉ còn một ít nước loang trên đất.

Đám khỉ nước xung quanh nhìn thấy đồng loại chết thảm, đều kêu gào thảm thiết, nhưng không có con nào dám xông lên nữa. Mặc dù tôi phải nói rằng, tuy Quỷ Vương này võ công rất cao, chỉ một cái vung tay đã lấy đầu một con khỉ nước, nhưng nếu cả đám cùng xông lên thì mặc kệ hắn có là Độc Cô Cầu Bại đi nữa cũng chỉ có thể bị xé thành từng mảnh mà thôi.

Bạch Dực chỉ liếc nhìn đám nước một cái, không hề tỏ ra sợ hãi giống tôi, trong mắt kiên định thêm vài phần, như thể những phán đoán trước đây của anh ta nay đã được xác thực vậy. Bạch Dực trấn tĩnh quay lại kẻ kia nói: “Đã như vậy, cả hai bên chúng ta đều là tiến thoái lưỡng nan, chúng ta trả thứ kia lại cho ngươi, nhưng ngươi phải thả chúng ta đi, đối với chúng ta mà nói thứ kia bất quá chỉ là một cục đá mà thôi.”

Tôi thật không ngờ Bạch Dực dám ra điều kiện một cách thẳng thừng như vậy, nhưng hiển nhiên nam quỷ có vẻ rất cân nhắc những lời này, hắn cúi đầu suy tư một chút rồi lên tiếng, giọng nói của hắn còn rất trẻ, nhưng ngữ điệu cực kỳ cổ quái, nếu không phải đang ở trong hoàn cảnh này thì chắc tôi đã phá lên cười, nhưng lúc này, từng lời từng chữ của hắn đều quyết định vận mạng của chúng tôi.

Thế nhưng điều kỳ quái nhất là tiếng nói của hắn dường như phát ra từ tấm bia đá, chứ không phải từ chính cái bóng của hắn, hắn lạnh lùng nói: “Trả thần vật cho min.[1]”

Tôi nghe như hắn đang diễn tuồng, nhưng cũng may là còn hiểu được, nếu hắn mở miệng, tức là còn cơ hội thương lượng với nhau. Vì thế tôi cũng tiếp lời: “Thần vật mà ngươi nhắc tới phải chăng chính là khối kiếm cách bằng ngọc trên thân Câu Nguyệt cổ kiếm?”

Hắn gật đầu, từ từ xoay người lại, khi tôi nhìn thấy khuôn mặt của hắn, hắn đã không còn mang dáng dấp Bạch Dực nữa, mà là mặc một thân trường bào trắng toát, bên hông thắt đai lưng theo kiểu người cổ đại. Trên đầu hắn đội lễ quan phục sức kiểu thời Xuân Thu, hai sợi tua thả hai bên, cột lại dưới cổ. Gương mặt hắn có thể nói là còn rất trẻ, dường như còn nhỏ hơn tôi vài tuổi, nhưng tại thời cổ đại có lẽ đã qua tuổi nhược quán[2], chỉ có điều trên gương mặt trẻ trung là vậy mà lại mang theo một vẻ tang thương không thể hiểu nổi. Tay phải hắn cầm một thanh kiếm mục nát hoen gỉ như đồng nát, thực sự không dám tin đó chính là thanh kiếm đã chém đứt đầu con khỉ nước lúc nãy. Hắn lạnh lùng  nhìn chúng tôi, nhưng khi nhìn sang Bạch Dực, đột nhiên cả người hơi sững lại, rõ ràng là giật mình. Nhưng cũng rất nhanh khôi phục lại vẻ bình thản ngạo nghễ trong mắt.

Cơ thể hắn vẫn tiếp tục rĩ nước, đất xung quanh đã bị hắn làm cho ướt sũng. Bạch Dực lạnh nhạt nói với hắn: “Ngươi chính là con trai út của Phù Sai, Ngô Cô Miệt phải không.”

Tôi vừa nghe lập tức sững sờ, đứng trước mặt tôi đây chính là đứa con cuối cùng của Ngô vương Phù Sai từ mấy ngàn năm trước ư? Như vậy, hắn chính là vương tử của Ngô quốc rồi?

Hồn ma nghe thấy có người gọi đúng tên của mình bèn hơi run lên, nhưng dù vậy thì hắn vẫn đĩnh đạc mà đứng yên, trong tay nắm chặt thanh Câu Nguyệt cổ kiếm đã loang lổ. Hắn nhìn chúng tôi, trong mắt ẩn ẩn hoài niệm, bắt đầu lên tiếng kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện có từ thời Ngô quốc.

Ngô vương lúc đó điên đảo vì Tây Thi, tin tưởng gian thần mà tước hết mọi quyền hành của Ngũ Tử Tư. Còn hắn tuy là vương tử của Ngô vương, nhưng lại không phải là trưởng tử, không có bao nhiêu quyền hành, cuối cùng chỉ biết trơ mắt nhìn vị thầy học đáng kính của mình là Ngũ Tử Tư bị tước hết binh quyền, sau đó lại bị bức tử, thi thể cũng bị quấn vào chiếu đem vứt xuống sông. Hắn lúc đó không quyền không thế, tuy muốn cứu thầy, nhưng cũng không có cách nào lay chuyển nổi quyền lực của đám gian thần, không có cách nào cảnh tỉnh được phụ vương đã bị tửu sắc làm mờ mắt.

Hắn nghĩ tới những lời cuối cùng của Ngũ Tử Tư, rằng ông còn thì Ngô quốc còn, ông mất thì Ngô quốc vong, lại nhìn quê hương lay lắt như ngọn đèn trước gió, vận mệnh quốc gia sắp mất, vì vậy vừa mang tang thầy, vừa sắp mất nước, hai chấn động nặng nề đối với vị vương tử trẻ tuổi của nhà họ Ngô————-rốt cuộc, hắn đã mang theo hi vọng cuối cùng, Câu Nguyệt cổ kiếm mà nhảy xuống sông tự vận. Hắn mong muốn có thể bảo vệ được thanh kiếm này dưới hồ, bảo vệ trụ cột cuối cùng của quốc gi, dùng thần binh lợi khí giữ lấy mong ước cuối cùng, lưu lại ranh giới thiên lý mà các bậc tiền nhân đã dày công chiếm giữ.

Hàng trăm hàng ngàn năm sau đó, hắn vẫn một mình thủ giữ một khoảng hồ mênh mông, giữ kiếm, đó đã trở thành ký thác cuối cùng của linh hồn hắn. Dần dần, linh hồn hắn và kiếm đã hòa thành một thể, mà tất cả những oan hồn chết đuối trên sông, vì oán khí thiên cổ không tán tích tụ trong kiếm mà đều không thể siêu sinh, vĩnh viễn hóa thành khỉ nước làm con rối cho hắn điều khiển. Khỉ nước có được linh khí từ kiếm, có thể theo thủy triều mà lên bờ. Hắn dùng lũ khỉ nước này để bảo vệ cho giang san Ngô quốc đã sớm tan thành mây khói từ lâu. Trong mắt hắn, đất này vẫn là đất Ngô, mà hắn, vẫn là vương tử của nó. Chỉ bất quá, sự bi ai của hắn bị thời gian làm cho méo mó, đã sớm biến thành oán khí. Mà oán khí cũng trở thành bức tường bảo vệ cuối cùng cho bảo kiếm, bất kỳ ai thấy được, hay cầm được bảo kiếm trong tay đều bị vị vương tử lãnh khốc này kéo xuống hồ chết chìm, lại tiếp tục hóa thành khỉ nước, bảo vệ cho thanh kiếm.

Tôi cảm thấy có chút bi ai đối với hắn, nhưng vẫn không thể không đề phòng, bởi vì sự tàn khốc của hắn không khỏi làm tôi lạnh cả xương sống. Chỉ bởi vì một thanh kiếm hoen gỉ, hắn đã giết không biết bao nhiêu người từng tiếp xúc với kiếm, ngay cả đứa bé vừa qua đời không bao lâu kia. Tôi kéo tay Bạch Dực từ từ lùi lại phía sau, tìm một vị trí dễ bỏ chạy nhất. Nhưng giọng nói cũng bất giác mà ôn hòa hơn nhiều, tôi nói với hắn: “Nếu ngươi muốn bảo vệ cổ kiếm, ta có thể dùng chính mạng mình ra đảm bảo sẽ không bao giờ để lộ tin tức kiếm đang ở đây đâu. Thứ đó vĩnh viễn là của ngươi.”

Vừa nói tôi vừa nhìn Bạch Dực, thấy anh ta gật đầu. Bạch Dực cũng quay sang nói với vương tử: “Thứ kia là của ngươi, ta dám dùng linh hồn mình mà đảm bảo. Ngươi cứ tiếp tục bảo vệ quốc gia của riêng ngươi, hoàn thành mộng anh hùng đi.”

Quỷ vương tử nghe thấy Bạch Dực đảm bảo, lúc này mới gật đầu, chìa lòng bàn tay ra, có vẻ như muốn cùng chúng ta đạt thành khế ước. Trong lòng tôi không khỏi có chút ấm ức, vì sao lời của Bạch Dực thì lại đáng tin như thế, mà lời tôi nói lại không có kí lô nào là sao?!

Bạch Dực lấy khối kiếm cách ngọc từ tay tôi, hướng về phía người kia mà ném sang, lần này là ném thật. Tôi nhìn theo khối ngọc bay một đường vòng cung, cuối cùng rơi vào lòng bàn tay người kia. Hắn vừa nắm được nó trong tay, lũ khỉ nước xung quanh liền như nhìn thấy cái gì đó cực kỳ kinh khủng mà nhốn nháo bỏ chạy hết vào trong hồ, vừa chạy vừa nhìn theo chúng tôi rống lên đầy oán hận. Nhưng không có con nào dám can đảm ở lại. Ngô Cô Miệt vẫn chăm chú cầm khối ngọc trong tay, nhìn theo đám khỉ nước đang hốt hoảng bỏ chạy, dần dần trên gương mặt tái nhợt của hắn chảy xuống một dòng nước mắt, run rẩy lên tiếng: “Ta chỉ muốn trở thành một anh hùng giống như các tổ phụ, bắn rơi thiên hạ, bá nghiệp ngàn thu. Nhưng mà nay, chỉ còn là một oan hồn, ta đã chờ ở đây quá lâu rồi… cũng mệt mỏi quá rồi, cuối cùng, vẫn không sao trở thành một anh hùng được. Thế nhưng ta không thể buông tay, đã không còn buông tay được nữa. Chúng nó chỉ có thể cùng ta bảo vệ cái hồ này, cho dù phải mang theo oán hận nặng nề tới mức nào đi nữa, ta vẫn phải tiếp tục trấn thủ ở đây! Thanh kiếm này, ta sẽ không để cho nó xuất hiện lần thứ hai trên đời này nữa!”

Nói xong gương mặt của hắn bắt đầu biến đổi, gương mặt vốn thanh tú đột nhiên trũng xuống, dần dần tan chảy hết chỉ để lộ bộ xương vàng ệch bên trong, tóc cũng biến từ màu đen sáng thành khô vàng như cỏ cháy, từ người hắn tràn ra một mùi xác chết rất khó ngửi, cuộn lại với nhau thành một lớp sương mù đen đặc bao quanh người. Nhưng ánh mắt của Ngô Cô Miệt vẫn cao ngạo điềm tĩnh như cũ, hắn nắm chắc thanh kiếm trong tay, nhìn chúng tôi chăm chú như thể nhắc cho chúng tôi nhớ về lời hẹn ước. Dần dần bàn tay nắm thanh kiếm cũng hóa thành một lớp xương khô. Bảo kiếm thoát khỏi tay, rơi xuống nền đất ẩm.

Bạch Dực nhìn hắn bằng một cái nhìn phức tạp, cuối cùng, mở miệng nói: “Thanh kiếm này vĩnh viễn thuộc về ngươi, sẽ không ai trong chúng ta lấy nó đi đâu, bởi vì thời này không còn cần anh hùng nữa.”

Cuối cùng, vị vương tử Ngô quốc chỉ còn là một bộ xương khô được bọc trong y phục. Lời hứa cuối cùng của hắn là sẽ không tìm tới chúng tôi nữa. Tôi nghi ngờ nhìn sang Bạch Dực, nhưng chỉ thấy anh ta gật đầu: “Hắn cho dù đã chết thì vẫn là một vị vương tử, đồng thời, còn là một anh hùng rất cố chấp với lý tưởng của mình.”

Đúng là như thế, cho dù đã biến thành quỷ, hắn vẫn mang theo một bản tính cao ngạo trời sinh. Ta không hiểu sự ngạo mạn này là vì cái gì, nhưng dù sao hiện giờ hắn cũng chỉ còn là một làn khói xanh, để lại bảo kiếm xác xơ nằm chỏng chơ trên đất. Nhưng chúng tôi vẫn phải tuân thủ theo đúng lời hứa với hắn, nếu không chẳng biết lúc nào sẽ bị hắn kéo chân chết đuối, biến thành khỉ nước vĩnh viễn không thể siêu sinh nữa.

Bạch Dực bước sang, cầm lấy cả bảo kiếm lẫn kiếm cách, dùng sức ném mạnh nó vào hồ, kiếm rơi vào trong hồ, vang lên một tiếng rung kỳ lạ rồi từ từ chìm vào lòng nước. Tôi không biết liệu có ngày nào nó còn có thể nhìn thấy ánh mặt trời lần nữa hay không, nhưng chí ít nó còn có một người vì nó mà không quản ngày đêm thủ hộ. Vì bảo kiếm, linh hồn cô độc đáng thương đó sẽ không biết còn muốn thủ hồ đến bao giờ. Hay cũng có thể, từ đầu kiếm đã không cần có người bảo vệ, vì với kiếm mà nói, thế giới này có biến hóa ra sao căn bản cũng không có gì quan trọng.

Tôi ngơ ngẩn nhìn mặt hồ hồi lâu, thình lình bị Bạch Dực gõ lên đầu một cái. Còn chưa kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra đã nghe anh ta tức giận mắng: “Thấy bóng người là lập tức chạy bổ sang, bảo cậu ngốc, chi bằng bảo cậu không có đầu óc còn đúng hơn!”

Tôi vuốt vuốt chỗ bị cốc, nhìn dáng vẻ tức giận của Bạch Dực, hóa ra chỉ là vì chuyện này. Tôi lườm anh ta một cái nói: “Đương nhiên phải đuổi theo chứ, lỡ như anh xảy ra chuyện gì thì chẳng lẽ tôi phải một mình gánh chịu sao!”

Khóe mắt Bạch Dực hơi giật giật, chuyện này rất hiếm khi xảy ra, muốn một kẻ mặt đơ như anh ta nổi giận cũng cần phải có tài năng lớn. Tôi tiếp tục nói: “Mà lẽ nào thấy bóng dáng của tôi anh lại không chạy theo sao?”

Nghe thấy tôi nói thế, Bạch Dực tự nhiên nghẹn lời. Tôi đột ngột  nhớ ra, vội vàng nói với Bạch Dực: “Chết bà, tôi bỏ lại đĩa bánh bao mua hơn mười tệ ở chỗ đình rồi! Tôi còn chưa kịp ăn mấy cái mà!!!”

Nói xong lập tức kéo Bạch Dực chạy về, trong lòng chỉ nghĩ đến bánh bao nên chỉ nghe loáng thoáng Bạch Dực nhẹ nhàng nói: “Nếu tôi không buông tay, cậu sao có thể chạy thoát khỏi tôi chứ!”

Tôi quay lại nhìn vẻ mặt thản nhiên của anh ta mà nhăn nhó nói: “Ừ thì tôi chạy không thoát, nhưng nếu bánh bao của tôi mà mất là anh đền cho tôi đấy, chạy nhanh lên!” Bạch Dực bị tôi lôi theo đột nhiên trở tay cầm lấy tay tôi, nhẹ giọng bật cười, tăng tốc độ kéo tôi cùng chạy về phía căn đình ban nãy.

Thủ hồ – Hoàn

[1] Ở đây nguyên tác là “ngô”, là cách xưng hô của giới quý tộc thời xưa tại Trung Quốc, Lục Mịnh cố tình thay bằng “min”, là cách xưng hô cổ của người Việt. (Truyện Kiều có câu “Thôi thôi cướp sống chồng min đi rồi” của Hoạn Thư)

[2] Tức khoảng 20 tuổi. Ngày xưa còn tính cả tuổi ta, cho nên 20 tuổi ngày xưa chỉ chừng 18, 19 bây giờ.

___________________________________

Bạch thiếu gia, anh là ai ^^~

Chương 29: Kẻ báo tử (Thượng)

“…Con người không có cách nào thay đổi tương lai, chỉ có thể nhìn bánh xe vận mệnh từ từ lăn mà không có cách nào thay đổi. Sâu róm cho dù cuối cùng có biến thành bướm đi nữa thì chờ đợi nó ở cuối đường vẫn chỉ là cái chết. Đứng trước cái chết, bất kỳ ai cũng cảm thấy bất lực, yếu ớt đến tội nghiệp…”

Rầm! Tiếng đập bàn vang lên từ cái bàn làm việc sát bên cạnh tôi, cả phòng giáo viên liền ngẩng lên hướng về phía cô giáo Lâm đang tức giận đỏ cả mặt.

“Trẻ con bây giờ sao mà toàn viết những thứ vớ vẩn thế này không biết, đúng là suy nghĩ quá tiêu cực mà!”

Cô giáo Lâm là một cô giáo lớn tuổi, đã dạy học ở trường này mấy chục năm rồi, có thể nói là giáo viên có thâm niên nhất chỉ sau Phan hói, cũng là giáo viên có tiếng nghiêm khắc nhất. Năm nay là lần thứ tám cô có cơ hội được nhận danh hiệu “Nhà giáo ưu tú”, nhưng cơ hội này xem ra đã sớm hóa thành bọt nước với một bài văn như vậy.

Đứng đối diện cô là một cô bé học lớp Tám 4. Hai đầu vai cô bé run nhè nhẹ, hiển nhiên là bị vị giáo sư thịnh nộ trước mặt làm cho sợ mất mật, chỉ biết cúi đầu đỏ mặt, nhìn rất đáng thương. Cô giáo Lâm lạnh lùng nhìn cô bé chằm chằm, cao giọng nói: “Nhạc Lan! Em tuổi còn nhỏ như vậy, làm sao có thể suy nghĩ tiêu cực như thế được! Tôi thì không cần danh hiệu Nhà giáo ưu tú gì đó cũng được, nhưng em! Em cứ như thế thì tương lai sau này biết thế nào!”

Cô bé có tên Nhạc Lan kia ban đầu là sợ giật cả mình, sau đó cắn chặt môi, không nói gì mà chỉ gật gật đầu, ra vẻ có nghe. Cô giáo Lâm, để đối phó với loại học sinh không muốn lên tiếng thường có một chiêu là “mời phụ huynh”, sau đó sẽ nói với phụ huynh những dự đoán thê thảm về tương lai của học sinh, để phụ huynh có thể thay thế cho cô mà về nhà “giáo dục” lại con em mình.

Quả nhiên, lần này cô cũng trừng mắt với Nhạc Lan, lạnh lùng nói: “Ngày mai gọi cha mẹ em lên nói chuyện với tôi!”

Nhạc Lan ngẩng phắt đầu lên, trong mắt tự nhiên toát ra một tia lạnh lẽo, nhưng sau đó lập tức quay về vẻ ngoan ngoãn sợ sệt mà nhẹ giọng đáp: “Thưa cô, mẹ em… mẹ em bị bệnh không tới được…”

Cô giáo Lâm ra vẻ không quan tâm, hừ lạnh một tiếng, lật sổ giáo án mà nói: “Vậy gọi cha em tới, để tôi hỏi cha em xem là nên làm gì với em bây giờ! Nhỏ như vầy đã suy nghĩ kiểu đó, lớn lên chẳng biết còn ra thế nào nữa!”

Khi Nhạc Lan còn đang do dự như không biết phải nói sao thì Phan hói đã đẩy cửa bước vào, lão nhìn thấy Nhạc Lan, lập tức quay sang nói với cô giáo Lâm: “Cô Lâm, cô bé này có hơi đặc biệt chút, vầy đi, trước tiên để Tiểu An đưa cô bé về nhà đã, bảo cô bé viết bài văn khác nộp cho cô, còn tôi có chuyện cần nói với cô một chút.”

Tôi đang cầm sách vở chuẩn bị về, tự nhiên lại rước phải phiền toái mang tên “đi thăm hỏi gia đình học sinh” này. Đối với nhiều giáo viên, việc đến thăm gia đình học sinh chẳng khác nào một loại tăng ca biến tướng. Có nhiều học sinh ở rất xa, vậy mà còn phải lê thân tới, mục đích là báo cáo tình trạng không tốt của học sinh cho phụ huynh biết, vậy mà thái độ còn phải thành khẩn, giọng nói phải chân thành, bằng không phụ huynh sẽ khó chịu. Nói không chừng đi nửa ngày, tới nơi chưa được đãi chén trà nào đã bị hốt ra cửa. Lòng tôi chán nản cảm thán nghĩ thầm: quả nhiên lão già này toàn đem phiền phức tống hết lên người tôi thôi. Tôi liếc sang Bạch Dực, không ngờ ngay giờ khắc quan trọng này mà anh ta lại gục mặt lên bàn, chơi trò giả ngủ với tôi! Tôi căm tức nhìn anh ta, đúng là trước nguy hiểm sinh tử thì bạn bè đều là đồ bỏ mà! Tôi do dự đứng lên bước sang bàn làm việc của cô Lâm, Nhạc Lan vẫn cúi thấp đầu nhìn chằm chằm vào cái khăn quàng đỏ trên ngực, trông rất đáng thương.

Phan hói sai bảo tôi đã quen, nên lập tức vẫy vẫy tay kêu tôi tới vỗ vỗ lên bài làm văn của cô bé mà nói: “Thầy An, thầy đưa trò này về nhà, nhân tiện chỉ cho cô bé viết lại bài văn khác. Trò này có hơi đặc biệt một chút, coi như nhân tiện kiểm tra xem thầy có đảm đương được trách nhiệm của một giáo viên hay không!”

Tôi cầm lấy bài văn, trong lòng thầm chửi một câu thật độc, nhưng ngoài mặt vẫn nghiêm túc gật đầu bảo chứng với cô giáo Lâm: “Xin thầy cô yên tâm, tôi sẽ chỉ bảo cho em ấy cẩn thận.”

Nói xong bèn khoác ba lô, ôm sách vở ra khỏi phòng làm việc, Nhạc Lan lẽo đẽo theo phía sau, đầu vẫn cúi thấp. Kỳ thực lúc này vẫn còn 5 phút mới tới giờ tan học, nhưng lại phải đeo theo trách nhiệm “sửa đổi” cho tư tưởng tiêu cực của cô bé này. Tôi khẽ thở dài chán nản, loại chuyện này thường không tới phiên tôi làm, nhưng không hiểu sao Phan hói có vẻ kiêng dè cô bé này, nên cứ theo lệ cũ bắt nạt ma mới mà quẳng gánh sang cho tôi. Nói là kiểm tra, chẳng qua là nếu tôi có làm sai đi nữa, bị mắng cũng không làm ảnh hưởng tới danh tiếng của lão.

Theo thói thường mà nói, một đứa bé như thế này sẽ bị Phan hói mắng xối xả, nhưng hôm nay lão lại đích thân đứng ra làm hòa, lại còn muốn tôi đưa cô bé về nhà. Vì thế tôi không nén được tò mò mà quay sang nhìn Nhạc Lan, sắc mặt cô bé tái nhợt, có vẻ rất yếu ớt, mái tóc khô vàng rối bù buộc thành một cái đuôi ngựa sau gáy, đồng phục có hơi bẩn, trên ngực áo có mấy vết dơ. Mà quái dị nhất là vầng trán của cô bé có hơi cao hơn những đứa bé cùng tuổi khác, nên nhìn hơi kỳ quặc. Tôi không thể nhìn thấy được mắt cô bé, cả cái đầu của cô bé cứ như một khối cầu tròn đặt trên cái cổ vậy.

Đưa cô bé về tới lớp, lúc này có mấy bạn đang ở lại trực nhật sau giờ học, Nhạc Lan yên lặng bước vào phòng lấy cặp, tôi đứng bên ngoài cửa đợi, chợt nghe tiếng nói chuyện từ bên trong phòng vọng ra.

“Nhạc Lan, đừng ăn nói bậy bạ nữa, đúng là đồ phù thủy!”

“Đúng, thấy mà ghê, cậu xem nó kìa, vừa xấu vừa bẩn như vậy, sao lại cho nó vào lớp tụi mình không biết nữa à!”

“Thấy ghét, làm hại Lâm lão thái chửi lây sang cả tụi mình, bảo nó làm văn, nó lại viết ba cái thứ quái dị đó!”

Nhạc Lan làm như không hề nghe thấy gì, đeo túi xách lên lưng, vừa đi vừa nhét vội mấy cuốn sách vào túi, nhanh chóng ra khỏi phòng học, sau đó ngẩng đầu lên nói với tôi: “Chúng ta đi thôi ạ, em biết thầy cũng không muốn đưa em về nhà, không sao đâu, thầy đưa em tới cửa trường là được rồi ạ.”

Vừa nghe thấy những lời này, đúng với ý mình hết sức, nhưng càng vì thế mà càng cảm thấy xấu hổ, bị một cô bé mới có tí tuổi đầu bắt nọn đúng là quá sức mất mặt.

Tôi ho khan hai ba tiếng, làm ra vẻ nghiêm túc mà nói: “Thầy thực sự muốn tới nhà em xem thử mà, xem xem vì sao em lại viết văn như vậy!”

Nhạc Lan không thèm giả vờ tội nghiệp nữa, sắc mặt thoáng một cái chợt trở nên rất lạnh lùng, suy nghĩ một chút rồi nhạt nhẽo nói: “Em chỉ nói sự thực thôi mà, nói dối thì còn có ý nghĩa gì nữa chứ? Hừ, ai đời lại ra đề bài là ‘Nếu có thể thấy trước tương lai’! Đề bài ngu ngốc như vậy đúng là chỉ có cô Lâm mới nghĩ ra được. Thầy có thể  nhìn thấy được tương lai sao? Mà nếu thấy đi nữa thì có thể thay đổi được cái gì?!”

Tôi nghe cô bé hỏi mà sững cả người, chỉ biết ngơ ngác theo chân cô bé ra cửa. Cô bé ngừng bước, quay lại nói: “Thầy An, thầy về đi, em tự về được rồi.”

Nói xong lại cắm đầu đi tiếp, tôi nhìn theo đứa bé này, lòng ngập tràn quái dị, những lời vừa rồi lại được thốt ra từ miệng của một cô bé học tiểu học sao? Rất cực đoan, nhưng lại rất chân thực. Huống chi nếu không chịu tới nhà gặp phụ huynh, chắc sẽ bị Phan hói dũa chết mất…

Nghĩ vậy, tôi nhìn theo Nhạc Lan đang đi càng lúc càng xa, lập tức nhanh chân chạy theo. Tuy tôi không phải là người tốt tới mức nhiệt huyết tràn đầy làm chuyện bao đồng, nhưng dù sao cũng là công tác cấp trên giao cho, chỉ có thể hoàn thành mà thôi. Huống chi một thầy giáo mà bị học sinh nói cho như vậy, cũng không xứng làm thầy người ta.

Ai ngờ Nhạc Lan tự nhiên dừng lại, dựa hẳn nửa người vào cột điện mà trượt dần xuống. Tôi hốt hoảng nghĩ thầm: cô bé này có bệnh à, rồi vội vàng chạy tới đỡ.

Gân xanh trên trán Nhạc Lan hằn hết cả lên, mồ hôi hột túa ra như tắm. Tôi kéo cô bé dậy, nhưng cô bé đã khoát khoát tay: “Em… em không sao… em bị tuột huyết áp, thầy có mang theo kẹo không?”

Tôi là một đại nam nhân, đâu có bao giờ mang theo kẹo ra khỏi nhà, mà nhìn cô bé sắc mặt càng lúc càng tái đi, cũng không biết phải làm sao, đành cuống quít nói: “Em cứ vầy không được đâu, để thầy đưa em đi bệnh viện!”

Nhưng cô bé đột nhiên hoảng hốt cả lên, lắc đầu như điên, cắn răng đẩy mạnh tôi ra, chỉ ra sức dựa vào chính sức lực của mình mà đứng lên, cương quyết nói: “Không đi! Em không sao! Thầy đi đi!”

Tôi gãi gãi đầu, nhìn xung quanh đó, đã có mấy người qua đường hiếu kì đứng lại xem, tôi bối rối nhìn tứ phía một lúc, phát hiện bên kia đường có một quán đồ ăn nhanh, bèn nhanh chóng quyết định: “Lúc này em cũng không có sức ma về, chúng ta sang bên kia đường ăn một chút đi, ít ra có thể giúp em đỡ mệt.”

Nhạc Lan nhìn sang quán ăn, vẫn có vẻ cực kỳ do dự. Tôi phải làm ra vẻ “em mà không ăn là thầy gọi cấp cứu” mới khiến cô bé run rẩy gật đầu đồng ý. Vì thế tôi lập tức đỡ cô nhỏ, nhanh chân chạy tới quán.

Tôi gọi một vài món có nhiều đường, sau đó quay lại đưa cho Nhạc Lan. Cô bé lúc này yếu tới mức không có đủ sức để xé giấy gói, nhưng khi tôi định đưa tay ra giúp cô bé mở thì cô bé đã trừng mắt với tôi, run run dùng hàm răng mình xé bao gói ra. Tôi trợn mắt kinh ngạc nhìn: một cô bé con mà có thể quật cường tới như vậy!

Lúc này trong quán có rất nhiều khách, đa phần đều là học sinh về học ghé qua ăn quà vặt, tiếng cười lảnh lót như chuông bạc vang khắp quán. Chỉ có cô bé đang ngồi trước mặt tôi đây, sắc mặt tái nhợt như vừa từ trong quan tài chui ra, vì yếu quá nên ngay cả sức nhai cũng không có, chỉ có thể từ từ cắn từng chút từng chút một, khó khăn nuốt xuống, nhưng nhờ có đồ ngọt mà sắc mặt cũng dần dần khá hơn trước, không tới nỗi dọa người như lúc nãy.

Lúc này tôi mới có thời gian để ngắm tỉ mỉ cặp mắt của cô bé, một đôi mắt khác thường, dù đôi mắt của tôi cũng không giống mắt người bình thường lắm, mắt trái có màu nhạt hơn mắt phải, pha thêm một chút màu xanh lam. Ba tôi nói là do di truyền, mắt bà nội tôi, trước khi bị mù cũng có màu xanh đen như vậy. Nhưng đôi mắt của cô bé này hoàn toàn khác biệt. Nhìn lâu vào mắt cô bé, người đối diện sẽ phải cảm thấy một cơn sợ hãi khác thường, thấy cả người như lạnh buốt. Đôi mắt của cô bé đặc biệt đen thẳm, hơn nữa gần như không hề phản chiếu ánh sáng, nhìn vào cứ như hai cái động không đáy, lộ ra một vẻ vô hồn đến lạ lùng.

Lúc này cô bé đã khỏe lại chút ít, sức ăn cũng dần dần nhanh hơn, cả bao khoai tây chiên cũng đã ăn gần hết. Tôi có cảm giác dường như đứa bé này đã bị đói lâu ngày, cho nên ra mua thêm cho cô bé thêm hai phần nữa, để cô bé từ từ ăn. Ăn được nửa chừng, Nhạc Lan ngẩng đầu lên hỏi tôi: “Thầy An, sao thầy không ăn ạ?”

Tôi sờ sờ đầu, cười: “Có người ở nhà nấu cơm rồi, thầy mà ăn bây giờ sợ lát nữa ăn không vào mất.”

Trong mắt cô bé thoáng hiện lên một tia ước ao, chậm rãi nói: “Thật tốt, là thầy Bạch nấu cho thầy ăn đúng không ạ?”

Tôi cười cười gật đầu: “Đúng vậy, thầy Bạch Dực nấu ăn ngon lắm đó, bữa nào em cũng đến ăn thử đi, có khi còn ngon hơn cơm ba mẹ nấu ấy chứ!”

Nghe tới hai chữ “ba mẹ”, cô bé tự nhiên run lên, đôi mắt đen thẳm lần đầu tiên nhìn thẳng vào tôi, sau đó nhẹ nhàng nói: “Thầy rất thích thầy Bạch, đúng không ạ?”

Tôi đột nhiên cảm thấy bối rối, một câu hỏi thế này thì nên trả lời ra sao đây? Thích? Một người con trai thích một người có cùng giới tính với mình? Sao nghe thế nào cũng như “sai lầm” ở đâu ấy nhỉ? Tôi vuốt vuốt tóc, dời ánh mắt ra ngoài cánh cửa kính mà đáp: “Em hỏi lạ thật đấy. Ý em là quan hệ của chúng ta thân thiết lắm à?”

Cô bé cắn một miếng bánh, lắc đầu: “Không phải, mà là nếu như thầy để ý tới bữa cơm mà người đó nấu cho mình như vậy, tức là thầy rất thích người ấy.”

Tôi nghe thế, lập tức đỏ bừng mặt, vờ ho khan vài tiếng, xấu hổ nhìn lên bức tranh trang trí treo trên tường. Trong đầu tôi hiện lên vài lần Bạch Dực cứu tôi, trong lòng có một thứ cảm tình không thể diễn tả thành lời. Nhưng thứ cảm tình này… dường như còn có pha lẫn thêm một chút khác lạ nào đó. Tôi chỉ biết lấy ngón tay miết miết cánh mũi, che gương mặt đỏ hồng của mình mà cười cười: “Nói vậy… ha ha… vì thầy Bạch Dực và thầy đã từng vào sinh ra tử bên cạnh nhau, cho nên đương nhiên phải… thân thiết rồi. Đương nhiên rồi…”

Nhưng Nhạc Lan có vẻ như không quan tâm đến những gì tôi nói, chỉ máy móc nhai đồ ăn trên tay, tiếp tục lẩm bẩm một mình: “Có người chờ thầy về nhà ăn, mà thầy cũng vui vẻ trở về. Thật tốt, như vậy sẽ không cô đơn…”

Tôi còn chưa kịp hiểu cô bé đang nói gì thì Nhạc Lan đột ngột hỏi ngược lại tôi: “Thầy, nếu như thầy Bạch chết đi, thầy có cảm thấy đau lòng không?”

Lần này không phải chỉ là giật giật khóe mắt mà cả gương mặt của tôi đều nhăn nhúm lại, con bé này sao toàn suy nghĩ những chuyện quái gở vậy không biết? Tôi có hơi giận, liền không nhịn được mà hơi cao giọng: “Thầy ấy làm sao chết được, thần Bạch Dực còn khỏe mạnh bình thường như vậy, làm sao có thể tự nhiên lăn ra chết? Sao trong đầu em toàn những suy nghĩ khó hiểu như vậy?”

Ánh mắt Nhạc Lan có hơi thất vọng, làm như không thấy tôi khóc lóc bảo rằng mình sẽ đau lòng thì con bé không được vui vậy, chỉ hơi lắc lắc đầu: “Thầy không biết đâu, thực ra, có thể thấy trước tương lai là một chuyện rất kinh khủng…”

Tôi cũng cảm thấy muốn thay đổi suy nghĩ của cô bé này không phải là chuyện một sớm một chiều, bèn nhìn đồng hồ đeo tay rồi nói: “Ừm, vậy đi, nếu em đã đỡ mệt rồi thì để thầy đưa em về nhà.”

Cô bé lấy khăn lau miệng, cầm túi xách, bỏ chỗ thức ăn còn thừa lại vào đó rồi đứng lên bước ra đường, có ý bảo tôi đi theo.

Nhà Nhạc Lan đúng là rất xa, cô bé dẫn tôi lên chuyến xe bus quen thuộc, đi tới một căn ngõ cũ, nhà cửa ở trong đó phân nửa đã bị dỡ bỏ, có vài nhà còn bị dán lên cửa tờ giấy ghi dòng chữ “Nhà bị cưỡng chế di dời”, phía bên trong toàn là những khu nhà lụp xụp làm chỗ trọ cho những người tỉnh khác tới thành phố làm ăn. Cột điện dùng để phơi chăn, thậm chí có vài nhà còn không biết xấu hổ mà phơi cả đồ lót nữ ra ngoài. Tất cả bọn họ đều làm như không thấy Nhạc Lan, thậm chí có người vừa nhác thấy cô bé từ xa bước tới đã hốt hoảng chạy vào nhà đóng chặt cửa lại.

Nhạc Lan chỉ nhìn thoáng qua, không nói gì. Chỉ thành thục mở cánh cửa sắt, dẫn tôi bước vào một căn phòng tối như mực, phía sau cửa sắt là một cánh cửa sơn son cũ xì, nước sơn đã phai hết, khi Nhạc Lan đẩy nó ra, liền phát ra tiếng kẽo kẹt ghê người. Loại nhà này rõ ràng là nếu xảy ra hỏa hoạn thì rất khó chạy, đây cũng là vấn đề chung của những con ngõ nhỏ kiểu xưa.

Hành lang hoàn toàn không có đèn đóm gì cả, tôi bị phủ chìm trong bóng tối, chỉ biết dọ dẫm dùng đầu ngón chân dò đường đi. Nhưng Nhạc Lan có vẻ đã rất quen, nhanh chân bước lên lầu. Chờ đến khi tôi bò lên tới lầu hai thì Nhạc Lan đã vào phòng, cánh cửa để mở cho thấy cô bé cho phép tôi bước vào. Tôi nghĩ, hóa ra nhà Nhạc Lan lại khó khăn đến thế, chẳng biết cha mẹ cô bé làm nghề gì mà để con gái suy dinh dưỡng như vậy.

Trong phòng cũng rất tối, hầu như không khá hơn ngoài hành lang là bao, chỉ có một cái bóng đèn tròn vàng vọt không sáng hơn ngọn nến.Trên đèn ám đầy bụi mỡ, ánh sáng nó phát ra cũng làm người ta cực kỳ khó chịu. Nhạc Lan bước tới bên bàn, bỏ trong túi xách ra cái bánh và mấy miếng khoai tây chiên mà tôi mua cho cô bé lúc nãy vào một cái chén rồi đậy báo lên. Tôi phát hiện trong chén là mấy miếng đậu tương và dưa muối đã mốc meo. Ăn uống kham khổ như vậy, chẳng trách đứa bé này lại yếu ớt đến thế.

Cả phòng rất lạnh, Nhạc Lan buông túi xách cầm cái ly, dùng tay áo lau lau miệng ly rồi dốc ấm định rót nước cho tôi, nhưng cả hai bình thủy đều không còn giọt nước nào. Tôi xấu hổ nói: “Không sao đâu, thầy không khát, em khỏi cần lo. Cha mẹ em đâu rồi?”

Nhạc Lan rút từ dưới gầm bàn ra một cái ghế đẩu cho tôi ngồi, rồi cầm ấm đi nấu nước, vừa đi vừa nói: “Ba em mất sớm rồi, bây giờ em sống với mẹ thôi.”

Vừa nghe thấy, tôi lập tức cảm thấy đồng cảm với cô bé này, thảo nào nghe cô giáo Lâm đòi mời cha mẹ lên nói chuyện thì mặt cô bé lại biến sắc như vậy. Xem ra đứa học trò này quả là một trường hợp khó khăn đặc biệt, cho nên Phan hói mới đặc biệt can thiệp như vậy.

Tôi nhìn quanh bốn phía, thấy trong nhà đồ đạc lộn xộn, vả lại bày biện cứ như một linh đường, trong góc phòng chất một đống vòng hoa tang, trên mặt đất còn vài tờ vàng mã. Một ít hóa vàng hương nến vẫn còn vứt lung tung trên nắp rương. Tôi đang vắt óc đoán xem nhà này đã xảy ra chuyện gì thì chợt từ phòng trong vang lên tiếng cái chén rơi xuống đất.

Tôi nghĩ có thể là mẹ của Nhạc Lan, nếu thế thì ít ra nên vào chào hỏi cho phải phép, liền đứng lên hỏi Nhạc Lan: “Trong phòng trong là mẹ em à? Để thầy vào chào mẹ em được chứ? Yên tâm, thầy không kể chuyện bài làm văn của em đâu, chỉ muốn biết rõ hoàn cảnh của em hơn thôi.”

Nhưng Nhạc Lan có vẻ rất do dự, cô bé cắn môi ngập ngừng nói: “Mẹ em… bị bệnh… không tiện gặp khách đâu…”

Tôi không biết vì sao cô bé phải kiêng dè như vậy, nhưng nghĩ rằng thân là giáo viên, đã tới thì phải chào phụ huynh một tiếng, cho nên ngay lúc tôi định mở miệng chào, thì đột ngột lại nghe vài tiếng lạch cạch, quay lại nhìn thì thấy ở khe cửa có một đôi mắt lạnh lùng nhìn chúng tôi, thấy tôi quay lại, đôi mắt đó nhanh chóng biến mất.

Tôi chỉ vào phòng trong: “Hình như thầy vừa thấy ở khe cửa có người nhìn, là mẹ em à?”

Nhạc Lan giật mình, sau đó cúi đầu: “Vâng ạ…” Cô bé cân nhắc một chút, rồi lại tiếp tục nói: “Thầy muốn gặp mẹ em thì vào gặp cũng được.”

Nhạc Lan bước tới mở cửa phòng trong, tôi theo cô bé đi vào, phát hiện bên trong còn tối hơn cả bên ngoài, hơn nữa còn một đống đồ đạc chất lung tung khắp nơi, khó lòng tưởng tượng nổi có ai lại sống được trong một không gian thế này. Tôi nhìn quanh quất xung quanh mãi mới phát hiện một bóng người ngồi thu lu trong góc phòng, im thin thít, cả người run lẩy bẩy.

Nhạc Lan bước tới định đỡ người đó dậy, nhưng đột nhiên người đó nhảy dựng lên, điên cuồng cào cấu xung quanh, Nhạc Lan không sao tới gần được, tôi kinh ngạc nhìn người nọ mà hỏi: “Đây là… mẹ em sao?”

Nhạc Lan khổ sở đáp: “Vâng, mẹ em bị điên, cho nên em mới nói thầy không gặp mẹ em được đâu mà.”

Cả người dơ bẩn, đầu tóc rối nùi thành một cục, y phục xộc xệch rách rưới, cả người bà ta hiện lên vẻ “bất bình thường”, vừa nhìn thấy Nhạc Lan, người đàn bà đã rống lên: “Mày cút ngay, đồ sao chổi! Mày đã hại chết bao nhiêu người, bây giờ còn muốn hại cả tao à, cút, mày cút đi!!!”

Cảnh tượng điên cuồng trước mắt quả thực khiến người ta phải kinh hoàng. Tôi xông tới định giúp Nhạc Lan, thì người đàn bà điên chợt gầm gừ với tôi, hai mắt trợn trừng, cả người bốc mùi hôi thối, vừa mở miệng ra thì một mùi hôi đã xông thẳng ra, làm tôi phải nhíu mày quay đi, không biết bà ta đã bao nhiêu lâu chưa tắm rửa cho đàng hoàng rồi.

Bà ta nhảy lên tấm ván giường, co rúm người chỉ vào Nhạc Lan mà gào: “Mày là quỷ! Mày là quỷ! A ha ha ha, mày quay đầu lại mà nhìn đi! Nhìn đi! Cha mày bị mày hại chết đang nhìn mày kìa, đang nhìn mày kìa! Mày xem, nhìn mày!”

Tôi bị bà ta dọa sợ chết khiếp, vội quay đầu lại phía sau nhìn, quả nhiên sau một tấm vải đen có một khuôn mặt trắng nhợt, trên môi là nụ cười nhạt đang nhìn chúng tôi. Tôi giật bắn mình vội quay cả người lại nhìn kỹ, thì hóa ra là một cái bàn thờ phủ vải đen. Sau tấm vải là một tấm di ảnh. Nhưng tấm ảnh bình thường đó lại bị bao bởi một khung tranh đen, cho nên nụ cười bị bóp méo thành ra quái dị. Đôi mắt còn lộ ra một thứ gì phảng phất như tử khí, ánh mắt vô hồn đó giống Nhạc Lan như đúc.

Lúc này, người đàn bà điên chợt đổi giọng cười hì hì: “Lan Lan, tới đây tới đây cho mẹ xem, mẹ dạy con vẽ tranh con nhớ không? Hì hì, mau vẽ cái xe cho mẹ xem nào…”

Mặt Nhạc Lan càng trắng bệch ra, khóe mắt dường như đã rớm nước, cô bé cố nén khóc mà quay lại đẩy đẩy tôi: “Thầy ơi ra thôi, thầy thấy mẹ em rồi còn gì, thầy mau mau đi, đừng tới đây nữa.”

Khi Nhạc Lan và tôi còn đang đẩy nhau thì giọng nói của bà mẹ chợt cao lên, vừa điên cuồng cào xé tóc mình vừa rống lên: “Tao bảo mày vẽ cái xe! Sao mày lại vẽ nhiều người chết như thế chứ hả! Tại sao mày tô hết toàn bộ bút sáp màu đỏ rồi!!! Cả bức tranh tại sao đều là máu?! Mày vẽ cái gì vậy! Mày là con quỷ! Mày hại chết tất cả chúng ta!!!”

Tôi bị cảnh tượng trước mặt dọa tới ngây người, để mặc cho Nhạc Lan vừa kéo vừa đẩy ra tới ngoài cửa, ánh mắt của cô bé đầy van xin, mà tôi vốn không có đủ kinh nghiệm để ứng phó với những chuyện thế này nên cũng đành chạy ra ngoài. Chỉ nghe “Cạch” một cái, cánh cửa đã bị đóng sầm trước mặt. Ở trong phòng, mẹ Nhạc Lan vẫn tiếp tục gào thét, ở giữa còn nghe tiếng khóc thút thít của Nhạc Lan.

Tôi gõ cửa liên tục, nhưng tiếng ồn ào trong phòng đã hoàn toàn nhấn chìm tiếng đập cửa của tôi, toàn bộ quang cảnh trở nên cực kỳ điên cuồng. Tôi đập cửa đến đau cả tay, qua hồi lâu, trong phòng dần dần im ắng trở lại, không còn tiếng gào thét của bà mẹ, không còn tiếng khóc của Nhạc Lan, im lặng tới mức đáng sợ. Tôi mặc kệ cái tay đau mà tiếp tục đập cửa, nhưng dưới thang lầu đột ngột xuất hiện một bà lão, bóng dáng bà ta in trên hành lang tối đen trông cực kỳ mờ nhạt. Bà lão chậm chạp bước tới cạnh tôi, trên người bà ta toát ra mùi đàn hương, cộng với sự u ám trong căn nhà, càng trở nên âm lãnh hơn. Bà lão chỉ nhìn vào cánh cửa sau đó quay sang nói với tôi: “Nhóc con, đừng tới gần con bé nhà này, nó là một ngôi sao chổi đó. Miệng lưỡi nó ăn mắm ăn muối lắm.”

Tôi nhẹ giọng thưa: “Thưa bà, cháu là giáo viên của Nhạc Lan, lần này tới đây thăm hỏi gia đình em ấy.”

Nhưng ánh mắt bà lão vẫn cực kỳ u ám, hung hăng nhìn tôi mà nói: “Đừng có lo cho nó nữa! đã bảo nó là quỷ mà lại! Quỷ hại người đó! Cậu xem ba má nó đó, tất cả đều là do nó làm hại! Từ khi nhà nó tới khu này, xung quanh đây có biết bao nhiêu người chết rồi! Nếu cậu còn muốn sống thì lùi xa nó ra, càng xa càng tốt! Bằng không, chết chắc đó!”

Nói xong liền như điên lên mà dùng gậy chống đuổi tôi ra khỏi nhà, tôi gần như là bị bà ta đánh đuổi ra. Lúc này sắc trời đã tối sầm, gian phòng bị rèm cửa che kín, lập lòe ngọn đèn nhỏ xíu vàng vọt, càng hắt ra một thứ không khí quỷ dị. Tôi lo lắng nhìn vào cánh cửa sổ đóng chặt, nghĩ thầm nhất định phải phản ánh lại trường hợp của cô bé này với nhà trường. Nhưng đột ngột từ sau rèm cửa, hiện lên bóng dáng của một người, một người cực kỳ cao to, không giống Nhạc Lan hay bà mẹ cô bé. Lẽ nào nói, trong phòng còn ai khác nữa sao?

Tôi đang do dự xem có nên quay lên tìm hai mẹ con họ hay không thì chợt phía sau có người vỗ nhẹ lên vai, tôi giật mình quay lại, không ngờ lại là Bạch Dực. Bèn xoay người lại hỏi: “Sao anh lại tới đây?”

Anh ta lạnh lùng nhìn tôi, vẻ nghiêm khắc: “Cậu mang hết chìa khóa nhà theo rồi còn đâu, tôi đâu có vào nhà được, đành phải tới đây tìm cậu thôi!”

Lúc này tôi mới nhớ ra, sáng sớm nay lúc đi làm vội vội vàng vàng, vơ đại chùm chìa khóa trên bàn, hóa ra là chùm chìa khóa của Bạch Dực. Tôi gãi gãi đầu cười ngượng nghịu: “Anh xem, tôi đểnh đoảng quá đi mất. Mà ở đây… À mà thôi, đi về trước đi, vừa đi tôi vừa kể anh nghe!”

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro