Quyển II. Ý KIẾN VÀ NIỀM TIN CỦA ĐÁM ĐÔNG

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Quyển II. Ý KIẾN VÀ NIỀM TIN CỦA ĐÁM ĐÔNG

TÂM LÝ HỌC ĐÁM ĐÔNG

Chương I. NHỮNG NHÂN TỐ XA ẢNH HƯỞNG TỚI NIỀM TIN VÀ Ý KIẾN CỦA ĐÁM ĐÔNG

Chương II. NHỮNG NHÂN TỐ TRỰC TIẾP ẢNH HƯỞNG TỚI Ý KIẾN CỦA ĐÁM ĐÔNG

Chương III. NGƯỜI CẦM ĐẦU ĐÁM ĐÔNG VÀ CÁCH THUYẾT PHỤC CỦA HỌ

Chương IV. NHỮNG GIỚI HẠN VỀ TÍNH HAY THAY ĐỔI CỦA NIỀM TIN VÀ Ý KIẾN ĐÁM ĐÔNG

Chương I. NHỮNG NHÂN TỐ XA ẢNH HƯỞNG TỚI NIỀM TIN VÀ Ý KIẾN CỦA ĐÁM ĐÔNG

TÂM LÝ HỌC ĐÁM ĐÔNG

à

Quyển II. Ý KIẾN VÀ NIỀM TIN CỦA ĐÁM ĐÔNG

Nhân tốc chuẩn bị cho niềm tin của đám đông. - Sự nảy nở nhũng niềm tin của đám đông là kết quả của việc chuẩn bị từ trước. - Nghiên cứu những nhân tố khác nhau của niềm tin này.

1/ Chủng tộc. - Ảnh hưởng ưu trội mà nó tác động. - Nó biểu thị những gợi ý của tổ tiên.

2/ Truyền thống. - Nó là tổng hợp của tâm hồn chủng tộc. - Tầm quan trọng xã hội của truyền thống.- Sau khi đã thành thiết yếu, truyền thống trở nên có hại như thế nào. - Đám đông là kẻ bảo thủ dai dẳng nhất của những tư tưởng truyền thống.

3/ Thời gian. - Nó liên tiếp chuẩn bị thiết lập niềm tin rồi phá huỷ chúng. - Nhờ có thời gian mà trật tự có thể đi ra từ hỗn mang.

4/ Những thiết chế chính trị xã hội. - Tư tưởng sai lầm về vai trò của chúng. - Ảnh hưởng của chúng vô cùng yếu ớt. - Chúng là hậu quả chứ không phải nguyên nhân. - Các dân tộc sẽ không biết chọn những thiết chế nào có vẻ là tốt nhất cho mình. - Thiết chế là các nhãn hiệu mà dưới cùng một tên hiệu ẩn chứa nhiều điều khác nhau nhất. - Các thể chế có thể được tạo sinh như thế nào. - Những thiết chế tồi tệ về mặt lí thuyết, chẳng hạn như tập trung hoá, lại cần thiết đối với một vài dân tộc.

5/ Giáo dưỡng và giáo dục. - Sai lầm của tự tưởng hiện thời về ảnh hưởng của giáo dưỡng với đám đông. - Những chỉ số thống kê. - Vai trò làm bại hoại đạo đức của nền giáo dục Latin. - Ảnh hưởng mà giáo dục có thể tác động. - Những ví dụ từ nhiều dân tộc khác nhau.

Chúng ta vừa nghiên cứu cấu tạo tinh thần của đám đông. Chúng ta đã biết cách cảm nhận, suy nghĩ, suy luận của nó. Bây giờ ta hãy xem xét những ý kiến và niềm tin của đám đông sinh ra và được xác lập như thế nào.

Những nhân tố quyết định ý kiến và niềm tin ấy thuộc về hai loại - những nhân tố xa và những nhân tố trực tiếp.

Những nhân tố xa khiến đám đông có thể chấp nhận một số niềm tin và không có khả năng để những niềm tin khác xâm nhập vào. Chúng chuẩn bị đất đai, nơi ta thấy đột nhiên nảy mầm những tư tưởng mới mà sức mạnh và kết quả của chúng làm ta ngạc nhiên, nhưng chúng chỉ có vẻ tự phát bề ngoài. Sự bùng nổ và việc vận dụng một vài tư tưởng ở đám đông đôi khi diễn ra bất ngờ như sét đánh. Đó chỉ là hiệu quả bề mặt, đằng sau nó ta phải tìm ra một nỗ lực chuẩn bị dài lâu từ trước.

Những nhân tố trực tiếp là những nhân tố chồng lên nỗ lực dài lâu này, không có nó những nhân tố trực tiếp ấy sẽ không có hiệu quả, chúng gây ra niềm tin mạnh mẽ ở đám đông, nghĩa là làm cho tư tưởng có hình thức và tháo xích cho tư tưởng cùng với tất cả những hậu quả của nó. Qua các nhân tố trực tiếp này, những quyết tâm nảy sinh, chúng đột nhiên thúc đẩy các tập thể nổi dậy; nhờ có chúng, một cuộc nổi loạn nổ bùng, nhờ có chúng những đám đông khổng lồ đưa một người lên nắm quyền hay lật đổ một chính phủ.

Trong mọi biến cố lớn lao của lịch sử, ta nhận thấy tác động nối tiếp của hai loại nhân tố này. Ta hãy chỉ lấy một trong những ví dụ nổi bật nhất như cuộc Cách mạng Pháp. Những nhân tố xa của cuộc cách mạng này là tác phẩm của các nhà triết học, những vụ lạm thu của giai cấp quý tộc, những tiến bộ của tư tưởng khoa học. Tâm hồn đám đông, vậy là đã được chuẩn bị, sau đó dễ dàng nổi dậy nhờ những nhân tố trực tiếp, như bài diễn thuyết của các nhà hùng biện, và sự bảo thủ của triều đình về những cải cách không đáng kể.

Trong những nhân tố xa, có những nhân tố chung mà ta thấy ở nền tảng của mọi niềm tin và ý kiến đám đông. Đó là: chủng tộc, truyền thống, thời gian, những thiết thế, giáo dục.

Chúng ta sẽ nghiên cứu vai trò của các nhân tố khác nhau này.

1. Chủng tộc

Nhân tố chủng tộc phải được đưa lên hàng đầu. Bởi vì riêng nó có tầm quan trọng hơn rất nhiều so với những nhân tố khác. Chúng tôi đã nghiên cứu vấn đề này khá đầy đủ trong một cuốn sách khác nên không cần trở lại nữa. Trong đó, chúng tôi đã diễn giải một chủng tộc lịch sử là gì, và khi những tính cách của chủng tộc đã hình thành thì quy luật di truyền khiến nó có một sức mạnh đến mức niềm tin, thiết chế, nghệ thuật của nó, nói tóm lại tất cả những thành tố của nền văn minh, chỉ là sự biểu hiện bên ngoài của tâm hồn chủng tộc ấy. Chúng tôi đã chứng minh rằng sức mạnh của chủng tộc mạnh mẽ đến mức không một yếu tố nào có thể chuyển từ dân tộc này sang dân tộc khác mà lại không chịu những biến đổi sâu sắc nhất. Môi trường, hoàn cảnh, những biến cố đều biểu thị những gợi ý xã hội ngay lúc đó. Chúng có thể có một ảnh hưởng to lớn, nhưng ảnh hưởng đó luôn nhất thời nếu như nó trái ngược với những gợi ý của chủng tộc, nghĩa là của tất cả tổ tiên.

Trong nhiều chương của cuốn sách này, tôi sẽ còn có dịp quay trở lại vấn đề ảnh hưởng của chủng tộc, và chứng minh rằng ảnh hưởng này lớn đến nỗi nó thống trị những tính cách riêng biệt của tâm hồn đám đông, từ đó để chứng minh rằng đám đông của các nước khác nhau, trong niềm tin và hành xử của họ, biểu hiện những khác biệt rất đáng kể, và không thể bị ảnh hưởng theo cùng một cách giống nhau.

2. Truyền thống

Truyền thống biểu thị tư tưởng, nhu cầu, tình cảm của quá khứ. Nó là cái tổng hợp của chủng tộc và đè lên chúng ta với tất cả sức nặng của nó.

Khoa sinh vật học đã bị biến chuyển từ khi khoa phôi học chỉ ra ảnh hưởng rộng lớn của cái đã qua trong sự tiến hoá của sinh vật; và các khoa học lịch sử cũng bị biến chuyển không ít khi quan niệm này trở nên phổ biến hơn. Song quan niệm này còn chưa đủ phổ biến, và rất nhiều chính khách vẫn còn nấn ná với những tư tưởng của các nhà lí thuyết thuộc thế kỉ trước, họ tưởng rằng một xã hội có thể dứt bỏ với quá khứ của mình và có thể được tái tạo từ những mảnh vụn bằng cách chỉ cần đến ánh sáng của lí trí làm người dẫn đường.

Một dân tộc là một sinh thể hữu cơ được tạo ra bởi quá khứ và cũng như mọi sinh thể hữu cơ, nó chỉ tự biến thái do sự tích luỹ chậm chạp của di truyền.

Cái đã dẫn dắt con người, nhất là khi họ hợp thành đám đông, đó là truyền thống; và như tôi đã nhắc lại rất nhiều lần, truyền thống chỉ dễ dàng thay đổi tên gọi, hình thức bên ngoài mà thôi.

Cũng chẳng đáng tiếc khi nó đã như vậy. Không có truyền thống, sẽ không có hồn nước, cũng không thể có văn minh. Vậy nên có hai công việc lớn của con người từ khi nó tồn tại, đó là tạo ra một mạng lưới những truyền thống, rồi ra sức phá huỷ chúng khi hiệu quả tốt đẹp của chúng bị mòn cũ. Không có truyền thống, thì sẽ không có văn minh; không có sự thủ tiêu từ từ những truyền thống ấy, thì sẽ không có sự tiến bộ. Khó khăn là tìm ra được sự cân bằng đúng đắn giữa tính ổn định và tính biến đổi; và khó khăn ấy thật là to lớn. Khi một dân tộc để cho những tập quán đóng chốt quá vững qua nhiều thế hệ, dân tộc ấy không thể thay đổi được nữa, và giống như Trung Hoa, trở nên không có khả năng hoàn thiện. Những cuộc cách mạng bạo liệt cũng chẳng thể làm gì được ở đây; bởi vì lúc đó sẽ diễn ra, hoặc là những mẩu đứt gãy của chuỗi xích tự hàn gắn lại với nhau, và quá khứ trở lại thâu tóm quyền lực của nó mà không thay đổi gì, hoặc là những mẩu đoạn nằm tán mát mọi phía, và thời kỳ suy đồi nhanh chóng nối tiếp thời kì vô chính phủ.

Vậy nên, lí tưởng cho một dân tộc là giữ lại những thiết chế của quá khứ, bằng cách chỉ biến đổi chúng từ từ, và từng ít một. Lí tưởng này thật khó đạt tới. Thời cổ đại có người La Mã, thời hiện đại có người Anh, hầu như chỉ hai dân tộc ấy thực hiện được điều này.

Kẻ bảo thủ dai dẳng nhất của những tư tưởng truyền thống và chống đối ngoan cố nhất với sự thay đổi của chúng lại chính là đám đông, và đặc biệt là những loại đám đông cấu thành đẳng cấp. Tôi đã nhấn mạnh tinh thần bảo thủ của đám đông, và chỉ ra rằng những cuộc nổi loạn bạo liệt nhất chỉ dẫn tới một sự thay đổi về ngôn từ. Ở cuối thế kỉ trước, trước những ngôi nhà thờ bị phá huỷ, trước những thầy tu bị trục xuất hay bị đưa lên máy chém, trước sự truy sát toàn thể đối với sự thờ phụng Công giáo, ta có thể tưởng rằng những tư tưởng tôn giáo xưa cũ đã mất hết quyền năng, tuy nhiên vài năm vừa mới qua đi, trước những đòi hỏi của toàn thể mọi người, thì người ta lại phục hồi thói quen thờ phụng đã bị bãi bỏ.

Bị xóa bỏ một thời gian, những truyền thống cũ đã lấy lại được thế lực của mình.

Chẳng có ví dụ nào chứng tỏ tốt hơn sức mạnh của truyền thống đối với tâm hồn đám đông. Đó không phải là những thần tượng đáng sợ nhất cư ngụ trong các ngôi đền, cũng không phải là những bạo chúa chuyên chế nhất trong các lâu đài; thần tượng và bạo chúa có thể bị đập tan trong phút chốc; còn các ông chủ vô hình thống trị tâm hồn chúng ta thì thoát khỏi mọi cố gắng nổi loạn, và chỉ chịu thua sự mòn mỏi chậm chạp của nhiều thế kỉ.

3. Thời gian

Trong các vấn đề xã hội cũng như sinh học, một trong những nhân tố giàu sinh lực nhất là thời gian. Nó là người sáng tạo đích thực duy nhất, và là kẻ phá huỷ vĩ đại duy nhất. Chính nó đã tạo nên những quả núi từ vô vàn hạt cát, và đã nâng những tế bào tăm tối từ thời hồng hoang lên thành phẩm giá con người. Muốn biến đổi một hiện tượng nào đó, phải cần nhiều thế kỉ can thiệp. Người ta có lí khi nói rằng cho một con kiến đủ thời gian nó sẽ có thể san bằng đỉnh Blanc. Một con người nếu có quyền năng thần diệu làm thay đổi thời gian theo ý muốn sẽ có sức mạnh mà những tín đồ gán cho Thượng đế.

Nhưng ở đây chúng ta chỉ quan tâm tới ảnh hưởng của thời gian trong sự ra đời những ý kiến của đám đông. Ở khía cạnh này, tác động của nó vẫn còn rộng lớn. Nó bắt nhiều lực lượng lớn phụ thuộc vào mình, như chủng tộc không thể hình thành mà không có nó. Thời gian làm cho mọi niềm tin nảy sinh, lớn lên, chết đi, chính nhờ thời gian, những niềm tin đạt được sức mạnh và cũng qua nó những niềm tin mất đi sức mạnh.

Chính thời gian chuẩn bị cho ý kiến và niềm tin của đám đông, nghĩa là chuẩn bị mảnh đất cho những thứ đó nảy mầm. Và chính vì vậy một số tư tưởng có thể được thực thi ở một thời đại này lại không thể thực thi trong một thời đại khác. Chính thời gian đã tích tụ vô vàn mảnh vụn của niềm tin, ý tưởng trên đó nảy sinh tư tưởng của một thời đại. Chúng không bỗng dưng nảy mầm nhú hoa; những chiếc rễ của mỗi tư tưởng đều cắm sâu vào một quá khứ dài lâu. Khi chúng đơm hoa, thời gian đã chuẩn bị sẵn cho mùa nở, và bao giờ cũng phải đi ngược về quá khứ để hiểu được sự ra đời của chúng. Chúng là con đẻ của quá khứ, là mẹ của tương lai, và bao giờ cũng là nô lệ của thời gian.

Vậy thời gian là ông chủ đích thực của chúng ta, chỉ cần để cho nó tác động, ta sẽ thấy mọi sự vật biến đổi. Ngày nay, chúng ta rất lo ngại những khát vọng đầy đe doạ của đám đông, lo ngại những tàn phá, những đảo lộn mà chúng báo trước. Chỉ riêng thời gian sẽ chịu trách nhiệm lập lại cân bằng. Ông Lavisse đã viết rất đúng: “Không một chế độ nào được xây dựng trong ngày một ngày hai. Các tổ chức chính trị và xã hội đều là những công trình đòi hỏi nhiều thế kỉ; chế độ phong kiến đã tồn tại không ra hình thù gì và hỗn loạn trong nhiều thế kỉ trước khi tìm ra những quy tắc của nó, chế độ quân chủ chuyên chế cũng tồn tại trong nhiều thế kỉ trước khi tìm ra những phương cách hợp thức để cai trị, và đã có nhiều biến loạn lớn trong thời gian chờ đợi".

4. Những thiết chế chính trị và xã hội

Ý tưởng cho rằng thiết chế có thể chữa khỏi những khuyết tật của xã hội, tiến bộ của các dân tộc là kết quả của sự hoàn thiện thể chế và chính phủ, và những thay đổi xã hội có thể tiến hành bằng các sắc lệnh; tôi cho rằng ý tưởng đó còn phổ biến khắp nơi. Cách mạng Pháp dùng ý tưởng đó làm điểm xuất phát và những lí thuyết xã hội hiện thời dùng nó làm điểm tựa.

Những kinh nghiệm lâu đời nhất cũng chưa thể làm lung lay đáng kể cái ảo tưởng đáng sợ này. Các nhà triết học và sử học thật uổng công khi thử chứng minh sự phi lí của nó. Tuy nhiên, chẳng có gì khó với họ khi chỉ ra rằng những thiết chế là con đẻ của tư tưởng, tình cảm và tập tục và rằng người ta không sửa chữa lại tư tưởng, tình cảm và tập tục bằng cách chữa lại các đạo luật. Một dân tộc không được tuỳ ý chọn những thiết chế, cũng như nó không chọn được màu mắt hay màu tóc của mình. Các thể chế và những chính phủ là sản phẩm của chủng tộc. Còn lâu chúng mới là người sáng tạo ra một thời đại chúng là tạo phẩm của nó mà thôi. Những dân tộc không được cai trị do ý thích thất thường nhất thời của nó muốn thế, mà do tính cách của những dân tộc đòi hỏi như thế. Phải cần nhiều thế kỉ để hình thành một chế độ chính trị, và nhiều thế kỉ để thay đổi nó. Những thiết chế không hề có một hiệu lực nội tại nào; bản thân chúng không tốt cũng chẳng xấu. Thiết chế nào tốt ở một thời điểm nhất định cho một dân tộc nhất định, có thể là đáng ghét đối với một dân tộc khác.

Vậy nên một dân tộc không hề có khả năng thay đổi thực sự những thiết chế của mình. Nó chắc chắn có thể, bằng cái giá của những cuộc cách mạng bạo lực, thay đổi tên gọi của những thể chế ấy, nhưng nội dung không thay đổi. Những cái tên chỉ là nhãn hiệu hão huyền mà nhà sử học nào hiểu cặn kẻ bản chất của sự vật sẽ không quan tâm đến. Chính vì thế nên chẳng hạn nước Anh là một đất nước dân chủ nhất trên thế gian, tuy sống dưới chế độ quân chủ; trong khi đó những đất nước mà chế độ chuyên chế còn hoành hành nặng nề nhất lại là những nước cộng hoà Mỹ - Latin, mặc dù thể chế cộng hoà cai trị những nước ấy. Tính cách của các dân tộc chứ không phải chính phủ dẫn dắt số phận của chúng. Đó là một quan điểm mà tôi đã thử xác lập trong một cuốn sách trước, dựa trên các ví dụ tiêu biểu.

Vậy đó là một công việc rất trẻ con, một thứ bài tập vô ích của nhà hùng biện khoa trương, không biết rằng chỉ phí thời gian để chế tạo ra toàn những thể chế. Sự cần thiết và thời gian sẽ đảm nhiệm việc xây dựng nên chúng, khi chúng ta đủ khôn ngoan để cho hai nhân tố ấy hành động. Chính người Anglo - Saxon đã tiến hành như vậy, và đó là điều nhà sử học vĩ đại của họ, Macaulay nói với chúng ta trong một đoạn văn mà các nhà chính trị của mọi quốc gia Latin phải đọc thuộc lòng. Sau khi đã chỉ ra mọi cái tốt mà luật pháp đã có thể làm, đứng về mặt lí trí thuần tuý những đạo luật ấy có vẻ như một hỗn độn của những điều phi lí và những mâu thuẫn, ông so sánh hàng tá thể chế đang chết trong những cơn biến động của các dân tộc Latin thuộc châu Âu và châu Mỹ với thể chế của nước Anh, ông cho ta thấy rằng thể chế của nước Anh chỉ được thay đổi rất chậm, từng phần, dưới ảnh hưởng của những cần thiết tức thời chứ không bao giờ dưới ảnh hưởng của những suy luận tư biện. “Đừng lo lắng đến tính cân đối, mà hãy lo lắng nhiều đến tính lợi ích; đừng bao giờ vứt bỏ cái dị thường chỉ vì nó là một cái dị thường; đừng bao giờ đổi mới nếu không phải là khi cảm thấy có sự bất ổn nào đó, và lúc đó đổi mới đúng vừa đủ để loại bỏ cái bất ổn; đừng bao giờ thiết lập một đề nghị rộng hơn trường hợp đặc biệt mà ta muốn sửa chữa; đó là những quy tắc từ thời John đến thời Victoria, chúng nói chung đã hướng dẫn cho các cuộc thảo luận của 250 nghị viện của chúng ta".

Ta phải xem xét lần lượt từng đạo luật một và từng thiết chế một của mỗi dân tộc, để chứng tỏ chúng là biểu hiện những nhu cầu của chủng tộc đến thế nào, và không thể vì lí do này mà chúng bị biến đổi một cách dữ dội. Thí dụ người ta có thể biện luận một cách triết học về những thuận lợi và bất cập của sự tập trung hoá, nhưng khi chúng ta nhìn thấy một dân tộc gồm nhiều chủng tộc rất khác nhau, đã phải dành một nghìn năm cố gắng mới dần dần đạt tới sự tập trung này; khi chúng ta thấy rằng một cuộc cách mạng lớn có mục tiêu là đập tan mọi thể chế của quá khứ, đã buộc phải chẳng những tôn trọng sự tập trung hoá này mà còn phải phóng đại nó lên, thì ta có thể nói nó là con đẻ của những điều cần thiết cấp bách, thậm chí là một điều kiện sinh tồn, và ta có thể phàn nàn về tầm vóc tinh thần yếu kém của những nhà chính trị chỉ nói đến chuyện phá huỷ nó đi. Nếu như ngẫu nhiên họ thành công trong chuyện đó thì giờ phút thành công sẽ ngay lập tức là tín hiệu của một cuộc nội chiến khủng khiếp, vả lại cuộc nội chiến ấy lại lập tức dẫn tới một sự tập trung mới còn nặng nề hơn nhiều so với sự tập trung cũ.

Ta kết luận những điều nói trên rằng không nên tìm cách tác động sâu vào tâm hồn đám đông nhờ những thiết chế; và khi ta thấy một vài nước, như Hoa Kì, đã thịnh đạt ở mức độ cao với những thiết chế dân chủ, trong khi những nước khác, như những nước cộng hoà Mỹ - Latin, đang sống trong sự vô chính phủ ảm đạm nhất mặc dù có những thiết chế tuyệt đối giống; thì ta có thể nói rằng những thiết chế ấy xa lạ với sự lớn lao của dân tộc này cũng như xa lạ với sự suy đồi của dân tộc kia. Các dân tộc đều bị tính cách của chính họ thống trị; và tất cả những thiết chế nào không được đúc khuôn vừa vặn với tính cách ấy sẽ chỉ là thứ quần áo vay mượn, một thứ giả trang tạm thời. Chắc hẳn, nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu, nhiều cuộc cách mạng bạo lực đã xảy ra, và còn sẽ xảy ra, để áp đặt cho những thiết chế mà người ta gán cho chúng, như từng gán cho những di vật của các vị thánh, cái khả năng siêu Phàm tạo ra hạnh phúc. Vậy, theo một nghĩa nào đó có thể nói rằng những thiết chế tác động lên tâm hồn đám đông bởi vì chúng gây nên những biến động như thế. Nhưng trong thực tế, không phải chính những thiết chế tác động như thế, bởi ta biết rằng dù thắng hay bại, bản thân chúng không hề có một hiệu lực nào cả. Cái đã tác động lên tâm hồn đám đông chính là những ảo tưởng và ngôn từ. Đặc biệt là ngôn từ, những từ ngữ vừa đầy ảo tưởng vừa mạnh mẽ này sẽ được chúng tôi chỉ ra ảnh hưởng lạ lùng của chúng.

5. Giáo dưỡng và giáo dục

Đứng đầu những tư tưởng thống trị nói trên của một thời đại, mà chúng tôi đã lưu ý ở một chỗ khác về số lượng ít ỏi và sức mạnh của chúng, dù đôi khi chúng là những ảo tưởng thuần tuý, ngày nay, đó là tư tưởng sau đây: đào tạo có khả năng thay đổi con người một cách đáng kể, và có kết quả chắc chắn là cải tạo được con người, thậm chí làm cho con người bình đẳng. Chỉ bằng việc nhắc đi nhắc lại, điều khẳng định này cuối cùng đã trở thành một trong những tín điều khó lay chuyển nhất trong chế độ dân chủ. Ngày nay, khó đụng chạm tới điều đó, cũng như thời xưa khó đụng chạm tới những tín điều của nhà thờ.

Nhưng ở điểm này, cũng như ở nhiều điểm khác, những tư tưởng dân chủ đều đã bất đồng sâu sắc với các dữ kiện của tâm lí học và kinh nghiệm. Nhiều triết gia nổi tiếng, trong đó có Herbert Spencer, dễ dàng chỉ ra rằng giáo dục chẳng làm cho con người đạo đức hơn, sung sướng hơn, rằng nó không thay đổi được bản năng và đam mê mang tính di truyền của con người; đôi khi, chỉ đạo kém một chút, giáo dục sẽ có hại nhiều hơn có ích. Những nhà thống kê cũng xác nhận quan niệm này khi nói với ta rằng tội phạm tăng lên cùng với sự phổ cập giáo dục, hay ít ra là phổ cập một sự giáo dục nào đó, rằng những kẻ thù tệ nhất của xã hội, những kẻ vô chính phủ, thường được tuyển lựa trong đám học trò được giải thưởng của các trường; và trong một công trình mới đây, ông Adolphe Guillot, một quan toà ưu tú nhận xét rằng ngày nay người ta đếm được cứ 3.000 tội phạm có học thì chỉ có 1.000 tội phạm vô học, và rằng trong 50 năm, tình trạng phạm tội đã vượt con số từ 227 lên đến 552 trên 400.000 dân, tức là tăng 133%. Ông ta cũng ghi nhận cùng các đồng sự rằng tình trạng phạm tội gia tăng đặc biệt ở những người trẻ tuổi mà, như ta đã biết, [ở nước Pháp], việc đến trường không mất tiền và bắt buộc đã thay thế cơ chế học việc nơi ông chủ.

Chắc không phải là, và cũng chẳng ai ủng hộ điều này bao giờ, sự đào tạo được chỉ đạo tốt lại không thể cho những kết quả thực tế rất có ích, nếu không nâng cao được đạo đức thì ít nhất cũng phát triển được khả năng nghề nghiệp. Khốn thay những dân tộc Latin, nhất là từ hai mươi lăm năm nay, đã đặt cơ sở cho hệ thống giáo dục trên những nguyên lí rất sai lầm, và mặc cho những con người lỗi lạc nhất phê phán, họ vẫn khăng khăng giữ những sai lầm thảm hại. Bản thân tôi, trong nhiều cuốn sách khác nhau, cũng đã chỉ ra rằng nền giáo dục hiện nay của chúng ta đã biến phần lớn những người được tiếp nhận giáo dục thành kẻ thù của xã hội, và tuyển lựa đông đảo môn đồ cho những hình thức tệ hại nhất của chủ nghĩa xã hội.

Cải tạo ra mối hiểm nguy đầu tiên của nền giáo dục này - rất xứng danh là nền giáo dục Latin - chính là dựa trên sai lầm tâm lí học cơ bản: người ta phát triển được trí tuệ bằng cách học thuộc lòng sách giáo khoa. Từ đó người ta cố gắng học thuộc càng nhiều càng tốt, và từ tiểu học đến cấp tiến sĩ hay thạc sĩ, người trẻ tuổi chỉ làm công việc học thuộc lòng sách vở, mà khả năng phán đoán và óc sáng kiến của anh ta không bao giờ được sử dụng. Giáo dục đối với anh ta là đọc thuộc lòng và vâng lời. Ông Jules Simon cựu bộ trưởng giáo dục đã viết: “Học những bài học, thuộc lòng cuốn ngữ pháp hoặc một quyển sách giản yếu, nhắc lại đúng, bắt chước giỏi, đó là thứ giáo dục buồn cười, ở đó mọi cố gắng là chứng tỏ lòng tin trước tính bất khả sai lầm của ông thầy, nền giáo dục ấy chỉ dẫn đến việc hạ thấp giá trị của thúng ta và khiến chúng ta bất lực".

Nếu nền giáo dục này chỉ là vô ích thì chúng ta có thể dừng lại ở việc thương xót những đứa trẻ khốn khổ, bởi lẽ ra có nhiều điều cần thiết để dạy ở trường tiểu học, người ta lại thích dạy cho chúng phả hệ của con cái nhà vua Clotaire, những cuộc chiến giữa vương triều Neustrie và vương triều Austrasie, hay phân loại động vật; nhưng nền giáo dục ấy còn biểu thị một mối hiểm nguy nghiêm trọng hơn nhiều. Nó làm cho người tiếp nhận chán ghét cùng cực cái thân phận mà anh ta được sinh ra, và ước ao mãnh liệt được thoát khỏi thân phận ấy. Người công nhân không muốn làm công nhân nữa, người nông dân không muốn làm nông dân nữa, và nhà tư sản cuối cùng chỉ thấy nghề nghiệp khả dĩ nhất cho con cái mình chẳng gì khác hơn là làm công chức ăn lương Nhà nước. Thay vì chuẩn bị cho người ta vào đời, trường học lại chỉ chuẩn bị cho họ trở thành công chức, người ta có thể thành công mà không cần phải tự định hướng cho mình, cũng không phải bộc lộ một chút sáng kiến nào. Ở nấc thang dưới, nền giáo dục ấy tạo ra những đạo quân vô sản bất mãn với số phận mình và luôn sẵn sàng nổi loạn; ở trên, tầng lớp tư sản phù phiếm của chúng ta, vừa hoài nghi vừa cả tin, có lòng tin mù quáng vào Nhà nước - người che chở, tuy họ không ngừng công kích nó, luôn đổ trách nhiệm cho chính phủ những sai lầm của chính mình và không có khả năng thực hiện một điều gì mà không có sự can thiệp của quyền lực.

Nhờ vào sách giáo khoa, Nhà nước tạo ra tất cả những con người có bằng cấp ấy, chỉ có thể sử dụng một số ít, và dĩ nhiên phải để những người còn lại thất nghiêp. Vậy Nhà nước phải đành chịu nuôi sống nhóm thứ nhất và có kẻ thù là nhóm thứ hai. Từ trên cao xuống dưới thấp của tháp xã hội, từ thầy ký giản dị đến giáo sư và đến vị tỉnh trưởng, đám người đông đảo có bằng cấp hiện chiếm hết những vị trí nghề nghiệp. Trong khi một nhà kinh doanh khó khăn lắm mới tìm ra một nhân viên làm đại diện cho mình ở thuộc địa, thì có hàng ngàn ứng viên xin xỏ những chỗ làm nhà nước tầm thường nhất. Chỉ riêng quận Seine đã có 20.000 giáo viên nam nữ thất nghiệp, họ khinh thường ruộng đồng và xưởng máy và tìm tới Nhà nước để kiếm sống. Số người may mắn thì ít, số người bất mãn tất nhiên rất nhiều. Những người sau sẵn sàng ủng hộ mọi cuộc cách mạng, dù thủ lĩnh là ai và mục đích mà các cuộc cách mạng theo đổi là gì. Sở hữu kiến thức mà không thể tìm được việc làm là một phương cách chắc chắn để biến con người ta thành một kẻ nổi loạn.

Rõ ràng đã quá chậm để đi ngược lại một trào lưu như vậy. Chỉ có kinh nghiệm, người thầy vĩ đại của các dân tộc, sẽ chịu trách nhiệm chỉ ra cho chúng ta sai lầm của mình. Chỉ có kinh nghiệm mới đủ sức mạnh để chứng tỏ sự cần thiết phải thay thế những cuốn giáo khoa tệ hại của chúng ta, những kì thi đáng thương của chúng ta bằng một nền giáo dục dạy nghề, có khả năng dẫn thanh thiếu niên đến với ruộng đồng, xưởng máy, những công trình thuộc địa, mà hôm nay họ đang bằng mọi giá tìm cách trốn chạy.

Nền giáo dục dạy nghề mà giờ đây những người sáng suốt đều đòi hỏ là nền giáo dục xưa kia cha ông đã được nhận lại, và là cái mà các dân tộc ngày nay đang thống trị thế giới nhờ ý chí, sáng kiến, tinh thần dám nghĩ dám làm đã biết bảo tồn. Trong các trang viết đặc sắc, mà rồi sau tôi sẽ trích lại những phần chủ yếu nhất, một nhà tư tưởng lớn, ông Taine, đã chỉ ra rõ ràng rằng nền giáo dục của chúng ta xưa kia cũng gần giống như nền giáo dục Anh hay Mỹ ngày nay, và trong một đoạn đối chiếu đặc sắc giữa hệ thống giáo dục Latin với hệ thống Anglo-Saxon, ông đã cho thấy rõ những kết quả của hai phương pháp.

Có lẽ cùng lắm, người ta cũng đành bằng lòng chấp nhận mọi thứ bất cập của nền giáo dục kinh viện của chúng ta, ngay cả dù rằng nó chỉ tạo ra những kẻ vô tích sự và những kẻ bất mãn, nếu như việc sở hữu hời hợt nhiều kiến thức đến thế, việc đọc thuộc lòng hoàn hảo nhiều sách giáo khoa đến thế đã nâng cao được trình độ trí tuệ. Nhưng thực sự nó có nâng cao được trí tuệ không? Không, thật buồn thay! Chính sự xét đoán, kinh nghiệm, sáng kiến, tính cách mới là những điều kiện thành công ở đời, còn sách vở không cho những điều đó. Sách là những cuốn từ điển có ích để tra cứu, nhưng hoàn toàn vô ích khi có những đoạn văn dài trong đầu.

Giáo dục dạy nghề có thể phát triển trí tuệ thế nào trong chừng mực nó hoàn toàn thoát ra khỏi lối đào tạo kinh viện, đó là điều Taine chỉ ra khá rõ.

"Những tư tưởng chỉ hình thành trong môi trường tự nhiên và bình thường của chúng. Cái làm cho mầm mống tư tưởng sinh trưởng, đó là muôn vàn những ấn tượng nhạy cảm mà thanh niên nhận được hàng ngày ở xưởng máy, trong hầm mỏ, ở toà án, trong nghiên cứu, trên công trường, ở bệnh viện, trong cảnh tượng của những dụng cụ, những vật liệu và những hoạt động, đối diện với khách hàng, với công nhân, với lao động, với sản phẩm làm tốt hay xấu, tốn kém hay có lợi; đấy là những tri giác đặc biệt của mắt, của tai, của tay và cả của khứu giác, được thu nhận không cố ý và được chế biến âm thanh chúng tự tổ chức trong anh ta, để rồi sớm hay muộn gợi ý cho anh ta sự tổ hợp mới, sự đơn giản hoá, sự tiết kiệm, sự hoàn thiện hay sáng chế nào đó. Thanh niên Pháp bị tước đi mọi tiếp xúc quý báu, mọi yếu tố có thể đồng hoá và cần thiết đó, và đúng vào lúc ở cái tuổi phong phú; suốt bảy hay tám năm, họ bị nhốt trong một trường học, cách xa kinh nghiệm trực tiếp và cá nhân, điều sẽ cho họ khái niệm chính xác và sống động về sự vật, con người và nhiều cách khác nhau để sử dụng chúng”.

“… Ít ra chín phần mười trong số họ đã mất thời gian và công sức, mất nhiều năm của cuộc đời và những năm tháng hiệu quả, quan trọng hay thậm chí quyết định của mình: đầu tiên hãy tính một nửa hay hai phần ba những người đi thi, tôi muốn nói là bị trượt - sau đó, trong số những người trúng tuyển, được thăng bậc, cấp chứng chỉ bằng cấp, thì một nửa hay hai phần ba nữa tôi muốn nói là đã bị quá sức. Người ta đã đòi hỏi họ quá nhiều bằng cách yêu cầu họ ngày nào đó phải ngồi ghế hay đứng trước bảng suốt hai giờ liền, và đối với một nhóm các khoa học, họ phải là những cái kho tư liệu sống của tất cả khiến thức nhân loại; quả thực, ngày hôm ấy suốt hai giờ liền, họ đã, hay gần như là cái kho tư liệu sống rồi. Nhưng một tháng sau họ không như thế nữa; họ không thể chịu nổi cuộc kiểm tra lại một lần nữa; những điều họ sở hữu được quá nhiều, và quá nặng nề, chúng không ngừng trượt ra ngoài tâm trí họ và họ chằng thiết những cái mới. Sức mạnh tinh thần đã giảm xuống; thứ nhựa dồi dào đã can kiệt; con người đã thành niên xuất hiện, và thông thường đó là con người bỏ đi. Chỉn chu nề nếp, lập gia đình, cam chịu quẩn quanh trong một vòng tròn và mãi mãi trong vòng tròn ấy, anh ta ẩn mình trong văn phòng hạn hẹp, đứng đắn làm tròn trách nhiệm, chẳng làm gì khác ngoài điều ấy. Hiệu suất trung bình là như vậy; chắc chắn thu nhập có được không cân bằng với chi phí. Ở Anh và ở Mỹ, cũng như xưa kia, trước năm 1789 tại Pháp, người ta sử dụng cách ngược lại, hiệu suất đạt được là bằng hoặc cao hơn".

Tiếp đó, nhà sử học nổi tiếng chỉ ra cho ta thấy sự khác nhau giữa hệ thống giáo dục của chúng ta với hệ thống của những nước Anglo-saxon. Những ngày này không có nhiều trường học đặc biệt như chúng ta; ở họ giáo dục không phải do sách vở đem lại, mà do chính sự vật đem lại. Ví dụ người kĩ sư được đào tạo trong một xưởng máy chứ không bao giờ trong một trường học; điều này cho phép mỗi người đạt tới chính xác mức độ mà trí tuệ của anh ta vốn có, làm công nhân hay đốc công nếu anh ta không thể đi xa hơn nữa, làm kỹ sư nếu khả năng của anh ta dẫn được tới đó. Đó là một phương pháp dân chủ hơn nhiều và ích lợi cho xã hội hơn nhiều so với việc bắt toàn bộ sự nghiệp của một cá nhân phải phụ thuộc vào một kì thi vài tiếng đồng hồ mà anh ta phải chịu đựng lúc mười tám hay hai mươi tuổi.

“Khi còn rất trẻ người học trò đã được nhận vào bệnh viện, hầm mỏ, xí nghiệp, văn phòng luật sư văn phòng kiến trúc sư, nơi anh ta học việc và thực tập; ở nước ta người đó gần giống như người thư kí trong văn phòng luật hay người học vẽ trong xưởng hoạ. Tiên quyết và trước khi bước vào, anh ta có thể theo vài khoá học tổng quát và sơ lược, để có được một cái khung rất sẵn sàng nhằm đưa vào đó những nhận xét mà về sau anh ta sẽ phải làm. Tuy nhiên, thông thường trong tầm tay anh ta còn có một vài lớp kỹ thuật mà anh ta có thể theo học vào các giờ rảnh rỗi, để dần dần phối hợp với những kinh nghiệm hàng ngày mà anh ta có được. Dưới một chế độ như vậy, khả năng thực hành tăng lên và tự phát triển đúng đến mức độ mà năng lực của người học trò có, và trong chiều hướng đòi hỏi của công việc tương lai, thông qua công việc riêng mà ngay trong hiện tại anh ta muốn tự thích ứng. Theo cách ấy, ở Anh và ở Mỹ, thanh niên nhanh chóng đạt tới chỗ tự mình rút ra được tất cả những điều mà mình có. Ngay từ năm hai lăm tuổi, và thậm chí sớm hơn nhiều, nếu không thiếu năng khiếu và tư chất, anh ta chẳng những là một người thi hành có ích, mà còn là người dám nghĩ dám làm, không chỉ là một bánh xe răng, mà hơn nữa còn là một động cơ, - ở Pháp, phương pháp ngược lại đã thắng thế, và qua mỗi thế hệ, nó lại trở nên có tính Trung Hoa hơn, tổng cộng những năng lực mất đi thật to lớn”.

Và nhà triết học vĩ đại đi đến kết luận sau về chênh lệch tăng dần của nền giáo dục Latin chúng ta so với đời sống.

“Ở ba bậc đào tạo, trẻ nhỏ, thiếu niên và thanh niên, sự chuẩn bị lí thuyết trên ghế nhà trường, thông qua sách vở, kéo dài và quá tải, vì mục đích thi cử, cấp bậc, bằng cấp, chứng chỉ, và chỉ vì mục đích đó mà thôi; và bằng những phương cách tệ hại, bằng việc áp dụng một chế độ phản tự nhiên và phản xã hội, bằng việc để thậm quá đáng vấn đề học nghề thực hành, bằng chế độ nội trú, bằng cám huấn luyện giả tạo và nhồi nhét máy móc, bằng việc học quá sức mà không đếm xỉa tới thời gian về sau, tới thời kì trưởng thành và những trách vụ nặng nề mà con người phải thực hiện sau này. Nó bỏ qua thế giới thực, nơi trong thời gian tới người thanh niên sẽ rơi vào, bỏ qua xã hội chung quanh mà anh ta phải thích ứng hay từ bỏ ngay từ đầu, bỏ qua xung đột giữa những con người mà muốn tự vệ, muốn đứng vững, thì trước tiên anh ta phải được trang bị, được vũ trang, được tập dượt và tôi luyện dạn dày. Sự trang bị cần thiết ấy, sự thâu lượm ấy còn quan trọng hơn tất cả những điều khác, sự vững vàng về lương tri, về ý trí, về thần kinh thì trường học của ta không cung cấp cho anh ta; hoàn toàn ngược lại, cách giáo dục trên còn xa mới tạo đủ phẩm chất cho anh ta, nó còn làm cho anh ta không đủ năng lực đáp ứng hoàn cảnh sống trong tương lai. Do đó khi vào đời những bước chân đầu tiên của anh ta trong môi trường hành động thực tế thường chỉ là một loạt vấp ngã đau đớn; anh ta bị tổn thương, bị vò xé lâu dài, đôi khi bị què quặt mãi mãi. Đó là một thử thách nặng nề và nguy hiểm, sự cân bằng tinh thần và tâm thần bị phá hỏng, và có nguy cơ không hồi phục được. Sự vỡ mộng xảy ra quá đột ngột, quá trọn vẹn; những thất vọng quá lớn và nỗi đắng cay quá nặng nề.

Qua phần viết trên đây, liệu chúng ta có đi xa khỏi tâm lí học đám đông không? Chắc là không. Nếu ta muốn hiểu những tư tưởng, những niềm tin đã nảy mầm ở đó hôm nay và nở hoa ngày mai ra sao, thì ta phải biết mảnh đất đã được chuẩn bị thế nào. Nền giáo dục được đem đến cho tuổi trẻ của một đất nước cho phép ta biết đất nước ấy sau này sẽ thế nào. Nền giáo dục được trao cho thế hệ hôm nay biện minh cho những tiên đoán ảm đạm nhất. Tâm hồn đám đông được cải thiện hay hỏng đi một phần chính là do giáo dưỡng và giáo dục. Vậy cần phải chỉ ra hệ thống hiện thời đã đào luyện nó ra sao, và đám nhưng kẻ thờ ơ và trung lập đã dần dần trở thành một đội quân bất mãn đông đảo, sẵn sàng nghe theo mọi gợi ý của các nhà không tưởng và các nhà hùng biện khoa trương thế nào. Chính tại trường học ngày nay đang đào luyện những kẻ bất mãn và vô chính phủ và đang sửa soạn cho các dân tộc Latin giờ phút suy đồi ngày mai.

Created by AM Word2CHM

Chương II. NHỮNG NHÂN TỐ TRỰC TIẾP ẢNH HƯỞNG TỚI Ý KIẾN CỦA ĐÁM ĐÔNG

TÂM LÝ HỌC ĐÁM ĐÔNG

à

Quyển II. Ý KIẾN VÀ NIỀM TIN CỦA ĐÁM ĐÔNG

1/ Hình ảnh, từ ngữ và công thức. - Sức mạnh ma thuật của từ ngữ và công thức. - Sức mạnh của từ ngữ gắn với những hình ảnh mà từ ngữ gợi lên, và độc lập với ý nghĩa thực của chúng. - Những hình ảnh này thay đổi từ thời này sang thời khác, từ chủng tộc này sang chủng tộc khác. - Sự mòn cũ của những từ ngữ. - Ví dụ về những biến đổi nghĩa đáng kể của một vài từ ngữ rất thông dụng. - Lợi ích chính trị trong việc đặt tên mới cho những sự việc cũ, khi người ta chỉ rõ những từ ngữ tạo ra một ấn tượng tai hại với đám đông. - Sự biến đổi về nghĩa của từ ngữ phụ thuộc vào chủng tộc. - Nghĩa khác nhau của từ dân chủ ở châu Âu và ở Mỹ.

2/ Ảo tưởng. - Tầm quan trọng của chúng. - Ta lại thấy chúng ở cơ sở của mọi nền văn minh. - Sự cần thiết mang tính xã hội của những ảo tưởng. - Đám đông bao giờ cũng thích ảo tưởng hơn sự thực.

3/ Kinh nghiệm. - Chỉ có kinh nghiệm mới có thể thiết lập trong tâm hồn đám đông những sự thực đã trở nên cần thiết và phá huỷ những ảo tưởng đã trở nên nguy hiểm. - Kinh nghiệm chỉ phát huy tác dụng với điều kiện được thường xuyên nhắc đi nhắc lại. - Điều mà những kinh nghiệm nhất thiết phải trả giá để thuyết phục đám đông.

4/ Lí trí. - Ảnh hưởng vô hiệu của nó với đám đông. - Ta chỉ tác động được tới đám đông bằng cách tác động lên những tình cảm vô thức của nó. - Vai trò của logic trong lịch sử. - Những nguyên nhân bí ẩn của những biến cố khó tin.

Chúng ta vừa mới nghiên cứu những nhân tố xa và có tính chuẩn bị đem lại cho tâm hồn đám đông một năng lực thụ cảm đặc biệt, làm cho nó có khả năng nảy nở một vài tình cảm hay tư tưởng nào đó. Bây giờ chúng ta nghiên cứu tới những nhân tố có thể tác động một cách trực tiếp. Chúng ta sẽ thấy trong chương sau phải sử dụng những nhân tố ấy thế nào để chúng có thể sản sinh ra toàn bộ hiệu quả của mình.

Trong phần đầu cuốn sách này, chúng ta đã nghiên cứu tình cảm, tư tưởng, suy luận của tập thể; và từ nhận thức này, rõ ràng ta sẽ có thể suy ra một cách khái quát những cách thức gây ấn tượng mạnh lên tâm hồn đám đông. Chúng ta đã biết cái gì tác động vào trí tưởng tượng của đám đông, sức mạnh và sự lây nhiễm của những gợi ý, nhất là những gợi ý biểu hiện dưới hình thức các hình ảnh. Nhưng những gợi ý có thể có nguồn gốc rất khác nhau, những nhân tố có khả năng tác động lên tâm hồn đám đông có thể rất khác nhau. Vậy cần thiết xem xét chúng tách biệt nhau. Đó không phải là một nghiên cứu vô ích. Đám đông hơi giống con nhân sư trong ngụ ngôn cổ đại: cần phải biết giải những câu đố mà tâm lí đám đông đặt ra cho ta, hoặc là đành chịu để cho nó ăn thịt.

1. Hình ảnh, từ ngữ và công thức

Khi nghiên cứu trí tưởng tượng của đám đông chúng ta đã thấy rằng nó đặc biệt bị những hình ảnh gây ấn tượng. Không phải bao giờ ta cũng có những hình ảnh ấy, nhưng có thể gợi lên chúng bằng việc sử dụng đúng đắn từ ngữ và công thức (formule). Khi được sử dụng một cách nghệ thuật, chúng thực sự có sức mạnh bí ẩn mà ngày xưa những môn đồ của ma thuật vẫn gán cho chúng. Chúng làm nảy sinh trong tâm hồn đám đông những cơn bão khủng khiếp nhất, và chúng cũng biết làm lắng dịu những cơn bão ấy. Người ta sẽ xây được một kim tự tháp cao hơn nhiều so với kim tự tháp cổ Khéops với chỉ bằng xương nạn nhân của sức mạnh từ ngữ và công thức.

Sức mạnh của từ ngữ được gắn liền với những hình ảnh mà chúng gợi lên, và hoàn toàn độc lập với ý nghĩa thực của chúng. Đó thường là những từ mà ý nghĩa kém xác định nhất và chi phối nhiều hành động nhất. Ví dụ như những từ như dân chủ, chủ nghĩa xã hội, bình đẳng, tự do v.v..., nghĩa của chúng thì mơ hồ đến nỗi những cuốn sách dày cộp cũng chẳng đủ để nói chính xác về chúng. Và tuy nhiên, chắc chắn có một sức mạnh thực sự ma thuật gắn kết với những âm tiết ngắn của chúng, cứ như thế chúng chứa đựng những giải pháp cho mọi vấn đề. Chúng tổng hợp những khát vọng vô thức khác nhau nhất và niềm hi vọng thực hiện những khát vọng ấy.

Lí trí và những luận chứng cũng không thể chống lại một số từ ngữ và một số công thức. Người ta trầm tĩnh công bố chúng trước đám đông; và ngay khi chúng được phát âm, những gương mặt trở nên kính cẩn và những vầng trán cúi xuống. Nhiều người coi chúng như những lực lượng của thiên nhiên, những sức mạnh siêu nhiên. Chúng gợi lên trong tâm hồn những hình ảnh lớn lao và mơ hồ, nhưng chính cái mơ hồ đã làm mờ nhạt chúng và làm tăng sức mạnh huyền bí của chúng. Ta có thể so sánh chúng với những thần linh đáng sợ giấu mình sau chiếc khám thờ, và kẻ sùng đạo run rẩy đến gần.

Những hình ảnh mà từ ngữ gợi lên độc lập với nghĩa của chúng, thay đổi từ thời đại này sang thời đại khác, từ dân tộc này đến dân tộc khác, dưới căn cước là những công thức. Còn một số từ lại tạm thời được gắn với một vài hình ảnh: từ ngữ chỉ là cái nút bấm điều khiển làm cho những hình ảnh hiện lên.

Mọi từ ngữ và mọi công thức không có sức mạnh gợi hình ảnh; mà sau khi đã gợi lên điều đó thì chính chúng bị mòn cũ đi và chẳng gợi lại được gì nữa trong tâm trí. Lúc đó chúng trở thành những âm thanh vô vị, lợi ích chính của chúng là để miễn cho ai sử dụng chúng khỏi phải suy nghĩ. Với một kho nhỏ những công thức và những điều sáo mòn học được khi còn trẻ, chúng ta sở hữu được tất cả điều cần có để đi suốt cuộc đời mà không cần thiết phải nhọc nhằn suy nghĩ về bất cứ chuyện gì.

Nếu ta xem xét một ngôn ngữ nhất định, ta sẽ thấy rằng những từ ngữ mà ngôn ngữ ấy cấu thành thay đổi khá chậm chạp theo dòng các thời đại; nhưng cái thay đổi không ngừng đó là những hình ảnh mà chúng gợi lên hay ý nghĩa mà người ta gán cho chúng; và chính vì vậy, trong một cuốn sách khác tôi đã đi đến kết luận rằng dịch trọn vẹn một ngôn ngữ, đặc biệt khi đó là của những dân tộc đã tiêu vong, là điều hoàn toàn không thể. Trên thực tế, ta đã làm gì khi ta thay thế một từ tiếng Pháp cho một từ Latin, Hy Lạp hay tiếng Phạn, hay khi chúng ta tìm cách hiểu một cuốn sách được viết bằng chính ngôn ngữ của ta, cách đây hai hoặc ba thế kỉ? Chúng ta chỉ đơn giản thay thế những hình ảnh và tư tưởng mà cuộc sống hiện đại đã đặt vào tâm trí ta, cho những khái niệm và những hình ảnh hoàn toàn khác mà cuộc sống xưa kia đã làm nảy sinh trong tâm hồn các chủng tộc từng phải phục tùng những điều kiện sống không giống như chúng ta. Khi những nhà cách mạng những tưởng đã bắt chước người Hy Lạp và La Mã, họ đã làm gì nếu không phải là cho những từ ngữ này không bao giờ có. Liệu có thể tồn tại điều gì tương tự giữa thể chế HyLap với thể chế mà ngày nay những từ tương ứng đã chỉ ra? Thế thì một nền cộng hoà là gì nếu không phải là một thể chế chủ yếu mang tính quý tộc được hình thành từ một nhóm các tiểu bạo chúa thống trị một đám đông nô lệ bị kìm giữ trong sự lệ thuộc tuyệt đối. Chính thể quý tộc công xã ấy, dựa trên chế độ nô lệ, không thể tồn tại giây lát mà không có nó.

Và từ tụ do, liệu nó có thể có nghĩa giống với những gì ta hiểu hôm nay, ở một thời đại mà khả năng tự do tư tưởng là điều chẳng phải hoài nghi, với một thời đại mà chẳng có tội nào nặng hơn và hiếm có hơn là bàn cãi về thần linh, luật pháp và tập tục của thành quốc? Một từ như từ tổ quốc, nó có nghĩa vì trong tâm hồn một người dân Athènes hay người dân Sparte nếu không phải là sự sùng bái thành Athènes hay thành Sparte, mà không hề có nghĩa sùng bái nước Hy Lạp, một đất nước gồm những thành quốc đối địch nhau và luôn trong chiến tranh: Cũng vẫn từ tổ quốc, nó có nghĩa gì đối với người Gaulois cổ đại, bị phân chia thành các bộ lạc đối địch, gồm nhiều chủng tộc, ngôn ngữ và tôn giáo khác nhau, mà Cesar đã chiến thắng dễ dàng bởi vì ông luôn có nhiều đồng minh trong các bộ lạc ấy. Chỉ có La Mã mới cho xứ Gaule một tổ quốc, khi đem lại cho nó sự thống nhất chính trị và tôn giáo. Không cần quay trở lại quá xa, chỉ cần lùi lại gần hai thế kỉ, liệu ta có tin rằng cùng từ tổ quốc này, các ông hoàng Pháp hiểu như ngày hôm nay không, ví dụ như hoàng thân Đại Condée, đã liên minh với nước ngoài để chống lại quốc vương của mình? Vả lại cũng vẫn từ tổ quốc ấy, chẳng phải nó có một ý nghĩa rất khác với nghĩa hiện đại đối với những người di cư đó sao, họ đã tin rằng tuân theo luật danh dự khi chống lại nước pháp, và theo quan điểm của họ, thực tế họ đã tuân theo luật ấy, bởi vì luật phong kiến gắn chư hầu với hoàng đế chứ không phải với đất đai, và vì hoàng đế ở đâu, nơi đó là tổ quốc đích thực.

Như vậy, nhiều từ ngữ mà nghĩa của chúng đã thay đổi sâu sắc từ thời này qua thời khác, và ta chỉ có thể hiểu được chúng như ngày xưa đã hiểu sau một cố gắng lâu dài. Người ta có lí khi nói rằng phải đọc nhiều mới đi đến chỗ quan niệm được, đối với cụ kị của chúng ta, những từ ngữ như vua và hoàng tộc có nghĩa là gì. Vậy thì đối với những từ ngữ còn phức tạp hơn thì sẽ ra sao đây?

Vậy từ ngữ chỉ có những ý nghĩa hay thay đổi và tạm thời, thay đổi từ thời này qua thời khác và từ dân tộc này qua dân tộc khác; và khi chúng ta muốn qua nó, tác động lên đám đông, thì điều ta cần biết, đó là ý nghĩa mà từ ngữ bao hàm đối với đám đông ở một thời điểm nhất định, chứ không phải ý nghĩa mà chúng đã có từ ngày xưa, hoặc ý nghĩa mà chúng có thể có đối với những cá nhân mang cấu tạo tinh thần khác.

Cho nên, tiếp theo những đảo lộn chính trị, khi đám đông đã hoàn tất những thay đổi niềm tin, bằng cách đạt được một sự đối lập sâu sắc đối với những hình ảnh mà một số từ ngữ gợi lên, thì việc đầu tiên của nhà chính khách đích thực là thay đổi những từ ngữ, dĩ nhiên, không động chạm tới bản thân các sự việc, bởi vì chúng gắn bó rất chặt chẽ với một cấu tạo di truyền khó có thể bị biến đổi. Ông Tocqueville sáng suốt đã đưa ra nhận xét từ lâu, là công việc của chế độ Tổng đại và của Đế chế trước hết bao gồm việc khoác lên phần lớn các thiết chế của quá khứ những tấm áo từ ngữ mới, nghĩa là thay thế các từ gợi lên những hình ảnh khó chịu trong trí tưởng tượng của đám đông bằng các từ ngữ khác mà sự mới mẻ của chúng ngăn cản những ấn tượng tương tự. Thuế thân đã trở thành đóng góp rộng đất; gabelle đã trở thành thuế muối, thuế trợ giúp trở thành đóng góp gián tiếp và thuế gộp; thuế cho các hãng buôn và phường hội được gọi là môn bài.

Vậy một trong những chức năng chủ yếu nhất của các chính khách là đặt tên bằng những từ bình dân, hay ít nhất là trung tính, cho các sự việc mà đám đông không thể chịu đựng nổi với những cái tên cũ. Sức mạnh của từ ngữ lớn đến nỗi chỉ cần gọi những sự việc bỉ ổi nhất bằng những từ ngữ đã chọn khéo là đủ để đám đông chấp nhận chúng. Taine nhận xét đúng đắn rằng chỉ bằng cách viện dẫn đến tự do và bác ái, những từ rất đại chúng khi đó, mà những người Jacobins đã có thể "sắp đặt được một chế độ chuyên chế xứng với nước Dahomey, một toà án giống như Toà án dị giáo, những cuộc tàn sát người giống như những cuộc tàn sát ở Mêhicô thời cổ". Nghệ thuật của những người cầm quyền, cũng như của những trạng sư là trước hết biết cách sử dụng những từ ngữ ấy. Một trong những khó khăn của nghệ thuật này là trong cùng một xã hội, cùng những từ ngữ thường có những nghĩa rất khác nhau đối với những tầng lớp xã hội khác nhau. Bề ngoài các tầng lớp dùng cùng những từ ngữ, nhưng họ không bao giờ nói cùng một ngôn ngữ.

Trong những ví dụ kể trên, chúng ta chủ yếu đã để cho thời gian can thiệp vào như là nhân tố chính đối với sự thay đổi nghĩa của từ ngữ. Nhưng nếu cho cả chủng tộc can thiệp vào, ta sẽ thấy vào cùng một thời đại, ở những dân tộc văn minh như nhau nhưng thuộc chủng tộc khác nhau, thì cùng những từ ngữ lại thường tương ứng với những tư tưởng vô cùng khác nhau. Khó có thể hiểu những khác nhau này nếu không du hành nhiều, vì thế tôi không thể nhấn mạnh chúng. Tôi chỉ đưa ra nhận xét rằng chính những từ ngữ được đám đông hay dùng nhất lại có những nghĩa khác nhau nhiều nhất từ dân tộc này qua dân tộc khác. Ví dụ như những từ dân chủ và chủ nghĩa xã hội thường dùng hôm nay.

Trên thực tế chúng tương ứng với những tư tưởng và những hình ảnh hoàn toàn đối nghịch nhau trong tâm hồn Latin và trong tâm hồn Anglo - Saxon. Ở người Latin từ dân chủ trước hết có nghĩa là sự xoá bỏ ý chí và sáng kiến của cá nhân trước ý chí và sáng kiến của cộng đồng được đại diện bởi Nhà nước. Chính Nhà nước càng ngày càng đảm nhiệm điều khiển tất cả, tập trung hoá, độc quyền hoá, và chế tạo tất cả. Mọi đảng phái, không ngoại lệ, cấp tiến, xã hội chủ nghĩa hay quân chủ đều luôn kêu gọi đến Nhà nước. Ở người Anglo - Saxon nhất là ở người Mỹ, cũng từ dân chủ ấy lại có nghĩa trái lại là phát triển mãnh liệt ý chí và cá nhân, xoá bỏ hoàn toàn Nhà nước chừng nào có thể, và, ngoài cảnh sát, quân đội và quan hệ ngoại giao, người ta không để cho Nhà nước chỉ đạo điều gì hết, ngay cả giáo dục cũng không. Vậy cùng một từ ấy, ở dân tộc này có nghĩa là xoá bỏ ý chí và sáng kiến cá nhân còn Nhà nước là ưu trội; ở một dân tộc khác lại có ý nghĩa là phát triển quá mức ý chí và sáng kiến ấy và xoá bỏ hoàn toàn Nhà nước, nghĩa là nó có nghĩa tuyệt đối trái ngược.

2. Ảo tưởng

Từ buổi bình minh của các nền văn minh, đám đông luôn phải chịu ảnh hưởng của những ảo tưởng. Người ta đã xây dựng nhiều đền đài, nhiều tượng, nhiều bàn thờ nhất cho những người sáng tạo ra các ảo tưởng. Ngày xưa là những ảo tưởng tôn giáo, ngày nay là những ảo tưởng triết học và xã hội, người ta luôn thấy những vị chúa tể quan trọng này ở trên đầu mọi nền văn minh đang liên tiếp đơm hoa trên hành tinh của chúng ta. Chính nhân danh những ảo tưởng, mà những ngôi đền thờ của Chaldée và Ai Cập, rồi những lâu đài tôn giáo thời Trung cổ đã được dựng lên, mà toàn thể châu Âu bị đảo lộn cách đây một thế kỉ, và chẳng riêng những quan niệm nghệ thuật, chính trị hay xã hội nào của chúng ta lại không mang dấu ấn mạnh mẽ của những ảo tưởng. Đôi khi con người lật đổ chúng với cái giá phải trả là những cuộc đảo lộn khủng khiếp, nhưng hình như con người luôn bị buộc phải dựng lại chúng. Không có những ảo tưởng, con người sẽ không thể thoát ra khỏi tình trạng dã man nguyên thủy, và nếu không còn chúng, con người sẽ lại sớm rơi vào tình trạng ấy. Chắc chắn đó là những cái bóng hão huyền, nhưng những con đẻ của giấc mơ ta đã buộc các dân tộc phải sáng tạo ra tất cả những gì đã làm nên sự huy hoàng của nghệ thuật và sự lớn lao của văn minh.

Một tác giả đã tóm tắt những chủ thuyết của chúng tôi từng viết: "Nếu chúng ta phá huỷ, trong những viện bảo tàng và những thư viện, và nếu chúng ta kéo đổ mọi tác phẩm và mọi công trình nghệ thuật lấy cảm hứng từ tôn giáo xuống những tấm đá lát sân trước nhà thờ, thì hỏi rằng những giấc mơ vĩ đại của con người còn lại gì? Đem lại cho con người phần hi vọng và ảo tưởng, mà không có nó con người không thể sống, đó là lí do tồn tại của các thần thánh, các anh hùng và các nhà thơ"

“Trong năm mươi năm, khoa học có vẻ như đảm nhiệm công việc này. Nhưng điều đã làm tổn hại tới nó trong những trái tim khát khao lí tưởng, đó là khoa học chẳng dám hứa hẹn cho đủ và nó cũng không biết nói dối cho đủ".

Các nhà triết học ở thế kỉ trước đã nhiệt tình chuyên tâm vào việc phá huỷ những ảo tưởng tôn giáo, chính trị và xã hội mà với chúng, cha ông ta trong nhiều thế kỉ dài đã sống. Khi phá huỷ chúng, họ đã làm vơi cạn nguồn hi vọng và sự nhẫn nhục. Đằng sau các ảo ảnh bị sát hại, họ lại tìm thấy những sức mạnh mù quáng và ngấm ngầm của tự nhiên. Không động lòng với sự yếu đuối những lực lượng này không biết đến tình thương.

Với tất cả bước tiến của mình, triết học vẫn chưa thể dâng tặng cho những đám đông một lí tưởng nào để có thể mê hoặc chúng; nhưng vì chúng cần những ảo tưởng bằng bất cứ giá nào, nên như sâu bọ luôn đổ xô đến ánh sáng, đám đông theo bản năng cũng hướng về các nhà hùng biện khoa trương, những người đã đưa ra cho đám đông ảo tưởng ấy. Nhân tố chủ yếu cho sự phát triển của các dân tộc không bao giờ là chân lí mà là sự sai lầm. Và ngày nay nếu như chủ nghĩa xã hội đang rất có thế lực, thì đó là vì nó là cái ảo tưởng duy nhất hãy còn sống động. Mặc cho mọi thông minh khoa học, nó vẫn tiếp tục lớn mạnh lên. Sức mạnh chủ yếu của nó được bảo vệ bởi những đầu óc không hiểu biết thấu đáo về thực tế của sự việc mà đã dám hứa hẹn đem lại hạnh phúc cho con người. Ngày nay ảo tưởng xã hội thống trị trên mọi đống đổ nát chất chồng của quá khứ, và tương lai thuộc về nó. Đám đông không bao giờ khát khao chân lí. Đứng trước những hiển nhiên làm nó không hài lòng, đám đông ngoảnh mặt đi, nó thích thần thánh hoá sự sai lầm, nếu như sai lầm lôi cuốn nó. Kẻ nào biết gây ảo tưởng cho đám đông sẽ dễ dàng làm ông chủ của nó; kẻ nào định phá giải ảo tưởng cho đám đông, kẻ ấy sẽ là nạn nhân của nó.

3. Kinh nghiệm

Kinh nghiệm gần như là phương pháp duy nhất hiệu nghiệm để thiết lập vững chắc một chân lí trong tâm hồn đám đông, và để phá huỷ những ảo tưởng đã trở nên quá nguy hiểm. Liệu có còn cần thiết khi kinh nghiệm phải được nhận thức trên diện rất rộng và thường phải được lặp đi lặp lại. Những kinh nghiệm mà một thế hệ đã trải qua thường vô ích với thế hệ sau; chính vì thế những sự kiện lịch sử được viện dẫn để chứng minh sẽ chẳng ích gì. Ích lợi duy nhất của chúng là chứng tỏ những kinh nghiệm phải được lặp đi lặp lại đến mức độ nào từ thời này qua thời khác để gây được ảnh hưởng nào đó, và thành công trong việc làm lay chuyển một sai lầm, khi sai lầm này đã cắm rễ vững chắc vào tâm hồn đám đông.

Thế kỉ của chúng ta và thế kỉ trước sẽ được các sử gia tương lai dẫn ra như một thời đại của những kinh nghiệm lạ kì. Chẳng có thời đại nào lại trải qua nhiều kinh nghiệm như thế.

Khổng lồ nhất trong những kinh nghiệm ấy là cuộc Cách mạng Pháp. Để phát hiện ra rằng người ta không thể tái tạo một xã hội hoàn toàn dựa trên các chỉ dẫn của lí trí thuần tuý, thì đã phải tàn sát nhiều triệu người và đảo lộn toàn thể châu Âu trong hai mươi năm. Để chứng minh bằng kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng những César đã gây tai hoạ lớn cho các dân tộc hoan nghênh họ, thì đã phải cần tới hai cuộc trải nghiệm tàn hại trong năm mươi năm, và mặc dù đã quá rõ ràng, các kinh nghiệm này dường như vẫn không đủ sức thuyết phục. Tuy thế, cuộc trải nghiệm thứ nhất đã phải trả giá bằng ba triệu người và một cuộc xâm lược, cuộc trải nghiệm thứ hai trả giá bằng việc mất đất đai và sự cần thiết phải có những đạo quân thường trực. Cách đây không lâu, suýt nữa người ta thử làm cuộc trải nghiệm thứ ba, và một ngày nào đó chắc nó sẽ xảy ra. Để làm cho cả một dân tộc chấp nhận rằng quân đội đông đảo của Đức không phải là một thứ vệ binh quốc gia hiền lành vô hại, như người ta đã rao giảng trước năm 1870, thì đã cần đến một cuộc chiến tranh khủng khiếp làm chúng ta phải trả giá quá đắt. Để nhận thức rằng, chủ nghĩa bảo hộ thuế quan sẽ làm sạt nghiệp những dân tộc đã chấp nhận nó, thì phải cần ít nhất hai mươi năm kinh nghiệm thảm khốc. Ta có thể nhân lên vô tận những ví dụ.

4. Lí trí

Khi kể ra những nhân tố có khả năng gây ấn tượng lên tâm hồn đám đông, ta có thể miễn hoàn toàn không nhắc tới lí trí, nếu không cần thiết chỉ ra giá trị tiêu cực về ảnh hưởng của nó.

Chúng tôi đã chỉ ra rằng sự suy luận không thể ảnh hưởng tới đám đông, rằng đám đông chỉ hiểu được những liên kết thô thiển của tư tưởng. Vậy nên những diễn giả biết gây ấn tượng cho đám dông thường kêu gọi tới tình cảm, chứ không bao giờ kêu gọi tới lí trí của đám đông. Những quy luật của phép logic không hề có một tác động nào đối với đám đông. Để thuyết phục nó, trước tiên phải hiểu rõ những tình cảm đang sục sôi trong nó, giả vờ chia sẻ những tình cảm ấy rồi thử làm biến thái chúng, bằng cách kích động, nhờ những liên tưởng sơ đẳng, một vài hình ảnh rất gợi cảm; và nếu cần, biết quay trở lại, nhất là từng khoảnh khắc phải đoán ra những tình cảm mà ta đã làm nảy sinh. Sự cần thiết của việc không ngừng thay đổi ngôn ngữ theo hiệu quả tức thời được sinh ra khi nói đã tước bỏ hết tính hiệu quả của những bài diễn văn được nghiền ngẫm và được chuẩn bị từ trước: trong đó diễn giả đi theo dòng tư tưởng của mình chứ không phải theo dòng tư tưởng của thính giả, và chỉ qua điều nảy thôi, ảnh hưởng của nó cũng trở nên hoàn toàn vô hiệu.

Những đầu óc logic, quen bị thuyết phục bởi chuỗi những suy luận khá chặt chẽ, không thể tự ngăn cản mình dùng phương cách thuyết phục này khi họ nói với đám đông, và sự thiếu thuyết phục trong lập luận của họ luôn làm họ ngạc nhiên. Một nhà logic học nói: “Những hệ luận toán học thông dụng - được xây dựng trên tam đoạn luận, nghĩa là trên sự liên kết của những tính đồng nhất - là tất yếu… Sự tất yếu thôi thúc sự tán đồng của ngay cả một khối người không hữu cơ, nếu khối này có khả năng đi theo những liên kết của nhũng đồng nhất". Chắc hẳn là vậy; nhưng đám đông lại ít có khả năng hơn một khối người không hữu cơ để có thể đi theo những liên kết như thế, thậm chí không hiểu cả nhưng liên kết ấy. Chẳng hạn nếu ta thử thuyết phục người nguyên thuỷ, người dã man, hay trẻ em bằng suy luận, ta sẽ hiểu phương cách lập luận này có giá trị ít ỏi như thế nào.

Thậm chí chẳng cần xuống đến tận người nguyên thuỷ để thấy sự bất lực hoàn toàn của những suy luận khi họ phải đấu tranh chống lại tình cảm. Chúng ta chỉ đơn giản nhớ lại những mê tín tôn giáo trái ngược với phép logic giản đơn nhất đã dai dẳng biết bao trong nhiều thế kỉ dài. Trong suốt gần hai nghìn năm, những thiên tài sáng suốt nhất cũng phải cúi mình trước luật lệ của chúng, và chỉ đến thời hiện đại thì tính xác thực của chúng mới có thể được đưa ra tranh cãi. Thời Trung cổ và thời Phục hưng có rất nhiều con người sáng suốt; nhưng cũng chẳng có một người nào trong số họ nhờ sự suy luận, chỉ ra những khía cạnh ngây thơ của mê tín, và làm nảy sinh chút mảy may nghi ngờ về tác hại của quỷ hoặc về sự cần thiết phải thiêu sống những phù thuỷ.

Liệu có cần phải tiếc rằng chưa bao giờ lí trí hướng dẫn đám đông không? Chúng tôi không dám nói điều ấy. Chắc chắn lí trí con người đã không thành công trong việc lôi kéo nhân loại vào con đường văn minh với nhiệt tình và lòng gan dạ mà những ảo tưởng đã nâng con người lên. Con đẻ của vô thức đã dẫn chúng ta đi, tất nhiên, những ảo tưởng ấy là cần thiết. Mỗi chủng tộc đều mang trong cấu tạo tinh thần những quy luật về số phận của mình, và có thể thuộc về những quy luật mà chủng tộc đã tuân theo thông qua một bản năng tất yếu, ngay trong những xung động bề ngoài thiếu suy xét nhất. Đôi khi hình như các dân tộc đều phải thuần phục những lực lượng bí mật tương tự như sức mạnh buộc quả sồi phải biến thành cây sồi, hoặc sao chổi phải đi theo quỹ đạo của nó.

Cái ít ỏi mà ta có thể dự cảm về những lực lượng này phải được tìm kiếm trong tiến trình chung của sự tiến hoá của một dân tộc chứ không phải trong những sự kiện tách biệt, mà từ đó đôi khi có vẻ như sự tiến hoá này nảy sinh. Nếu chúng la chỉ xem xét những sự kiện riêng lẻ này thì lịch sử dường như được chỉ đạo bởi những may rủi khó tin. Thật khó tin rằng một người thợ mộc dốt nát của xứ Galilée lại có thể trở thành một Đức Chúa toàn năng trong hai ngàn năm, nhân danh người, những nền văn minh quan trọng nhất được xây dựng; cũng thật khó tin rằng một vài nhóm người Ả Rập đi ra từ sa mạc lại có thể chinh phục cái phần lớn nhất của thế giới cổ đại Hy-la, và xây dựng một đế chế lớn hơn cả đế chế của Alexandre; và còn khó tin hơn nữa, trong một châu Âu rất già cỗi và rất có tôn ti trật tự, một trung uý pháo binh lại có thể thành công trong việc cai trị đám đông những dân tộc và vua chúa.

Vậy hãy để dành lí trí cho các nhà triết học, nhưng cũng không nên đòi hỏi lí trí phải can thiệp sâu vào việc quản lí con người. Không phải với lí trí và thường thì bất chấp nó, những tình cảm như danh dự, sự quên mình, niềm tin tôn giáo, tình yêu dành cho vinh quang và tổ quốc vẫn được tạo ra và cho đến nay vẫn là những động lực lớn của mọi nền văn minh.

Created by AM Word2CHM

Chương III. NGƯỜI CẦM ĐẦU ĐÁM ĐÔNG VÀ CÁCH THUYẾT PHỤC CỦA HỌ

TÂM LÝ HỌC ĐÁM ĐÔNG

à

Quyển II. Ý KIẾN VÀ NIỀM TIN CỦA ĐÁM ĐÔNG

1/ Người cầm đầu đám đông. - Nhu cầu bản năng của mọi người trong đám đông là tuân theo một người cầm đầu. - Tâm lí những người cầm đầu. - Chỉ có họ mới có thể tạo ra lòng tin và tổ chức đám đông. - Sự chuyên chế cưỡng bức của những người cầm đầu. - Phân loại những người cầm đầu. - Vai trò của ý chí.

2/ Phương tiện hành động của người cầm đầu. - Sự khẳng định, sự lặp đi lặp lại, sự lây nhiễm. - Vai trò tương ứng của những nhân tố khác nhau này. - Làm sao mà sự lây nhiễm có thể đi ngược từ tầng lớp thấp lên tầng lớp cao của một xã hội. - Một ý kiến bình dân nhanh chóng trở thành ý kiến chung.

3/ Uy tín. - Định nghĩa và phân loại uy tín. - Uy thế là uy lực. - Những ví dụ khác nhau. - Uy tín bị mất đi như thế nào.

Bây giờ ta đã biết cấu tạo tinh thần của những đám đông, và ta cũng biết những động lực nào có thể gây ấn tượng lên tâm hồn họ. Chúng ta chỉ còn phải nghiên cứu xem những động lực này cần được áp dụng thế nào, và ai có thể sử dụng chúng một cách có ích.

1. Người cầm đầu đám đông

Ngay khi một số đông những sinh vật tập hợp lại, dù đó là một đàn súc vật hay một đám đông những con người, thì theo bản năng chúng tự đặt mình dưới quyền uy của một thủ lĩnh.

Trong những đám đông con người, vị thủ lĩnh thực sự thường chỉ là một người cầm đầu nhưng với tư cách ấy, người này đóng một vai trò quan trọng. Ý chí của người cầm đầu là hạt nhân, chung quanh nó những ý kiến được hình thành và đồng nhất. Người cầm đầu là yếu tố đầu tiên của tổ chức đám đông không thuần nhất và chuẩn bị tổ chức nó thành những nhóm phái. Trong khi chờ đợi, người ấy điều khiển đám đông. Đám đông là một bầy đàn nô lệ không bao giờ có thể thiếu chủ.

Người dẫn dắt thoạt đầu thường là người bị dẫn dắt. Bản thân anh ta đã bị thôi miên bởi cái ý niệm mà sau đó anh ta trở thành người truyền bá. Ý niệm ấy xâm chiếm anh ta đến độ ngoài nó ra, tất cả đều biến mất, và mọi ý kiến ngược lại nói đều bị coi là sai lầm và mê tín. Chẳng hạn Robespierre bị thôi miênbởi những tư tưởng triết học của Rousseau, và sử dụng những phương pháp của Tòa án dị giáo để truyền bá chúng.

Thông thường những người cầm đầu đều không phải là các nhà tư tưởng, mà là những người hành động. Họ đều kém sáng suốt, và sẽ không thể sáng suốt, sự sáng suốt thường dẫn tới nghi ngờ và không hành động. Họ được tuyển chọn chủ yếu trong đám những người mắc chứng thần kinh, những người dễ bị kích động… luôn đi men trên bờ vực của sự điên rồ. Dù cho tư tưởng mà họ bảo vệ hay mục đích họ theo đuổi có thể phi lí đến thế nào, thì mọi lí luận đều bất lực trước lòng xác tín mạnh mẽ của họ. Sự khinh bỉ và những truy bức đều không làm cho họ động lòng, hoặc chỉ làm kích thích họ hơn mà thôi. Quyền lợi cá nhân, gia đình, tất cả đều bị coi khinh. Bản năng bảo tồn bản thân trong họ cũng bị triệt tiêu, đến nỗi phần thưởng duy nhất hấp dẫn họ là trở thành kẻ tử vì đạo. Cường độ niềm tin đem lại cho lời nói của họ một sức mạnh gợi ý to lớn. Quần chúng luôn sẵn sàng lắng nghe con người được thiên phú cho ý chí mạnh mẽ biết làm cho nó kính nể. Những con người tập hợp thành đám đông đánh mất toàn bộ ý chí, và theo bản năng, sẽ hướng theo người nào có một ý chí.

Các dân tộc không bao giờ thiếu người lãnh đạo: nhưng không phải người lãnh đạo nào cũng được khích lệ bằng niềm tin mãnh liệt, từng tạo nên những vị thánh tông đồ. Thường đó là những diễn giả tinh tế chỉ theo đuổi lợi ích cá nhân và tìm cách thuyết phục bằng cách mơn trớn những bản năng thấp hèn. Vậy nên ảnh hưởng mà họ tác động có thể rất lớn, nhưng nó vẫn thường rất ngắn ngủi. Những người có niềm tin lớn đã khuấy động tâm hồn đám đông, những Pierre Ấn sĩ, những Luther, những Savonarole, và những người của Cách mạng Pháp, chỉ tác động bằng sự thôi miên, sau khi bản thân họ, trước hết cũng đã bị thôi miên bởi một niềm tin. Lúc đó họ mới có thể tạo ra trong những tâm hồn sức mạnh khủng khiếp được gọi là niềm tin, điều làm cho con người trở thành nô lệ tuyệt đối cho giấc mơ của mình.

Tạo ra niềm tin, dù đó là niềm tin tôn giáo, niềm tin chính trị hay xã hội, niềm tin vào một tác phẩm, vào một nhân vật, và một ý niệm, đó là vài trò chủ yếu của những lãnh tụ vĩ đại và chính vì thế ảnh hưởng của họ bao giờ cũng rất đáng kể. Trong tất cả các sức mạnh mà nhân loại sẵn có, niềm tin bao giờ cũng là sức mạnh to lớn nhất, và thật có lí khi Kinh Phúc âm gán cho nó cái quyền năng dời núi. Đem lại cho con người một niềm tin, tức là tăng gấp bội sức mạnh của họ. Những biến cố lịch sử lớn đều được thực hiện bởi các tín đồ âm thầm, với họ hầu như chỉ có niềm tin. Những tôn giáo lớn thống trị thế giới được xây dựng không phải nhờ vào các học giả và triết gia, cũng không phải nhờ vào những kẻ hoài nghi, càng không phải nhờ vào những đế chế rộng lớn trải dài từ bán cầu này tới bán cầu nọ.

Nhưng trong những ví dụ ấy, vai trò chủ yếu là những lãnh tụ vĩ đại, và họ khá hiếm hoi nên lịch sử có thể dễ dàng đưa ra con số. Họ họp thành đỉnh cao của một dãy liên tục đi xuống, từ những kẻ chỉ huy con người đầy quyền năng ấy cho đến người thợ mà, trong một quán trọ ám khói, anh ta từ từ thu hút bè bạn của mình bằng cách nhai lại không ngừng một số công thức mà anh ta chẳng hiểu mấy, nhưng theo anh ta, sự áp dụng chúng chắc hẳn dẫn tới việc thực hiện mọi giấc mơ và mọi niềm kì vọng.

Trong mọi lĩnh vực xã hội, từ cao nhất tới thấp nhất, ngay khi con người không còn tách lẻ nữa, anh ta nhanh chóng rơi vào quyền lực của một người đứng đầu. Phần lớn con người nhất là trong đám bình dân, đều không có, ngoài chuyên môn của họ, những ý niệm rõ ràng và có suy tính đối với bất cứ chuyện gì. Họ không có khả năng tự dẫn dắt. Người đứng đầu là người dẫn đường chỉ lối cho họ. Người đứng đầu, xét cho cùng, có thể bị thay thế, tuy không hiệu quả lắm bởi những xuất bản phẩm định kì trình bày ý kiến với người đọc và cung cấp cho họ những câu chữ hoàn toàn làm sẵn để khỏi phải bận tâm lí luận.

Quyề uy của những người cầm đầu là rất chuyên chế, và thậm chí chính sự chuyên chế này là điều kiện để áp đặt quyền uy lên những người khác. Người ta thường nhận thấy biết bao nhiêu nhà lãnh đạo dễ dàng được cả những tầng lớp công nhân ngỗ nghịch nhất vâng lời, dù rằng quyền uy của họ chẳng dựa trên phương tiện gì cả. Họ định giờ lao động, tỷ lệ lương, họ quyết định những cuộc đình công, cho bắt đầu và kết thúc chúng ở thời điểm do họ định đoạt.

Ngày nay, những người cầm đầu càng có khuynh hướng thay thế quyền lực công, thì quyền lực công càng bị chất vấn và suy yếu đi. Sự bạo ngược của những ông chủ mới này làm đám đông ngoan ngoãn vâng lời họ hơn cả khi họ đã từng vâng lời chính quyền. Nếu, do một tai biến nào đó, người lãnh đạo biến mất, và không được thay thế ngay tức thời, đám đông lại trở thành một tập thể không cố kết, không sức kháng cự. Trong một cuộc đình công của nhân viên xe bus ở Paris, chỉ cần bắt hai người đứng đầu lãnh đạo cuộc đình công ấy là đã đủ làm cho nó kết thúc ngay tức khắc. Đó không phải nhu cầu tự do, mà là nhu cầu nô lệ luôn ngự trị trong tâm hồn đám đông. Đám đông có một niềm khao khát vâng lời mà do bản năng, chịu phục tùng kẻ nào biết tự xưng mình là ông chủ của họ.

Người ta có thể thiết lập một sự phân chia khá rõ nét trong tầng lớp những người lãnh đạo. Loại thứ nhất là những người cương nghị, ý chí mạnh mẽ, nhưng nhất thời; loại thứ hai hiếm hơn nhiều so với loại trước, là những người có một ý chí vừa mạnh mẽ, vừa lâu bền. Loại thứ nhất thì dữ tợn, can đảm, táo bạo. Họ có ích nhất khi chỉ đạo một trận đánh úp, lôi kéo quần chúng bất chấp hiểm nguy, biến những tân binh mới nhập ngũ hôm trước thành các anh hùng. Ví dụ như Ney và Murat dưới thời Đế chế thứ nhất. Ngày nay như Garibaldi, một kẻ phiêu lưu bất tài, nhưng cương nghị, chỉ với một dúm người mà vẫn thành công trong việc chiếm xứ Naples cổ, tuy nó được một đạo quân có kỉ luật bảo vệ.

Nhưng nếu nghị lực của những người lãnh đạo này mạnh mẽ, thì nó lại có tính nhất thời, ít khi sống mãi với nguồn kích thích đã sinh ra nó. Trở về với cuộc sống đời thường, những người anh hùng từng sống sôi nổi nghị lực như thế lại tỏ ra yếu đuối đến kinh ngạc như những người tôi vừa kể ra đây. Họ dường như không thể suy nghĩ và cư xử trong những hoàn cảnh đơn giản nhất, trong khi họ đã từng biết dẫn dắt những người khác rất tốt. Đó là những nhà lãnh đạo chỉ có thể thực hiện chức năng của mình với điều kiện bản thân ông ta cũng bị dẫn dắt và được kích thích không ngừng bên trên những người này luôn phải có một con người hay một ý niệm, theo một đường lối ứng xử đã được vạch ra rõ ràng.

Loại lãnh đạo thứ hai là những người có ý chí lâu bền; mặc dù hình thức kém nổi trội, họ lại có ảnh hưởng to lớn hơn nhiều. Ở họ, ta thấy những nhà sáng lập đích thực ra các tôn giáo hay những sự nghiệp lớn, như Thánh Paul, Mahomet, Christophe Colomb, Lesseps. Dù họ thông minh hay thiển cận, điều đó cũng không quan trọng thế giới sẽ luôn thuộc về họ. Ý chí bền bỉ mà họ có là một khả năng vô cùng hiếm hoi và vô cùng mạnh mẽ làm tất cả phải phục tùng. Người ta thường không nhận thức một cách đầy đủ về những điều mà một ý chí mạnh mẽ và kiên trì có thể làm được: chẳng có gì cưỡng lại nổi nó, cả tự nhiên, cả thần thánh, cả con người đều không cưỡng nổi.

Ví dụ gần đây nhất về những điều mà một ý chí mạnh mẽ và kiên trì có thể làm được, đó là về con người nổi tiếng [F. Lesseps] đã chia đôi thế giới [Đông-tây bằng kênh đào Suez] và thực hiện cái công việc mà từ ba ngàn năm nay các vị quân vương vĩ đại nhất đã toan tính một cách vô ích. Sau này ông ta thất bại trong một công trình tương tự; nhưng tuổi già đã đến, và trước nó tất cả đều tắt ngấm, cả ý chí cũng vậy.

Khi người ta muốn chỉ ra điều mà ý thí mới có thể làm được, chỉ cần giới thiệu chi tiết câu chuyện về những khó khăn phải vượt qua để đào kênh Suez. Một nhân chứng chứng kiến tận mắt, bác sĩ Cazalis, đã tóm tắt khái quát bằng vài dòng đầy xúc động, về công trình vĩ đại này được tác giả bất tử của nó kể lại. “Và ông ấy đã kể, từ ngày này qua ngày khác, qua từng giai đoạn, bản anh hùng ca về kênh đào. Ông kể mọi điều mà ông đã phải chiến thắng, mọi cái không thể mà ông đã biến thành có thể, mọi sự kháng cự, những liên minh chống lại ông, và cả những nỗi thất vọng, những mặt trái, những thất bại, nhưng tất cả những điều đó đã không bao giờ có thể làm ông nản lòng, cung không thể làm ông ngã gục. Ông gợi nhớ lại chuyện nước Anh đã chống lại ông, tấn công ông liên tục, Ai Cập và Pháp thì do dự, còn lãnh sự Pháp phản đối hơn tất cả các lãnh sự khác khi công trình mới khởi công và chống đối ông bằng cách buộc công nhân phải bỏ việc vì khát, vì không chịu cung cấp nước ngọt cho họ; và cả bộ thuỷ quân cùng các kĩ sư, tất cả những con người đứng đắn, có kinh nghiệm và cả các nhà khoa học, tất cả đều tự nhiên chống đối, và tất cả đều tin chắc một cách khoa học vào thảm hoạ, người ta tính toán điều đó, tiên đoán nó, cứ như đến ngày nào đó hay giờ nào đó, sẽ xảy ra nhật thực hay nguyệt thực vậy".

Cuốn sách kể lại cuộc đời những nhà lãnh tụ vĩ đại này không bao chứa nhiều tên tuổi lắm đâu. Nhưng các tên tuổi ấy đều đứng đầu những biến cố quan trọng nhất của văn minh và lịch sử.

2. Phương tiện hành động của người cầm đầu: khẳng định, nhắc đi nhắc lại, lây nhiễm

Khi phải lôi kéo đám đông trong một thời khắc, và xui khiến đám đông tiến hành một hành vi nào đó, chẳng hạn cướp phá một toà lâu đài, hi sinh thân mình để bảo vệ một vị trí quan trọng hay một chiến luỹ, cần phải tác động lên đám đông bằng những gợi ý nhanh, mà sự gợi ý mạnh nhất vẫn là nêu gương, nhưng khi đó cần thiết là đám đông phải được chuẩn bị bởi một số hoàn cảnh nhất định, và đặc biệt người nào muốn lôi kéo nó phải có phẩm chất mà tôi sẽ nghiên cứu sau, dưới cái tên uy tín.

Nhưng khi vấn đề là làm cho những tư tưởng và niềm tin thâm nhập vào tâm trí đám đông - ví dụ những lí thuyết xã hội hiện đại - thì phương pháp của những người đứng đầu rất khác nhau. Chủ yếu họ dùng ba phương pháp rất rõ ràng: khẳng định, nhắc đi nhắc lại, lây nhiễm. Tác dụng của những phương pháp ấy khá chậm, nhưng hiệu quả của nó một khi đã được tạo ra thì rất lâu bền.

Sự khẳng định thuần tuý và đơn giản, thoát khỏi mọi lí luận và mọi chứng cứ, là một trong những phương tiện chắc chắn nhất để làm cho một tư tưởng thâm nhập vào tâm trí đám đông. Sự khẳng định càng súc tích, càng thiếu vẻ bề ngoài của những chứng cứ và chứng minh, thì nó càng nhiều uy lực. Các sách tôn giáo và các bộ luật của mọi thời đại thường được viết bằng sự khẳng định đơn giản. Những chính khách phải bảo vệ một mục đích chính trị nào đó, những nhà công nghiệp quảng ba sản phẩm của mình bằng quảng cáo, đều biết giá trị của sự khẳng định.

Tuy nhiên, sự khẳng định chỉ có ảnh hưởng thực sự với điều kiện phải thường xuyên được nhắc đi nhắc lại, và càng nhiều càng tốt, trong cùng những cách nói như nhau. Tôi nghĩ chính Napoléon đã nói rằng chỉ có duy nhất một hình thái tu từ nghiêm túc, đó là sự nhắc đi nhắc lại. Sự việc được khẳng định bằng cách nhắc đi nhắc lại sẽ đạt tới xác lập trong tâm trí con người đến nỗi cuối cùng anh ta chấp nhận nó như một chân lí đã được chứng minh.

Người ta hiểu rõ ảnh hưởng của sự nhắc đi nhắc lại đối với đám đông, khi nhìn thấy nó có sức mạnh đến thế nào đối với những đầu óc sáng suốt nhất. Sức mạnh sinh ra từ việc nhắc đi nhắc lại ấy cuối cùng đã bám chắc vào những miền sâu thẳm của vô thức nơi xây dựng những động cơ cho hành động của chúng ta. Sau một thời gian nào đó, chúng ta không còn biết ai là tác giả của sự khẳng định được nhắc đi nhắc lại ấy nữa, và cuối cùng chúng ta tin vào nó. Sức mạnh kì lạ của quảng cáo là từ đó. Khi chúng ta đọc một trăm lần, một nghìn lần rằng sô cô la tốt nhất là sô cô la X, chúng ta tưởng tượng là đã nghe nói đến nó tốt ở nhiều khía cạnh, và cuối cùng ta tin chắc điều đó. Khi chúng ta đã đọc nghìn lần rằng bột Y đã chữa cho nhiều nhân vật quan trọng khỏi những căn bệnh dai dẳng nhất, cuối cùng chúng ta có ý định dùng thử nó khi chúng ta bị nhiễm căn bệnh ấy. Nếu chúng ta luôn đọc thấy trên một tờ báo rằng ông A là một kẻ hoàn toàn vô lại và ông B là một người rất lương thiện, thì cuối cùng chúng ta tin điều đó; dĩ nhiên, trừ phi là chúng ta thường xuyên đọc một tờ báo khác có ý kiến trái ngược, hoặc hai từ chỉ phẩm chất bị đảo ngược. Chỉ có sự khẳng định và sự nhắc đi nhắc lại là cân tài cân sức để có thể đấu tranh với nhau.

Khi một sự khẳng định được nhắc đi nhắc lại một cách đầy đủ, và khi có sự nhất trí trong việc nhắc đi nhắc lại, - như điều này đã xảy ra đối với một số hãng kinh doanh tài thính nổi tiếng, đủ giàu có để mua mọi quỹ trợ giúp - thì cái mà ta gọi là luồng ý kiến sẽ được hình thành và bây giờ cơ chế mạnh mẽ của sự lây nhiễm can thiệp vào. Trong đám đông, tư tưởng, tình cảm, xúc cảm, niềm tin có một khả năng lây nhiễm mãnh liệt như khả năng của vi trùng. Hiện tượng này rất tự nhiên vì ta quan sát thấy nó ở bản thân loài vật ngay khi chúng họp thành đám đông. Một con ngựa ợ hơi trong chuồng, những con ngựa khác cùng chuồng nhanh chóng bắt chước ngay. Một sự hốt hoảng hay một cử động hỗn loạn của vài con cừu sẽ nhanh chóng lan ra cả đàn. Ở con người trong đám đông, mọi xúc cảm đều lây nhiễm rất nhanh, và chính điều này đã giải thích tính đột ngột của những hoảng loạn. Các rối loạn não bộ, như điên loạn, bản thân chúng cũng có tính lây nhiễm. Người ta biết đến nhiều thầy thuốc tâm thần cũng hay mắc bệnh tâm thần. Thậm chí mới đây người ta đã nhắc tới những hình thức bệnh điên, ví dụ chứng sợ khoảng rộng hay sợ chỗ đông người, được truyền từ người sang loài vật.

Sự lây nhiễm không đòi hỏi nhiều cá nhân đồng thời hiện diện tại một điểm duy nhất, nó có thể xảy ra từ xa, dưới ảnh hưởng của một số biến cố định hướng mọi tâm trí vào cùng một hướng, và đem lại cho họ những tính cách đặc biệt của đám đông, nhất là khi những tâm trí được chuẩn bị trước do các nhân tố xa mà tôi đã nghiên cứu ở phần trên. Chẳng hạn, chính vì vậy mà sự bùng nổ cách mạng 1848 xuất phát từ Paris, bỗng đột ngột lan rộng ra phần lớn châu Âu và làm chao đảo nhiều chế độ quân chủ.

Sự bắt chước, mà người ta đã gán cho nó quá nhiều ảnh hưởng tới các hiện tượng xã hội, trên thực tế, chỉ là một hiệu quả đơn giản của sự lây nhiễm. Vì đã chỉ ra ở chỗ khác ảnh hưởng của nó, tôi chỉ giới hạn viết lại điều mà tôi đã nói cách đây hơn hai mươi năm, và từ đó đến nay vẫn được nhiều nhà văn khác phát triển trong những xuất bản phẩm mới đây:

“Giống như loài vật, con người đương nhiên có bản tính bắt chước. Đối với anh ta, bắt chước là một nhu cầu, dĩ nhiên với điều kiện sự bắt chước ấy hoàn toàn dễ dàng. Chính nhu cầu này đã làm cho cái ta gọi là mốt thời trang có ảnh hưởng mạnh đến thế. Dù là những ý kiến, những tư tưởng, những biểu hiện văn học, hay đơn giản là áo quần, có bao nhiêu điều đã dám thoát khỏi ảnh hưởng của nó? Người ta lãnh đạo đám đông không phải bằng những lập luận, mà bằng những kiểu mẫu. Ở mỗi thời đại đều có một số ít nhân vật có cá tính in dấu hành động của họ, và đám đông vô thức bắt chước họ. Tuy nhiên các cá nhân này không nên quá xa lánh những tư tưởng đã được tiếp nhận. Lúc đó bắt chước họ sẽ là quá khó và ảnh hưởng của họ sẽ không còn là gì nữa. Chắc chắn chính vì lí do này mà những người quá cao siêu so với thời đại của mình nói chung không có ảnh hưởng nào đối với đám đông. Khoảng cách quá lớn. Cũng chính vì lí do ấy mà những người châu Âu với tất cả lợi thế văn minh của mình, lại chỉ có một ảnh hưởng không đáng kể đối với những dân tộc Đông phương, họ quá khác biệt những dân tộc này.

Tác động kép của quá khứ và của sự bắt chước lẫn nhau rốt cuộc đã làm cho mọi người trong cùng một đất nước và cùng một thời đại đều giống nhau; ngay cả những người có vẻ phải trốn ra khỏi tác động kép ấy nhất như nhà triết học, nhà bác học và nhà văn, thì tư tưởng và phong cách cũng có hơi hướng thân thuộc, làm ta nhận ra ngay họ thuộc về thời đại nào. Chẳng cần phải nói chuyện lâu với một cá nhân cũng biết rõ họ đọc gì, việc làm của họ và môi trường mà họ đang sống".

Sự lây nhiễm mạnh đến mức nó áp đặt cho cá nhân chẳng những một số ý kiến mà còn cả một số cung cách cảm nhận. Chính sự lây nhiễm làm cho ở một thời đại nào đấy người ta đã coi khinh một tác phẩm nào đấy, ví dụ tác phẩm Tannhauser, rồi vài năm sau, chính những người đã chê bai nó nhiều nhất lại khâm phục nó.

Chính bằng cơ chế lây nhiễm, chứ không bao giờ bằng cơ chế suy luận, mà những ý kiến và niềm tin của đám đông được truyền bá. Chính trong những quán rượu, và bằng cách khẳng định, nhắc đi nhắc lại và lây nhiễm, mà những quan niệm hiện thời của người công nhân được thiết lập; và những niềm tin của đám đông ở mọi thời đại cũng được tạo ra chẳng khác gì lắm. Renan đã so sánh rất đúng những nhà sáng lập đầu tiên ra Ki Tô giáo “với những người công nhân xã hội chủ nghĩa truyền bá tư tưởng của họ từ quán rượu này sang quán rượu khác"; và Voltaire đã nhận xét về Ki Tô giáo rằng "chỉ có đám vô lại xấu xa nhất đi theo tôn giáo này trong vòng hơn một trăm năm".

Trong những ví dụ giống những ví dụ tôi vừa mới kể, người ta nhận thấy rằng sự lây nhiễm sau khi tác động vào tầng lớp bình dân, rồi sẽ chuyển sang các tầng lớp trên trong xã hội. Đó là điều mà ngày nay ta nhìn thấy ở các học thuyết xã hội chủ nghĩa, khi chúng bắt đầu tranh thủ được cả những người vốn dự kiến là nạn nhân đầu tiên của chúng. Cơ chế lây nhiễm mạnh mẽ đến nỗi trước tác động của nó, bản thân quyền lợi cá nhân cũng biến mất.

Và chính vì vậy bất cứ ý kiến nào đã trở nên đại chúng cuối cùng luôn phải được áp đặt vào những tầng lớp xã hội cao nhất, với một sức mạnh to lớn, cho dù ý kiến đắc thắng ấy có tỏ ra phi lí đến mấy. Ở đây, phản ứng của những tầng lớp dưới trong xã hội đối với tầng lớp trên càng lạ lùng hơn, vì những niềm tin của đám đông bao giờ cũng sinh ra dù ít dù nhiều từ một vài tư tưởng cao siêu vốn chẳng có ảnh hưởng trong môi trường mà nó được nảy sinh. Những người lãnh tụ bị tư tưởng cao siêu này chinh phục, liền chiếm lấy nó, bóp méo nó đi và tạo ra một phe phái, phe phái lại bóp méo nó lần nữa, rồi truyền bá nó vào giữa đám đông, đám đông lại tiếp tục làm nó méo mó hơn nữa.

Khi đã trở thành chân lí đại chúng, bằng cách nào đó tư tưởng cao siêu ấy quay ngược về nguồn và bấy giờ tác động lên tầng lớp trên của một dân tộc. Rốt cuộc, chính trí tuệ đã dẫn dắt thế giới, nhưng thực ra nó dẫn dắt thế giới từ rất xa. Các triết gia sáng tạo ra những tư tưởng đều đã trở về với cát bụi từ rất lâu rồi, trong khi tư tưởng của họ, nhờ hiệu quả của cơ chế mà tôi vừa mô tả, cuối cùng đã chiến thắng:

3. Uy tín

Điều góp phần chủ yếu đem lại cho những tư tưởng được truyền bá nhờ khẳng định, lặp đi lặp lại lây nhiễm, một sức mạnh rất to lớn, chính là khi rốt cuộc chúng đạt được một quyền năng bí ẩn có tên là uy tín.

Tất cả những gì thống trị thế giới, tư tưởng hay con người, đều chủ yếu bị áp đặt bởi một sức mạnh không gì cưỡng lại nổi, được biểu thị bằng từ uy tín. Đó là một từ mà chúng ta đều nắm được trọn vẹn ý nghĩa, nhưng chúng ta đã áp dụng nó theo nhiều cách rất khác nhau nên thật không dễ dàng định nghĩa nó. Uy tín có thể bao hàm một số tình cảm như khâm phục hoặc sợ hãi. Uy tín có khi cần những tình cảm này làm cơ sở, nhưng nó vẫn hoàn toàn có thể tồn tại mà không có những tình cảm ấy. Đó là những người đã chết, và do đó là những người ta không sợ, ví dụ Alexandre Đại đế. César, Mohamet, Đức Phật, những người có uy tín nhất. Mặt khác, có nhiều người hay nhiều điều tưởng tượng mà ta không khâm phục, ví dụ những vị thần quái gở trong các đền thờ ngầm dưới đất ở Ấn Độ, tuy với ta, chúng có vẻ được trát phủ bằng một uy tín lớn.

Thực ra, uy tín là một thứ thống trị mà một cá nhân, một sự nghiệp hay một tư tưởng tác động lên tâm trí chúng ta. Sự thống trị này làm tê liệt mọi khả năng phê phán và rót đầy tâm hồn ta sự ngạc nhiên và lòng kính trọng. Cũng như mọi loại tình cảm, tình cảm được khơi gợi ấy không thể giải thích nổi, nhưng nó phải cùng trật tự với sự mê hoặc bởi một chủ thể bị thôi miên. Uy tín là nguồn lực mạnh nhất của mọi sự thống trị. Những thần linh, vua chúa và phụ nữ không bao giờ thống trị mà lại thiếu nó.

Ta có thể đưa các loại uy tín khác nhau vào hai hình thức chính: uy thế và uy lực. Uy thế là loại uy tín nhờ tên tuổi, của cải, sự nổi tiếng mà có. Nó có thể độc lập với uy lực. Trái lại, uy lực là cái gì đó thuộc về cá nhân, có thể cùng tồn tại với sự nổi tiếng, vinh quang, của cải, hay được tăng lên nhờ chúng, nhưng nó cũng có thể hoàn toàn tồn tại mà không có chúng.

Uy thế, hay uy tín giả tạo, là loại uy tín phổ biến nhất. Chỉ riêng việc một cá nhân chiếm một vị trí nào đó, sở hưu một tài sản nào đó, được phong một chức tước nào đó, người ấy đã có uy tín, dù giá trị cá nhân của anh ta có thể chẳng có gì. Một quân nhân mặc quân phục, một quan toà mặc áo đỏ bao giờ cũng có uy tín. Pascal đã ghi nhận rất đúng sự cần thiết của áo và tóc giả đối với quan toà. Không có chúng, họ đã mất đi ba phần tư quyền uy. Một người theo chủ nghĩa xã hội dạn dĩ nhất bao giờ cũng hơi xúc động khi nhìn thấy một ông hoàng hay một hầu tước; và mang một tước vị như thế cũng đủ để tha hồ lừa bịp một nhà buôn.

Cái uy tín mà tôi vừa mới nói là thứ uy tín do con người gây ra; ta còn có thể đặt bên cạnh nó thứ uy tín do những ý kiến, những tác phẩm văn học hay nghệ thuật v.v… tác động. Thông thường đó chỉ là sự nhắc đi nhắc lại được tích tụ. Lịch sử, nhất là lịch sử văn học và nghệ thuật chỉ là sự nhắc đi nhắc lại cùng những đánh giá mà chẳng ai thử kiểm tra, nên mỗi người rốt cuộc chỉ nhắc lại điều đã học ở trường, và có những tên tuổi, những sự việc chẳng ai dám động chạm tới. Đối với một độc giả hiện đại, tác phẩm của Homère làm người ta ngán ngẩm ghê gớm và không thể chối cãi được, nhưng ai dám nói ra điều đó? Trong tình trạng hiện nay, đền Parthénon là một phế tích chẳng ích lợi gì; nhưng nó lại có uy tín đến độ ta đâu chỉ nhìn bản thân nó mà còn nhìn nó cùng với toàn bộ “đoàn tuỳ tùng" gồm những kí ức lịch sử về nó. Cái đặc thù của uy tín là ngăn cản ta nhìn sự vật đúng như nó vốn có và làm tê liệt mọi đánh giá của chúng ta. Những đám đông thì luôn luôn, còn những cá nhân thì thường xuyên cần đến các ý kiến đã được đúc sẵn về mọi vấn đề. Sự thành công của những ý kiến này độc lập với phần chân lí hay sai lầm mà chúng chứa đựng; nó phụ thuộc duy nhất vào uy tín của chúng mà thôi.

Bây giờ tôi mới nói tới uy lực. Nó thuộc về một bản tính rất khác với uy tín giả tạo hay uy thế mà tôi vừa mới nói tới. Đó là một khả năng độc lập với mọi tước vị, mọi quyền uy mà chỉ một số ít người có được, cho phép họ tạo ra một sự lôi cuốn có sức hấp dẫn thực sự huyền diệu đối với những người xung quanh, trong khi đó, về mặt xã hội, họ bình đẳng với những người xung quanh, và không hề có một phương tiện thông thường nào để thống trị. Họ áp đặt tư tưởng, tình cảm của mình lên những người chung quanh, và người ta vâng theo họ như con thú dữ tuân theo người dạy thú mà nó có thể dễ dàng ăn thịt.

Những lãnh tụ vĩ đại của đám đông, như Đức Phật, Jésus, Mahomet, Jeanne d'Arc, Napoléon đều sở hữu hình thức uy tín này ở mức độ cao; và chính nhờ hình thức uy tín ấy mà họ có được vị trí của mình. Những thần linh, những anh hùng và những tín điều đều tự xác lập vị trí của mình và không bị mang ra thảo luận; những điều đó sẽ tiêu tan ngay khi người ta bàn tán về chúng.

Các nhân vật vĩ đại mà tôi vừa kể đã sở hữu quyền năng mê hoặc từ rất lâu trước khi trở nên nổi tiếng, và họ sẽ không trở nên như thế nếu không có nó. Chẳng hạn, rõ ràng là, ở đỉnh cao vinh quang, chỉ bằng sức mạnh của mình, Napoléon đã tỏ rõ một uy lực rất lớn; nhưng uy lực ấy, phần nào ông đã được thiên phú khi ông chưa có chút quyền lực nào và hoàn toàn chưa ai biết đến. Khi còn là một viên tướng vô danh, nhờ sự bảo hộ ông được cử đến chỉ huy quân đội ở Italia, ông rơi vào giữa những tướng tá thô lỗ đang chuẩn bị một cuộc tiếp đón khó chịu dành cho chàng trẻ tuổi không mời mà đến do Ban Đốc chính tống sang cho họ. Ngay từ phút đầu tiên, ngay từ cuộc hội kiến đầu tiên, không một câu nói, không một cử chỉ, không một lời đe doạ, ngay từ cái thoạt nhìn của bậc vĩ nhân tương lai, bọn họ đã chịu khuất phục. Dựa vào hồi ức của những người cùng thời, Taine đã đưa ra câu chuyện kì lạ về cuộc hội kiến này:

“Những vị tướng của sư đoàn, trong đó có Augereau, một loại anh hùng võ biền và thô lỗ, kiêu hãnh vì thân hình cao lớn và tính cách quả cảm của mình, Augereau bực bội khó chịu đến đại bản doanh gặp kẻ hãnh tiến nhỏ bé mà Paris cử đến. Căn cứ trên sự mô tả về Bonaparte mà họ nhận được, Augereau đã có xu hướng hỗn xược và không chịu phục tùng ngay từ trước: ông là một sủng thần của Barras, lên cấp tướng nhờ sự cố tháng Nho, một vị tướng lên lon nhờ tài chiến đấu trên đường phố, trông như con gấu, bởi vì ông ta bao giờ cũng chỉ lặng lẽ suy nghĩ một mình, một vẻ mặt nhỏ mọn, lại nổi tiếng là nhà toán học và người mơ mộng. Người ta dẫn họ vào, và Bonaparte bắt họ phải chờ. Cuối cùng ông xuất hiện, lưng đeo kiếm, đội mũ, giải thích sự sắp xếp của mình, ra lệnh cho họ rồi giải tán. Augereau vẫn câm lặng; chỉ khi ra ngoài ông mới trấn tĩnh lại và chửi thề như mọi ngày; ông đồng ý với Masséna rằng cái con c... của vi tướng đã làm ông ta sợ; ông không thể hiểu được cái ảnh hưởng làm ông cảm thấy bi đè bẹp ngay từ cái liếc nhìn đầu tiên".

Trở thành một vĩ nhân, uy tín của ông tăng nhanh nhờ toàn bộ vinh quang và đối với những người sùng tín, ít nhất cũng ngang bằng uy tín của thần linh. Tướng Vandamme, con người võ biền cách mạng, còn tàn nhẫn hơn, cương nghị hơn Augereau, nói với thống chế Ornano về ông, năm 1815, vào một ngày họ cùng bước lên cầu thang của điện Tuileries:

“Ông bạn thân mến ạ, con người quỷ quái ấy đã tác động lên tôi một sự mê hoặc mà tôi không thể hiểu được. Ngay đến như tôi, kẻ chẳng sợ thần linh cũng không sợ ma quỷ, khi lại gần ông ta, tôi đã run lên như một đứa trẻ, ông ta khiến tôi có thể chui qua lỗ kim để ném mình vào lửa".

Napoléon gây nên sự mê hoặc như thế đối với bất cứ ai đến gần ông.

Khi kể về sự tận tụy của Maret và của mình, Davoust nói: “Giả sử Hoàng đế nói với cả hai chúng tôi: “Để đảm bảo cho quyền lợi chính trị của ta nên cần phải phá huỷ Paris mà không được cho ai chạy thoát", tôi tin chắc Maret sẽ giữ bí mật, nhưng anh ta sẽ không thể tự ngăn mình làm phương hại chuyện đó bằng cách đưa gia đình trốn ra khỏi Paris. Còn tôi ư, vì sợ điều đó bị đoán ra, tôi sẽ để vợ con tôi ở lại Paris".

Phải nhớ lại cái sức mạnh mê hoặc kì lạ này mới hiểu được chuyến trở về ngoạn mục của Napoléon từ đảo Elbe; một con người đơn độc đã ngay lập tức chinh phục được nước Pháp, trước mặt ông là tất cả những lực lượng có tổ chức của một nước lớn, mà người ta cứ tưởng đã chán ngấy chế độ bạo tàn của ông. Chỉ cần nhìn vào những tướng tá được cử đi để bắt ông, và họ đã thề sẽ bắt được. Tất cả đều đầu hàng chẳng cần bàn cãi.

Vị tướng người Anh Wolseley viết: “Napoléon đổ bộ lên nước Pháp hầu như chỉ có một mình, và ông ta như một kẻ chạy trốn khỏi đảo Elbe là vương quốc của mình; chỉ trong vòng vài tuần ông đã thành công không cần đổ máu, làm đảo lộn toàn bộ tổ chức quyền lực của nước Pháp dưới sự trị vì của vị vua hợp pháp: ảnh hưởng cá nhân của một con người đã bao giờ được khẳng định một cách lạ lùng hơn thế không? Nhưng từ đầu đến cuối chiến dịch này, chiến dịch cuối cùng của ông, ảnh hưởng mà ông tác động tới các liên minh, buộc họ phải đi theo sáng kiến của ông thật đáng chú ý biết chừng nào, và chỉ một chút xíu nữa là ông đã đè nát họ".

Uy tín của ông còn sống mãi và tiếp tục lớn lên. Chính uy tín ấy đã sắc phong hoàng đế cho một đứa cháu chẳng có tiếng tăm của ông. Ngày hôm nay, bằng cách thấu hiểu sự tái sinh truyền thuyết về ông, ta mới thấy cái bóng to lớn ấy còn uy lực biết bao. Hãy ngược đãi con người tuỳ ý thích, hãy tàn sát hàng triệu con người, hãy gây ra hết cuộc xâm lược này đến cuộc xâm lược khác, bạn được phép làm tất cả nếu bạn có đủ độ uy tín, và nếu bạn có đủ tài năng để giữ vững uy tín ấy.

Dĩ nhiên, ở đây tôi đã viện dẫn một ví dụ về uy tín hoàn toàn ngoại lệ, nhưng thật có ích khi nhắc tới nó, để làm ta hiểu sự tạo sinh của những tôn giáo lớn, những học thuyết lớn và những đế chế lớn. Không có sức mạnh của uy tín tác động lên đám đông, thì sẽ không hiểu nổi sự tạo sinh ấy.

Nhưng uy tín không chỉ được xây dựng trên ảnh hưởng cá nhân, vinh quang quân sự và sự khủng bố tôn giáo; nó còn có những nguồn gốc khiêm nhường hơn, tuy vẫn rất đáng kể. Thế kỉ của chúng ta có thể cung cấp nhiều ví dụ - Một ví dụ gây ấn tượng mạnh nhất mà hậu thế còn nhắc mãi, đó là câu chuyện về một con người nổi tiếng đã thay đổi bộ mặt quả địa cầu và những quan hệ thương mại của các dân tộc bằng cách tách đôi hai đại lục. Ông thành công trong công việc nhờ vào chí lớn nhưng cũng nhờ vào sức cuốn hút mà ông tác động lên tất cả những người chung quanh mình. Để chiến thắng sự chống đối đồng loạt mà mình gặp phải, ông chỉ cần xuất hiện. Ông nói chuyện một lúc, và trước sức hấp dẫn mà ông tác động, kẻ chống đối lại trở thành bè bạn. Nhất là người Anh kiên quyết phản đối dự án của ông; ông chỉ xuất hiện ở nước Anh để tập hợp mọi sự tán thành. Sau này, khi ông qua Southampton, tiếng chuông nhà thò vang lên suốt dọc đường ông đi, và ngày nay nước Anh quan tâm đến việc dựng tượng cho ông. Khi đã chiến thắng tất cả, con người và sự vật, ông không tin vào những cản trở nữa, và ông muốn lại bắt đầu Suez ở Panama. Ông lại bắt đầu với những phương cách như thế; nhưng ông đã có tuổi và hơn nữa, niềm tin dời non chuyển núi chỉ có thể thực hiện được với điều kiện những ngọn núi không quá cao. Những ngọn núi đã chống cự, và tai hoạ tiếp theo đó đã phá tan vầng hào quang sáng chói vinh quang từng bao bọc người hùng. Cuộc sống của ông dạy ta uy tín có thể lớn lên như thế nào, và có thể biến mất ra sao. Sau khi danh vọng đã sánh ngang với những bậc anh hùng nổi tiếng nhất trong lịch sử, ông bị những quan toà của quê hương mình giáng xuống hàng những tên tội phạm xấu xa nhất. Khi ông qua đời chiếc quan tài của ông cô đơn đi qua giữa những đám đông thờ ơ. Duy chỉ các vua chúa ngoại quốc tỏ lòng kính trọng tưởng nhớ ông, như tưởng nhớ đến một trong những con người vĩ đại nhất mà lịch sử từng biết tới.

Nhưng những ví dụ khác nhau vừa được nhắc tới chỉ đại diện cho những hình thức cực đoan. Để xem xét tâm lí học về uy tín một cám chi tiết, cần phải sắp xếp chúng cho đến tận cuối một chuỗi dài đi xuống từ những người sáng lập ra các tôn giáo và các đế chế đến những kẻ chỉ muốn thử làm loá mắt láng giềng bằng một bộ quần áo mới hay một món trang sức.

Giữa những đoạn xa nhau nhất của chuỗi này, ta đặt tất cả những hình thức của uy tín vào trong những thành tố khác nhau của một nền văn minh: khoa học, nghệ thuật, văn học v.v…, và ta sẽ thấy uy tín là thành tố cơ bản của sự thuyết phục. Dù ý thức hay không, thì con người, ý niệm hay sự vật có uy tín là nhờ con đường lây nhiễm được bắt chước ngay tức khắc và áp đặt cho cả một thế hệ một số cách thức cảm nhận và thể hiện tư tưởng của họ. Hơn nữa, sự bắt chước thường vô thức nhất, và chính đó là cái làm cho nó hoàn hảo. Các hoạ sĩ hiện đại tái tạo những màu sắc đã phai mờ hoặc những cử chỉ cứng nhắc của vài người nguyên thuỷ, chẳng mấy hoài nghi cảm hứng của họ từ đâu tới; họ tin vào sự thành thực của mình, trong khi nếu một bậc thầy nổi danh không làm sống lại hình thức nghệ thuật này, thì người ta vẫn sẽ tiếp tục chỉ nhìn thấy ở đó những khía cạnh ngây ngô và thấp kém. Những hoạ sĩ ấy lập tức theo một bậc thầy nổi tiếng khác, vẽ tràn ngập trên vải những bóng hình màu tím, họ không còn thấy nữa trong tự nhiên cái màu tím mà người ta đã thấy cách đó năm mươi năm, nhưng họ đã được gợi ý bởi ấn tượng cá nhân và đặc biệt của một hoạ sĩ đã có được một uy tín lớn mặc dù điều này là kì dị. Trong mọi yếu tố của nền văn minh, những ví dụ như thế có thể dễ dàng được viện dẫn.

Qua phần trên, ta thấy rằng có nhiều yếu tố tham gia vào sự tạo sinh uy tín: một trong những yếu tố quan trọng nhất bao giờ cũng là sự thành công. Mọi con người thành công, mọi tư tưởng được áp đặt, sẽ chấm hết bằng chính việc bị đưa ra tranh cãi. Chứng cớ cho thấy thành công là một trong những nền tảng cơ bản của uy tín, chính là uy tín hầu như luôn mất đi cùng với sự mất đi của thành công. Người anh hùng mà đám đông hôm trước còn hoan hô, hôm sau sẽ bị la ó nếu anh ta không thành công. Uy tín càng lớn bao nhiêu thì phản ứng sẽ càng gay gắt bấy nhiêu. Lúc đó, đám đông coi người anh hùng bị ngã như kẻ ngang hàng, và trả thù vì đã từng nghiêng mình trước ưu thế mà nó không công nhận nữa. Khi Robespierre sai chặt đầu đồng sự, và rất nhiều người cùng thời của mình, ông ta có một uy tín rất lớn. Khi sự chuyển dịch của một vài phiếu bầu cướp đi quyền lực của mình, ông ta lập tức mất đi uy tín ấy, và đám đông theo ông đến máy chém với chính những lời nguyền rủa mà hôm trước họ đã dành cho các nạn nhân của ông. Thường chính các tín đồ sẽ cuồng nộ đập phá những tượng thần linh mà họ phụng thờ ngày trước.

Uy tín bị tước bỏ do thất bại sẽ mất đi một cách đột ngột. Nó cũng có thể bị mòn đi do tranh luận, nhưng theo cách chậm chạp hơn. Tuy nhiên phương cách này có hiệu quả rất chắc chắn. Uy tín bị tranh cãi đã không còn là uy tín nữa. Những thần linh và con người biết giữ gìn được lâu uy tín của mình thường không bao giờ dung thứ cho sự tranh luận. Muốn làm cho những đám đông khâm phục mình, bao giờ cũng cần phải giữ khoảng cách với chúng.

Created by AM Word2CHM

v:shapes="_x0000_i1036">

Chương IV. NHỮNG GIỚI HẠN VỀ TÍNH HAY THAY ĐỔI CỦA NIỀM TIN VÀ Ý KIẾN ĐÁM ĐÔNG

TÂM LÝ HỌC ĐÁM ĐÔNG

à

Quyển II. Ý KIẾN VÀ NIỀM TIN CỦA ĐÁM ĐÔNG

1/ Những niềm tin cố định. - Tính không thay đổi của một số niềm tin chung. - Chúng là hướng dẫn viên của một nền văn minh. - Khó diệt trừ chúng tận gốc - Trên cơ sở nào mà lòng bất khoan dung lại là một đức hạnh đối với các dân tộc. - Sự phi lí có tính triết học của một niềm tin chung không thể gây hại cho việc truyền bá nó.

2/ Những ý kiên hay thay đổi của đám đông. - Tính hay thay đổi hết sức của ý kiến không được sinh ra từ niềm tin chung. - Những biến thiên bề ngoài của tư tưởng và niềm tin trong vòng chưa đến một thế kỉ. - Giới hạn thực của biến đổi này. - Những yếu tố mà sự biến đổi dựa trên đó. - Sự biến mất hiện thời của những niềm tin chung và sự phát hành vô cùng rộng rãi của báo chí làn cho ý kiến ngày càng hay thay đổi. - Tại sao ý kiến của đám đông về phần lớn các chủ đề đều dẫn tới sự thờ ơ. - Bất lực của các chính phủ khi muốn chỉ đạo ý kiến như thời xưa. - Sự phân tán hiện nay của nhũng ý kiến ngăn cản tính độc tài chuyên chế của chúng.

1. Những niềm tin cố định

Có sự song hành chặt chẽ giữa những đặc tính thể chất và tính cách tâm lí của sinh vật. Trong những đặc tính thể chất ta thấy một số yếu tố không thay đổi, hoặc nếu có thay đổi chút ít thì phải cần tới thời gian của những thời kì địa chất, và bên cạnh những đặc tính cố định không thể quy giản ấy, có thể thấy những tính chất rất hay thay đổi mà môi trường, nghệ thuật của người chăn nuôi, của người làm vườn dễ dàng làm cho biến đổi, đôi khi đến mức che giấu được cả những đặc tính cơ bản trước những người quan sát ít chú tâm.

Ta cũng nhận thấy hiện tượng như vậy trong những đặc tính tinh thần. Bên cạnh các yếu tố tâm lí không thể quy giản của một chủng tộc, ta bắt gặp những yếu tố lưu động và thay đổi. Và chính vì thế, khi nghiên cứu những niềm tin và ý kiến của một dân tộc, ta luôn nhận thấy một nền tảng rất cố định, trên đó cấy ghép những ý kiến cũng lưu động như là cát bao phủ trên đá.

Vậy, những niềm tin và ý kiến của đám đông tạo thành hai lớp khá phân biệt nhau. Một mặt, đó là những niềm tin bền lâu, kéo dài nhiều thế kỉ, và cả một nền văn minh phải dựa vào chúng; ví dụ như ngày xưa, đó là quan niệm phong kiến, những tư tưởng Ki Tô giáo, những tư tưởng thời Cải cách Tôn giáo; còn như ngày nay, đó là nguyên tắc chủ quyền dân tộc, những tư tưởng dân chủ và xã hội. Mặt khác, đó là những ý kiến nhất thời và thay đổi, được phát sinh thường xuyên nhất từ những quan niệm chung mà mỗi thời đại đều thấy sinh ra và mất đi: đó là những lí thuyết chỉ đạo nghệ thuật và văn học ở một vài thời điểm, như những lí thuyết sản sinh ra chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa thần bí v.v... Thông thường, chúng có tính bề mặt như là thời trang và thay đổi giống như thời trang. Đó là những làn sóng nhỏ sinh ra và biến mất không ngừng trên mặt hồ chứa nước sâu.

Những niềm tin lớn mang tính tổng quát thường có số lượng rất hạn chế. Sự ra đời và kết thúc của chúng, đối với từng chủng tộc lịch sử, tạo thành những tuyệt đỉnh của lịch sử chủng tộc ấy. Chúng cấu thành khung cốt đích thực của các nền văn minh.

Thực rất dễ khi thiết lập một ý kiến tạm thời trong tâm hồn đám đông. Nhưng thật khó để thiết lập một niềm tin lâu dài đối với nó. Cũng rất khó khăn khi muốn phá huỷ niềm tin lâu dài khi nó đã được thiết lập. Thông thường chỉ khi phải trả giá bằng những cuộc cách mạng bạo lực thì ta mới có thể thay đổi được nó. Thậm chí, cách mạng chỉ có được khả năng này khi niềm tin hầu như đã hoàn toàn mất hết ảnh hưởng tới tâm hồn con người. Lúc đó, những cuộc cách mạng chỉ làm việc cuối cùng là quét sạch những cái hầu như đã bị vứt bỏ, nhưng cái ách nặng nề của tập quán lại ngăn cản việc rũ bỏ hoàn toàn. Thực ra những cuộc cách mạng bắt đầu tức là những niềm tin kết thúc.

Cũng dễ nhận biết cái ngày chính xác ghi dấu sự mất đi của một niềm tin lớn; đó là ngày mà giá trị của nó bắt đầu bị tranh cãi. Tất cả những niềm tin chung đều hầu như chỉ là một hư cấu, nó chỉ có thể tồn tại với điều kiện không phải chịu sự kiểm tra

Nhưng dù cho một niềm tin đã bị lung lay ghê gớm, thì những thể chế sinh ra từ nó vẫn bảo toàn được sức mạnh của mình, và chỉ mất đi một cách từ từ. Cuối cùng, khi niềm tin đã mất quyền lực hoàn toàn, thì tất cả những gì nó nâng đỡ cũng sụp đổ nhanh chóng. Một dân tộc không bao giờ có thể thay đổi những niềm tin mà không đồng thời buộc phải thay đổi mọi yếu tố trong nền văn minh của mình.

Dân tộc ấy biến đổi chúng cho đến lúc nó tìm được một niềm tin chung mới và niềm tin này được chấp nhận; và cho đến lúc đó, nó dĩ nhiên phải sống trong tình trạng vô chính phủ. Những niềm tin chung là giá đỡ cần thiết của những nền văn minh, chúng quy định hướng đi cho tư tưởng. Chỉ có chúng mới có thể gợi hứng cho niềm tin và tạo ra bổn phận.

Những dân tộc luôn cảm thấy ích lợi khi có được những niềm tin chung, và bằng bản năng họ hiểu rằng, sự biến mất những niềm tin ấy, đối với họ, báo hiệu giờ phút suy tàn đã đến. Sự sùng bái cuồng tính thành Rome đối với người La Mã là một niềm tin đã khiến họ làm chủ thế giới; và khi niềm tin ấy mất đi, thì Rome phải tiêu vong. Chỉ khi những người La Mã có được một vài niềm tin chung do người dã man đã phá tan nền văn minh La Mã đem đến, thì họ mới đạt được một sự cố kết nào đó và có thể ra khỏi tình trạng vô chính phủ.

Vậy không phải vô cớ mà các dân tộc luôn bảo vệ niềm tin của họ bằng lòng bất khoan dung. Lòng bất khoan dung ấy, đứng về quan điểm triết học thật đáng phê phán, nhưng trong đời sống các dân tộc, nó lại biểu thị cái đức hạnh cần thiết nhất. Chính vì muốn xây dựng và giữ gìn những niềm tin chung mà thời Trung cổ đã dựng lên biết bao đống lửa thiêu, biết bao nhà sáng chế và nhà cải cách phải chết trong tuyệt vọng khi họ trốn tránh khổ hình. Chính vì muốn bảo vệ những niềm tin ấy nên thế giới đã bao phen bị đảo lộn, nên biết bao triệu người đã phải chết trên chiến trường, và sẽ còn chết tiếp ở đó.

Có nhiều khó khăn lớn khi thiết lập một niềm tin chung, nhưng khi niềm tin ấy đã được thiết lập chắc chắn thì trong thời gian dài, sức mạnh của nó là vô địch; và dù cho niềm tin ấy sai lầm về mặt triết học, nó vẫn áp đặt lên những đầu óc sáng suốt nhất. Từ hơn mười lăm thế kỉ nay người Âu châu chẳng đã coi những truyền thuyết tôn giáo mà khi ta xem xét kĩ thì thật là dã man, như truyền thuyết về Moloch, là những chân lí không thể bàn cãi đó sao. Trong nhiều thế kỉ, người ta đã không nhận ra sự phi lí khủng khiếp của truyền thuyết về một vị thần trả thù con trai mình bằng những nhục hình khủng khiếp vì nó đã không tuân theo một trong những điều do ông đặt ra. Ngay cả những thiên tài có uy lực nhất, như một Galilée, một Newton, một Leibniz, thì cũng không có giây phút nào giả định rằng chân lí của những tín điều như thế có thể phải được mang ra bàn cãi. Chẳng gì chứng minh rõ hơn sự mê hoặc do một niềm tin chung gây ra, nhưng cũng chẳng gì chỉ ra rõ hơn những giới hạn nhục nhã của trí tuệ con người.

Ngay khi một tín điều mới cắm rễ vào tâm hồn đám đông, nó trở thành người khởi xướng cho những thể chế, nghệ thuật, cách cư xử của đám đông ấy. Lúc đó, ảnh hưởng mà nó tác động lên tâm hồn con người là tuyệt đối. Những người hành động chỉ nghĩ đến việc thực hiện tín điều ấy, nhà lập pháp chỉ muốn áp dụng nó, nhà triết học, nghệ sĩ, nhà văn chỉ lo toan diễn dịch nó bằng các hình thức khác nhau.

Từ niềm tin cơ bản, những tư tưởng nhất thời và thứ yếu có thể nảy sinh, nhưng chúng luôn mang dấu ấn của niềm tin nơi chúng được sinh ra. Nền văn minh Ai Cập, nền văn minh Âu châu thời Trung cổ, nền văn minh Islam của người Ả Rập đều xuất sinh từ một số rất nhỏ những niềm tin tôn giáo từng in dấu ấn lên những thành tố nhỏ nhất của các nền văn minh này, và cho phép ta nhận biết ngay ra chúng.

Và chính vì vậy, nhờ vào những niềm tin chung, con người ở mỗi thời đại đều bị bao quanh bởi một mạng lưới những truyền thống, ý kiến và tập quán, cái ách mà họ không thể thoát ra được, luôn làm họ giống nhau như hệt. Cái gì đã đặc biệt dẫn dắt con người, đó là những niềm tin và tập quán sinh ra từ những niềm tin ấy. Chúng điều chỉnh những hành vi nhỏ nhặt nhất của đời sống chúng ta, và những đầu óc độc lập nhất cũng không nghĩ tới chuyện thoát ra khỏi nó. Chỉ có chế độ chuyên chế thực sự tác động một cách vô thức lên tâm hồn con người, bởi vì đó là chế độ duy nhất không thể đấu tranh lại. Tibère, Thành Cát Tư Hãn, Napoléon là những bạo chúa đáng sợ, chắc chắn vậy, nhưng Moise, Phật Thích Ca, Jésus, Mahomet, Luther từ dưới đáy mồ còn tác động lên tâm hồn con người một sự chuyên chế khác sâu xa hơn nhiều. Một cuộc mưu phản có thể hạ gục một bạo chúa, nhưng mưu phản liệu có thể làm gì với một niềm tin đã được xác lập chắc chắn? Trong cuộc đấu tranh bạo liệt chống lại Công giáo, và mặc dù được sự tán đồng bề ngoài của đám đông, mặc dù những phương pháp phá hoại tàn bạo chẳng kém gì Tòa án dị giáo, thế nhưng chính cuộc Cách mạng vĩ đại của chúng ta [Cách mạng Pháp] đã thất bại. Duy những bạo chúa thực sự mà nhân loại đã biết bao giờ cũng là cái bóng của những người đã chết hay là những ảo tưởng mà nhân loại tự tạo ra.

Sự phí lí về mặt triết học mà những niềm tin chung thường biểu hiện, không bao giờ là một trở ngại cho thắng lợi của chúng. Thậm chí, thắng lợi ấy hình như chỉ có thể có được với điều kiện những niềm tin chung chứa đựng sự phi lí bí ẩn nào đó. Vậy nên không phải sự yếu kém rõ rệt của niềm tin xã hội chủ nghĩa hiện thời đã ngăn cản chúng chiến thắng trong tâm hồn đám đông. Sự thấp kém thực sự của nó so với mọi niềm tin tôn giáo duy chỉ nằm ở điều này: lí tưởng về hạnh phúc mà tôn giáo hứa hẹn chỉ được hiện thực hoá trong một đời sống tương lai, chẳng ai có thể đưa chuyện này ra tranh cãi. Nếu lí tưởng về hạnh phúc xã hội chủ nghĩa được thực hiện trên đời này, thì ngay khi những mưu toan đầu tiên được thực thi, sự hão huyền của những lời hứa hẹn xuất hiện, đồng thời niềm tin mới sẽ lập tức mất đi mọi uy tín. Vậy sức mạnh của nó sẽ chỉ lớn lên cho đến ngày nó chiến thắng, khi hành động thực tiễn bắt đầu. Và chính vì vậy, tôn giáo mới, cũng như tất cả các tôn giáo đã ra đời trước nó, trước tiên đóng vai trò là kẻ phá huỷ, thì tiếp theo, khác với tôn giáo trước, nó lại không thể đóng nổi vai trò là kẻ sáng tạo.

2. Những ý kiến có tính chất động của đám đông

Bên trên những niềm tin cố định mà ta vừa mới chỉ ra sức mạnh, còn có một lớp gồm những ý kiến, ý tưởng, tư tưởng luôn luôn sinh ra và mất đi. Một vài thứ chỉ kéo dài một ngày, còn những thứ quan trọng nhất ít khi vượt quá đời sống của một thế hệ. Chúng tôi cũng đã lưu ý rằng những thay đổi bỗng xảy ra trong những ý kiến này đôi khi chỉ mang tính bề mặt nhiều hơn là thực chất, và rằng bao giờ chúng cũng mang dấu ấn của những phẩm chất chủng tộc. Ví dụ, xem xét những thể chế chính trị ở đất nước chúng ta đang sống, ta thấy rằng những đảng phái bề ngoài rất trái ngược nhau: người theo chủ nghĩa dân chủ, người cấp tiến, người đế chế, người xã hội chủ nghĩa v.v..., họ đều có một lí tưởng tuyệt đối giống nhau, và ta cũng thấy rằng lí tưởng này chỉ gắn bó với cấu trúc tinh thần của chủng tộc chúng ta; bởi vì ở những chủng tộc khác, dưới những cái tên tương tự, ta lại thấy một lí tưởng hoàn toàn trái ngược. Không phải cái tên được đặt cho những ý kiến, cũng không phải sự cải biên lừa dối thay đổi nội dung của sự vật. Những người tư sản của Cách mạng, thấm đẫm toàn văn học Latin, mắt nhìn chăm chăm vào nền cộng hoà La mã; chấp nhận luật pháp, cây phủ việt và tấm áo choàng của người La Mã, cố gắng bắt chước những thể chế, những tấm gương của nền cộng hòa La Mã, nhưng họ vẫn không trở thành người La Mã, bởi vì họ ở dưới thế lực của một sự gợi ý mang tính lịch sử mạnh mẽ. Vai trò của nhà triết học là tìm xem những niềm tin cổ xưa hãy còn lại cái gì ở bên dưới những thay đổi bề mặt, và trong làn sóng chuyển động của những ý kiến, cần phân biệt cái gì đã được xác định do những niềm tin chung và tâm hồn chủng tộc.

Không có tiêu chuẩn triết học này, người ta có thể tin tưởng rằng đám đông thay đổi niềm tin chính trị và tôn giáo một cách thường xuyên và tuỳ ý. Thực vậy, toàn bộ lịch sử chính trị, tôn giáo, nghệ thuật, văn học hình như chứng tỏ điều này.

Chẳng hạn, ta chỉ lấy một giai đoạn ngắn ngủi trong lịch sử nước Pháp, từ 1790 đến 1820, nghĩa là ba mươi năm, thời gian của một thế hệ. Trong giai đoạn này ta thấy những đám đông, thoạt tiên theo chế độ quân chủ, rồi trở thành cách mạng, rồi theo đế chế chủ nghĩa, rồi lại trở lại thành người theo chế độ quân chủ. Trong lĩnh vực tôn giáo, cũng trong thời gian ấy, họ đi từ Công giáo đến chủ nghĩa vô thần, rồi sang thần luận, rồi lại quay trở về với những hình thức quá khích nhất của Công giáo. Và không phải chỉ có đám đông, mà cả những người lãnh đạo cũng như thế. Chúng ta ngạc nhiên lặng ngắm những vị đại biểu Hội nghị Quốc ước vĩ đại kẻ thù chẳng đội trời chung với vua chúa, chẳng cần Thượng đế, cũng không cần muốn có những ông chủ, họ lại trở thành những nô bộc hèn mọn của Napoléon, rồi thành kính mang những cây nến thờ trong đám rước dưới thời vua Louis XVIII

Và trong bảy mươi năm tiếp theo, đã còn có biết bao thay đổi trong ý kiến của đám đông. Vùng “Abion nham hiểm" ở đầu thế kỉ này trở thành đồng minh của nước Pháp dưới thời người nối ngôi Napoléon; nước Nga hai lần bị Pháp xâm chiếm, thế mà họ đã vỗ tay thích thú nhường ấy khi nước Pháp bị thất bại lần sau cùng, rồi họ bỗng nhiên được coi như một người bạn.

Trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, triết học, những ý kiến kế tiếp nhau còn nhanh hơn nữa. Chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa thần bí v.v..., sinh ra và lần lượt chết đi. Người nghệ sĩ và nhà văn hôm qua được hoan nghênh, ngày mai đã bị rẻ khinh sâu sắc.

Nhưng khi chúng ta phân tích những thay đổi nhìn bề ngoài rất sâu sắc này, chúng ta thấy điều gì? Tất cả những gì trái ngược với niềm tin chung và với tình cảm chủng tộc sẽ chỉ có một thời gian sống rất phù du, và dòng sông quanh co lại nhanh chóng chảy theo dòng của nó. Những ý kiến không gắn liền với một niềm tin chung nào, với một tình cảm chủng tộc nào, và do đó, sẽ không thể có tính cố định, đều bị phó mặc hoàn toàn cho ngẫu nhiên, hay nếu ta muốn, chúng bị phó mặc cho những thay đổi nhỏ nhặt nhất của môi trường sống. Được hình thành do sự gợi ý và lây nhiễm, những ý kiến bao giờ cũng có tính nhất thời; đôi khi chúng sinh ra rồi biến mất cũng nhanh chóng như những đụn cát được hình thành bởi gió bên bờ biển.

Ngày nay, tổng số những ý kiến lưu động của đám đông nhiều chưa từng có; và điều đó xảy ra do ba lí do khác nhau.

Thứ nhất vì những niềm tin cũ càng ngày càng mất ảnh hưởng, chúng không còn tác động được như ngày xưa lên những ý kiến nhất thời để đem lại cho những ý kiến này một định hướng nào đó.

Sự xoá mờ niềm tin chung đã nhường chỗ cho một loạt những ý kiến đặc thù không có quá khứ cũng chẳng có tương lai.

Lí do thứ hai vì sức mạnh của đám đông trở nên càng ngày càng to lớn, và càng ngày càng có ít đối trọng; tính cực kì lưu động của những tư tưởng, mà ta đã thấy ở chúng, có thể được tự do biểu hiện.

Cuối cùng, lí do thứ ba là vì sự phát hành báo chí gần đây đã không ngừng đưa ra trước mắt đám đông những ý kiến trái ngược nhất. Những gợi ý mà mỗi ý kiến có thể tạo ra sẽ nhanh chóng bị tiêu diệt do những gợi ý đối nghịch. Kết quả là mỗi ý kiến không đạt tới chỗ lan rộng và tất phải có một đời sống rất ngắn ngủi. Chúng chết đi trước khi có thể đủ lan rộng để trở thành phổ biến.

Từ những nguyên nhân khác nhau đó mà sinh ra một hiện tượng rất mới trong lịch sử thế giới, và hoàn toàn đặc trưng của thời hiện tại, tôi muốn nói tới sự bất lực của những chính quyền trong việc hướng dẫn dư luận.

Ngày xưa, và cái ngày xưa ấy chẳng xa lắm đâu, hoạt động của các chính quyền, ảnh hưởng của một vài nhà văn và của một số rất ít các tờ báo là những thứ thực sự điều chỉnh dư luận. Ngày nay, các nhà văn đã mất hoàn toàn ảnh hưởng, và những tờ báo chỉ còn làm công việc phản ảnh ý kiến. Còn những chính khách, còn lâu họ mới điều khiển được dư luận, họ chỉ tìm cách chạy theo đuôi nó mà thôi. Họ sợ dư luận, cái thứ dư luận mà đôi khi đi tới chỗ khủng bố và khiến họ phải chấp nhận lối hành xử thiếu ổn định

Vậy ý kiến của đám đông càng lúc càng có khuynh hướng trở thành cái biểu lộ tối cao của chính trị. Ngày nay nó đi tới chỗ áp đặt những liên minh, như ta thấy gần đây sự liên minh của người Nga xuất phát chủ yếu từ một phong trào bình dân. Đó là một triệu chứng rất lạ khi ngày nay ta được thấy các giáo hoàng, vua và hoàng đế chịu trả lời phỏng vấn để trình bày tư tưởng của họ về một chủ đề nhất định để cho đám đông đánh giá. Ta có thể nói rằng xưa kia chính trị không phải là chuyện thuộc về tình cảm. Ngày nay liệu còn có thể nói như thế nữa không, khi người dẫn lối chính trị càng lúc càng là những xung động của đám đông hay thay đổi, không biết đến lí trí, và chỉ tình cảm mới có thể hướng dẫn được nó thôi?

Còn về báo chí, ngày xưa là người hướng dẫn dư luận; thì ngày nay, cũng như chính quyền, nó phải chịu lu mờ trước quyền lực của đám đông. Chắc hẳn nó có một sức mạnh đáng kể, nhưng vì nó chủ yếu là sự phản ánh của những ý kiến đám đông và sự biến thiên không ngừng của chúng. Trở thành tổ chức thông tin đơn thuần, báo chí đã từ chối áp đặt bất cứ tư tưởng và bất cứ chủ thuyết nào. Nó đi theo tất cả những thay đổi của tư tưởng chung, và sự cần thiết phải cạnh trang buộc nó phải đi theo dư luận nếu không thì sẽ mất độc giả. Ngày xưa những tờ báo lâu năm trang trọng và nhiều ảnh hưởng như tờ Constitutionnel, tờ Siècle, tờ Débats, mà thế hệ trước thành kính nghe những lời phán truyền của chúng, thì đều đã biến mất hoặc đã trở thành những tờ báo thông tin trong khuôn khổ những bài viết cho vui, những bài kể xấu ăn chơi thượng lưu và những bài quảng cáo tài chính. Ngày nay, đâu còn những tờ báo khá phong phú để cho phép các biên tập viên đưa ra ý kiến cá nhân, và những ý kiến này sẽ có sức nặng gì đó đối với những độc giả chỉ yêu cầu được thông tin hay giải trí, và đằng sau mỗi lời khuyên nhủ họ luôn e ngại kẻ đầu cơ. Ngay phê bình cũng không còn nữa cái quyền năng tung hô quảng cáo cho một cuốn sách hay một vở kịch. Phê bình có thể làm hại chúng, chứ không giúp ích cho chúng. Những tờ báo chỉ ý thức về sự vô ích của tất cả những gì là phê bình hay ý kiến cá nhân, cho nên dần dần bỏ hẳn phê bình văn học, tự hạn chế chỉ đưa ra tên cuốn sách với hai hay ba dòng quảng cáo; và hai mươi năm nữa có lẽ phê bình kịch nghệ cũng sẽ như vậy thôi.

Dò xét dư luận ngày nay đã trở thành mối bận tâm chủ yếu của báo chí và chính quyền. Một biến cố, một dự án lập pháp, một bài diễn văn sẽ tạo ra hiệu quả gì, đó là điều mà họ luôn phải biết; và chuyện ấy không dễ, bởi vì chẳng có gì lưu động hơn và dễ thay đổi hơn là tư tưởng của đám đông; và chẳng có gì thường xuyên hơn là nhìn thấy đám đông chào đón bằng lời nguyền rủa cái mà hôm trước đám đông đã nồng nhiệt hoan hô.

Sự thiếu vắng hoàn toàn việc chỉ đạo dư luận, đồng thời với việc tan rã của những niềm tin chung, có kết quả cuối cùng là sự phân tán hoàn toàn mọi niềm tin, và sự thờ ơ của đám đông tăng dần đối với cái gì không động chạm rõ rệt tới quền lợi tức thời của họ. Những vấn đề chủ thuyết, như chủ nghĩa xã hội, chỉ tuyển mộ thêm được những người bảo vệ có lòng tin thực sự trong các tầng lớp ít được học hành, ví dụ công nhân hầm mỏ và xí nghiệp. Còn tầng lớp tiểu tư sản, công nhân có đôi chút học vấn đều rơi vào chủ nghĩa hoài nghi, hay ít ra, rất hay thay đổi

Sự tiến triển như vậy đã xảy ra từ ba mươi năm nay là rất ấn tượng. Ở thời kì trước tuy không xa lắm, những ý kiến vẫn còn có một khuynh hướng chung; chúng được sinh ra từ việc chấp nhận vài niềm tin cơ bản nào đó. Chỉ bằng việc là người theo chế độ quân chủ, người ta tất nhiên có một số tư tưởng rất kiên định cả về lịch sử lẫn khoa học, và chỉ bằng việc là người cộng hoà, người ta đã có những tư tưởng hoàn toàn trái ngược. Một người theo chế độ quân chủ biết chính xác rằng con người không có nguồn gốc từ khỉ và một người cộng hòa cũng biết không kém phần chính xác rằng mình có nguồn gốc từ khỉ. Người quân chủ phải nói về Cách mạng với một sự ghê tởm, còn người cộng hoà với thái độ tôn sùng. Có những cái tên, như tên Robespierre và Marat, anh ta phải đọc lên với dáng vẻ sùng kính, còn những cái tên khác như César, Auguste, Napoléon, người ta không thể nói lên mà không thoá mạ. Ngay đến cả trong đại học Sorbonne, cái cung cách quan niệm ngây thơ về lịch sử như vậy cũng phổ biến.

Ngày nay, đứng trước sự tranh cãi và phân tích, tất cả các ý kiến đều mất uy tín; những góc cạnh của chúng nhanh chóng bị hao mòn, và chẳng còn lại bao nhiêu điều có thể làm ta say mê. Con người hiện đại càng lúc càng bị sự thờ ơ xâm chiếm.

Ta đừng quá thương xót cho sự sụp đổ chung này của những ý kiến. Dù đó là một triệu chứng suy đồi trong đời sống của một dân tộc, ta cũng không thể cãi lại được. Chắc chắn rằng những nhà thấu thị, nhà truyền đạo, các lãnh tụ, nói tóm lại là những người có niềm tin vững vàng đều có một sức mạnh khác hẳn với những người có thói quen phủ định, những nhà phê phán và những kẻ thờ ơ; nhưng cũng đừng quên rằng với sức mạnh hiện tại của đám đông, nếu một ý kiến độc nhất nào có thể chiếm đủ được uy tín để áp đặt thì nó sẽ phải nhanh chóng khoác một tâm áo quyền lực có tính chuyên chế đến mức tất cả đều phải lập tức cúi gập mình trước nó, và cũng không nên quên rằng thời đại tranh luận tự do đã khép lại từ lâu. Đám đông đôi khi đại diện cho những ông chủ ôn hoà, như hoàng đế Héliogabale và Tibère đã như vậy khi cần, nhưng đám đông cũng có tính thất thường hung dữ. Khi một nền văn minh sẵn sàng rơi vào tay đám đông, nó sẽ bị phó mặc cho quá nhiều may rủi để có thể tồn tại lâu dài. Nếu một điều gì đó có thể làm chậm giờ sụp đổ ít lâu, đó chính là nhờ vào tính chất cực kì lưu động của những ý kiến và nhờ sự thờ ơ tăng dần của đám đông đối với mọi niềm tin chung.

Created by AM Word2CHM

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro