Thập niên phi tuyết

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Giang hồ đã mười năm trôi qua, thiên hạ lại về tay Trọng Hỏa cung. Cung chủ của Trọng Hỏa cung mất đi nhi tử, phu quân tàn phế, nàng đem lửa hận thiêu đốt cả giang sơn. Ấy vậy mà trong thâm tâm Ôn Thái, dưới gầm trời này vẫn chỉ hoàn một màu trắng. Đó là sắc trắng trên mái tóc ngư tiều bên sông, trên nhành mai cô độc giữa tiết xuân lạnh buốt, trên làn tuyết tại Linh Lăng những ngày tháng Chạp.

Linh Lăng. Đi hết mười năm ròng, nơi đây có những đợt tuyết chôn vùi biết bao chuyện cũ nhân gian. Trời đông giá rét, mọi tiếng động đều hóa câu tịch, chỉ nghe thấy lớp lớp những hàng tuyết vô thanh vô thức sà xuống. Trên vạt đất ấy, có cậu thiếu niên buộc tóc gọn ghẽ, thanh bào bị gió thổi bật lên, mái tóc đen tựa tấm tinh kỳ lay động. Tua kiếm đỏ rực như giọt máu đào, cứ mãi phất phơ giữa trận tuyết triền miên, còn thân ảnh gầy yếu kia vẫn không mảy may dao động. Thiếu niên liếc mắt trông về phía bên kia sông, ngắm nhìn người xưa chốn cũ, cảnh vật lung linh mỹ lệ chẳng khác nào nét bút trong bức tranh thủy mặc. Mà ẩn sâu dưới đáy mắt đấy, ngoại trừ tầng tầng những tuyết và bụi cùng hàn mai cô độc lạnh lẽo, thì ta cũng chẳng tìm được nửa phần sinh khí nào nữa.

Cậu bước vào giang hồ đã mười năm, rốt cục lại quay trở về với Linh Lăng. Năm xưa cùng người ấy má áp môi kề, sớm đã quên mất chốn thân yêu này. Dẫu vậy, hiện tại cậu cũng không cách nào lường trước được, có một ngày mình lại đặt chân tới cố hương dưới danh phận của một kẻ đã khuất — Quả thực từ khi người ta kháo nhau chuyện Mai Ảnh giáo chủ đắm mình trong biển lửa, tin tức nghĩa tử Ôn Thái nối gót ra đi sau đó mấy năm cũng qua đó mà truyền ra. Bất quá cũng có thể cho là một nửa sự thật đi. Năm ấy cậu bệnh đến thập tử nhất sinh, chậm mất một hơi thở thôi cũng có thể quy thiên rồi, may mà vẫn còn có Bạch Quỳnh Ẩn dang tay cứu giúp. Mà từ ấy, ngoại trừ Bạch Quỳnh Ẩn và Hoàn Nhã Văn, còn lại cũng chẳng một ai còn biết đến sự tồn tại của cái người Ôn Thái kia trên cõi đời này nữa.

Cậu cúi xuống nhìn vết chai sạn trên kẽ ngón tay, khẽ nhoẻn miệng cười.

Ôn Thái, cái tên này cũng rời xa cậu khá lâu rồi.

Không phải cậu không thể trở lại giang hồ, chỉ là với công lực hiện giờ, cậu đã quá mệt mỏi với chuyện tạo dựng tên tuổi. Nghĩ đến năm nào, Hoàn Lộng Ngọc danh chấn thiên hạ, nhắc đến thôi cũng đủ khiến cho người ta sợ hãi, rồi lúc tự thiêu kết liễu đời mình mới chấn động giới võ lâm biết bao. Bây giờ, chuyện cũ cùng lắm cũng chỉ như trang sách sử ố vàng, nào có ai thèm bận tâm đến. Mà cậu có khác gì một vật nho nhỏ bám víu lấy Lộng Ngọc, cậu lấy tư cách gì mà tiếp tục được sống kia chứ. Chi bằng cứ như hôm nay, tự lánh mình giữa thị thành náo nhiệt.

Bến sông xưa đôi bờ dăm nhành mai nở, biết tìm chốn nào chảy xiết nước sông Tương. Thuyền dừng tại bến đò, trên thuyền chỉ thấy độc một người đánh cá đang an vị, cần câu rủ xuống làn nước băng tuyết lạnh lẽo. Đầu y đội chiếc nón trúc, thân y khoác tấm áo tơi, từ mấy nhành lá trúc buông thõng vài lọn tóc trắng xóa, dài đến chấm lưng. Ôn Thái quen bóng dáng người ngư tiều đó lắm. Cậu cũng biết, người ấy sớm đã lần ra tung tích của mình. Bốn năm qua, mùa đông năm nào cậu cũng đến gặp người ấy, nói chuyện hai ba câu. Thế nhưng, chưa lần nào người đánh cá chủ động quay người lại mỗi khi Ôn Thái đi đến mở lời. Có gã ngư tiều bình thường nào tính khí lại bướng bỉnh như thế đâu, người này chắc hẳn thời trẻ cũng từng trải qua vài chuyện kinh thiên động địa nên mới vậy đây. Ôn Thái tiến tới, lấy ra một cây sáo ngọc, đứng bên cạnh thổi khúc "Ngư dương sam".

Tiếng sáo bi tráng mà thê lương, vang xa mãi một hồi, người đánh cá mới bảo: "Bằng hữu thực là có khí phách, từ tinh mơ đã dạo bản sáo này. Khiến cho lão hủ thấy áng mây xa xa thêm mấy phần điêu linh, ngắm bình minh lên mà cứ ngỡ trời đã ngả ráng chiều tà." Y có giọng nói thâm trầm, từng câu từng chữ đều toát lên vẻ điềm tĩnh bình ổn, cũng không đến nỗi khó nghe cho lắm.

Ôn Thái cười nhẹ, cậu biết y đang nghĩ đến Lý Kì Vi người Hồ của Đường triều biết thổi kèn bi lật, hơi nhướn mày, lại thổi một khúc hoạt bát vui tươi là "Dương liễu chi".

"Trời đông tháng Chạp, núi rừng chẳng thấy, chỉ thấy muôn hoa." Ngư tiều ngước nhìn dãy mai hai bên bờ sông. Mái tóc trắng xóa của y tung bay như mưa tuyết.

Ôn Thái buông sáo xuống, nói: "Ngày mai vãn bối đi xa, khúc "đại liễu" này, xin dâng tặng tiền bối."

Người ngư tiều trầm mặc một lúc, chậm rãi trả lời: "Nếu đã vậy, mong bằng hữu hãy bảo trọng."

Ôn Thái dạo hết bản "Dương liễu chi" rồi cất sáo đi, chắp tay vái trước bóng lưng người đánh cá: "Có điều, vãn bối và tiền bối quen biết nhau đã bốn năm, trước giờ nói chuyện đều đứng cách nhau một dòng sông. Không biết vãn bối đi chuyến này, có còn được vinh dự diện kiến dung nhan của tiền bối hay chăng?"

"Có quen biết đương nhiên sẽ có ly biệt. Ly biệt rồi chẳng bằng coi như không quen biết, tương kiến rồi chẳng bằng quên đi tất cả. Ngươi với ta, ta với ngươi, hai ta chẳng qua cũng chỉ là quá khách trên giang hồ mà thôi, sau này đều sẽ chẳng chống chọi nổi với thời gian, đành dừng bước tại đây thôi."

"Tiền bối nói đúng quá lắm. Thời gian đúng là cái vật vô tình, mà người ta cố kìm nén tang thương, đau khổ trước bãi bể nương dâu, cũng bởi quý trọng cái đạo hữu tình kia thôi. Hết thảy đạo lý trên thế gian này cũng giống như mấy điệu hát của dân làng chài vậy, Thái nhi hiểu mà. Tiền bối đã không muốn, Thái nhi cũng không ép buộc nữa đâu." Cậu lại chắp tay vái người đánh cá lần thứ hai, nhưng vừa muốn rời đi, lại thấy tấm lưng người ấy trở nên bất động đến lạ thường. Đợi lâu thật lâu, cũng không thấy người ngư tiều đáp lời.

Y càng không nói, nỗi đau lại càng giằng xé Ôn Thái, cơn thống khổ dường như còn vượt xa cái khoảnh khắc cậu nhận ra thân phận của người ấy. Đã bốn năm trời, đông năm nào cậu cũng đợi người ấy quay nhìn mình dù chỉ một lần, mong mỏi một lần được trở về với dĩ vãng. Song, mặc cho bấy nhiêu ngày trôi qua, thứ chờ đợi cậu vẫn luôn là dòng sông băng giá và khoảng trời mênh mông, trống vắng. Tâm Ôn Thái lạnh rồi, nhưng cậu vẫn kiên nhẫn chịu đựng lời từ chối thẳng thừng, gắng hòa nhã nói: "Có người cố nhân từng kể tiền bối nghe câu chuyện về quỳnh thương và kẻ ham rượu. Y bảo, nếu trong quỳnh thương ăm ắp một phần mỹ tửu, lại vỡ mất trước mắt người ham rượu, vậy thì hắn sẽ cảm thấy như thế nào? Rượu đổ, chén tan. Quỳnh thương có muốn trả giá nhiều đến thế nào đi chăng nữa, cũng chỉ là muốn có được tâm của người ham rượu mà thôi. Y còn nói y là quỳnh thương, còn vãn bối là người ham rượu. Chính y cũng quý rượu như quý mạng mình vậy, thế mà y đâu ngờ tới được, kẻ ham rượu này ngay một giọt rượu cũng không dám lãng phí, đừng nói đến làm vỡ cả chén ngọc tôn quý kia. Vãn bối tự biết mình không bằng y, lại đa tình hơn y rất nhiều. Cho nên, đối với vãn bối, việc này là như vậy đấy. Nếu quỳnh thương mà vãn bối hằng trân trọng trên mình đầy vết thương tích cùng rạn nứt, vãn bối quyết phải nâng niu nó, bảo vệ nó, không để cho nó phải phơi mình dưới nắng mưa thêm lần nào nữa."

Người đánh cá vẫn chìm trong im lặng. Trong lòng Ôn Thái đã sớm đoán được y có ý đoạn tuyệt, cậu chỉ khẽ nhắm mắt, cảm nhận từng bông tuyết lướt qua da thịt. Mười năm không gặp mặt, đôi bên đã thành người xa lạ, sao còn dám bàn chuyện nối lại đoạn nhân duyên trước kia. Đất trời bao la đến nhường nào, có ai mà không chịu cảnh biệt ly chứ. Có lẽ, cậu tự khoe khoang khoác loác là thấu hiểu thế sự, nhưng thực chất, bản thân vẫn chỉ là một đứa trẻ chưa trưởng thành. Có lẽ, người kia đã nói đúng.

Ly biệt rồi chẳng bằng coi như không quen biết, tương kiến rồi chẳng bằng quên hết tất cả.

Trong mắt y, cậu vĩnh viễn chỉ là một kẻ hèn yếu luôn ở thế bị động. Cậu xoay người đi được hai bước, rồi như vẫn không cam tâm mà dừng lại, nghiến răng thật chặt, gân xanh nổi thành một đường trên trán: "Đối với tiền bối, không có gì là có thể sánh được với lòng kiêu hãnh của người cả, dù cho đó là hạnh phúc, là an nhiên, là chính bản thân người, thậm chí có phải vứt bỏ đi cả cơ hội sống còn, người cũng không màng. Con là cái gì chứ? Con đã sớm biết người là kẻ thà để ngọc vỡ còn hơn ngói lành. Con tự mình đa tình như vậy, thật là chẳng khác gì một tên ngốc."

Cậu kiên quyết rời bước, nhưng chợt nghe tiếng người trên thuyền quay đầu. Vừa lúc cậu thấy y xoay nhìn lại, người đó cũng kịp bỏ nón trúc xuống, quay người về phía mình. Và rồi, nhành mai tựa như còn quyến luyến với hoa tuyết, hơi rét lạnh căm len lỏi vào cơ thể. Nam tử trên thuyền có mái tóc trắng xoá. Làn da y lấp loáng như ngọc, đôi mắt sắc lạnh như suối nước trong, nốt lệ chí dưới khoé mắt đỏ rực như máu.

Hai bên chạm mắt nhau trong một khắc, hốc mắt Ôn Thái chợt đỏ ửng. Đã sớm đoán được lần hội ngộ này không tránh khỏi xúc động, mà sao vẫn đau lòng đến thế. Vậy nhưng sắc mặt người kia vẫn chẳng một động tĩnh, chỉ lẳng lặng lấy cây gậy chống bên cạnh, dửng dưng nói: "Ngươi đúng là chưa xuống hoàng tuyền thì chưa biết sợ. Hiện tại võ công ta đã tiêu tán hết, chỉ có hai bàn tay trắng, một thân bệnh tật, lại què quặt mất một chân. Ngươi tò mò vậy đã thoả mãn rồi chứ? Đi đi. Đừng về đây nữa." Y đã khôi phục lại chất giọng mềm mại như trước kia, song từng câu chữ lại tựa như con dao găm đâm thẳng vào tim Ôn Thái.

Ôn Thái cười đến khoé mắt lưng tròng: "Hoàn Lộng Ngọc, đã mười năm trôi qua, đây là lời đầu tiên ngươi nói với ta sau khi gặp mặt sao?'

"Phải."

"Ngươi thực sự cho rằng, ta thuỷ chung yêu ngươi chỉ vì mấy thứ vô nghĩa đó thôi sao?"

"Ta không trách ngươi. Ta vốn dĩ tham việc lớn, hám công to. Ta lấy cái lợi trước mắt để trị người khác, lợi hết, người ta sẽ bỏ ta đi, mà ta cũng chẳng tiếc hận làm gì. Đáng tiếc thân này đã tàn, không còn kham nổi nữa, bằng không ta cũng chờ ngày Đông sơn tái khởi." Nói một hồi, Lộng Ngọc cười khẽ. Dung nhan yêu mị đến cực hạn, tựa hồ chưa từng phai nhạt theo năm tháng. Dựa vào vốn hiểu biết của y về Ôn Thái, thể nào nghe xong cậu cũng giận tái mặt, mắng y là kẻ hoang đường vô phương cứu chữa, sau đó liền quay về tìm Hoàn Nhã Văn vui hưởng lạc thú. Đó có lẽ đã là kết cục tốt đẹp nhất y có thể tưởng tượng đến. Để rồi cùng Ôn Thái rời khỏi giang hồ, mãi bên nhau đến đầu bạc răng long. Thế mà hiện tại, trông thấy cặp mắt đen sâu thẳm, an tĩnh của Ôn Thái, y mới chậm chạp nhận ra cậu thiếu niên bồng bột, kiêu xa năm đó đã không còn nữa rồi.

Ôn Thái cúi đầu, lưỡi kiếm sắc nhọn sáng choang, ánh mắt lại ôn hòa tưởng chừng như muốn biến băng tuyết trên sông thành làn nước mát lành độ xuân. Tay cậu nắm thành quyền, ngoài mặt thì bình tĩnh, song nội tâm lại thập phần kiên định. Cậu quyết liều một phen. Cậu dậm bước lướt xuống thuyền. Mấy năm nay, trình độ khinh công của cậu đã đạt đến thượng thừa, một chiêu này, cũng chẳng dấy đến một gợn sóng nhỏ trên mặt hồ. Lộng Ngọc đã mất hết võ công, dù vậy cũng từng là bậc hô mưa gọi gió một thời, y phản xạ nhanh chẳng kém khi xưa, thoáng cái đã tránh được vòng tay của cậu. Cậu chỉ vồ được khoảng không, vậy mà vẫn không bỏ cuộc, lại thụp xuống ôm lấy Lộng Ngọc.

"Lộng Ngọc, ngươi có biết không?" Ôn Thái lau vội giọt lệ còn vương trên khoé mắt, khẽ khàng vuốt ve suối tóc như tuyết của y, "Mười năm không gặp, ngươi vẫn xinh đẹp như trong ký ức ta vậy."

Lộng Ngọc nhíu mày nói: "Nam nhân xinh đẹp thì được tích sự gì?"

Ôn Thái làm như không nghe thấy, chỉ bẹo tay y mà cảm thán: "Vậy sao ngươi vẫn gầy thế này. Người chỉ toàn da bọc xương, Đông sơn tái khởi cái gì chứ. Đợi ta đưa ngươi về chăm sóc, dưỡng cho thân thể khỏe lên rồi hẵng bàn chuyện đó sau."

Thấy Ôn Thái ra vẻ "phụ thân nghiêm khắc", Lộng Ngọc thật không cách nào tưởng tượng được đây chính là cậu bé gầy gò ốm yếu, hay khóc lóc ngày xưa, y tuỳ hứng nhướn mày hỏi: "Ồ? Thái nhi của ta đã biết quan tâm tới người khác rồi ư?"

"Nghĩa phụ đúng là quý nhân hay quên mà, người không nhớ năm đó ai đã cơm bưng nước rót, hầu hạ lão nhân gia người đấy sao?"

Cậu cười đến xán lạn, gương mặt còn đang tuổi xuân xanh ấy có nét đẹp khó mà diễn tả thành lời. Lộng Ngọc chăm chú nhìn cậu hồi lâu. Y vốn hạ thủ tàn độc, vậy mà lúc này không khỏi do dự, chẳng biết làm sao cho phải.

Thật là, tương kiến sao bằng tương vong. Nhưng giữa trời đông tháng Chạp lạnh lẽo này, hình như không tiện nói lời tiễn đưa rồi. Chuyện dây dưa kia, thôi thì cứ để đến lúc liễu xanh hoa thắm vậy. Đợi khi xuân về hoa nở, lúc đó suy tính vẫn chưa muộn.

Chợt để ý bản thân dao động càng nhiều, tia hy vọng ẩn sau đáy mắt Ôn Thái lại càng lớn, dần dà rực sáng tựa ánh sao đêm. Lộng Ngọc chỉ biết lắc đầu, vén rèm che mui thuyền, bảo: "Thôi bỏ đi, tiết trời rét mướt như thế này, trước hết cứ vào trong ngồi cái đã."

【Hoàn】

Tôi bắt đầu viết "Quỳnh thương" hồi tháng 8, năm 2005, đến bây giờ đã mười năm rồi.

Hy vọng Ôn Thái và Lộng Ngọc sẽ được sống hạnh phúc bên nhau, tôi viết đoản văn này coi như đem đến chút vui vẻ cho mọi người.

Thiên Lại Chỉ Diên

Ngày 7, tháng 9, năm 2015

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro