Chương 1: Giải thoát ta khỏi sự chờ đợi này

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

A/N: Để phù hợp với bối cảnh của trung cổ, tên các nhân vật sẽ được Hán Việt hoá :))) các thím thử trổ tài đoán tên nhân vật nhoé~ Nếu đoán không ra cũng không sao, cuối chap sẽ có giải đáp~ Dự định trung bình một chap sẽ là 3k chữ, tôi quen viết nhiều bởi tôi biết cảm giác đọc được một lần lèo chương dài sẽ rất phấn khích :)) và cũng bởi vì tôi sẽ mô tả rất kỹ từng chi tiết nên truyện không thể ít hơn 2k chữ được. Nếu các thím viết nhiều và lâu năm ngang như tôi, các thím sẽ biết được cảm giác viết một chương ngắn nó rất là...khó chịu, bởi vì không đủ lột tả hết được ý tưởng mình đưa ra.

Và còn nữa, tôi đã có giới thiệu về truyện cũng như bối cảnh, cảnh báo và ý tưởng hình thành nên truyện này, nên ai cmt vào hỏi các kiểu như là: 'Ủa sao truyện này ý tưởng giống cái này cái kia' 'Ủa sao nhân vật lại thế này thế nọ' thì đừng nghĩ tôi sẽ trả lời nhé? Còn vấn đề truyện kết thúc SE hay HE, tôi sẽ không nói. Tự đọc đến cuối truyện sẽ biết thôi, biết trước nhiều khi cũng không hay lắm.

Nhân tiện tôi sinh năm 96, nếu các thím thấy xưng hô gượng gạo.

Thôi nói thế đủ rồi, chúng ta vào truyện nào.
----

Tận cùng của phương Đông nơi đất Trung Nguyên có một đất nước giàu có thịnh vượng, thần dân sống trong an bình và no đủ, nhờ vào tài cai trị của vị hoàng đế Tạ Sẩm cùng sự tài giỏi của hoàng hậu Giang Chiểu, đó là Lăng Vân quốc (Myth). Nhưng Lăng Vân không phải là vương quốc mạnh nhất. Sự giàu có về tài nguyên và thịnh vượng, Lăng Vân không thể tránh khỏi bị các nước lân cận dòm ngó với ý đồ chiếm đóng. Lăng Vân dẫu được coi là một đất nước riêng biệt, nhưng nó tồn tại độc lập và vẫn quá nhỏ bé so với nước Tần rộng lớn lúc bấy giờ nên việc tiên quyết lúc này chính là tạo mối quan hệ thông giao, lập đồng minh với nước khác.

Lăng Vân quốc ngoài thịnh vượng và giàu tài nguyên, nơi này còn nổi tiếng với các thuật tâm linh, chế tạo linh dược đan dược, vũ khí tốt, không nhất cũng chỉ nhì. Do đó, tìm kiếm một đồng minh sẽ không đâm một nhát sau lưng trong hoàn cảnh thế này là điều vô cùng khó khăn cho cả hoàng đế và hoàng hậu, bởi họ biết trong mắt các nước lân cận họ chính là một miếng mồi thơm ngon. Bị xâm lược sẽ là điều khó tránh khỏi trong tương lai nếu họ không làm gì đó.

Thiên đế trên cao có lẽ đã nhìn thấu nỗi khổ của họ và hài lòng với những việc thiện tích đức họ đã làm trước kia nên đã quyết định vươn tay giúp đỡ. Một ngày nọ, hoàng đế và hoàng hậu của Lăng Vân quốc nhận được chiếu liên minh của một đất nước nằm ở vùng Tây Vực rộng lớn, vùng đất của sa mạc và thảo nguyên, Tạp Á Dực quốc (Rune). Tạp Á Dực là một trong mười cường quốc chủ chốt ở Tây Vực, một đất nước dường như không thiếu thốn bất cứ thứ gì lại ngỏ lời muốn luên minh với một tiểu quốc như Lăng Vân, hoàng đế và hoàng hậu tất nhiên không thể tránh khỏi nghi ngờ. Nhưng sứ giả của Tạp Á Dực thậm chí đích thân đến đưa chiếu và đem theo một lượng cống phẩm để bày tỏ lòng tin, còn ngỏ ý có thể ở lại Lăng Vân cho đến khi nhận được câu trả lời. Hoàng hậu suy nghĩ rất lâu, cuối cùng thuyết phục phu quân của mình đồng ý, cử người đi sứ sang bên Tạp Á Dực bàn giao.

Mọi chuyện diễn ra vô cùng thuận lợi, không hề có khó khăn bất trắc hay chuyện ngoài ý muốn xảy ra. Tạp Á Dực và Lăng Vân trở thành đồng minh, Tạp Á Dực sẽ bảo hộ Lăng Vân khỏi sự xâm lăng và dòm ngó từ bên ngoài, nhất là dưới ánh mắt thèm muốn đan dược của Đại Đế nước Tần, đổi lại, Lăng Vân mỗi khi chế đan dược sẽ đưa cho Tạp Á Dực một nửa, chế đan dược cũng không hề khó khăn với tiểu quốc này nên liên minh cứ như vậy được thành lập, đôi bên cùng có lợi.

Mười năm trôi qua từ ngày đôi bên trở thành đồng minh, đột ngột một ngày nọ sứ giả của Tạp Á Dực đem một lượng lớn báu vật, nhiều gấp mười lần ban đầu khi họ kết đồng minh, sang Lăng Vân quốc. Sứ giả cho biết lượng báu vật này là lễ vật hỏi cưới, thực hiện theo phong tục của Trung Nguyên. Để thắt chặt hơn mối quan hệ của hai bên, Tạp Á Dực đã hỏi cưới vị công chúa duy nhất của Lăng Vân quốc, Tạ Khả Uyên. Ngoài sứ giả, còn có vị hoàng tử lớn của Tạp Á Dực, Táp Kha An, người quốc vương Tây Vực muốn gả cho, cũng đích thân sang hỏi cưới và mong muốn được tận mắt nhìn thấy công chúa.

Theo tập tục của người Trung Nguyên, thì bàn việc cưới hỏi và ra mắt là của thân nhân tân lang tân nương. Tân lang chỉ được thấy mặt tân nương vào đêm động phòng, hoặc trong trường hợp này, là khi công chúa Khả Uyên được rước sang Tạp Á Dực làm dâu, nhưng đôi khi việc vô tình gặp mặt ở đâu đó, thường là vườn thượng uyển, trong cung là điều khó có thể tránh khỏi, cho nên hoàng tử Tây Vực may mắn được thấy mặt vị hôn thê của mình. Như lời đồn của thần dân Lăng Vân quốc, công chúa Khả Uyên mang trên mình vẻ đẹp ngây thơ, hiền dịu, trong sáng và thánh thiện (lầm to), người gặp người liền thích, dù rằng một lọn lam phát trên mái tóc đen huyền là điều kỳ lạ nhất nhưng chẳng ai quan tâm, và hoàng tử Táp Kha An không phải ngoại lệ. Lần đầu tiên trái tim chàng đã biết rung động vì một ai đó, Tạp Kha An xác định nàng sẽ là người vợ cùng đồng hành với mình đến hết cuộc đời.

Ngày đưa dâu, thần dân Lăng Vân quốc cùng đổ ra đường, tung hoa vải và đề pháo hoa ăn mừng cho đám cưới của công chúa, cũng như mối quan hệ ngày càng thắt chặt của hai nước, ai ai cũng vui mừng khôn xiết. Hoàng hậu Giang Chiểu dù ngoài mặt vui vẻ nhưng trong lòng lại buồn rầu không thôi, bởi con gái duy nhất của mình được gả đi, tình thân bấy lâu nay bỗng dưng bị xa cách không khỏi trở nên trống trải. Hoàng đế Tạ Sẩm hiểu nỗi buồn của vợ mình, ông cũng chỉ biết ôm lấy hoàng hậu, ánh mắt đượm buồn nhìn đoàn kiệu đỏ rực đang khuất dần nơi phía chân trời.

Đoàn kiệu của Lăng Vân quốc hộ tống công chúa trên dưới năm mươi người, đến biên cương thì có quân đội của Tạp Á Dực quốc đã chờ sẵn, hộ tống quãng đường còn lại trở về Tây Vực. Chặng đường từ Trung Nguyên đến Tây Vực không hề ngắn, ít nhất cũng phải mất mười ngày cưỡi ngựa và ba ngày vượt biển bằng thuyền, đường xa nguy hiểm luôn rình rập, họ cần thúc đẩy hành trình càng nhanh càng tốt, chỉ cần đến được lãnh thổ Tây Vực sẽ có quân của hoàng tử đến hộ tống.

Một người lính Tạp Á Dực thúc ngựa, khói bụi mù mịt bay lên theo mỗi bước chân ngực dẫm lên nền cát, chạy về phía quân đội, theo sau chính là đoàn kiệu rước công chúa.

"Bẩm tướng quân Trát Tiễn, đoàn kiệu hộ tống công chúa đã rời khỏi biên giới."

"Chuẩn bị đón giá." Vị tướng quân gọi là Trát Tiễn gật đầu, rồi ra lệnh với quân đội của mình, cả đoàn quân cùng hét lên 'Chuẩn bị đón giá' để tất cả cùng biết sắp phải làm gì tiếp theo.

Chờ đến khi đoàn kiệu đến gần, đi đầu là ba nam nhân mặc giáp, người đi ở giữa giơ thanh kiếm của mình lên, ý chỉ bên kia 'hãy xưng tên'.

"Đại tướng quân Trát Tiễn của Tạp Á Dực quốc đến đây đón giá!"

Người lính giơ kiếm nhận được câu trả lời, xác định đúng là quân của quốc gia đồng minh, liền quay lại phía sau hét lên "Mời công chúa."

Chiếc kiệu gỗ son đỏ chở công chúa phủ những dải lụa mỏng với màu sắc thanh nhẹ trên mui, hai bên sườn treo hai dải hỷ cầu đỏ rực tượng trưng cho kiệu tân nương, kéo bởi bốn con bạch mã cũng được đeo hỷ cầu, được đưa lên và dừng chỉ sau ba người lính đi đầu. Cửa kiệu mở ra, lộ ra một bộ phượng bào màu lam nhạt, người mặc bộ lam bào đó chính là công chúa Tạ Khả Uyên. Khoác lên mình bộ phượng bào mỏng, dải lụa quấn quanh vai cùng mái tóc dài đen huyền xoã xuôi, đầu cài trâm đuôi phượng toát lên vẻ đẹp thoát tục khiến người nhầm tưởng nàng là tiên nữ giáng trần. Nhất thời, cả quân đội của Trát Tiễn tướng quân ngây người khi được trực tiếp diện kiến công chúa độc nhất của Lăng Vân quốc.

Một quân sư bước ra từ quân đội của Tạp Á Dực, cầm theo một cuộn chiếu dát vàng được giơ cao, theo sau là hai cận vệ, đối diện với ba người lính đi đầu bên đoàn kiệu Lăng Vân.

"Malik(*) Táp Lạt Ma ngự chỉ." Cả năm người, trừ vị quân sư giơ chiếu đồng loạt quỳ xuống cúi đầu "Sắc phong công chúa Tạ Khả Uyên làm phi tử của Táp Kha An hoàng tử, tương lai kế vị đất nước Tạp Á Dực, trở thành thánh nữ của Tây Vực. Vì sự hoà thuận của hai nước, kết nghĩa lân bang, thiên hạ thái bình. Tạ Khả Uyên công chúa, tiếp chỉ."

(*) Là vua trong tiếng Ả Rập

Chiếu chỉ được đọc xong, chỉ còn chờ nhận. Tạ Khả Uyên công chúa nhẹ nhàng đứng dậy, gật đầu. Người lính đi giữa cúi đầu nhận lấy chiếu chỉ từ tay quân sư, đi đến bên cạnh cỗ kiệu, dâng lên trước mặt công chúa. Công chúa vươn tay, còn chưa kịp chạm tới chiếu chỉ, một xé gió bén nhọn lao tới xuyên qua chiếu chỉ, xuyên thủng cả lồng ngực của người lính. Vài tiếng cung nữ của đoàn kiệu hét lên hoảng hốt khi hai đoàn quân thấy thứ xuyên qua người lính kia là một cây giáo màu lục mờ ảo vừa hữu hình mà cũng vừa vô hình, toả ra khói quỷ dị khắp cơ thể nó. Thân hình người lính kia đổ gục 'rầm' xuống đất, làn khói ma quỷ nhanh chóng bao phủ lấy cơ thể hắn và hoá da thịt hắn thành tro bụi.

Hai đoàn người quá đỗi bất ngờ với chuyện xảy ra, họ còn chưa kịp nhận ra chuyện gì thì có tiếng cười trầm khàn rợn tóc gáy vang lên, các cung nữ vẫn hoảng sợ la hét. Tướng quân Trát Tiễn tập trung tinh thần, tìm xem tiếng cười kia phát ra từ đâu nhưng lại không tìm được. Nó như vọng về từ nơi sâu thẳm nhất, mà theo sau tiếng cười, bầu trời đang trong lành không mây đột nhiên biến đen, toàn bộ bị bóng tối bao phủ, sau đó từng đợt gió cực mạnh thổi đến khiến lũ ngựa hoảng hốt hí lên từng tiếng dài. Những người lính gắn bó lâu năm với lũ ngựa nhận ra chúng đang sợ hãi thứ gì đó đang đến cùng với bóng tối.

Công chúa Tạ Khả Uyên hoảng hốt, người lính đứng rất gần nàng, tiếng xé gió ngay sát bên tai nàng sao có thể không biết. Nàng quay đầu nhìn theo hướng ngọn giáo ma quỷ phóng tới, giữa không gian bỗng chốc ngập tràn bóng tối, trên dốc núi cao sườn phải đoàn quân bọn họ, có một bóng nữ nhân mặc trang phục giáp tím chỉ che phần thân trên cùng với tà áo che hạ bộ, toàn bộ hai cánh tay và hai đôi chân dài đều phô ra trần trụi. Cảnh này lẽ ra phải khiến đám nam nhân nhìn chằm chằm nếu da thịt của nữ nhân lạ mặt kia không phải là màu lục trong suốt như khói, cả người cô ta phát ra thứ ánh sáng quỷ dị và nhất là đôi mắt trắng bệch vô hồn của cô ta.

Nữ nhân lạ mặt trên tay cầm một cây giáo giống hệt cái xuyên qua người lính kia, đủ để chứng minh cô ta là người đã phóng ngọn giáo, nhưng không để hai quân đoàn kịp hành động, cô ta đã gào lên bằng một thanh âm vô cùng chói tai. Nó như thể là tiếng tù binh bị tra tấn pha lẫn với tiếng gào thét của dã thú, hoặc khàn đục ngắt quãng như một người bị cắt đứt cổ và máu tuôn ra ngập tràn dây thanh quản. Theo sau tiếng hét dài quái đản đó là một đám người lẫn quái vật mặt mày răng nanh dữ tợn xuất hiện, tay lăm lăm vũ khí với khói toả ra sau lưng khi chúng di chuyển. Chúng đứng thành một hàng dài trên dốc núi, nhìn chằm chằm những con mồi yếu ớt bên dưới với ánh mắt khát máu.

"Quỷ!!" Không biết ai đó hét lên như vậy, đoàn kiệu hộ tống rất nhanh liền hỗn loạn, nhưng tất cả cùng tập trung lại xung quanh cỗ kiệu, ít ra họ cũng biết dù sợ hãi vẫn nên bảo hộ công chúa trước. Tướng quân Trát Tiễn thì cho quân chặn trước đoàn kiệu và đám quỷ, tất cả binh lính nắm chặt vũ khí trong tay, sẵn sàng chiến đấu.

---
'Nguyệt hoá huyết, dạ thực nhật

Âm cực thịnh, dương tất suy

Ma thoát ngục, quỷ tràn lan

Huyết thành sông, nhục chất núi'
---

Thần dân Lăng Vân luôn đồn đại từ ngàn xưa đến tận bây giờ một bài đồng ca về một ngày trong năm khi mặt trăng hoá đỏ, ban ngày sẽ bị ban đêm nuốt chửng, ánh sáng sẽ nhường chỗ lại cho bóng tối và lúc đó, chính là thời điểm ma quỷ xuất môn ngao du khắp thiên hạ, về sau dân chúng vẫn gọi đó là ngày lễ quỷ. Ngày này thường xuất hiện vào mỗi cuối tháng, dấu hiệu chính là cả ngày toàn mây đen âm u, che khuất ánh nắng mặt trời, đến khi hoàng hôn xuống thì một góc trăng máu sẽ lộ diện. Đêm xuống là thời khắc ma quỷ xuất hiện, bách quỷ dạ hành, sẽ không ai dại dột bước ra ngoài vào lúc ấy.

Điểm kỳ quặc chính là hôm nay rõ ràng không phải cuối tháng, trăng máu cũng không xuất hiện, nhưng trời trở đen thế này không phải do mây mù mà là do bóng tối từ bọn quỷ đã trực tiếp cắn nuốt tất cả. Không có huyết nguyệt, không có báo trước, đây lại là buổi sáng, hoàn toàn không phải lễ quỷ. Vậy đáp án cuối cùng, chính là đám quỷ đã phục kích đoàn kiệu.

Trát Tiễn lần trước đến Lăng Vân quốc làm sứ cũng nghe những nô tỳ trong cung nói về ngày lễ quỷ, hắn chỉ thấy đất nước phương Đông này có nhiều truyền thuyết rất thú vị nhưng hắn lựa chọn không tin thực sự có ma quỷ, cho đến ngày hôm nay.

Đám quỷ vốn đang rất say máu muốn lao xuống xé xác đoàn người nhưng chúng vẫn đứng đó chờ đợi, Trát Tiễn tướng quân đoán chúng chờ chỉ thị từ một kẻ cao cấp hơn, hắn rùng mình suy nghĩ. Chả lẽ có cả quỷ vương xuất hiện? Vừa nãy khi người lính kia bị giết, tiếng cười trầm thấp kia vang lên nhưng hắn không tìm ra nguồn phát ra. Giờ đám quỷ đã xuất hiện gần như đầy đủ, tướng quân đổ mồ hôi lạnh, số lượng quá lớn, quân hắn cũng đông không kém nhưng đánh với quỷ... Liệu có khả thi?

Bỗng tiếng cười trầm thấp khàn đặc lúc đầu lại vang lên, lần này kết hợp với không gian tăm tối và một đám quỷ trước mặt, thanh âm nghe vào tai càng khiến người lạnh gáy, tay chân run lẩy bẩy muốn bất tỉnh tại chỗ. Trát Tiễn và quân đội của hắn siết chặt vũ khí khi đám quỷ đột nhiên tách sang hai bên tạo thành một lối đi ở giữa, tiếng cười vọng lên từ lối đi đó và một thân ảnh to lớn bước ra, khiến đoàn người rước kiệu hút một khí lạnh sợ hãi.

Quỷ vương! Đó là suy nghĩ của tất cả mọi người.

Thân hình đồ sộ vạm vỡ với cơ bắp không quá lộ liễu nhưng hơn hẳn một người trưởng thành, nước da hắn là một màu đỏ tiên diễm của máu. Có người nói quỷ vương giết quá nhiều người và tắm máu của chúng nên hắn mới mang màu da như vậy. Hai cánh tay to lớn phủ đầy giáp xám mọc ra từ chính da thịt hắn, với móng vuốt nhọn trên tay có thể dễ dàng vặn gãy cổ một người trưởng thành hoặc cào rách da thịt chỉ với một cú lướt nhẹ. Đôi mắt đỏ như máu loé sáng trên gương mặt bằng sắt xám kéo dài thành hai cái sừng hình lưỡi hái vĩ đại trên đầu cùng hàng răng nanh sắc nhọn phô trương là thứ khiến người khó quên sự đáng sợ của hắn. Tiếng cười khàn trầm nọ quả thật phát ra từ kẽ răng nanh của tên quỷ vương, cười vì đám nhân loại đã lọt bẫy, cười vì chúng sắp có một bữa tiệc máu vô cùng hoành tráng.

"Giết sạch! Không chừa kẻ nào sống!" Tên quỷ vương ra lệnh và đám quỷ chỉ chờ có thế, chúng bắt đầu gào thét hào hứng và lao xuống đoàn người dưới dốc với tốc độ mà nhân loại không thể bắt kịp.

Trát Tiễn biết tình hình không thể chậm trễ, phen này chỉ còn nước liều mạng một phen với đám quỷ, hắn có thể chết nhưng nhiệm vụ không thể từ bỏ. Bằng mọi giá cũng phải đưa công chúa bình an rời khỏi nơi này. Hắn hét với quân "Chuẩn bị tiếp chiến", tất cả lính liền dàn thành một hàng đều răm rắp sát nhau dựng khiên phòng thủ, nghênh đón đám quỷ đang ồ ạt xông tới, tướng quân lại quay sang nói với đám người rước kiệu "Bảo vệ công chúa! Bọn ta sẽ chặn đường chúng! Các ngươi mau đưa công chúa chạy khỏi đây nhanh!"

Nói thì chậm nhưng sự việc diễn ra vô cùng nhanh. Đám quỷ có con nhỏ thì cũng có con lớn, một con lớn nhất không khác nào bộ giáp có sự sống, khói đỏ xen lẫn đen toả ra từ người nó. Nó nắm trong tay một cây chuỳ bạc đầu đầy gai, vung một nhát vào đoàn lính, thế trận liền bị phá, đám quỷ nhỏ phía sau được đà liền xông lên, nhào vào từng tên lính cắn đứt cổ chúng, hoặc moi tim, hoặc dùng vũ khí của chính mình kết liễu đám nhân loại. Có con đứng từ xa phóng thanh đao đồ tể khổng lồ cắm phập vào người lính và giật nảy trở về, nó chụp lấy thanh đao và tiếp tục tìm con mồi kế tiếp, hoặc như nữ quỷ màu lục ban đầu, phóng những múi giáo lạnh lẽo xuyên thẳng giáp vào lồng ngực của những binh sĩ. Cũng có binh sĩ đột nhiên bị một đôi tay đầy vuốt nhọn xuất hiện từ không trung cào rách cổ họng, khói tím toả ra và cắn nuốt tên lính, một nữ quỷ da lam hiện hình cười bí hiểm rồi tiếp tục tàng hình tìm kiếm nạn nhân khác.

Tướng quân Trát Tiễn, kết cục bi thảm không kém binh lính của mình. Hắn bị một con quỷ không hình dạng, là một đám khói đen đeo hai lưỡi đao trên hai tay chém chết vì bằng cách nào đó nó đã làm mù thị giác của hắn, và như thế, khi Trát Tiễn một lần nữa nhìn thấy đòn tấn công kế tiếp của con quỷ thì đầu và thân hắn đã ở hai nơi, trở thành mồi cho đám quỷ đói nhỏ hơn phanh thây xé xác.

Quỷ quá nhiều và cách thức chiến đấu của chúng quá quỷ dị, nhân loại như họ không thể chống trả lâu. Có người cố gắng đâm chém một con quỷ nhưng vết thương của nó nhanh chóng liền lại với tốc độ mắt thường thấy được và người đó ngay lập tức bị giết, trở thành bữa ăn cho lũ quỷ. Chúng quá mạnh lại còn không thể bị giết chết, quân đội Tạp Á Dực nhận mệnh hộ tống công chúa trở về nước từ hơn trăm người, chỉ qua một cuộc đụng độ với đám sinh vật tưởng như không có thật này liền tan nát chỉ trong vài giờ đồng hồ. Nơi vốn dĩ có hai đoàn quân chuẩn bị đón người, giờ chỉ còn là một vùng đất đầy máu và xương trắng, cùng một đám quỷ dữ ha hả cười vì ăn được một bữa no nê.

Lại nói về cỗ kiệu chở công chúa sau khi chạy khỏi cuộc chiến đẫm máu ở phía sau, tên lính đánh xe không dám ngừng lại, cứ thúc ngựa chạy điên cuồng về phía trước. Vì tình thế hoảng loạn lại thêm gã hối thúc đám ngực, cỗ kiệu chạy trên đường xóc nảy muốn lật cả người lẫn ngựa, công chúa Tạ Khả Uyên ngồi bên trong cũng khó chịu không kém, liên tục bị xoay lắc đến đầu óc quay cuồng. Chợt một bóng đỏ lướt qua bên cạnh cỗ kiệu, Tạ Khả Uyên rùng mình cảm nhận được khí tức đáng sợ của bóng đỏ ngoài kia, cửa kiệu vẫn còn mở từ lúc nhận chiếu nên nàng thấy được thân hình to lớn với nước da màu máu kia nhào đến tóm lấy cổ tên lính đánh xe, siết chặt. Mắt gã trợn trắng lên muốn rớt cả tròng ra khỏi hốc, miệng mở to muốn gào thét nhưng lại không thể phát ra thanh âm rõ ràng, chỉ nghe 'rắc' một tiếng, cổ gã ngoẹo sang bên, hai tay buông thõng.

Bóng đỏ cao lớn 'hừ' một tiếng rồi quăng gã lính đi như một con búp bê vải rách, hắn chồm người vào cửa kiệu thấp bé, miệng nhếch lên thành nụ cười quái dị khi nhìn thấy mỹ nhân thanh tú ngồi bên trong kiệu, cố gắng lùi về sát tường, tránh hắn xa nhất có thể dù lưng nàng đã chạm đến cuối kiệu. Gương mặt xinh đẹp của Tạ Khả Uyên toát lên vẻ sợ hãi khi quỷ vương thò tay vào bắt lấy cái cổ thanh mảnh của nàng, kéo lại gần hắn.

Nàng nghĩ con quỷ sẽ giết mình, đằng nào cũng chết, ít ra cũng đừng chết một cách vô dụng. Nghĩ đoạn, nàng vươn hai tay về phía mặt quỷ vương, ý đồ cào vào đôi mắt đỏ ngầu của nó. Nếu chết, ít ra cũng khiến nó phải bị thương nặng. Trái với suy nghĩ của mình, đầu ngón tay nàng không chạm vào lớp da thịt mềm hay tròng mắt tròn kia mà lại thúc mạnh vào một lớp sắt cứng cáp. Tạ Khả Uyên hét lên một tiếng đau đớn, nàng có thể cảm nhận đầu móng tay bị gãy rồi, lúc nãy dùng lực hơi mạnh...

Quỷ vương bị nàng cào trúng mặt, dù không tổn hại nhưng hắn cũng tức giận. Nhân loại yếu ớt dám trống trả sao? Tay hắn trên cổ nàng bất giác siết chặt hơn. Hắn vẫn chăm chú nhìn gương mặt thanh tú kia vặn vẹo vì đau đớn, bỗng dưng nghĩ gì đó lại nới lỏng tay nhưng không buông cần cổ kia. Công chúa như được ân xá hít lấy hít để không khí tràn ngập khí quản, vừa rồi bị bóp nghẹn đến hoa mắt, lúc đó cận kề cái chết nàng chân thật cảm thấy sợ hãi cái chết vô cùng. Nếu hắn dùng sức một chút nữa thì...

Bất chợt một cánh tay hữu lực vòng qua vòng eo nhỏ của Tạ Khả Uyên rồi đẩy nàng vào lồng ngực rắn chắc nhiễm đỏ chói mắt kia, làm nàng giật mình ngẩng đầu nhìn kẻ trước mặt. Hắn định làm gì...... Còn chưa kịp nghĩ xong thì nàng thấy bản thân bị ôm nhảy khỏi cỗ kiệu, trôi nổi trên không trung. Theo quán tính nàng liền bám víu lấy chỗ duy nhất nàng có thể dựa vào...vai của tên quỷ vương. Còn cỗ kiệu bị đứt dây khỏi lũ ngựa, rơi thẳng xuống vách đá cheo leo bên dưới.

Tạ Khả Uyên thất thần nhìn cỗ kiệu vỡ thành từng mảnh dưới đáy vực, trong lòng kinh hãi. Nếu tên quỷ không kéo nàng ra, e rằng nàng đã phơi thây dưới đó rồi. Nhưng...tại sao hắn phải cứu mình chứ? Suy nghĩ vừa dứt nàng liền thấy nhói ở gáy, ý thức liền chìm vào bóng tối.

---
Đây là bộ đồ 'công chúa' của chúng ta mặc UvU

Và tui chỉ phác đỡ thôi, nó thế này

Đậu má mỹ nhân như hoa như ngọc OvO nam nhân mà còn đẹp hơn nữ nhân thế này
----
*Tên:

_Khả Uyên: Kayn
_Tạ Sẩm: Shen (thực ra chỉ có chữ Sẩm thôi, nhưng để 1 tên hơi kỳ nên ta thêm vô, nên Tạ là họ)
_Giang Chiểu: Zed
_Táp Kha An: Rakan
_Trát Tiễn: Jarvan

Nếu thấy để hán việt có vẻ khó nhớ và không ổn thì cmt, ta có thể đổi. Nhưng bối cảnh Trung cổ để tên tiếng anh thì không hợp cảnh cho lắm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro