rừng xà nu

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tác giả

Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành là bút danh của Nguyễn Văn Báu. Sinh năm 1932 tại Quảng Nam. Lăn lộn nhiều năm trên chiến trường ác liệt cả trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Chống Mĩ.

Tác phẩm: "Đất nước đứng lên" (1956), "Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc" (1969), "Đất Quảng" (1973 - 1974),...

Hơi hướng Tây Nguyên, màu sắc tráng lệ, khuynh hướng sử thi... tạo nên cốt cách và vẻ đẹp văn chương của Nguyên Ngọc - Nguyễn Trung Thành.

Xuất xứ

Truyện "Rừng xà nu" được Nguyễn Trung Thành viết năm 1965, xuất hiện lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng miền trung Trung Bộ, số 2 năm 1965 - năm 1969, in trong tập truyện ký "Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc".

Tóm tắt truyện

Sau 3 năm đi "lực lượng", Tnú về thăm làng. Bé Heng gặp anh ở con nước lớn dẫn anh về. Con đường cũ, hai cái dốc, rừng lách chằng chịt hố chông, hầm chông, giàn thò sắc lạnh. Mặt trời chưa tắt thì anh về đến làng. Cụ Mết già làng và bà con dân làng reo lên mừng rỡ. Cụ Mết đưa anh về nhà ăn cơm. Từ nhà ưng vang lên một hồi, ba tiếng mõ dài, cả lũ làng cầm đuốc kéo tới nhà cụ Mết gặp Tnú. Có ông bà già. Nhiều trai tráng và lũ con gái. Đông nhất là lũ trẻ con. Có cả cô Dít, em gái Mai, nay là bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã hội. Ai cũng muốn ngồi gần anh Tnú. Dít thay mặt lũ làng xem giấy có chữ ký chỉ huy cho phép Tnú về thăm làng một đêm. Quanh bếp lửa rộn lên: "Tốt lắm rồi!" "Một đêm thôi, mai lại đi rồi, ít quá, tiếc quá!". Rồi cụ Mết kể lại cuộc đời Tnú cho lũ làng nghe. Tiếng nói rất trầm. "Anh Tnú đó, nó đi Giải phóng quân đánh giặc... Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta". Anh Xút bị giặc treo cổ, bà Nhan bị giặc chặt đầu, nó và em Mai đi vào rừng nuôi anh Quyết cán bộ. Anh dạy nó học chữ. Nó học chữ thì hay quên nhưng đi rừng làm liên lạc thì đầu nó sáng lạ lùng. Nó vượt thác, xé rừng mà đi, lọt tất cả vòng vây của giặc. Một lần Tnú vượt thác Đắc nông thì bị giặc bắt, bị tra tấn, bị đầy đi Kông Tum. Ba năm sau, Tnú vượt ngục trốn về, lưng đầy thương tích. Tnú đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết gửi cho dân làng Xô Man trước khi anh tử thương. Tnú đi bộ lên núi Ngọc Linh đem về một gùi đá mài. Đêm đêm làng Xô Man thức mài vũ khí. Thằng Dục chỉ huy đồn Đắc Hà đưa lũ ác ôn về vây ráp làng. Tiếng kêu khóc vang dậy. Cụ Mết và trai tráng lánh vào rừng, bí mật bám theo giặc. Bọn giặc đã giết chết mẹ con Mai. Tay không ra cứu vợ con, Tnú bị giặc bắt. Chúng lấy nhựa xà nu đốt cháy 10 ngón tay anh. cụ Mết và lũ thanh niên từ rừng xông ra, dùng mác, và rựa chém chết tất cả 10 tên ác ôn. Thằng Dục ác ôn và xác lũ lính ngổn ngang quanh đống lửa trên nhà ưng. Từ đó, làng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng. Sau đó, Tnú ra đi tìm cách mạng..."

Cụ Mết ngừng kể, rồi hỏi Tnú đã giết được mấy thằng Diệm, mấy thằng Mĩ rồi? Anh kể chuyện đánh đồn, xông xuống hầm ngầm dùng tay bóp chết thằng chỉ huy... thằng Dục, "đúng chớ... chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục!". Mưa rơi nặng hạt. Không ai nhận thấy đêm đã khuya. Sáng hôm sau cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường. Ba người đứng nhìn những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời...

Chủ đề

Ca ngợi tinh thần quật khởi, chí khí cách mạng và sức sống mãnh liệt của đồng bào các dân tộc và núi rừng Tây Nguyên trong cuộc đấu tranh vũ trang chống kẻ thù khát máu Mĩ - Diệm.

Hình tượng rừng xà nu

Rừng xà nu vừa là cảnh sắc hùng vĩ vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Mở đầu tác phầm là hình ảnh rừng xà nu cùng bá Heng đón Tnú đi bộ đội về thăm làng; phần cuối cũng là rừng xà nu trùng điệp tiễn người anh hùng của quê hương đi tìm Mĩ, Diệm để diệt.

Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời, nó vươn lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng... như Tnú, Mai, Dít, cụ Nết, bé Heng và dân làng Xô Man sống và chiến đấu vì khát vọng tự do.

Nó cùng với dân làng Xô Man chung chịu gian nan và hy sinh. Anh Xút bị giặc treo cổ lên cây vả đầu làng, bà Nhan bị giặc đốt cháy 10 đầu ngón tay, mẹ con Mai bị giặc đập chết... Rừng xà nu cũng bị đại bác giặc bắn suốt đêm ngày, hàng vạn cây không cây nào không bị thương, có những cây non trúng đạn, chất dầu còn loãng, vết thương cứ loét mãi ra rồi chết.

Rừng xà nu mang sức sống mãnh liệt và khí phách lẫm liệt như lũ làng. Cạnh một cây xà nu bị bắn gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Đã hai ba năm nay, trong mưa bom bão đạn, "rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng".

Giặc định dùng nhựa xà nu, lửa xà nu dìm dân làng Xô Man vào biển máu, nhưng chính lũ ác ôn do thằng Dục cầm đầu đã bị cụ Mết và trai làng chém chết, xác chúng ngổn ngang quanh đống lửa xà nu.

Rừng xà nu trùng điệp, hút tầm mắt chạy đến chân trời là biểu tượng cho thế trận chiến tranh nhân dân, người người lớp lớp. Nguyễn Trung Thành đã tạo nên những hình ảnh ẩn dụ, nhưng liên tưởng kỳ vĩ để miêu tả rừng xà nu hùng vĩ với tất cả lòng yêu mến tự hào.

Nguyễn Trung Thành sau này có viết: "Hồi tháng năm năm 1962, hành quân từ miền Bắc vào (...) chiến trường của mình là khu rừng bát ngát phía tây Thừa Thiên giáp Lào. Đó là một khu rừng xanh tít tắp tận chân trời. Tôi yêu cây rừng xà nu ngay từ đó. Ấy là một loại cây hùng vĩ và cao thượng man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ ứa nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi..." (Về một truyện ngắn - Rừng xà nu).

Những dũng sĩ làng Xô Man

- Cụ Mết, già làng râu dài tới ngực mà vẫn đen bóng, ngực căng như một cây xà nu lớn. Cụ là một thủ lĩnh quân sự, linh hồn của cuộc chiến đấu và chiến thắng. Chính dưới lưỡi mác sáng loáng của cụ là xác thằng Dục ác ôn. Chính sau tiếng hô của cụ: "Chém! Chém hết" là những lưỡi mác của trai làng vung lên và xác lũ giặc ngổn ngang trên nhà ưng! Chính cụ đã khẳng định một chân lý cách mạng để đi tới tự do: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo". Sau chiến công đầu vị già làng đã truyền hịch:

"Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!"

Tiếng hịch ấy đã vang dội núi rừng. Và lửa cháy khắp rừng. Cụ Mết mang tầm vóc và khí phách như một anh hùng bộ tộc xa xưa trong trường ca Tây Nguyên. Khuynh hướng sử thi bao trùm nhân vật xuất chúng này để ta yêu mến và khâm phục.

Mai và Dít tiêu biểu cho những người con gái Tây Nguyên thời đánh Mĩ. Bà Nhan bị giặc chặt đầu đã có Mai vào rừng bảo vệ anh Quyết cán bộ. Mai là hiện thân của lòng trung thành với cách mạng, cần mẫn, hiền dịu, sáng dạ, bất khuất hiên ngang trước súng đạn quân thù. Dít lớn lên, lại đi tiếp con đường của chị. Đi tiếp tế cho du kích, bị giặc bắt, phải làm bia đạn, sau mỗi viên đạn nổ "đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng". Ba năm sau ngày chị hy sinh, Dít đã trưởng thành, trở thành một bí thư chi bộ, một chính trị viên xã đội lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Trong mỗi quan hệ mới với Tnú, cô Dít với tư cách lãnh đạo đã nghiêm trang trong thủ tục hỏi giấy tờ người lính từ mặt trận về thăm làng: "Không có giấy, trốn về thì không được. Ủy ban phải bắt thôi". Là cô gái, là em chị Mai, cô Dít đã nhìn Tnú bằng "đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt" chan chứa yêu thương và như cô đã nói với Tnú: "Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi". Mai và Dít đều mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới: "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang"...

- Tnú là một anh hùng đích thực. Cụ Mết rất tự hào nói về anh:

"Nó là người Strá mình - Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta". Yêu cách mạng và khao khát tự do. Tnú đã vào rừng bảo vệ, tiếp tế cho cán bộ hoạt động bí mật. Tnú học chữ để mai sau thay anh Quyết làm cán bộ. Dũng cảm và mưu trí lúc vượt thác, lúc cắt rừng đi liên lạc. Trung thành và bất khuất. Nuốt thư bí mật khi bị địch bắt. Giặc tra tấn bắt khai ai là cộng sản, Tnú đặt tay lên bụng mình, nói: "Ở đây này". Tnú sống với niềm tin: "Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn". Tnú vượt ngục trở về làng, độc thư tuyệt mệnh của anh Quyết cho lũ làng nghe rồi anh đi lên núi Ngọc Linh lấy một gùi đá mài đem về để dân làng Xô Man mài giáo, mác, dụ, rựa, chuẩn bị khởi nghĩa. Cuộc chiến đấu mới bắt đầu thì vợ con anh bị giặc đập chết. Cứu mẹ con Mai không được, anh bị giặc bắt trói bằng dây rừng, bị giặc đốt mười ngón tay bằng nhựa xà nu thành mười ngọn đuốc. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng, nhưng lẫm liệt, khí phách: hiên ngang. Tnú không thèm kêu van!

Tnú là một dũng sĩ kiên quyết đánh địch đến cùng. Núi rừng đã đốt lửa lên rồi! Mười ngón tay, ngón nào cũng cụt một đốt, nhưng còn hai đốt vẫn cầm giáo, bắn súng được, anh đã lên đường đi tìm cách mạng, gia nhập Giải phóng quân, đi tìm những thằng Dục ác ôn để trả thù cho mẹ con Mai, cho lũ làng. Tnú đã chiến đấu dũng cảm, đã xung phong xuống hầm ngầm, dùng tay bóp chết tên chỉ huy, cũng là một thằng Dục khát máu. Anh nhớ làng, anh xin phép về thăm làng một đêm rồi anh lại ra đi chiến đấu!

Nguyễn Trung Thành, với khuynh hướng sử thi đã khắc họa Tnú mang bao phẩm chất anh hùng lẫm liệt. Tnú đi tiếp trong "Đất nước đứng lên". Màu sắc núi rừng và hơi hướng Tây Nguyên như ánh hào quang tỏa chiếu dũng sĩ Tnú.

Kết luận

Hình tượng rừng xà nu, hình ảnh những dũng sĩ anh hùng trong truyện "Rừng xà nu" là hình ảnh đất nước và con người Việt Nam kiên cường, bất khuất trong thời đại Hồ Chí Minh vừa đậm đà hơi hướng và cảnh quan hùng vĩ Tây Nguyên. Tác phẩm dào dạt cảm hứng sử thi hào hùng. Những anh hùng dũng sĩ như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít,... đại diện cho cộng đồng, chiến đấu và hy sinh vì sự sống còn của cộng đồng, gắn bó với lịch sử cộng đồng, được khắc họa bằng những hình ảnh chói lọi, với một giọng văn hào hùng, say mê, trang trọng, tạo nên những trang văn tráng lệ mang âm hưởng anh hùng ca.

Truyện "Rừng xà nu" thể hiện nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn của Nguyễn Trung Thành vừa trang nghiêm thần kỳ, vừa đầy chất thơ tráng lệ./.

(Sưu tầm)

_________))))_________

--------------------------------------------------------------------------------

Rừng xà nu

- Nguyễn Trung Thành-

I. Tìm hiểu chung:

1, Tác giả:

- Tên khai sinh: Nguyễn Văn Báu; bút danh: Nguyên Ngọc

- Sinh 5/ 9/ 1932: quê Thăng Bình- Quảng Nam.

- 1950: Ông ra nhập quân đội; 1954: tập kết ra Bắc; 1962 : trở vào Nam.

- Ông là nhà văn quân đội, hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ chủ yếu ở Tây Nguyên và liên khu 5. Ông gắn bó với con người và mảnh đất nơi này.

- Các TP chính: " Đất nước đứng lên"(1955); "Mạch nước ngầm"(1960); " Rừng xà nu"(1965); " Trên quê hương anh hùng Điện Ngọc"(1969).

2, Xuất xứ:

- Viết vào mùa hè năm 1965: Đế quốc Mĩ ồ ạt đổ quân vào Miền Nam nước ta

- TP được in lần đầu trong cuốn tạp chí "Văn nghệ quân giải phóng"( số 2- 1965)

- Năm 1965: được in lại trong tập truyện kí "Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc" của Nguyễn Trung Thành.

3, Tóm tắt cốt truyện:

Có hai câu chuyện đan cài vào nhau.

- Cuộc chiến đấu của dân làng XôMan

- Chuyện đời riêng của Tnú

4, Chủ đề:

- Thông qua câu chuyện về cuộc đời Tnú, TP ca ngợi sức sống, tinh thần đấu tranh quật cường của dân làng XôMan nói riêng và các dân tộc Tây Nguyên nói chung trong đấu tranh chống Mĩ xâm Lược.

II. Phân tích:

1, Truyện xây dựng hệ thống nhân vật thể hiện sự tiếp nối của các thế hệ CM làng XôMan cũng là của đồng bào Tây Nguyên: Cụ Mết, Tnú, Dít, Mai, Heng.....

A, Nhân vật Mết:

- Là một giag làng, cao niên, quắc thước khoẻ mạnh.

Chi tiết: + 60 tuổi, tiếng nói vang trong lồng ngực, giọng ồ ồ.

+ Ngực căng như một cây xà nu lớn, mắt sáng xếch ngược, râu dài; hai bàn tay chắc nịch.

- Là người trầm tính, kín đáo, uy nghi đĩnh đạc.

Chi tiết:

+ các nhận xét của cụ được bày tỏ một cách thận trọng có mức độ. Trước khi đánh giá bao giờ cụ cũngquan sát kĩ đối tượng, nhìn từ đầu đến chẩnồi mới nhận xét. Những khi vừa ý nhất cụ cũng chỉ nói "Được".

+ Phong thái uy nghi, tiếng nói trầm trầm. Mỗi khi cụ nói thì tất cả im lặng lắng nghe, trẻ con nhìn chăm chú như nuốt lấy từng lời.

- Là người giàu lòng yêu thương với dân làng, quê hương:

Chi tiết:

+ Nhường muối cho người đau.

+ Giữ Tnú ở nhà mình và đãi Tnú những món ăn ngon của làng quê.

+ Cụ tự hào về làng quê " Gạo strá...."

+ Cụ có ý thức truyền lại cho con cháu nhớ câu chuyện của Tnú hay truyền thống đấu tranh của dân làng XôMan.

- Cụ tin tưởng ở CM:

+ Tổ chức nuôi dấu cán bộ trong 5 năm không có một người cán bộ nào bị bắt

+ Cụ dạy cho dân làng XôMan "Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn"

=> KL: cụ Mết là tập hợp tiêu biểu cho truyền thống lịch sử cha ông, là gạch nối giữa Đảng, CM và dân XôMan. Cụ chính là cây Xànu lớn nhất của rừng Xànu.

B, Nhân vật Tnú:

* Là nhân vật tiêu biểu cho: số phận; con đường đến với CM > của dân làng XôMan trong cuộc kháng chiến chống Mĩ

- Là người gan góc, táo bạo, trung thực

Chi tiết:

+ Lúc nhỏ Tnú vào rừng cùng Mai để tiếp tế cho cán bộ.

+ Đi đưa thư.

+ học chữ chậm-> lấy đá đập đầu.....

+ Bị bắt, bị tra tấn-> nhưng Tnú cắn răng chịu đựng.

+ Sau khi thoát khỏi tù ngục-> Tnú vẫn tiếp tục con đường CM.

- Là người giàu ý chí, nghị lực, biết vượt lên bi kịch của cá nhân để sống đúng, sống đẹp sống có ý chí.

+ Bi kịch: * Mồ côi

• Vợ con bị kẻ thù giết dã man.

• Bản thân chịu nhiều đau thương: bắt, đánh đập, tra tấn, bị đốt 10 ngón tay

+ Tnú vượt lên bi kịch;

• Từ nhỏ anh đã chọn cho mình con đường sống đúng đắn: Theo cụ Mết, theo dân làng đi nuôi cán bộ.

• Mất vợ, con, người thân nhưng Tnú không gục ngã mà ngược lại anh đứng vững rồi bản thân vượt lên nỗi đau cá nhân-> anh gia nhập quân đội, anh giết chết tên chỉ huy trong hầm cố thủ của hắn

-> Thổi bùng lên ngọn lửa căm hờn của dân làng XôMan, của đồng bào Tây Nguyên

- là người giàu tình, nặng nghĩa

+ hết lòng yêu thương vợ con

• Khi Mai sinh con,Tnú không đi chợ mua vải cho Mai may địu thì Tnú lấy ngay taams chăn của mình để Mai làm địu

• Lúc chứng kiến vợ con bị kẻ thù đánh đập: đau thương, căm giận-> anh lao vào bọn giặc

+ Làng quê với Tnú là gia đình-> xa làng quê, Tnú rất nhớ khi gặp mọi người, Tnú đều nhớ, anh không quên ai, nhớ tiếng chày của làng quê.

- Có tính kỉ luật cao:

* Câu chuyện tình yêu của Tnú Và Mai đã góp phần làm đẹp thêm phẩm chất tốt đẹp của nhân vật

- Lúc đầu là tình bạn khi còn là thơ ấu: tình bạn thơ mộng: cùng học cùng chịu đựng, cùng nuôi dấu cán bộ, họ lớn lên cùng với sự lớn lên của dân làng XôMan.

- Tình yêu ở tuổi trưởng thành: thắm thiết người tình, sự cảm thụ lẫn nhau

Dẫn chứng: Khi Tnú vượt ngục, Mai gặp Tnú và cầm hai bàn tay anh rưng rưng nước mắt

- Mối tình của họ hết sức bi thương bởi quân thù tàn bạo. Tuy nhiên, nó trở thành động lực để Tnú hoàn thành nhiệm vụ mà CM giao

* ở nhân vật Tnú, hình ảnh bàn tay gây ấn tượng sâu đậm:

- Lúc bàn tay còn lành lặn thì đây là bàn tay nghĩa tình:

+ Bàn tay đã dắt Mai lên rẫy trồng tỉa

+ Bàn tay cầm phấn để viết lên bảng, viết những con chữ đầu tiên

+ Bàn tay cầm công văn để làm liên lạc

+ Hai bàn tay ấy, Mai đã cầm để biện hộ tình yêu của mình

- 10 ngón tay Tnú bị kẻ thù tẩm nhựa Xà nu để đốt cháy-> trở thành 10 ngọn đuốc-> 10 ngón tay ấy đã trở thành chứng tích của lòng căm hận kẻ thù.

- Bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt nhưng Tnú vẫn cầm súng và chính bằng bàn tay ấy anh đã bóp chết tên chỉ huy đồn địch ngay trong hầm cố thủ của nó.

=> TL: Tnú chính là cây Xànu mạnh mẽ nhất, đẹp nhất trong núi rừng Tây Nguyên

C.Dớt và bộ Heng.

- Dớt "đụi mắt to bỡnh thản trong suốt" khi thi hành nhiệm vụ của người bớ thư ...Dớt hỏi Tnỳ = giọng lạnh lựng "đồng chớ về cú giấy khụng?" ... Khi bị bắt và bị tra tấn thỡ "... đến viờn thứ 10 nú chựi nước mắt im bặt, đụi mắt mở to bỡnh thản lạ lựng" =>Dớt là cụ gỏi gan dạ, yờu cỏch mạng, nghiờm nghị và giàu tỡnh cảm, luụn bỡnh tĩnh trong mọi hoàn cảnh.

-Heng cũn nhỏ nhưng đó tham gia đỏnh giặc. Hỡnh ảnh chỳ bộ "sỳng đeo.....một người lớnh thực sự" đẹp và cú ý nghĩa: Sự chiến đấu của dõn làng XM sẽ được tiếp bước & trưởng thành hơn lớp măng non nối tiếp cha anh đỏnh giặc .

D.Dân làng Xụ Man :

Người già trẻ em , trai gỏi cú tờn & khụng tờn mừng khi TN về làng ,chăm chỳ nghe Mết kể chuyện Tnỳ, đồng lũng căm thự giặc& cựng ý chớ chiến đấu bảo vệ làng bản ,bảo vệ cỏch mạng Họ yờu nước yờu cỏch mạng.

** Sự xuất hiện của Heng, Dỳt ,Tnỳ & cụ Mết là sự nối tiếp hết lớp này đến lớp khỏc nhiều người con Tõy Nguyờn anh hựng chiến đấu cho đến thắng lợi hoàn toàn của quê hương đất nước.

Họ là những "cõy xà nu" mà nếu ngó xuống sẽ cú cõy con mọc liờn tiếp nhanh để tạo rừng xà nu n/tiếp tới chõn trời .

-Hỡnh ảnh bản làng Xụ Man vừa tạo cho truyện khụng khớ sử thi cũng chớnh là hỡnh ảnh cuả "rừng Xà nu" hiờn ngang tuyệt đẹp, "cỏnh rừng tạo ra những cõy vững chải như cụ Mết Dớt ,Mai, Heng...

E. Cuộc đồng khởi của dõn làng:

-Giặc đến dõn làng chuẩn bị khớ giới mài giỏo mỏc, vút chụng

-Đờm giặc võy làng TN bị tra tấn mọi người đó nổi dậy

+ Cỏc cụ già chồm dậy. "Tiếng kờu thột dữ dội tiếng chõn chạy rầm rập quanh nhà ủng".

+ Tất cả thanh niờn trong làng mỗi người một cõy rựa sỏng loỏng...

+ "Đống lửa xà nu lớn giữa nhà vẫn đỏ. Xỏc 10 tờn lớnh ngổn ngang xung quanh đống lửa" .

+ "Thế là... khắp rừng"

Cuộc vùng dậy quyết liệt & tất yếu. Hành động của kẻ thự chõm ngọn lửa quật khởi of dõn bản. "Căm thự thỳc giục trả lời, vũ khớ trả lời vũ khớ"... . Đờm bỏo hiệu cuộc chiến với kẻ thự dài lõu.

2, Hình tượng cây Xà nu:

Vừa là cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, vừa mang ý nghĩa tượng trưng

- Mở đầu và kết của truyện đều là cảnh rừng Xànu.

Đầu: " Đứng trên.....đến hết tầm mắt cũng....chân trời"

- Cây Xànu ham ánh sáng và khí trời như Mai, Tnú khao khát tự do.

- Cây Xànu cũng như người dân Xôman chịu những đau thương, hi sinh:

+ Con người XôMan: anh Xút bị treo cổ trên cây vaie đầu làng; bà Nhan bị giặc chặt đầu; Tnú bị đốt 10 ngón tay.

+ Cây Xà nu: bị đạn đại bác bắn suốt đêm ngày. Hàng vạn cây, có những vết thương cây con không lành được-> chết

- Cây Xà nu hiện diện trong suốt câu chuỷện về người dân XôMan trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược

+ Cây Xà nu có mặt trong đời sống hàng ngàycủa người dân XôMan: ngọn lửa trong bếp, trong đống lửa lớn để tập hợp dân làng ở nhà Ưng; là ngọn đuốc để soi sáng những đoạn rừng đêm, khói Xà nu xông lên để làm bảng cho Tnú học chữ.

+ Cây Xà nu còn có mặt trong những sự kiện trọng đại:

• Ngọn đuốc Xànu đã cháy sáng trong tay cụ Mết và tất cả dân làng đã vào rừng để lấy giáo, mác để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới

• Đêm đêm, dân làng đãthức để mài vũ khí dưới ánh sáng của nhựa Xànu

- Rừng xà nu có sức sống mãnh liệt như dân làng XôMan đầy khí phách

+ Cạnh một cây Xà nu mới ngã gục đã có 4-5 cây con mọc lên ngọn xanh rờn

+ Đã 2-3 năm nay, rừng Xà nu trong mưa bom bão đạn vẫn "Ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng-> đây là một hình ảnh đầy kiêu hãnh, biểu hiện khí phách"

+ Kẻ thù định dùng nhựa Xà nu để dìm dân làng trong biển máu nhưng chính lũ ác ôn do thằng Dục cầm đầu đã bị cụ Mết và dân làng giết chết. Xác chúng ngổn ngangquanh đống lửa Xànu. Sau đó, Tnú đã tham gia lực lượng-> trở thành người chiến sĩ CM

- Hình tượng cây Xà nu trong TP còn là biểu tượng cho thế trận chiến tranh nhân dân không ngừng lớn mạnh-> đây là hình ảnh ẩn dụ, là liên tưởng kì vĩ của nhà văn. Qua đó ta thấy được thái độ, tình cảm của nhà văn yêu mến tự hào về nhân dân.

3.Đặc sắc nghệ thuật

A.Nhõn vật được t/h = những nột chấm phỏ, hiện ra hành động (Tnỳ,Mết,Dớt,Heng).

B.Đậm chất sử thi:

-Qua cõu chuyện về c/đ Tnỳ& cuộc nổi dậy của dõn làng XụMan t/g tỏi hiện thời kỳ ls of phong trào cỏch mạng Mnam cho tới khi Đồng khởi = Đề cập đến vấn đề bao trựm về vận mệnh & con đường g/p of cả dõn tộc trong thời kỳ khỏng chiến chống Mĩ .

- Hệ thống nhõn vật của truyện là sự tiếp nối của cỏc thế hệ c/m of làng Xụ Man. Tớnh chất sp of nhõn vật mang ý nghĩa đại diện cho nhõn dõn,cộng đồng .Sp cỏ nhõn thống nhất với cộng đồng.

-Cỏch kể & ngụn ngử kể chuyện tạo nờn tớnh sử thi

+Cõu chuyện được kể trong hồi tưởng of già làng bờn bếp lửa trước đụng đủ lũ làng.

+ Cỏch cụ Mết kể như muốn truyền lại cho bản làng những trang sử cộng đồng.

+ Cõu chuyện về Tnỳ & cuộc nổi dậy of bản làng được kể như chuyện lịch sử = sự kiện quan trọng .

-Cỏch tạo k/cảnh of NT Thành mang chất sử thi:

+Khung cảnh "Rừng Xà Nu" vụ tận.

+ Khung cảnh đờm nổi dậy ...

C.Nghệ thuật trần thuật:

- Truyện kể như một hồi tưởng trong một đêm Tnú về thăm làng qua lời kể của cụ Mếtvà những hồi ức của Tnú tái hiện theo lời kể ấy.

- Truyện được kể bên bếp lửa qua lời kể của một già làng kể cho đông đảo dân làng nghe. Cách kể trang trọng như muốn truyền cho thế hệ con cháu trang sử của csr một cộng đồng-> mang đậm tính chất sử thi.

III. Tổng kết:

- Tác giả đã khắc hoạ rất thành công hình ảnh một tập thể anh hùng.

- RXN là một bước tiến xa so với " Đất nước tiến lên" ở tầm khái quát, sự chọn lọc và dồn lén những cảm xúc

- TP dạt dào cảm hứng sử thi

__________________________________________________

Phân tích tác Phẩm Rừng Xà Nu ( Nguyễn Trung Thành)

Nhà văn Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) có duyên với Tây Nguyên. Cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, Nguyên Ngọc đã sống và chiến đấu ở mảnh đất hùng vĩ này. Hai tác phẩm hay nhất của Nguyên Ngọc đều viết về Tây Nguyên là "Đất nước đứng lên" và "Rừng xà nu".

Truyện "Rừng xà nu" viết về những anh hùng ở làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Cảm hứng của nhà văn về nhân vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng vĩ mà cụ thể là hình tượng cây xà nu của Tây Nguyên.

Nhà văn đã chọn một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống mãnh liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất của dân làng Xô Man và các dân tộc Tây Nguyên.

Truyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu. Suốt trong quá trình kể chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc, gần 20 lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu. Hình tượng cây xà nu mang ý nghĩa tượng trưng, nó nói lên sức sống bền vững, quật khởi của dân làng Xô Man, của Tây Nguyên bất khuất. Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, nhất là các hình ảnh "đồi xà nu" (4 lần), "rừng xà nu" (5 lần), với "hàng vạn cây" "ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng".

"Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc... Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa úa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn". Hình ảnh cây xà nu mở đầu truyện đã cho thấy cuộc đấu tranh quyết liệt của dân làng. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân làng Xô Man ngã xuống.

Nhưng hình tượng cây xà nu cũng tượng trưng cho sức sống dẻo dai,mãnh liệt của dân làng Xô Man, của con người Tây Nguyên. "Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế."

"Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê". Rừng xà nu mang ý nghĩa biểu tượng cho con người. "Đặt trong hệ thống chủ đề, trong mạch truyện, những cây xà nu này mang tính biểu tượng cho những Mai, Dít, Tnú, Heng, thế hệ trẻ của làng Xô Man bất khuất, gắn bó với cách mạng". Chỉ đơn giản một chi tiết này, thấy cây xà nu giống người biết mấy! "Nhưng cũng có những cây vượt lên đựơc đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng". Hình ảnh đó giống Tnú biết bao, Tnú bị bọn giặc chém nhiều nhát sau lưng, trên tấm lưng chưa rộng bằng bề ngang cái xà lét mẹ để lại đó ứa một vệt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quện, tím thẫm như "nhựa xà nu". Nhưng sau khi ở tù vượt ngục trở về, những vết thương đã lành lặn, Tnú khoẻ mạnh, cường tráng, rồi trở thành một chiến sĩ kiên cường.

Cái chết của những cây xà nu giống cái chết của mẹ con Mai biết bao. "Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng; vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết".

Và đây, Dít giống một cây xà nu non lao thẳng lên trời bất khuất. Dít nhỏ như lanh lẹ, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra từng cho cụ Mết và thanh niên. Chúng bắt đựơc con bé. Chúng để con bé đứng ở giữa sân, lên đạn tôm-xông rồi từ từ bắn từng viên một. Không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, váy nó rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên, nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó nó im bặt. Nó đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó lại quật lên một cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng.

Hình ảnh những cây xà nu vững chắc, không chịu ngã trước giông bão, bom đạn của kẻ thù "ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho làng" gợi cho ta nghĩ đến hình ảnh cụ Mết, con người tiêu biểu cho sức sống quật khởi của làng Xô Man, người nuôi giữ ngọn lửa khát vọng tự do, gắn bó với Đảng. Chính cụ Mết cũng đã nói với Tnú: "Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta..." Cụ còn nói với dân làng: "Nghe rõ chưa các con, rõ chưa Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại với con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!". Và khi cuộc khởi nghĩa bùng nổ, nguyên nhân trực tiếp chính là do ngọn lửa xà nu cháy trên mười đầu ngón tay Tnú. Cả làng Xô Man bị kích động, những ngọn đuốc xà nu bùng cháy khắp rừng "Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn. Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng..."

Viết về Tây Nguyên, Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) muốn gắn chặt đất nước với con người. Viết về anh hùng Đinh Núp, tác giả gọi tên tiểu thuyết của mình là "Đất nước đứng lên". Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lại lấy tên là "Rừng xà nu"... Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp tượng trưng, tư tưởng chủ đề của truyện "Rừng xà nu" thêm sâu sắc. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà những nhân vật anh hùng thêm bất tử.

(Sưu tầm)

____________________________________

Rừng xà nu - Nguyến Trung Thành.

1. Tác giả

Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành là bút danh của Nguyễn Văn Báu. Sinh năm 1932 tại Quảng Nam. Lăn lộn nhiều năm trên chiến trường ác liệt cả trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Chống Mĩ.

Tác phẩm: "Đất nước đứng lên" (1956), "Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc" (1969), "Đất Quảng" (1973 - 1974),...

Hơi hướng Tây Nguyên, màu sắc tráng lệ, khuynh hướng sử thi... tạo nên cốt cách và vẻ đẹp văn chương của Nguyên Ngọc - Nguyễn Trung Thành.

2. Xuất xứ

Truyện "Rừng xà nu" được Nguyễn Trung Thành viết năm 1965, xuất hiện lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng miền trung Trung Bộ, số 2 năm 1965 - năm 1969, in trong tập truyện ký "Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc".

3. Tóm tắt truyện

Sau 3 năm đi "lực lượng", Tnú về thăm làng. Bé Heng gặp anh ở con nước lớn dẫn anh về. Con đường cũ, hai cái dốc, rừng lách chằng chịt hố chông, hầm chông, giàn thò sắc lạnh. Mặt trời chưa tắt thì anh về đến làng. Cụ Mết già làng và bà con dân làng reo lên mừng rỡ. Cụ Mết đưa anh về nhà ăn cơm. Từ nhà ưng vang lên một hồi, ba tiếng mõ dài, cả lũ làng cầm đuốc kéo tới nhà cụ Mết gặp Tnú. Có ông bà già. Nhiều trai tráng và lũ con gái. Đông nhất là lũ trẻ con. Có cả cô Dít, em gái Mai, nay là bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã hội. Ai cũng muốn ngồi gần anh Tnú. Dít thay mặt lũ làng xem giấy có chữ ký chỉ huy cho phép Tnú về thăm làng một đêm.

Quanh bếp lửa rộn lên: "Tốt lắm rồi!" "Một đêm thôi, mai lại đi rồi, ít quá, tiếc quá!". Rồi cụ Mết kể lại cuộc đời Tnú cho lũ làng nghe. Tiếng nói rất trầm. "Anh Tnú đó, nó đi Giải phóng quân đánh giặc... Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta". Anh Xút bị giặc treo cổ, bà Nhan bị giặc chặt đầu, nó và em Mai đi vào rừng nuôi anh Quyết cán bộ. Anh dạy nó học chữ. Nó học chữ thì hay quên nhưng đi rừng làm liên lạc thì đầu nó sáng lạ lùng. Nó vượt thác, xé rừng mà đi, lọt tất cả vòng vây của giặc. Một lần Tnú vượt thác Đắc nông thì bị giặc bắt, bị tra tấn, bị đầy đi Kông Tum.

Ba năm sau, Tnú vượt ngục trốn về, lưng đầy thương tích. Tnú đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết gửi cho dân làng Xô Man trước khi anh tử thương. Tnú đi bộ lên núi Ngọc Linh đem về một gùi đá mài. Đêm đêm làng Xô Man thức mài vũ khí. Thằng Dục chỉ huy đồn Đắc Hà đưa lũ ác ôn về vây ráp làng. Tiếng kêu khóc vang dậy. Cụ Mết và trai tráng lánh vào rừng, bí mật bám theo giặc. Bọn giặc đã giết chết mẹ con Mai. Tay không ra cứu vợ con, Tnú bị giặc bắt. Chúng lấy nhựa xà nu đốt cháy 10 ngón tay anh. cụ Mết và lũ thanh niên từ rừng xông ra, dùng mác, và rựa chém chết tất cả 10 tên ác ôn. Thằng Dục ác ôn và xác lũ lính ngổn ngang quanh đống lửa trên nhà ưng. Từ đó, làng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng. Sau đó, Tnú ra đi tìm cách mạng..."

Cụ Mết ngừng kể, rồi hỏi Tnú đã giết được mấy thằng Diệm, mấy thằng Mĩ rồi? Anh kể chuyện đánh đồn, xông xuống hầm ngầm dùng tay bóp chết thằng chỉ huy... thằng Dục, "đúng chớ... chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục!". Mưa rơi nặng hạt. Không ai nhận thấy đêm đã khuya. Sáng hôm sau cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường. Ba người đứng nhìn những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời...

4. Chủ đề

- Ca ngợi tinh thần quật khởi, chí khí cách mạng và sức sống mãnh liệt của đồng bào các dân tộc và núi rừng Tây Nguyên trong cuộc đấu tranh vũ trang chống kẻ thù khát máu Mĩ - Diệm.

5. Hình tượng rừng xà nu

- Rừng xà nu vừa là cảnh sắc hùng vĩ vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Mở đầu tác phầm là hình ảnh rừng xà nu cùng bá Heng đón Tnú đi bộ đội về thăm làng; phần cuối cũng là rừng xà nu trùng điệp tiễn người anh hùng của quê hương đi tìm Mĩ, Diệm để diệt.

- Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời, nó vươn lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng... như Tnú, Mai, Dít, cụ Nết, bé Heng và dân làng Xô Man sống và chiến đấu vì khát vọng tự do.

- Nó cùng với dân làng Xô Man chung chịu gian nan và hy sinh. Anh Xút bị giặc treo cổ lên cây vả đầu làng, bà Nhan bị giặc đốt cháy 10 đầu ngón tay, mẹ con Mai bị giặc đập chết... Rừng xà nu cũng bị đại bác giặc bắn suốt đêm ngày, hàng vạn cây không cây nào không bị thương, có những cây non trúng đạn, chất dầu còn loãng, vết thương cứ loét mãi ra rồi chết.

- Rừng xà nu mang sức sống mãnh liệt và khí phách lẫm liệt như lũ làng. Cạnh một cây xà nu bị bắn gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Đã hai ba năm nay, trong mưa bom bão đạn, "rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng".

- Giặc định dùng nhựa xà nu, lửa xà nu dìm dân làng Xô Man vào biển máu, nhưng chính lũ ác ôn do thằng Dục cầm đầu đã bị cụ Mết và trai làng chém chết, xác chúng ngổn ngang quanh đống lửa xà nu.

- Rừng xà nu trùng điệp, hút tầm mắt chạy đến chân trời là biểu tượng cho thế trận chiến tranh nhân dân, người người lớp lớp. Nguyễn Trung Thành đã tạo nên những hình ảnh ẩn dụ, nhưng liên tưởng kỳ vĩ để miêu tả rừng xà nu hùng vĩ với tất cả lòng yêu mến tự hào.

- Nguyễn Trung Thành sau này có viết: "Hồi tháng năm năm 1962, hành quân từ miền Bắc vào (...) chiến trường của mình là khu rừng bát ngát phía tây Thừa Thiên giáp Lào. Đó là một khu rừng xanh tít tắp tận chân trời. Tôi yêu cây rừng xà nu ngay từ đó. Ấy là một loại cây hùng vĩ và cao thượng man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ ứa nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi..." (Về một truyện ngắn - Rừng xà nu).

6. Những dũng sĩ làng Xô Man

+ Cụ Mết, già làng râu dài tới ngực mà vẫn đen bóng, ngực căng như một cây xà nu lớn. Cụ là một thủ lĩnh quân sự, linh hồn của cuộc chiến đấu và chiến thắng. Chính dưới lưỡi mác sáng loáng của cụ là xác thằng Dục ác ôn. Chính sau tiếng hô của cụ: "Chém! Chém hết" là những lưỡi mác của trai làng vung lên và xác lũ giặc ngổn ngang trên nhà ưng! Chính cụ đã khẳng định một chân lý cách mạng để đi tới tự do: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo". Sau chiến công đầu vị già làng đã truyền hịch:

"Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!"

Tiếng hịch ấy đã vang dội núi rừng. Và lửa cháy khắp rừng. Cụ Mết mang tầm vóc và khí phách như một anh hùng bộ tộc xa xưa trong trường ca Tây Nguyên. Khuynh hướng sử thi bao trùm nhân vật xuất chúng này để ta yêu mến và khâm phục.

+ Mai và Dít tiêu biểu cho những người con gái Tây Nguyên thời đánh Mĩ. Bà Nhan bị giặc chặt đầu đã có Mai vào rừng bảo vệ anh Quyết cán bộ. Mai là hiện thân của lòng trung thành với cách mạng, cần mẫn, hiền dịu, sáng dạ, bất khuất hiên ngang trước súng đạn quân thù. Dít lớn lên, lại đi tiếp con đường của chị. Đi tiếp tế cho du kích, bị giặc bắt, phải làm bia đạn, sau mỗi viên đạn nổ "đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng". Ba năm sau ngày chị hy sinh, Dít đã trưởng thành, trở thành một bí thư chi bộ, một chính trị viên xã đội lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Trong mỗi quan hệ mới với Tnú, cô Dít với tư cách lãnh đạo đã nghiêm trang trong thủ tục hỏi giấy tờ người lính từ mặt trận về thăm làng: "Không có giấy, trốn về thì không được. Ủy ban phải bắt thôi". Là cô gái, là em chị Mai, cô Dít đã nhìn Tnú bằng "đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt" chan chứa yêu thương và như cô đã nói với Tnú: "Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi". Mai và Dít đều mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới: "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang"...

+ Tnú là một anh hùng đích thực. Cụ Mết rất tự hào nói về anh:

"Nó là người Strá mình - Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta". Yêu cách mạng và khao khát tự do. Tnú đã vào rừng bảo vệ, tiếp tế cho cán bộ hoạt động bí mật. Tnú học chữ để mai sau thay anh Quyết làm cán bộ. Dũng cảm và mưu trí lúc vượt thác, lúc cắt rừng đi liên lạc. Trung thành và bất khuất. Nuốt thư bí mật khi bị địch bắt. Giặc tra tấn bắt khai ai là cộng sản, Tnú đặt tay lên bụng mình, nói: "Ở đây này". Tnú sống với niềm tin: "Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn". Tnú vượt ngục trở về làng, độc thư tuyệt mệnh của anh Quyết cho lũ làng nghe rồi anh đi lên núi Ngọc Linh lấy một gùi đá mài đem về để dân làng Xô Man mài giáo, mác, dụ, rựa, chuẩn bị khởi nghĩa. Cuộc chiến đấu mới bắt đầu thì vợ con anh bị giặc đập chết. Cứu mẹ con Mai không được, anh bị giặc bắt trói bằng dây rừng, bị giặc đốt mười ngón tay bằng nhựa xà nu thành mười ngọn đuốc. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng, nhưng lẫm liệt, khí phách: hiên ngang. Tnú không thèm kêu van!

- Tnú là một dũng sĩ kiên quyết đánh địch đến cùng. Núi rừng đã đốt lửa lên rồi! Mười ngón tay, ngón nào cũng cụt một đốt, nhưng còn hai đốt vẫn cầm giáo, bắn súng được, anh đã lên đường đi tìm cách mạng, gia nhập Giải phóng quân, đi tìm những thằng Dục ác ôn để trả thù cho mẹ con Mai, cho lũ làng. Tnú đã chiến đấu dũng cảm, đã xung phong xuống hầm ngầm, dùng tay bóp chết tên chỉ huy, cũng là một thằng Dục khát máu. Anh nhớ làng, anh xin phép về thăm làng một đêm rồi anh lại ra đi chiến đấu!

- Nguyễn Trung Thành, với khuynh hướng sử thi đã khắc họa Tnú mang bao phẩm chất anh hùng lẫm liệt. Tnú đi tiếp trong "Đất nước đứng lên". Màu sắc núi rừng và hơi hướng Tây Nguyên như ánh hào quang tỏa chiếu dũng sĩ Tnú.

7. Kết luận

Hình tượng rừng xà nu, hình ảnh những dũng sĩ anh hùng trong truyện "Rừng xà nu" là hình ảnh đất nước và con người Việt Nam kiên cường, bất khuất trong thời đại Hồ Chí Minh vừa đậm đà hơi hướng và cảnh quan hùng vĩ Tây Nguyên. Tác phẩm dào dạt cảm hứng sử thi hào hùng. Những anh hùng dũng sĩ như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít,... đại diện cho cộng đồng, chiến đấu và hy sinh vì sự sống còn của cộng đồng, gắn bó với lịch sử cộng đồng, được khắc họa bằng những hình ảnh chói lọi, với một giọng văn hào hùng, say mê, trang trọng, tạo nên những trang văn tráng lệ mang âm hưởng anh hùng ca.

Truyện "Rừng xà nu" thể hiện nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn của Nguyễn Trung Thành vừa trang nghiêm thần kỳ, vừa đầy chất thơ tráng lệ./.

( Sưu tầm )

________________________________

Tìm hiểu tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành

I/Tìm hiểu chung

1.Xuất xứ:

-Rừng xà nu (1965) ra mắt lần đầu tiên trên Tạp chí văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung bộ (số 2- 1965), sau đó được in trong tập Trờn quê hương những anh hùng Điện Ngọc.

-Hoàn cảnh ra đời:

+ Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, đất nước chia làm hai miền. Kẻ thù phá hoại hiệp định, khủng bố, thảm sát, lê máy chém đi khắp miền Nam. Cách mạng rơi vào thời kì đen tối.

+ Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc. Nguyễn Trung Thành và các nhà văn miền Nam lúc đó muốn viết "hịch thời đánh Mĩ". Rừng xà nu được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong không khí sục sôi đánh Mĩ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ.

+ Mặc dù Rừng xà nu viết về sự kiện nổi dậy của buôn làng Tây Nguyên trong thời kì đồng khởi trước 1960 nhưng chủ đề tư tưởng của tác phẩm vẫn có quan hệ mật thiết với tình hình thời sự của cuộc kháng chiến lúc tác phẩm ra đời.

2.Tóm tắt tác phẩm cần đảm bảo những chi tiết chính

- Làng Xôman ở trong tầm đại bác của giặc, đạn đại bác tàn phá rừng xà nu nhưng cũng như những người Xôman, rừng xà nu vẫn kiên cường bất khuất. Tnú về thăm làng sau ba năm đi lực lượng. Nhân Tnú trở về, cụ Mết đã kể cho dân làng nghe về cuộc đời Tnú.

-Hồi đó, Mĩ Diệm khủng bố dã man nhưng dân làng vẫn tìm cách nuôi giấu cán bộ. Tnú được anh Quyết-cán bộ cách mạng dìu dắt. Tnú học chữ và làm liên lạc. Tnú bị bắt và bị giam cầm, tra tấn. Anh vượt ngục trở về, cùng dân làng chuẩn bị vũ khí chiến đấu. Bọn giặc ập tới khủng bố. Mai và đứa con vừa tròn tháng tuổi bị giặc bắt. Trước cảnh vợ con anh bị hành hạ dã man, từ nơi ẩn nấp, Tnú lao ra với sức mạnh của lòng căm thù. Tnú bị bắt, vợ con anh bị giết chết, giặc đốt mười đầu ngón tay anh. Dân làng vùng lên cứu anh và giết bọn ác ôn. Rồi Tnú gia nhập lực lượng vũ trang và tìm giết những thằng Dục với mười ngón tay cụt.

- Sáng hôm sau, cụ Mết và Dít đưa tiễn Tnú đi trước cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời.

3.Cốt truyện và cách tổ chức bố cục tác phẩm:

+ Rừng xà nu được kể theo một lần về thăm làng của Tnú sau 3 năm đi bộ đội. Đêm ấy, dân làng quây quần bên bếp lửa nhà rông nghe cụ Mết kể lại câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú và cuộc đời làng Xô Man.

+ Rừng xà nu là sự lồng quyện hai cuộc đời: cuộc đời Tnú và cuộc đời làng Xô Man. Hai cuộc đời ấy đều đi từ bóng tối đau thương ra ánh sáng của chiến đấu và chiến thắng, đi từ hai bàn tay không đến hai bàn tay cầm vũ khí đứng lên dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng.

+ Cốt truyện Rừng xà nu căng ra trong xung đột quyết liệt một mất một còn giữa một bên là nhân dân, một bên là kẻ thù Mĩ- Diệm. Xung đột ấy đi theo tình thế đảo ngược mà thời điểm đánh dấu là lúc ngọn lửa của lòng căm thù ngùn ngụt cháy trên 10 đầu ngón tay Tnú.

4.Ý nghĩa nhan đề của truyện ngắn " Rừng xà nu"

+ Nhà văn có thể đặt tên cho tác phẩm của mình là "làng Xô Man" hay đơn giản hơn là "Tnú"- nhân vật chính của truyện. Nhưng nếu như vậy tác phẩm sẽ mất đi sức khái quát và sự gợi mở.

+ Đặt tên cho tác phẩm là Rừng xà nu dường như đã chứa đựng được cảm xúc của nhà văn và linh hồn tư tưởng chủ đề tác phẩm.

+ Hơn nữa, Rừng xà nu còn ẩn chứa cái khí vị khó quên của đất rừng Tây Nguyên, gợi lên vẻ đẹp hùng tráng, man dại- một sức sống bất diệt của cây xà nu và tinh thần bất khuất của con người Tây Nguyên..

+ Bởi vậy, Rừng xà nu mang nhiều tầng nghĩa bao gồm cả ý nghĩa tả thực lẫn ý nghĩa tượng trưng. Hai lớp ý nghĩa này xuyên thấm vào nhau toát lên hình tượng sinh động của xà nu, đưa lại không khí Tây Nguyên rất đậm đà cho tác phẩm.

5.Chủ đề của truyện ngắn " Rừng xà nu"

Thông qua câu chuyện về những con người ở một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí đứng chống lại kẻ thù tàn ác.

6.Hình tượng rừng xà nu

+ Mở đầu tác phẩm, nhà văn tập trung giới thiệu về rừng xà nu, một rừng xà nu cụ thể được xác định rõ: "nằm trong tầm đại bác của đồn giặc", nằm trong sự hủy diệt bạo tàn: "Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nước lớn".

Truyện mở ra một cuộc đụng độ lịch sử quyết liệt giữa làng Xô Man với bọn Mĩ- Diệm. Rừng xà nu cũng nằm trong cuộc đụng độ ấy. Từ chỗ tả thực, rất tự nhiên hình ảnh xà nu đã trở thành một biểu tượng. Xà nu hiện ra với tư thế của sự sống đang đối diện với cái chết, sự sinh tồn đối diện với sự hủy diệt.

-> Cách mở của câu chuyện thật gọn gàng, cô đúc mà vẫn đầy uy nghi tầm vóc.

+ Với kĩ thuật quay toàn cảnh, Nguyễn Trung Thành đã phát hiện ra: "cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào là không bị thương". Tác giả đã chứng kiến nỗi đau của xà nu: "có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão".

Rồi "có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loóng, vết thương không lành được cứ loét mãi ra, năm mười hôm sau thì cây chết".

Các từ ngữ: vết thương, cục máu lớn, loét mãi ra, chết,... là những từ ngữ diễn tả nỗi đau của con người. Nhà văn đó mang nỗi đau của con người để biểu đạt cho nỗi đau của cây. Do vậy, nỗi đau của cây tác động đến da thịt con người gợi lên cảm giác đau đớn.

+ Nhưng tác giả đã phát hiện được sức sống mãnh liệt của cây xà nu: "trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy". Đây là yếu tố cơ bản để xà nu vượt qua giới hạn của sự sống và cái chết. Sự sống tồn tại ngay trong sự hủy diệt:

"Cạnh một cây xà nu mới ngã gục đó có bốn năm cây con mọc lên". Tác giả sử dụng cách nói đối lập (ngã gục- mọc lên; một- bốn năm) để khẳng định một khát vọng thật của sự sống. Cây xà nu đã tự đứng lên bằng sức sống mãnh liệt của mình: "...cây con mọc lên, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời". Xà nu đẹp một vẻ đẹp hùng tráng, man dại đẫm tố chất núi rừng.

Xà nu không những tự biết bảo vệ mình mà còn bảo vệ sự sống, bảo vệ làng Xô Man: "Cứ thế hai ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng". Hình tượng xà nu chứa đựng tinh thần quả cảm, một sự kiêu hãnh của vị trí đứng đầu trong bão táp chiến tranh.

+ Trong quá trình miêu tả rừng xà nu, cây xà nu, nhà văn đã sử dụng nhân hóa như một phép tu từ chủ đạo. Ông luôn lấy nỗi đau và vẻ đẹp của con người làm chuẩn mực để nói về xà nu, khiến xà nu trở thành một ẩn dụ cho con người, một biểu tượng của Tây Nguyên bất khuất, kiên cường.

Các thế hệ con người làng Xụ Man cũng tương ứng với các thế hệ cây xà nu.

+ Cụ Mết cớ bộ ngực "căng như một cây xà nu lớn", tay "sần sùi như vỏ cây xà nu". -> Cụ Mết chính là cây xà nu cổ thụ hội tụ tất cả sức mạnh của rừng xà nu. Tnỳ cường tráng như một cây xà nu được tôi luyện trong đau thương đã trưởng thành mà không đại bác nào giết nổi.

+ Dít trưởng thành trong thử thách với bản lĩnh và nghị lực phi thường cũng giống như xà nu phóng lên rất nhanh tiếp lấy ánh mặt trời.

+ Còn bé Heng là mầm xà nu đang được các thế hệ xà nu trao cho những tố chất cần thiết để sẵn sàng thay thế trong cuộc chiến cam go còn có thể phải kéo dài "năm năm, mười năm hoặc lâu hơn nữa".

* Câu văn mở đầu được lặp lại ở cuối tác phẩm (đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời) gợi ra cảnh rừng xà nu hùng tráng, kiêu dũng và bất diệt, gợi ra sự bất diệt, kiêu dũng và hùng tráng của con người Tây Nguyên núi rừng và con người Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước vĩ đại. Ấn tượng đọng lại trong kí ức người đọc mãi mãi chính là cái bát ngát của cánh rừng xà nu kiêu dũng đó.

7. Cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man

Cuộc đời Tnú gắn liền với cuộc đời làng Xô Man. Âm hưởng sử thi chi phối tác giả trong khi xây dựng nhân vật này. Tnú có cuộc đời tư nhưng không được quan sát từ cái nhìn đời tư. Tác giả xuất phát từ vấn đề cộng đồng để phản ánh đời tư của Tnú.

+ Phẩm chất, tính cách của người anh hùng:

- Gan gúc, táo bạo, dũng cảm, trung thực (khi còn nhỏ cùng Mai vào rừng tiếp tế cho anh Quyết).

- Lòng trung thành với cách mạng được bộc lộ qua thử thách (bị giặc bắt, tra tấn, lưng Tnú ngang dọc vết dao chém của kẻ thù nhưng anh vẫn gan góc, trung thành).

- Số phận đau thương: không cứu được vợ con, bản thân bị bắt, bị tra tấn (bị đốt 10 đầu ngón tay).

- Quật khởi đứng dậy cầm vũ khí tiêu diệt bọn ác ôn.

+ "Tnú không cứu được vợ con"- cụ Mết nhắc tới 4 lần để nhấn mạnh: khi chưa cầm vũ khí, Tnú chỉ có hai bàn tay không thì ngay cả những người thương yêu nhất Tnú cũng không cứu được. Câu nói đó của cụ Mết đã khắc sâu một chân lí: chỉ có cầm vũ khí đứng lên mới là con đường sống duy nhất, mới bảo vệ được những gì thân yêu, thiêng liêng nhất. Chân lí cách mạng đi ra từ chính thực tế máu xương, tính mạng của dân tộc, của những người thương yêu nên chân lí ấy phải ghi tạc vào xương cốt, tâm khảm và truyền lại cho các thế hệ tiếp nối.

+ Số phận của người anh hùng gắn liền với số phận cộng đồng. Cuộc đời Tnú đi từ đau thương đến cầm vũ khí thì cuộc đời của làng Xô Man cũng vậy.

- Khi chưa cầm vũ khí, làng Xô Man cũng đầy đau thương: Bọn giặc đi lùng như hùm beo, tiếng cười "sằng sặc" của những thằng ác ôn, tiếng gậy sắt nện "hự hự" xuống thân người. Anh Xút bị treo cổ. Bà Nhan bị chặt đầu. Mẹ con Mai bị chết rất thảm. Tnú bị đốt 10 đầu ngón tay.

- Cuộc sống ngột ngạt dồn nén đau thương, căm thù. Đêm Tnú bị đốt 10 đầu ngón tay, làng Xụ Man đã nổi dậy "ào ào rung động", "xác mười tên giặc ngổn ngang", tiếng cụ Mết như mệnh lệnh chiến đấu: "Thế là bắt đầu rồi, đốt lửa lên!"

Đó là sự nổi dậy đồng khởi làm rung chuyển núi rừng. Câu chuyện về cuộc đời một con người trở thành câu chuyện một thời, một nước. Như vậy, câu chuyện về cuộc đời Tnú đã mang ý nghĩa cuộc đời một dân tộc. Nhân vật sử thi của Nguyễn Trung Thành gánh trên vai sứ mệnh lịch sử to lớn.

8. Vai trò của các nhân vật: cụ Mết, Mai, Dít, Heng.

+ Cụ Mết, Mai, Dít, bộ Heng là sự tiếp nối các thế hệ làm nổi bật tinh thần bất khuất của làng Xô Man núi riêng, của Tây Nguyên nói chung.

+ Cụ Mết "quắc thước như một cây xà nu lớn" là hiện thân cho truyền thống thiêng liêng, biểu tượng cho sức mạnh tập hợp để nổi dậy đồng khởi.

+ Mai, Dít là thế hệ hiện tại. Trong Dít có Mai của thời trước và có Dít của hôm nay. Vẻ đẹp của Dít là vẻ đẹp của sự kiên định, vững vàng trong bão táp chiến tranh.

+ Bé Heng là thế hệ tiếp nối, kế tục cha anh để đưa cuộc chiến tới thắng lợi cuối cùng.

Dường như cuộc chiến khốc liệt này đòi hỏi mỗi người Việt Nam phải có sức trỗi dậy của một Phù Đổng Thiên Vương

II.Luyện tập:

Đề :" Rừng Xà nu" là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên trong chiến tranh chống Mĩ cứu nước. Hãy phân tích tác phẩm " Rừng Xà nu"của nhà văn Nguyễn Trung Thành để làm sáng tỏ nhận định trên.

1. Tìm hiểu đề:

- Nội dung yêu cầu nghị luận: phân tích tác phẩm "Rừng Xà nu"( của Nguyễn Trung Thành) để thấy được đó là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên trong chiến tranh chống Mĩ cứu nước.

- Các thao tác nghị luận: phân tích, chứng minh, bình luận.

- Phạm vi tư liệu: tác phẩm "Rừng Xà nu"( của Nguyễn Trung Thành)

2. Lập dàn ý:

A. Mở bài:

Giới thiệu ngắn gọn những đặc điểm nổi bật về: tác giả, tác phẩm, đối tượng nghị luận.( Nguyễn Trung Thành am hiểu sâu sắc về đời sống của con người và vùng đất Tây Nguyên, đặc biệt là phẩm chất anh hùng của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ; sáng tác mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn; " Rừng xà nu là bản anh hùng ca...cứu nước")

B.Thân bài:

*Sơ lược cốt truyện.

*.Ấn tượng đầu tiên đối với bạn đọc là hình tượng cây xà nu:

- Trong tầm đại bác của đồn giặc

- Trong đời sống hàng ngày của dân làng Xô Man.

- Tham dự vào những sự kiện trọng đại của làng.

Rừng xà nu bạt ngàn, bất tận.

Mở đầu và kết thúc tác phẩm là hình tượng rừng xà nu: thể hiện sức sống mãnh liệt, bạt ngàn đồng thời là biểu tượng trọn vẹn cho nỗi đau, phẩm chất, sức mạnh của dân làng Xô Man, nhân dân Tây Nguyên, của cả dân tộc, gợi ra ý nghĩa của tác phẩm.

* Hình ảnh con người:

Dân làng Xô Man:

- Cụ Mết- già làng cách mạng: được xem là cây xà nu lâu năm vững chãi; là linh hồn, chiếc gạch nối giữa Đảng và dân làng.

+ Ngoại hình.

+ Ngôn ngữ.

+ Tính cách.

Tiếng nói của cụ là tiếng nói thiêng liêng của dân tộc với những kinh nghiệm xương máu.

- Chị Dít ( tiếp nối từ Mai): hiện tại là bí thư chi bộ của dân làng Xô Man.

+ Ngoại hình.

+ Tính cách ( khi còn bé, lúc lớn lên ...)

Có thể nói, Dít là cây xà nu mà đại bác quân thù không giết nổi: gan lì, dũng cảm, trưởng thành nhanh chóng, kế thừa và gánh vác sự nghiệp cha anh một cách vững vàng.

+ Bé Heng: như một cây xà nu con, nhanh nhẹn, hiểu biết, đầy lòng tự tin; hứa hẹn sẽ phát triển mạnh mẽ trong tương lai.

- Câu chuyện anh hùng của Tnú- nhân vật sử thi điển hình: đó là câu chuyện của một đời người nhưng được kể trong một đêm.

+ Hoàn cảnh: mồ côi cha mẹ, được dân làng Xô Man đùm bọc, nuôi dưỡng. Sau đó làm liên lạc cho anh Quyết, bị giặc bắt, vượt ngục trở về lãnh đạo dân làng. Anh đã vượt qua những bi kịch cá nhân để cầm súng.

+ Khi còn nhỏ: xuất hiện trong tính cách anh hùng, sớm tỏ ra thông minh, gan dạ, quả cảm.

+ Khi lớn lên lãnh đạo dân làng: anh đã biết vượt qua đau đớn, bi kịch cá nhân để chiến đấu ( bất lực khi nhìn cảnh vợ con bị tra tấn, chịu đựng ngọn lửa tra tấn; yêu thương, gắn bó sâu nặng với buôn làng, quê hương...)

Dẫn chứng: chi tiết nghệ thuật: bàn tay Tnú, tiếng chày giã gạo của người Strá...

c. Kết luận: Nhận xét, đánh giá chung về tác phẩm.

- Đặc sắc về nghệ thuật: cốt truyện khéo léo, cách kể chuyện sinh động, giọng điệu sử thi, ngôn ngữ sử thi, nhân vật sử thi...

- Qua cách khắc hoạ những phẩm chất anh hùng của tập thể dân làng Xô Man, truyện ngắn "Rừng xà nu" được xem là bài ca về chủ nghĩa anh hùng

( Sưu tầm)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro