"Rừng xà nu" - Nguyễn Trung Thành

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

RỪNG XÀ NU – một truyện ngắn đậm chất sử thi về thời đánh Mĩ

PHAN HUY DŨNG

Rừng xà nu được viết ra vào giữa năm 1965, trong những ngày bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ của Mĩ ở miền Nam nước ta. “Đó là những ngày sôi sục, nghiêm trang, nghiêm trọng, lo lắng, quyết liệt, hào hứng, hào hùng: dân tộc ta bước vào cuộc chạm trán mất còn trực tiếp với đế quốc Mĩ” [1]. Tuy kể về những sự kiện xảy ra trước đó mấy năm nhưng truyện ngắn này đã tiếp được hơi thở hào hùng của thời hiện tại, và hiện thực được mô tả mang đậm ý nghĩa phổ quát. Chuyện làng Xô Man trở thành chuyện của cả “Đất nước đứng lên” trong cuộc đối đầu lịch sử.

Hình tượng lớn lao bao trùm toàn bộ tác phẩm là hình tượng những cây xà nu. Chính nó đã đem lại cho tác phẩm sức khái quát lớn cũng như sự sinh động, chân thực như cuộc đời. Và trước hết nó khơi lên nguồn cảm hứng dạt dào ở người viết, trở thành điểm tựa điểm gợi tứ để nhà văn suy ngẫm về mạch sống của đất nước và sức sống của nhân dân. Không phải ngẫu nhiên mà có một câu văn được lặp lại gần y nguyên đến hai lần ở phần đầu và phần kết thúc của tác phẩm: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chân trời”. Đấy là một điệp khúc trầm hùng làm nền cho toàn bộ câu chuyện. Tác giả chưa bao giờ để gián đoạn mạch kể về rừng xà nu. Cây xà nu khi thì tách ra, khi thì hòa nhập với con người. Tả cây xà nu tác giả ưa dùng thủ pháp nhân hóa, còn khi là con người ông lại thường xuyên liên hệ, so sánh với cây xà nu. “Xà nu”, “xà nu” – tác phẩm trùng trùng điệp điệp với những “xà nu” và đó chính là điểm khá cơ bản quy định chất thơ hào hùng của nó (thơ, như có người nhận xét, là một kết cấu trùng điệp đầy âm vang).

Hãy trở lại với đoạn mở đầu của truyện ngắn. Nhà văn đã đem hết bút lực của mình ra để tả một khu rừng xà nu. Đấy không phải là một khu rừng xà nu chung chung mà là khu rừng xát cạnh làng Xô Man, kế bên con nước lớn (nguồn sống của con người) và lọt trong tầm đại bác của đồn giặc. Ngay từ đầu ta đã thấy rừng xà nu phải đối diện với những thử thách ác liệt, dữ dội. Thương tích là không thể tránh khỏi: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ngang như một trận bão”. Nhưng sức sống mãnh liệt của cây xà nu mới là điều tác giả muốn nhấn mạnh: “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nẩy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Chúng khỏe vì chúng tha thiết với mặt trời: “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tấp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”. Thật là một đoạn miêu tả sống động, giàu chất tạo hình nhưng không chỉ có ý nghĩa tả thực. Rừng xà nu, đấy chính là một ẩn dụ về con người: con người đau khổ, con người bất khuất, con người khát khao tự do, con người của truyền thống anh hùng lớp trước lớp sau liên tục đứng lên bảo vệ phẩm giá của mình … Thêm nữa, rừng xà nu ở đây còn là một hình tượng tượng trưng, một biểu tượng cho con người Tây Nguyên, cho cả một dân tộc hiệp sĩ : “rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. Trong hành động ưỡn tấm ngực lớn chứa đựng biết bao nhiêu là kiêu hãnh, nó biểu thị một phẩm chất phóng khoáng, hào hiệp và là một hành động tự nguyện do xác định được đúng vị trí đứng đầu bão táp của mình. Để diễn tả một nội dung phong phú như vậy qua hình tượng cây xà nu, tác giả đã sử dụng một giọng văn thiết tha pha chút cường điệu. Nhiều lúc như không nén nổi những xúc động đang tràn ngập vì yêu thương, vì yêu thương và cả kính trọng nữa, nhà văn đã thốt lên những lời nhận xét trực tiếp, để lộ cái tôi của mình “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nẩy nở khoẻ như vậy”, “Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế”. Hàng loạt động từ, trạng từ gây cảm giác mạnh được huy động cho mục đích miêu tả: ào ào, ứa, tràn trề, ngào ngạt, long lanh, gay gắt, bầm, ngã gục, lao thẳng, phóng, vượt, ưỡn .v.v. Đặc biệt, tác giả đã sử dụng rất đắt cái nhìn của điện ảnh để cho sự vật hiện lên động và nét hơn. Ống kính của ông khi thì lùi ra xa để ghi lấy toàn cảnh rừng xà nu, khi lại rà sát, soi kỹ dáng vươn lên kiêu dũng của những cây xà nu con. Có lúc tác giả quay chếch ống kính để trước mắt ta, màn ảnh như chao đảo: một cảnh tượng tuyệt vời nên thơ, tráng lệ hiện ra: “ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp …”.

Mạch cảm xúc đã được khơi lên. Hướng đi của ngòi bút đã được hình dung. Điểm “neo” những ấn tượng và quan sát phong phú đã được xác định với một cái làng cụ thể. Từ đây toàn bộ câu chuyện cứ thế mà tuôn chảy và hiện rõ trước mắt người viết, người đọc mồn một từng chi tiết từng hình ảnh.

Chuyện làng Xô Man được bắt đầu từ thời điểm hiện tại: “Ba năm đi lực lượng bữa nay Tnú mới có dịp ghé về thăm làng. Thằng bé Heng gặp ở con nước lớn dẫn anh về” đấy là những lời kể cô đúc hé lộ một lịch sử và báo hiệu một đổi thay. Quả thực làng Xô Man đã đổi thay nhiều lắm so với ngày Tnú ra đi. Khắp núi rừng đâu cũng có cạm bẫy chờ sẵn “chờ đón” quân thù. Một lớp người mới trưởng thành đứng ra gánh vác công việc kháng chiến. Sinh hoạt trong một làn vui tươi và có quy củ. Tất cả toát lên một vẻ hồ hởi tự tin khiến cho Tnú không khỏi có chút ngỡ ngàng. Phải nói rằng sự lựa chọn thời điểm bắt đầu câu chuyện hết sức thích hợp. Tất cả phải từ hôm nay và cho hôm nay, cũng y như mục đích kể chuyện tại nhà Ưng của cụ Mết. Đó là sự chuẩn bị tinh thần để bước vào một thử thách to lớn mới. Những lời nhắc nhở trầm vang như tiếng chiêng, cồng của cụ Mết: “Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ …” cũng chính là lời nhắn gửi của độc giả, trước hết là độc giả của thời kỳ lịch sử ấy.

Ra đời trong một thời điểm hào hùng của lịch sử, lại kể về những sự việc có tầm vóc thời đại, giọng điệu trần thuật có màu sắc anh hùng ca đã được sử dụng rất đắc địa. Lời kể của tác giả đã hoà lẫn với lời kể của cụ Mết và dòng hồi tưởng của Tnú một cách hết sức tự nhiên. Cái bi tráng của một giai đoạn cách mạng cùng khí thế chiến đấu bừng bừng của buôn làng Tây Nguyên ngày nổi dậy đã được tái hiện với đúng “chất” của nó. Trên dài đất cao nguyên hùng vĩ này từng có người dân sống nghẹt thở dưới ách áp bức, khủng bố bạo tàn của Mĩ Diệm.

Khắp nơi đều có dấu vết tội ác của chúng. Thiên nhiên bị tàn phá. Nhân dân bị chém giết. Chúng “đi trong rừng xà nu như con beo” với những “lưỡi lê dính máu”. Quả là chúng đang làm chủ cả núi rừng, nhưng là cách làm chủ của beo sói. Khi kể chuyện Tnú hồi nhỏ đi liên lạc bị giặc bắt, có đến ba lần tác giả nói đến vết dao trên lưng em. Đó là một chi tiết nghệ thuật tiêu biểu tố cáo tội ác man rợ của kẻ thù. Ngay tấm lưng nhỏ bé, non trẻ “rộng chưa bằng bề ngang của cái xà lét mẹ để lại” dường như sinh ra để cha mẹ vuốt ve cũng phải hứng chịu những sự vùi dập tàn bạo, phũ phàng nhất. Ở một đoạn khác, khi nói đến tình thế bị o ép dữ dội của dân làng Xô Man trước ngày khởi nghĩa, tác giả đã có dụng ý mô tả môt loạt âm thanh kinh khủng, đó là tiếng cười sằng sặc, giần giật của thằng Dục ác ôn, tiếng roi vun vút, tiếng gậy sắt nện hừ hự xuống thân người …

Nhưng sự việc đã diễn ra theo đúng quy luật có áp bức có đấu tranh, và một chân lí cách mạng dần dần được làm sáng tỏ: “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Rừng xà nu không chỉ chuyện làng Xô Man trong đau thương mà chủ yếu là chuyện làng Xô Man đứng dậy. Tác giả đã rất thành công khi xây dựng chân dung một tập thể anh hùng. Họ gồm những cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng … mỗi người mỗi vẻ nhưng đều giống nhau ở sự gan góc, ở lòng trung thành với cách mạng. Sự gan góc, trung thành ấy không biểu hiện ồn ào. Nó ít lời mà dồn nén biết bao dữ dội. Tnú bị bắt, cụ Mết chỉ nói: “Tnú đừng làm xấu hổ làng Xô Man”. Tnú trả lời bằng bằng một cái nhìn. Giặc cởi trói cho Tnú để em chỉ chỗ người cộng sản, Tnú để bàn tay lên bụng mình nói “Ở đây này”. Rồi đôi mắt của Mai, cái nhìn của Dít .. rõ ràng đó là cái im lặng của những người đã chịu nhiều đau khổ, cái im lặng đầy sức mạnh, đầy đe dọa với quân thù, nó báo trước sự bùng nổ ghê gớm của lòng căm giận. Trong tác phẩm còn có một đoạn rất đáng chú ý khác nói về sự dũng cảm của Dít trước quân ác thú. Có thể nói trong khoảnh khắc, Dít đã lớn rất nhiều, thoạt đầu Dít khóc thét lên khi bị chúng bắn dọa. Nhưng đến viên đạn thứ mười, Dít đã chùi nước mắt, bình thản nhìn về bọn giặc. Đây là một chi tiết giàu tính tượng trưng. Không thể nói sự thay đổi đó của Dít như nói về một sự trấn tĩnh bình thường. Trong tình thế khó khăn con người phải tự lớn vượt lên mau chóng nếu không sẽ bị đè bẹp. Dềnh dàng là chết. Điều đó đúng với cả làng Xô Man, cả Tây Nguyên và cả cách mạng miền Nam ngày ấy.

Trong nhiều nguyên nhân tạo nên sức quật khởi của làng Xô Man mà tác giả có ý thức nêu lên, nguyên nhân thuộc về truyền thống lịch sử đã được biểu hiện qua một hình tượng sinh động: cụ Mết. Đúng là tác giả viết trong một bài hồi ức: “Ông là cội nguồn. Là Tây Nguyên của thời Đất nước đứng lên còn trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử bao trùm, nhưng không che lấp sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn sành sỏi và tự giác hơn của thế hệ sau”. Để tả cụ Mết tác giả thường mượn những đặc tính của cây xà nu làm đối tượng so sánh: ngực cụ “căng như một cây xà nu lớn”, còn bàn tay “nặng như sắt” của cụ thì “sần sùi như vỏ cây xà nu” tiếng nói của cụ cũng thật đặc biệt: “nặng trịch”, “ồ ồ” “dội vang trong lồng ngực” tưởng như tiếng âm vọng của núi rừng. Đúng là không thể hình dung nổi cuộc sống chiến đấu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên mà lại thiếu hình ảnh cụ Mết. Riêng đối với phương diện hình thức nghệ thuật của tác phẩm, hình ảnh đó tạo nên màu sắc Tây Nguyên đậm đà trên từng trang viết và tạo những điểm nhấn góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề, những điểm nhấn gắn liền với các câu nói mang ý nghĩa tông kết, giáo dục và kêu gọi của cụ: “Nghe rõ chưa, các con rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bây còn sống phải nói lại cho con cháu: chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo! …” có thể nói thêm: nếu thiếu hình ảnh cụ Mết, tác phẩm sẽ thiếu đi một cơ sở quan trọng để sử dụng cái giọng trầm hùng vang vọng rất sử thi như nó đã có.

Nhiều đêm bên bếp lửa trong nhà ưng, cụ Mết đã kể cho con cháu nghe chuyện về anh Tnú. Đó là câu chuyện của thời hiện tại nhưng đã được lịch sử hoá bởi nó quá tiêu biểu cho hành trình số phận của các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mĩ. Cuộc đời của Tnú đã trải qua biết bao thử thách khốc liệt ngay từ  thuở còn thơ. Chính những thử thách ấy đã hun đúc nên một con người mang nhiều phẩm chất tốt đẹp: gan dạ, trung thưc, một lòng một dạ gắn bó với cách mạng. Khi lớn lên, hạnh phúc riêng vừa đánh chết ngay trước mắt anh mà anh không làm gì được. Bản thân anh bị giặc bắt và bị chúng đốt cụt mười đầu ngón tay. Từ nỗi đau thương và căm thù đó, anh tham gia lực lượng quân giải phóng góp phần bảo vệ quê hương, trở thành niềm tự hào của buôn làng, thánh tấm gương cho cụ Mết dùng để giáo dục thế hệ sau. Khắc hoạ nhân vật Tnú, tác giả rất chú ý miêu tả hai bàn tay của anh – hai bàn tay biết kể với chúng ta về số phận một con người. Nhìn chung, với nhân vật Tnú cũng như với hầu hết các nhân vật khác, tác giả thường nhắc đi nhắc lại một đặc điểm nỗi bật nào đó của họ. Phải chăng ở đây có dấu vết của cách giới thiệu nhân vật trong sử thi? Dù sao đây cũng là một trong những đặc điểm hình thức khá nổi bật của truyện ngắn này.

Rừng xà nu là trải nghiệm một đời văn, một đời chiến sĩ được nhốt chặt trong một khuôn khổ hẹp. Niềm xúc động thiêng liêng về hình ảnh kì vĩ của tổ quốc giữa những ngày thử thách đã thôi thúc Nguyễn Trung Thành viết nên thiên truyện này. Đó là một tác phẩm rất cô đọng nhưng cũng hết sức bay bổng, gợi nên những cảm xúc vừa trầm lắng vừa say mê. Một tác phẩm xuất sắc khá xứng tầm với thời đại đánh Mĩ oanh liệt, hào hùng.

Nguyên Ngọc (còn có bút danh Nguyễn Trung Thành) tên thật là Nguyễn Ngọc Báu, sinh ngày 15-9- 1932 tại thành phố Đà Nẵng. 
Quê gốc: xã Thàng Uyên, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, hiện ở Hà Nội. 
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957). 

Sinh trưởng trong một gia đình viên chức nhỏ, thuở thiếu niên Nguyên Ngọc đang học dở dang trung học thì kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ, ông theo gia đình tản cư ra vùng tự do, tiếp tục theo học trường trung học kháng chiến. 
Tốt nghiệp Thành chung, năm 1950 ông tình nguỵện nhập ngũ hoạt động nhiều năm ở chiến trường Liên khu V, nhất là vùng đất Tây Nguyên. Từng là phóng viên mặt trận của báo Vệ quốc quân Trung Trung Bộ. Tập kết ra Bắc trong đội hình sư đoàn 324, ông được điều về trại viết gương anh hùng của Tổng cục Chlnh trị, ở đấy ông đã cho ra đời tác phẩm Đất nước đứng lên. 
Đầu năm 1957, tạp chí Văn nghệ quân đội thành lập ông là thành viên ban biên tập đầu tiên, có lúc giữ nhiệm vụ Thư ký Tòa soạn. Năm 1962, ông là một trong những nhà văn quân đội đầu tiên trở lại chiến trường miền Nam. Hoạt động chiến đấu cùng với quân dân Liên khu V, đã có lúc ông cắm sâu trực tiếp làm cán bộ lãnh đạo xã trong vùng du kích. Nguyên Ngọc từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ giải phóng Trung Trung Bộ kiêm Trưởng ban biên tập tạp chí Văn Nghệ quân giải phóng Trung Trung Bộ, Trưởng ban văn học thuộc Cục Chính trị Quân khu. 
Sau ngày đất nước thống nhất, ông được bổ sung vào Ban Chấp hành Hội Nhà văn (khoá 2) nhận nhiệm vụ Phó tổng thư ký, bí thư Dảng đoàn Hội Nhà văn. Rồi ủy viên Ban Chấp hành khoá 3 và khóa 4. Một thời gian, ông còn giữ chức Tổng biên tập tuần báo Văn Nghệ. ông đã từng là đại biểu Quốc hội. 

II) Ỷ nghĩa tựa đề: 

Những cánh rừng xà nu bạt ngàn ở Tây Nguyên là hình ảnh gắn bó mau' thịt giữa tác giả và những kỉ niệm sâu sắc trong cuộc đời chiến đấu và viết văn tại chiến trường Tây Nguyên. 

Rừng xà nu là một sang tạo nghệ thuật dộc đáo của nhà văn.Rừng xà nu la một hình ảnh mang tính biểu tượng cho con người tây nguyên anh hung, ma cụt hể trong tác phẩm là dân làng Xô Man với những người con ưu tú : cụ Mết , Tnú, Dít, Heng…..Bức tranh thiên nhiên rừng xà nu thật hung vĩ với sức sống mãnh liệt ,sinh sôi nảy nở không ngừng ,bất chấp đạn đại bác của giặc bán phá mỗi ngày.Qua bức tranh thiên nhiên ấy, tác giả muốn khẳng định con người Tây Nguyên quýet vượt qua đau thương, quật khởi theo đảng làm cách mạng. 

Nguyễn Trung Thành la nhà văn có sở trường viết truyện Tây nguyên . Vùng dất ấy đã rất quen thuộc đối với ông từ những ngày viết Đất nước đứng lên thời chống Pháp . Nay trở lại vùng đất ấy để viết về những người con Tây Nguyên chống Mĩ tác giả đã gặp lại cái màu xanh bạt nàgn của những rừng xà nu chạy dài đến chân trời . Tôi yêu say mê cây rừng xà nu tù ngày đó ông đã kể lại như vậy . Cho nên cây xà nu trở thành ấn tượng mạnh mẽ và gợi cảm hứng sang tác cho ông; không những thế , đã gợi cả cốt truyện và bố cục: Bắt đầu đến dưới ngòi bút , gần như không hề tinh trước , là một khu rừng xà nu, những cây xà nu.(Nguyễn Ngọc-Về một truyện ngắn –rừng xà nu ). Tên truyện cũng hình thành ; Rừng xà nu. 

Như vậy là ,từ một ấn tương manh gợi cảm hứng ban đầu , tên truyện Rừng xà nu đã mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đây là một loại cây hung vĩ và cao thượng , man dại va trong sạch , mỗi cạy cao vút , vạm vỡ , ứa nhựa , tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rõi mênh mông , tửong nhu đã sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau , từng cây , hàng vạn , hàng triệu cây vô tận. . Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cây xà nu như thế và ta hiểu vì sao ông chọn cây xà nu, rừng xà nu làm biểu tượng cho nhân dân Tây Nguyên chống Mĩ trong truyện ngắn này . Không thể có cây nào phản ánh hùng hồn và sinh động cho phong trào chống Mĩ của họ bằng rừng xà nu chạy dài vô tận . Rừng xà nu , cái tên truyện ấy đã trở thành ,ột biểu tượng đẹp , tượng trưng cho khát vọng tự do , khát vọng giải phóng , cho phẩmc hát anh hung và súc sống mãnh liệt của dân làng Xô Man , nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước . Tên truyện đã cô đúc chủ đề của tác phẩm , mang ý nghĩa khái quát cao , lại giàu chất lãng mạn – chất thơ hung vĩ của núi rừng Tây nguyên . Bản than tên truyện đã là một sang tạo nghệ thuật của nhà văn , đem đến sự hấp dẫn cho người đọc. 

II)Mở bài: 

Rừng xà nu , truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn TRung thành và của văn học thời chống Mĩ , tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975.Chủ đề của tác phẩm gắn liền với tên truyện độc đáo và gợi nhiều hấp dẫn cho ngừơi đọc:Rừng xà nu. 

Truyện kể về câu chuyện làng Xô Man đánh Mĩ nhưng vì sao Nguễyn Trung Thành lại đặt tên là rừng xà nu?Tên ấy có nguôn gốc ra sao, đã gợi gắm điều gì qua truyện ngắn chống Mĩ này? 

III) Phân tích hình tượng cây xà nu: 

Nguyễn Trung Thành đã chọn một loại cây rất gàn gũi với đời sống của đồng bào Tây Nguyên làm biểu tượng cho sức sống mãnh liệt và phẩm chất anh hung của dân làng Xô man , nhân dân Tây Nguyen trong công cuộc chống Mĩ cứu nước :cây xà nu. 

A. NÉT ĐẶC SẮC CỦA TRUYỆN LÀ CÁCH TẢ “RỪNG XÀ NU” VÀ “CÂY XÀ NU” 

Trong truyện , Nguyễn Trung Thành đã hai mươi làn nói đến rừng xà nu ở nhiểu góc độ khác nhau : nhụa xà nu , ngọn xà nu , đồi xà nu , khói xà nu , lửa xà nu , dầu xà nu …và khái quát , bao trùm tất cả là rừng xà nu . 

Cây xà nu sinh sôi nảy nở nhanh , mạnh , bạt ngàn: sinh sôi nảy nở khỏe….. ham ánh sáng mặt trời , trãi dài ra đến hết tầm mắt … nối tiếp tới chân trời. 

Cây xà nu có sức sống mãnh liệt : cạnh một cây mới ngã gục , đã có bốn năm cây con mọc lên , ngọn xanh rờn , hình nhọn mũi tên lao thảng lên bầu trời .Có những cây mới nhú khỏi mặt dất , nhọn hoắt như những mũi lê . Đạn đại bác không giết nỏi chúng , nhũng vết thương của chúng chóng lành như trên thân thể cường tráng . 

Chất sử thi của truyện ngắn được tạo bởi hình tượng cây xà nu . nó được khai thác từ nhiều góc dộ lăp đi lặp lại nhiều lần : đồi xà nu (bốn lần ) , rừng xà nu (năm làn ) với hàng vạn cây ưỡn tấm nguc lớn của mình ra , che chở cho làng… 

B.RỪNG XÀ NU BIỂU TƯỢNG CHO CON NGƯỜI – DÂN LÀNG XÔ MAN NÓI RIÊNG , ĐỒNG BÀO TÂY NGUYÊN NÓI CHUNG. 

Hình tượng cây xà nu đẹp tượng trưng cho thế hệ trẻ của làng Xô man, bất khuất , gắn bó với cách mạng như Mai , Dít , Tnú … 

Hình ảnh cụ Mết tiêu biểu cho sức sống quật khởi của làng Xô Man , người nuôi giữ ngọn lửa khát vọng tự do , gắn bó với Đảng , với cách mạng cũng được ví nhủ một cây xà nu lớn. 

Cả rừng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng … là hình ảnh “ đồng khởi “ mãnh liệt của dân làng Xô Man. 

Rừng cây nu và con ngừơi làng Xô Man tuy hai mà một , mang ỳ nghĩa biểu tượng rất cao đẹp và sâu sắc. 

IV)Phân tích nhân vật 

A.Tnú: 

Trứơc hết Tnú rất gắn bó với cách mạng . Từ nhỏ Tnú đã từng nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sắc công tác giao lien . Khi bị giặc bắt , Tnú dũng cảm chịu đựng những đòn tra tấn của giặc . Sau khi vượt ngục , anh cùng cụ Mết tiếp tục lãnh đạo dân làng Xô man mài giáo , mài rựa chiến đấu chống kẻ thù . 

Tnú tha thiết thương yêu bản làng . Sau ba năm chiến dấu trở về làng , anh nhớ rõ từng hàng cây , từng con đường , từng dòng suối , bối hồi xúc động khi nghe tiếng chày chuyên cần rộn rã của những ngừơi đàn bà và những cô gái Strá của mẹ anh ngày xa xưa , của Mai , của Dít , từ ngày lọt long anh đã nghe tiếng chày ấy rồi. 

Anh thương yêu vợ con tha thiết . Chứng kiến cảnh kẻ thù man rợ dung cây sắt đập chết mẹ con Mai , nỗi đau thương của Tnú dâng lên tột đỉnh. Anh lao vào lũ giặcc với một tiếng thét dữ dội và anh dang hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. 

Càng đau thương , Tnú càng căm thù giặc . Vợ con bị giết , long căm hận biến đôi mắt Tnú thành hai cục lửa lớn. 

Khi bi giặc bắt mười đầu ngón tay Tnú bi đốt , anh không kêu lên một tiếng nào. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. 

Yêu thương , căm thù biến thành hành động. Tnú thét len một tiếng… Chính nỗi đau xé long của Tnú đã khiến cho anh và đồng bào anh dứt khoát đứng lên tiêu diệt cả một tiểu đội giặc hung ác . Rieng Tnú ra đi lực lưỡng , quyết tiêu diệt mọi kẻ thù tàn ác để bảo vệ bản làng , giải phóng quê hương . Chinh trong thực tế chiến đấu mà nhân vật vươn lên nhậnn thức đó , hiểu biết sâu sắc về kẻ thù và nâng long căm th2 cá nhân lên thành căm thù chung của cà dân tộc. 

B.Cụ Mết 

Cụ mết tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man.Lịch sử chiến đấu của làng , qua lời kể của cụ Mết , thấm sâu vào tim óc các thế hệ .Cu là cầu nối giữa quá khứ và hiện đại , là pho sử sống của làng . 

Tấm long cụ Mết đối với cách mạng trứơc sau như một. Cụ đã từng nói:”Cán bộ là Đảng , Đảng còn , núi nước này còn.”.Trong những năm đen tối , cụ cùng dân làng Xô Man , từ thanh niên , ông già bà già , đến lũ trẻ đi nuôi và gác cho cán bộ : năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng này. 

Cụ Mết là linh hồn của làng Xô Man . Chính cụ đã lãnh đạo dân làng đồng khởi. Hình ảnh ông cụ mắt sang và xếch ngược , ngực căng như một cây xà nu lớn, cất tiếng nói vang vang nhu một trang sủ thi anh hung :”thế là bắt đầu rồi .Đốt lửa lên!... 

Từ ngày ấy , làng Xô Man trở thành làng chiến đấu . Đó là phần đóng gáp không nhỏ của cụ Mết vào công cuộc giải phóng quê hương , bản làng. 

C.DÍT 

Dít là nhân vật tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ , trưởng thành từ những đau thương và quật khởi của dân làng . Trong thời gian dan làng Xô Man chuẩn bị chiến đấu , rồi bi địch bao vây , cụ Mết và Tnú dẫn đám thanh niên vào rừng . Chỉ có con Dít nhỏ , lanh lẹn, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên.Khi bị giặc bắt Dít bi chúng dọa bắn , đạn chỉ sượt qua tai , sém tóc cày đất quanh hai chân nhỏ … đôi mắt nó thí vẫn nhìn bọn giặc bình thản… 

Ngày Mai bi giặc đánh chết và Tnú ra đi , trong khi mọi người , cả cụ già , đều khóc ví cái chết của Mai thì Dít vãn lầm lì , không nói gí cả , Mắt ráo hoảnh , Tất cả chi tiết trên thể hệin tính cách kien cường ,sức chịu đựng phi thường của Dít , biết dồn nén đau thương để nung nấu long căm thù . Như những ngừoi con bất khuất của Làng Xô Man , Dít căm thù . Nhu những con ngừơi bất khuất của làng Xô Man ,Dít căm thù trên cơ sở nhận thức rõ bản chất của kẻ thù , để quyết tâm chiến đấu tiêu diệt chúng. 

Khi Tnú về thăm làng , Dít đã là bí thu chi bộ vừa là chính trị viên xã đội. Như Ngày nào , đôi mắt Dít mở to , bình thản, trong suốt khi gặp lai tnú . Dù trong long rất đỗi vui mừng , Dít vẫn thực hiện trách nhiệm kiểm tra giấy về phép của anh. Rồi từ chỗi gọi tnú là đồng chí ,Dít chuểyn sang gọi là anh , xưng em thật tự nhêin , như ngừoi em gái nhỏ của mai và Tnú ngày xưa và tỏ bày tình thâm thiêt :”sao anh về có một đêm thôi? …Bọn em đứa nào cũng nhắc anh mãi”. 

D.bé HENG 

Ngày Tnú ra đi lực lưỡng, bé Heng mới đứng đến ngan bụng anh, chưa biết mang củi , chỉ mới đeo cái xà_lét nhỏ xíu theo ngừơi lớn ra rẫy .Ngày Tnú về phép ,bé Heng trưởng thành với cách ăn mặc và trang bị ra vẻ một người lính , một chiến sĩ du kích của bản làng .Làng Xô Man giờ đây trở thành làng chiến đấu , và con đường vào làng [hải qua hai các dốc chằng chịt hầm chông, hố chông ngăn địch.Bé Heng đã góp phần không nhỏ vào việc thiết lập công sự này nên tỏ ra rất hãnh diện. 

Nếu cụ Mết xứng đáng với hình ảnh cây xà nu đại thụ giữa rừng xà nu bạt ngàn xanh tẫhm thì bé Heng tượng trưng như cây xà nu mới lớn ngọn xanh rờn , hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời ,sẽ phát triễn đến đâu chưa ai biết được. 

V)KẾT BÀI: 

Nghệ thuậ miêu tả nhân vật của Nguyễ Trung Thành mang những nét độc đáo riêng đượm khí vị Tây Nguyên anh hung. Nếu xà nu tượng trưng cho các thế hệ dân tộc Tây Nguyên kiên cường thì các nhân vật cụ Mết , Tnú, Dít, bé Heng là hình ảnh những cây xà nu đại diẹn cho các thé hệ nối tiếp nhau của dân làng Xô Man,được khắc họa thật sinh động 

Qua Rừng xà nu , ta hiểu biết và yêu mến them đất nước và con ngừoi Tây Nguyên . Họ đã đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp chiến đấu chung để giải phóng dân tộc. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#lantern