Saburo Sakai những trận không chiến dữ dội nhất lịch sử Thái Bình Dương (phần II)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương X

Đầu tháng ba năm 1942, 150 phi công phi công của phi đoàn chiến đấu cơ Tainan, trú đóng rãi rác trong một khu vực rộng lớn ở Philippine và Nam Dương, được tập trung về Bali, thuộc quần đảo Đông Indies. Việc chiếm giữ toàn thể xứ Nam Dương hình như không còn xa nữa. Một đại đội bộ binh Nhật Bản là lực lượng quân sự trấn đóng cả hòn đảo Bali. Cuộc tấn công nầy được xem là sai lầm vì lực lượng chúng tôi nhận thấy người bản xứ tỏ ra thân hữu đối với người Nhựt.

Bali giống như một thiên đường. Khí hậu tuyệt diệu, cảnh sắc địa phương tươi đẹp. Tôi chưa từng thấy một nơi nào như vậy ở Thái Bình Dương.

Thời gian nhàn rỗi của chúng tôi bỗng nhiên căng thẳng vì xảy ra cuộc xung đột giữa Lục quân và Hải quân. Nguyên do vào một buổi chiều, một chiếc B.17 xuất hiện và các xạ thủ phòng không trên đảo tài ba đến nỗi cuối cùng để cho chiếc phi cơ bay mất. Một phi công nóng tánh hét vang: " Đ.M, mấy thằng chó đẻ nầy bắn cái gì vậy?" Sự giận dữ nầy là do lúc ấy tất cả các phi công chúng tôi đều xem loại pháo đài bay là những con mồi ngon lành nhất.

Tuần lễ trôi qua, sự căng thẳng giữa phi công hải quân và quân phòng thủ gia tăng mạnh mẽ. Chúng tôi không có phi vụ chiến đấu nào trong giai đoạn nầy, do đó chúng tôi dễ sanh ra bực bội. Tình trạng nầy bùng vỡ vào một đêm khi trung sỹ Honda đánh nhau với hai binh sĩ bộ binh. Tôi can Honda, nhưng vô ích. Thêm nhiều binh sĩ khác ùa vào, Honda bất chấp. Vừa lúc ấy viên Trung úy bộ binh can thiệp, đuổi lính của ông ta về doanh trại. Không nói một lời nào với chúng tôi, nhưng tôi nghe ông ta chửi rủa: "Đồ ngu, các anh ở đây là để đánh với địch quân, không phải người cùng quê hương xứ sở. Những phi công nầy, mỗi người đều là một "Samurai", họ không thích làm gì khác hơn là chiến đấu."

Sáng hôm sau viên trung úy bước vô căn phòng của chúng tôi. Trái với dự đoán của chúng tôi, ông ta mĩm cười nói: "Thưa quí vị, tôi hân hạnh báo tin cho qúi vị biết quân phòng ngự ở Banchung (Java) đã túm được một chiếc B.17 còn nguyên vẹn, có thể bay được."

Chúng tôi ồ lên vui vẽ: Một chiếc B.17 có thể bay được. Viên trung úy khoát tay: " Không may, Đông Kinh đã ra lịnh gởi chiếc oanh tạc cơ nầy về Nhựt lập tức. Tin tức nầy tôi chỉ nhận được ngay khi chiếc B.17 cất cánh bay về quê nhàvào sáng nay."

Tiếng càu nhàu thất vọng nổi lên khi mọi người nghe tin cuối cùng nầy. Viên trung úy vội vã nói: " Tuy nhiên tôi bảo đảm với quí vị là tôi sẽ cung cấp cho quí vị tin tức càng nhiều càng tốt về chiếc phi cơ bị bắt giữ nầy."

Một tuần lễ trôi qua, chúng tôi vẫn ở trên mặt đất. Ngay cả không khí yên bình ở Bali cũng đè nặng lên chúng tôi. Nếu ở hoàn cảnh khác, có lẽ chúng tôi sẽ vui hưởng sự nhàn rỗi nầy. Nhưng chúng tôi đến đây để chiến đấu. Nhiều năm nay chúng tôi đâu làm gì khác hơn là học hỏi để chiến đấu như thế nào, tất cả những gì chúng tôi muốn là được trả về không trung.

Thế rồi một buổi sáng, một phi công chạy ùa vô chổ ở của chúng tôi với tin giựt gân. Thật là choáng váng! Đó là tin đồn, hình như chúng tôi sẽ được gởi về Nhựt Bản. Mọi người bắt đầu tính sổ thời gian ở hải ngoại của mình.

Tôi cảm thấy, cũng như tất cả những người khác, một khi về quê hương thế nào tôi cũng sẽ được nghỉ phép. Tôi rời Nhật Bản tháng 5 năm 1938, và ngoài một năm nằm điều trị các vết thương, tính ra tôi đã ở được nước ngoài được 35 tháng. Khi nghĩ sẽ được gặp lại gia đình nỗi nhớ nhà trong tôi bỗng nhiên thống thiết. Tôi dành hết thì giờ vào mỗi buổi chiều để đọc thơ của má tôi và Fujiko. Họ viết dài dòng về buổi lể tưng bừng ở quê hương khi Tân Gia Ba rơi vài tay Nhựt, và những buổi lể chào mừng chiến thắng liên tục khác của chúng tôi. Cả nước Nhựt phấn khích với những cuộc chinh phục vũ bão của các lực lượng Nhật Bản, nhứt là về mặt trận trên không. Tôi mơ ước được gặp lại Fujiko, một cô gái đẹp nhứt trong đời tôi. Với mơ tưởng, và nghĩ rằng có thể nàng sẽ trở thành vợ của tôi, tôi cảm thấy tràn ngập hạnh phúc.

Tin đồn biến thành sự thật. Vào ngày 12 tháng 3, thiếu tá phi công hải quân Tadashi Nakajima từ Nhựt đến, và cho biết ông sẽ thay thế đại úy Eijo Shingo trong chức vụ chỉ huy trưởng phi đoàn. " Đại úy Shingo được hoán chuyển cùng với một số phi công ." Nakajima nói, "bây giờ tôi sẽ đọc danh sách những phi công được lịnh trở về Nhựt."

Mọi người im phăng phắc khi ông bắt đầu đọc. Người đầu tiên không phải là tôi, như tôi đã hy vọng. Người thứ hai, thứ ba cũng không. Tôi mất hết tin tưởng khi vị thiếu tá đọc qua hơn 70 tên. Tên tôi không có. Xúc động. Tôi không biết tại sao tên tôi lại bị loại ra khỏi danh sách, trong khi tôi ở nước ngoài lâu hơn mọi người khác.

Sau đó, tôi bước đến vị chỉ huy trưởng và hỏi: "Thưa thiếu tá, tôi biết tên tôi không nằm trong số những phi công về quê hương. Xin phép thiếu tá, thiếu tá có thể cho tôi biết lý do tại sao không? Tôi không tin rằng tôi..."

Thiếu tá Nakajima khoát tay chận lời tôi mỉm cười: " Không, anh không về xứ với những người khác. Tôi cần anh đi với tôi, Sakai. Chúng ta sẽ đến một căn cứ không quân mới, nơi tốt nhất để đương đầu với đối phương. Đó là Rabaul, ở New Britain. Từ lâu tôi đã để ý, anh là một phi công tài ba nhứt của phi đoàn nầy, và anh sẽ bay chung với tôi. Hãy để cho mấy người khác đi bảo vệ quê hương."

Câu chuyện kết thúc. Dưới hệ thống chỉ huy của hải quân, tôi không dám hó hé nhiều hơn với vị chỉ huy trưởng. Tôi trở về doanh trại, buồn bã, tuyệt vọng. Nhưng nhiều tháng sau nầy tôi mới biết nhờ sự ưu ái mà thiếu tá Nakajima dành cho tôi, tôi mới còn sống sót. Tất cả những phi công về xứ đề được thuyên chuyển đến lực lượng Đặc Nhiệm Midway sau đó. Lực lượng nầy đã bị đối phương đánh tan vào ngày 5 tháng 6 năm 1942. Hầu hết những người rời khỏi Bali đều thiệt mạng.

Nhiều tuần lễ kế tiếp, tôi sống trong tình trạng tinh thần tồi tệ chưa từng thấy. Tôi cảm thấy đau yếu, chán nãn, và tuyệt vọng.

Nhiệm sở kế đó của chúng tôi, Rabaul, cách phía Đông Bali 2.500 dặm. Khoảng cách quá xa đối với sức bay của loại chiến đấu cơ Zero. Thay vì dy chuyển nhóm phi công chúng tôi bằng vận tải cơ hoặc thủy phi cơ, hay là bằng chiến hạm có tốc lực mau, chúng tôi đã khủng khiếp khi nhận thấy bị lùa như bầy súc vật xuống một chiếc tàu buôn nhỏ bé, cũ kỹ và suy nhược. Hơn 80 đứa chúng tôi được nhét vô chiếc tàu hôi hám, chạy khập khiểng trên mặt nước với tốc độ 12 hải lý một giờ nầy.

"Lực lượng" bảo vệ chúng tôi chỉ đơn độc một chiếc tàu săn tiềm thủy đỉnh nhỏ bé 1.000 tấn.

Chưa bao giờ tôi cảm thấy phơi lưng trước kẻ thù bằng lúc tôi ngồi trên chiếc tàu đáng sợ đó. Chúng tôi không thể hiểu nổi ý nghĩ của giới chỉ huy cao cấp trong việc nầy như thế nào. Chỉ cần một trái thủy lôi phóng đi từ một chiếc tiềm thủy đỉnh núp lén hoặc 1 trái bom 500 cân Anh thả xuống từ một chiếc oanh tạc cơ, chiếc tàu mỏng manh nầy sẽ tan thành hàng ngàn mảnh. Một việc không thể tin, nhưng mà có vẻ thật, rằng các vị chỉ huy của chúng tôi muốn thí mạng phân nữa phi công chiến đấu của cuộc chiến, đặt biệt là những phi công kinh nghiệm nhứt, bằng một cuộc hải hành khủng khiếp như thế. Bất mãn và rầu rĩ, tôi đâm ra xuống tinh thần và nhuốm bịnh. Tôi nằm mẹp trên giường nhỏ dưới tàu hầu hết chuyến đi hai tuần lễ từ Bali đến Rabaul.

Cuộc hải hành đầy gian nan vất vả. Trời oi bức không thể chịu đựng nổi. Suốt cả tuần không ai khô ráo. Mồ hôi đổ ra như tắm. Mọi phi công đều lâm bịnh. Sau khi vượt qua đảo Timor, do lực lượng của chúng tôi chiếm đóng, chiếc tàu hộ tống quay trở về. Bấy giờ bịnh của tôi trở nên trầm trọng. Nhiều khi tôi cảm thấy đang hấp hối.

Nhưng ngay cả sự khốn khổ tồi tệ nhứt, cũng có phần thưởng của nó. Ở bên cạnh tôi suốt chuyến đi là một trung úy trẻ tuổi, vừa được bổ nhiệm chỉ huy phân đội của tôi. Trung úy Junichi Sasai là một trong những người nổi bật nhất mà tôi đã gặp từ trước tới nay. Xuất thân từ Hàn Lâm Viện hải quân Nhật Bản, giữa ông ta và hạ sỹ quan hiển nhiên là có một sự ngăn cách. Theo hệ thống quân giai nghiêm ngặt của hải quân, ngay cả khi chúng tôi hấp hối đi nữa, ông ta cũng không cần phải bước vô hầm tầu hôi hám nầy. Tuy nhiên Sasai lại khác hẵn. Ông không chú ý đến "lề luật bất thành văn" của hải quân, theo đó, sỹ quan không được thân mật với thuộc cấp. Trong lúc mê sảng tôi la hét, mình mẫy ướt đẫm mồ hôi, hầm tàu chật hẹp xông lên mùi hôi hám khó chịu, Sasai vẫn ngồi bên cạnh giường, tận tâm chăm sóc tôi. Sự ưu ái của ông đã khiến bịnh tôi dần dần bình phục.

Cuối cùng, chiếc tàu lướt vô hải cảng Rabaul, hải cảng chánh của quần đảo New Britain. Tôi nặng nhọc lê thân xuống cầu thang, bước lên bến tàu. Tôi không tin những gì đã nhìn thấy. Nếu Bali là một thiên đường, Rabaul là một địa ngục thật sự. Chúng tôi có một phi đạo nhỏ hẹp và lấm bụi để sử dụng. Đó là một phi đạo tồi nhứt mà tôi chưa từng thấy ở bất cứ nơi nào. Ngay phía sau phi đạo khốn khổ nầy là một ngọn núi lửa đầy doạ nạt, vươn cao 700 bộ trên bầu trời. Cứ một vài phút mặt đất rung chuyển, và núi lửa gầm lên hồi lâu rồi phun khói dày đặc, lẫn lộn chất phún thạch. Xa hơn nữa là một dãy núi màu xanh mét, trần trụi bóng cây.

Ngay khi xuống tàu, nhóm phi công di chuyển ngay đến sân bay. Trên con đường lấm bụi, chân chúng tôi ngập sâu trong đá bọt và tro than do núi lửa gây ra. Sân bay hoang phế. Bụi và tro dâng cao trong không khí. Những tiếng càu nhàu đầy thất vọng khi các phi công nhận thấy nhiều chiến đấu cơ Claude, bộ phận hạ cánh cố định và buồng lái lộ thiên cỗ lỗ nằm giữa bãi đậu. Tất cả những thứ đó quá nhiều đối với tôi. Tôi phát đau trở lại và ngã quị xuống. Trung úy Sasai đưa tôi vô một bịnh xá chưa hoàn tất, nằm trên một ngọn đồi, cạnh sân bay.

Sáng hôm sau, tiếng còi báo động không tập lôi tôi ra khỏi giấc ngủ thiêm thiếp. Qua cửa sổ tôi nhìn thấy 12 chiếc Maurader, oanh tạc cơ hai máy, sà thấp trên hải cảng thả nhiều trái bom ngay xuống chiếc Komaki Maru, chiếc tàu chở chúng tôi từ Bali đến đây. Thủy thủ đoàn chạy tán loạn lên bến tàu và nhảy xuống nước. Trong một vài phút chiếc tàu bốc cháy và chìm dần. Các oanh tạc cơ mang dầu hiện của Úc Đại Lợi, bấy giờ quay sang tấn công sân bay và các phi cơ đậu trên đó.

Các oanh tạc cơ Maurader quay lại ba ngày liên tiếp, xạ kích tất cả những gì di động trên mặt đất. Các cuộc tấn công là những liều thuốc tốt nhất đối với tôi. Tôi xin bác sỹ cho tôi xuất viện ngay lập tức. Tôi muốn đặt đôi tay ngứa ngáy của tôi lên cần kiểm soát của một chiếc Zero trở lại. Vị bác sỹ cười: "Ở đây thêm vài bữa nữa, Sakai. Anh xuất viện để làm gì bây giờ? Không có một chiếc phi cơ nào cho anh bay đâu. Khi nào phi cơ đến tôi sẽ cho anh xuất viện."

Bốn ngày sau, gần bình phục hẳn, tôi rời bệnh viện. Với 19 phi công khác, tôi leo lên một chiếc thủy phi cơ 4 máy vừa bay đến vào buổi sáng hôm đó. Chúng tôi sẽ sớm được bay trở lại vì chiếc thủy phi cơ nầy cất cánh từ hàng không mẫu hạm Kasuga, chiếc tàu có nhiệm vụ chở 25 chiến đấu cơ Zero mới cho phi đoàn của chúng tôi. Nhưng các cuộc không thám và oanh tạc liên tục của đối phương đã ngăn trở Kasuga chạy vô Rabaul. Chiếc tàu phải đậu ở gần đảo Buka, cách xa đây 200 dặm, và cho thủy phi cơ chở chúng tôi đến đó nhận phi cơ.

Hai giờ sau chúng tôi trở về Rabaul, cười đùa như bọn học trò với 25 chiến đấu cơ mới, tất cả đều được võ trang và sẵn sàng lâm trận. Tuy nhiên, một phi cơ thám thính của địch quân đã nhìn thấy các chiến đấu cơ mới của chúng tôi, và nó biến mất trước khi chúng tôi cất cánh. Rabaul trở nên yên tĩnh, ngoại trừ những cơn mưa phún thạch không lúc nào giảm bớt của ngọn núi lửa.

Nhiều tuần lễ kế đó, các chiến đấu cơ và oanh tạc cơ Nhựt không ngớt được đưa đến Rabaul. Chúng tôi gom góp năng lực mớu cho cuộc tấn công đang xúc tiến, nhằm chống lại Úc Đại Lợi và hải cảng Moresby ở New Guinea. Các kế hoạch của Nhật Bản, như chúng tôi được nói cho biết, là đánh chiếm toàn khắp New Guinea.

Đầu tháng tư, 30 phi công trong nhóm chúng tôi được thuyên chuyển đến một căn cứ không quân mới ở Lae, nằm trên bờ biển phía Đông New Guinea. Đại tá Masahisa Saito hướng dẫn chúng tôi đến căn cứ mới nầy.

Vào ngày 8 tháng 4, với 8 phi công khác, tôi bay đến Lae. Khi bay quần trên phi trường, tôi không nhìn thấy đâu là nhà chứa phi cơ, cơ xưởng bảo trì, đài kiểm soát. Tất cả chỉ là một phi đạo nhỏ bé, dơ bẩn, và giống như sân đáp trên một chiếc hàng không mẫu hạm. Ba mặt của phi đạo bao quanh bởi dãy núi chớn chở của bán đảo Papuan. Mặt thứ tư, tức mặt tôi đang tiến đến, là đại dương bao la.

Hai mươi mốt phi công khác đã đến đây trước, đứng chờ chúng tôi ở cuối phi đạo. Phi đạo dài 3.000 bộ, chạy từ góc phải của sườn núi xuống tận mé biển. Ngay cạnh bãi biển là một nhà chứa phi cơ nhỏ, đầy lổ đạn và mảnh bom. Ba vận tải cơ của Úc Đại Lợi nằm bừa bãi trong nhà chứa, và dụng cụ bị phá hủy rãi rác khắp nơi. Đây là vết tích do phi cơ chúng tôi gây ra trong cuộc đổ bổ một tháng trước đây

Phi trường Lae được người Úc thiết lập để không vận đồ tiếp tế và quặng vàng lấy được ở mỏ Kokoda, nằm tận bên trong dãy núi Owen Stanley.

Hải cảng ở đây cũng hoang tàn không thua sân bay. Một chiếc tàu buôn 500 tấn của Úc nằm trong bùn, gần cầu tàu, chỉ có cột buồm ló lên khỏi mặt nước. Tôi nhận thấy phi trường Lae tồi tệ hơn phi trường Rabaul hoặc ngay cả những phi trường tiền phương ở Trung Hoa.

Trung sỹ Honda, phi công bên cánh của tôi ở mặt trận Java, đã kể lại các hoạt động của những ngày trước khi chúng tôi đến. Vào ngày 5 tháng 4, 4 chiếc Zero cất cánh từ Lae, hộ tống 7 oanh tạc cơ tấn công hải cảng Moresby và bắn rơi 2 chiến đấu cơ địch. Đổi lại, một chiếc Zero bị mất. Vào ngày kế đó, cùng một số Zero đó cất cánh, nhưng lần nầy bắn rơi đến 5 phi cơ địch. Ngày hôm sau, 7 tháng 4, hai chiếc Zero nghinh chiến 3 oanh tạc cơ địch trên không phận Salamaua và rượt theo bắn rơi hai chiếc. Các xạ thủ địch hạ một chiếc Zero của chúng tôi.

Chiều hôm đó, chúng tôi tập họp trong Bộ Chỉ Huy phi trường để nghe thuyết trình. Tôi sử dụng mấy tiếng "Bộ chỉ huy" có vẽ hơi lớn lối để chỉ một căn nhà không có vách tường. Vách, màn che và mấy cánh cửa đều bằng chiếu. Căn phòng chỉ vừa đủ để nhét 30 phi công, chính giữa là chiếc bàn to lớn, đơn sơ, làm bằng cây thông. Một vài cây đèn cầy và một cây đèn dầu soi sáng căn phòng.

Sau khi nghe đại tá Saito thuyết trình, chúng tôi đi về chổ ở. Trên đường đi, trung sỹ Yonekawa, cũng như Honda, anh ta là phi công bên cánh của tôi ở mặt trận Java, chỉ cho tôi những cơ sở của căn cứ.

Hai trăm thủy thủ đảm trách các vị trí phòng không toạ lạc phía bên kia phi đạo. Đó là lực lượng trú phòng cho cả nơi nầy, cộng thêm 200 nhân viên bảo trì và 30 phi công . trong suốt thời gian chúng tôi ở đây, và cho đến khi Lae bị Đồng Minh chiếm đóng vào năm 1943, không một dự tính nào nhằm cải thiện tiện nghi của chúng tôi, và cũng không có lực lượng tăng viện nào khác được đưa đến. Chổ ở của chúng tôi và sỹ quan không khác gì nhau. Chỉ huy trưởng căn cứ, chỉ huy phó và một phụ tá ở chung trong một căn nhà nhỏ nối liền với doanh trại sỹ quan.

Trong khi căn cứ Rabaul mướn một số dân địa phương tạp dịch, căn cứ Lae không có vấn đề nầy. Làng gần nhứt cách đây hai dặm. Không thể bắt dân làng phơi lưng dưới họng súng của phi cơ địch đến tấn công hầu như vào mọi ngày.

Đó là căn cứ Lae. Thức ăn tồi tệ, công việc hàng ngày nặng nhọc và, không có gì thay đổi. Chúng tôi không có hợp tác xã quân đội, không có bất cứ một tiện nghi tối thiểu nào khác. Đàn bà ? Ở Lae, mọi người đều hỏi: " Đàn bà là cái gì?."

Tuy nhiên, tinh thần của chúng tôi rất cao. Chắc chắn chúng tôi thiếu tiện nghi và vật chất, ngay cả một số tiện nghi thiết yếu nhứt, trong đời sống hàng ngày, nhưng chúng tôi không lấy đó làm phàn nàn. Chúng tôi không có một đòi hỏi riêng tư nào ngoài đòi hỏi được chiến đấu. Phi công ở Lae không giống như phi công ở những căn cứ khác. Mỗi chúng tôi đều là thành phần chọn lọc của không lực hải quân. Các sỹ quan của chúng tôi cũng được chọn trong số những người "chỉ thích ấn tay vào cò súng" trên một chiếc Zero.

Vào ngày 11 tháng 4, tôi chiến đấu trở lại. Sau gần hai tháng bắt buộc nằm lì trên mặt đất, được chiến đấu cơ trở lại làm tôi phấn khởi. Ngày hôm trước, 10 tháng 4, tôi không được sắp xếp thực hiện phi vụ, và phải ở lại mặt đất trong khi những phi công khác vui hưởng một ngày chiến đấu. Sáu chiến đấu cơ Zero hộ tống bảy oanh tạc cơ đến Moresby, bắn rơi hai oanh tạc cơ địch đang cố cất cánh để rời phi trường ở đó. Cùng ngày, ba chiếc Zero khác cũng trực chỉ Salamaua và bắn rơi một oanh tạc cơ địch, cùng gây hư hại cho nhiều chiếc khác.

Phi vụ của tôi vào ngày 11 là một phi vụ thông thường. Cùng với 8 chiến đấu cơ khác mới vừa đến Lae, chúng tôi cất cánh và bay thành nhóm theo đội hình cũ chữ V hướng về Moresby. Sau đó, dãy núi Owen Stanley sừng sững trước mặt chúng tôi, cao hơn mặt biển 15.000 bộ. Mặc dù dãy núi cao chớn chở như vậy, trên đỉnh không có một đám mây nào vướng vất, và dốc thẳng đứng giống như những bức tường vĩ đại mọc đầy cây cối.

Trên cao độ 16.500 bộ, chúng tôi vượt ngang qua đỉnh núi và lập tức bước vào một thế giới mới : thế giới của địch quân. Bốn mươi phút sau khi cất cánh căn cứ Moresby nằm phía dưới chúng tôi. Tôi có thể nhìn thấy nhiều phi cơ đủ loại trên mặt đất. Súng phòng không im tiếng dĩ nhiên chúng tôi bay quá tầm hoả lực của đối phương. Chúng tôi có thể đạt được kết quả nếu tấn công ngay vào các phi cơ đậu trên mặt đất. Nhưng theo chỉ thị, đây chỉ là một phi vụ thám thính thông thường, ngoại trừ không chiến chúng tôi không được phép tấn công.

Chúng tôi lướt qua Moresby và vòng ra biển San Hô sau đó quay lại lối cũ một lần nữa, lướt ngang qua căn cứ địch. Chúng tôi ngạc nhiên khi khi nhận thấy hình như các xạ thủ và phi công địch không hay biết có sự hiện diện của chúng tôi, nên họ không đưa ra một sự kháng cự nào.

Chúng tôi lướt qua phi trường. Lần nầy mặt trời đến từ phía sau chúng tôi. Lúc bay thật chậm, chúng tôi phát hiện bốn chiến đấu cơ P.39, loại Airacobra mà tôi gặp lần đầu tiên. Bốn phi cơ nầy hầu như bay cách ngay phía trước chúng tôi 3 dặm, nhưng chúng tôi không hiểu có bị phát hiện hay chưa. Tôi quăng bình xăng phụ và gia tăng tốc lực, với hai đồng đội bay sát cánh bên phải. Tôi lướt dọc theo phi cơ cầm đầu nhóm và báo hiệu cho trung úy Sasai biết sự phát hiện địch của tôi, và yêu cầu bao che cho chúng tôi tấn công. Ông nắm tay đưa về phía trước. " Tiến ! chúng tôi sẽ bao che cho anh."

Tuy nhiên chưa thấy động tĩnh của mấy chiếc Airacobra. May mắn cho chúng tôi, lúc ấy mặt trời chiếu thẳng vô phi cơ địch nên các phi công Mỹ không nhìn thấy chúng tôi bay đến. Phi cơ địch chia làm hai cặp, bay trước và bay sau, cách khoảng 300 thước.

Tôi để Honda bay phía sau và trên tôi, trong khi Yonekawa ít kinh nghiệm hơn bay ngay phía dưới tôi. Bây giờ, chúng tôi chỉ còn cách phi cơ địch 500 thước, chếch về bên trái một chút. Chúng tôi sẵn sàng đánh trong vài giây nữa. Nếu phi công địch vẫn bị mặt trời làm cho mù loà, chúng tôi có thể hạ gục họ trước khi họ kịp nhận ra chúng tôi.

Thay vì tiến sát lại chúi xuống để tấn công, chúng tôi hạ thấp và xoay trở lại thật ngặt.

Hai chiến đấu cơ địch bay sau chót bây giờ ở ngay trên đầu tôi, vẫn không biết có sự hiện diện của chúng tôi. Tôi nâng khoảng cách gần lại, rồi còn chừng 50 thước, tôi nghiêng thân và bấm cò đại bác, qui tất cả hoả lực vào thân phi cơ địch. Những mảnh kim khí vở ra và bay túa trên không, một giòng khói và lửa kéo thành vệt dài về phía sau.

Tôi quay các họng súng về phía chiếc P.39 thứ hai. Một lần nữa, những viên đạn soi thủng thân phi cơ, nổ bên trong và xé chiếc phi cơ thành từng mảnh.

Tôi lướt ra ngoài và xoay ngay lại, chuẩn bị khai hoả trực tiếp vào hai chiến đấu cơ dẫn đầu. Nhưng trận đánh đã kết thúc ! Cả hai chiếc P.39 lảo đảo chúi xuống mặt đất, kéo dài hai vệt lửa và khói dày đặc. Hai chiếc Zero theo tôi đã mau tay hơn tôi tưởng. Tôi nhìn thấy chiến đấu cơ của Hiroyoshi Nishizawa đang lấy đà vượt lên. Chiếc thứ hai hạ đối thủ với chỉ một viên đại bác, do Toshio Ota lái, vừa lấy lại thăng bằng sau khi lướt thẳng lên để trở lại đội hình như cũ.

Không ngờ trận đánh chấm dứt chỉ trong vòng năm giây, với bốn chiến đấu cơ trở thành bốn mảnh vụn trên mặt đất phía dưới kia. Điều đáng ghi nhận là cả hai phi công đồng đội vừa ghi điểm của tôi: Nishizawa, 23 tuổi và Ota chỉ mới 20 tuổi. Như đã nói trước đây, các phi công ở Lae đều là thành phần chọn lọc. Để lựa chọn, tài năng phi hành của họ phải vượt bực. Đa số chúng tôi đều là phi công kỳ cựu. Nishzawa và Ota chỉ là những người chân ướt chân ráo, cần phải học hỏi thêm nhiều, tuy nhiên họ sớm trở thành những phi công hàng đầu của phi đoàn Lae, hạ trên mười phi cơ địch. Chúng tôi thường bay chung với nhau, và được các phi công khác gọi là " Bộ ba quét sạch ".

Chương XI

Đồng Minh rót người và vật liệu vào pháo đài của họ ở hải cảng Moresby không ngừng nghỉ, và Bộ Tư Lệnh Tối Cao Nhựt thúc giục chúng tôi đánh mạnh hơn, đánh nhiều hơn vào các phi trường, các chổ trú quân, và các cơ sở trên hải cảng càng lúc càng mọc lên như nấm của địch quân.

Vào ngày 17 tháng 4, tôi thực hiện một phi vụ hộ tống đầu tiên của tôi trên đất địch. Mười ba chiến đấu cơ Zero, thay vì sáu hoặc bảy chiếc như trước đây, bao che cho các oanh tạc cơ.

Với bảy chiến đấu cơ được cắt đặt bay sát cánh các oanh tạc cơ ở cao độ 16.000 bộ, và với nhóm sáu chiến đấu cơ của tôi bay thấp hơn 1.500 bộ, chúng tôi vượt qua dãy núi Owen Stanley. Moresby hiện ra trong tầm mắt. Thình lình bảy chiến đấu cơ bay chung nhóm các oanh tạc cơ phía trên túa ra, lập thành màn lưới bao che, xoay tròn phía trên các oanh tạc cơ. Nhiều chiến đấu cơ P.40 của địch chúi xuống từ một độ cao hơn để tấn công các oanh tạc cơ của chúng tôi. Tuy nhiên, chúng bị phát hiện quá sớm, và vòng xoay của bảy chiến đấu cơ Zero nứt ra, đánh bật cú đấm của địch quân đang giáng xuống. Bảy oanh tạc cơ trở về vị trí cũ.

Ngay lập tức, súng cao xạ từ mặt đất bắn lên, sáu chiến đấu cơ chúng tôi lập tức phân tán và lộn nhào thật mau để tránh né một vòng rào hoả lực cao xạ thứ hai nổ phía trên, nhưng cách xa chúng tôi.

Ngay khi chúng tôi trở lại đội hình, các oanh tạc cơ và chiến đấu cơ hộ tống gia tăng tốc lực tối đa để vượt lên cao nữa. Nếu các oanh tạc cơ vẫn duy trì đường bay cũ loạt cao xạ thứ ba sẽ bắn trúng.

Các oanh tạc cơ của chúng tôi vượt qua phi trường Moresby và đang đảo chầm chậm để thả bom. Bây giờ mặt trời chiếu từ phía sau chúng tôi, và các chiến đấu cơ địch lại đang lướt đến. Tôi đảo lại, chĩa thẳng vào mũi dùi tấn công của đối phương. Năm chiến đấu cơ khác thuộc nhóm của tôi cũng đeo dính một bên. Nhưng chúng tôi không có cơ hội để khai hoả, các chiến đấu cơ địch lãng ra và phân tán. Chúng tôi quay trở lại vị trí hộ tống, nhưng chỉ có hai chiếc Zero theo tôi. Chiếc của Miyazaki và hai chiếc khác đã chui xuống phía dưới các oanh tạc cơ.

Tôi không có thời giờ để lo lắng cho ba chiếc phi cơ đó. Cao xạ địch đang cố gắng điều chỉnh tầm bắn, và một loạt đạn đã nổ cách phía dưới các oanh tạc cơ đang dội bom 1.500 bộ. Tuy nhiên, tất cả đều đã vượt qua, bụng đã trống rỗng, các oanh tạc cơ gia tăng tốc lực, giữa những tiếng nổ rền vang liên tục của súng cao xạ, và đảo về phía trái. Miyazaki đang bay cách phía dưới các oanh tạc cơ 1.500 bộ. Không có vô tuyến, tôi không thể nào gọi hắn trở lại vị trí, và chúng tôi không dám rời các oanh tạc cơ.

Chúng tôi bỏ Moresby và súng phòng không địch lại phía sau. Tôi thở ra nhẹ nhõm. Quá sớm! Khoảng một dặm phía trên chúng tôi, một chiến đấu cơ P.40 chúi xuống với tốc lực khủng khiếp. Nó xuống nhanh đến nỗi tôi không kịp nháy mắt. Giống như một tia chớp soi thẳng vào các oanh tạc cơ, cách tôi sáu trăm thước.

Và tôi không hiểu làm cách nào mà chiếc P.40 nầy lọt qua khỏi khoảng trống chỉ một vài thước giữa hai oanh tạc cơ thứ ba và thứ tư. Chuyện khó thể tin nỗi, nhưng mà nó đã xảy ra. Với những họng súng rực lửa, sau khi lọt qua nhóm oanh tạc cơ xong, chiếc P.40 rót tất cả vào chiếc phi cơ của Miyazaki. Tức khắc, chiếc Zero biến thành ngọn đuốc. Và vẫn với tốc lực khủng khiếp, chiếc P.40 biến mất phía dưới chúng tôi. Phi cơ của Miyazaki rơi xuống chầm chậm, rồi lửa loé sáng và một tiếng nổ xé nát ra. Chúng tôi không nhìn thấy một mảnh kim khí nào rơi xuống. Mọi việc xảy ra trong vòng ba bốn giây. Chúng tôi vẫn tiếp tục bay. Đến Buna, các chiến đấu cơ chúng tôi tách ra, chấm dứt vai trò hộ tống và quay về Lae.

Cái chết của Miyazaki là một bài học đau đớn cho tất cả chúng tôi. Trong những ngày đầu của cuộc chiến tôi vẫn khăng khăng cho rằng sự khéo léo cá nhân của các phi công Nhựt là ưu thế có tánh cách quyết định trước phi công đối phương. Công cuộc huấn luyện của chúng tôi, dĩ nhiên là trước chiến tranh, tỉ mỉ hơn bất kì quốc gia nào khác. Đối với chúng tôi, bay có nghĩa là mọi thứ, chúng tôi chúng tôi không tiếc bất kì nổ lực nào nhằm học hỏi thấu đáo mọi phương diện về không chiến. Tuy nhiên, qua nhiều cuộc không chiến của Đệ Nhị Thế Chiến, khéo léo cá nhân chưa đủ bảo đảm sự tồn tại mãi mãi, ngoại trừ các cuộc không chiến tay đôi. Thất bại to tát nhứt trong các cuộc không chiến của chúng tôi là do chúng tôi thiếu tinh thần đồng đội. Một tinh thần mà người Mỹ đã phát triển không ngừng trong suốt cuộc chiến.

Sau cái chết của Miyazaki, bảy oanh tạc cơ B.26 tấn công Lae. May mắn thay, chúng tôi được báo trước và 9 chiến đấu cơ Zero được tung lên không, đón các oanh tạc cơ địch chỉ ở cao độ 1.500 bộ. Trận quần thảo giữa phi công chúng tôi với bảy chiếc Maurader kéo dài một tiếng đồng hồ đầy gian nan vất vã. Cuối cùng chỉ một oanh tạc cơ địch bị bắn rơi và một chiếc bỏ chạy với thương tích. Đó là trận không chiến vụng về nhứt, chưa từng thấy trong đời tôi. Chín chiếc Zero thiếu tổ chức. Thay vì liền tay tấn công một hoặc hai phi cơ địch, và xử dụng hoả lực của số đông để cắt bảy chiếc B.26 ra từng phần, các phi công của chúng tôi áp hết vào để đánh. Không có chiếc phi cơ nào của chúng tôi đụng chạm hoặc bắn hạ lẫn nhau cũng là một điều đáng lấy làm lạ.

Khi đáp xuống, cơn giận của tôi bùng nổ. Tôi nhảy ra khỏi phòng lái, hấp tấp bước đến các phi công đã tụ hợp trên mặt đất. Tôi chửi sự ngu ngốc của họ, vạch ra từng điểm sai lầm của mọi người và nhấn mạnh rằng chỉ có phép lạ mới khiến họ sống sót được. Từ đó trở về sau, mỗi đêm chúng tôi đều hội họp để chỉnh đốn lại tinh thần đồng đội của chúng tôi.

Vào ngày 23 tháng tư, Nishizawa, Ota và tôi thực hiện một phi vụ thám thính Kairuku, một căn cứ mới của đối phương ở phía Bắc Moresby. Mặc dù chỉ được lịnh thám thính, chúng tôi cũng đã bắn cháy nhiều vận tải cơ địch trên phi đạo.

Báo cáo của chúng tôi đưa đến một cuộc tấn công với 15 phi cơ vào ngày hôm sau. Chúng tôi sà xuống sáu chiếc oanh tạc cơ B.26, 15 chiến đấu cơ P.40 và 1 chiếc P.39. Con số hủy diệt chính xác của chúng tôi là hai oanh tạc cơ và sáu chiếc P.40. Sau trận không chiến đơn phương, chúng tôi thẳng đường đến Moresby, bắn phá và đốt cháy một chiến hạm đang buông neo.

Ngày hôm sau, chúng tôi trở lại Moresby. Mặc dù thiệt hại nặng nề vào ngày hôm trước, địch quân vẫn đề kháng dữ dội. Bảy chiến đấu cơ P.40 thách thức 15 chiến đấu cơ của chúng tôi. Trước khi cuộc không chiến dữ dội thực sự kết thúc, sáu chiến đấu cơ địch đã chúi về phía Đông trong lửa đỏ. Chúng tôi bảo toàn lực lượng, và sau khi bầu trời được dọn sạch, chúng tôi bắt đầu xạ kích Moresby và Kairuku, đốt cháy 5 chiếc B.26 và 2 chiếc P.40.

Hiển nhiên cố gắng của tôi trong việc cải thiện tinh thần đồng đội khi chiến đấu cơ đã đạt được hiệu quả. Tuy nhiên, tôi phải chịu thiệt thòi, vì sau hai trận đánh liên tiếp, các phi công khác đều ghi nhiều điểm trong khi tôi trở về với hai bàn tay trắng. Và trận không chiến kế tiếp vào ngày 26 cũng vậy, tôi không hạ được một phi cơ nào, mặc dù có ba trong số bảy chiếc P.40 bị bắn rơi.

Ngày 29 tháng tư là sinh nhật của Thiên Hoàng Hirohito. Vị chỉ huy trưởng của chúng tôi tổ chức một buổi lễ khiên tốn để mừng ngày đặt biệt nầy. Mấy anh lính biết nấu nướng đều tiếp tay làm bếp và tận dụng tất cả đồ tiếp tế để chuẩn bị một bữa ăn sáng ngon nhứt. Vài ngày trước đó, Đồng Minh không hề đưa ra bất kì nổ lực nào nhằm tấn công Lae. Sự yên tĩnh nầy, cộng thêm với cảm giác thoải mái của chúng tôi ở hiện tại, chúng tôi lơ là với nhiệm vụ.

Khi chúng tôi chấm dứt bửa ăn sáng vào lúc 7 giờ sáng, tiếng thét của binh canh gác vang lên: " Phi cơ địch!" Lập tức, một âm thanh hỗn loạn bùng vỡ, phá tan sự yên tĩnh của buổi sáng. Thùng, trống, mõ và tù và nổi lrrn inh ỏi, hệ thống báo hiệu không kích của chúng tôi.

Chúng tôi chạy ra phi đạo quá muộn. Những trái bom đã rơi xuống và đang nổ. Chúng tôi ngước mắt lên nhìn thấy mấy ông bạn cũ của chúng tôi, những chiếc oanh tạc cơ B.17. Ba chiếc tất cả, bay ở độ cao 20.000 bộ. Chỉ một vài trái bom được thả xuống, nhưng sự chính xác tôi chưa từng mục kích bao giờ. Năm chiến đấu cơ Zero nằm trên sân bay đang bao trùm trong lửa đỏ. Bốn chiếc khác hư hại nặng nề do mảnh bom gây ra. Riêng sáu chiếc ứng chiến chỉ còn năm chiếc bay được.

Ota và một phi công khác là hai người đầu tiên chạy ra phi cơ. Trong hai giây, họ cho phi cơ hoạt động và chạy ra phi đạo. Thành phần còn lại của chúng tôi bây giờ mới băng ra phi cơ, nhưng có cất cánh cũng đã trễ. Ba oanh tạc cơ B.17 và hai chiến đấu cơ Zero đã biến mất khỏi tầm mắt chúng tôi. Thời gian trôi qua chậm chạp, chúng tôi chửi rủa mấy chiếc oanh tạc cơ không tiếc lời và nôn nóng chờ đợi Ota trở về. Một giờ sau, một chiếc Zero đáp xuống. Đó là Endo. Hắn giải thích: " chúng tôi đánh ngay khi vượt lên. tôi quần thảo dữ dội với một chiếc oanh tạc cơ. Ota vồ một chiếc và vẫn còn khai hoả khi tôi hết đạn. Do đó, tôi phải trở về."

Một giờ nữa trôi qua, Ota vẫn chưa thấy về. Chúng tôi lo âu. Ota, bạn của tất cả chúng tôi, hiện thời đơn độc quần thảo với ít nhất hai chiếc oanh tạc cơ có võ trang mạnh mẽ. Endo trở nên bồn chồn, và càu nhàu về việc phải rời bỏ Ota vì hết đạn.

Mười lăm phút nữa trôi qua, thế rồi đại úy Saito thò đầu vô bộ chỉ huy và vui vẻ nói lớn: " Ê! Hắn an toàn! Ota vừa gọi từ Salamaua. Hắn hạ được một pháo đài bay. Hắn phải đáp xuống để lấy xăng và sẽ trở về ngay."

Tin tức phấn khởi! Nhưng công việc vẫn chưa xong. Sáu phi công, bao gồm Nishizawa và tôi, được chọn để trở lại Moresby "mừng ngày sinh nhật của Thiên Hoàng". Chúng tôi cảm thấy phi vụ với 16 chiếc Zero có lẻ tốt hơn, nhưng hiện thời chỉ có 6 chiếc của chúng tôi còn trong tình trạng chiến đấu. Chắc chắn đối phương đã đoán được một trận phục thù cuộc oanh tạc vừa qua của chúng tôi. Để tránh chui đầu vô hoả lực phòng không đang chờ đợi chúng tôi vượt qua đỉnh nú Owen Stanley ở cao độ 16.000 bộ. Và rồi thay vì tiếp tục hướng đến Moresby ở cao độ nầy, chúng tôi chúi xuống thật thấp, bay theo đội hình tam giác căng rộng. Sau đó chúng tôi vượt lên thật cao rồi chúi thẳng xuống căn cứ không quân địch. Không một ai đoán nổi chúng tôi tấn công theo lối mới nầy.

Hàng chục nhân viên bảo trì địch đang quay quần bên những chiếc oanh tạc cơ và chiến đấu cơ, hình như đều sẵn sàng cất cánh. Chúng giống như những con vịt nằm phơi lưng. Chúng tôi quét đại liên và đại bác xuống sân bay. Tôi có thể nhìn thấy nhiều người ngước nhìn lên với dáng vẻ đầy kinh ngạc, như không tin nổi vào đôi mắt của họ.

Nhát chổi đầu tiên có hiệu quả. Không một họng súng nào kịp khai hoả. Ở cuối đường bay, với các pháo đội phòng không vẫn im lặng trong sự sửng sốt, chúng tôi quay lại thật gấp và tức khắc bổ nhào xuống làm ăn nữa. Quang cảnh dưới mắt thật tuyệt diệu. Ba chiến đấu cơ và một oanh tạc cơ đang bốc cháy dữ dội. Lần nầy chúng tôi quét trên một dãy phi cơ khác, xếp thành một hàng dài gọn ghẻ ngay ngắn. Bốn oanh tạc cơ và chiến đấu cơ trúng đạn, tuy nhiên không cháy. Người trên sân bay bây giờ chạy hổn loạn, và có hơn một chục xác nằm bất động vì lảnh đạn của chúng tôi. Chúng tôi "làm ăn" ba lần tất cả và sau đó dông tuốt. Khi đã bay xa rồi, chúng tôi mới nghe khẩu cao xạ đầu tiên lên tiếng.

Nhưng vào lúc 5 giờ 30 sáng hôm sau, đối phương trả lễ chúng tôi bằng một cuộc viếng thăm của ba chiếc Maurader, đến mau và thấp, không cao hơn 600 bộ. Mặt đất như vỡ tung khi ba oanh tạc cơ B.26 trút bom xuống ngay phi đạo. Lúc khói đã tan, chúng tôi nhìn thấy năm trong số các chiến đấu cơ ứng chiến của chúng tôi lướt lên không trung. Tuy nhiên, khi năm chiến đấu cơ nầy vừa cất cánh được, các oanh tạc cơ đã quay lại và trút bom một lần nữa. Tiếng nổ vang dội trước khi các chiến đấu cơ có thể tiến sát đến các oanh tạc cơ. Nhưng đối phương đã kịp thời kiếu từ, biến mất vào ánh bình minh đang lên. Chuyến kiếm ăn khá khiển: một chiếc Zero bốc cháy và một chiếc khác vỡ tan. Bốn chiến đấu cơ và một oanh tạc cơ khác lổ chổ dấu đạn và miểng bom.

Trong nhiều ngày kế tiếp, nhịp độ của trận chiến trên không gia tăng dữ dội. Mười hai chiến đấu cơ P.39 thực hiện một cuộc viếng thăm Lae thật đẹp mắt, với chín oanh tạc cơ của chúng tôi hư hại nặng nề. Chúng tôi nhảy lên vồ khi đối thủ rút lui, và kéo 2 chiếc P.39 xuống đất mà không thiệt mất một chiếc Zero nào. Nhưng một lần nữa cả tôi lẫn Nishizawa đều đáp xuống với hai tay không.

Nỗi rầu rĩ của tôi được khuây khoả vào ngày hôm sau, khi chín phi công chúng tôi trở lại Moresby. Chín chiếc P.39 chờ sẵn chúng tôi trên không phận phi trường địch. Một mình tôi hạ cả ba chiếc trong vòng 15 giây. Sáu chiếc khác bỏ chạy mau đến nỗi các chiến đấu cơ khác của chúng tôi không sao chụp kịp.

Trở về phi trường Lae, các chuyên viên cơ khí của tôi đã kinh ngạc khi nhận thấy tôi chỉ bắn có 610 viên đạn trong trận không chiến ngày hôm đó. Trung bình mỗi phi cơ địch nhận hơn hai trăm viên.

Ngày hôm sau, 2 tháng 5, chúng tôi quày trở lại Moresby nữa, với một lực lượng gồm tám chiếc Zero. Lần nầy, mười ba chiến đấu cơ P.39 và P.40 bay chầm chậm ở cao độ 18.000 bộ chờ đón chúng tôi. Nishizawa phát hiện địch đầu tiên và khai hoả. Trước khi phi cơ địch nhìn thấy chúng tôi và lộn nhào để tránh né, bảy chiếc đã rơi xuống như cây đuốc. Trong ngày nầy, chúng tôi "bỏ túi" đến tám chiếc P.39 và P.40. Riêng tôi được hai chiếc và Nishizawa được ba chiếc.

Vào ngày 7 tháng 5, sau nhiều ngày ngơi nghỉ, bốn chiến đấu cơ được lịnh thực hiện phi vụ thám thính ở Moresby. Mỗi người chúng tôi đều la lớn một cách vui vẻ khi nhận ra đồng đội của mình trong phi vụ nầy. Cả bốn chúng tôi đều là các phi công chiến đấu cơ điểm thắng của phi đoàn. Tôi đã hạ được 22 phi cơ địch, Nishizawa 13. Ota 11 và Takatsuka 9. Tôi hy vọng hôm nay làm ăn lớn. Khi chúng tôi lượn vòng trên không phận Moresby, Nishizawa lắc cánh báo hiệu và chỉ mười chiến đấu cơ địch trong đội hình hàng dọc, từ ngoài biển hướng đến chúng tôi, cao hơn nhóm phi cơ chúng tôi khoảng 2.000 bộ. Nishizawa và Ota lập thành mũi dùi, với Takatsuka và tôi bay ngay phía sau, thấp hơn chút ít. Bốn chiếc P.40 tách rời khỏi đội hình và bổ nhào xuống.

Tức khắc, bốn chiến đấu cơ Zero hướng mũi lên gần như thẳng đứng thay vì lộn nhào để né tránh và phân tán như phi công địch hy vọng. Chiếc P.40 đầu tiên vội vã vượt lên trong một vòng xoay trôn ốc, cố thoát khỏi cái bẩy do chính nó giăng ra. Bụng phi cơ địch lấp loáng trước mắt tôi. Nhanh như chớp, tôi thảy ngay một loạt đạn đại bác. Cánh chiếc P.40 đứt lìa. Tôi lấy lại thăng bằng và nhìn thấy mỗi chiếc Zero đánh bật một chiếc P.40 ra. Tất cả đều biến thành cây đuốc. Sáu chiến đấu cơ địch còn lại đang ở trên chúng tôi. Chúng tôi phân tán qua phải và trái, vượt lên trong những vòng xoay hình trôn ốc, và lấy thăng bằng theo hình vòng cung, đồng thời các khẩu đại bác đều hoạt động. Thân ba chiếc P.40 tan rã hoặc bốc cháy. Ba chiếc còn lại chúi mũi xuống và chạy luôn.

Vào ngày 8 và 9 tháng Năm. Tôi tiêu diệt thêm hai chiến đấu cơ địch nữa, một chiếc P.39 và một chiếc P.40. qua những nhát chổi kế tiếp trên không phận Moresby. Vào ngày 10, tôi lại bắn rơi một chiếc P.39 với thành tích tiêu thụ đạn ít nhất, chỉ bốn quả đại bác, trong một phi vụ trên biển San Hô với Honda và Yonekawa.

CHƯƠNG XII

Trong thời gian từ ngày 1 đến ngày 12 tháng Năm, phi đoàn Lae của chúng tôi không thiệt mất một chiếc Zero nào trong những lần đụng độ với địch quân. Nhờ biết người biết ta, và nhờ vào đội hình chiến thuật hữu hiệu nhứt, chúng tôi đã tìm được lợi thế và thâu hoạch một loạt chiến thắng đơn phương.

Vào ngày 13 tháng Năm, phi cơ của tôi bị hư hỏng máy móc nên bắt buộc phải ở lại. Việc nầy đã cho tôi dịp may nhận được mấy lá thư vào buổi sáng, do tiền thủy đỉnh mang đến mỗi tháng một lần. Má tôi viết rằng các anh tôi đã nhập ngũ. Một người tình nguyện vô trường phi công hải quân nhưng không được, vì gặp phải những đòi hỏi quá nghiệt ngã. Thay vào đó, anh tôi đầu quân vào căn cứ hải quân Sasebo. Người anh khác của tôi xin vô Lục quân và đã lên đường sang Trung Hoa, nhưng không bao giờ trở về nhà. Sau Trung Hoa, anh tôi được thuyên chuyển sang Miến Điện và thiệt mạng trong lúc thi hành nhiệm vụ.

Nhưng dĩ nhiên, bức thư mà tôi chờ đợi nôn nóng hơn hết là bức thư của Fujiko. Nàng viết nhiều về sự đổi thay to tát ở quê hương, và tôi đã ngạc nhiên với cái tin hiện nàng đang làm việc trong một cơ sở (biến cải thành cơ xưởng quân cụ) của người chú. Nàng viết:

" Hiện tại, không ai được ăn không ngồi rồi cả. Thủ tướng đã tuyên bố như vậy. Ông ta nói rằng ngay cả phụ nữ nếu họ ở nhà mà không đóng góp vào nổ lực chiến tranh họ sẽ bị gọi nhập ngũ và gởi vô bất kì cơ xưởng quân cụ nào xét thấy cần đến sự phục vụ của họ. Do đó, để giữ em gần với gia đình, chú em đã mướn em làm việc cho ông."

Cô em bà con Hatsuyo của tôi có những tin tức còn đáng lo âu hơn nữa. Nàng viết rằng thân phụ của nàng đã được thuyên chuyển từ Shikoku về Đông Kinh. Trở về thành phố nầy được vài ngày, nàng đã chứng kiến tận mắt các oanh tạc cơ B.25 của Hoa Kỳ dội bom. Đó là ngày 18 tháng Tư.

"Em biết rằng anh đang đứng trước đầu sóng gió," Hatsuyo viết, "và những thành quả mà anh đạt được trong việc chống quân thù khiến cho tất cả chúng em, những người sống ở quê hương, cảm thấy vô cùng yên lòng. Nhưng Đông Kinh và nhiều thành phố khác bị oanh tạc đã làm thay đổi thái độ của dân chúng hướng về cuộc chiến. Bây giờ mọi việc đã đều đổi khác, những trái bom đã rơi xuống đây, trên quê hương chúng ta. Bây giờ hình như những cô gái khác, tất cả đều phải cố gắng làm việc nhiều hơn để yểm trợ cho anh và những phi công khác, những người cách xa Nhật Bản ngàn trùng."

Hatsuyo vẫn đi học, nhưng trọn buổi chiều và vài giờ vào buổi tối, nàng phải làm việc trong các cơ xưởng sản xuất quân trang, với các cô gái khác. Hai anh tôi đi lính, Fujiko và Hatsuyo làm việc trong các cơ xưởng... tất cả đều lạ lùng như vậy.

Hatsuyo không mô tả chi tiết cuộc oanh tạc của đối phương, tuy nhiên cùng ngày đó chúng tôi đã nhận được tin tức. Đương nhiên chính phủ đã phủ nhận những thiệt hại nặng nề. Nhưng tất cả các phi công ở Lae đều biết mức độ tàn phá của oanh tạc cơ địch. Họ đủ sức nghiền nát quê hương chúng tôi, cho dù có thể bị trả đủa sau đó. Lúc tôi đang còn đọc thơ, chuẩn úy Wataru Handa bước vô yêu cầu tôi cho mượn Honda, phi công bên cánh của tôi để thực hiện một phi vụ ở hải cảng Moresby. Chuẩn úy Handa mới đến Lae, mặc dù chưa chiến đấu ở Thái Bình Dương, nhưng là một trong những phi công nổi tiếng của Nhật Bản ở chiến trường Trung Hoa, với 15 phi cơ địch bị hạ. Sau khi trở về từ Hoa Lục, hắn trở thành huấn luyện viên phi hành ở trường phi công Tsuchiura. Tôi không hề có một thắc mắc nào trong việc để cho Honda bay với hắn.

Tuy nhiên, Honda từ chối. Anh ta ấp úng: " Tôi không đi thì tốt hơn, Saburo. Từ trước đến nay tôi chỉ bay chung với anh, và bây giờ tôi không muốn thay đổi."

Tôi chận ngay: "Ồ! Anh đừng có nói điên!. Handa là một phi công tài giỏi hơn tôi nhiều , và cũng bay lâu hơn tôi anh cứ đi!."

Trưa hôm đó, Honda cất cánh với năm chiến đấu cơ Zero khác cho một phi vụ quan sát trên không Moresby.

Sự miễn cưỡng của Honda khiến tôi lo lắng và tôi đã tháo mồ hôi hột trong lúc chờ đợi anh ta trở về. Hai giờ sau, năm chiếc Zero đáp xuống: phi cơ dẫn đầu của chuẩn úy Handa và bốn người khác. Phi cơ của Honda không thấy!

Tôi chạy ùa ra phi đạo và leo lên cánh chiếc Zero của Handa ngay trước khi cánh quạt ngừng quay. "Honda đâu?" Tôi hỏi lớn, "Anh ta đâu? Việc gì đã xảy ra cho anh ta?"

Handa nhìn tôi mặt mày khổ nải. "Anh ta đâu?" tôi hét. "Việc gì xảy ra?".

Handa leo ra khỏi phòng lái. Đứng trên mặt đất, hắn nắm lấy tay tôi, khom mình xuống, và cố gắng lắm mới nói được. Tiếng nói của hắn run run. " Tôi ... tôi rất ân hận Saburo. Honda, anh ta ... anh ta đã thiệt mạng. Việc nầy lỗi tại tôi."

Tôi ngơ ngẩn ! Tôi không tin được ! Honda không thể chết ! Anh ta là một phi công bên cánh tài ba hơn bất kì một phi công nào mà tôi đã từng bay chung.

Chuẩn úy Handa vừa đi vừa nhìn xuống mặt đất, rồi bước vô Bộ chỉ huy. Tôi đi theo hắn không thốt được lời nào.

" Chúng tôi ở trên phi trường Moresby" vừa đi Handa vừa nói, giọng nhỏ. " chúng tôi bắt đầu lượn vòng ở cao độ 7.000 bộ. Không thấy phi cơ địch nào trên bầu trời, và tôi nhìn những phi cơ đậu trên mặt đất.

" Đó là lỗi của tôi, tất cả đều là lỗi của tôi. Chiến đấu cơ xuất hiện mà tôi không thấy. Đó là những chiếc P.39. Tôi không biết bao nhiêu. Chúng chúi xuống mau đến nỗi tôi không kịp trở tay. Chúng tôi chỉ biết sự hiện diện của phi cơ địch khi súng đã nổ. Tôi lộn ngay mội vòng, phi công bên cánh khác của tôi cũng làm như tôi. Khi tôi đảo quành lại, tôi thấy phi cơ của Honda bao trùm trong lửa đỏ. Hắn bị hoả lực chéo của mấy chiếc P.39"

Tôi đứng lại nhìn hắn trừng trừng. Handa bước đi luôn. Hắn sẽ không bao giờ phục hồi sau cú đấm vừa nhận lảnh. Mặc dù hắn là một "Ace" ở Trung Hoam hiện thời hiển nhiên hắn đã mất hẳn sự nhạy bén trên không trung. Hắn chưa từng đối đầu với chiến đấu cơ Hoa Kỳ bao giờ. Dù sao đi nữa, Handa cũng cảm thấy hổ thẹn khi hắn để cho phi công bay bên cánh bị thiệt mạng. Những ngày ở Lae hắn xanh xao vàng vọt. Cuối cùng, hắn mắc bệnh lao và được gởi về xứ. Nhiều năm sau, tôi nhận được một bức thơ của bà vợ Handa. Bà ta viết: " Nhà tôi qua đời ngày hôm qua sau chứng bệnh dai dẵng. Tôi viết thơ nầy thể theo lời yêu cầu của nhà tôi, nói lên lời tạ tội thay cho anh ấy. Nhà tôi không bao giờ hồi phục phong độ sau sự mất mát ở Lae. Lời cuối cùng nhà tôi thốt lên khi chết: " Suốt đời tôi, tôi đã chiến đấu dũng cảm, nhưng không thể nào quên được khi tôi để mất người của Sakai."

Khi chết, Honda chỉ mới 20 tuổi. Anh ta là một con người dũng mảnh trên mặt đất cũng như trên không trung. Vào những ngày nghỉ, tôi đi lang thang quanh căn cứ. Tôi không lưu tâm đến đòi hỏi phải phục thù cho phi công thiệt mạng đầu tiên của phi đoàn, do những người còn lại đề nghị. Nhưng đến ngày 17 tôi thay đổi ý kiến. Đối với tôi, thành công lớn nhứt trong khi chiến đấu cơ của tôi là không bao giờ để mất người bay bên cánh. Tôi đã làm trái ý muốn của Honda, để hắn bay với người khác, và hắn đã chết. Ngày hôm sau, 14 tháng 5, tôi nhận hạ sỹ Hatori thay thế cho Honda.

Vào ngày 15 tháng Năm, mưa đổ như thác lũ, có nghĩa là một ngày nghỉ của tất cả các phi công. Nhưng trước bình minh ngày 16, nhiều oanh tạc cơ B.25 bay sà thấp trên ngọn cây lướt đến đào nát phi đạo và thổi bay nhiều cơ xưởng bảo trì.

Bước sang ngày thứ hai chúng tôi vẫn chộn chân trên mặt đất, bỏ cả một ngày để chỉ làm công việc dọn dẹp và lấp hố bom trên phi đạo. Sau đó, chúng tôi vô ngồi trong doanh trại, nhiều phi công ngủ gà ngủ gật, một số khác thảo luận về nhịp độ tấn công gia tăng của địch quân.

Ngày trôi qua chậm chạp, và đêm đó Nishizawa, Ota và tôi đi đến phòng truyền tin để nghe giờ nhạc do đài phát thanh Úc Đại Lợi phát ra hàng đêm.

Nishizawa thình lình lên tiếng: "Hãy nghe điệu nhạc nầy. Nó có phải là "Điệu Vũ của Tử Thần" không?"

Chúng tôi gật đầu. Nishizawa bổng nhiên lộ vẻ phấn khởi. "Điệu nhạc nầy làm tôi nẩy ra một ý kiến. Các bạn biết phi vụ không kích Moresby vào ngày mai? Tại sao chúng ta không biểu diễn "Điệu Vũ của Tử Thần" của chúng ta để đối phương xem chơi?"

Ota hỏi: "Anh nói cái quái gì vậy? Tôi thấy anh giống như thằng khùng!"

Nishizawa cãi: " Tôi nói thật. Sau khi không kích xong, trên đường bay về hãy quay lại Moresby, chỉ ba chúng ta thôi, để biểu diễn một màn nhào lộn ngay trên phi trường của đối phương để chọc giận họ chơi."

"Có lẻ thú vị đó," Ota nói, "nhưng còn chỉ huy trưởng? Ông để chúng tôi đi suông sẽ không?"

Nishizawa cười: "Khi đề nghị trò chơi nầy tôi phải biết cách chớ."

Chúng tôi trở lại doanh trại, và cả ba to nhỏ bàn tán kế hoạch hành động ngày mai. Dù cho chỉ có ba chúng tôi xuất hiện trên không phận Moresby nhưng chúng tôi không sợ. Cả ba chúng tôi đã bắn rơi tổng cộng gần 70 phi cơ địch rồi: tôi 27 chiếc, Nishizawa 20 chiếc và Ota 18 chiếc.

Ngày hôm sau, chúng tôi quét Moresby với sức mạnh tối đa: 18 chiến đấu cơ Zero, với thiếu tá Tadashi Nakajima, chỉ huy trưởng phi đoàn, đích thân hướng dẫn. Nishizawa và tôi bay hai bên cánh của ông.

Cuộc không kích là một thất bại. Trên phi trường địch không có bóng một phi cơ nào. Nhưng câu chuyện trên trời cao thì khác. Nhiều chiến đấu cơ địch, trong đội hình ba chiếc, ùa đến tấn công chúng tôi. Chúng tôi xoay lại và đánh dàn mặt với nhóm đầu tiên. Cuộc hỗn đấu xảy ra, sáu chiếc P.39 trong đó có hai chiếc là nạn nhân của tôi rớt cháy như cây đuốc. Nhiều chiến đấu cơ Zero tách rời khỏi trận không chiến chúi xuống bắn phá phi trường. Hai chiếc bị đạn phòng không, què quặt và đâm vô sườn núi Owen Stanley trên đường trở về.

Ngay sau trận không chiến, chúng tôi trở lại đội hình, và trên đường về tôi ra dấu cho thiếu tá Nakajima biết tôi phải truy đuổi một phi cơ địch. Ông vẩy tay, và tôi bổ nhào ngay xuống với hai phi công bên cánh: Ota và Nishizawa.

Một vài phút tôi trở lại Moresby, bay vòng trên phi trường ở độ cao 12.000 bộ. Súng phòng không im tiếng và không có chiến đấu cơ nào xuất hiện. Cả ba chúng tôi bay trong đội hình chỉ cách nhau vài bộ. Chúng tôi lộn nhào bao vòng. Nhìn quanh để tìm kiếm phi cơ địch lần cuối cùng, tôi chúi mũi xuống để lấy tốc độ với Nishizawa và Ota đeo dính hai bên. Tôi kéo ngược cần điều khiển theo hình vòng cung và lộn ngược lại phía sau. Hai chiếc Zero kia cũng làm y như tôi, rồi lấy thăng bằng và vừa lăn tròn vừa bay vòng quanh.

Hơn hai lần, chúng tôi vượt lên, bay vòng quanh, chúi xuống và lại lộn ngược trở lên bằng cách lăn tròn. Không một khẩu cao xạ nào bắn lên từ mặt đất, và bầu trời không có bóng dán bất kì chiến đấu cơ nào của địch.

Sau khi biểu diễn lần thứ ba, Nishizawa khoái chí và muốn biểu diễn lại một lần nữa. Tôi xoay sang trái, thấy Ota cười và gật đầu đồng ý. Tôi không thể từ chối. Chúng tôi chúi xuống chỉ cách phi trường địch 6.000 bộ và lăn tròn ba vòng trên không trung rồi đảo quanh thật nhịp nhàng. Vẫn không có tiếng súng nào bắn lên.

Chúng tôi trở về Lae hai mươi phút sau khi các chiến đấu cơ khác đã đáp xuống. Chúng tôi im thinh thít. Ngay sau đó chúng tôi ngồi chụm đầu lại bàn tán, cười đùa thoã thích. Tuy nhiên, sự bí mật của chúng tôi sớm bị khám phá. Quá chín giờ đêm đó, một liên lạc viên chạy vô phòng ngủ cho biết đại úy Sasai muốn được "diện kiến" chúng tôi tức khắc. Chúng tôi nhìn nhau lo lắng. Hành vi của chúng tôi có thể nhận lảnh hình phạt nặng nề.

Ngay sau khi chúng tôi bước vô văn phòng, đại úy Sasai nói lớn: "Hãycoi đây, các anh là bọn hoang đàng!". Mặt ông ta đỏ gay và phất qua phất lại một lá thư bằng tiếng Anh, trước mắt chúng tôi. " Các anh có biết tôi được cái nầy ở đâu không?" ông hét lớn, "không biết? Để tôi nói cho nghe, mấy tên ngu ngốc nầy. Bức thư nầy vừa được một chiếc phi cơ địch thả xuống sân bay cách đây vài phút!"

Thơ viết:

" Gởi chỉ huy trưởng phi đoàn Lae: chúng tôi sẽ nhớ mãi ba tên phi công đã thăm viếng chúng tôi ngày hôm nay. Tất cả chúng tôi đều khoái mấy cú lộn nhào của họ trên phi trường của chúng tôi. Đó là một màn trình diễn rất tới. Chúng tôi sẽ lấy làm hân hạnh nếu ba tên phi công nầy trở lại thăm viếng chúng tôi một lần nữa, mỗi tên nên quấn một khăn quàng màu xanh quanh cổ. Chúng tôi rất buồn đã không đón tiếp họ chu đáo, nhưng hy vọng lần sau họ sẽ được tất cả chúng tôi tiếp đón nồng nhiệt hơn."

Cả ba chúng tôi cố giữ lắm mới khỏi cười ồ. Bức thư được ký bởi một nhóm phi công chiến đấu cơ. Sau đó đại úy Sasai bắt chúng tôi đứng như trời trồng để phạt hành vi ngu ngốc của chúng tôi. Đặt biệt, chúng tôi được lịnh không bao giờ thực hiện màn trình diễn nào thêm nữa trên các phi trường địch. Đó là một sự đối đãi tốt của thượng cấp, và chúng tôi hả dạ với "Điệu vũ của tử thần" ở Moresby của chúng tôi.

Tuy nhiên, đêm hôm đó không ai trong bọn chúng tôi biết rằng ngày hôm sau chúng tôi sẽ được xem một "Điệu vũ của tử thần" thực sự diễn ra, chưa từng thấy trong các vỡ kịch từng diễn trên không. Bảy chiến đấu cơ thuộc không đoàn của chúng tôi hộ tống tám oanh tạc cơ không tập Moresby. Chúng tôi chưa tiến đến phi trường địch thì đã bị 18 chiến đấu cơ địch nhào xuống từ mọi hướng. Đây là một trận đánh phòng vệ mà tôi chưa gặp bao giờ. Chúng tôi bị áp lực đến nỗi khó xoay trở trong việc bảo vệ cho 8 oanh tạc cơ. Mặc dù tôi đã đẩy bật nhiều chiến đấu cơ địch ra khỏi các oanh tạc cơ, nhưng không thể bắn rơi một chiếc nào. Ba chiến đấu cơ địch bị đồng bạn tôi bắn hạ. Trong khi đó, các oanh tạc cơ thả bom không mấy chính xác rồi bay lãng ra để quay về.

Tôi nhìn thấy một chiếc P.39 lướt thẳng đến nhóm oanh tạc cơ với một tốc độ khủng khiếp, nhưng tôi đành bó tay. Chiếc P.39 nhả một loạt đạn vào chiếc oanh tạc cơ bay cuối cùng, rồi lộn nhào và chúi xuống, vượt hẳn tầm súng của chúng tôi. Chiếc oanh tạc cơ tuông một vệt lửa, sau đó bốc cháy dữ dội, chúi mũi xuống thật mau. Nó mất độ cao nhanh chóng và hình như mất hẳn sự kiểm soát.

Thình lình, vẫn bốc cháy dữ dội, mũi chiếc oanh tạc cơ khẻ ngước và bắt đầu vượt lên cao. Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy chiếc phi cơ bắt đầu lăn tròn, cách "biểu diễn" nầy khó thực hiện được đối với một chiếc Betty. Nó vẫn tiếp tục lướt lên và vẫn lăn tròn cho đến khi biến thành một trái cầu lửa.

Lửa rớt từng bựng. Ngay cả khi chiếc phi cơ sắp sửa chúi mũi xuống thì một tiếng nổ dữ dội làm rung rinh cả phi cơ của tôi, chiếc oanh tạc cơ biến thành những mảnh vụn rơi lả tả.

Trong ba tháng Năm, Sáu và Bảy, hầu như các trận không chiến xảy ra liên miên. Cho đến sau chiến tranh, tôi mới biết không đoàn Lae của chúng tôi đã đạt được nhiều thành quả nhứt so với những hoạt động của các đơn vị không quân chiến đấu Nhật Bản khác.

Vào ngày 23 tháng Năm, bảy chiến đấu cơ Zero chận đánh năm oanh tạc cơ B.25 trên không phận Lae và chôn một chiếc xuống biển, cách phía Nam Salamua 30 dặm. Ngày hôm sau, sáu oanh tạc cơ địch quay trở lại Lae. Không may cho các oanh tạc cơ nầy, mạn lưới báo động từ xa của Lae phát hiện ra chúng, và 11 chiến đấu cơ Zero cất cánh đốt cháy và bắn rơi 5 chiếc, đồng thời gây què quặt cho chiếc thứ sáu. Tôi bay cả hai phi vụ nghinh chiến nầy và trong hồ sơ của Bộ Tư Lịnh Tối Cao Hoàng Gia đã ghi vô điểm thắng của tôi thêm ba oanh tạc cơ vào hai ngày nầy.

Nhịp độ của các cuộc tấn công gia tăng vào những ngày cuối tháng Năm. Lần đầu tiên, vào ngày 25 tháng Năm bốn oanh tạc cơ B.17 bay tới tấn công Lae với 20 chiến đấu cơ hộ tống. 16 chiến đấu cơ Zero nhào xuống chận đầu lực lượng nầy trên đỉnh dãy núi Owen Stangley. Năm chiến đấu cơ địch bị hạ, nhưng các pháo đài bay thoát thân an toàn. Ba ngày sau, năm oanh tạc cơ B.26 trở lại Lae. Tôi ghi một điểm nữa. Và vào ngày 9 tháng Sáu, tôi gởi thêm hai chiếc B.26 xuống đại dương.

Ngày giờ hình như không còn phân chia rõ rệt nữa. Đời sống trở thành một chuỗi bất tuyệt của những cuộc càn quét trên không, của những phi vụ hộ tống oanh tạc cơ đến Moresby, của những cuộc chạy đua cất cánh để tiếp đón kịp thời các đối thủ đến viếng thăm. Đồng Minh hình như có mọt nguồn tiếp tế phi cơ vô tận. Tuần nào họ cũng chịu đựng sự thiệt hại nặng nề, tuy vậy phi cơ của họ vẫn đến đều đều.

CHƯƠNG XIII

Trước đó, vào ngày 20 tháng Năm, chúng tôi đối đầu với đối phương trong một trận không chiến cao nhứt lịch sử khi chỉ huy trưởng không đoàn hướng dẫn 15 chiến đấu cơ từ Lae bay đến Moresby ở cao độ 30.000 bộ trong suốt một tiếng rưỡi đồng hồ. Chúng tôi duy trì cao độ nầy để lấy yếu tố bất ngờ, và chúng tôi cũng đã bất ngờ khi đụng đầu với một đội hình địch quân cũng bay cùng một cao độ như chúng tôi.

Tôi đã hồ nghi khả năng chiến đấu của phi cơ Zero ở cao độ nầy. Riêng tôi có thể đạt đến cao độ 37.720 bộ với chiến đấu cơ Zero, nhưng phải mang mặt nạ dưỡng khí và một chiếc áo ấm. Ở cao độ đó, cần điều khiển của phi cơ rất nặng nề và không thể nhích độ cao lên một tấc nào được nữa. Bởi vậy chiến đấu với một chiếc Zero ở độ cao 30.000 hình như không được khôn ngoan lắm.

Có mười chiến đấu cơ địch, loại P.39 kiểu mới. Tôi dẫn đầu cuộc tấn công và xáp chiến tức khắc. Mười bốn chiến đấu cơ Zero khác đối đầu với nhóm phi cơ còn lại.

Cần kiểm soát nặng nề và chậm chạp trong không khí loãng, hình như mọi cử động của tôi đều trì trệ. Lồng ngực của tôi như muốn rạn nứt và mặt nạ dưỡng khí tuột ra khỏi càm tôi.

Dường như khi một người đã tập trung tất cả sức mạnh vào một hành động quyết định, ngay cả khi ngộp thở vì thiếu dưỡng khí cũng không thể nào ngăn nỗi hành động của hắn. Giữa lúc tôi như bất tĩnh, tôi cảm thấy tay tôi vẫn nắm chặt cần điều khiển và giữ cho phi cơ chúi xuống trong vòng xoay hình trôn ốc. Khi đầu óc tôi đã tĩnh táo và nhìn thấy trở lại, phi cơ đã xuống ở cao độ 20.000 bộ. Tôi vừa xoay mình tức khắc, vì cảm giác phi cơ địch bám sát theo, vừa chuẩn bị hoả lực. Nhưng phi công đich cũng gặp rắc rối. Có lẻ hắn xoay theo tôi quá ngặt hoặc có thể hắn cũng mất dưỡng khí như tôi, cho nên cũng cùng cao độ 20.000 bộ, nhưng phi cơ của hắn xoay theo hình trôn ốc chầm chậm. Không bỏ lỡ dịp may, tôi xông tới ngay khi chiếc phi cơ có vẻ lấy lại thăng bằng, cánh hơi ngước lên với các họng súng rực lửa hướng về phía tôi. Tôi lãng ra nhanh như chớp, bấy giờ chiếc P.39 đang ở trên và phía bên phải tôi, và tôi ấn cò đại bác. Một viên đạn cắt đứt phi cơ địch ra làm hai. Ngoài tôi chỉ có Ota bắn hạ được một chiếc P.39 khác vào ngày hôm đó.

Ngày hôm sau, đầu tiên tôi hạ được một chiến đấu cơ địch mà không cần bắn một phát súng nào, trong một trận không chiến căng thẳng cao độ. Khác hơn lần trước, lần này ngày 26 tháng Năm, chúng tôi đụng nhau ở một cao độ thật thấp, chỉ sát trên ngọn cây. Một nhóm 16 chiến đấu cơ Zero chạm trán một đội hình đối phương kì lạ. Bốn oanh tạc cơ B.17 bay trong đội hình hàng dọc khoảng 20 chiến đấu cơ P.39 chia thành từng nhóm nhỏ hai hoặc ba chiến đấu cơ bao xung quanh các pháo đài bay nầy. Chúng tôi ở phía dưới đối phương và tấn công bằng cách vượt thẳng đứng lên mà họ không hay biết. Tôi đốt ngay một chiếc P.39, và bầu trời như nổ tung trong một trận hỗn chiến giữa phi cơ và phi cơ.

Hầu hết chiến đấu cơ địch đều thối lui và lãng xa các chiến đấu cơ của chúng tôi. Tôi bám sát đuôi của một chiếc P.39 đang chúi xuống khu rừng. Viên phi công tỏ ra sợ hãi, hắn bay có vẻ như quét trên ngọn cây và giống như cắt cỏ khi hắn xoay thân, vượt lên, chúi xuống với tôi đeo dính sau đuôi. Mỗi lần hắn vượt lên, xoay ngang hoặc lăn tròn, tôi cắt thẳng vào thân phi cơ của hắn. Tôi chụp ngay một viên đạn khi chiếc Airacobra lãng ra bằn cách lăn tròn về phía trái. Viên phi công chúi xuống ngay và nhắm về phía một thung lũng đầy cây cối, xung quanh toàn là dốc đá cao chớn chở.

Trước khi tôi nhận biết sự nguy hiểm, tôi đã lọt vô một hẻm núi, đeo dính một bên đuôi của chiếc P.39. Không có thời giờ để tập trung hoả lực, tất cả những gì mà tôi có thể làm là tránh né các mõm đá gie ra, khít khao trong đường tơ kẻ tóc. Hiểm nguy khiến tôi quên hẳn mục đích chánh của tôi. Mồ hôi đổ ra như tắm. Tiếng động cơ máy bay hình như vang vang như sấm động bên tai tôi.

Bỗng nhiên phía trước, một gộp đá treo lơ lửng án mất lối đi của chúng tôi. Lập tức viên phi công địch dựng đứng phi để vượt lên, nhưng quá muộn. Cánh chạm vào đá, chiếc phi cơ lộn nhào, và một tiếng nổ khủng khiếp vang lên phía dưới hố sâu,

Tôi kéo sát cần điều khiển về phía sau với tất cả sức mạnh của đôi tay và giữa thật chặt. Chiếc Zero quất ngược đầu lên thật dữ đội, và chỉ trong vòng một cái nháy mắt nhưng dài dằng dặt, chiếc phi cơ lướt lên khỏi gộp đá, có thể nói là chỉ trong gang tấc.

Tôi mất một vài phút mới lấy lại bình tĩnh, và đưa tay vuốt mồ hôi đổ xuống như tắm trên mặt. Gia tăng tốc lực và vượt lên cao từ từ. Đó là chiến thắng thứ 37 của tôi, mặc dù tôi không đích thân tiêu diệt chiếc phi cơ nầy, nhưng trận không chiến vừa qua là một trong những trận không chiến tổn sức nhất trong đời tôi. Sau đó, tôi được biết Nishizawa và Ota cũng lâm vào tình trạng chiến đấu không khác gì tôi. Họ rượt đuổi hai chiếc P.39 xuống một triền núi và hầu như lâm hiểm trong lúc vượt lên khi hai đối thủ phía trước của họ vỡ tan. Đêm đó, doanh trại của chúng tôi ồn ào nỗi vui qua những biến cố trong ngày.

Suốt tuần lễ cuối cùng của tháng Năm, không đoàn Lae tung hết sức mạnh càn quét khu vực Moresby, và trong vòng ba ngày của cuộc không chiến dữ dội, chúng tôi đã thâu đạt được những thành quả không thể tưởng tượng được. Qua chiều hướng nầy, Moresby được xét đoán đã đến lúc nhận lãnh một cú đấm dứt khoát. Vào ngày 1 tháng Sáu, 18 oanh tạc cơ cất cánh từ Rabaul, hộ tống bởi 30 chiến đấu cơ Zero của Lae và 11 chiếc khác của Rabaul, cố gắng san bằng pháo đài huyết mạch của địch quân lần cuối. Chúng tôi đã tin tưởng một cách chắc chắn rằng Đồng Minh không thể đưa ra một sự chống đối mạnh mẻ sau các trận đánh liên tục. Chúng tôi đãsai lầm. Hai mươi chiến đấu cơ địch đã gầm thét xông vào lực lượng to lớn của Nhật Bản. Một lần nữa, một trận đánh "xáp lá cà" giữa chiến đấu cơ và chiến đấu cơ xảy ra. Bảy phi cơ địch rớt trong lửa đỏ, một chiếc do súng của tôi gây ra. Nhưng đối phương đã đạt mục đích: phân tán lực lượng oanh tạc cơ của chúng tôi và bẽ gãy sự chính xác của cuộc không tập.

Trên đường trở về Lae, một oanh tạc cơ của chúng tôi rớt khỏi đội hình, bay lạng quạng trong không khí. Tôi và năm chiến đấu cơ khác phải bay tụt lại để bao che. Chiếc oanh tạc cơ lê thân chậm chạp. Những lổ đạn đại bác lổ chổ trên cánh và thân phi cơ, coi không khác nào một cái rây. Chiếc phi cơ vẫn còn bay được, đó là một phép lạ.

Phi công trưởng và phụ nằm dài trên ghế trong những vũng máu. Tôi không thể nhìn thấy bốn người khác thuộc phi hành đoàn. Chỉ có chuyên viên cơ khí vật lộn với cần điều khiển, cố giữ cho phi cơ thăng bằng. Hiển nhiên hắn không bị thương, còn những người khác có thể đã chết hoặc bị thương nặng.

Bằng mọi cách, chuyên viên cơ khí đã đưa được chiếc phi cơ lảo đảo như người say rượu về tới phi trường Lae. Hắn đã làm được một công việc đáng nể phục. Rõ ràng hắn bay với kiến thức học lớm. Việc nầy đã đành là khó khắn đối với những người chưa được huấn luyện lái phi cơ, nhưng còn khó khăn hơn nữa khi lái một chiếc phi cơ bị hư hại trầm trọng. Lúc ấy chiếc oanh tạc cơ đã tiến vào không phận Lae và anh chuyên viên cơ khí không còn biết phải làm gì thêm nữa. Hắn có thể giữ cho phi cơ bay, nhưng đáp xuống là cả một vấn đề.

Chiếc phi cơ què quặt đảo chầm chậm trên phi trường hết vòng nầy đến vòng khác, và anh chuyên viên cơ khí ngắm nghía phi đạo nhỏ hẹp phía dưới. Không có cách nào khác để giúp đỡ con người bồn chồn nầy. Chúng tôi bay sát hơn và cố chỉ cách cho hắn đáp xuống, nhưng mọi khi hắn rời tay khỏi cần điều khiển, chiếc phi cơ chao đi chao lại một cách nguy hiểm. Dần dần hắn giảm được tốc độ và bắt đầu hạ thấp xuống. Chiếc phi cơ bay vòng ra ngoài biển, và hạ xuống quá mau khi xoay lại để hướng đến phi đạo. Tôi nín thở. Chiếc phi cơ xốc dữ dội và bắt đầu rơi xuống tuồn tuột. Nó sẽ tan tành trong nháy mắt.

Một phép lạ xảy ra! Viên phi công gượng ngồi dậy, gương mặt trăng bệt lóm đóm máu. Hắn tựa một cách nặng nhọc vào vai của anh chuyên viên cơ khí. Chỉ một giây sinh tử, hắn ấn nút bộ phận đáp bật ra, phi cơ lấy lại tốc lực và bánh xe chạm trên mặt phi đạo. Trong nháy mắt, nó va vào hai chiến đấu cơ đang đậu vỡ tan, rồi bật nhào nửa vòng và đứt làm hai đoạn.

Chúng tôi đáp lập tức sau đó, cán trên các mảnh vụn nhưng lạ lùng là không có chiếc phi cơ nào bốc cháy. Viên phi công của chiếc oanh tạc cơ chỉ gượng đứng dậy được một phút rồi ngã ra bất tỉnh. Phi công phụ tử thương. Chuyên viên cơ khí bị thương trầm trọng ở giò, phải khiêng ra khỏi phi cơ. Tất cả nhân viên khác thuộc phi hành đoàn đều mang thương tích nặng.

Nhát chổi chiến đấu cơ vẫn tiếp tục quét, và suốt hai ngày kế tiếp chúng tôi bắn rơi thêm ba chiến đấu cơ địch. Nhưng không một người nào ở Lae biết được các chiến thắng liên tục của chúng tôi trái ngược một trời một vực với cuộc chiến bại đầy bi thảm của một lực lượng đặc nhiệm Nhật Bản to lớn ở Midway vào ngày 5 tháng Sáu. Đông Kinh tuyên bố lực lượng đặc nhiệm của chúng tôi đạt được chiến thắng quan trọng. Bộ Tư Lịnh Hoàng Gia đã giảm thiểu sự mất mát của chúng tôi xuống một mức độ vô nghĩa. Tuy nhiên, lần đầu tiên chúng tôi hồ nghi sự chính xác của các tin tức. Lý do dễ hiểu là chúng tôi biết Midway bị địch quân đổ bộ và chiếm đóng. Nếu hạm đội của chúng tôi rút lui mà không đẩy bật được cuộc chiếm đóng đó, không cần nhìn thấy cũng biết những gì đã xảy ra.

Sau nầy chúng tôi được biết bốn trong số các hàng không mẫu hạm mạnh nhứt và lớn nhứt của chúng tôi, cùng với 200 phi cơ và hầu hết phi công cũng như hàng mấy ngàn thủy thủ, đã bị chôn vùi xuống đáy biển

Từ ngày 5 đến 15 tháng Năm, một sự yên tĩnh kì dị được nhìn thấy trên mặt trận New Guinea. Sự yên tĩnh nầy chỉ bị phá vỡ bởi một cuộc không kích duy nhất ở Lae vào ngày 9. Điểm thắng của tôi ghi thêm hai oanh tạc cơ B.26

Vào ngày 16 tháng Năm, cuộc chiến trên không bùng nổ dữ dội trở lại. Đó là một ngày chiến đấu cơ của chúng tôi làm chủ chiến trường, khi 21 chiến đấu cơ Zero vồ ba nhóm phi cơ lơ đãng của địch quân.

Chúng tôi đụng với nhóm 12 chiến đấu cơ đầu tiên của địch bằng cách bổ nhào xuống một lượt, phá tan đội ngũ của địch quân. Tôi bắn rơi một chiếc, và năm phi công khác mỗi người ghi một điểm. Sáu chiến đấu cơ địch còn lại chúi xuống và chạy thoát.

Trở lên cao độ cũ, chúng tôi nhào ra khỏi ánh mặt trời đâm thẳng vô nhóm 12 chiến đấu cơ thứ hai. Với cách đánh bất thần được lập lại nầy, chúng tôi hạ thêm ba chiến đấu cơ địch. Tôi lại ghi một điểm.

Đợt phi cơ thứ ba, gồm khoảng 10 chiếc lướt đến ngay khi chúng tôi dọn dẹp xong nhóm thứ hai. Chúng tôi chi ra làm hai nhóm, một nhóm 11 chiếc Zero vượt lên cao để đánh xuống, một nhóm gồm 10 chiếc vẫn giữ độ cao như cũ. Các đội hình toả rộng trên khắp bầu trời Moresby. Phi cơ địch là loại P.39 mới, bay mau lẹ hơn loại cũ nhiều. Tôi nhảy vô một đối thủ, và hắn đã làm cho tôi ngạc nhiên qua lối vung thật lẹ ra khỏi hướng bay mỗi lần tôi khai hoả. Chúng tôi rượt đuổi nhau vòng quanh. Viên phi công của chiếc Airacobra nầy vừa chạy vừa xoay tít, lộn nhào, vượt lên, chúi xuống, xoắn vòng, rớt theo hình trôn ốc, và nhiều cách khác. Tài nghệ của hắn tuyệt luân. Với một chiếc phi cơ tốt hơn, đáng lẽ hắn đã lấy mạng tôi từ lâu, nhưng tôi không để hắn hở tay. Tôi cứ đeo dính cách phía sau đuôi hắn không đầy mười tám thước. Cuối cùng tôi lăn về phía trái một vòng, tung ra hai viên đại bác tầm ngắn, và chiếc P.39 biến thành cây đuốc.

Đó là chiến thắng thứ ba trong ngày. Chiến thắng thứ tư hầu như tiếp ngay sau đó và dễ dàng một cách đáng buồn cười. Một chiếc P.39 xẹt đến trước mặt tôi và chỉ lo chú ý đến một chiếc Zero khác đang truy đuổi ráo riết phía sau. Chờ cho chiếc phi cơ đến đúng tầm súng, tôi rót ngay 200 viên đại liên vô mũi. Nó lộn nhào như chớp để tránh né. Tôi bồi thêm loạt đạn đại liên thứ hai vô bụng. Nó vẫn chưa chịu rớt. Một loạt đại liên thứ ba chụp trúng buồng lái của chiếc phi cơ đang còn lộn nhào. Kiếng che gió vỡ tan, và tôi thấy viên phi công gục về phía trước. Chiếc P.39 xoay tít rồi chúi xuống mau, và nổ tan trong khu rừng phía dưới.

Hạ bốn chiến đấu cơ địch trong một ngày. Đó là thành tích của riêng tôi, đóng góp vào thành tích chiến thắng vĩ đại nhứt chỉ trong vòng một ngày hoạt động của phi đoàn Lae, với tổng số 19 chiến đấu cơ địch bị tiêu diệt thực sự.

Chiến thắng như vậy vẫn chưa đủ. 10 oanh tạc cơ B.26 lại mò đến căn cứ của chúng tôi. Phi cơ đã chọn giờ xấu, vì 19 chiến đấu cơ Zero đã rời khỏi mặt đất trước khi chúng đến. Chúng tôi không hạ được chiếc nào, nhưng gây hư hại hầu hết và phá hỏng kế hoạch oanh tạc của địch quân. Trên đường truy đuổi, chúng tôi đụng đầu với 10 chiến đấu cơ P.39. Hiển nhiên 10 phi cơ nầy đáp lại lời kêu cứu của các oanh tạc cơ. Chúng tôi đốt một chiếc.

Căn cứ Lae tưng bừng với chiến thắng đêm đó. Tất cả các phi công được phát thuốc hút thả giàn. Chuyên viên cơ khí bu quanh chúng tôi để chia xẻ niềm vui. Chúng tôi còn được tin sẽ có 5 ngày phép ở Rabaul. Tin nầy khiến tôi khoan khoái hơn hết. Không những tôi quá mệt mõi sau những ngày chiến đấu liên miên, nhưng các chuyên viên cơ khí muốn có hf thời giờ để sửa chữa chiếc chiến đấu cơ của tôi. Họ gọi tôi ra để chỉ cho coi nhiều lổ đạn trên cánh và trên thân phi cơ, và tôi đã thót ruột khi nhìn thấy những lổ đạn chạm thành một hàng phía sau phòng lái, cách đầu tôi không đầy hai phân.

Hồi năm 1942, không có một phi công chiến đấu nào của Nhật bận áo giáp, và phi cơ cũng không được chế tạo với những chổ bọc sắt để chống đạn như phi cơ của Hoa Kỳ. Nếu đối phương sớm khám phá điều nầy, chỉ cần một viên đại liên 50 bắn vô thùng chứa xăng, một chiếc Zero sẽ biến thành ngọn đuốc lập tức. Tuy biết như vậy, trong thời gian nầy không có một phi công nào của chúng tôi mang dù khi bay. Vấn đề nầyng Tây Phương đã diễn dịch sai lầm khi cho rằng cấp lảnh đạo Nhật Bản đã coi rẻ mạng sống của chúng tôi, rằng tất cả các phi công Nhật bị vắt chanh bỏ vỏ và bị coi như những món đồ vật hơn là con người. Diễn dịch quá nhiều tưởng tượng. Tất cả các phi công chúng tôi đều được phát một cây dù khi bay là quyết định riêng của chúng tôi, không có bộ chỉ huy cao cấp nào ra lịnh như vậy. Thực ra, chúng tôi được giới chỉ huy cao cấp thúc giục, tuy nhiên không ra lịnh phải mang dù khi chiến đấu, và tại một số phi trường, vị chỉ huy trưởng căn cứ bắt buộc các phi công phải mang dù. Gặp trường hợp sau nầy, phi công đem theo dù nhưng chỉ để trong phi cơ hoặc dùng làm nệm lót để ngồi.

Mục đích duy nhất khiến chúng tôi không mang dù là nhằm tránh vướng víu tay chân. Vả lại đa số các trận không chiến của chúng tôi đều xảy ra trên đất địch, nếu có nhảy dù xuống đất an toàn thì cũng sẽ bị bắt giữ. Trong các điều luật của quân đội Nhật Bản, hoặc trong các điều tâm niệm của giới Samurai, không có giòng nào ghi hai chữ "Tù binh" hết. "Không tù binh". Một kẻ ra đi hoặc là chết hoặc là trở về. Không có phi công chiến đấu nào gọi là can đảm mà lại để cho địch quân bắt giữ bao giờ. Việc nầy hoàn toàn không được nghĩ đến. Tuy nhiên, quả thật là khó chịu vô cùng khi nhìn thấy một hàng lổ đạn chỉ cách đầu tôi có mấy phân.

Đêm đó tôi được Bộ Tư Lịnh Hải Quân Hoàng Gia xác nhận con số bốn nạn nhân trong ngày của tôi. Đây không phải là trường hợp duy nhất của hải quân Hoàng Gia. Tôi biết có nhiều phi công hải quân khác đã lập được thành tích nầy hoặc nhiều hơn nữa. Tính đến hiện tại, tổng số phi cơ bị tôi hạ là 43 chiếc.

Nishizawa trở thành phi công đại tài nhất của Nhật Bản với tổng số 103 phi cơ địch bị bắn rơi, và thành tích tột cùng của anh lập được vào ngày 5 tháng Tám ở Guadalcanal khi anh hạ một lúc sáu chiến đấu cơ của hải quân Hoa Kỳ, trung sỹ phi công hải quân Nhựt Kenji Okabe hạ một lúc bốn chiếc F4F Wildcat, TBF Avenger và SBD Dauntless qua một loạt trận không chiến trong ngày ở Rabaul. Okabe đã đáp xuống ba lần để lấy nhiên liệu và đạn dược trong suốt cuộc chiến đấu của ngày đó, lập được thành tích vô song nầy cho hải quân.

Tuy nhiên, hầu như tất cả những phi công đạt được chiến công trên đều bị thiệt mạng không lâu sau đó trong lúc chiến đấu. Có hai trường hợp ngoại lệ, đó là trường hợp của chính tôi và Nishizawa. Nhưng mĩa mai thay, Nishizawa lại bị thiệt mạng vào tháng Chín năm 1944 trên không phận Cebu ở Philippine, mà không bắn được phát súng tự vệ nào. Nhiều chiến đấu cơ Hellcat đã túm được anh trong một vận tải cơ DC3 không hộ tống và võ trang. Chiếc vận tải cơ bị bắn cháy và chấm dứt cuộc đời của viên phi công vĩ đại nhất của Nhật Bản một cách tăm tối.

Đêm đó tôi được lịnh trình diện Chỉ Huy Trưởng căn cứ, một việc hiếm xảy ra. Trong phòng của đại tá Saito, tôi còn nhận thấy có mặt đại úy Sasai và chỉ huy trưởng không đoàn, trung tá Nakajima. Cả hai vị sỹ quan chỉ huy đều có vẻ buồn bã.

Đại tá Saito nói: " Tôi muốn báo cho anh biết tin nầy và tôi làm như vậy là lời yêu cầu của trung tá Nakajima. Đây là một việc không mấy gì vui vẻ đối với tôi. Hồi đầu tháng nầy, tôi có yêu cầu Tổng Hành Dinh Đông Kinh ân thưởng cho đại úy Sasai về tài ba lảnh đạo phi đội của ông trong chiến đấu. Đồng thời tôi cũng yêu cầu Đông Kinh công khai thừa nhận các thành quả phi thường mà Sakai đã đạt được trên mặt trận. Những thành quả nầy, theo chúng tôi biết, đã khiến anh trở thành phi công hàng đầu của toàn thể phi công hải quân Hoàng Gia. Tuy nhiên, những lời yêu cầu nầy đã bị bác bỏ. Đông Kinh nhận thấy không thích hợp trong việc phá bỏ tiền lệ. Lịch sử chúng ta chưa bao giờ có một vị anh hùng nào còn sống bao giờ," Saito gằn giọng "và hiển nhiên Đông Kinh không muốn có sự thay đổi nào trong thời gian nầy. Họ đã từ chối," ông nói thêm với giọng buồn bã "ngay cả ân thưởng một huy chương hoặc thăng cấp cho các anh cũng không"

Ông kết luận:

" Tôi không muốn tiết lộ các chi tiết nầy cho các anh, e rằng các anh sẽ bàn tán nầy nọ về hành động của Bộ Tư Lịnh Tối Cao. Nhưng có điều quan trọng không kém đối với tôi là tôi muốn cả hai anh biết rằng tôi, trong tư cách sỹ quan chỉ huy các anh, tôi hoàn toàn công nhận lòng nhiệt thành và sự cố gắng không lúc nào ngưng nghỉ của các anh."

Trung tá Nakajima lên tiếng: " Truyền thống của hải quân phải hoặc trái không biết là chỉ ân thưởng huân chương hoặc thăng cấp tại mặt trân cho người đã chết. Dĩ nhiên truyền thống nầy thật là bất lợi cho các anh trong thời gian nầy. Tôi cảm thấy cần phải nói cho các anh biết rằng đại tá Saito cũng đã yêu cầu thăng một cấp cho đại úy Sasai, và thăng cấp thiếu úy cho Sakai."

Sasai đáp rằng: " Tôi không biết cách nào để bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với sự ưu ái của hai vị chỉ huy. Tuy nhiên, tôi cần phải nói thêm rằng cả tôi lẫn Sakai không ai bất mãn trước sự quyết định của Đông Kinh. Tôi không thấy có lý do nào để chúng tôi bất mãn. Theo ý kiến của tôi, và tôi chắc Sakai cũng vậy, những thành quả và những chiến thắng trên không của chúng tôi không phải là một mình chúng tôi có thể đạt được. Nếu không có những phi công bên cánh đã bao che cho chúng tôi, nếu không có sự tận tâm của các nhân viên dưới mặt đất, chúng tôi sẽ không thể làm gì được cả. Tôi hài lòng về việc làm có tính cách đồng đội của chúng tôi, và tôi không cảm thấy sự ân thưởng hoặc thăng cấp cá nhân là cần thiết, mặc dù những gì mà hai vị chỉ huy đã làm khiến cho chúng tôi rất lấy làm vinh dự". Sasai đã nói lên tất cả những gì tôi muốn nói, và tôi chỉ biết gật đầu đồng ý.

Chính sách không tuyên dương công trạng cá nhân của hải quân vẫn được giữ triệt để cho đến cuối cuộc chiến. Tuy nhiên, vào tháng Ba năm 1945 có một sự phá lệ đặt biệt trong chính sách nầy khi đô đốc Soemu Toyoda, Tư Lịnh Hạm Đội Hổn Hợp, thốt lên lời khen ngợi các chiến công phi thường của trung sỹ Shoichi Sugita và tôi, bấy giờ là một thiếu úy. Nhưng lúc ấy sự khen ngợi nầy đã trở thành vô nghĩa. Những phi công vĩ đại của hải quân chúng tôi, Nishizawa, Ota, Sasai và nhiều người khác, đã không còn nữa.

CHƯƠNG XIV

Trong suốt tháng Sáu, chúng tôi chạm trán với một số lượng chiến đấu cơ và oanh tạc cơ đối phương đông đảo chưa từng thấy. Chúng tôi được nói rằng đối phương đang gầy dựng lại một sức mạnh không quân quan trọng trong khu vực, và rằng từ đây trở về sau chúng tôi phải dốc toàn lực cho những nhát chổi chiến đấu cơ của chúng tôi. Điều nầy có nghĩa là chúng tôi phải tận dụng tất cả chiến đấu cơ Zero hiện có trong tay. Đối phương đã thiết lâho thêm nhiều phi trường bên ngoài các cánh rừng trên khắp khu vực Moresby. Các cuộc oanh tạc của chúng tôi cũng gia tăng đều đặn về số lượng, và các chiến đấu cơ địch đối đầu với chúng tôi cũng có vẻ quyết tâm hơn. Vào ngày 17 tháng 6, 12 chiến đấu cơ Zero hộ tống 18 oanh tạc cơ Betty, bay đến dội bom hải cảng Moresby, đã đánh bật bảy chiến đấu cơ nghinh chiến của địch quân. Cuộc oanh tạc nầy đã gây cho khu vực bến tàu hư hại nặng và đánh chìm một chiếc tàu chở hàng 8.000 tấn đang buông neo trong cảng. Ngày hôm sau, 9 oanh tạc cơ và 9 chiến đấu cơ Zero khác không tập Kido, nằm gần vịnh Rescar, một căn cứ mới của địch quân ở phía Bắc Moresby. 10 chiến đấu cơ địch đụng độ với 18 phi cơ Nhật, chúng tôi hạ hai chiếc mà không bị tổn thất nào. Vào ngày 24 tháng Sáu, tôi trở về Lae sau khi nghỉ phép ở Rabaul , và cất cánh sáng hôm sau, nằm trong một lực lượng gồm 21 chiến đấu cơ tấn công Moresby. Tôi hạ được một trong số 11 chiến đấu cơ địch nghinh chiến. Sáng kế đó, Rabaul gởi 17 oanh tạc cơ trở lại Moresby với 11 chiến đấu cơ hộ tống. 12 chiến đấu cơ địch nghinh chiến và chúng tôi hạ hai chiếc. Đó là cuộc tấn công cuối cùng của tháng Sáu. Ngày hôm sau, mưa trút ồ ạt xuống khu vực New Guinea. Mưa không chỉ trói chân chúng tôi mà còn trói chân cả Đồng Minh. Mây che kín bầu trời hầu như suốt mỗi buổi trưa, và ban đêm cuồng phong quét trên khu vực thật dữ dội. Chúng tôi yên lòng nhắm mắt tới sáng.

Tháng Bảy thời tiết bỗng thay đổi bất ngờ. Ngày thì mưa giớ nhưng ban đêm bầu trời lại sáng. Oanh tạc cơ địch bay đến hầu như mỗi đêm và trút bom xuống không ngừng nghỉ. Chúng tôi bó tay. Ngay cho dù phi đạo đủ rộng, thích hợp cho các hoạt động đêm, khả năng dạ chiến của chiến đấu cơ Zero thật đáng nghi ngờ. Do đó, chúng tôi vẫn ở trên mặt đất, chui vô hầm trú ẩn và chửi rủa bọn Mỹ.

Bình minh ngày 2 tháng Bay, chúng tôi đối đầu với một cuộc oanh tạc qui mô. Tiếng còi báo động vang lên, đánh thức giấc ngủ về sáng của chúng tôi. chúng tôi mặc đồ bay và chạy ùa ra phi đạo. Nhưng không ai chạy tới phi cơ được vì tiếng động cơ máy bay địch đã gầm thét trên đầu. Các phi công hối hả chạy vô hầm trú ẩn gần nhất. Chúng tôi có thể nhìn thấy các oanh tạc cơ địch nổi bật trên nền trời đầy sao. Đó là loại Mitchell và Maurader bay không cao hơn 600 bộ. Sau khi thả hết bom, các oanh tạc cơ sà thấp trên ngọn cây bắn phá phi đạo và tất cả các cơ sở nằm trong tầm mắt. Đạn địch rãi trên phi đạo giống như mưa đá.Chổ tôi nấp không an toàn, tôi bỏ chạy vào các vị trí đặt súng. Tôi đẩy một xạ thủ ra khỏi súng và nói với hắn để tôi thay thế cho. Hắn đeo dính khẩu súng, và từ chối bỏ vị trí. Tôi không để mất thì giờ, tôi đạp hắn ra khỏi chổ ngồi. Hắn đứng dậy chửi rủa om sòm, nhưng một phi công khác đã chạy vô phía sau tôi nắm cổ xô hắn ra ngoài và lượm các băng đạn lên. Đợt xạ kích thứ hai của 6 chiếc Maurader đang lướt đến, tôi lên cò súng và ghìm súng chờ đợi. Một chiếc Maurader bay ngang trên đầu, tôi ria một tràng đạn từ mũi đến láu, nhưng không trúng. Chiếc oanh tạc cơ quành lại chúi ngay xuống vị trí đặt súng, xạ thủ trước mũi của nó đáp trả hoả lực của tôi. Đây là kinh nghiệm đầu tiên của tôi trên mặt đất vớu một chiếc phi cơ tiến thẳng đến trước mặt. Hình ảnh những trái bom xoáy xuống và nổ bùng trên vị trí đặt súng khiến tôi kinh hoảng. Tôi vụt bỏ chạy như giông như gió đến hầm trú ẩn xây bằng bao cát phía sau tôi. Một vài giây ngồi trong đó, tôi cảm thấy như một tên hèn nhát ngù ngờ và vô lý. Chiếc oanh tạc cơ gầm thét trên đầu, lướt qua nhưng không thả bom. Tôi tự rủa thầm và quay lại khẩu súng mà tôi vừa bỏ chạy. Dần dần tôi lấy lại bình tĩnh và quyết không làm thỏ đế nữa. Mấy chiếc oanh tạc cơ quày lại, tiếng vang như sấm động, cách mặt đất chỉ 150 bộ, với những họng súng rực lửa. Tôi rót lên một tràng đạn nhắm chiếc phi cơ bay sau. Một giòng khói túa ra, nhưng chiếc phi cơ nầy vẫn bay như thường và rồi biến mất vào chân trời. Ngày lên hẳn, sau một giờ dội bom và bắn phá các oanh tạc cơ địch ra đi an toàn. Không một chiếc nào bị hạ cho dù các khẩu cao xạ của chúng tôi bắn gần hết đạn. Bọn phi công chúng tôi mất tinh thần đến nỗi loạt bom cuối cùng vừa dứt mà không ai dám chạy ra phi cơ cất cánh truy đuổi, như chúng tôi thường làm trước đây. Hầu hết cơ sở của căn cứ đều bốc cháy. Phi đạo đầy dẫy mảnh vụn, phi cơ không thể cất cánh được dù có cố gắng cách mấy đi nữa. Một việc khó thể tin, nhưng có thật 20 chiến đấu cơ đậu bên cạnh phi đạo hầu như an toàn, chỉ bị đạn và mảnh bom khoét lổ. Chúng tôi tập trung vô bộ chỉ huy để nhận lịnh, trong lúc 200 binh sỹ dọn dẹp phi đạo. Thình lình nhiều liên lạc viên chạy vô Bộ Chỉ Huy cho biết một cuộc tấn công nữa sắp xảy ra. " Hơn 100 phi cơ địch đang bay tới căn cứ!" Một trăm phi cơ ! Một con số khó thể tin nỗi ! Chúng tôi chưa từng nghe nói đến một cuộc tấn công nào dữ dội như vậy. Các sỹ quan tham mưu có vẻ xao xuyến và ra lịnh cho mọi phi cơ cất cánh tức khắc. Chúng tôi chạy túa ra các chiến đấu cơ, rồ máy chạy ra phi đạo lúc ấy vừa mới dọn dẹp xong, rồi nằm trong vị thể sẵn sàng cất cánh. Sau đó, chúng tôi được báo cáo: "Một trăm chiến đấu cơ địch biến thành một trăm con ****.". Mọi người đều cười ồ. Chúng tôi ăn trưa quanh Bộ Chỉ Huy, vẫn trong tư thế sẵn sàng cất cánh. Lúc chúng tôi còn đang nhai, các liên lạc viên chạy vô cho biết Salamaua báo cáo có 6 oanh tạc cơ B.17 trên đường hướng đến căn cứ chúng tôi. Không ai phí một giây nào. Chúng tôi bỏ ăn, chạy như bay ra phi cơ. Đảo Salamaua chỉ cách Lae mấy phút bay. Các phi công khác đã cho phi cơ chạy ra phi đạo trong khi tôi vẫn nguyền rủa và loay hoay bên chiếc Zero bất động của tôi. Cố gắng cách mấy động cơ cũng không chạy.Tôi leo xuống phi cơ, vì các chiến đấu cơ khác đã ở trên không rồi. Tôi chạy băng ngang qua phi đạo hướng đến các hầm trú ẩn. Trung tá Nakajima đưa tay vẫy gọi tôi rối rít và tiếng rít của một trái bom, giống như một lưởi dao khổng lồ lướt xuống. Tôi bổ chúi vô hầm, càn trên lưng nhiều người nằm sẵn trong đó. Tức khắc, thế giới như nổ tung. Tôi cảm thấy một áp lực mạnh mẻ đến từ mọi phía đè nặng trên thân thể tôi, một áp lực khủng khiếp, rồi tất cả biến thành màu đen. Tôi không thấy, không nghe gì nữa, như tôi đã rời xa hẳn thế giới quanh tôi. Tôi cố cử động chân tay nhưng vô ích, tôi đã đông cứng. Có thể nhiều giây hoặc nhiều phút , tôi nghe tiếng gọi văng vẵng của trung tá Nakajima. Tôi cố để la. Tôi nghỉ rằng tôi la lớn lắm, nhưng lạ thay tôi không nghe tiếng của chính tôi. Mũi miệng tôi cứng đờ. Có một cái gì đè nặng trên ngực tôi. Tiếng nói của trung tá Nakajima lại văng vẳng: "Hắn bị chôn vùi ! Tìm kiếm đi! Đào lên mau!." Bị chôn ? Dĩ nhiên ! Tôi nằm dưới đá và cát. Tôi cố gắng mở mắt. Tối đen. Cơn sợ hãi ùa đến. Tiếng nói của trung tá Nakajima lần nầy lớn hơn: "Gặp cái gì đào cái nầy. Mau lên! Dùng cây cũng được! Cả tay và móng tay cũng dùng luôn, nếu các anh không tìm được vật gì để đào! Mau lên!". Rồi những âm thanh lao xạo vang lên, tiếng xẻng đảo trong cát. Tôi chờ, cố gắng không cựa quậy. Cuối cùng một bàn tay phẩy phẩy trên mặt tôi, rồi cát trên mũi tôi vẹt ra. Ánh sáng mặt trời bổng nhiên tràn ngập. Không phải một mình tôi mà ít ra cũng hàng chục người nữa bị chôn vùi lúc trái bom nổ. Nhưng không một ai bị thương. Bộ Chỉ Huy tan nát. Hầu hết số phi cơ còn đậu trên phi đạo trở thành những mảnh vụn, thùng chứa xăng của nhiều chiếc đang bốc cháy. Gần một giờ sau, các chiến đấu cơ đã cất cánh trở về căn cứ. Bọn phi công tiu nghĩu. Sáu pháo đài bay đều bay thoát. Chúng tôi phải bỏ ra hai ngày để sửa sang căn cứ sau cuộc tấn ngày 2 tháng Bảy. Và ngày 4, chúng tôi sẵn sàng mở trận phục thù trên phi trường Moresby. 21 chiến đấu cơ Zero gặp một ủy ban chào đón bao gồm 20 chiến đấu cơ địch trên không phận Moresby. Chúng tôi ra tay trong lúc chủ nhân vẫn còn chúi xuống. Chín chiến đấu cơ địch chánh thức bị hạ, và còn thêm ba chiếc nữa.

Trên đường trở về, còn cách Lae nhiều dặm tôi đã nghe mùi khói phản phất trong gió. Khi nhìn thấy căn cứ chúng tôi mới biết khói đó bốc lên từ các cơ sở nằm cạnh phi đạo đang bốc cháy. Những cột lửa dâng cao, toả khói đen trên khắp khu rừng và bãi biển. Trong lúc chúng tôi vắng mặt, nhiều oanh tạc cơ địch bau đến oanh tạc những kho chứa dầu. Khi chúng tôi còn đang lượn vòng để đáp xuống, bảy chiếc Maurader gầm thét trên cánh rừng phía dưới. Khi chúng tôi phát hiện, các oanh tạc cơ đã đến phi trường và những trái bom được thả xuống làm tung đất cát lên không. Lúc chúng tôi chúi xuống để truy đuổi địch, nhiều chiến đấu cơ Zero khác đã rời khỏi phi đạo, và chúng tôi bắt đầu một cuộc rượt đuổi 7 oanh tạc cơ địch như điên cuồng. Nhiều lần chúng tôi suýt đụng nhau trên không, chỉ tránh khỏi trong vòng gang tấc.

Một chiếc Zero khác vừa cất cánh từ Lae bay bứt ra khỏi nhóm chánh, vượt qua mặt các oanh tạc cơ địch và vung trở trong một vòng xoay 180o rồi đâm thẳng vào chiếc oanh tạc cơ dẫn đầu, có vẻ như muốn tự sát. Viên phi công không bắn một phát súng nào, chiếc phi cơ lướt đến như một cái bóng, với một tốc độ gần 600 dặm một giờ, rồi lách phía dưới chong chóng bên phải của chiếc Maurader, bay dọc theo thân và hơi nghiêng cánh một chút. Chiếc cánh như lưỡi dao cạo của chiến đấu cơ Zero tiện đứt lìa bánh lái của chiếc Maurader.

Chiếc Zero vẫn tiếp tục bay thẳng và lướt lên cao, có vẻ như không bị tổn hại, nhưng sau đó chiếc phi cơ bắt đầu một loạt lộn nhào chầm chậm, dần dần mất cao độ và chúi xuống biển hết tốc lực. Vài giây sau đó, chiếc B.26 mất bánh lái xiêng vẹo vàlộn nhào liên hồi, phơi bụng lên trên và chúi xuống nước với một tiếng nổ đinh tai nhức óc. Lập tức, sáu chiến đấu cơ xông tới rót đạn đại bác và đại liên như mưa vào thân cánh các oanh tạc cơ còn lại, chôn ngay một chiếc nữa xuống biển. Năm oanh tạc cơ khác chạy thoát. Chúng tôi lại đánh Moresby vào ngày 6 tháng Bảy, với 15 chiến đấu cơ hộ tống 21 oanh tạc cơ. Chúng tôi dứt điểm 3 chiến đấu cơ địch nữa. Từ ngày 7 đến ngày 10 tháng Bảy, tới phiên đối phương đánh chúng tôi. Ba đêm liên tiếp, chúng tôi co rút như lũ chuột trong các hầm trú ẩn. Lae trở thành một cơn ác mộng của tiếng bom rền hàng loạt từ đầu sân bay đến cuối sân bay, những bựng khói và lửa, của những căn nhà đổ vỡ, của hàng ngàn mảnh bom bay tua tủa. Chắc chắn, đối phương dự định nghiền nát Lae ra như cám. Tuy nhiên họ không bao giờ đạt được mục đích nầy, chúng tôi vẫn còn chiến đấu cơ khả dụng để bay.Ngày 11 tháng Bảy, chúng tôi vét hết lực lượng oanh tạc cơ để đánh Moresby một lần nữa. Mười hai chiến đấu cơ Zero hộ tống 21 oanh tạc cơ cất cánh từ Rabaul. Trên đường đi, đại úy Sasai phát hiện sáu chiếc B.17 trực chỉ đến phi trường của chúng tôi. Ông tách ra khỏi nhóm hộ tống cùng với năm chiến đấu cơ khác, trong đó có tôi, Nishizawa và Ota. Chúng tôi gây hư hại cho ba oanh tạc cơ, nhưng không hạ được chiếc nào. Trái lái, một chiếc Zero bị bắn cháy và các chiến đấu cơ khác kể cảtôi lảnh nhiều vết đạn. Với chỉ sáu chiến đấu cơ hộ tống, đội hình của các oanh tạc cơ của chúng tôi bị chiến đấu cơ địch phá rối lúc đến mục tiêu, vì vậy bom thả không chính xác, gây thiệt hại cho địch không bao nhiêu. Việc nầy khiến cho Sasai bị khiển trách nặng nề. Thật sự ông ta đã vi phạm qui luật căn bản của chiến đấu cơ hộ tống: không bao giờ rời bỏ sự bao che các oanh tạc cơ. Chúng tôi bước qua giai đoạn mới của cuộc hành quân chiến đấu cơ vào ngày 21 tháng Bảy, khi một sư đoàn bộ binh Nhựt đổ bộ Buna, cách phía Nam Lae 110 dặm. Bộ binh lập tức mở đường xuyên qua rừng già dầy bịt trên đảo để tiến đến hải cảng Moresby. Nhìn trên bản đồ, cuộc điều binh không mấy gì khó khăn. Buna giống như một hòn đá được quăng ra từ Moresby để nối liền eo biển giữa nó và bán đảo Papuan. Nhưng tình trạng các hòn đảo rừng rậm trên bản đồ hoàn toàn khác biệt với tình trạng nghiệt ngã phía dưới những tàn cây kín như bưng. Bộ Tư Lịnh Tối Cao Nhựt đã sai lầm khủng khiếp và chết người. Trước khi cuộc hành quân nầy chấm dứt, Nhật Bản phải chịu đựng một trong những tai họa bi đát và nhục nhã nhất.

Rặng núi Owen Stangley có lẻ còn cao hơn rặng núi đáng sợ Alps. Nếu chỉ mô tả rừng rậm dầy bịt trên sườn núi không thôi thì e quá dễ dãi. Dưới đời sống của cây cối còn nhiều sự tàn bạo không thể tưởng tượng nổi. Nếu không có những ao đầm, những bãi lầy dưới chân thì cũng phải là những tảng đá bén như dao cạo, những cái dốc thẳng đứng. Đó là không nói đến các loại sên vắt, khí hậu nóng bức đến nghẹt thở, và những chứng bệnh chết người không thể tìm ra nguyên nhân.

Vượt qua băng tuyết trên rặng Alps có lẻ còn dễ dàng hơn hơn vượt qua rừng rậm của dãy núi Owen Stangley. Đơn vị nào lọt ngay vô một bãi lầy thì kể như tiêu luôn. Khí hậu vừa nóng bức vừa ẩm thấp khiến cho các xây sát hoặc vết thương lở loét thêm. Mọi lổ chân lông nước tươm ra cho đến khô cạn. Đồ trang bị hư hại, quần áo rách tả tơi, đôi chân bị cắt nát bấy bởi đá, gai góc và lá cây sắc nhọn như dao.

Trong nhiều tháng ròng rã, lực lượng bộ binh của chúng tôi đã xung đột với một kẻ thù tồi tệ nhứt mà họ chưa từng đối diện bao giờ. Một kẻ thù không có súng ống, không đặt mìn bẩy, nhưng đã lần lượt nuốt trọn hàng ngàn binh sỹ Nhựt. Nhiều đơn vị cũng lập được chiến công siêu phàm, tìm đường lần mò đến gần mục tiêu chỉ định, pháo đài Moresby, trong vòng một dặm. Nhưng các đơn bị nầy đều bị tiêu diệt, đa số chết đói vì loay hoay trong rừng rậm không tìm được lối thoát. Cuộc tấn công trên bộ là một cựa quậy tuyệt vọng. Trước kia Bộ Tư Lịnh Tối Cao Nhựt đã sắp xếp một cuộc tấn công Moresby qui mô, cả hai mặt đường biển và đường bộ. Nhưng kế hoạch nầy đã bị bãi bỏ vào ngày 7 tháng Năm, khi hai hàng không mẫu hạm Nhựt đụng độ với hai hàng không mẫu hạm của địch trên biển San Hô. Đây là trận hải chiến đầu tiên mà tàu cả hai phía không bắn một phát súng nào. Mỗi lực lượng chỉ xử dụng phi cơ oanh tạc lẫn nhau. Chúng tôi thắng trận nầy, nhưng địch quân đạt được mục đích của họ: cuộc tấn công thủy bộ như dự tính đã bị bãi bỏ.

Với cuộc đổ bộ của bộ binh ở Buna, Tổng Hành Dinh Rabaul ra lịnh cho chúng tôi đình chỉ các cuộc tấn công Moresby, và tất cả các phi cơ quay sang không yểm cho cuộc đổ bộ. Cuộc đổ bộ Buna, mà sự thất bại đã nhìn thấy ngay khi nó được phát động, chỉ là một phần trong một cuộc hành quân rộng lớn hơn. Sự thất bại nầy không chỉ do rừng rậm gây ra, nhưng còn do sự thiếu hiểu biết về các vấn đề tiếp vận của giới lảnh đạo chúng tôi. Sự yếm kém nầy, phối hợp với những chuyển động vượt trội của đối phương, một thảm họa đã cầm chắc trong tay. Cùng lúc với cuộc đổ bộ ở Buna, một đơn vị xung kích đã nhảy lên mũi cực Đông của đảo New Guinea.Làm việc ngày đêm, đơn vị nầy thiết lập được một phi trường mới bên ngoài rừng rậm ở Rabi, với ý định đổ tiếp liệu cho binh sỹ di chuyển từ đầu cầu Buna xuyên qua New Guinea. Thật lạ lùng, địch quân không dội bom lúc công việc thiết lập phi trường nầy còn dở dang, nhưng họ ghi nhận đầy đủ bằng không ảnh do phi cơ thám thính chụp. Tuy nhiên, khi binh sỹ của chúng tôi vừa hoàn tất nhiệm vụ, lực lượng địch đánh úp bất ngờ, và vét tron đơn vị phòng giữ của chúng tôi. Đó là một cú đánh đẹp mắt, Nhật Bản thiết lập phi trường để cho phi cơ của Hoa Kỳ và Úc Đại Lợi xử dụng. Nhưng đối phương không hài lòng vớu phi trường của Nhựt có vẻ đơn sơ nầy. Công binh của họ thiết lập những phi đạo mới trong khu rừng với một tốc độ di chuyển đáng kinh ngạc. Oanh tạc cơ hạng trung và chiến đấu cơ của họ di chuyển trên các phi đạo mới nầy, ngay khi công việc còn đang dở dang. Và các cuộc không tập càng lúc càng gia tăng khối lượng phi cơ và bom. Không đêm nào mà không có những chiếc Mitchell và Marauder xuất hiện. Trong ngày, phi đoàn Lae phải cắt đặt thế nào để luôn luôn có 6 đến 9 chiến đấu cơ hoạt động trên không phận Buna đồng thời phải duy trì một lực lượng để bảo vệ phi trường. Nhiệm vụ bao che ở Buna quá sức chúng tôi, nhưng chúng tôi vẫn tìm cách ngăn chặn các cuộc không kích qui mô của đối phương nhằm tiêu diệt các đầu cầu đã được thiết lập. Ngày 22 tháng Bảy, trong một phi vụ bao che gồm sáu chiến đấu cơ Zero, tôi bắn hạ thêm hai phi địch, nâng tổng số nạn nhân của tôi lên 49.

Một vài tuần kế đó, chúng tôi vẫn giữ nhiệm vụ bao che khu vực bãi biển Buna, nhưng vào hạ tuần tháng Bảy chúng tôi phải đương đầu với một giai đoạn mới và xa lạ của cuộc chiến. Lịnh đưa xuống từ Bộ Tư Lịnh Tối Cao. Đại tá Saito chỉ thị mọi phi công phải mang dù trong khi chiến đấu. Tôi có một cảm giác kỳ lạ với cây dù phía sau lưng và những sợi dây buộc quanh thân. Tôi chưa bao giờ bay với tình trạng như vậy trước đây. Một lịnh khác đã làm chúng tôi ngơ ngác không khác gì lịnh mang dù. Đại tá Saito ban xuống, từ nay trở về sau không có chiến đấu cơ nào được vượt qua rặng núi Owen Stangley, và lịnh nầy không giải thích lý do. Chỉ có một dịp duy nhứt, vào ngày 26 tháng Bảy, đã khiến tôi thấy lại hải cảng Moresby. Chúng tôi nghinh chiến 5 oanh tạc cơ Maurader trên không phận Buna, tôi bắn hạ hai chiếc rồi cùng với Sasai và Endo truy đuổi những chiếc còn lại. Chúng tôi vượt qua bên kia rặng núi, trái với lịnh được đưa ra. Đó là lần cuối cùng chúng tôi bay trên căn cứ của địch quân. Tình thế chúng tôi thay đổi nhanh chóng. Vào cuối tuần lễ đầu tiên của tháng Tám, chúng tôi bắt đầu đối diện với những tình trạng mà chúng tôi chưa bao giờ biết đến trước đây. Người Mỹ đã phát động một cuộc đổ bộ qui mô lên đảo Guadalcanal. Ngày 29 tháng Bảy, đại úy Joji Yamashita trở về Lae, sau một phi vụ tuần thám ở Buna, với một tin tức gây xôn xao cả căn cứ. Lần đầu tiên các phi cơ của ông bị phi cơ của hải quân Hoa Kỳ tấn công. Đại úy Yamashita đã báo cáo với đại tá Saito và trung tá Nakajima rằng chín chiến đấu cơ Zero của ông đã chạm trán với một lực lượng hỗn hợp bao gồm các loại chiến đấu cơ Grumman F4F Wildcat và oanh tạc cơ SBD Dauntless của Hoa Kỳ, được hướng dẫn đến Buna bởi các chiến đấu cơ P39. Theo xét đoán của ông lực lượng nầy phát xuất từ Rabi. Đây là lần đầu tiên các phi cơ của hải quân Hoa Kỳ xuất hiện trong khu vực chiến đấu của chúng tôi. Tin tức về một hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ đã dy chuyển vô hải phận New Guinea là một điềm dữ, và các sỹ quan tham mưu của chúng tôi có vẻ xao xuyến. Nếu người Mỹ đưa được hàng không mẫu hạm vô hải phận nầy để phóng ra các cuộc tấn công vào Lae, Buna và Rabaul thì chiến thắng của họ ở Midway kể như có thật và đồng thời phủ nhận những mất mát quan trọng của họ trong trận đánh ở biển San Hô.Trước đó, Đông Kinh đã công bố rằng hạm đội của chúng tôi đã tiêu diệt hết hàng không mẫu hạm địch trong các cuộc đụng độ ở biển San Hô và Midway, nếu sự thật đúng như vậy, tại sao lại có một hàng không mẫu hạm trong vùng lân cận của chúng tôi? Chúng tôi bắt đầu nghi ngờ những công bố chiến thắng mà Đông Kinh luôn luôn lập đi lập lại. Tuy nhiên, đa số phi công chiến đấu ở Lae đã ghi nhận tin tức với một thái độ khác biệt hoàn toàn. Đêm đó, chúng tôi đã đặt nhiều câu hỏi với các phi công của đại úu Yamashita. Có bao nhiêu phi cơ của hải quân Mỹ? Loại chiến đấu cơ Wildcat có tốt hơn loại chiến đấu cơ P39 và P40 không? Các phi công hải quân Mỹ tài giỏi bậc nào? Những câu giải đáp của họ đã làm chúng tôi phấn khởi. Phi đội của Yamashita đã hạ 3 oanh tạc cơ Dauntless , 5 chiến đấu cơ Wildcat và 1 chiếc P39 mà không mất một chiếc Zero nào. Do đó những gì có thể xảy ra ở Midway, ở biển San Hô hoặc bất cứ nơi nào khác không còn quan trọng đối với chúng tôi nữa. Chúng tôi chỉ cần biết trong bốn tháng liên tiếp vừa qua chúng tôi luôn luôn chiến thắng, và các phi cơ của hải quân Hoa Kỳ xuất hiện chẳng qua là giúp cơ hội cho chúng tôi chiến thắng nữa.

Ba ngày liền các phi cơ mới của địch không thấy xuất hiện ở Buna. Vào ngày 30, chín oanh tạc cơ B.17 tấn công khu vực đầu cầu đổ bộ, và cuộc tấn công xem như đã đạt hiệu quả. Chín chiến đấu cơ của chúng tôi chỉ bắn rơi được 1 oanh tạc cơ địch. Tôi đã gặt hái được chiến thắng nầy khi tôi đụng đầu với chiếc oanh tạc cơ trên mũi Nelson vớt tất cả hoả lực tập trung vào mũi của nó. Chắc chắn viên phi công chính và phụ đều thiệt mạng, vì chiếc phi cơ khổng lồ đâm chúi xuống biển. Đó là một trong những trận đánh khó khăn nhứt của tôi, vì tôi trở về Lae với nhiều vết thương ở cánh tay phải do đạn địch gây ra. Tôi chỉ thoát chết chỉ trong đường tơ kẻ tóc, và các chuyên viên cơ khí phải làm việc suốt đêm để vá lại hàng chục lổ đạn ở thân và cánh chiếc phi cơ của tôi. Vào ngày 2 tháng Tám, hình ảnh của những chiếc phi cơ mới của hải quân Hoa Kỳ biến mất trong đầu óc của tôi. Khi ngày sắp hết, lúc bay quần trên Buna ở cao độ 12.000 bộ, chúng tôi phát hiện 5 chấm nhỏ li ti nổi bật trong mây, cách đầu cầu đổ bộ nhiều dặm. Hình như là những chiếc pháo đài bay và ở cùng một cao độ với chúng tôi. Tôi bay dọc theo phi cơ của Sasai và chỉ những oanh tạc cơ đang đến. Ông gật đầu và chúng tôi cùng báo hiệu cho các phi công khác. Chúng tôi vẫn giữ đội hình, bay vòng quanh chầm chậm cho đến khi tiếng máy của năm oanh tạc cơ nghe thấy rõ ràng. Ông giơ tay lên, lắc cánh phi cơ ra lệnh phá vỡ đội hình chữ V của chúng tôi và tấn công trực diện theo hàng dọc. Các bình xăng phụ của chúng tôi được quăng ra. Chín chiến đấu cơ Zero chống với năm oanh tạc cơ B.17 và hầu hết chín chúng tôi đều là những phi công hàng đầu của Nhật Bản về số điểm chiến thắng. Sasai cầm đầu cuộc tấn công. Ota bay cách 500 thước phía sau ông, tiếp theo là Endo. Tôi ở vị trí thứ tư, cũng cách 500 thước, với hai phi công bên cánh là Yonekawa và Hatori ở phía sau tôi, tức ở vị trí thứ năm và sáu. Nishizawa ở vị trí thứ bảy, kế đó là Takatsuka và cuối cùng là trung sỹ Yashio Sueyoshi. Chín chiến đấu cơ trái dài ra 400 thước và trên đó là những phi công tài giỏi nhứt Nhật Bản.

Các pháo đài bay khép chặt đội hình khi chúng tôi áp sát. Phi cơ Sasai hạ xuống phí dưới chiếc oanh tạc cơ dẫn đầu rồi vượt lên và từ từ lăn tròn để nhắm "dưới cằm" của phi cơ địch. Giây thứ hai sau khi ông khai hoả và vượt lên, vừa vượt vừa bắn. Từ các oanh tạc cơ, những dòng khói ria ra, nhưng đó là khói của các khẩu đại liên 50. Đội hình của địch vẫn không thay đổi. Thế rồi Ota lướt đến hàng động giống như Sasai. Tôi nhìn thấy những tia đạn từ phi cơ của hắn trúng vào chiếc oanh tạc cơ dẫn đầu, và hắn lướt thẳng lên. Một tiếng nổ dữ dội rung chuyển mọi phi cơ xung quanh và bầu trời như bao phủ trong làn khói. Chiếc oanh tạc cơ không còn nhìn thấy nữa. Nó biến mất, tan ra thành muôn ngàn mảnh vụn do bom chất đầy trong phi cơ phát nổ. Đó là một đòn sát thủ ngoạn mục nhứt trên không mà tôi được nhìn thấy ta trước đến nay. Tôi vui mừng khi nhìn thấy phi cơ của Ota vọt lên khỏi màn khói. Lúc đó Endo cũng nhập cuộc, nhưng vô hiệu vì bị hoả lực chéo dữ dội của các oanh tạc cơ ngăn chặn. Bây giờ tới phiên tôi. tôi kéo cần điều khiển nhè nhẹ về phía sau, chiếc pháo đài bay thứ ba lướt tới phía tôi chầm chậm. Gần hơn nữa và gần hơn nữa, tôi ấn cò súng. Không có tiếng nổ. Đồ ngu. Tôi quên mở khoá an toàn, một sai lầm mà ngay cả những phi công mới biết bay chập choạng cũng không để mắc phải. Tôi lộn nhào thật dữ dội để tránh chiếc B.17 đang lướt đến chỉ còn cách tôi có 20 thước.Tôi bị hoả lực chéo của các xạ thủ địch. Chiếc Zero lảo đảo khi những viên đạn chọc vô thân, và tôi cảm thấy bị xốc khi nghe tiếng đạn xoi vô chất kim khí. Hiện thời tôi bối rối hẳn, và chiếc phi cơ phơi bụng lên trên. Tôi gạt cần điều khiển thật mạnh sang trái, chiếc Zero lộn nhào thật dữ dội. Tôi lướt qua, nhưng không phải là không bị hư hại. Tôi chửi thề sự ngu dốt của mình, nhưng có chửi thì cũng đã quá muôn. Tôi hạ xuống phía dưới đội hình của đối phương, và vọt cấp tốc về phía các oanh tạc cơ để đánh nữa. Nishizawa đang quất một cú đẹp mắt, hắn vừa xoay tròn chầm chậm vừa vượt lên, lăn tròn một vòng như chớp khi khoảng cách giữa hắn và phi cơ địch thâu hẹp lại, rồi rót một loạt đại bác vô thùng xăng bên cánh của đối phương. Tức khắc, lửa túa ra, lan thật mau, và trong một vài giây chiếc pháo đài bay biến thành một cuộn lửa khổng lồ. Lửa hực hở theo chiều gió dọc theo thân chiếc phi cơ trôi tuồn tuột, rồi mũi cắm xuống đất. Lúc ấy Sasai đã quay trở lại chụp hoả lực lên chiếc một oanh tạc cơ từ mũi đến đuôi ở khoảng cách chỉ khoảng 150 thước. Thân chiếc phi cơ lãnh đạn lộn nhào về phải, mất kiểm soát. Tôi thấy lửa thò ra từ trong thân chiếc phi cơ, lan tới phòng lái và tháp súng thứ hai. Lửa dữ dội hơn trong vòng hai phút và một tiếng nổ đinh tai nhức óc vang lên, đánh dấu sự hủy diệt của chiếc B.17 thứ ba. Tôi vượt lên theo hình thắt nút dây, căng mắt dõi theo hai chiếc oanh tạc cơ cơ còn lại, chúng đàng rẽ về hai hướng khác nhau. Một chiếc đang hướng đến một mõm núi chởn chơ, một chiếc quay ra biển. Tôi đang theo hướng chiếc đang bay ra biển gần nhứt. Chiếc B.17 chao đảo liên hồi khi tôi cố chụp lên buồng lái và bên cánh của nó bằng những loạt đạn tầm dài. Có điều lạ là chiếc phi cơ không chịu buông sức nặng trong mình ra. Nó vẫn trốn chạy với những trái bom mang theo. Tôi chúi xuống để lấy đà rồi lại vượt lên từ phía dưới chiếc oanh tạc cơ và khép khoảng cách vào phía cánh trái của nó. Chiếc B.17 lớn hơn, lớn hơn nữa trong mắt tôi. Tôi vồ ngược lên, và đưa mắt nhìn những viên đạn chọc thủng cánh trái của nó. Thế giới như đổ sụp. Một màn ánh sáng gay gắt hừng hực tràn ngập bầu trời khiến tôi thấy tối tăm mặt mũi. Có một bàn tay không lồ tóm lấy chiếc Zero và lắc qua lắc lại thật dữ tợn. Tai tôi điếc câm và tôi nghe mùi máu ứa ra từ trong mũi ra. Pháo đài bay thứ tư đã ra đi vĩnh viễn. Mỗi chiếc đều bị hủy diệt với chính những trái bom mang bên trong. Hiện thời chỉ còn lại một chiếc đang chạy về phía dãy núi. Tám chiến đấu cơ Zero ùa theo, giương nanh múa vuốt như lũ chó săn bu quanh một con heo rừng. Tuy nhiên mấy chiếc Zero khó bắt kịp chiếc B.17, vì lẽ nó đã thả hết bom và gia tăng tốc lực. Hướng bay của nó cắt ngang qua mũi của tôi, tôi nhận thấy đó là một dịp may để ngăn chặn trước khi nó tiến sâu vô đất liền. Ngay khi gia tăng hết tốc lực lướt về phía trước, tôi phát hiện ba chiếc Airacobra ào xuống từ phía Đông và tiến sát vào tám chiến đấu cơ Zero đang truy địch. Ba chiếc P39 bắt đầu vượt lên, định chụp mấy chiếc Zero lơ đảng. Tôi xoay một vòng thật rộng, cũng với ý định chụp trước ba chiếc P39 "lơ đảng" nầy. Ngay khi chiếc P39 đầu tiên vừa đặt chiếc Zero bay cuối vào vòng ngắm thì tôi chúi xuống thật nhẹ nhàng. Chắc viên phi công địch sẽ không bao giờ biết được những gì đã xảy ra, ngay lập tức một loạt đạn đại bác và đại liên của tôi đã nghiền nát thân phi cơ địch ra từng mảnh, một cái cánh bay ngang qua thân chiếc Zero của tôi. Tiếng súng tôi đã báo động cho tám chiến đấu cơ Zero và lập tức hai chiếc Zero xoay thân và chúi xuống theo hình trôn ốc và rớt ngay xuống hai chiếc P.39 kia, diễn tiến chỉ trong vòng một giây. Tôi ghi nhận đó là hai viên phi công vô địch Nishizawa và Ota. Mỗi người chỉ thổi một quả đại bác, và hai chiếc Airacobra biến thành cây đuốc rớt xuống. Nhưng nhiệm vụ trên không vẫn chưa chấm dứt chiếc oanh tạc cơ còn sống sót đã bỏ đất liên để quay ra biển. Tốc lực của nó có vẻ sút giảm, và với máy móc đã hư hỏng, việc chiếc oanh tạc cơ nầy bị chúng tôi kéo xuống đất chỉ là vấn đề của thời gian. Trở về Lae, khi chúng tôi cho các chuyên viên cơ khí biết đã tiêu diệt được 5 pháo đài bay, họ nhảy nhót vui mừng. Năm pháo đài bay và ba Airacobra, một ngày làm ăn khá khiển

mình mở thêm 1 trang nữa vì thấy bên kia dài quá rồi mỗi lần vào post thêm nó load lên lâu quá. anh em vào đây xem tiếp nhé

CHƯƠNG XV

Ngày 3 tháng Tám, Rabaul gọi về hầu hết những phi công được chỉ định đến Lae trước đây. Việc thuyên chuyển nầy khiến chúng tôi hân hoan, vì nó hứa hẹn thoát khỏi các phi vụ tuần tiểu Buan và thoát khỏi cảnh bị oanh tạc hàng đêm. Chúng tôi không mang theo vật gì cả, vì tin rằng sớm sẽ trở về. Chúng tôi sai lầm, bốn ngày đầu tiên ở Rabaul, chúng tôi phải thực hiện những phi vụ càn quét ở Rabi. Màn lưới chiến đấu cơ đã được đối phương thiết lập nhanh chóng trên hòn đảo nầy, có thể so sánh với căn cứ Moresby.

Ngày 8 tháng Tám, sau khi nhận lịnh tuần thám của Bộ Chỉ Huy, chúng tôi bước ngang qua phi đạo để tiến đến các chiến đấu cơ của chúng tôi. Lúc hầu hết 18 phi công đều ngồi trong phòng lái, nhiều liên lạc viên chạy ra la lớn rằng phi vụ bị bãi bỏ. Chúng tôi lập tức trở lại trình diện Bộ Chỉ Huy. Nơi đây đang lên cơn sốt. Liên lạc viên và nhần viên đưa tin chạy tới chạy lui. Các sỹ quan lướt qua chúng tôi với vẻ mặt đầy khẩn trương. Trung tá Nakajima, cầm đầu phi vụ hôm nay, bước ra khỏi văn phòng của Đô Đốc, nói lớn với chúng tôi với vẻ tức tốc: "Phi vụ bị bãi bỏ. Chúng ta sẽ đi nơi khác.". Ông chỉ một nhân viên đưa tin: "Anh, lấy cho tôi một bản đồ coi, mau lên!".

Ông trãi bản đồn trên một cái bàn rộng và bắt đầu vạch một đường thẳng với một chiếc Compa. Ông cúi gầm trên bản đồ, không mảy mau lưu ý đến bọn phi công chúng tôi. Tôi hỏi đại úy Sasai xem ông có biết việc gì xảy ra không. Sasai hỏi Nakajima và chỉ nhận mấy câu càu nhàu, rồi vị chỉ huy trưởng không đoàn ba chân bốn cẳng vô văn phòng của Đô Đốc. Vài phút sau ông trở ra, và ra dấu cho các phi công tụ họp quanh ông. Những tiếng nói của ông không khác nào một trái bom: "Vào lúc 5 giờ 20 phút sáng nay, một lực lượng địch vô cùng mạnh mẽ bắt đầu đổ bộ lên Lunga, ở cuối bãi phía Nam của đảo Guadalcanal. Theo các báo cáo sơ khởi của chúng ta, người Mỹ đã ném lên hòn đảo nầy một khối lượng người và trang bị khủng khiếp. Cùng lúc, họ cũng mở ra các cuộc tấn công ở Tulagi, trên đảo Florida. Tất cả thủy phi cơ của chúng ta tiêu không còn một chiếc. Khi vị tư lịnh thảo xong kế hoạch, chúng ta sẽ cất cánh lập tức hướng đến Guadalcanal để tấn công các lực lượng địch trên bãi biển."

Liên lạc viên phát bản đồ cho mỗi phi công. Chúng tôi xem xét và nghiên cứu hòn đảo còn xa lạ đó đối với chúng tôi, nhưng bỗng nhiên trở thành quan trọng nầy. Nhiều người bàn tán: "Ở đâu lại hiện ra hòn đảo trời đánh nầy?". Một phi công nổi nóng la lên: "Ai đã từng nghe đến tên của một nơi chó chết như vậy chưa?".

Chúng tôi tính khoảng cách từ Rabaul đến Guadalcanal. Không tin nổi. Xa đến 560 dặm. Chúng tôi sẽ phải bay đi tấn công các đầu cầu đổ bộ của địch quân và trở về với khoảng cách đó. Khoảng cách chưa từng nghe nói đến. Điều nầy nghĩa là đường bay khứ hồi dài hơn 1.100 dặm, đó là không kể trường hợp gặp bão hoặc đụng độ giữa đường.

Như vậy cũng đủ để mọi suy luận ngưng lại. Chúng tôi lặng yên để nghe vị chỉ huy trưởng đưa ra lịnh mới. Vừa lúc ấy một liên lạc viên chạy ùa vô văn phòng Đô đốc với những báo cáo mới đưa về từ mặt trận. Chúng tôi nghe một binh sỹ đưa tin nói với Nakajima rằng tất cả liên lạc với Tulagi đều bị cắt đứt, và quân phòng ngự ở đó đã hy sinh đến người cuối cùng.

Nghe tin, mặt Sasai tái đi. Tôi phải hỏi năm lần bảy lượt xem có phải ông ta đau ốm hay không. Cuối cùng nhìn đăm đăm về phía trước, ông nói thì thầm: " Anh rể tôi chiến đấu ở Tulagi." Nếu Tulagi bị địch quân chiếm đóng, anh rể của ông ta, thiếu tá Yoshiro Tashiro không thể nào sống sót được. Ông ta sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. (Cái chết của ông ta được xác nhận sau đó).

Nakajima ban lịnh: " Các anh sắp thực hiện một phi vụ chiến đấu dài nhất trong lịch sử," ông thông báo cho chúng tôi. " Đừng dựa vào dịp may vu vơ nào ở hiện tại. Hãy hành động đúng theo lịnh đã đưa ra và quan trọng nhứt, đừng bay một cách liều mạng và phí phạm xăng nhớt của các anh. Phi công nào hết xăng trên đường từ Guadalcanal trở về, kẻ đó phải đáp xuống đảo Buka. Lực lượng Nhựt trên đảo nầy đã được chỉ thị phải theo dõi các phi cơ của chúng ta.

"Hiện tại, để bay đến Guadalcanal và trở về Buka có nghĩa là chúng ta sẽ thực hiện một không trình khứ hồi dài bằng không trình từ Tainan đến phi trường Clark ở Philippine trước đây. Tôi chắc chắn chúng ta có thể bay suốt khoảng cách mới nầy mà không gặp rắc rối. Nhưng biết đâu chuyện bất ngờ, do đó tôi lặp lại lời cảnh báo: " Đừng phí phạm nhiên liệu."

( Tại Đông Kinh sau chiến tranh, trung tá Nakajima có nói với tôi rằng Đô Đốc muốn ông đưa hết chiến đấu cơ khả dụng ở Rabaul đến Guadalcanal vào ngày 7 tháng Tám. Nakajima phản đối, ông cho rằng chỉ nên mang theo mười hai phi công tài ba nhứt bên cánh của ông mà thôi. Bởi lẻ ông phỏng đoán phải mất ít nhứt phân nữa số người của ông trong nhiệm vụ quá xa như vậy. Hai người thảo luận dằn co cho đến khi đạt được sự đồng ý với con số 18 chiến đấu cơ .)

Ngay khi nhận lịnh các phi công chia ra làm từng tổ ba người. Tôi nói với Yonekawa và Hatori, hai phi công bên cánh của tôi: "Các bạn sẽ gặp bọn phi công hải quân Hoa Kỳ lần đầu tiên trong ngày hôm nay. Bọn họ sẽ nắm hẳn ưu thế do khoảng cách mà chúng ta phải bay. Hai bạn phải luôn luôn cẩn trọng trong mọi chuyển động của mình. Tốt hơn hết là các bạn đừng bao giờ rời xa khỏi tôi. những gì xảy ra, những diễn biến xung quanh chúng ta không thành vấn đề, cứ bám chặt lấy phi cơ của tôi được chừng nào hay chừng nấy. Hãy nhớ, đừng có bay xa ra."

Chúng tôi chạy ra phi cơ và chờ phi đạo trống trãi. Hai mươi bảy oanh tạc cơ Betty cất cánh trước chúng tôi. Trung tá Nakajima đứng trên phòng lái của ông vẫy tay. Lúc 8 giờ 30 sáng, tất cả chiến đấu cơ đều ở trên không. Nhân viên bảo trì và các phi công ở lại xếp hàng hai bên phi đạo vẫy nón chào và chúc chúng tôi may mắn. Thời tiết đẹp, nhứt là ở Rabaul. Ngay cả núi lửa cũng im tiếng. Nó ngưng phun phún thạch từ tháng Bảy, và chỉ còn nhả ra một giòng khói mỏng lã ngọn về phía Tây.

Chúng tôi giữ các vị trí hộ tống phía sau nhóm oanh tạc cơ. Tôi đã ngạc nhiên khi biết được mấy chiếc Betty nầy mang bom thay vì thủy lôi, vũ khí thông thường để tấn công tàu chiến. Điều nầy khiến tôi lo lắng. Tôi biết rõ vấn đề tấn công các mục tiêu di chuyển trên mặt biển từ cao độ. Hồi ở Buna, mặc dù các oanh tạc cơ B.17 địch có tiếng là oanh tạc chính xác, nhưng chúng đã phía hầu hết số lượng bom thả xuống các tàu chiến của chúng tôi.

Chúng tôi gia tăng cao độ lên 13.000 bộ rồi bay về phía Đông đến đảo Buka. Đây là hòn đảo xinh đẹp đặt biệt, cách Rabaul khoảng 60 dặm. Màu xanh tươi sáng, và giống như hình móng ngựa, hòn đảo san hô nầy có cái tên ghi trên bản đồ là Đảo Xanh. Tôi không bao giờ nghĩ rằng quang cảnh đầy màu sắc và hấp dẫn phía dưới sẽ cứu mạng tôi sau nầy.

Trên không phận Buka, các đội hình của chúng tôi xoay hướng về Nam, dọc theo bờ biển phía Tây Bougainville. Mặt trời chiếu xuyên qua mây. Sự oi bức khiến tôi khát nước, và đây cũng là hiện tượng mà chúng tôi thỉnh thoãng cảm thấy khi tiến vô đất địch. Tôi lấy một chai soda trong hộp thức ăn và, không suy nghĩ, tôi mở nút. Tôi quên khuấy độ cao. Ngay khi nút chai vừa bật, nước soda vọt lên dữ dội, áp lực thoát ra trong không khí hiếm hoi. Trong nhiều giây, nước soda bao phủ hết mọi thứ trước mắt tôi. Chất đường trong nước khô lại trên kiếng đeo mắt khiến tôi không nhìn thấy gì cả. Tôi chửi thề cho sự ngu đần của mình. Mất hết 40 phút tôi mới lau sạch hết mọi thứ. Chưa bao giờ tôi cảm thấy buồn cười hơn. Lúc tôi có thể nhìn mọi hướng, chúng tôi đang lướt trên đảo Vella Lavella, nằm giữa đường Rabaul và Guadalcanal.

Bay ngang New Georgia, chúng tôi gia tăng độ cao và lướt qua Russell ở 20.000 bộ. Cách năm mươi dặm trước mặt chúng tôi, Guadalcanal hiện ra lờ mờ trên mặt nước. Ngay cả ở khoảng cách xa nầy, chúng tôi cũng nhìn thấy ánh lửa mà vàng hực nổ bật trên nền trời xanh trên hòn đảo đang tranh chấp. Hiển nhiên các trận đụng độ đã xảy ra giữa những chiến đấu cơ đến từ các căn cứ khác hơn Rabaul và phi cơ bao che của địch quân. Tôi nhìn xuống bờ biển phía Bắc Guadalcanal. Trong eo biển nằm giữa Guadalcanal và Florida, hàng mấy trăm vệt màu trắng chạy ngang dọc trên mặt nước, tàu chiến của địch quân. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nhiều chiến hạm và chuyển vận hạm một lần như thế nầy.

Đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến một cuộc hành quân thủy không hỗn hợp của Hoa Kỳ. Một cuộc hành quân không thể nào tin nổi. Có ít nhứt 70 chiến hạm tiến vào các bãi biển, hàng chục khu trục hạm chạy quanh quẩn bên ngoài, và nhiều chiến hạm ẩn hiện dưới chân trời, khoảng cách quá xa khó có thể phân biệt hoặc đếm được.

Lúc ấy các oanh tạc cơ chầm chậm vung rộng để thả bom. Ngay phía trên các phi cơ nầy là những đám mây nhỏ treo lơ lững ở cao độ 13.000 bộ. Phía bên phải và ở trên mặt trời sáng chói loà, xoá nhoà mọi thứ trước mắt. Tôi cảm thấy bất an, vì chúng tôi không thể nào nhìn thấy được chiến đấu cơ nhào xuống từ góc đó. Điều lo sợ của tôi đã sớm thành sự thật. Không một dấu hiệu nào báo trước, sáu chiến đấu cơ địch thình lình nhô ra khỏi ánh sáng loé mắt. Chỉ cần liếc qua, tôi nhận ngay những phi cơ nầy to lớn hơn mọi loại chiến đấu cơ Mỹ mà chúng tôi thường đụng độ. Tất cả đều sơn màu ô liu, chỉ phía dưới cánh là sơn màu trắng. Đó là loại chiến đấu cơ Wildcat, Grumman F4F lần đầu tiên tôi nhìn thấy.

Mấy chiếc Wildcat, không biết có sự hiện diện của các chiến đấu cơ Zero, chúi xuống tấn công các oanh tạc cơ. Nhiều chiến đấu cơ của chúng tôi xông tới, và một số khai hoả ngoài tầm hy vọng xua đuổi phi cơ địch. Sau chiếc Wildcat cùng lộn nhào và chúi xuống biến mất. Phía trên mặt nước cạnh đảo Savo, các oanh tạc cơ bắt đầu thả bom xuống nhóm chuyển vận to lớn của địch quân. Tôi nhìn theo hướng bom rớt. Những cuộn nước dâng cao khỏi mặt biển, nhưng chiến hạm địch vẫn lướt tới, không hề rối loạn.

Hiển nhiên, cố gắng thả bom cho trúng các chiến hạm đang chạy từ độ cao bốn dặm, là một việc làm ngu dại. Tôi không thể nào hiểu được tại sao không xử dụng loại thủy lôi đã từng chứng tỏ sự hữu hiệu trong quá khứ.

(Ngày hôm sau các oanh tạc cơ quày lại, lần nầy mang theo thủy lôi để tấn công ở cao độ thấp. Nhưng bấy giờ thì đã trễ rồi. Nhiều chiến đấu cơ địch bu quanh các oanh tạc cơ đông như kiến, và nhiều chiếc bị nhận đầu xuống biển trước khi tiến đến được mục tiêu.).

Sau khi trút hết bom, các oanh tạc cơ lãng qua trái và gia tăng tốc lực để trở về Rabaul. Chúng tôi hộ tống qua khỏi Russell, bên ngoài tầm hoạt động của chiến đấu cơ địch, và quày lại Guadalcanal. Lúc ấy khoảng 1 giờ 30 chiều. Chúng tôi lướt qua Lunga, tất cả 18 chiến đấu cơ Zero đều chuẩn bị lâm trận. Một lần nữa, trong ánh mặt trời mù loà, mấy chiếc Wildcat nhào xuống nhóm phi cơ của chúng tôi. Tôi là phi công duy nhứt phát hiện cuộc tấn công và lập tức, tôi chĩa mũi chiếc phi cơ của tôi thẳng đứng lên với những chiếc khác tiếp theo sau. Mấy chiếc Wildcat lại phân tán vào chúi xuống nhiều hướng khác nhau. Chiến thuật lẩn tránh của đối phương không có vẻ rối loạn, vì lối lẩn tránh nầy chỉ là để lẩn tránh mà thôi. Hiển nhiên phi công Mỹ không có ý định quyết chiến hôm nay.

Tôi quay lại để kiểm soát các phi cơ bên cánh cỉa tôi. Nhưng, nhìn khắp nới, tôi vẫn không thấy Yonekawa và Hatori ở đâu. Phi cơ của Sasai, với hai sọc xanh kẻ dọc theo thân, trở lại đội hình với nhiều chiến đấu cơ khác bay thành hàng phía sau ông. Nhưng vẫn không có hai phi cơ bên cánh của tôi.

Cuối cùng, tôi nhìn thấy họ bay khoảng 1.500 bộ phía dưới tôi. Tôi há hốc miệng. Một chiếc Wildcat đơn độc truy đuổi ba chiến đấu cơ Zero đang cuốn cuồng lẩn trốn.

Tôi lắc cánh để báo hiệu cho Sasai và chúi xuống. Chiếc Wildcat đang bám sát, rót đạn vô cánh và đuôi của một chiếc Zero. Trong lúc khẩn cấp, tôi bắn vội một viên đại bác. Lập tức chiếc Wildcat lảng ra bằng cách lộn nhào một vòng về phía phải, quành thật ngặt rồi vượt thẳng lên phi cơ của tôi. Chưa bao giờ tôi được nhìn thấy một chiếc phi cơ địch nào bay mau lẹ và đẹp mắt như vậy. Mỗi giây các họng súng của nó mỗi chỉa vô sát bụng của tôi hơn. Tôi lăn thật nhanh để tránh né. Chiếc Zero rùng mình khi tôi hạ tốc độ xuống. Vồ trật viên phi công địch lộn ngược trở lại. Tôi tăng tốc độ, lộn nhào về bên trái. Ba lần lộn nhào, tôi cho chiếc Zero xoay tít để rớt xuống tạo một vòng xoay hình trôn ốc. Chúng tôi vẫn giữ hai chiếc phi cơ xoay theo hình trôn ốc. Tim tôi đập liên hồi và đầu tôi như có sức mạnh ngàn cân đè lên. Mắt tôi nổ đom đóm. Tôi cắn chặt răng chịu đựng. Nếu kẻ nào bỏ cuộc đầu tiên, lảng ra một hướng để giải toả áp lực, kẻ ấy sẽ đi đời.

Trên vòng xoay thứ năm, chiếc Wildcat hơi lơi ra. Tôi sẵn sàng, nhưng đối thủ chúi mũi xuống, gia tăng tốc lực và, một lần nữa, viên phi công địch nắm vững cần lái. Đáng nể !

Tuy nhiên, hắn đã tạo ra sai lầm ngay phút kế đó. Thay vì tiếp tục vung trở lại vòng xoay thứ sáu, hắn nhấn thêm tốc lực, phá vỡ một góc vòng xoay và lộn nhào theo hình thắt nút dây. Tôi chỉa mũi ngay phía sau, cắt ngang đường bay của hắn. Và tôi cứ cắt như vậy nhiều lần, khiến cho hình thắt núy dây của hắn càng lúc càng thâu hẹp lại. Khi hai phi cơ còn cách nhau 50 thước, chiếc Wildcat bỏ lối bay cũ để vượt thẳng lên. Tôi kinh ngạc khi nhìn thấy lối tránh né nầy. Ở khoảng cách hiện thời, tôi không cần xử dụng đại bác 20 ly. Tôi rót 200 viên đạn đại liên vô phòng lái, nhìn thấy đạn xoi thủng lớp kim khí mỏng và phá tan kiếng chắn gió của chiếc Wildcat.

Tôi không thể tin nỗi vào đôi mắt của mình. Chiếc Wildcat vẫn tiếp tục bay như không có việc gì xảy ra. Nếu phòng lái bị lãnh đạn như vậy, một chiếc Zero sẽ bốc cháy lập tức. Tôi không sao hiểu nổi. Tôi gia tăng tốc lực, tiếp tục áp sát đối thủ, vừa đúng lúc chiến đấu cơ địch mất tốc lực. Trong một thoáng, tôi đã ở phía trước chiếc Wildcat mười thước. Tôi đưa lưng, chuẩn bị lãnh đạn của đối phương.

Không một viên đạn nào bay đến! Các khẩu súng của chiếc Wildcat vẫn im lặng. Tôi hạ tốc độ cho đến khi hai phi cơ bay song song. Tôi mở cửa buồng lái để nhìn. Tôi có thể nhìn thấy viên phi công địch rõ ràng. Một người khổng lồ với gương mặt bầu bĩnh, mặt quân phục ka ki nhạt, có vẻ đứng tuổi.

Chúng tôi bay song song nhiều giây trong đội hình kỳ quái của chúng tôi. Đôi mắt chúng tôi gặp nhau qua khoảng không gian nhỏ hẹp giữa hai chiếc phi cơ. Chiếc Wildcat như một đống sắt vụn. Nhiều lổ đạn soi thủng ở thân và cánh từ bên nầy suốt qua bên kia. Bánh lái chiếc phi cơ te tua, những miếng kim khí chỉa ra giống như một bộ xương. Tôi có thể hiểu tại sao viên phi công không khai hoả: máu đẩm ướt đôi vai và chảy thành nhiều vệt xuống ngực hắn. Vậy mà phi cơ của hắn vẫn còn bay không thể tin nổi.

Nhưng tôi không thể hạ sát một người bất động, mang đầy thương tích, trong một chiếc phi cơ chỉ còn là một đống sắt vụn. Tôi giơ nắm tay trái lên lắc lắc la lớn, biểu hắn hảy đánh nhau thay vì bay giống như một con bồ câu đất, mặc dù tôi biết chuyện đó khó thể xảy ra. Viên phi công Mỹ nhìn tôi có vẻ hoảng sợ, hắn giơ tay phải lên vẩy vẩy một cách yếu ớt.

Tôi chưa bao giờ có cảm giác kì dị như thế nầy. Tôi đã giết nhiều người Mỹ trên không, nhưng đây là lần đầu tiên, trước một đối thủ kiệt lực mang đầy thương tích, tôi lại ngần ngừ. Tôi không biết có nên dứt điểm hắn hay không. Nhưng ý nghĩ của tôi rõ ràng là ngù ngờ. Bị thương hay không, hắn cũng là kẻ thù, một kẻ thù vừa hạ ba đồng bạn của tôi vài phút trước đây. Tuy nhiên, thật sự tôi muốn hạ chiếc phi cơ hơn là hạ viên phi công.

Tôi lùi lại và lướt đến sau đuôi chiếc Wildcat. Viên phi công cố thu hết năng lực cuối cùng để đưa chiếc phi cơ của hắn lướt lên. Tôi nhắm đầu máy và ấn cò đại bác. Một tiếng nổ bùng với lửa và khói túa ra. Chiếc phi cơ lộn nhào và viên phi công nhảy dù ra ngoài. Phía dưới tôi, gần đúng trên bãi biển Guadalcanal, chiếc dù bung ra. Cuối cùng, tôi thấy viên phi công đáp xuống bãi biển.

Ba chiến đấu cơ Zero khác đã trở về kết hợp bên cánh của tôi. Chúng tôi vượt lên và quay trở lại hòn đảo để kiếm phi cơ địch nữa. Đạn cao xạ bắt đầu nổ quanh chúng tôi. Chỉ vài giờ sau khi đổ bộ, các giàn cao xạ hạng nặng của địch quân đã được thiết lập trên bãi biển. Tôi biết rằng những lực lượng Nhật phải mất ít nhất ba ngày sau khi đổ bộ mới thiết dựng được các vị trí phòng không. Tốc độ di chuyển chiến cụ lên bờ của người Mỹ nhanh chóng đến mức kinh ngạc.

Tôi trở lại cao độ 7.000 bộ với ba chiến đấu cơ phía sau. Chúng tôi bay xuyên qua những đám mây, lần đầu tiên trong suốt mấy năm chiến đấu, tôi bị một phi cơ địch vồ mà không hay biết. Tôi cảm nghe một tiếng phụp thật mạnh và một lổ hỏng nữa phân xuất hiện trên kiếng chắn gió bên trái của tôi. Lổ hỏng chỉ cách tôi vài phân.

Tôi vẫn không nhìn thấy chiếc phi cơ nào khác trên không. Có lẻ viên đạn từ mặt đất bắn lên. Sau đó, tôi mới nhìn thấy loáng thoáng một chiếc oanh tạc cơ địch, không phải một chiến đấu cơ, đang lủi vô mây. Sự liều lĩnh của viên phi công địch đáng sợ. Với một chiếc oanh tạc cơ chậm chạp, hắn dám giỡn mặt với ba chiến đấu cơ Zero của chúng tôi.

Chớp mắt, tôi đã ở phía sau đuôi hắn. Chiếc Dauntless nhô lên hụp xuống nhiều lần rồi thình lình chui vô một đám mây. Đâu thể để mất con mồi dễ dàng như vậy, tôi đeo dính hắn. Khoảng một vài giây, tôi chỉ thấy một màu trắng xoá khi chúng tôi lướt xuyên qua một đám mây dày đặc. Kế đó, chúng tôi bay ra khoảng trống, tôi tiến sát như chớp và khai hoả. Tên xạ thủ phía sau đuôi chiếc oanh tạc cơ ngã chúi trên khẩu súng của hắn. Một loạt đại bác nữa rót vô đầu máy. Chiếc Dauntless lộn về phía trái mấy vòng, rồi chúi xuống dữ dội. Yonekawa thấy viên phi công nhảy dù ra. Đó là sát thủ thứ sáu mươi của tôi.

Trở lên 13.000 bộ, tôi tìm kiếm những phi cơ khác của chúng tôi nhưng không thấy. Một vài phút sau, bay trên bờ biển Guadalcanal, tôi phát hiện một nhóm phi cơ bay cách phía trước mặt nhiều dặm. Tôi báo hiệu cho hai phi cơ bên cánh và lướt đến. Không lâu, tôi đếm rõ tám phi cơ địch tất cả, bay làm hai nhóm. Tôi ra dấu đánh nhóm bên phải nhường nhóm bên trái cho ba chiếc Zero theo sau tôi. Đối thủ bay trong một đội hình rất chặt chẽ, hình như là chiến đấu cơ Wildcat. Tôi có thể lướt từ dưới lên đánh tập hậu, và có thể hạ hai chiếc trong loạt khai hoả đầu tiên. Tôi tiến sát được chừng nào hay chừng nấy. Khoảng cách còn 200 thước, rồi 100 - 70 - 60 thước.

Tôi đã lọt vô bẩy! Phi cơ địch không phải chiến đấu cơ mà là oanh tạc cơ. Loại Avenger trang bị thủy lôi, loại oanh tạc cơ mà tôi chưa từng thấy trước đây. Từ phía sau, Avenger trong giống như chiến đấu cơ Wildcat, nhưng khi lại gần mới thấy kích thước đồ sộ của nó với hai tháp súng trên lưng và dưới bụng đều trạng bị đại liên 50.

Hèn chi chúng bay theo một đội hình chặt chẽ như vậy. Mấy chiếc Avenger đang đợi tôi, và bây giờ tôi bị chụp ở cả hai bên phải và trái với 16 khẩu đại liên một lúc. Tôi gia tăng tốc lực khẩn cấp. Tôi không thể giảm tốc lực để quay lưng. Nếu tôi bỏ chạy hoặc lộn nhào tôi sẽ lãnh đạn vô chiếc bụng phơi trần tức khắc. Chỉ còn một cách để chọn, cứ lướt đến và khai hoả tất cả vũ khí trong tay. Tôi ấn nút hoả lực, hầu như cùng một lúc với tất cả súng của địch quân. Tiếng đại bác và đại liên lấn át mọi tiếng động khác. Khi hai oanh tạc cơ bốc cháy, đối phương chỉ cách trước mặt tôi hai mươi thước. Đó là tất cả những gì mà tôi nhìn thấy. Một tiếng nổ dữ dội như chà nát thân thể tôi. Tôi cảm thấy hai lỗ tai như bị muôn ngàn lưỡi dao đâm thủng. Thế giới bừng lên trong lửa đỏ và đôi mắt tôi như mù hẳn.

(Ba phi công bay theo tôi về báo cáo vớu chỉ huy trưởng không đoàn rằng họ đã nhìn thấy hai chiếc Avenger rớt xuống cùng với chiếc phi cơ của tôi. Họ còn cho biết thêm, hai phi cơ địch kéo hai vệt lửa và khói thật dài. Đó là nạn nhân chánh thức thứ 61 và 62 của tôi. Nhưng một báo cáo chánh thức của người Mỹ phủ nhận sự mất mát các oanh tạc cơ Avenger cất cánh từ ba hàng không mẫu hạm hoạt động ở phía Tây Nam Guadalcanal. Có lẻ hai phi cơ đã trở về tàu được. Khi chiếc Zero của tôi chúi xuống, với tôi hôn mê bất tĩnh trong buồng lái, cả ba chiếc Zero cùng chúi với tôi. Họ đã bỏ dỡ cuộc săn tìm khi tôi biến mất trong một đám mấy sà thấp.)

Trong nhiều giây trôi qua tôi mới hồi tĩnh. Một luồng gió lạnh và mát mẽ quất vào tôi, xuyên qua tấm kính chắn gió đã vỡ nát. Nhưng tôi vẫn còn mất cảm giác. Mọi vật đều mờ mờ ảo ảo. Đầu tôi ngã hẳn về phía sau, ngoẻo trên tựa đầu. Tôi cố nhìn, nhưng mọi vật chập chờn nhảy múa trước mắt tôi. Phòng lái hình như đã mở ra, kiếng bể nát hết, gió du tôi vào cơn mê nửa tĩnh. Tôi không cảm thấy gì khác hơn là một sự chìm đắm êm ã dịu dàng. Tôi muốn ngũ. Tôi cố gắng và biết rằng tôi đã bị bắn trúng, rằng tôi đang hấp hối, nhưng tôi không hề cảm thấy sợ hãi. Nếu chết là như thế nầy, không đau đớn, thì có gì đáng lo.

Tôi đang ở trong một thế giới đầy mộng mị. Một sự ngây ngất tràn đầy trong trí não tôi. Ảo ảnh bơi lội phía trước tôi. Với sự ngạc nhiên, tôi nhìn thấy khuôn mặt má tôi rõ rệt. Bà kêu lên: "Xấu hổ chưa! Xấu hổ chưa! Thức dậy đi, Saburo, thức dậy đi! Con làm như đàn bà con gái không bằng. Con đâu phải là một tên hèn nhát! Thức dậy đi!".

Dần dần tôi cảm biết những gì đang xảy ra. Chiếc Zero lao về phía Đông giống như một hòn đá. Tôi cố mở mắt ra và nhìn quanh, thấy màu sáng chói, hực hở của lửa. Tôi nghĩ rằng chiếc phi cơ đang bốc cháy. Nhưng tôi không nghe một mùi khói. Tôi vẫn choáng váng.

Tôi nháy mắt nhiều lần. Sao lại như vậy? Mọi vật đều màu đỏ hết ! Tôi đưa tay sờ soạng. Cần lái! Tôi nắm lấy nó. Vẫn không thấy gì hết. Tôi kéo cần lái lại phía sau. Nhẹ nhàng. Chiếc phi cơ bắt đầu gượng lại từ sức chúi xuống, lấy lại thăng bằng và vượt lên. Áp lực của gió giảm bớt, không còn quật mạnh vô mặt tôi nữa. Một ý nghĩa đầy kinh hãi bao trùm lấy tôi. Tôi có thể bị mù! Tôi không bao giờ có cơ hội trở về Rabaul!

Tôi hành động theo linh tính. Tôi đưa tay tráu về phía trước để nắm lấy cần gia tăng tốc độ. Tay tôi bất động. Tôi cố co mấy ngón tay lại. Không có một cảm giác nào cả. Đúng là nó đã liệt hẳn. Tôi nhấn hai chân lên bàn đạp bẻ lái. Chỉ có chân mặt của tôi còn chuyển động, và chiếc Zero lạng qua một bên khi bàn đạp bị ấn xuống. Chân trái của tôi tê liệt. Tôi nghiến răng cố gắng cử động lại một lần nữa. Vô ích.

Cả thân bên trái của tôi hình như đã bị tê liệt. Trong nhiều phút tôi cố cử động chân và tay trái, nhưng không thể nào cử động được. Tôi không nghe đau đớn. Thật khó hiểu.

Đôi má tôi ướt đẫm. Tôi đang khóc. Hai hàng lệ chảy xuống. Khối nặng trĩu trong lòng mắt tôi bắt đầu trôi đi. Nước mắt đã lau sạch máu đọng trong mắt tôi.

Tai vẫn còn điếc câm, nhưng mắt có thể nhìn thấy chỉ một chút ít, nhưng màu đỏ đã tan loãng dần. Ánh sáng mặt trời chiếu rọi trong phòng lái cho phép tôi nhìn thấy lờ mờ những dụng cụ bằng kim khí. Dần dần tôi nhìn thấy những dụng cụ hình tròn, nhưng không thể nhìn thấy chi tiết. Tôi xoay đầu và nhìn ra ngoài buồng lái. Những khối màu đen vĩ đại lướt qua dưới cánh phi cơ với tốc độ kinh khiếp.

Những khối màu đen chắc chắn là chiến hạm địch. Điều nầy có nghĩa là tôi chỉ cách mặt nước khoảng 300 bộ. Thế rồi tai tôi vang lên những âm thanh. Thoạt đầu là tiếng máy phi cơ kế đến đó là tiếng súng. Các chiến hạm đang khai hoả vào tôi. Chiếc Zero đong đưa trong những làn sóng chớp loé của đạn cao xạ bùng nổ. Lạ lùng thay, tôi không hề đưa ra một phản ứng nào cả. Tôi bất động, không tìm cách né tránh. Tiếng súng rơi lại phía sau. Tôi không còn nhìn thấy những khối màu đen trên mặt nước nữa. Tôi đã vượt qua khỏi tầm súng. Nhiều phút trôi qua, tôi vẫn ngồi bất động trong phòng lái với muôn ngàn ý nghĩ lẫn lộn. Tôi lại muốn thiếp ngủ. Trong cơn ngầy ngật, tôi cũng biết rằng tôi không thể nào bay trở về Rabaul, và ngay cả Buka gần hơn Rabaul 300 dặm. Một thoáng ý nghĩ đâm thẳng xuống biển với hết tốc lực đã lôi cuốn tôi, như là một cách giải quyết nổi tuyệt vọng trong tôi.

Trở nên ngu muội. Tôi cố mở mắt ra. Tôi nguyền rủa mình: Chết như vậy không phải! Nếu phải chết, tôi nghĩ, tôi phải chết cho ra hồn. Tôi đâu phải là một tay mơ chưa từng biết chiến đấu là gì? Tư tưởng của tôi chợt ẩn chợt hiện, nhưng tôi biết rằng bao lâu mà tôi kiểm soát chiếc phi cơ, bao lâu mà tôi còn có thể bay, tôi sẽ làm mọi cách để lôi theo một hai kẻ thù trước khi chết.

Chiến đấu cơ địch ở đâu? Tôi chửi rủa và la hét: Đến đây? Tôi đây! Đến đánh với tôi!.

Trãi qua nhiều phút, tôi thịnh nộ như một tên điên trong phòng lái. Dần dần tôi bình tĩnh trở lại và ý thức hành động đáng buồn cười của mình... tôi bắt đầu nghĩ đến những may mắn vô song đã khiến tôi sống sót cho đến bây giờ. Tôi đã gặp nhiều hiểm nguy trước đây, nhưng chưa lần nào hiểm nguy hơn lần nầy. Những viên đạn chỉ cách đầu tôi mấy phân, và gây cho tôi nhiều vết sướt, nhưng không trầm trọng mấy. Tôi có may mắn, tại sao tôi quăng nó đi? Và bỗng nhiên tooi muốn sống, tôi muốn trở về Rabaul.

Việc có ý thức đầu tiên của tôi là xem xét các thương tích. Tay trái tôi vẫn tê liệt, tôi đưa tay mặt lên rờ đầu một cách e dè như sợ những gì sẽ tìm thấy. Mấy ngón tay trên nón phi công, cảm thấy nhớp nháp. Tôi biết đó là máu. Rồi tôi gặp một lổ hủng trên nón, tôi thọc nhè nhẹ một ngón tay vô. Để coi bao lâu? Có vật cưng cứng chạm vô ngón tay tôi. Tôi sợ hãi để chấp nhận sự thật. Ngón tay tôi lọt hẳn vô bên trong chiếc nón. Vật cứng đó không gì khác hơn là xương sọ của tôi do đạn phá ra. Có lẻ là nó bể. Ý nghỉ nầy làm tôi lặng người. Viên đạn có thể chui vô trong óc, nhưng chắc chắn không sâu. Tôi nhớ lại những gì đã từng học hỏi về thương tích trong lúc chiến đấu. Tôi không cảm thấy đau đớn, nhưng có lẻ vết thương đã làm tê liệt phần thân thể bên trái của tôi. Những ý nghĩ nầy đến chầm chậm. Có bao giờ bạn ngồi trong phòng lái chiếc phi cơ hư hại, nửa phần đui mù, nửa phần tê liệt, thọt mấy ngón tay qua lổ hủng trên đầu của bạn và tìm hiểu sự việc xảy ra chưa? Tôi ý thức những gì đã xảy ra, tôi cảm thấy chất máu nhớp nháp và lổ hủng trên đầu của tôi, nhưng sự nghiêm trọng thật sự của vết thương không bao giờ xâm nhập vào tư tưởng của tôi lúc ấy. Tôi biết tôi bị thương, chỉ có vậy thôi.

Tôi lại di chuyển mấy ngón tay trên mặt tôi. nó sưng phù lên, nhiều vết sướt, và cũng có máu.

Chiếc Zero tiếp tục bay đều. Đầu óc tôi dần dần sáng suốt thêm. Cử động cỉa tôi chính xác hơn. Tôi hít một hơi thở thật mạnh. Không có mùi dầu, như vậy là cả máy lẫn thùng xăng không bị trúng đạn. Sự ý thức nầy là nỗi vui mừng lớn nhất trong đời chiến đấu của tôi. với thùng xăng còn nguyên vẹn và máy móc không hư hại, chiếc phi cơ có thể nuốt hết khoảng không trình còn lại. Gió luồng vô chổ hủng trên sọ vẫn còn rĩ máu. Tôi có thể bất tĩnh trở lại vì mất máu.

Bỗng nhiên nỗi đau đớn bao trùm lấy tôi. Mắt phải của tôi. Nó bắt đầu mờ dần khi cơn đau gia tăng kịch liệt. Tôi đưa tay dụi mắt. Cơn đau đến lúc không chịu đựng nỗi. Tôi lại dụi mắt. Tôi mù rồi!

Tất cả phi công Nhựt đều mang theo trong túi bốn mảnh băng vải hình tam giác. Tôi lôi ra một mảnh và phun nước miếng lên đó. Miệng tôi khô khốc và cảm thấy khát nước kinh khủng.

Tôi đưa mảnh băng lên miệng để nhai cho đến khi một góc của nó trở thành ẩm ướt. Chồm về phía trước để tránh gió, tôi lau mắt với góc băng ướt. Có hiệu quả, tôi nhìn thấy chút ít.

Một vài giây sau, khi tôi ngồi ngay ngắn trở lại, đầu tôi đau dữ dội, như có một chiếc búa gõ lên sọ. Tôi đắp ngay mảnh băng vô lổ hủng trên đầu, nhưng khi tôi vừa lấy tay ra, gió thổi mảnh băng bay mất ra ngoài cửa kiếng bể.

Thất vọng tột cùng! Làm cách nào tôi có thể cột mảnh băng quanh đầu? Tôi phải cầm máu lại. Tay trái tôi tê liệt, tôi chỉ có thể xử dụng tay mặt để giữ mảnh băng, nhưng tay nầy phải giữ cần điều khiển và các dụng cụ khác.

Tôi kéo mảnh băng thứ hai để đắp, nó lại bay mất khi tôi vừa lấy tay ra. Mảnh thứ ba và bốn cũng vậy. Tôi có thể làm gì đây? Tôi hầu như rối loạn. Cơn đau gia tăng dữ dội hơn.

Tôi còn một chiếc khăn quàng bằng lụa quấn quanh cổ. Tôi tháo ra và đè một chéo dưới đùi mặt để gió khỏi cuốn đi. Sau đó tôi rút con dao bỏ túi dùng răng kéo lưỡi dao ra. Tôi cắn chặt một chéo của khăn quàng và cắt một đoạn, nhưng bị gió cuốn bay mất lập tức. Tôi không biết làm sao. Tuyệt vọng. Tôi cuống cuồng tìm giải pháp. Chỉ còn một đoạn khăn quàng.

Tôi khom người về phía trước để tránh gió, và bắt đầu nhét đoạn khăn vô bên trong chiếc nón phi công ngay chổ vết thương. Thành công, tôi ngồi thẳng dậy và đưa chiếc phi cơ vượt lên. Cơn đau dịu xuống nhanh chóng. Máu ngưng chảy. Nhưng cơn buồn ngủ lại ùa đến, tôi xô đuổi cách mấy cũng không được. Hơn một lần tôi chợp mắt, càm gục xuống ngực. Tôi lắc lắc đầu, hy vọng cơn đau sẽ làm tôi tĩnh táo. Chiếc phi cơ đâm đầu xuống mấy lần. Cơn buồn ngủ vẫn không xua đuổi được khiến tôi nỗi giận. Tôi đưa tay tát vào má thật mạnh nhiều lần. Tôi không thể tiếp tục lối nầy mãi được. Tôi sớm cảm chất máu mằn mặn. Má tôi sưng phù thêm, không khác nào ngậm một trái banh trong miệng. Nhưng không có cách nào khác hơn, tôi tiếp tục tát vào má nữa. Có lẻ thức ăn sẽ thắng cơn buồn ngủ. Tôi lôi hộp thức ăn ra và nhét bánh mặn đầy miệng. Tôi lại cảm thấy buồn ngũ hơn bao giờ hết. Tôi nhét thêm thức ăn vô miệng nữa, nhai thật kỹ trước khi nuốt.

Lát sau, tôi nôn mửa dữ dội chiếc phi cơ mất kiểm soát khi tôi vặn vẹo thân thể trong cơn nôn mửa. Thức ăn tung toé đầy trên chân tôi và trên tấm bửng dụng cụ. Ngay cả sự khổ sở mới nầy vẫn không xua đuổi nổi cơn buồn ngủ của tôi. Tôi lại tát má liên hồi cho đến khi không còn cảm giác nào nữa. Trong lúc tuyệt vọng, tôi đưa tay đập lên đầu, nhưng cũng vô ích. Tôi muốn ngủ! Ồ! Hãy cứ ngủ, quên mọi chuyện.

Chiếc phi cơ chao qua chao lại, bay xiếng xẹo. Tôi cố giữ cần lái một mực, không biết rằng nhiều khi tay tôi rớt xuống bên trái hoặc bên phải khiến cho phi cơ xoay vòng dữ dội. Tôi sẵn sàng bỏ cuộc. Tôi biết không thể giữ mãi tình trạng nầy mãi mãi. Nhưng tôi nguyện với lòng sẽ không chết như một tên hèn nhát, bằng cách chúi xuống biển hoặc ít ra tôi cũng chết như một Samurai. Cái chết của tôi sẽ mang theo nhiều kẻ thù.

Một chiến hạm. Tôi cần một chiến hạm địch. Thoát ra khỏi cơn tuyệt vọng tràn ngập, tôi quay chiếc Zero hướng về Guadalcanal. Nhiều phút sau đó tôi tĩnh táo. Không còn buồn ngủ nữa. Không còn đau đớn nữa. Tôi có thể hiểu biết hành động của mình. Tại sao lại chết bây giờ, nếu tôi có thể bay đến Buka hoặc ngay cả Rabaul? Tôi lại quay hướng chiếc Zero và bay về phía Bắc. Một vài phút sau đó tôi lại muốn thiếp ngũ. Trí óc tôi u mê. Thế giới quanh tôi mù mịt. Tôi lại quày phi cơ, hướng về Guadalcanal. Quày đi quày lại năm lần như vậy. Tôi bắt đầu la khan nhiều lần. "Hãy tĩnh". Dần dần cơn buồn ngủ biết mất. Tôi nhắm hướng Rabaul. Nhưng hiển nhiên cứ bay về phía Bắc thì không thể bảo đảm bao giờ tôi về tới căn cứ nhà. Tôi không định nổi vị trí. Tôi chỉ biết nhắm hướng Rabaul một cách tổng quát. Tôi biết tôi ở phía Bắc Guadalcanal, nhưng không biết khoảng cách bao xa. Tôi nhìn xuống biển, nhưng không tìm ra một hòn đảo nào trong chuổi đảo trãi dài đến Rabaul. Chỉ chân mặt của tôi còn đạp lái được, như vậy chiếc phi cơ có thể xoay về phía Đông của quần đảo Salomon.

Tôi rút tấm hải đồ dưới ghế ngồi. Nó vấy đầy máu. Tôi nhìn hồi lâu, chà tấm hải đồ lên quần để tẩy mấy vết máu, nhưng vô ích. Tôi cố định vị trí bằng cách nhìn mặt trời nhưng vô ích. Tôi cố định vị trí bằng cách nhìn mặt trời, nhưng cả ba mươi phút trôi qua vẫn không có một hòn đảo nào xuất hiện. Có cái gì không ổn ? Tôi hiện ở đâu? Bầu trời trong sáng hoàn toàn, và đại dương trải dài vô tận.

Một hòn đảo! Cuối cùng, một hòn đảo, ngay trước mặt tôi. Nó ở mãi phía chân trời, nỗi lờ mờ trên mặt nước. Phấn khởi, tôi cười khan. Bây giờ, mọi việc yên rồi, tôi có thể định vị trí và chắc chắn tôi đang hướng về Rabaul. Tôi bay và tiếp tục bay, bồn chồn dõi mắt tìm kiếm bờ biển.

Hòn đảo biến mất. Nó đâu rồi? Tôi không nằm mơ chớ? "Hòn đảo" đã trôi qua bên phải tôi, đó là một đám mây sà thấp.

Tôi cố gắng xem lại la bàn. Tôi không thể nào đọc được những con số. Tôi cúi mọp về phía trước, mũi hầu như chạm vô mặt kiếng la bàn. Cuối cùng tôi đọc được. Tôi đang bay ở hướng 330 độ. Gần hai tiếng đồng hồ tôi không nhìn thấy hòn đảo nào cũng phải. Chiếc Zero đang tiến ra trung tâm Thái Bình Dương.

Soát lại hải đồ, tôi biết vị trí của tôi cách phía Đông Bắc quần đảo Solomon 60 dặm. Chỉ phỏng đoán, nhưng đó là điều tốt nhất mà tôi có thể làm. Tôi xoay chiếc phi cơ về phía trái 90o và hướng đến một nơi mà tôi hy vọng là hòn đảo New Ireland, nằm phía Đông Bắc New Britain và Rabaul.

Những lượn sóng buồn ngủ lại phủ chụp lấy tôi. Nhiều lần làm tôi hoảng hốt giữ thăng bằng khi chiếc phi cơ đảo cánh hoặc lộn ngược. Tôi bay chập choạng. Xuyên qua bầu trời, lâu lâu cúi về phía trước xem la bàn, điều chỉnh hướng bay cho đến khi tôi chắc chắn phi cơ đang tiến đến New Ireland.

Nhưng bổng nhiên cơn đau trên đầu gia tăng khiến tôi không còn buồn ngủ nữa. Rồi thình lình tôi tĩnh táo hẳn. Không một dấu hiệu báo trước, chiếc phi cơ tắt máy. Tôi biết bình xăng chánh đã cạn.

Tôi còn một bình xăng phụ, nhưng phải mất một thời gian ngắn để chuyển qua. Tôi nhanh chóng và chính xác khi mở nút chuyển tiếp xăng. Thông thường, công việc nầy tôi xử dụng tay trái và không có gì khó khăn. Nhưng hiện thời tay trái tôi đã liệt hẳn. Tôi phải xử dụng tay mặt, nhưng với qua phía bên kia phòng lái không tới.

Chiếc Zero rớt xuống biển chầm chậm và êm ái. Tôi cố gắng hết sức cuối cùng mở được.

Xăng không chảy qua ống, vì ống quá lâu nên đã thoát hết không khí. Tôi vội vã xử dụng bom tay, dự trù cho trường hợp bất ngờ. Hiệu quả tức khắc. Với một tiếng rồ nhẹ, máy chạy trở lại và chiếc Zero lướt về phía trước. Không phí một giây nào, tôi trở lên cao độ 1.500 thước.

Phi cơ bay chầm chậm. Tôi chỉ còn trong tau không đầy hai giờ để tiến đến hòn đảo do Nhật Bản chiếm đóng. Không đầy hai giờ, tôi sống hoặc chết.

Một giờ trôi qua. Trước mắt tôi chỉ là biển cả bao la và bầu trời xanh thẳm. Thình lình tôi thấy một vật gì nổi trên mặt nước. Một hòn đảo! Lần nầy không lầm nữa, không phải là một đám mây trước mắt tôi. Nhứt định là một hòn đảo. Hòn đảo Xanh, hòn đảo san hô có hình chiếc móng ngựa mà tôi đã để ý trên đường bay đến Guadalcanal. Tôi soát lại bản đồ. Hy vọng tràn trề trong tôi... Tôi chỉ cách Rabaul 60 dặm.

Sáu chục dặm. Thông thường chỉ là một cái nhảy ngắn. Nhưng tình trạng hiện thời đầy bất thường. Tôi chưa từng lâm và tình trạng tồi tệ hơn. Tôi chỉ còn đủ nhiên liệu để bay trong vòng 40 phút. Chiếc Zero lại bị hư hại trầm trọng, ảnh hưởng rất nhiều đến tốc lực. Tôi bị thương nặng, tê liệt một phần thân thể, mắt bên mặt mù hẳn và mắt trái nhìn thấy không rõ lắm. Tôi đã kiệt sức, và tôi phải tận dụng hết năng lực để giữ chiếc phi cơ thăng bằng.

Một hòn đảo khác, ngay trước mắt tôi. Đây là đảo New Ireland, và phía xa xa là rặng núi cao 2.400 bộ. Vượt qua phía bên kia rặng núi đó, tôi có thể về tới Rabaul.

Tôi đã đâu mặt với với hàng loạt chướng ngại vật phía trước khi có thể tiến vô căn cứ nhà. Những đám mây dầy đặc tụ quanh các đỉnh núi, và một cơn mưa bão thật dữ dội trút xuống. Dường như khó có thể vượt qua nổi. Kiệt quệ cả tinh thần lẫn thể xác, nữa đui nữa sáng, và trong một chiến đấu cơ hư hại trầm trọng, làm sao tôi có thể vượt qua một cơn mưa bão, nguy hiểm tột cùng ngay cả dưới những tình trạng bình thương?

Tôi không thể bay vòng. Kim đồng hồ chỉ mực xăng của tôi càng lúc càng hạ thấp. Tôi chỉ còn vài mươi phút trên không. Tôi bậm môi và quay về hướng Nam. Chiếc phi cơ bay chầm chậm xuống eo biển George nằm giữa Rabaul và New Ireland. Hai vệt trắng xoá lướt trên mặt nước phía dưới cánh tôi. Tôi thấy hai chiến hạm Nhựt, có vẻ là hai tuần dương hạm hạng nặng, đang xả hết tốc lực chạy về hướng Nam, tức hướng Guadalcanal.

Tôi hầu như ứa nước mắt khi nhìn thấy hai chiến hạm. Tôi muốn chúi phi cơ xuống biển, một trong hai tuần dương hạm có thể cứu tôi. Hy vọng tràn ngập trong tôi. Rabaul lúc ấy hình như cách xa hàng triệu cây số. Tôi quần mấy lần trên hai chiến hạm, sẵn sàng đáp xuống mặt nước.

Tôi không thể thực hiện ý định của mình. Hai tuần dương hạm đang trên đường đến Guadalcanal để chiến đấu. Nếu chúng ngừng lại để vớt tôi lên, việc nầy không chắc lắm, nhiệm vụ thúc bách của chúng sẽ trì trệ. Không thể nào đáp được.

( Nhiều tuần lể sau nầy tôi mới biết được đó là hai tuần dương hạm Aoba và Kinugasa, mỗi chiếc 9.000 tấn đang hướng đến Guadalcanal với tốc lực hơn 33 hải lý một giờ. Cùng với nhiều chiến hạm khác, Aoba và Kinugasa tấn công đoàn cong-voa của Đồng Minh ở Luga, đánh chìm bốn tuần dương hạm cùng gây hư hại cho một tuần dương hạm và hai khu trục hạm khác của địch quân).

Một lần nữa, tôi quay về hướng Rabaul. Đồng hồ chỉ mực độ xăng cho thấy chỉ còn hai mươi phút bay nữa mà thôi. Tuy nhiên nếu không tiến về Rabaul được, tôi có thể đáp trên bãi biển. Thế rồi hòn núi lửa quen thuộc hiện ra ở chân trời. Đã đến nơi rồi, Rabaul đã nằm trong tầm mắt.

Tôi phải đáp xuống. Việc nầy thật khó khăn vô cùng, với một nửa thân thể hoàn toàn tê liệt của tôi. Tôi cố đảo quanh phi trường, không quyết định, không biết làm gì. Tôi không biết rằng tôi đã bị báo cáo mất tích, tôi cũng không biết rằng tất cả các phi cơ khác đã đáp xuống hai giờ trước đó, ngoại trừ hai chiếc bị hạ ở Guadalcanal. Sau nầy đại úy Sasai nói với tôi ông không tin hai mắt của mình khi nhận ra chiếc Zero của tôi xuyên qua ống dòm. Ông la tên tôi thật lớn, và tất cả các phi công khác túa ra khắp nơi trên phi đạo. Tất cả những gì tôi nhìn thấy được là phi đạo nhỏ hẹp phía dưới.

Tôi quyết định đáp xuống mặt nước cạnh bờ biển. Chiếc Zero xuống chầm chậm. Tám trăm bộ, bảy, bốn rồi một trăm bộ, tôi chỉ còn cách mặt nước năm mươi bộ. Tôi lại thay đổi ý kiến. Hình ảnh chiếc phi cơ vỡ tan trong biể và chiếc đầu bị thương của tôi đập về phía trước, là hình ảnh đáng sợ đối với tôi. Tôi cảm khó có thể sống sót được.

Tôi vượt lên và quay lại phi đạo ở cao độ 1.500 bộ. Lần nầy hoặc là tôi đáp xuống hoặc là không bao giờ nữa. Chiếc Zero hạ chầm chậm khi tôi đẩy cần điều khiển về phía trước. Tôi hạ bánh xa. Tốc lực chiếc phi cơ giảm xuống. Tôi nhìn những dãy chiến đấu cơ xếp dài hai bên phi đạo đang xô chạy về phía tôi. Tôi phải tránh đụng chạm các phi cơ đó. Tôi vượt trở lên, vì nhận thấy tôi đã xuống lệch quá xa về phía trái.

Sau khi quần lần thứ tư trên phi trường, tôi cố đáp xuống một lần nữa. Dù cho xăng còn rất ít trong bình, chiếc phi cơ vẫn có thể nổ nếu nó đụng chạm. Hàng dừa trồng ở đầu phi trường lờ mờ trước mắt tôi. Tôi lướt phía trên và cố điều chỉnh độ cao của tôi bằng những ngọn dừa nầy. Bây giờ ... tôi đã ở trên phi đạo. Có một cái xốc thật mạnh khi bánh xe của chiếc phi cơ chạm mặt đất. Tôi kéo ngược cần điều khiển và ghì chặt với tất cả sức mạnh để giữ cho chiếc phi cơ khỏi chạy xiêng vẹo. Chiếc Zero lăn bánh và ngừng lại gần Bộ Chỉ Huy. Tôi cố mỉm cười, một làn sóng thẩm đen phủ chụp lên tôi.

Tôi cảm thấy như bị rớt và chìm xuống đáy của một cái hố sâu vô tận. Mọi vật hình như đều xoay tít dữ dội. Tôi nghe những tiếng thét gọi tên tôi vang lên xa xa. "Sakai! Sakai" Tôi rủa thầm. Tại sao họ không giữ im lặng? Tôi muốn thiếp ngủ.

Màu đen biến mất. Tôi mở mắt ra nhìn thấy nhiều khuôn mặt bao quanh tôi. Tôi đang nằm mơ, hay tôi đã thật sự trở về Rabaul? Tôi không biết. Mọi thứ đều không thật. Tất cả đều là mộng mị. Tôi chắc vậy. Những gì tôi thấy không thể là sự thật. Mọi thứ đều tan thành những lượn sóng màu đen thẫm và những tiếng la lớn.

Tôi cố gượng dậy. Tôi bám vào cạnh cửa buồng lái phi cơ và đứng lên. Đó là "Rabaul". Cuối cùng, không phải là mộng mị. Thế rồi tôi ngả quỵ xuống hẳn.

Những cánh tay mạnh mẽ nhấc bổng tôi ra khỏi phi cơ.

CHƯƠNG XVI

Tôi hồi tĩnh, ngước nhìn bầu trời. Thân thể tôi hình như đong đưa. Tôi xoay lại, nhận ra Sasai và Nakajima. Hai sỹ quan đã leo lên cánh phi cơ và đang khiêng tôi xuống.

Tiếng nói lớn của Nishizawa vang lên trong những tiếng thì thầm của đám đông tụ họp. "Kêu một chiếc xe, mau lên!" hắn nạt nộ mấy tên chạy việc. "Mau lên! đến phòng hành quân, gọi điện cho y sỹ trưởng. Mau lên, mấy thằng chó đẻ nầy!".

Tôi chưa thể vô bịnh viện ngay được. Tôi phải phúc trình với đại tá Saito trước khi làm bất cứ cái gì khác. Chúng tôi phải luôn luôn trình diện Bộ Chỉ Huy sau công tác. Những chi tiết báo cáo hoạt động trong ngày xoay chuyển trong đầu óc của tôi.

Tôi giơ tay mặt lên, ra dấu cho Sasai và Nakajima đặt tôi xuống. Tôi thì thào: " Tôi phải báo cáo. Để tôi đi đến Bộ Chỉ Huy." Nakajima nạt tôi: "Cần mẹ gì, việc đó thủng thẳng cũng được. Chúng tôi sẽ nói là đưa anh vô bịnh viện."

Tôi khăng khăng và la lớn rằng tôi phải viết báo cáo. Nishizawa bước đến, và với Ota một bên, cả hai dìu tôi vô Bộ Chỉ Huy. Nishizawa càu nhàu luôn miệng.

Tôi nhớ lại, tôi đã đứng một cách khó khăn trước mặt đại tá Saito, với đôi mắt của ông đang nhìn tôi bán tín bán nghi. Tôi suy nghĩ để nói, nhưng mọi vật bắt đầu nhuộm màu đen trở lại. Bỗng nhiên tôi muốn đi ngủ. Phải ngủ ! Tôi đang làm gì ở đây? Rồi tất cả chỉ là một màu đen thẫm.

Nishizawa và Ota lôi tôi ra xe (họ kể lại sau đó) đang đậu ở bên ngoài Bộ Chỉ Huy. Nishizawa nhảy lên xe lái như giông như gió đến bịnh viện. Sasai và Ota ngồi vịn tôi ở băng sau.

Vị y sỹ trưởng đang chờ tôi trong phòng cấp cứu. Ông cắt bộ quân phục đã te tua của tôi ra và bắt đầu may ngay các vết thương của tôi. Qua giấc ngủ, tôi cảm thấy đau đớn từng chập mỗi khi vết dao cắt vào da đầu của tôi. (Ông đã cất hai viên đạn đại liên 50 để đưa cho tôi coi sau đó). Tôi cảm giác có một con dao sắc bén nạo trên xương sọ của tôi.

Tôi tĩnh hẳn hầu như ngay khi cuộc giải phẩu vừa xong. Tôi nhìn lên khi viên bác sỹ cúi xuống. Đôi mắt của tôi! Tôi nhớ lại đôi mắt của tôi. Thình lình những nỗi sợ hãi phủ chụp lấy tôi. "Mắt của tôi!" Tôi la lớn, "Mắt của tôi ra sao, bác sỹ ?"

"Anh bị thương trầm trọng", ông ta đáp. "Ở đây tôi không thể nào chữa trị được." Ông nhìn ngay tôi và tiếp. "Phải gởi anh về Nhật Bản để một chuyên viên nhãn khoa chữa trị cho anh."

Một cảm giác bi thương tràn ngập hồn tôi. Tôi lo sợ con mắt phải của tôi. Phía nầy tôi không thể nhìn thấy gì cả. Ý nghĩ đui mù làm tôi khủng khiếp. Đời một phi công chiến đấu kể như tàn đời rồi. Tôi phải bay; tôi phải bay chiến đấu cơ trở lại !

Bốn ngày trôi qua trì trệ trong bịnh viện với những lần vải băng quấn khắp thân thể tôi. Bác sỹ lấy ra bốn mảnh kim khí ghim trong thịt cũng như nhiều miếng sắt trên đôi má của tôi. Đến ngày thứ tư tôi cảm thấy chân và tay trái cử động được chút ít. Vết thương ở cánh tay mặt và ở đầu thối rửa, do khí hậu quá ẩm thấp của miền nhiệt đới, và mắt phải tôi vẫn còn mù.

Trong lúc đó, những nhát chổi chiến đấu cơ và các cuộc không tập của oanh tạc cơ ở Guadalcanal không ngưng nghỉ. Mỗi ngày tôi đều nghe tiếng gầm thét của phi cơ cất cánh và hạ cánh xuống phi đạo.

Rabaul có nhiều khách viếng thăm mỗi ngày, những chiếc pháo đài bay. Chúng đến tấn công hai phi trường ở đây từ trên cao độ. Mỗi lần oanh tạc cơ địch xuất hiện, tôi và các bịnh nhân khác đều được mang xuống hầm trú ẩn.

Mỗi đêm Sasai và Nakajima đều đến thăm tôi. Họ đồng ý rằng tôi nên trở về Nhựt. Theo họ, chỉ có khí hậu điều hoà ở quê hương và một chuyên viên nhãn khoa tài ba mới có thể chữa lành mắt của tôi. Tôi từ chối trở về xứ. Tôi nhấn mạnh rằng bệnh tình của tôi có thể chữa trị ngay ở Rabaul, và tôi có thể bay trở lại trong vòng một vài tuần.

Khó thể giải thích sự ngần ngừ của tôi rời khỏi địa ngục Rabaul. Tôi chỉ ý thức rằng ở hiện tại, tôi như bị bao vây bởi viễn ảnh đầy bi thãm: cuộc đời ph của tôi chấm dứt. Cũng vẫn còn vấn đề thể diện. Tôi cảm thấy bao lâu tôi còn ở Rabaul tôi vẫn còn giữ thể diện. Ngay nếu tôi không bay lại được, tôi cũng có thể giúp đỡ những phi công mới vô nghề. Tôi có thể khuyên họ tránh những sai lầm có thể đưa đến cái chết của họ. Tất cả những lý do đó trộn lẫn thành một. Chuyến trở về Nhật Bản của tôi có nghĩa là tôi sẽ nhận lãnh sự phán xét cuối cùng bởi một chuyên viên nhãn khoa, và tôi sợ phát điên lên khi được nghe sự thật.

Vấn đề nầy kết thúc vào sáng ngày 11 tháng Tám, khi đại tá Saito, chỉ huy trưởng căn cứ Lae, bước đến cạnh giường tôi. Sự tử tế mà ông ta dành cho tôi đã hết mức, và nó cũng bằng với sự cứng rắn của ông ta.

" Tôi thông cảm với anh, Sakai", ông nói, "nhưng tôi đã đắn đo suy xét. Anh sẽ được gởi về Nhật, và vô bịnh viện hải quân Yokosuka. Đây là lịnh của tôi. anh sẽ đáp vận tải cơ đi vào ngày mai. Vị bác sỹ ở đây đã cho tôi biết bịnh tình của anh chỉ hy vọng vào các bác sỹ ở Yokosuka mà thôi."

Ông mỉm cười với tôi. "Chuyến trở về quê hương của anh sẽ khiến cho chúng tôi yên lòng nhiều hơn anh nữa. Tất cả chúng tôi đều biết anh sẽ được săn sóc thuốc men cẩn thận ở Nhựt." Ông ta đứng dậy nhìn tôi trong giây lát rồi nghiêng mình xuống, đặt tay lên vai tôi. " Đối với tất cả chúng tôi anh đã làm được một việc phi thường, Saburo," ông dịu dàng nói. "Tất cả những ai đã từng biết anh, từng được bay chung và chiến đấu với anh, đều hãnh diện. Khi các vết thương của anh lành lặn, hãy trở lại đây với chúng tôi." Thế rồi ông bước ra ngoài.

Đêm đó Sasai đến thăm tôi. Ông có vẻ mệt mõi sau phi vụ trong ngày ở Guadalcanal. Tôi cho ông biết tôi được lệnh về xứ ngày mai. Giây lát sau, tất cả bạn thân của tôi đều tụ họp trong phòng, bày ra môt buổi tiệc chia tay nho nhỏ. Không ai ca hát, không ai nói chuyện ồn ào hoặc đùa giỡn. Chúng tôi chuyện trò to nhỏ, hầu hết nói về Nhật Bản. Nhưng người Mỹ có những ý kiến khác hơn đối với buổi tụ họp nho nhỏ của chúng tôi. Sự yên tĩnh của một đôi giờ chấm dứt với những bước chân dồn dập chạy vô các hầm trú ẩn. Tôi được một số phi công khiêng ra khỏi bịnh viện. Tôi nghiến răng xấu hổ và đắng cay với sự bất lực của mình. Đây chính là những người mà tôi từng cầm đầu trong khi chiến đấu, và bây giờ họ khiêng tôi đi, giống như một đứa trẻ mù loà, què quặt! Tôi muốn la hét và giựt hế những lần băng quấn quanh thân thể tôi. Nhưng tất cả những gì mà tôi có thể làm là nằm bất động với đôi mắt nhắm nghiền.

Sáng sớm hôm sau, tôi lê thân chầm chậm ra cầu tàu, một chiếc ca nô chờ đợi để đưa tôi ra một chiếc thuỷ phi cơ bỏ neo trên mặt nước.

Sasai siết chặt tay tôi. " Tôi sẽ nhớ anh, Saburo. Anh không bao giờ biết được lòng tôi đối với anh." Hai giòng lệ chảy dài xuống đôi má tôi, tôi không thể nào cầm được. Tôi xúc động và chỉ có thể nắm chặt lấy tay Sasai.

Sasai rút tay lại, tháo vội dây nịt đang đeo và trao nó cho tôi. Tôi nhìn " Con Cọp Gầm" khắc sắc sảo trên cái khoá. " Saburo, sợi dây nịt nầy của ba tôi tặng. Một sợi cho tôi, một sợi cho anh rễ tôi. Anh rễ tôi đã chết. Tôi không mấy tin vào sự linh ứng của con cọp bằng bạc nầy, nhưng tôi muốn anh giữ và mang nó. Tôi hy vọng nó sẽ giúp anh trở lại đây với chúng tôi."

Tôi từ chối, nhưng vô ích. Sasai bỏ sợi dây nịt vô túi cỉa tôi, rồi nắm lấy tay tôi. "Tôi sẽ gặp anh trở lại, Saburo. Đừng nói lời từ biệt ! chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau, tôi hy vọng." Ông dìu tôi xuống ca nô. Một phút sau nó lướt sóng hướng đến chiếc thuỷ phi cơ đang chờ đợi. Nishizawa, Ota, Yonekawa, Hatori, Nakajima và tất cả bạn bè khác của tôi vẩy tay trên cầu tàu. Họ la lớn dặn tôi sớm trở lại để bay với họ.

Giây lát sau, hình ảnh họ mờ mờ. Tôi chỉ có thể nhìn thấy một vài thước với con mắt trái. Tôi đứng thật thẳng trên ca nô, giơ tay mặt lên, lúc bóng hình của mọi người biến mất. Thế rồi tôi la thật lớn, giống như một đứa trẻ.

Trong chiếc thủy phi cơ có một vài hành khách khác. Một binh sỹ phục dịch được cắt đặt để săn sóc tôi trong chuyến đi, và nhiều thông tín viên chiến tranh. Chúng tôi ngừng lại ở Truk và Saipan để tái tiếp nhận nhiên liệu.

Tôi rời xa mảnh đất quê hương đã lâu. Tình trạng hiện thời của nước Nhật như thế nào, tôi không mảy may lưu tâm đến. Nhưng, tôi đã xúc động khi đặt chân lên Yokohama, một xúc động bất ngờ. Chiều ngày thứ bảy, chúng tôi đáp xuống hải phận Yokohama. Không muốn trình diện bịnh viện vào đêm đó, tôi đi bộ vô thành phố để đón xe tắc - xi đến nhà chú tôi ở phía Tây Tokyo.

Dân chúng ở đây tuyệt đối không để ý đến những gì thực sự xảy ra trong cuộc chiến. Tôi như từ cung trăng rớt xuống giữa đám đông rộn rịt, giữa ánh đèn sáng trưng. Tôi không thể nào tin được những âm thanh lọt vô tai tôi, âm thanh của muôn ngàn tiếng cười, tiếng nói vô tư lự. Có phải thật họ không biết những gì xảy ra ở Tây Nam Thái Bình Dương không? Trên khắp đường phố, mỗi bản tin tức của đài phát thanh đều vang vang "Bước tiến của chiến hạm", loan đi chi tiết các chiến thắng lừng lẫy của những trận hải chiến xảy ra quanh quần đảo Salomon. Tôi không nghe gì khác hơn là danh sách những tàu chiến Mỹ bị tiêu diệt, hàng nhiều trăm phi cơ bị bắn rơi.

Những đám người mặc quần áo mùa hè màu sặc sở dừng lại bên ngoài mấy cửa tiệm, hoặc đứng ở các góc phố để lắng nghe đài phát thanh huyênh hoang. Mỗi lần xướng ngôn viên đề cập đến một cuộc chiến bại quan trọng của địch quân, tiếng reo hò nổi lên vang dội khắp đường phố. Quốc gia đã sat sưa trên những chiến thắng lừa dối. Khó thể tin rằng có một cuộc chiến tranh hủy diệt đang diễn tiến. Trong các cửa tiệm, tôi thấy có một số hàng hoá được phân chia theo khẩu phần, nhưng các nhu yếu phẩm có thể nói là phong phú. Tôi muốn rời xa thành phố nầy tức khắc. Mọi thứ ở Lae và Rabaul hình như không thật. Có thể nào hai thế giới cách biệt nầy hiện hữu cùng một lúc không? Máu lửa, chết chóc và nổi hoan hỉ dành cho những chiến thắng tưởng tượng chỉ cách nhau mấy giờ bay ngắn ngủi? Tôi kêu một chiếc taxi và cho địa chỉ của chú tôi. Xe chạy ngang qua Yokohama và vô thành phố Đông Kinh. Vài phút sau, một cảnh sát viên chận xe lại và cúi nhìn xuyên quan kiếng. Bộ quân phục của tôi lổ chổ vết máu và vết thương vẫn còn quấn băng. Hắn hỏi:

" Anh làm sai vậy?"

" Tôi vừa ở mặt trận về," tôi đáp một cách chua chát.

Hắn kêu lên: " Anh bị thương ở mặt trận! Mặt trận nào? Sao lại bị thương?"

" Tôi là một phi công," Tôi hắng giọng. " Ở Guadalcanal. Tôi bị đạn trong lúc chiến đấu."

" Guadalcanal!" Đôi mắt của viên cảnh sát trẻ bừng sáng. " Hôm nay tôi có nghe một số tin ở đó". Tôi biết rằng chỉ ngày hôm qua đây, chúng ta đã nghiền nát hết bọn Mỹ. Đài phát thanh cho biết hải quân của chúng ta đánh chìm 5 tuần dương hạm, 10 quân vận hạm và mười khu trục hạm. Chắc chắn cảnh đó ngoạn mục lắm!"

Bao nhiêu đó quá lắm rồi!. " Tôi rất tiếc, thưa trung sỹ," tôi nói mau. " Tôi phải đi gấp." Tôi thét tên tài xế. "Chạy đi! Tức khắc!".

Nhiều năm rồi, tôi lại mới bước vô nhà của chú tôi. Ngôi nhà vẫn không có gì thay đổi. Tôi đứng bên lề đường nhiều phút, nhìn ngôi nhà, ánh đèn và nghe những âm thanh quen thuộc. Một cảm giác yên bình kỳ lạ bao trùm lấy tôi. Quá khứ thức dậy trong tôi, và tôi đã mở cánh cửa giống như tôi đã mở lúc còn nhỏ. Tôi cũng xử dụng những tiếng nói tôi thường la lên khi bước vô nhà, " Cháu đây! Cháu về nhà rồi đây!"

"Ai đó?" tiếng hỏi có vẻ giựt mình giọng lên từ nhà bếp. Tôi mĩm cười. Tiếng hỏi của thím tôi.

" Cháu đây!" Tôi đáp.

Yên lặng giây lát. " Cháu đây ! Saburo!". Tôi nói lớn một cách vui vẻ.

Tiếng hỏi đầy sửng sốt của chú tôi vang dội khắp nhà:

" Cái gì đó?" Rồi cả nhà chạy ùa ra hành lang.

Họ nhìn tôi trừng trừng cả một phút. Chú thím tôi, hai người em họ Hatsuyo và Michio của tôi, không ai thốt nên lời, đứng im sửng, miệng mở tròn trong nổi kinh ngạc. Tôi bình thản nhìn những người trước mặt khi đôi mắt của họ di chuyển xuống bộ quân phục và những lần vải băng hoen máu của tôi.

Chú tôi thì thào: " Có phải cháu thật không, Saburo? Đây là Saburo, đây không phải là một hồn ma?" Ông chồm về phía trước, như sợ tôi tan biến.

" Không! Không phải là hồn ma". Tôi đáp " Cháu thật đây mà. Cháu về nhà đây!". Thật giống như chết đi sống lại. Những trận đánh, chết chóc, thương tích, ấn tay vào cò súng, lộn nhào liên hồi để tránh né chiến đấu cơ địch truy đuổi, chui rút vô những hầm trú ẩn ngập bùn... tất cả không còn nữa, tất cả đã trở thành không thật, xa lắm rồi. Một thế giới âm u, giống như hồn ma mà chú tôi đã tưởng, không còn treo lơ lửng trên tôi nữa. Để tôi được ngồi trong căn nhà nầy một lần nữa, để lại nói chuyện với chú thím tôi, để lại nhìn Hatsuyo và Michio, để thoải mái. Để biết nơi đây không còn những trái bom đêm nay, không còn âm thanh gầm thét của oanh tạc cơ Maurader và Mitchell, không còn những tiếng nổ, những mảnh kim khí, những viên đạn chọc thủng vô tận phòng ngủ... Tôi cứ lắc lắc đầu trong nỗi hạnh phúc đầy kinh ngạc. Hầu như đã ba năm rồi, tôi mới trãi qua một đêm với gia đình nầy. Đó là đêm đầu tiên trong nhiều năm, tôi mới được ngủ một giấc đều đặn. Ngay cả mấy vết thương cũng không quấy rầy tôi. Sáng hôm sau tôi đáp xe lửa đến Yokosuka. Đời sống hàng ngày của dân chúng trong thành phố nầy hình như còn rộn rịp hơn cả thành phố Yokohama vào ban đêm. Những người qua đường, nhứt là thiếu phụ và thiếu nữ, liếc mắt nhìn tôi, khẻ nhăn mặt và nhìn đi nơi khác. Tôi là một tên dơ bẩn, bê bết máu mủ, và phải, đó là sự thật, tôi là một hình ảnh đầy ghê tởm với đồng bào của tôi. Tôi bị ghét bỏ. Ngay khi tôi trình diện bịnh viện Yokosuka, một nhân viên đưa tôi đến phòng của vị y sỹ trưởng. Tôi đã quên mất, hôm nay là Chúa nhật. Ngoại trừ những trường hợp khẩn cấp, y sỹ trưởng không làm việc vào ngày hôm nay. Nhưng tôi đã ngạc nhiên khi thấy ông ta đích thân tiếp đón tôi.

Ông ta mĩm cười khi nhìn thấy vẻ ngạc nhiên của tôi. " Tôi có dặn thông báo cho tôi biết ngay khi anh đến," ông ta giải thích. " Tôi vừa từ bên chổ trú ngụ sang đây. Tôi có nhận một lá thư riêng của đại tá Saito, yêu cầu tôi cố gắng bằng mọi cách để chữa trị cho anh." Ông ta nhìn tôi một thoáng. " Đại tá Saito đã kể rành mạch cho tôi biết những gì mà anh đã làm ở Thái Bình Dương. Tôi biết anh là một phi công hạ nhiều phi cơ địch hơn tất cả những phi công khác của Nhật Bản."

Tôi gật đầu

" Bây giờ tôi có thể hiểu rõ nỗi lo lắng của đại tá của anh. Đến đây", ông ta nắm lấy tay tôi, " chúng tôi sẽ bắt đầu khám anh ngay."

Sau khi khám xong, ông ta đích thân đưa tôi xuống khu nhãn khoa. " Tôi có nhờ một bác sỹ nhãn khoa tài nhứt của Nhật Bản chữa trị cho anh," ông ta giải thích. " Bác sỹ Sakano được nhập ngũ và hiện phục vụ trong hải quân với cấp bậc thiếu tá. Xứ sở của chúng ta chưa có y sỹ nhãn khoa nào tài giỏi hơn ông ta. Khi tôi được thơ của đại tá Saito, tôi đã báo cho bác sỹ Sakano chuẩn bị sẵn sàng để bắt tay vào việc chữa trị ngay khi anh đến."

Do đó, tôi đang đối diện với giây phút định mạng. Tôi sẽ sớm biết tôi có thể nhìn thấy, tôi có thể bay trở lại được hay không.

Bác sỹ Sakano khám cho tôi. Nhiều phút sau, ông đứng thẳng dậy, mặt lộ vẽ nghiêm trọng và chậm rãi nói:

" Phải làm liền. Tôi phải điều trị cho anh tức khắc. Anh còn nhìn thấy được nữa hay không đều tùy thuộc những gì mà tôi sẽ làm trong một giờ kế đây."

Ông ngừng lại. " Sakai, tôi không thể sử dụng thuốc mê. Nếu anh muốn nhìn thấy, nếu anh muốn cứu ít ra là một con mắt của anh, anh phải chuẩn bị để chịu đựng tất cả sự đau đớn trong khi vẫn tĩnh," Tôi hơi choáng váng. Tôi lặng lẽ gật đầu, sợ ngay cả tiếng nói của mình. Họ đặt tôi lên một chiếc gường cao, rồi nhiều nhân viên giúp việc lấy đai da và vải buộc ghịt chặt tôi xuống. Tôi không thể nhúc nhích tay chân. Đầu tôi cũng bị buột một sợi dây da để giữ chặt lại, và một co nữ y tá đã vỗ vỗ tay vào đầu để trấn an. Vị bác sỹ biểu tôi nhìn thẳng vào một ánh đèn đỏ chói treo trên trần nhà. " Nhìn đi, Sakai" ông dịu dàng nói. " Nhìn đi. Đừng rời mắt khỏi ánh đèn đó. Đừng nháy mắt, đừng đảo mắt sang nơi khác. Hãy để ý lời tôi dặn! Anh có thể đui mù cả đời nếu anh không làm đúng theo lời tôi dặn."

Khủng khiếp! Hơn cả khủng khiếp nữa, đó là một nỗi đau đớn chưa từng gặp phải trong đời tôi. Tôi luôn luôn tự coi mình có một khả năng chịu đựng đau đớn vô song. Tâm niệm trong Bushido đã dạy tôi sự kiên nhẫn, chịu đựng, dưới mọi tình trạng khó khắn nhất. Nhưng mà lần nầy! Tôi phải nhìn ngọn đèn trừng trừng. Nhìn cho đến khi tôi chỉ thấy màu đỏ chói tràn ngập mọi vật, cho đến khi bàn tay của vị bác sỹ chìa ra, mờ mờ ảo ảo, với dụng cụ bằng sắt nhọn và sáng loáng tiến gần hơn, gần hơn, gần hơn nữa. Tôi thét lớn. Nhiều lần, tôi thét như một tên điên với nỗi hấp hối đầy khủng khiếp. Tôi cảm thấy không thể chịu đựng thêm một giây phút nào nữa. Ước muốn được bay lại, được thấy lại bây giờ trở thành đồ bỏ đối với tôi. Đau chết được ! một lần tôi thét lên: " Ngừng lại! Bỏ hết, miễn đừng đau thì thôi!" Tôi cố né tránh lưỡi dao. Tôi cố thoát khỏi mấy sợi dây. Chúng được buộc quá chặt. " Im đi!" Vị bác sỹ la tôi. " Anh phải cố chịu đựng chớ! Nếu không, anh sẽ đui mù! Đừng hét nữa!."

Sự hành hạ kéo dài hơn ba mươi phút. Nó dài bằng cả một triệu năm đối với tôi. Nó kéo dài vô tận. Không công việc đã xong, tôi cử động một ngón tay cũng không nổi. Tôi nằm dài trên giường để thở, bất động. Vị y sỹ trưởng cúi xuống cố gắng để an ủi trong lúc ngực tôi nặng trĩu và tôi bật khóc nức nở. Suốt một tháng tôi nằm miết trên giường bịnh. Tôi khổ sở. Đời sống vô nghĩa đối với tôi. tôi cứ nằm mơ thấy lại chuyến bay dài dằng dặt từ Guadalcanal trở về Rabaul của tôi. Bác sỹ Sakano thường tới thăm bịnh tôi. " Tôi đã cố gắng hết sức" ông nói với tôi, " nhưng mắt bên mặt của anh sẽ không bao giờ hồi phục, anh chỉ có thể nhìn thấy những vật cách anh một hai thước. Riêng mắt trái của anh sẽ phục hồi hoàn toàn. Lời nói của ông giống như lời nói của tử thần. Một phi công chiến đấu độc nhãn. Tôi cười một cách cay đắng lúc vị bác sỹ bước ra.

Vết thương trên đầu tôi lành lặn mau chóng. Bác sỹ cho phép tôi dạo quanh bệnh viện. Mỗi tuần tôi đều thỉnh cầu được xuất viện và được gởi lại Rabaul. Và mỗi tuần lời thỉnh cầu của tôi đều bị bác bỏ.

Cuối cùng, vị y sỹ trưởng có phản ứng khi thấy tôi cứ lảm nhãm nói mãi. Hiển nhiên là ông ta nổi giận. " Tôi cho anh biết, Sakai, còn nhiều tháng nữa anh mới có thể nghỉ đến việc trở lại Rabaul. Lịnh dứt khoát của tôi. Anh phải dưỡng sức ít nhứt sáu tháng trước khi anh được chỉ định vào bất kì nhiệm vụ nào, ở quê hương hau ở hải ngoại." Tôi cảm thấy giống như kẻ trốn chạy, một tên đào thoát khỏi chiến trường. Tôi nghĩ để các phi công khác, nhứt là Nishizawa, Ota và Sasai, mỗi ngày họ đều lama trận. Ngay cả những tin tức liên quan đến cuộc chiến loan đi trên đài phát thanh, tôi cũng sợ nghe. Những tin tức nhắc nhở tôi nhớ đến Rabaul ấy.

Một hôm, tôi có thêm hai khách viếng ( ngoài cô em họ Hatsuyo đến thăm tôi mỗi cuối tuần). Đó là Fujiko và ba của nàng, giáo sư Niori. Hatsuyo đã viết thư báo tin cho họ. Khi gặp tôi, cả hai đều lộ vẻ lưu tâm đến thương tích của tôi. Tôi chỉ cho họ xem bốn vết thương của tôi và, một cách buồn rầu, tôi chỉ con mắt bên mặt. " Con mắt nầu ... con mắt nầy không thấy được nữa, và các bác sỹ nói tôi sẽ duy trì tình trạng nầy suốt đời."

Fujiko sửng sốt. Tôi nhấn mạnh: " Đó là sự thật. Tôi đã tàn tật. Mất một con mắt có nghĩa là chấm dứt cuộc đời phi công chiến đấu cơ của tôi."

Giáo sư Niori chận hỏi: " Như vậy ... Anh sẽ giải ngũ sao?"

" Dạ, thưa không, tôi không nghỉ như vậy," tôi đáp. Nỗi cay đắng dâng lên trong tôi. " Ở quê hương, giáo sư không thể nào hiểu được sức hút nhân lực của cuộc chiến nầy ra sao. Tôi không nghĩ rằng tôi sẽ được buông tha. Hải quân sẽ tìm cách sử dụng tôi cho bằng được, làm huấn luyện viên hoặc một nhiệm vụ nào đó ở Bộ Chỉ Huy trên mặt đất chẳng hạn."

Một thoáng im lặng. Nó cho đủ thời gian để nghĩ đến cuộc hành trình xa hơn 500 dặm của họ từ Tokushima đến đây để thăm tôi.

Fujiko muốn nói với tôi nhưng không thốt nên lời. Cuối cùng nàng quay mau về phía ba nàng và kêu lên: "Ba!"

Ông Niori gật đầu và hằng giọng. " Anh nghĩ khi nào được tái bổ nhiệm?" ông hỏi, mắt nhìn thẳng vào tôi. Tôi nghĩ rằng chúng ta nên xúc tiến việc hôn nhân ... việc nầy dĩ nhiên, nếu anh bằng lòng, Saburo!"

" Giáo sư ... muốn nói gì?" Tôi thản thốt. " Tôi không thể tin câu nói của giáo sư. Xúc tiến hôn nhân ?" Đầu óc tôi quay cuồng!

" Saburo, anh hãy tha thứ cho tôi," ông Niori nói: " Tôi biết đem việc nầy ra nói với anh thật là đường đột."

Ông đứng thẳng lên và nói tiếp một cách nghiêm trang. " Saburo, anh có chấp nhận con gái của tôi, Fujiko, làm bạn đời của anh không?"

Những tiếng nói ấy giống như những tiếng chuông vang dội trong không gian. Fujiko nhìn tôi với đôi mắt mở tròn, rồi bẻn lẻn cúi đầu nhìn xuống chân. Tôi tránh nhìn nàng, tôi nhìn đâm đâm vào vách. Chính tấm vách đó, bao ngày tôi đã nhìn đâm đâm trong nỗi tuyệt vọng. Cuối cùng, tôi ngần ngừ mất lượt rồi nói:

" Giáo sư Niori, tôi ... Dạ thưa, tôi rất lấy làm vinh hạnh khi nghe những lời giáo sư vừa nói. Nhưng ..." tôi xúc động và cố dằn nước mắt. " Tôi, tôi không thể ... nhận lời đề nghị của giáo sư." Xong rồi! Tiếng nói của tôi đã thoát ra. Tôi đã nói được điều tôi muốn nói.

" Hả?" Giọng ông đầy nghi ngờ. " Anh... anh đã có ý trung nhân?"

" Không! Dạ thưa không! Ngay cả nghĩ đến một người khác cũng không. Tôi không nhận lời vì một lý do hoàn toàn khác hẳn. Giáo sư Niori, tôi không thể nào nói tiếng " bằng lòng". Không thể được! Giáo sư hãy nhìn tôi! Tôi không xứng đáng với cô Fujiko. Giáo sư hãy nhìn con mắt của tôi." Tôi kêu lên: " Tôi đã đui một bên rồi!".

Sự nhẹ nhõm toả khắp mặt ông. " Ồ! Saburo, anh không cần phải tự hạ mình như vậy! Đừng tự làm khổ thân anh thêm nữa! Những vết thương của anh là những vết thương vinh dự, chúng không làm anh hổ thẹn. Anh không biết cả tư thế của anh nữa hay sao? Khắp nước Nhật hoan hô anh, ca tụng anh. Anh không hiểu rằng trong tư cách một phi công tài ba nhứt, vĩ đại nhứt của xứ sở chúng ta, anh đã trở thành một anh hùng dân tộc hay sao?".

" Giáo sư Niori, giáo sư chưa hiểu hết! Tôi chỉ nói với giáo sư sự thật, một sự thật mà chính giáo sư không thể nhìn thấy," tôi nhấn mạnh. " Không hề có sự khiêm tốn nào trong lời nói của tôi. Một vị anh hùng là cái gì không trường cửu. Người anh hùng như một đám mây trôi nổi. Và tôi không phải là một vị anh hùng. Tôi chỉ là một phi công, một phi công không thể nào bay được nữa. Tôi là một phi công nửa mù nửa sáng. Có gì ở tôi đáng ca ngợi đâu! Tôi hết xài rồi! Anh hùng, quả thật ... giáo sư đã biết xứ sở của chúng ta không có anh hùng cá nhân."

Ông Niori lặng yên trong giây lát. " Có lẻ, tôi lầm lẫn phần nào," ông tiếp. "Nhưng anh phải biết những gì tôi vừa nói không phải là yếu tố đưa đến sự quyết định của tôi. Nhà tôi và tôi đã "chọn" anh ngay lần gặp đầu tiên. Tôi hiểu biết những cảm nghĩ của anh, nhưng anh cũng phải hiểu biết một sự việc trên hết: Nhà tôi và tôi, cũng như Fujiko, tin tưởng anh là người duy nhất có thể mang đến hạnh phúc cho nó. Chúng tôi cũng hy vọng, cũng tin tưởng rằng con gái chúng tôi sẽ mang đến hạnh phúc cho anh." Tôi cảm thấy tim tôi hầu như tan vỡ. Có thể người đàn ông tốt lành và tuyệt diệu nầu không hiểu hết những gì tôi muốn nói? " Làm sao giáo sư có thể xét đoán được một người chỉ qua một lần gặp gỡ?" Tôi nói. " Cả một đời của Fujiko, hạnh phúc của nàng, đâu có thể được đặt trên một lần gặp gỡ. Tôi không thể nào hiểu nổi lời đề nghị của giáo sư, cho dù tôi chưa từng gặp danh dự nào lớn hơn danh dự mà giáo sư đã mang đến cho tôi hôm nay." Tôi lộ vẻ nóng nảy: " Có nhiều người khác xứng hợp với Fujiko hơn. Hàng ngàn thanh niên học cao, tương lai đầy hứa hẹn. Thưa giáo sư, còn tôi, tôi có thể cung hiến cho ái nữ của giáo sư những gì? Những gì tôi có thể mang đến cho nàng? Một lần nữa, tôi xin giáo sư hãy nhìn tôi đi! Nhìn tôi đi! Tôi như vầy thì còn nói đến chuyện tương lai gì nữa?"

Fujiko không thể giữ yên lặng hơn được. Nàng ngẩn đầu lên và nhìn tôi đăm đăm. Tôi muốn trốn chạy khỏi căn phòng. " Anh lầm rồi, Saburo," nàng dịu dàng nói. " Anh lầm rồi! Anh quá lưu tâm đến con mắt của anh! Anh đui hay không đối với em không thành vấn đề. Nếu cần, Saburo, nếu cần em có thể giúp đỡ anh."

" Cô lầm rồi, Fujiko," Tôi đáp. " Tôi biết cô can đảm, những gì cô thốt ra đều chân thật, nhưng hiện thời cô nói theo tình cảm. Cô không thể quyết định cả một đời dựa vào tình cảm đã qua rồi."

" Không, không" nàng vừa nói vừa lắc đầu. " Anh không hiểu em. Đây không phải là tình cảm nhứt thời. Anh không biết rằng em đã nghĩ đến cuộc gặp mặt nầy từ nhiều tháng nay. Em đang nói những gì em ý thức rõ."

Không tới đâu, nếu cứ tiếp tục nói qua nói lại như vậy. Tôi sợ một lúc nào đó tôi sẽ nhượng bộ. " Thưa giáo sư Niori vàg cô Fujiko," tôi cố chứng tỏ sự cương quyết trong giọng nói, " tôi không có ý định làm giảm giá trị của giáo sư và cô. Câu chuyện nầy không phải là vấn đề mặc cả. Tôi xin lập lại, thưa giáo sư, những lời đề nghị của giáo sư hôm nay là một vinh dự lớn mà tôi chưa bao giờ nhận được. Nhưng tôi không thể nhận lời đề nghị phi thường nầy. Tôi không thể nào nhận lấy danh dự kết hôn với ái nữ của giáo sư, bởi lẻ tôi không xứng đáng. Đó là lý do tại sao tôi phải từ chối." Dù cho Niori nói cách nào tôi cũng vẫn một mực từ chối. Fujiko không thể nào chịu đựng được nữa, nàng ngã vào tay cha và bật khóc. Tôi muốn tự sát để trả lại những gì mà tôi đã làm, sự đau buồn mà tôi đã gây cho nàng. Nhưng tôi biết hàng động của tôi không thích đáng, tôi đã xử sự như vậy chẳng qua là vì hạnh phúc của nàng. Cuộc hôn nhân có thể mang đến hạnh phúc bình thường ở hiện tại, nhưng những năm sau nầy kẻ chịu đựng buồn phiền sẽ là Fujiko. Gần một giờ sau họ rời khỏi phòng tôi. Tôi không biết tôi đã đăm đăm nhìn theo họ bước ra cửa bao lâu. Cuối cùng, tôi quay vô phòng, buông thân rã rời trên giường. Đó là giờ phút buồn thảm nhứt trong đời tôi. Nhưng mà tôi có thể làm gì khác hơn? Một ngàn lần vẫn là một câu đáp đến với tôi: " Không còn cách nào hơn". Tôi đã gạt sang bên một vật tuyệt mỹ, chưa từng tiến đến tầm tay tôi bao giờ. Hai ngày sau đó, Hatsuyo đến thăm tôi. Nàng không cười như thường lệ.

" Tại sao anh có thể làm như vậy, Saburo?" Nàng hỏi ngay khi gặp tôi. " Anh làm cho Fujiko đâu khổ quá nhiều". Hatsuyo cho tôi biết, từ bịnh viện trở về, Fujiko đã khóc nức nở khi ghé thăm nàng ở Đông Kinh. Giáo sư Niori đã yêu cầu chú tôi và Hatsuyo hãy tìm cách thuyết phục tôi.

Hatsuyo nhìn tôi một cách giận dỗi. " Saburo, họ nói anh đã từ chối, có lẽ tại vì anh không hài lòng những lời lẽ của họ. Ba em và em biết rõ gia đình đó lắm. Họ đều tốt cả. Tại sao anh làm như vậy?".

" Hatsuyo, em hiểu giùm anh". Tôi van nàng. " Em đã từng sống nhiều năm thơ ấu với anh, em và tất cả mọi người trong gia đình đều biết anh quá rõ. Anh không hối tiếc quyết định của anh, cho dù nó đã gây cho anh nhiều đau đớn. Anh thực sự tin rằng anh đã hàng động như vậy vì tương lai của Fujiko, và hạnh phúc của nàng.

Hatsuuo không đồng ý. " Họ nói anh từ chối vì anh bị thương."

" Đó chỉ là một phần lý do. Anh đã yêu Fujiko ngay từ khi gặp nàng lần đầu. Tình yêu của anh đối với nàng càng lúc càng sâu đậm. Suốt những tháng dài dằng dặc ở Lae và Rabaul, đối với anh, Fujiko đã trở thành người đàn bà vĩnh cửu trong đời. Chắc em khó thể hiểu nổi được anh đã từ chối vì anh yêu nàng!"

" Em không hiểu gì cả, Saburo!"

" Suốt thời gian anh ở hải ngoại, suốt những tháng năm đầy mệt nhọc ở Thái Bình Dương, Fujiko không bao giờ rời khỏi tâm trí của anh. Có lẻ việc nầy không mấy tốt khi đem bàn với em, nhưng anh phải nói sự thật. Rabaul là một căn cứ quân sự quan trọng, lúc nào cũng có hơn 10.000 binh sỹ Nhựt đồn trú. Thêm vào đó, thỉnh thoảng có cả một sư đoàn bộ binh ghé tạt qua.

" Em nghĩ thế nào khi những người đàn ông nầy xa nha, xa vợ của họ? Có nhiều gái điếm ở Rabaul, giống như ở đây Yokosuka. Khi được nghỉ phép ở Rabaul không phải tất cả, nhưng đa số phi công đều biết qua bọn gái điếm nầy. Riêng anh, anh không bao giờ dính dáng đến. Niềm kiêu hãnh của anh không cho phép anh dây dưa vớu bọn họ. Anh muốn giữ mình trong sạch cho Fujiko, chờ ngày anh có thể ngõ lời cầu hôn nàng.

" Trước khi bị thương, anh đã nghĩ đến nàng trong tư cách một Sakai phi công tài ba, không hề biết sợ hãi, một người đàn ông kiêu hãnh của nàng. Nhưng mà hiện tại? Không!" Tôi lớn tiếng. " Anh sẽ không cần đến lòng thương hại! Em nghĩ là anh có thể duy trì được lòng thương hại của Fujiko đối với anh không? Không bao giờ! Bây giờ em hiểu anh rồi chớ?"

Hatsuto nhìn ngay mắt tôi. " Em hiểu anh, Saburo, em hiểu anh rất nhiều . Nhưng em không tránh khỏi buồn giùm cho Fujiko."

" Nàng sẽ hạnh phúc hơn. Nàng sẽ..." Nhưng Hatsuyo chận lời tôi bằng cách choàng tay qua cổ tôi và kéo tôi đến gần. " Tội nghiệp Saburo! Phải hy vọng ... anh phải tin tưởng. Anh sẽ bay trở lại. Em biết anh sẽ được bay trở lại!"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro