bài thuốc chữa táo bón

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Theo y học cổ truyền chứng táo bón kéo dài thường do cơ địa (yếu tố bẩm sinh) như âm hư, huyết nhiệt hoặc do thiếu máu làm tân dịch giảm gây ra, hoặc do người già, phụ nữ sau đẻ cơ nhục bị suy yếu khí trệ, hoặc do người vốn dương hư không vận hành được khí gây tân dịch không lưu thông hoặc di kiết lỵ mãn tính làm tỳ vị kém vặn hoá hây táo bón. Y học cổ truyền chia táo bón thành các thể khác nhau.

Táo bón do cơ địa âm hư, huyết nhiệt: táo bón lâu ngày, thường xuyên họng khô, miệng khát, hay lở loét miệng, tính tình cáu gắt. Dùng bài thuốc sau: Lá dâu 100g, vừng đen 100g, mạch môn 100g, sa sâm 200g. Tất cả các vị này rửa sạch, để khô rồi xay thành bột mịn, mỗi ngày trộn 10 - 20 g với mật ong uống. Ngày uống 2 lần.

Vừng đen có tính mát chữa táo bón rất tốt

Táo bón do thiếu máu ở phụ nữ sau đẻ, người mới ốm dậy: Khó đại tiện, người gầy còm, mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt. Dùng bài thuốc: Thục địa 12g, đương quy 8g, xuyên khung 8g, bạch thược 12g, bá tử nhân 8g, vừng đen 8g, đại táo 3 quả. Sắc uống ngày 1 thang.

Táo bón do khí hư thường gặp ở người già, phụ nữ sau đẻ nhiều lần trường lực cơ giảm với các triệu chứng cơ nhão, táo bón, hay đầy bụng, chậm tiêu, ăn kém, ợ hơi. Dùng bài thuốc: Bạch truật 12g, đảng sâm 16g, hoài sơn 12g, sài hồ 12g, kỷ tử 12g, vừng đen 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Táo bón do khí trệ, thường gặp ở những người ngồi lâu, ít hoạt động hoặc do viêm đại tràng mạn tính. Dùng bài thuốc: Đẳng sâm 16g, bạch truật 12g, chỉ xác 12g, chỉ thực 12g, hậu phác 10g, vừng đen 10g, chút chít 10g. Sắc uống ngày 1 thang. 

 chữa táo bón bằng thuốc nam

Táo bón là một chứng bệnh thường gặp. Y học cổ truyền cho rằng táo bón phần nhiều do nhiệt chứng, tà nhiệt xâm nhập vào kinh dương minh phủ thực hoặc do khí hư, huyết hư, tân dịch suy kém gây ra. Táo bón làm trở ngại việc tống các chất cặn bã gây ra bí trướng, đau đớn làm người bệnh khó chịu. Chữa trị táo bón ngoài việc điều chỉnh một chế độ ăn uống hợp lý, tăng khẩu phần rau xanh và các chất xơ để tăng nhu nhuận, có thể dùng thuốc hoạt tràng, thông tiện. Có rất nhiều vị thuốc chữa táo bón. Xin giới thiệu một số vị thuốc nam thông dụng mà hiệu quả.

Vừng đen: Tên thuốc gọi là hắc chi ma, là một thực phẩm khá quen thuộc, chứa nhiều chất dầu, protein, các chất cholin, phytin, methionin… Hạt vừng vị ngọt, tính bình vào 4 kinh phế, vị, can, thận. Dùng chữa các chứng can thận suy yếu, ù tai, váng đầu, hoa mắt, chóng mặt, đại tiện bí táo, râu tóc bạc sớm. Trường hợp táo bón, dùng vừng đen 40-50g sao qua trộn với 30g mật ong ăn vài lần trong ngày. Có thể dùng vài ngày.

Thầu dầu: Dùng dầu của hạt cây thầu dầu, tên thuốc là tỳ ma du. Thuốc có vị ngọt cay, tính bình, quy vào hai kinh vị và đại tràng. Tác dụng nhuận hạ, tích trệ, tiêu sưng. Dùng dầu thầu dầu làm trơn nhuận, phù hợp với người già bị bệnh táo bón. Dùng ngày 2 lần, mỗi lần 5ml.

Quả mướp: Quả tươi chứa các chất cholin, phytin, các acid amin tự do. Tác dụng làm lưu thông máu, thông sữa, làm dịu, chữa táo bón, đau nhức gân xương. Dùng mướp nấu ăn hoặc sắc cô đặc lấy nước uống có tác dụng làm hoạt tràng, thông tiện.

Bồ kết: Dùng quả già, chín đem phơi hoặc sấy khô. Thuốc có vị cay, mặn, tính ấm hơi độc, quy vào hai kinh phế, đại trường. Bồ kết chứa chất saponin, một số flavonoid và hợp chất triterpen. Có tác dụng trừ đờm, khai khiếu, chữa táo bón, làm thông sữa. Dùng bồ kết quả to, sao tồn tính, tán thành bột mịn, uống ngày 1 lần 2g với nước cơm để chữa táo bón.

Đào nhân: Vị thuốc là nhân của hạt đào trong có chứa phần lớn các chất dầu, ngoài ra có amygdalin, men elmusin, một ít tinh dầu. Đào nhân vị đắng, ngọt, tính bình, quy vào hai kinh tâm, can. Có tác dụng hoạt huyết, trừ ứ, nhuận tràng. Liều dùng 4-8g sắc uống. Có thể dùng hoa đào 5-8g có cùng tác dụng.

Lô hội: là nhựa đã chế biến khô của cây lô hội còn gọi là cây lưỡi hổ. Thuốc có vị đắng, tính hàn, quy vào hai kinh tâm, can. Có tác dụng thanh nhiệt, giáng hỏa, thanh can, hoạt tràng, thông tiện. Dùng chữa các chứng táo bón, ruột dạ dày, can đởm thực nhiệt. Có thể dùng 6g lô hội nghiền nát, trộn với đường rồi ngậm và nuốt dần hoặc dùng lô hội 20g, chu sa 15g, tán nhỏ hòa với rượu làm viên, uống mỗi lần 4g với rượu hoặc nước cơm, ngày 2 lần.

Đại hoàng: Dùng rễ cây đại hoàng. Đại hoàng vị đắng, tính lạnh quy vào 5 kinh: tỳ, vị, can, tâm bào, đại trường. Có tác dụng thông rửa tràng vị, phá tích, hành ứ. Dùng chữa táo bón do nhiệt kết. Liều thường dùng 6-12g. Có thể dùng đại hoàng 9g, đào nhân 9g, hạt bí đao 9g, mang tiêu 9g, đan bì 12g, sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần chữa bệnh viêm ruột, đau bụng, táo bón.

Thảo quyết minh: Là hạt của cây muồng. Dùng hạt già đã chế biến khô, chứa chất antraglucosid, ngoài ra có protid, chất nhớt, chất béo và sắc tố. Quyết minh tử vị mặn, tính bình, vào hai kinh can, thận, có tác dụng thanh can, ích thận, thanh can hỏa, trừ phong nhiệt, làm sáng mắt, hoạt tràng, thông tiện. Liều dùng 6-10g, dùng sống hay sao, có thể tán bột hay sắc uống để trị táo bón.

Mạch môn: Vị thuốc là rễ (củ) cây mạch môn đông, thành phần chứa chất nhày, saponin, chất đắng. Vị ngọt hơi đắng, tính hơi lạnh, vào 3 kinh tâm, phế, vị. Tác dụng nhuận mát phổi, thanh tâm, tả nhiệt, sinh tân dịch, lợi sữa, nhuận tràng, tiêu đàm, chữa ho. Để chữa táo bón dùng mạch môn 15g, sinh địa 15g, huyền sâm 9g, sắc uống.

Mật ong: Vị ngọt, tính bình, quy vào 5 kinh: tâm, phế, tỳ, vị, đại trường. Tác dụng nhuận, trơn, hoạt tràng, bổ trung, giảm đau, giải độc. Dùng chữa đại tràng táo kết, chỉ thống, thích hợp với người bị chứng tân dịch ở vị tràng thiếu, hư nhược, không phải chứng thực, phù hợp với người già, trẻ em, phụ nữ sau đẻ bị táo bón. Liều dùng 20-40g mỗi ngày.

Phan tả diệp: Dùng dưới dạng lá, vị cay, đắng, tính rất lạnh, quy kinh đại tràng. Thường được dùng phối hợp phan tả diệp 8g, hậu phác 12g, sắc uống chữa chứng đại tràng bí kết gây táo bón. Tuy nhiên không nên dùng cho những người thể hư nhược, phụ nữ mang thai.

Theo dongy.com

dược thiện phòng chống táo bón

Nhiều người nhầm tưởng rằng khi táo bón, cần dùng các đồ ăn thức uống có tính “mát” và “nhuận” như khoai lang, đu đủ, chuối tiêu, thanh long… Theo y học cổ truyền, táo bón có nhiều thể khác nhau nên không phải ai cũng dùng thuốc như nhau.

Muốn phòng chống táo bón một cách hữu hiệu, cần tuân thủ triệt để nguyên tắc “biện chứng luận trị” của y học cổ truyền, nghĩa là phải căn cứ vào chứng trạng cụ thể mà lựa chọn và sử dụng các món ăn – bài thuốc thật phù hợp.

Thể bệnh thực nhiệt

Đại tiện phân khô táo, toàn thân có cảm giác nóng bức, hay cáu giận, mặt đỏ, bụng trướng đau, tiểu tiện sẻn đỏ, môi khô miệng khát, thích uống nước mát, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô.

- Củ cải trắng 100 g, mật ong lượng vừa đủ. Củ cải rửa sạch, giã nát, ép lấy nước cốt rồi hòa với mật ong uống trong ngày (nếu có máy ép thì càng tốt).

- Quyết minh tử 10 g, cà dái dê tím 2 quả. Sắc quyết minh tử lấy nước; cà rửa sạch, thái miếng, đem rán qua với dầu thực vật rồi nấu với dịch chiết quyết minh tử cho thật chín, chế thêm gia vị, ăn trong ngày.

- Măng non tươi 100 g, rau cần tây 100 g. Măng rửa sạch, luộc qua, thái miếng; rau cần rửa sạch, cắt đoạn, chần qua nước sôi. Hai thứ đem xào với dầu thực vật và gia vị vừa đủ, dùng làm rau ăn hàng ngày.

Thể bệnh khí trệ

Đại tiện khó khăn, ợ hơi liên tục, ngực bụng đầy chướng, ấm ách khó chịu, ăn kém chậm tiêu, có lúc đau bụng, miệng khô họng khát, chất lưỡi hồng, rêu trắng mỏng.

- Mộc hương 5 g, binh lang 5 g, gạo tẻ 100 g, đường phèn vừa đủ. Sắc kỹ mộc hương và binh lang, lấy nước bỏ bã rồi cho gạo tẻ vào ninh thành cháo, chế thêm đường phèn, chia ăn vài lần trong ngày.

- Mộc hương 10 g, giáng hương 5 g, hải sâm 10 g, đại tràng lợn 1 đoạn. Hải sâm rửa sạch thái miếng, đại tràng lợn rửa sạch, thái nhỏ. Cho mộc hương và giáng hương vào túi vải, buộc kín miệng, tất cả cho vào nồi nấu nhừ, chế đủ gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.

- Chỉ thực 10 g, củ cải trắng và tôm nõn vừa đủ. Sắc kỹ chỉ thực lấy nước bỏ bã, củ cải trắng thái miếng và tôm nõn cho vào dịch chiết chỉ thực nấu nhừ, chế thêm gia vị, dùng làm canh ăn hàng ngày.

Thể bệnh khí hư

Đại tiện khó khăn dù phân không khô cứng, toàn trạng mệt mỏi, hay có cảm giác khó thở, dễ vã mồ hôi, ăn kém chậm tiêu, sắc mặt trắng nhợt, đại tiện lỏng hoặc nát, miệng nhạt, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng.

- Hỏa ma nhân 10 g, vừng 5 g, bột hạt dẻ 50 g, bột ngô 50 g. Hỏa ma nhân và vừng sao thơm tán bột, đem nấu với bột hạt dẻ và bột ngô thành dạng cháo loãng, chế thêm một chút đường đỏ, dùng làm đồ điểm tâm.

- Hoàng kỳ 300 g, mộc hương 45 g, mật ong lượng vừa đủ. Sắc kỹ hoàng kỳ và mộc hương 2 lần lấy nước cốt, cô thật đặc rồi cho thêm mật ong vào cô tiếp một lát là được, để nguội, đựng trong lọ thủy tinh để dùng dần. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 thìa canh.

- Hoàng kỳ 10 g, tô tử 50 g, hỏa ma nhân 50 g, gạo tẻ 250 g. Sắc kỹ hoàng kỳ, tô tử và hỏa ma nhân lấy nước nấu với gạo tẻ thành cháo, chia ăn vài lần trong ngày.

- Nhân sâm 5-10 g, vừng đen 15 g, đường trắng lượng vừa đủ. Vừng đen sao thơm tán bột, sắc kỹ nhân sâm lấy nước bỏ bã rồi cho vừng và đường trắng vào nấu thành dạng cháo loãng, ăn trong ngày.

- Hạnh nhân 60 g, vừng đen 500 g, đường trắng 250 g, mật ong 250 g. Hạnh nhân giã nát, vừng đen sao thơm tán bột, hai thứ cho vào bát, trộn với mật ong và đường trắng, đem hấp cách thủy cho chín, mỗi ngày ăn 2 lần, mỗi lần 1 thìa canh.

Thể bệnh huyết hư

Đại tiện táo, sắc mặt nhợt nhạt, hay hoa mắt chóng mặt, trí nhớ giảm sút, dễ hồi hộp trống ngực, chất lưỡi nhợt, thường trong tình trạng thiếu máu.

- Chuối tiêu chín 500 g, vừng đen 25 g. Vừng đen rang thơm, giã vụn, ăn chuối chấm vừng đen, chia làm 3 lần trong ngày.

- Quả dâu chín (tang thầm) 500 g, sinh địa 200 g, mật ong lượng vừa đủ. Sắc kỹ tang thầm và sinh địa 2 lần, lấy hai nước hợp lại, cô nhỏ lửa cho thành dạng cao đặc, chế thêm mật ong, đun sôi một lát là được, để nguội, đựng trong lọ kín dùng dần, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 thìa canh.

- Tùng tử nhân 50 g, hạch đào nhân 50 g, mật ong 500 ml. Tùng tử nhân và hạch đào nhân bỏ vỏ, sao khô, tán bột rồi hòa với mật ong, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 2 thìa canh.

- Tùng tử nhân 20 g, gạo tẻ 60 g. Đem tùng tử nhân tán vụn rồi ninh với gạo thành cháo, chia ăn vài lần trong ngày.

Thể bệnh dương hư

Đại tiện khó khăn, sắc mặt nhợt nhạt, chân tay lạnh, sợ lạnh thích ấm, hay đau bụng và lưng do lạnh, lưng đau gối mỏi, tai ù tai điếc, có thể có liệt dương di tinh, tiểu tiện trong dài, miệng nhạt, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng ướt.

- Nhục thung dung 30 g, thận dê 1 cặp. Thận dê làm sạch, thái mỏng, sắc nhục thung dung lấy nước bỏ bã rồi cho thận dê vào, đun sôi một lát là được, chế đủ hành, gừng tươi thái chỉ và gia vị vừa đủ, ăn nóng.

- Tỏa dương 15 g, đường đỏ lượng vừa đủ. Sắc kỹ tỏa dương lấy nước bỏ bã, chế thêm đường đỏ, chia uống 2 lần trong ngày.

- Tỏa dương 5 g, nhục thung dung 5 g, thịt dê 50 g, bột mì 200 g. Sắc kỹ tỏa dương và nhục thung dung, lấy nước bỏ bã rồi nhào với bột mì thật nhuyễn, cán mỏng, cắt thành sợi, nấu với thịt dê, chế đủ gia vị, dùng làm đồ điểm tâm hàng ngày.

- Hạnh nhân 15 g, đương quy 15 g, phổi lợn 250 g. Phổi lợn rửa sạch, thái miếng, chần qua nước sôi rồi đem nấu với hạnh nhân và đương quy cho chín, chế đủ gia vị, ăn nóng.

(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#tung