Chương 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Có một thiên thần trước mắt tôi.

Đó là một cậu bé với mái tóc màu nâu hạt dẻ hơi bù xù, mắt cậu màu xanh lơ đậm, và khuôn mặt đỏ hồng khoẻ mạnh.

"Đây là mình sao."

Tôi mới tìm thấy chiếc gương cầm tay cũ này trên kệ đồ nghề ở góc đền. Tò mò không biết ngoại hình mình trông thế nào, tôi đã vướn tay lấy nó. Tôi trông còn dễ thương hơn mình tưởng.

Mà nghĩ lại thì cũng chẳng có gì lạ khi tôi trông dễ thương hơn nhiều người, đơn giản là vì tôi vẫn còn bé thôi. Hồi còn bé, ai trông cũng dễ thương hơn phải đến mấy lần. Kể cả mấy người đàn ông râu ria xồm xoàm trông cũng rất đáng yêu khi ta nhìn ảnh thuở bé của họ.

"Ừ..." Tôi nhẹ nhàng đặt chiếc gương lại chỗ cũ. Tôi nắm tay lại rồi mở tay ra. Nắm lại, rồi mở ra.

Một bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại, bụ bẫm. Bàn tay của tôi.

Đã một năm và vài tháng trôi qua rồi.

Ngạc nhiên thay, sau ngày tôi chấp nhận tên gọi và cơ thể mới này, cái cảm giác cơ thể tôi không cử động theo ý muốn nhanh chóng biến mất. Ký ức về cách tôi điều khiển cơ thể trước khi chết đều đã phai mờ đi. Giờ đây tôi đã công nhận bàn tay, bàn chân bé nhỏ này là tay chân của mình. Tâm trí và cơ thể tôi đã hoà hợp làm một.

Không lâu sau tôi đã có thể loạng choạng đi lại, cũng như nói chuyện, dù còn hơi lọng ngọng. Tôi đã dành cả năm vừa rồi để liên tục luyện tập đi lại, cũng như học từ ngữ và cách phát âm bằng cách nói chuyện với Mary và những người khác.

Nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn bị ngã dập mặt. Chắc là vì đầu tôi vẫn còn lớn hơn so với cơ thể. Và cũng có thể là vì thị giác, cảm giác thăng bằng và cơ bắp của tôi đang chưa phát triển hết. Không chỉ có vậy đâu, độ chịu đau của tôi vẫn còn rất thấp nữa. Chắc bạn cũng tưởng tượng được rồi, cứ lần nào ngã là tôi lại khóc rống lên.

Nhưng dù vậy tôi vẫn đang có tiến bộ, từng chút một. Dù chỉ là tiến bộ đối với một đứa trẻ sơ sinh, nhưng đó vẫn là tiến bộ. Ít nhất thì tôi không còn ở trong giai đoạn chỉ biết bò và khóc nữa, chuyển sang giai đoạn có thể đi học nhà trẻ mẫu giáo rồi. Có lẽ đã đến lúc tôi đặt ra một mục tiêu khác để cố vượt qua.

Tôi đã quyết định sống ở thế giới này. Tôi muốn có một cơ thể đáng tự hào, cũng như được học hỏi nhiều điều, nhưng giờ cứ phải làm từng thứ một đã. Vậy nên, việc đầu tiên trong danh sách của tôi là...

"Hửm, nhóc muốn học đọc sao?"

Chúng tôi đang ở trong một căn phòng nhỏ nằm sâu trong ngôi đền. Căn phòng được bao quanh bởi những bức tường đá, ở giữa là một chiếc ghế gỗ nhỏ cùng một cái bàn viết, và cả một chiếc giường trông khá là thoải mái nằm trong hốc tường nữa.

Một ông già cáu kỉnh với cặp mắt sắc bén và cái mũi quặp đang đứng trước tôi, khoanh tay xoa cằm. Ông ấy mặc một chiếc áo choàng rộng, cơ thể của ông mờ ảo, xuyên thấu, và không được cấu thành từ vật chất. Chắc ta có thể gọi ông ấy là linh hồn, hoặc bóng ma.

"Vâng. Làm ơn mà, ông Gus." Tên ông ấy thật ra là Augustus, nhưng Mary và mọi người đều rút gọn thành vậy.

Giờ tôi đang xin ông ấy dạy tôi đọc. Thật ra thì tôi muốn hỏi ông ấy nhiều chuyện quan trọng hơn. Ví dụ như về thế giới này, hoặc những ký ức kỳ lạ của tôi.

Nhưng bất cứ câu hỏi nào mà một đứa trẻ như tôi hỏi đều sẽ bị trả lời một cách vu vơ, đơn giản. Liệu có ai đi giải thích về thiên văn học, vật lý, và thuyết phản ứng nhiệt hạch khi một đứa trẻ hỏi "Vì sao mặt trời lại sáng?" không. Thường là không. Ai cũng sẽ trả lời kiểu như thế này "Đó là vì Ông Mặt trời đang toả sáng và giữ cho chúng ta được ấm áp đó."

Tôi đã thử hỏi họ vài điều về thế giới này, nhưng lần nào cũng bị làm ngơ. Vẫn còn quá sớm để tôi hỏi những câu như vậy. Mấy câu đó phải đợi đến khi nào tôi bồi đắp được một lượng kiến thức nhất định, cũng như khiến cho bọn họ coi tôi là một người có thể tranh luận về những vấn đề như vậy đã.

"Hừm, học đọc sao. Ta nói thẳng. Nếu không thu được tiền thì ta chẳng hứng thú đâu. Chưa kể nhóc vẫn còn nhỏ quá để làm vậy."

"Nhưng mà cháu muốn hiểu."

"Còn bé quá. Xuỳ, xuỳ." Ông ấy vẫy tay đuổi tôi.

Không như xác ướp Mary, người luôn chăm lo cho tôi bất cứ khi nào có thể, hay bộ xương Blood, người dành nhiều thời gian với tôi, hồn ma Gus chẳng hề để tâm đến tôi. Ông ấy có thể thẳng thừng trách móc tôi, và nếu tôi mà hỏi ông ấy việc gì, thì thường ổng toàn tỏ vẻ khó chịu rồi từ chối tôi.

Ông ấy rất cứng đầu và thỉnh thoảng còn kiêu căng nữa, rất khó gần. Nhưng dù có nhiều khuyết điểm như vậy, tôi tin chắc rằng ông ấy là người thông minh nhất trong cả ba người. Từ vốn từ cũng như cách lựa chọn lời nói của ông ấy, tôi có thể thấy rằng ông là một người có học.

"Nhưng mà cháu muốn hiểu cơ."

"Không cần phải nói lại như vậy đâu."

"Thôi mààà! Cháu muốn hiểu! Làm ơn đấyyyyy!" Tôi ăn vạ giống như một đứa trẻ. Lần cuối cùng tôi cầu xin cha mẹ mình như thế này là khi nào nhỉ? Nhớ lại hồi còn bé, tôi bắt đầu đùa vui một chút. "Đi mà! Đi mà, đi mà, đi mà! Làm ơn mà Gus! Dạy cháu đi mà?!" Tôi thấy mình chẳng khác gì một đứa trẻ cả. Cơ thể này có lẽ cũng đang ảnh hưởng đến tính tình của tôi. Nếu nghĩ kỹ thì cũng chẳng có gì lạ lắm. Não tôi vốn là của một đứa trẻ mà. Nhưng nếu vậy thì, tại sao nhận thức và tư duy của tôi lại giống người lớn như vậy?

Nhận thấy nếu thắc mắc nhiều quá thì tôi sẽ lâm vào vòng suy nghĩ luẩn quẩn mất, tôi quyết định không nghĩ nữa, chỉ tiếp tục ăn vạ mà thôi.

"Thánh thần ơi! Được rồi, được rồi!" Sau khi lẩm bẩm phàn nàn gì đó về lũ trẻ con, Gus thở dài rồi nhìn tôi. "Ta đến chịu với nhóc đó. Thế nhóc muốn học đọc à?"

"Vâng." Tôi không hiểu chữ viết của thế giới này lắm.

"Hừmmm... Nếu vậy thì, đầu tiên..." Gus giơ một tay về phía kệ sách bên tường, và một cuốn sách bay vào tay ông ấy.

Khả năng ngoại cảm? À mà hồn ma có tồn tại ở đây nên cũng chẳng có gì lạ. Tôi giờ chẳng còn ngạc nhiên với mấy thứ như vậy nữa.

"Đầu tiên nhóc phải học các chữ cái đã." Ông ấy mở sách ra và chỉ vào một danh sách các chữ trông giống như bảng chữ cái. Nhưng-

"Không, cái này cháu biết rồi ạ."

"Biết? Biết cái gì cơ?"

"Cháu biết đọc những chữ này." Phần này thì tôi hiểu rồi. Tôi đã sống ở ngôi đền này trong hơn một năm, được bao quanh bởi những bức phù điêu, nhìn những bức tranh và ký tự được chạm khắc trên chúng trong khi nghe mọi người nói chuyện.

So sánh tần số lặp lại của các âm thanh khác nhau khi nói với tần số lặp lại của các chữ cái trong văn tự đã giúp tôi hiểu được phần nào rồi. Chữ "E" được phát âm nhiều nhất, sau đó là chữ cái "A" và "T", nên tôi bắt đầu học từ đó và nhanh chóng chuyển sang những chữ còn lại.

Thế nên tôi đã có thể đọc được chúng rồi.

"Gì cơ?" Gus trố mắt nhìn tôi.

"Cháu đọc được chúng rồi."

"Thế ở đây ghi gì?"

"Nó ghi, 'Những cánh hoa thơm bay trong gió. Thế giới, cũng giống như cuộc đời tôi, luôn luôn đổi thay.' Phải không ạ?"

Dễ ợt.

"Blood hay Mary dạy nhóc à?"

"Không. Cháu nghe mọi người nói chuyện, nhìn các chữ cái, và tự hiểu ra ạ." Cuộc sống trong ngôi đền này không thú vị cho lắm, và cơ thể trẻ con của tôi cũng chẳng đi lại được nhiều. Tôi có rất nhiều thời gian để suy ngẫm, nên tôi đã dành thời gian làm việc này, giống như ngồi giải mã câu đố vậy, cho đỡ chán.

"Will..." Gus dường như chìm sâu vào suy nghĩ một lúc, rồi ông ấy hỏi tôi bằng một giọng nghiêm túc. "Vậy thì con muốn hỏi điều gì?"

"Mấy chữ cái đẹp nhưng phức tạp trên tượng thần ấy ạ."

Theo những gì tôi giải mã được từ những bức điêu khắc ở khắp ngôi đền, hệ thống chữ viết của thế giới này dùng bảng chữ cái tượng thanh. Nhưng trên những bức điêu khắc của thần thánh và những nơi tương tự, thì lại có những ký tự chạm khắc phức tạp. Tôi không hiểu những chữ đó. Chúng là gì, và tôi đọc chúng kiểu gì? Hay liệu chúng chỉ có tác dụng trang trí mà thôi?

"À, Từ ngữ Sáng tạo. Chúng được dùng trong những phép thuật cổ xưa."

"Sáng tạo... Phép thuật..." Giờ ta bắt đầu đụng đến sự sáng tạo và phép thuật à.

"Hừm. Bắt đầu từ đâu nhỉ..."

"Từ đầu đi ạ." Tôi trả lời.

Nhiều còn hơn ít. Tôi đã được trời phú cho một trí nhớ khá là tốt rồi. Với lại, kể cả nếu tôi không nhớ hết được, tôi cũng chỉ cần hỏi lại lần nữa, bao nhiêu lần cũng được.

"Vậy thì ngồi cho thoải mái đi. Sẽ khá là dài đấy. Từ lâu, rất lâu về trước, lâu hơn cả con có thể hình dung được, khi thế giới vẫn còn ở thuở sơ khai. Khi đó, thế giới chỉ là một khối hỗn loạn, sục sôi, dòng Mana Vĩ đại cuồn cuộn toả nhiệt, không thể thành hình được."

Tôi không ngờ ông ấy lại bắt đầu từ thời điểm Sáng tạo.

"Ta... Ta bắt đầu từ đó?"

"Chúng ta bắt đầu từ đó." Ông ấy đang rất nghiêm túc.

"Trong thuở hỗn loạn đó, vị Thần Đầu Tiên xuất hiện ở một nơi không ai biết, và vị Thần nói, 'Mặt đất hình thành', vậy là mana đông đặc lại dưới chân Ngài, trở thành mặt đất, và mana loãng đi trên đầu Ngài, trở thành bầu trời. Thế là từ đó trời và đất tách biệt nhau."

"Chúng ta gọi vị Thần này là 'Đấng Sáng Tạo' hay 'Đấng Khởi Đầu', bởi vì tên của Ngài không được lưu truyền lại."

Hình như chuyện này có nét tương đồng với truyền thuyết sáng tạo của thần thoại Hy Lạp và Cơ Đốc giáo.

"Sau đó, Đấng Sáng Tạo nói Từ ngữ và khắc Ký hiệu, tạo ra mặt trời và mặt trăng, chia ngày và đêm, dồn nước lại để chia biển và đất liền."

"Lửa được sinh ra, gió được sinh ra, cây cối được sinh ra. Các vị thần được sinh ra, và con người cùng động vật cũng được sinh ra."

"Rồi khi Đấng Sáng Tạo đã tạo ra thế giới, và cảm thấy hài lòng với vẻ đẹp của nó rồi, Ngài đã vô tình tự nói với bản thân, 'Tốt'. Nhưng để khiến một cái gì đó 'tốt' cũng đồng nghĩa với việc biến cái gì đó trở nên 'xấu', cũng như khi mặt đất đông đặc lại khiến bầu trời được tạo ra."

"Và vậy là tội lỗi cùng những ác thần được sinh ra. Đấng Sáng Tạo cố rút lời, nhưng kể cả thần thánh cũng không thể lấy lại những lời đã được nói ra."

"Những ác thần được sinh ra trên thế giới đã giết Đấng Sáng Tạo, và thế là sự sống và cái chết được hình thành. Sau đó là cả một thời đại của vô số vị thần và vô số huyền thoại." Gus dừng lại một lúc.

"Những từ ngữ và ký hiệu dùng trong câu chuyện này chính là Từ ngữ Sáng tạo," ông ấy kết thúc.

Ồ, thì ra là thế.

"Vậy chúng là những từ ngữ tạo nên thế giới sao?"

"Phải. Những Từ ngữ và Ký hiệu... Thôi cứ gọi chúng là chữ cái đi. Những từ ngữ và chữ cái đó có sức mạnh."

Sức mạnh. Sức mạnh sao?

"Vậy chúng có thể làm gì?"

"Hừm, xem nào..." Ngón tay của Gus nhảy múa trong không trung. Một ánh dạ quang bí ẩn xuất hiện ở đầu ngón tay ông ấy và chạy theo những đường mà Gus đã vẽ, tạo nên hai ký tự phức tạp trôi nổi giữa không trung. Rồi ngón tay ông ấy chậm rãi, cẩn thận, vẻ một chấm cuối cùng lên ký tự thứ hai.

"Oái!" Tôi cuống cuồng lùi lại. Những chữ cái được vẽ trong không trung đột nhiên biến thành một ngọn lửa đỏ rực rỡ. Ngọn lửa trôi nổi giữa không trung, và tôi có thể cảm thấy nhiệt toả ra từ nó. Đó là một ngọn lửa thật.

"Vậy là đủ để minh hoạ rồi phải không?" Gus lẩm bẩm một hai giai điệu. Ngọn lửa bập bùng biến mất hoàn toàn, cứ như thể tất cả chỉ là ảo ảnh vậy.

Tôi nhìn chằm chằm vào đó như thể bị hút hồn.

Đó là phép thuật. Không phải mấy trò mánh khoé! Mà là phép thuật thật sự. Thế giới này có phép thuật.

Tuyệt quá. Tuyệt quá. Tôi thực sự hào hứng trước những gì mình vừa được xem.

Bạn có thể hỏi rằng sau khi thấy ma, xác ướp và bộ xương biết đi thì việc này còn gì to tát đâu, nhưng đối với tôi thì một hệ thống pháp thuật hoàn chỉnh nó khác hẳn mấy thứ kinh dị, siêu nhiên kia.

"Con đã rõ chưa? Vẽ biểu tượng Ignis tượng trưng cho ngọn lửa ở đó, và không khí sẽ ngay lập tức bùng cháy. Nếu con nói Từ ngữ Xoá bỏ để dập lửa, thì ngọn lửa sẽ biến mất."

"Đó chính là Từ ngữ Sáng tạo, hay còn gọi là phép thuật."

Lúc đó tôi không nghĩ đến "phép thuật" mà tôi biết đến qua những trò chơi trên máy tính, mà là phép thuật trong những tiểu thuyết fantasy theo phong cách cổ điển. Đó không phải là một kỹ năng ta có thể dễ dàng dùng miễn là có đủ điểm phép lực, mà là một trong những bí mật cổ đại nhất của thế giới, không được phép bất cẩn sử dụng.

Đó là cảm nghĩ của tôi khi ở trong căn phòng đá sáng lờ mờ, nhìn hồn ma già mũi quặp này hãnh diện kể về thứ sức mạnh bí ẩn kia.

"Con cần phải hiểu rằng Từ ngữ Sáng tạo vô cùng bất tiện. Sức mạnh của chúng gây trở ngại cho cả việc viết lẫn nói. Chính những Từ ngữ Đấng Sáng Tạo từng sử dụng cũng đã khiến cho các ác thần xuất hiện và lấy mạng Người."

Đúng thật. Kể cả việc ghi chép cũng sẽ rất nguy hiểm nếu như chỉ cần ta viết chữ "lửa" vào là trang giấy sẽ cháy lên. Nếu vậy thì bất tiện quá, và cũng cản trở sự phát triển của nền văn minh nữa. Kể cả cuộc sống hàng ngày của người dân cũng sẽ bị ảnh hưởng.

"Chính vì vậy, vị thần một mắt của kiến thức, Enlight, đã chọn ra hai mươi phụ âm và năm nguyên âm. Để cho những Từ ngữ Sáng tạo không bộc lộ sức mạnh, ngài đã giản lược các chữ cái cũng như cách phát âm của chúng, và tạo ra ngôn ngữ khiếm khuyết mà ta thường gọi là Ngôn ngữ Chung."

Hiểu rồi. Nếu lấy ví dụ từ tiếng Nhật, thì Từ ngữ Sáng tạo sẽ là những ký tự kanji phức tạp. Viết kanji một cách bất cẩn sẽ rất nguy hiểm, và có thể tạo ra cháy nổ. Để tránh điều này xảy ra, một vị thần thông thái đã giản lược các ký tự, và tạo ra một bộ chữ cái tiếng Nhật khác: chữ Kana, có cách phát âm cũng gần giống nó.

Nhưng có điểm khác biệt là Ngôn ngữ Chung sử dụng các chữ cái âm vị chứ không phải là âm tiết. Nếu phải so sánh thì nó giống bảng chữ cái alphabet hơn là bảng chữ Kana.

Ít nhất thì giờ tôi cũng hiểu rằng các chữ cái này không bắt nguồn từ một hệ ngôn ngữ khác hoàn toàn, hay chỉ là các ký hiệu dùng để trang trí. Chúng cùng thuộc một ngôn ngữ, cũng giống như tiếng Nhật được tạo nên từ Kanji và Kana vậy.

"Cái con vừa đọc là Ngôn ngữ Chung, còn cái con không đọc được là Từ ngữ Sáng tạo, được viết trong Ký hiệu của các vị thần, cũng như dùng trong các phép thuật vĩ đại của thời xưa. Những ký tự khắc quanh đền đã được viết theo cách sao cho nó không bị kích hoạt. Vài chữ bị rạch vào, có chữ bị cố tình viết sai vài chỗ, cũng có những chữ được thiết kế cách điệu lên."

Ra vậy. Nếu khiến các ký hiệu bị khiếm khuyết sẽ làm chúng không kích hoạt được, thì ta chỉ cần khắc hình dạng của chúng vừa đủ sai để vẫn nhận dạng được là xong.

Tôi tự hỏi tại sao họ lại phải tốn công đến vậy để ghi lại Từ ngữ Sáng tạo, nhưng càng lắng nghe thì tôi càng hiểu hơn.

"Từ ngữ Sáng tạo đưa con người đến gần Thần Thánh hơn là Ngôn ngữ Chung. Vậy nên những Từ ngữ này cần được khắc trong một ngôi đền dùng để thờ Thần Thánh. Con đã hiểu chưa?"

"Vâng, cháu hiểu rồi." Tôi gật đầu lia lịa. Đúng là có lý thật.

"Hừm. Được rồi, Will, thế này thì sao. Con có biết tại sao Từ ngữ lại mang sức mạnh như vậy không?" Gus cười toe toét và đặt câu hỏi.

Ưm, vậy là Gus đang muốn tôi nghĩ về...

"Cũng giống như... tại sao chúng ta lại gọi chiếc ghế là chiếc ghế phải không?" Tôi hỏi. "Hừm..." Hình như tôi đã từng đọc về nó ở đâu rồi thì phải. Vấn đề này kể cả thế giới cũ của tôi cũng có nhắc tới, khi họ bàn luận về sự nhận thức, hình dung và các khái niệm.

Về cơ bản thì, khi ta nhìn một cái ghế gỗ bốn chân, cho dù nó màu gì, hay nó được làm từ loại gỗ gì, ta vẫn sẽ nghĩ, "Đây là cái ghế." Ta nghĩ như vậy mặc dù những cái ghế đó không hoàn toàn giống nhau. Ta đã phân loại chúng trong đầu bằng cách dán mác "cái ghế" lên chúng.

Thường ta không nhận thức chúng là "bốn chân và một cái ván," ta cũng chẳng nghĩ chúng là một "cái bàn," mặc dù cái bàn cũng có bốn chân và một cái ván. Hơn nữa, khi chúng ta nhìn thấy một người ngồi trên ghế, ta sẽ không nghĩ đó là "kết hợp giữa gỗ và người." Mà chúng ta sẽ nhận thức nó là "một cái ghế và một con người."

Tất nhiên là ta vẫn có thể nhận thức cái ghế là "bốn chân và một cái ván" nếu như ta cố tình nghĩ như vậy, hay thậm chí là "một khối sợi gỗ." Ta cũng có thể phân biệt "cái ghế này" với "cái ghế kia," nói được điểm khác biệt giữa những thứ khác nhau trong cùng một phân loại.

Nói tóm lại thì, chúng ta đã dán những cái nhãn mà chúng ta gọi là "từ ngữ" cho các đồ vật. Nó giúp chúng ta phân loại thế giới hỗn loạn này, khái niệm hoá chúng, và chia nhỏ nó ra để giúp ta dễ nhận thức hơn. Nếu không có khả năng đó thì chúng ta sẽ không thể tồn tại được.

Ngôn ngữ là sức mạnh ngăn cách thế giới với một khối hỗn mãng, cũng giống như trong truyền thuyết sáng tạo mà tôi vừa được nghe vậy.

Đến lúc tôi tóm tắt lại mớ suy nghĩ của mình rồi.

"Đó là vì Từ ngữ giúp chia nhỏ thế giới thành nhiều phần và định nghĩa cho chúng." Tôi nói.

Gus trông rất ngạc nhiên khi nghe câu trả lời của tôi. Mắt ông ấy mở to, và mồm ông ấy cứ há ra rồi lại đóng lại.

Tôi xấu hổ nhìn xuống.

Sự bất ngờ của Gus làm tôi thấy xấu hổ hơn là tự hào.

Bởi vì tôi có ký ức từ kiếp trước, tôi có kiến thức-dù có nông cạn đến thế nào-mà những đứa trẻ sơ sinh khác không thể nào biết được. Cứ như thể tôi đã gian lận vậy.

Nếu "tài năng" là một món quà ta có từ lúc sinh ra, thì có lẽ những ký ức này của tôi cũng được coi là tài năng nhỉ. Nhưng tôi vẫn không thể chấp nhận được điều đó.

Gus bay ra khỏi phòng, đi xuyên qua tường. Ông ấy tìm thấy Mary và Blood ở trong sảnh chính, và khi còn chưa đến chỗ họ, ông đã bắt đầu bùng nổ, nói lắp bắp liến thoắng rồi, "T-T-T-T... Thằng nhóc có lẽ tài năng gần bằng ta đó!"

Tôi bắt đầu thấy không thoải mái.

"Trời ạ. Có chuyện gì à, Già Gus?"

"Ồồồ, Mary, thằng bé đó! Tại sao ư, ta-"

Tôi đứng đằng xa nhìn Gus háo hức kể lại những gì vừa xảy ra. Ông ấy vung vảy cánh tay mờ ảo màu xanh xanh của mình, và giải thích rằng ở tuổi tôi mà có khả năng lập luận, đối đáp như vậy thì quá là phi thường, rồi tôi có suy nghĩ sâu sắc như thế nào, rồi gì mà khả năng nắm bắt bản chất thật của vạn vật cũng đồng nghĩa với khả năng phép thuật...

Xác ướp Mary điềm tĩnh lắng nghe. "Thật sao."

Còn bộ xương Blood thì đang đứng dựa lưng vào tường và nhìn về một hướng khác. Ông ấy trông chẳng có vẻ gì là hứng thú cả.

"Nếu chúng ta huấn luyện nó từ sớm, thì nó có thể sẽ không vô dụng đâu! Cá nhân ta không thích nhặt rác trên đường, nhưng có lẽ thằng nhóc này thì lại khác. Nó có thể-"

Tôi điếng người.

"Ông già!" Một giọng nói quát ông ấy chẳng khác gì doi đánh, trước cả khi tôi kịp suy nghĩ chuyện gì.

Đó là giọng của Blood, vẫn đang đứng dựa lưng vào tường. Ánh lửa xanh cháy bùng lên trong hốc mắt trống rỗng của ông ấy. "Cẩn thận cái mồm ông. Thằng bé mới chỉ được vài tuổi thôi. Ông nói như vậy là quá đáng rồi đó." Tôi có thể cảm thấy Blood đang lườm ông ấy.

"Nhưng mà nó được tìm thấy trên mặt đất phải không! Ta nói có sai không? Lúc đó ta không muốn dính dáng gì đến nó."

"Không phải chuyện đó."

"Giờ khi đã biết nó có tài rồi, ta sẽ có thể dạy nó vài điều hoặc-"

"Vẫn không phải chuyện đó." Blood bước một bước về phía ông ấy.

Tôi cảm thấy như có bầu không khí vô hình nào đó đang bao phủ Blood vậy. Đến giờ tôi mới để ý, nhưng Blood đúng là to thật đấy. Chắc mọi người hay gọi những người cao lớn là "xương to" là vì thế này đây.

"Thôi, nào..."

Kể cả khi đang đứng ngoài xem, tôi vẫn cảm thấy nổi da gà trước màn tấn công như vũ bão của Blood.
"Nghe này, Già Gus. Tôi biết bản chất ông vốn luôn nói như vậy rồi. Sau bao nhiêu lâu nay tôi sẽ không bắt ông phải thay đổi nữa. Bởi vì đó mới chính là ông."
"Nhưng ông không được gọi một đứa bé là 'rác' khi vẫn còn ở trong tầm tai của nó như thế. Kể cả ông cũng tưởng tượng được nó sẽ cảm thấy như thế nào khi nghe vậy phải không."
Blood liếc nhìn tôi, rồi quay lại lườm Gus.
Tôi không thể tin được cảnh tượng trước mắt mình.
"Ừm..."
Gus kiêu ngạo, cứng đầu đang bị áp đảo sao. Trong khi thường thì Blood mới là người bị hai người kia trách mắng vì sự bất cẩn, thiếu trách nhiệm của mình.
"Nếu ông không muốn dính dáng gì đến việc nuôi dạy Will, thì cứ thoải mái. Ông có thể đi đâu làm gì khuất tầm mắt bọn tôi cũng được. Nhưng nếu ông muốn dạy dỗ thằng bé, thì hãy vì nó mà bỏ cái thái độ đó đi. Ông làm vậy được chứ?"
Gus im lặng một lúc. Rồi sau khi chậm dãi gật đầu thở dài, ông ấy cuối cùng cũng nhận lỗi.
"Cậu nói đúng. Ta đã nói năng không suy nghĩ. Trong tương lai ta sẽ cẩn thận hơn. Xin lỗi nhé, Will."
"Ư, không sao đâu ạ..."
Đây là lần đầu tiên tôi thấy hai người họ như vậy. Lấy lại bình tĩnh, tôi quyết định nói gì đó để xoa dịu tình hình. Tôi phải tỏ ra mình đã bỏ qua chuyện này để mọi người có thể tiếp tục hoà thuận với nhau.
"Ưm, cháu ổn mà, Gus. Ông đừng lo." Tôi không nghĩ được câu gì hay hơn để còn nói.
Nghe vậy, Blood cũng hạ hoả đi phần vào, và hơi cúi đầu xin lỗi Gus. "Tôi cũng đã làm hơi quá. Không nên đột nhiên hung hăng với ông như vậy. Cho tôi xin lỗi. Liệu chúng ta có thể cùng bỏ qua chuyện này được không?"
"Ừm." Gus gật đầu. "Ta cũng chẳng lạ gì với tính lỗ mãng của cậu. Đừng bận tâm làm gì."
"Này, Mary, anh mượn Will chút xíu nhé."
Từ đầu đến giờ Mary vẫn luôn quan sát hai người họ với vẻ bình thản như thường ngày. "Được thôi. Gus, ông có thể kể thêm về chuyện đó được không?"
"Will, ra ngoài đây một lát."
"V... Vâng." Tôi không hiểu được chuyện gì vừa xảy ra. Tất cả diễn ra nhanh quá.
Nhưng tôi chắc chắn một điều.
Blood đã nổi giận, và ông ấy đã làm vậy vì tôi.

Tàn tích của thành phố vẫn đẹp như mọi ngày.
Ánh nắng ban mai đang chiếu sáng lấp lánh trên mặt hồ.
"Ừm... Will này."
Ngồi trên đồi, ngắm nhìn cảnh tượng tráng lệ đó: là một bộ xương.
Hai hình ảnh này chẳng có hợp nhau tí nào.
"Con có lẽ không biết gì về chuyện này, vì con đã ở đây từ khi bắt đầu nhận thức được rồi, nhưng..." Blood gãi đầu lâu cứ như thể đang phân vân không biết nên giải thích như thế nào. Ánh lửa xanh nhạt trong hốc mắt ông ấy bập bùng. "Con nhận ra rồi phải không? Rằng con khác ta, Mary và Già Gus."
"Ưm... Vâng. Con biết. Rằng con là người duy nhất có hơi ấm và thở được."
"Ừ, phải. Chuyện, ưm, phức tạp lắm. Phức tạp vô cùng..."
Tất nhiên là tôi đã nhận ra rằng xuất thân của mình không bình thường rồi. Một thành phố đổ nát, những undead, và ở giữa chúng là một đứa trẻ loài người vẫn đang sống. Đúng là kỳ lạ.
Gus đã nói rằng tôi được "nhặt lên," nên chắc tôi là một đứa trẻ bị bỏ rơi hoặc tương tự như vậy. Mary là loại người có tình mẫu tử, nên có lẽ cô ấy đã nhận nuôi tôi, còn Gus thì không đồng tình, chắc vậy. Tôi có thể phỏng đoán đủ thứ, nhưng nếu không có ai giải thích thì tôi không thể biết sự thật là gì được. Với lại...
"Bây giờ... chưa phải lúc."
"Vâng."
Không có gì lạ lắm. Chẳng có người lớn nào lại nói với một đứa trẻ như tôi biết rằng nó đã được nhận nuôi, hay giải thích về xuất thân phức tạp của nó, cho dù đứa trẻ đó có thông minh hơn những đứa cùng tuổi đến thế nào đi nữa. Tất nhiên là họ sẽ giấu chuyện đó rồi.
Blood nhẹ nhàng nhún vai. Tôi đột nhiên nhận ra rằng lý do Blood nổi giận với Gus không phải là vì nói năng không suy nghĩ với một đứa trẻ, mà là vì ông ấy đã để lộ xuất thân của tôi.
"Ưm, còn Già Gus. Đừng giận ổng quá nhé? Cứ khi nào bị kích động là ông ấy lại như vậy đấy, đầu óc nghĩ gì là nói ra bằng hết. Kể cả lúc bình thường ổng cũng chẳng bao giờ chịu nói năng có ý tứ rồi."
"Vâng. Không sao đâu. Con không giận mà. Chỉ hơi bất ngờ chút thôi." Chắc lý do ông nổi giận đùng đùng như vậy cũng là để làm tôi phân tâm.
Trước khi tôi kịp hiểu ý Gus khi nói "rác trên đường" và bắt đầu nghĩ xấu về ông ấy, Blood đã ra tay và khiến tôi nghĩ về chuyện khác.
"Ừ. Con có một trái tim rộng lớn đấy, Will. Lớn như vậy là tốt. Hay thế này đi. Khi nào cơ thể con cũng lớn như trái tim mình, và con đủ chín chắn để hiểu hết chuyện, ta hứa sẽ kể cho con nghe tất cả những chuyện ta không thể nói bây giờ."
"Vâng."
Tôi không có ý kiến gì.
Giờ khi cuối cùng cũng hiểu được ông ấy, tôi nhận ra Blood đã luôn quan tâm đến tôi.
Blood tuyệt thật đấy, tôi nghĩ. Liệu tôi đã bao giờ đối xử với người khác như vậy trước khi chết chưa? Liệu tôi đã làm được như ông ấy chưa? Ký ức của tôi vẫn rất mập mờ, nhưng tôi nghĩ câu trả lời chắc là không. Gần như chưa bao giờ nhỉ? Không, chắc chắn là chưa bao giờ. Tim tôi như thắt lại khi nghĩ vậy.
"Blood?"
"Hửm?"
"Ưm, cảm ơn. Vì tất cả mọi chuyện ạ." Tôi không giỏi diễn đạt lắm. Ông ấy đáng được cảm ơn tử tế hơn.
"Ha ha ha! Có gì đâu." Đốm lửa trong hốc mắt ông ấy nhấp nháy. Tôi không đọc được biểu cảm của đầu lâu, nhưng tôi có cảm giác ông ấy vừa mới cười tươi với tôi.
Ông ấy xoa đầu tôi rồi đứng dậy. "Được rồi. Con đi nói chuyện với Gus và học viết với cả phép thuật các thứ đi. Nói gì thì nói, ổng vẫn là một pháp sư cực kỳ tài giỏi đấy. Có điều ổng lúc nào cũng cuồng zeni." Ông ấy cười, xương hàm đập lách cách vào nhau, rồi Blood nói thêm, "A, chắc con không biết zeni là gì nhỉ..." và cười thêm vài lần nữa.
"À, nếu như ông già mà dạy con, thì ta cũng phải làm cả phần của mình nữa nhỉ! Ta có hàng tá thứ để dạy con đấy! Chuẩn bị tinh thần đi!"
"Vâng! Thế chú định dạy con cái gì, Blood?" Giờ tôi bắt đầu tò mò rồi. Blood trông chẳng giống học giả gì cả.
"Hừm... Bạo lực."
Cái gì cơ?
"Bạo lực. Cách để đánh thật ác liệt. Và cách luyện tập cơ bắp, chắc vậy?"
"Hở?"
"Nó có ích lắm đó."
Gì cơ?

"Hồi Blood còn sống..." Mary bắt đầu nói trong khi ngồi cạnh tôi trên một chiếc ghế dài trong sảnh chính ngôi đền.
"Ư, hồi chú ấy còn sống? Đợi đã, vậy nghĩa là..."
"Phải. Chúng ta không phải lúc nào cũng như thế này. Do... nhiều chuyện lắm. Phải, đã có nhiều chuyện xảy ra khiến cho chúng ta thành ra thế này." Nụ cười của Mary trông hơi buồn.
Tôi không thể hỏi chuyện gì đã xảy ra được. Chắc hẳn, kể cả nếu tôi hỏi, thì cô ấy cũng sẽ đánh trống lảng ngay.
Nhưng chuyện này có vẻ khá quan trọng, cần phải để tâm đến. Ba người họ không phải lúc nào cũng ở trong hình hài bộ xương, xác ướp, và hồn ma này.
Theo như kiến thức từ kiếp trước của tôi, thì thường chuyện này xảy ra là do người chết vẫn còn hối tiếc vì những chuyện chưa làm được. Liệu tình huống này cũng giống như vậy, hay là vì lý do khác?
Vì vẫn còn bé nên tôi không được tiếp cận với nhiều thông tin, không thể kết luận chắc chắn điều gì được. Tôi quyết định không phỏng đoán nữa để tránh hình thành những định kiến sai lầm.
"Hồi còn sống, anh ấy là một chiến binh."
"Chiến binh?"
"Chiến binh. Nghĩa là một người chiến đấu bằng vũ khí. Mấy đứa con trai thường thích chuyện này lắm."
Vậy là cấu trúc xã hội ở đây vẫn còn rất cổ nên một nghề nghiệp như vậy vẫn còn tồn tại. Sau khi nhìn đống đổ nát của thành phố kia, tôi đã đoán rằng trình độ phát triển của nó cũng ở trong giai đoạn này rồi, và câu nói của cô ấy đã khẳng định rằng xung đột giữa con người có tồn tại ở đây.
Nếu tôi định sống trong thế giới này, thì có vẻ như tôi sẽ cần phải học cách chiến đấu.
"Blood khoẻ lắm con biết không? Anh ấy có kinh nghiệm dày dặn, cùng với kỹ năng điêu luyện. Anh ấy bắt đầu từ việc đánh nhau với con người, rồi chuyển đến đánh nhau với thú hoang, mãnh thú, goblin, undead, người khổng lồ, bán long, quỷ, 'ai thích thì cứ nhào vô'-kiểu như vậy."
"Hở," Tôi vu vơ trả lời, rồi đột nhiên cứng người.
"Ưm, Mary?"
"Sao vậy?"
"Cô vừa nói gì vậy?"
"Anh ấy bắt đầu từ việc đánh nhau với con người, rồi chuyển đến đánh nhau với thú hoang, mãnh thú, goblin, undead, người khổng lồ, bán long, quỷ-"
Đợi, đợi, đợi đã. Tôi không muốn vội vã kết luận vội. Bởi vì chưa chắc quái vật ở đây giống với những loại quái vật mà tôi biết, phải không?
"Đánh nhau với con người thì con hiểu... Nhưng còn những thứ khác thì sao?"
"Ồ!" Cô ấy cười. "Ta xin lỗi, mình ngốc quá đi. Ta chưa giải thích cho con về chúng phải không? Vậy thì làm sao mà con biết được nhỉ?" Cô ấy nghĩ một lúc. "Để xem nào... hình như có một cuốn sách minh hoạ về chúng ở trong phòng Gus."
Cô ấy nắm tay tôi, và dẫn tôi đi đến căn phòng đá nhỏ của Gus. Gus giờ đang ra ngoài, nhưng có vẻ Mary chẳng có vấn đề gì khi vô tư tìm kiếm căn phòng và mượn cuốn sách mà không cần hỏi.
"Đây rồi. Đây là những sinh vật hoang dã. Sói đói, sư tử, rắn khổng lồ..." Hình minh hoạ miêu tả một loạt những con vật quen thuộc. Tất nhiên là quen thuộc với kiến thức mà tôi có từ kiếp trước, dù chỉ là kiến thức tôi biết qua phim tài liệu trên vô tuyến. Tôi không thể kìm nén được "niềm vui" khi được nhìn thấy chúng một lần nữa.
"Mãnh thú là những sinh vật cực kỳ hung bạo và dữ tợn."
"Vâng..."
"Còn những loài khác... Gus đã dạy con về nguồn gốc của các huyền thoại rồi phải không? Đấng Sáng Tạo, tồn tại trước tất cả chúng ta, đã nhân từ tạo nên muôn loài, nhưng ngài cũng đã tạo ra cái ác. Để rồi chính những ác thần mà Đấng Sáng Tạo tạo ra đã đem đến cái chết của ngài. Rồi những ác thần đó tạo ra nhiều thuộc hạ khác nhau tuỳ theo bản chất của họ." Mary chậm rãi lật trang giấy.
"Thuộc hạ của thần bạo ngược, Illtreat, được gọi là goblin."
Trang giấy vẽ hình thứ gì đó trông giống... tôi cũng chẳng biết, trông giống oni (quỷ trong văn hoá Nhật) nhỉ? Những con nhỏ thì trông rất ranh mãnh và độc ác, còn những con to hơn, cơ bắp hơn thì trông giống ogre (chằn tinh).
"Còn đây là những thuộc hạ của Dyrhygma, thần không gian. Chúng là loài quỷ, đến từ Địa ngục..."
Hình ảnh quỷ và những sinh vật như bước ra từ những cơn ác mộng được vẽ đầy trang giấy. Người đầu chim, những con nhện mọc vô số tay người thay vì chân nhện-những sinh vật trông chẳng khác gì hỗn hợp giữa người và động vật.
"Và những undead, thuộc hạ của thần undead, Stagnate..."
Xác sống-cùng với bộ xương, hồn ma, và xác ướp.
Nhưng tôi không cảm nhận được chút trí thông minh nào từ những undead được vẽ trên trang sách.
"Chúng ta đã lập giao ước với thần undead," cô thì thầm. "Sức mạnh ý chí lúc chúng ta chết đã dẫn đến việc chúng ta lập giao ước với Stagnate, và có hình dạng như hiện giờ. Chúng ta là những kẻ đã phản bội phe thiện thần." Giọng nói của cô ấy nghe vô cùng yếu ớt, và buồn rầu.
"Chuyện gì đã xảy ra vậy?" Tôi không thể kìm được câu hỏi, dù tôi biết mình sẽ chẳng thu được gì nếu đào sâu về chuyện này.
"He he... nhiều chuyện lắm. Ta xin lỗi, đây không phải là chuyện mà một đứa trẻ như con phải để tâm đến đâu." Mary cười. Một nụ cười gượng.
Cô ấy bình tĩnh lại và tiếp tục. "Tất nhiên là những vị thiện thần cũng có thuộc hạ rồi. Có elf, dwarf, halfling... Đủ loại giống loài."
"Mary..."
"Cũng có cả những giống loài trung lập mạnh mẽ nữa, như là người khổng lồ hay loài rồng chẳng hạn. Có loài theo phe thiện thần, có loài theo ác thần. Thế giới này rộng lớn lắm, với vô số giống loài. Những loài được ghi trong sách này chỉ là những loài nổi tiếng nhất mà thôi."
Cô ấy đang cố tình đánh trống lảng, và tôi biết là cô không có ý định tiếp tục nói về chuyện kia nữa.
Nên tôi cũng làm theo ý cô ấy. Nếu cô ấy đã không muốn nói thì tôi cũng chẳng thể nào thu được thêm thông tin nữa. Chẳng việc gì tôi phải gây rắc rối vì chuyện này cả.
"Vậy thế giới này... khá là nguy hiểm nhỉ?"
"Đúng vậy. Thời ta còn sống thì thế giới vẫn khá yên bình, nhưng hiện giờ thì ta không rõ. Có lẽ mọi chuyện đã tệ hơn trước nhiều rồi."
Tôi không khỏi thấy sốc khi nghe một ý kiến thẳng thừng như vậy. Dù không biết tại sao cô ấy lại nghĩ thế, nhưng tôi đã bắt đầu thấy lo lắng rồi. "Vậy là con cần phải mạnh hơn sao?"
"Nếu con làm vậy thì ta sẽ yên lòng hơn." Lời nói của cô ấy rất nhẹ nhàng, nhưng chúng lại đè nặng lên tâm trí tôi.
Tôi quyết định cố hết sức để trở nên mạnh hơn. Nghe có vẻ như chỉ những người mạnh mới có thể sống sót trong thế giới này.
Đồng thời, tôi thấy mình phải có nghĩa vụ không được quên những gì mà ba undead đã để lộ về thân thế của họ. Kể cả bây giờ, họ vẫn đang cố gắng hết sức để biến tôi từ một kẻ hoàn toàn bất lực thành một người có sức mạnh để thành công trong cuộc sống. Cha mẹ tôi cũng đã từng làm vậy, và tôi đã đền ơn họ như thế nào? Theo tôi nhớ thì, tôi chẳng đáp trả cho họ điều gì ngoài rắc rối và nỗi lo lắng cả.
Mong rằng lần này, khi đã đủ lớn rồi, tôi sẽ có thể đền ơn cho họ.

Năm năm trôi qua.

Giờ tôi đã bảy tuổi, nhưng có vẻ như thế giới này không có phong tục tổ chức sinh nhật. Thậm chí họ còn chẳng nhớ đến ngày sinh nữa. Thay vào đó, họ dùng một phương pháp truyền thống hơn để đếm tuổi một người. Những đứa bé mới sinh sẽ được coi là “một tuổi”, và lớn thêm một tuổi nữa vào đầu năm mới.
Còn lý do vì sao tuổi không xuất phát từ con số không… Lúc đầu tôi còn sợ là mình sẽ phát hiện ra họ thậm chí còn chưa biết đến khái niệm số không hay dấu thập phân cơ. Nhưng hoá ra là họ đã biết về chúng rồi. Coi tuổi của đứa trẻ mới sinh là “một” chỉ là phong tục từ thời xưa, từ trước khi văn hoá của họ xuất hiện chữ số “không” mà thôi.
Mấy phong tục cũ khó thay đổi lắm.
Vậy nên theo cách hiểu của thế giới này, thì giờ tôi đang tám tuổi, sau khi sống được bảy năm ở đây. Đến đây thì dễ hiểu rồi. Câu hỏi duy nhất còn lại là năm mới bắt đầu khi nào. Nhưng câu trả lời, ngạc nhiên thay, lại là, “Không ai biết.”
À không, có thể nói là ai cũng biết ngày nào là ngày mới trong năm: đó là hôm mà ban ngày ngắn nhất, còn đêm thì dài nhất. Ngày mà mặt trời trở nên yếu nhất, đồng thời cũng là ngày trước khi nó bắt đầu phục hồi trở lại. Nói cách khác là ngày đông chí, ngày đánh dấu sự trở lại của mùa xuân.
Nhưng chúng tôi hiện đang sống ven một thành phố đổ nát, cách xa xã hội loài người. Còn ba người họ thì không chỉ trước giờ chẳng bao giờ để ý đến năm lịch, mà sau khi trở thành undead, họ cũng không còn nhạy cảm với sự thay đổi nhiệt độ nữa. Vậy nên nhận thức về thời gian của họ chỉ xoay quanh, “Ồ, hoa đã bắt đầu nở rồi,” “Ánh mặt trời mạnh quá,” “Lá cây đã chuyển thành màu đỏ và vàng,” và cuối cùng là, “Tuyết đã bắt đầu rơi rồi.”
Cuộc sống của họ ở nơi đây không có liên hệ gì với thế giới bên ngoài. Vậy thì họ cần gì phải quan sát sự thay đổi trên bầu trời chứ? Tôi không biết ba người họ đã sống ở đây bao lâu rồi, nhưng họ chỉ cần tính nhầm hay lười không làm một lần thôi là đã có thể quên mất hôm nay là ngày bao nhiêu rồi. Thế là chẳng còn ai biết chính xác ngày giờ nữa.
Mà thôi, nói vậy đủ rồi. Tôi đã thu thập được khá nhiều thông tin sau khi học và hỏi, nên để tôi tóm tắt tình hình hiện giờ cho.
Tôi đã tránh không đề cập đến vấn đề này. Kể cả đến tận bây giờ vẫn còn nhiều điều khiến tôi đắn đo không muốn nói về nó. Nhưng cũng đã đến lúc tôi chấp nhận điều này rồi.
Tôi đã được tái sinh.
Tái sinh, đầu thai, sự chuyển sinh, vòng luân hồi… Muốn gọi thế nào cũng được. Nói ngắn gọn thì, tôi có ký ức từ kiếp trước. Tôi đã chết và được tái sinh. Thậm chí còn được sinh ra ở một thế giới khác nữa.
Nếu tôi có thể tin tưởng vào ký ức của mình trước khi chết, thì phép thuật không tồn tại trong thế giới cũ của tôi, và ở đó cũng chẳng có bộ xương hay hồn ma đi lại xung quanh. Tất cả những thứ đó chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng mà thôi. Dù có vài điểm tương đồng, nhưng thế giới này và thế giới trước vẫn hoàn toàn khác nhau.
Vậy nên: đây là sự tái sinh. Và còn là tái sinh sang thế giới khác nữa.
Kết luận này không có vấn đề gì, nhưng tôi vẫn chưa chắc chắn lắm. Đó là vì tôi vẫn còn có thể tưởng tượng ra vài khả năng khác.
Biết đâu thế giới này sở hữu một loại công nghệ khó lý giải trông giống như phép thuật thì sao. Biết đâu ký ức của tôi không có thật, mà chỉ được cấy vào đầu tôi mà thôi. Biết đâu tôi đã bị mắc bệnh tâm thần, nên mới tưởng tượng ra những ảo giác như thế này. Vì hồn ma có tồn tại ở đây, nên biết đâu đây không phải là “tái sinh”, mà là “ma ám” hay “ma nhập”, và nhân cách của tôi đã chiếm lấy cơ thể của một người khác. Hoặc biết đâu việc tôi ở đây chỉ là ảo giác mà thôi, và não của tôi đang trôi nổi trong bể kính của phòng thí nghiệm nào đó.
Biết đâu, biết đâu, biết đâu. Tôi có thể liệt ra vô số cái ‘biết đâu’ đó. Liệt ra vô số luôn. Suy nghĩ của tôi hiện giờ cũng giống như suy nghĩ của bộ não trong thí nghiệm triết học cổ điển ‘bộ não trong thùng’ ấy.
(*Bộ não trong thùng: https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%99_n%C3%A3o_trong_th%C3%B9ng
)
Theo tôi thì khi ta bắt đầu đặt ra những câu hỏi như vậy thì tốt nhất là nên dừng lại đi. Bởi ta sẽ không bao giờ đi đến kết luận nào được. Vậy nên tôi đã chấp nhận giả thuyết rằng tôi đã được tái sinh vào một thế giới khác với ký ức từ kiếp trước. Đó là kết luận có lý nhất. Hoặc ít nhất là kết luận làm tôi đỡ lo lắng nhất.
Tôi chẳng hề muốn biết rằng mình là, ví dụ như, một linh hồn tà ác đã phá huỷ nhân cách của một đứa trẻ sơ sinh vô tội và chiếm lấy cơ thể nó đâu. Dù không đến mức bị mặc cảm tội lỗi đè nặng tâm trí, nhưng ít nhất thì tôi cũng sẽ thấy buồn khi biết rằng mình không cần thiết trong thế giới này.
Và trên hết, tôi cầu nguyện một cách khá nghiêm túc rằng sẽ không có chuyện một ngày đẹp trời nào đó tôi tìm ra sự thật để rồi nhận ra rằng mình chỉ là một bộ não trong thùng.

“Flammo Ignis… Oáiiii?!” Khối nhiệt đột nhiên bùng nổ.
Khi tôi giật mình và cuống cuồng lùi lại, Gus nhanh chóng niệm Từ Ngữ Xoá Bỏ, thổi bay ngọn lửa trước mặt tôi. “Đồ ngốc! Đừng có phát âm nó chính xác như vậy!”
Sao tôi lại bị mắng vì lý do đó chứ.

“Con có thể có tài năng, Will, nhưng nếu con không biết điều chỉnh độ chính xác của mình cho quen, thì sẽ có ngày con mất mạng đấy!”
Đúng vậy, thế giới này, nơi tôi đã được tái sinh vào tám năm trước (theo cách đếm của họ), là một nơi rất nguy hiểm. Chắc chắn luôn. Cứ nhìn phép thuật và Từ Ngữ Sáng Tạo mà tôi đang học thì biết.
Để đề phòng có chuyện gì bất chắc xảy ra, tôi đang luyện tập bên ngoài, trên ngọn đồi có ngôi đền quen thuộc, nhưng đến giờ tôi vẫn chưa thể thành thục được.
“Gus, kết quả của cháu chẳng đồng đều gì cả. Ta không có cách nào để xử lý việc đó sao?”
“Không. Từ Ngữ vốn luôn vậy rồi. Làm quen với nó đi.”
Tôi thấy phép thuật chẳng nhất quán tí nào. Tôi có thể thành công một lần, rồi khi thử lại vào ngày hôm sau, thì lại không thể thu được kết quả như lần trước nữa. Lý do là vì…
“Ôn lại xem. Con nói thử các bước sử dụng phép thuật xem nào.”
“Ưm, có ba bước. Cảm nhận mana trong thế giới, hội tụ và cộng hưởng nó bằng mana của bản thân mình, và phát âm hoặc viết Từ Ngữ Sáng Tạo.”
Thể hỗn loạn lớn nhất và nguyên thuỷ nhất: mana. Cảm nhận nó, và cộng hưởng cũng như hội tụ nó lại. Rồi bằng cách phát âm hay viết một Từ Ngữ Sáng Tạo, ta định dạng cho mana—ví dụ như, định dạng nó thành lửa. Trên lý thuyết thì đơn giản như vậy. Nhưng ta chẳng có cách nào để sáng tạo hay khiến cho kết quả thu được đồng đều hơn cả.
“Con nói đúng rồi. Trong suốt chiều dài lịch sử đã có nhiều nỗ lực để khiến kết quả khi dùng phép thuật nhất quán hơn. Nhiều nhà hiến triết đã gắng sức nghĩ về vấn đề này, nhưng cũng không có thành công gì đáng kể. Sau khi được tự tay trải nghiệm nó, chắc con cũng biết lý do vì sao rồi phải không.”
“Vâng. Vấn đề lớn nhất là mana không hề đồng đều.”
Trong những năm qua, tôi đã cải thiện nhận thức của mình dưới sự dẫn dắt của Gus. May thay, có vẻ như tôi có chút tài năng, và có thể cảm nhận được sự hiện diện của mana—thứ cấu thành nên phép thuật, nguyên liệu của nó. Theo lý thuyết thì thế giới này được tạo nên bởi mana, nhưng tôi lại phát hiện ra rằng mức độ mana không phải ở đâu cũng như nhau.
Cứ thử tưởng tượng nhỏ vài giọt mực xuống nước, rồi khuấy nó một chút xem. Mực sẽ tập trung ở vài nơi và loãng ở vài nơi. Chưa kể, những phần loãng và đặc này sẽ chảy một cách bất thường. Thứ nguyên liệu mà ta phải dùng cũng như vậy.
“Hừm. Đã có nhiều người nỗ lực để tạo nên một môi trường mana nhất quán. Bằng cách dùng những thiết bị hội tụ, ví dụ như—đá quý, kim loại quý, gỗ cực kỳ cổ đại. Nhưng ta e là…”
“Kết quả không đáng so với tiền bạc và nỗ lực bỏ ra?”
“Ừm… Con thấy đó, mana trong cơ thể con người cũng luôn luôn thay đổi. Hội tụ mana trong khí quyển cũng chỉ giúp được một phần mà thôi.”
Dù ta có khiến cho mana ngoài cơ thể tương đối nhất quán được đi nữa, mana trong cơ thể người dùng phép thuật, thứ ta cần dùng để cộng hưởng với nó, vẫn cứ không ổn định. Giống như mana bên ngoài, nồng độ của nó cũng thay đổi khi tuần hoàn quanh cơ thể, tương tự như nước và mực trong ví dụ vừa rồi của chúng ta. Vấn đề này khá là phức tạp, và còn khó can thiệp hơn cả mana ngoài cơ thể.
“Nhưng dù vậy thì nó vẫn có chút công dụng. Những cây gậy phép làm từ gỗ cổ, đá quý, và kim loại quý là biểu tượng của những pháp sư.”
Có vẻ như cả thế giới này cũng có hình tượng pháp sư cầm cây gậy phép.
“Vậy sao ông không dùng gậy, Gus?”
Tôi đã vài lần thấy ông ấy cầm một cây gậy rồi. Nó được khảm ngọc lục bảo và có tay cầm trông giống như cái mỏ vịt.
“Một cây gậy phép quá phô trương sẽ thu hút sự chú ý. Khi chiến đấu, không những ta sẽ trở thành mục tiêu nếu bị phát hiện là pháp sư, mà việc sử dụng thiết bị hội tụ cũng khiến cho kẻ thù dễ dàng xác định được nơi phép thuật của ta phát ra.”
Cái lý do đó hợp lý và thực dụng đến đáng lo.
“Hừm, chúng ta đi lạc đề mất rồi. Ta đang nói về sự thiếu nhất quán của Từ Ngữ nhỉ. Mana bao phủ thế giới và cơ thể con người luôn thay đổi và không đồng đều. Đã có nhiều nỗ lực để hội tụ và khiến nó trở nên đồng đều, nhưng cũng chỉ thành công được một phần. Sự thiếu nhất quán của con người cũng tồn tại khi viết hoặc nói. Con người không thể nói được chính xác cùng một từ hai lần.”
Tôi hiểu ý ông ấy. Dù một người có nói lại cùng một từ, bước sóng của âm thanh lần nào cũng sẽ khác nhau. Dù một người có viết cùng một từ bao nhiêu lần đi nữa, nó vẫn sẽ không bao giờ giống hệt nhau. Điều đó chẳng có gì lạ cả. Vốn dĩ, con người chúng ta không phải là một cái máy.
“Chính vì những lý do trên, mọi người đều nhất trí rằng ta phải dùng trực giác của mình để điều chỉnh theo từng trường hợp.”
Vậy kết luận rút ra là không thể nào biến phép thuật thành một sản phẩm sản xuất hàng loạt được. Pháp sư sẽ luôn phải dựa vào kinh nghiệm của bản thân để tinh chỉnh nhiều thứ, tuỳ thuộc xem mana hôm đó như thế nào.
“Đáng sợ quá.”
“Đúng vậy.”
Vậy là tôi đã tưởng tượng đúng rồi. Đây không phải là phép thuật trong những trò chơi điện tử, mà ta có thể dùng liên tục chỉ bằng cách tiêu thụ MP của mình. Nó giống với loại phép thuật thiếu ổn định và mạnh mẽ trong những tác phẩm fantasy cổ điển.
“Con không được phép dùng Từ Ngữ một cách bất cẩn. Việc sử dụng sức mạnh cũng đi kèm với nguy hiểm khôn lường. Chắc ta đã kể với con đủ câu chuyện về việc đó rồi.”
Đúng vậy, đây không phải là lần đầu tiên Gus nói vậy với tôi.
Theo Mary và Blood, có thể nói Gus xứng đáng được gọi là Đại Pháp Sư. Họ đã nói với tôi một cách đầy tự tin, rằng dù bình thường hay hành xử như vậy, nhưng ông ấy là một đối thủ đáng gờm khi ông quyết định thể hiện toàn bộ sức mạnh của mình.
Gus chưa bao giờ khoe khoang về chuyện đó. Ngược lại là đằng khác, những câu chuyện ông ấy kể với tôi đều là để cảnh báo, với mục đích dạy tôi một bài học. Có rất nhiều câu chuyện như vậy.
Có một pháp sư từng thử thay đổi lại địa hình xung quanh, gây nên một cơn động đất và bị rơi xuống một khe nứt sâu.
Một pháp sư khác luôn điều khiển thời tiết theo định kỳ, để rồi họ làm thời tiết ở vùng đó trở nên mất ổn định, và bị hành hạ bởi nạn đói.
Một pháp sư đã biến mình thành động vật thành công—cả về thể xác lẫn trí não.
Một pháp sư đã sử dụng một phép thuật phân huỷ mạnh mẽ đối với kẻ thù trời sinh của mình, bị cơn hận và nỗi tức giận làm líu lưỡi, và khiến cho cơ thể mình nổ tung thành từng mảnh.
Còn có một pháp sư khác đã từng mở một lỗ hổng dẫn đến một chiều không gian khác, và bị ăn thịt bởi thứ gì đó bên trong nó.
“Hãy học cách dùng một lượng phép thuật nhỏ, sao cho thật hợp lý và chính xác. Và nếu có thể, thì hãy tìm cách để không phải dùng đến nó.”
Những phép thuật nhỏ rất hữu dụng để tạo lửa, đuổi côn trùng, thao túng nhận thức (dùng trong những trò biểu diễn trên bàn tiệc), hay để tìm đồ đạc. Dù công dụng của chúng rất nhỏ, độ nguy hiểm nếu ta mắc sai lầm cũng rất thấp. Ta có thể thất bại đủ kiểu, và nó vẫn sẽ không dẫn đến một hậu quả không thể cứu chữa được.
Theo Gus, thì một pháp sư lý tưởng là một người không cần dùng phép thuật, và nếu cần dùng, thì cũng chỉ dùng một ít phép thuật để đạt được hiệu quả cao nhất. Phép thuật là một thứ sức mạnh quá to lớn đối với một cá nhân, và vì những tai nạn bất ngờ hay lỗi con người luôn có thể xảy ra, tôi thấy cách làm của ông ấy rất có lý. Chỉ có một vấn đề duy nhất.
“Nói ngắn gọn—thì hãy dùng nó như tiền vậy.”
Gus luôn xoắn logic của ông ấy để dẫn đến những kết luận cạn lời.
“Lại nữa sao?”
“Phải, lại nữa đó. Chuyện này quan trọng lắm,” ông ấy khăng khăng nói, vẫn nghiêm túc và cứng đầu như mọi khi. “Nếu con muốn hoàn thành việc gì, con không cần phải dùng đến phép thuật. Con chỉ cần mua những dụng cụ cần thiết và thuê người là xong. Định hình lại địa hình là một thứ phép thuật mạnh mẽ, nhưng nếu có tiền, con chỉ cần thuê nhân công để làm cho con. Đừng có quên,” ông ấy tiến lại gần tôi để nhấn mạnh, “khả năng kiếm tiền và khiến nó làm việc giúp mình cũng quan trọng như phép thuật vậy!”
Tôi giật mình. “Lần đầu tiên cháu nghe chuyện có mộtcon ma cuồng tiền đấy?!”
“Cứ thử đặt mình vào vị trí của ta đi! Ta không thể vuốt ve vàng bạc hay châu báu, cũng không thể cảm thấy nó trên ngón tay mình…”
“Ông ấy là kẻ biến thái!”
“Con gọi ai là biến thái đấy hả?!”
“Ông!”
“Được rồi—thay đổi kế hoạch! Chúng ta sẽ dành cả ngày hôm nay để học về tiền và những điều tuyệt vời của n—”
“Không! Hôm nay là huyền thoại cơ! Chúng ta đã định học về huyền thoại hôm nay rồi!”
“Thế con không nghĩ tiền bạc quan trọng hơn à?!”
“Có thể nó quan trọng đối với ông, nhưng ông không thể đột nhiên đổi kế hoạch như vậy được!”
“Hừmmm… Con nói có lý. Ta sẽ nói về tiền sau vậy.”
Gus đôi lúc cũng điên điên như vậy. Trời ạ, chẳng lẽ hồn ma pháp sư nào cũng biến thành như thế này sao? Nhưng tôi không hề nghi ngờ độ xác thực của những câu chuyện Gus kể. Nhiều chuyện trong số chúng cũng rất thú vị nữa.
“Trước kia ta đã từng kể cho con một chút về câu chuyện đó, đến đoạn những ác thần được sinh ra và giết Đấng Sáng Tạo phải không?”
“Vâng.”
“Từ đó bắt đầu thời kỳ xung đột giữa thần thánh hai phe thiện và ác. Nếu ta phải kể đến trận đánh nổi bật nhất của họ… Hừm, phải rồi. Will. Con đã thấy bức điêu khắc đó chưa?”
“Hở?”
“Bức điêu khắc trong đền của một người đàn ông cầm kiếm và cân ấy.”
Tôi vẫn còn nhớ. Đó là bức tượng của một vị thần oai nghiêm, trang trọng, cầm một thanh kiếm tượng trưng cho sấm sét trên trời cao, và tay còn lại cầm một cán cân.”
“Vâng.”
“Ông ấy là thần sấm sét, Volt—người cai trị phe thiện thần, cai quản sự trật tự và phán xét. Ông ấy cũng là chồng của Mẹ Đất, Mater, nữ thần mà Mary thờ phụng.”
Thú vị đây. Tôi đang thắc mắc không biết vị thần nào đứng đầu. Cơ mà, cả ở thế giới trước của tôi thần sấm sét cũng giữ nhiều vị trí quan trong trong những chuyện thần thoại nhỉ.
“Volt có một người anh, tất nhiên cũng là thần—thần chiến tranh, Illtreat, cai quản sự bạo ngược. Ông ta cưỡi trên một cỗ xe được kéo bởi hai con ngựa thánh, Tham Lam và Phẫn Nộ, phóng đi với tốc độ và sức mạnh của một cơn cuồng phong.”
Gus tiếp tục, “Hai người họ đã dẫn thuộc hạ của mình đối đầu nhau trong vô số trận chiến, nhưng cuộc xung đột của họ bao giờ cũng diễn ra theo cùng một khuôn mẫu. Người anh trai, Illtreat, chiếm ưu thế trong giai đoạn đầu của trận chiến, nhưng Mẹ Đất Mater hiền từ đã ban sự bảo hộ cho chồng mình lúc ông ấy gặp khó khăn. Với thanh kiếm sấm sét đã được ban sự bảo hộ của nữ thần, Volt bắt đầu phản kháng, và cuối cùng, đánh đuổi được Illtreat. Tuy nhiên, Illtreat vẫn tiếp tục ẩn nấp sâu dưới lòng đất, và khi ông ta cuối cùng cũng hồi phục lại được sức mạnh của mình sau nhiều tuần trăng, ông đợi đến lúc em trai mình để lộ một giây phút sơ hở. Khi đó, ông ta sẽ lại thách đấu một lần nữa.”
Gus đảo ngón tay thành một vòng tròn. “Và thế là vòng tuần hoàn lại tiếp tục.”
Tôi gật một cái, rồi nghiêng đầu suy nghĩ. Sấm sét không phải lúc nào cũng là biểu tượng của nỗi kinh hoàng và quyền lực tuyệt đối của thiên đường. Khi nông nghiệp đang phát triển, sấm sét là điềm báo của một cơn mưa phúc lành.
“Vậy… đây là truyện ngụ ngôn về việc vào thuở sơ khai những kẻ cai trị đều tàn bạo, bạo ngược, nhưng khi nông nghiệp phát triển tốt, luật lệ và trật tự bắt đầu lan toả khắp toàn xã hội. Nhưng đến một lúc nào đó nó lại tan rã, và cách mạng vũ trang trở thành điều tất yếu?”
Mắt Gus mở to. “Con sắc bén đấy,” ông ấy vừa nói vừa gật đầu. “Cuộc chiến giữa thuộc hạ dưới sự bảo hộ của Volt và Illtreat cũng diễn ra gần giống như thế. Vậy nên chẳng có gì lạ khi nó được gọi là trận chiến giữa các vị thần cả.”
“Sự bảo hộ?” Tôi hỏi.
“À… Đó là sức mạnh mà những vị thần ban cho thuộc hạ của mình.”
“Hở? Ưm, theo nghĩa đen luôn ạ?”
“Theo nghĩa đen luôn. Có gì khó hiểu sao?”
Gus nói cứ như thể đó là điều hiển nhiên vậy, nhưng theo ký ức và hiểu biết của tôi từ kiếp trước, thì hơi khó hình dung chuyện thần linhtrực tiếp ban cho ai đó sức mạnh. Có thể ý ông ấy là thần ban cho họ lòng can đảm hay may mắn, nhưng theo cách ông nói thì tôi nghĩ không phải vậy.
Với lại, tôi nhớ Mary đã từng nói rằng ba người họ đã lập giao ước với thần undead. Nếu như những lời đó đều là sự thật, thì nghĩa là thần của thế giới này ít nhất cũng có thể biến con người thành undead. Tôi không biết liệu họ còn có thể làm gì nữa, nhưng có vẻ như thần linh ở đây có thể can thiệp vào thực tại. Nhưng mà họ làm vậy kiểu gì? Gus hắng giọng và tiếp tục nói khi tôi vừa mới bắt đầu suy nghĩ về câu hỏi này.
“Mà, chuyện này cũng không quan trọng lắm. Cuộc chiến giữa các vị thần đã khiến cho tất cả bọn họ bị mất cơ thể xác thịt của mình. Sau đó, cả hai phe đều rời khỏi chiều không gian này, và bây giờ, họ không còn có thể dễ dàng can thiệp nhiều vào thế giới này nữa. Tiện thể, chắc hẳn con cũng có một suy nghĩ khác sau khi nghe câu chuyện này phải không?”
“Vậy sao?”
“Ừm,” ông ấy nhe răng cười gian xảo. “Việc phân chia thần thánh thành hai phe ‘thiện’ và ‘ác’ chỉ là để tiện cho con người mà thôi.”
“Ể?” Tôi bối rối và phát ra một âm thanh nghe rất ngốc nghếch.
Gus giải thích cho tôi. “Cứ thử nghĩ mà xem. Volt, người cai quản kể cả những hệ thống luật lệ thối nát, cũng có thể bị coi là ác thần, và Illtreat, người cầm đầu những cuộc nổi dậy để lật đổ sự thối nát, cũng có thể là thiện thần. Nhưng trong thực tế, Volt chưa bao giờ bị nói xấu, và Illtreat cũng chưa bao giờ được tôn vinh. Những tu sĩ sẽ không thích ta nói thế này đâu, nhưng suy cho cùng thì, việc chia thần thánh sang hai bên thiện và ác chỉ là một mưu kế của những người tôn thờ họ.”
Tôi nhìn mặt là biết ông ấy đang nói rất nghiêm túc. “Các vị thần không giống như chúng ta. Suy nghĩ và hành động của họ liên quan đến những vấn đề ở một quy mô hoàn toàn khác hẳn. Ta có giả thuyết như thế này, những vị thiện thần được coi là ‘tốt’ là vì họ có lối suy nghĩ khá tương đồng với người bình thường, họ chịu hợp tác với chúng ta, và suy nghĩ cũng như hành động của họ ít nhiều cũng vô hại đối với xã hội. Tất nhiên chuyện này chỉ nói giữa hai ta thôi nhé!” Ông ấy cười.
Đây là một thế giới mà thần tồn tại và có sức ảnh hưởng. Mọi người ai cũng đều có đức tin sâu sắc vào họ—nhưng Gus đây thì lại khác, không cuồng tín mà cũng chẳng chịu cúi mình.
“Gus, ông… khá là rock ‘n’ roll đấy.”
“Rock ‘n’ roll?”
“Kiểu như ông… khác biệt. Khác theo một hướng tốt.”
Nghe vậy, người hiền giả đáng kính lại cười gian xảo một lần nữa. “Bọn trẻ nhiều lúc nghĩ ra mấy từ lạ nhỉ… nhưng nghe cũng hay đấy chứ.”
Có vẻ như ông ấy thích nó. Không còn nghi ngờ gì nữa—ông ấy đúng là rock ‘n’ roll quá.

Blood và tôi đang đứng cạnh một con suối nhỏ ở chân đồi, với tầm nhìn bao quát cả hồ nước và tàn tích thành phố. Hai người chúng tôi đang chuẩn bị để chiến đấu.
“Được rồi. Tập vung kiếm xong rồi, tập chạy xong rồi… Giờ ta đấu kiếm chút đi.”
Để còn khởi động, Blood sẽ đưa cho tôi một cây gậy—có lúc trông giống thanh kiếm một tay, có lúc lại giống một cây thương—và bắt tôi tập vung kiếm hoặc đâm thương. Việc tôi khởi động bằng vũ khí nào thì tuỳ vào Blood, nhưng ông ấy cho tôi dùng kiếm nhiều hơn một chút. Ông ấy nói rằng cây thương là vũ khí ta cầm trên chiến trường, còn cây kiếm là vũ khí lúc nào ta cũng mang theo được, nên tốt nhất là nên tập trung vào kiếm trước.

Sau khi làm xong bài tập vung kiếm, chúng tôi sẽ chạy kết hợp giữa chạy bền và chạy nước rút, rồi sau đó là “đấu kiếm.” Đây là một kiểu trò chơi, chúng tôi mỗi người sẽ cầm một cành cây mềm hoặc thứ gì đó giống vậy, và dùng nó để đánh vào người còn lại. Không như buổi tập vung kiếm và chạy đường dài có phần hơi nhàm chán, trò này chơi khá là vui, dù thỉnh thoảng có hơi đau một chút. Nhưng Blood giỏi lắm, chẳng để cho tôi dễ dàng đánh trúng bao giờ.
“Con đã tám tuổi rồi, nên ta sẽ đánh mạnh hơn một chút.”
“Ueeegh?!”
“Phản ứng như vậy là sao?”
“Chú mạnh thấy mồ! Nếu chú mà đánh mạnh thì con chết mất!”
Dù đã có luật “chỉ chạm nhẹ” rồi mà đã đau như vậy! Nếu như ông ấy đánh mạnh thì…
“Không sao, không sao đâu. Cái gì mà ‘mạnh thấy mồ’ chứ, con đang nói quá lên thôi. Nhìn người ta chỉ có toàn xương thôi này. Con sẽ ổn thôi.” Blood ngừng lại một chút. “Chắc vậy.”
“C-C-C-C-Chắc vậy?!”
Blood cười to. “Vậy thì đừng để bị đánh trúng thôi. Có gì to tát đâu?”
“Dừng, dừng, dừng lại!”
Ông ấy cầm cành cây mềm tiến đến chỗ tôi. “À, phải rồi, con có thể dùng phép thuật nếu muốn. Chắc con biết dùng vài món rồi phải không? Phép gì đó mà Già Gus dạy con? Quả cầu lửa, tia sét… Cứ dùng thoải mái đi! Ta chịu được hết!”
Blood vẫn đang vừa nói vừa tiến lại gần tôi. Giờ ông ấy đã tiếp cận khá gần rồi. Dù miệng thì bảo cho tôi dùng phép thuật, nhưng ông ấy sẽ chẳng để tôi có cơ hội dùng chúng đâu.
“A, không công bằng quá!”
“Fwahaha! Trên chiến trường không có lòng thương xót đâu, nhóc Will à!”
Khi Blood lao tới, tôi hét lên từ đầu tiên hiện lên trong đầu mình. “Acceleratio!” Đó là một Từ Ngữ dùng trong chiến đấu mà tôi học được từ Gus.
“Ôhô,” Blood nói, đầy ấn tượng.
Tôi cảm thấy cả cơ thể mình nhanh nhẹn hơn, và nhảy bật về phía sau như tên bắn để lấy khoảng cách, khiến cho đất đá bị văng lên.
Giờ ông ấy vẫn đang thích thú đứng nhìn tôi, vậy thì tôi sẽ không để phí mất cơ hội này đâu. Tôi hét lên một Từ Ngữ, lá bài tẩy mà tôi đang cất giấu. “Currere Oleum!”
Ngay lập tức, một lớp dầu mỡ dày bao phủ chỗ cỏ dưới chân Blood. Ông ấy la lên rồi trượt chân.
Tôi đã dùng mana để tạo nên chỗ dầu mỡ đó, với cả nó sẽ biến mất sau một thời gian, nhưng chừng này đã là quá đủ để khiến người khác trượt chân rồi! Và trong khi tôi đang có lợi thế…
“Cadere Araneum!” Tôi thả một tấm lưới dính, trông giống như mạng nhện mà mình đã dùng Từ Ngữ tạo ra lên người ông ấy.
“A—Này!” Tấm lưới dính vào người ông. Ông ấy vùng vẫy trên mặt đất để gỡ nó ra, nhưng càng vùng vẫy thì xương của ông càng bị quấn chặt thêm.
Ta có thể làm bản thân bị thương nặng nếu như mắc sai lầm khi dùng phép thuật lửa hoặc sét, nhưng làm hỏng phép tạo dầu mỡ hay lưới thì chẳng có gì to tát cả. Nếu như phép thuật không thể lúc nào cũng dùng được an toàn, thì tôi chỉ cần ứng biến và sử dụng nó một cách khôn ngoan nhất có thể là được. Giống như Gus nói, không cần dùng những phép thuật hào nhoáng. Một lượng phép thuật nhỏ, được dùng đúng nơi đúng lúc, là cũng đủ rồi.
Tôi chầm chậm bước đi, để không bị dầu mỡ làm trượt chân. Sau khi đến đủ gần rồi, tôi hét to lên một tiếng rồi cầm cành cây đập ông ấy. Bộp, tiếng gỗ đập vào xương vang lên.
“Gwagh! Chết tiệt, ta chịu thua!”
“Hoan hôôôô! Tôi giờ hai nắm đấm lên trời và vui vẻ hét lên. Tôi không ngờ là mình sẽ chiến thắng như thế này.

 “Khá đấy,” Blood nói, đầy ấn tượng. Cái lưới và chỗ dầu mỡ kia đã biến mất hết rồi. “Chiêu đó con học từ Già Gus à?”
“Vâng,” tôi trả lời.
Ông ấy cười, ánh lửa trong mắt ông cháy bập bùng. “Con học hỏi tốt đấy! Giờ ta hiểu vì sao Gus lại gọi con là thiên tài rồi.”
Tôi bối rối nhìn ông ấy.
“À thì… ta tưởng là con sẽ làm trò gì nguy hiểm cơ. Kiểu như tạo một ngọn lửa to hay dùng phép thuật sét chẳng hạn? Những pháp sư trẻ thường hay như vậy.”
“Ể… mấy trò như vậy không hợp với con. Gus nói là chúng nguy hiểm lắm.” Tôi cũng đồng ý với ông ấy, nhất là khi chỉ cần mắc một sai lầm thôi là tôi sẽ làm người mình nổ tung. Sức mạnh nguy hiểm mà ta không điều khiển được thì không phải là sức mạnh. Chúng chỉ là tai hoạ mà thôi. Có lẽ tôi nghĩ như vậy cũng là vì được ảnh hưởng bởi ký ức từ kiếp trước.
“Con hiểu vậy là tốt rồi. Một mũi tên lửa hay mấy thứ như vậy đằng nào cũng chẳng có tác dụng với ta. Ta chỉ cần né rồi lao về phía con là được.”
“Chú làm được sao?”
“Được chứ sao không. Nếu đấu nghiêm túc, thì ta cũng đối phó được với chiêu lưới và dầu mỡ kia nốt,” Blood thản nhiên nói. “Nhưng làm vậy cũng không đơn giản gì.”
Tôi còn chẳng tưởng tượng nổi ông ấy sẽ làm kiểu gì. “Ưm, bằng cách nào ạ?”
“Khi tấm lưới rơi xuống, ta sẽ dùng cây gậy trong tay để quấn nó lại, rồi ta chỉ cần chạy khỏi chỗ có dầu mỡ trong khi cố giữ thăng bằng.”
Phương pháp trực tiếp quá nhỉ. “Đợi đã, chú đang nhường con sao?”
“Chứ còn gì nữa. Con là trẻ con. Nếu lần nào cũng thua, thì dần dà con sẽ bắt đầu nghĩ rằng mình không có cơ hội thắng, và chẳng dám chiến đấu nữa. Ta cần phải quen với việc chiến thắng. Với cả đừng có hiểu nhầm, ta đã đánh nghiêm túc đấy, chỉ là không dùng hết sứcmà thôi. Nếu một người lớn như ta không thể đối phó với đòn đánh của một đứa trẻ nếu không dùng hết sức, thì đối với ta vậy đã là thua nặng rồi.”
Ông ấy nói cũng có lý. Chẳng người lớn nào có thể khoe mình đã thắng một đứa trẻ khi đọ sức khoẻ cả, và nếu họ phải dùng hết sức mình để thắng được, thì có thể nói họ đã thua về nhiều mặt rồi.
“Will, nghe này. Già Gus là một Đại Pháp Sư. Người ta thường ca ngợi ông ấy, gọi ông là Hiền Giả Lang Thang. Ông ấy đã giết quái vật, chặn nước lũ, và tự mình khám phá lại được một vài Từ Ngữ cổ.”
“Hở…”
Tôi đã vài lần nghe nói rằng ông ấy là Đại Pháp Sư rồi, nhưng tôi vẫn chưa mường tượng được ông ấy tài giỏi đến nhường nào.
“Phương pháp mà con đang dùng, tập trung vào việc thao túng tình huống trên chiến trường và gây bất lợi cho đối thủ, thay vì dùng hoả lực tấn công chúng? Đó là một trong những câu trả lời mà Gus đã tìm ra—kết quả của bao nhiêu năm thử nghiệm đó. Dù bình thường ông ấy cáu kỉnh như vậy, nhưng trong lĩnh vực chuyên môn của mình, ông ấy là người giỏi nhất đấy. Hãy nhớ lấy những gì ông ấy dạy con nhé. Ông ấy đáng được đối xử như vậy.”
“Vâng ạ. Đừng lo. Con tôn trọng ông ấy mà.”
“Vậy thì được rồi,” ông ấy gật đầu.
“Ưm, chú cũng là một chiến binh tài giỏi phải không, Blood?”
“Tất nhiên. Ta không muốn khoe khoang, nhưng mọi người từng gọi ta là Chiến Tinh đó.” Dù bảo là không thích khoe khoang, nhưng rõ ràng là ông ấy thích nói về chuyện đó. Đúng là Blood có khác. “Mary cũng có danh hiệu đấy. Cô ấy được gọi là Con gái của Mater. Thật ra thì, từng có thời ba người chúng ta… ư.”
“Sao vậy?”
“Chỉ là, nếu ta bắt đầu nói về chuyện đó thì kiểu gì cũng dẫn đến những chuyện nặng nề khác.”
Tôi cũng đoán vậy. Tại sao ký ức sớm nhất trong kiếp này của tôi lại là ở nơi đây, trong ngôi đền của thành phố đổ nát này, cách xa xã hội loài người? Nhất là khi ba người họ từng rất nổi tiếng, vậy thì tại sao bọn họ lại phải làm undead sống ở đây? Những câu hỏi đó đã luôn ám ảnh tôi, và có vẻ như nguyên nhân dẫn đến tình hình này không mấy tốt đẹp gì. Mary và Blood thỉnh thoảng cũng để lộ vài chuyện, nhưng họ không bao giờ nói kỹ về chúng.
“Một ngày nào đó chú kể cho con được không?”
“Tất nhiên rồi. Như ta đã hứa đó—khi nào con lớn hơn một chút. Ta sẽ kể theo đúng trình tự luôn.” Rồi Blood với tay lấy cái cành cây.
“Được, vậy ta bắt đầu lại nhé! Lần này không dùng phép thuật nữa!”
“Hảảảả?!”
Blood đã áp sát trước khi tôi kịp phản đối. Tôi cuống cuồng vung cành cây, nhưng ông ấy dễ dàng tránh được, và cành cây mà ông ấy đang cầm vụt về phía mặt tôi. Tôi nhắm mắt theo phản xạ.
“Con bị đần hả?! Đừng có nhắm mắt như vậy!” Cành cây đập vào trán tôi.
“Úi!” Tôi cúi xuống ôm trán. Cành cây này mềm và có thể uốn cong như một chiếc roi da vậy. Dù ông ấy không dùng nhiều sức, nhưng chỉ cần cành cây đánh đủ nhanh thì cũng đã khá là đau rồi.
“Rồi lại còn cúi xuống vì đau sao? Vậy thì còn tệ hơn nữa. Giờ nhìn xem hậu quả ra sao đi.”
Ông ấy lấy cành cây quẹt quẹt vào chân tôi rồi đẩy tôi ngã ra. Nếu đây mà là thực chiến thì tôi đã bị đá lăn xung quanh như một quả bóng rồi. Thậm chí nội tạng của tôi còn có thể bị dập nát.
“Dù có bị đấm vào mặt đi nữa cũng không được nhắm mắt. Hãy thay thế phản xạ của mình bằng cách tập luyện. Trong một trận đấu mà chỉ một khoảng khắc cũng có thể quyết định thắng thua như thế này, thì chỉ những kẻ nghiệp dư mới tự lấy đi thị lực của mình như vậy thôi. Vậy nên khi bị đánh, hãy cố chịu đựng và áp sát đối phương.”
“Á-Áp sát, cho dù lúc đó đang bị đau sao?” Chẳng phải bình thường ta sẽ lùi lại để tìm cơ hội tấn công tiếp sao? Ít nhất thì tôi nghĩ vậy.
“Will, nếu con lùi lại sau khi bị đánh, thì đối thủ của con sẽ nghĩ gì?”
“Con không biết…”
“Mình đánh trúng được một đòn tốt rồi! Hắn đang phải nhăn nhó lùi lại rồi kìa! Có hiệu quả rồi! Mình đang có lợi thế! Phải chớp lấy thời cơ này để xử hắn thôi! Kiểu vậy đó.”
A…
“Tất nhiên là hắn sẽ còn tấn công con mạnh hơn nữa, cố gắng kết thúc trận đấu một cách nhanh gọn. Còn con thì đang bị thương, và đang ở thế bất lợi, khó phòng thủhay chạy trốn được. Cố gắng tránh một tình huống xấu sẽ chỉ làm cho tình hình còn tệ hơn trước. Đó gọi là suy nghĩ không thấu đáo đấy… hửm? Sao con lại nhìn ta như vậy?”
Trong khi ta đang cố tránh rủi ro và giữ khoảng cách, tình hình cứ tiếp tục xấu đi, cho đến khi không thể cứu vãn được nữa. Chuyện đó tôi chẳng còn lạ gì.
“Vậy thì… ta áp sát, rồi làm gì nữa?”
“Đơn giản thôi,” Blood cười. “Con cứ lao vào hắn và tấn công điên cuồng vào là được.”
Đúng là một phương pháp hung hăng, bạo lực.
“Đằng nào con cũng sẽ chết nếu lùi lại, nên cứ nhào vô thôi. Con cứ liên tục tấn công, dùng kiếm hay thương hay nắm đấm, cái gì cũng được, và cứ đánh tới tấp, hết lần này đến lần khác. Tên đối thủ lúc đó vẫn đang nghĩ ‘Mình vừa đánh trúng rồi! Mình thắng rồi!’ Lúc đó hắn sẽ rất bất ngờ cho mà xem. Nếu khi đó con nhào vào hắn ngay, thì con có thể đánh trúng được một hay hai đòn. Nếu vậy thì dù con có bị thương đi nữa, cả tên kia cũng chẳng còn lành lặn gì. Thậm chí con còn có thể lập ngược thế cờ và thắng ngay lập tức.”
Khi bị đánh đau, vẫn cứ tiếp tục xông vào. Áp sát chúng và đáp trả.
“Dù hắn có đỡ được đòn đánh của con, thì con vẫn sẽ khiến hắn lung lay. ‘Mình tưởng là đã đánh được một cú mạnh rồi, nhưng… hắn chẳng hề hấn gì sao? Mình chỉ khiến hắn tức giận hơn sao?’ Và nếu con có thể khiến cho hắn nghĩ như vậy…” Tôi có cảm giác Blood vừa mới toét miệng cười. “Hắn ta sẽ lùi lại khỏi con. Chuyển sang phòng thủ. Cho con cơ hội để nghỉ ngơi.”
Ta có thể đang gặp bất lợi, nhưng đối thủ của ta sẽ không biết điều đó. Đừng sợ rủi ro. Hãy tiến một bước đến tương lai bất định. Giành lấy thế chủ động từ tay đối thủ.
“Con có bản năng chiến đấu tốt, nhưng lại dễ bị dao động. Chúng ta sẽ phải khắc phục điểm yếu đó. Nhưng nhớ này,” Blood gồng cơ lên. “Chỉ cần có cơ bắp, thì gần như việc gì cũng giải quyết bằng sức mạnh được.”
Nhưng tôi chỉ thấy toàn xương chứ có cơ đâu. “Buồn cười đó, Blood.”
Câu tôi nói hình như làm ông ấy sốc thì phải, trông buồn rầu hẳn ra.

Vài tháng trôi qua. Tiết trời đã trở nên nóng hơn, và chúng tôi bắt đầu có những chuỗi ngày đầy nắng chói chang.
Những bài học của Gus xoay quanh đủ thứ từ phép thuật và huyền thoại đến toán học, kế toán, kinh tế học, và đôi lúc còn về cả luật pháp và xây dựng nữa. Còn những bài học của Blood thì lúc nào cũng rất giản đơn.
“Đầu tiên, con phải rèn luyện cơ bắp và thể lực đã. Chúng là những thứ quan trọng nhất.”
Blood cong tay như để gồng cơ lên. Tất nhiên là không có cơ bắp gì rồi, chỉ có xương cánh tay mà thôi.
“Con không cần phải học kỹ thuật sao? Kiểu như kỹ thuật chiến đấu ấy?”
“Nếu không có cơ bắp thì cũng vô dụng hết.”
Ông ấy bác bỏ ngay. Thật vậy sao? Tôi khó mà tin được điều ông ấy nói. Có lẽ là do ảnh hưởng từ những bộ manga tôi từng đọc ở kiếp trước, trong những chuyện đó nhân vật nhỏ người hơn đã đánh bại những kẻ to lớn hơn mình bao nhiêu lần rồi.
Có lẽ Blood nhận ra rằng tôi vẫn chưa tin.
“Hừm… Được rồi, Will. Liệu con có thể làm ta ngã mà không dùng đến phép thuật được không?” Ông ấy đứng lại thật vững. Hình ảnh bộ xương của một người đàn ông cao gần hai mét vào thế đứng tấn trông cực kỳ mạnh mẽ. Một đứa trẻ chỉ mới tám tuổi (khoảng vậy) sẽ chẳng có cách nào làm ông ấy ngã được cả.
“Không.”
“Ta cũng nghĩ vậy. Thể trạng của chúng ta khác hẳn nhau. Con không thể vượt qua được sự khác biệt đó nếu không có vũ khí, dù cho kỹ năng của con có điêu luyện đến thế nào đi nữa. Sự khác biệt về thể trạng, cân nặng, cơ bắp—tất cả những thứ đó tạo nên sự khác biệt về sức mạnh. Đúng, biết một vài kỹ thuật sẽ giúp cho con có cơ hội lật ngược thế cờ. Chính vì vậy nên mọi người mới quan trọng hoá chuyện đó lên. Chúng ta ai cũng muốn cổ vũ cho những người yếu thế mà. Nhưng con không thể phụ thuộc hết vào nó được.”
Trước khi kịp nhận ra, ông ấy đã tiếp cận gần tôi, rồi với một cái gạt chân nhanh nhẹn, ông ấy làm tôi ngã ngửa ra. Ngay trước khi chạm đất, tôi co người lại theo phản xạ và đập mạnh xuống đất, triệt tiêu đà rơi của mình bằng một kỹ thuật mà Blood đã dạy.
Thỉnh thoảng ông ấy lại bất ngờ kiểm tra kỹ thuật ngã của tôi như vậy. Nếu mà tôi không làm tốt thì kiểu gì cũng bị bắt tập đi tập lại nhiều lần, lăn lê bò toàn trên cỏ hàng giờ liền.
“Làm tốt lắm. Con thấy đó, ừm, trong thực tế thì như vậy đấy, thường là vậy. Những người to lớn hơn luôn có lợi thế. Có một cơ thể lớn là một ưu thế và điểm mạnh của họ. À, nhưng có lẽ là không phải lúc nào cũng như vậy, nếu như ta tính thêm cả vũ khí và phép thuật nữa.”
Blood giải thích rằng sử dụng một loại vũ khí nguy hiểm cũng có thể giúp giảm sự khác biệt về thể trạng. Đúng là nếu một người lớn và một đứa trẻ mà đấu với nhau bằng tay không, dao hoặc súng, thì súng đạn sẽ giúp xoá nhoà sự khác biệt nhất.
“Nhưng dù vậy, thể trạng và cơ bắp vẫn rất quan trọng. Con cần phải tập luyện nhiều, ăn khẩu phần lớn hơn, và trở nên to khoẻ hơn nữa.
“Vâng.”
Tất nhiên rồi, để công sức luyện tập của ta có thể biến thành cơ bắp, thì lượng calorie ta ăn vào sẽ phải nhiều hơn lượng ta đốt đi. Nếu nó không biến thành cơ bắp được, thì bao công sức luyện tập vất vả của ta sẽ bị lãng phí hết. Ở kiếp trước, chế độ ăn của tôi rất cẩu thả. Tôi chỉ ăn rất ít, không theo bữa. Lần này, tôi muốn được ăn những bữa ăn bình thường, và tôi muốn ăn thật nhiều.
“Cơ bắp tuyệt vời ở chỗ nó hữu dụng trong mọi tình huống. Lấy ví dụ… xem nào… ví dụ như có ai đó nhanh nhẹn, và có thể đấm những cú đấm nhanh và chính xác đi.”
Tôi liên tưởng đến một võ sĩ quyền anh.
“Anh ta bị vướng vào một tình huống phải vật nhau kéo dài. Vậy liệu những kỹ năng của chiến binh đó sẽ còn có tác dụng không?”
Kể cả ở cự li gần, anh ta vẫn có thể đấm một chút vào người đối thủ, nhưng chắc chắn cú đấm sẽ yếu hơn nhiều. Tôi nhớ là ở trong quyền anh cũng có một kỹ thuật như vậy, gọi là thế ghì người.
“Giờ ta lại lấy ví dụ về một người giỏi đấu vật đi. Anh ta có kỹ thuật để vật ngã và thiết cổ. Nhưng đối thủ của anh ta thì lại nhanh nhẹn, khôn ngoan giữ khoảng cách, cứ di chuyển liên tục và đấm anh. Vậy liệu những kỹ thuật đó có hiệu quả không?”
“Hừm…” Các kỹ thuật có vẻ không có tác dụng mấy trong những trường hợp đó nhỉ.
“Sẽ có nhiều trường hợp khiến con không thể dùng kỹ thuật của mình một cách hiệu quả nhất có thể được. Nhưng ‘có cơ bắp khoẻ’ thì sẽ có ích trong gần như mọi tình huống. Nó gần như chẳng bao giờ khiến con bất lợi cả. Nếu con phải vật nhau, thì cơ bắp sẽ giúp con ghì chặt đối thủ. Nếu con muốn giữ khoảng cách, cơ bắp sẽ giúp con tung những cú đấm mạnh hơn. Cả vũ khí cũng vậy. Nếu có cơ bắp khoẻ, con sẽ có thể dễ dàng vung vũ khí hết lần này đến lần khác, áp đảo vũ khí của đối phương.”
“Còn kỹ thuật và phong cách chiến đấu thì lại khác, ta không nói là nó vô dụng, nhưng chúng sẽ chẳng giúp ích cho con được ngoài một vài tình huống mà con có thể áp dụng nó. Cả kỹ thuật dùng vũ khí cũng vậy. Không phải lúc nào con cũng được cầm vũ khí ưa thích của mình—nhưng cơ bắp, chúng sẽ không bao giờ rời xa con, chừng nào con vẫn còn luyện tập chăm chỉ.”
Ông ấy nhận định rất thực tế, và điều ông muốn nói cũng rất đơn giản. Sức mạnh cơ bắp và thể trạng là những thước đo cơ bản, còn các loại kỹ thuật chỉ là những thứ bổ sung thêm, nếu như tình huống cho phép mà thôi.
“Vậy nên tất nhiên là ta phải luyện tập những thứ quan trọng trước rồi. Đầu tiên là cơ bắp, sau đó mới đến kỹ năng. Con hiểu chưa?”
“Vâng. Chú đã suy nghĩ kỹ càng hết rồi nhỉ. Con không ngờ đấy…”
“Con vừa nghĩ ta là một tên ngốc phải không? Đến đây nào. Blood có quà cho con đây.”
Tôi giả vờ sợ hãi hét lên rồi chạy đi, còn Blood thì vừa cười vừa đuổi theo tôi. Kể cả lúc đùa nghịch như thế này, Blood cũng tranh thủ giúp tôi tập luyện cơ thể và dạy tôi đủ thứ.
Ví dụ như cách ném đá. Không phải ném bằng tay không như lúc ta ném thia lia đâu. Mà là cách ném đá có thể ứng dụng được trong chiến đấu.
Ở dưới con đồi, phía đối diện thành phố, sau một cánh đồng với nhiều hàng bia mộ, là một khu rừng rậm rạp. Blood và tôi đang vừa cúi thấp người vừa di chuyển, cả hai chúng tôi đều cầm một đoạn dây thừng dài tự chế, bằng cách quấn nhiều sợi cỏ lại với nhau. Ở một đầu sợi dây là một nút thắt to cỡ ngón tay để ngăn không cho nó tuột đi, và ở đoạn giữa dây, chúng tôi đã đan một cái túi to vừa đủ để đặt một quả bóng bàn vào.
Thứ vũ khí này được gọi là cái ná. Ở thế giới cũ của tôi, đã có vài người dùng loại vũ khí này, ví dụ như vua David trong Kinh Thánh Cựu Ước, hay anh hùng người Ireland Cú Chulainn. Nó cũng tồn tại ở Nhật Bản với tên gọi inji-uchi.
Có một đàn chim lớn đang tụ tập ở gần bìa rừng.
Tôi nhét ngón giữa vào nút thắt trên dây, tìm một hòn đá phù hợp và đặt nó vào cái túi. Rồi tôi kẹp nhẹ đầu còn lại của sợi dây giữa ngón cái và ngón trỏ. Sau khi vung cái ná vài vòng để tạo lực li tâm, tôi căn đúng lúc để thả hai ngón tay, khiến cho hòn đá trong chiếc túi phóng đi. Sợi dây được giữ lại nhờ nút thắt, còn hòn đá thì bay trong không trung về phía đàn chim cút đang bận nhìn cái gì đó ngoài cánh rừng. Nó đập trúng vào người một con. Ngay lập tức, tiếng vỗ cánh rộ lên, và cả đàn chim cùng bay đi mất.
“Giỏi lắm! Con kiểm tra nó đi!” Blood nói.
Tôi liếc nhìn lại và thấy ông ấy quăng hòn đá của mình vào đàn chim đang bay. Một trong số chúng rơi xuống. Tôi chạy đến chỗ con chim mà mình đã bắn hạ trong khi nghĩ không biết bao giờ mình mới giỏi được như vậy.
Con chim cút đang co giật; nó vẫn còn sống. Nó đang dẫy dụa để thoát khỏi tôi, và hình như cánh nó đã bị gẫy rồi. Con chim trông tội nghiệp đến nỗi tôi không khỏi thấy thương cho nó…
“Will, đừng để nó chịu khổ nữa! Bẻ cổ nó ngay đi!”
Làm theo lời ông ấy, tôi giữ con chim bằng một tấm vài dày đã được chuẩn bị từ trước. Tôi có thể cảm thấy nó đang giãy dụa dưới lớp vải. Sau khi ngăn không cho nó dùng mỏ và móng vuốt để chống cự, tôi dồn lực vào. Tôi cảm nhận cái cảm giác rợn người khi cổ nó gãy, và con chim trở nên bất động ngay lập tức.
Cách đó không xa, Blood đã nhặt lấy con chim của ông. Chắc hẳn nó đã chết ngay khi rơi xuống đất, bởi tôi không thấy ông ấy kết liễu nó.
Đôi mắt to, tròn của con chim cút đã không còn sự sống nữa. Trong khi Blood đang đi tới, tôi chắp hai tay lại với nhau như Mary đã dạy, và cầu nguyện cho con chim yên nghỉ.
“Con đã quen việc giết chóc chưa?”
“Vẫn chưa ạ.”
Săn bắn và giết động vật—đây cũng là một phần bài học của Blood. Nhưng việc giết chóc lại đè nặng lên tâm trí tôi. Tôi không thể quen với việc đó được. Tôi không thể giết một cách không cảm xúc, không do dự. Liệu có phải là vì ký ức từ kiếp trước đang cản trở tôi không.
“Con không muốn giết.” Có phải do tôi còn ngây thơ quá không?
“Hửm? Chứ con nghĩ ta muốn à?”
“Hở?”
Blood nhún vai. “Nghe này, nếu ta nghĩ ngợi về nó nhiều quá, thì cả ta cũng không muốn giết. Tất nhiên là ta chẳng thích thú gì việc giết chóc rồi, dù là giết người hay là động vật. Nhưng con phải hiểu điều này—”
Blood ngừng nói, và lấy ngón tay chọc vào ngực tôi. “Nếu cần, thì ta có thể quên đi chuyện đó và giết theo phản xạ. Một người chiến binh là phải như vậy, và đó chính là điều mà ta đang muốn dạy con. Bởi trên chiến trường, đó là thứ quyết định sống chết.”
Rồi ông ấy cầm lấy xác con chim cút trong tay tôi. Ông buộc chân hai con chim lại với nhau và vắt chúng lên vai.
“Được rồi. Ta săn thêm vài con nữa nhé.”
“Vâng.”
Tôi có thể thấy lời nói và hành động của Blood đều chứa chan sự ân cần, quan tâm. Một lần nữa, tôi lại nghĩ, Ông ấy thật là đáng ngưỡng mộ.

Những con chim chúng tôi giết tất nhiên đều trở thành thức ăn cho bữa tối hết. Sau khi được Blood và Gus dạy mệt nghỉ, khi về nhà tôi thấy Mary đã chuẩn bị đồ ăn xong hết rồi.
Con chim cút, sau khi đã vặt lông và bỏ nội tạng ra, được tẩm ướp bằng muối và thảo mộc trồng trong khu vườn cạnh ngôi đền. Rồi chúng được nướng và đặt vào một cái đĩa. Đồ ăn vẫn còn nóng hổi, mỡ chảy ra từ miếng thịt. Mùi thịt nướng thơm lừng khắp phòng làm tôi chảy nước miếng. Ngoài ra còn có súp rau củ và bánh mì đa hạt trông rất ngon mắt nữa. Nhìn thèm quá.
Mary nhẹ nhàng cười. “Đừng lo, đồ ăn không chạy đi mất đâu. Nhớ nói lời cảm tạ trước khi con ăn nhé.”
“Vâng!” Mary dặn tôi luôn phải ngồi tử tế và cầu nguyện trước khi ăn. Tôi chắp tay lại như mình vẫn thường làm, và nói những lời mình đã được dạy. “Mater Mẹ Đất của chúng con, những vị thần lương thiện, xin người hãy ban phước cho thực phẩm mà chúng con đã được rộng lượng ban tặng này, và dùng nó để bồi bổ cơ thể chúng con.”
Ở kiếp này, tôi sống đều đặn theo thời gian biểu, thức dậy vào buổi sáng, luyện tập cùng với Blood, học tập từ Gus, và ăn đồ ăn mà Mary nấu. Khác hẳn so với kiếp trước, khi tôi thức dậy chẳng theo giờ giấc gì, ăn bừa bãi, và suốt ngày ngồi trong phòng trước màn hình máy tính. Đồng hồ sinh học của tôi đã bị đảo lộn, và cái lối sống buông thả đó đã khiến cho sức khoẻ của tôi liên tục xuống dốc.
Bây giờ, khi đã được tái sinh rồi, tôi mới nhận ra mình đã mắc sai lầm lớn đến nhường nào. Một cơ thể yếu ớt dẫn đến một tâm trí yếu ớt. Tôi sẽ không để cho chuyện đó lặp lại lần nữa đâu.
“Chúng con thành thật cảm tạ lòng tốt của thánh thần.”
Con chim cút mà chúng tôi săn được có mùi vị đậm đà và không quá dai. Chỗ nước mỡ béo ngậy khiến chúng còn ngon hơn nữa. Dù con chim chỉ có ít thịt, còn lại toàn là xương, nhưng thịt nó ngon quá nên tôi cũng chẳng để tâm lắm. Tôi cứ ngồi lọc thịt ăn mãi, chẳng buồn nói năng gì.
Thỉnh thoảng tôi lại rướn tay lấy bánh mì, mùi vị đơn giản của nó giúp làm nhẹ đi vị đậm đà của miếng thịt. Đôi lúc tôi dùng bánh chấm nước thịt trên đĩa, ăn cũng rất ngon. Cả món súp cũng đã được nêm gia vị vừa đủ, và nước súp ấm như lan toả khắp cơ thể mệt mỏi của tôi. Đúng là một bữa tối mãn nguyện.
“Ngon lắm ạ, Mary.”
Một tiếng cười nhẹ. “Con thích ăn vậy là ta mừng rồi.”
Tuy nhiên, vẫn còn một bí ẩn khác. Một bí ẩn lớn.
Mary, Gus, và Blood đều là undead. Họ không cần ăn. Không thể ăn. Vậy nên họ không cần phải làm ra đồ ăn, cũng như dự trữ chúng làm gì. Tôi thậm chí còn không tìm được dấu vết nào chứng tỏ họ đang trồng trọt trên đồng. Kể cả khu vườn nhỏ cũng chỉ được khôi phục lại sau khi tôi xuất hiện, và chúng cũng chỉ để trồng rau củ và thảo mộc, ngoài ra không có cây lương thực nào cả.
Tàn tích của thành phố nơi đặt ngôi đền này rõ ràng đã bị cách biệt khỏi xã hội loài người, nên ta cũng chẳng có chỗ nào để mua đồ cả. Ngoài những thứ không thể hỏng được như muối và mật ong, thì những loại đồ ăn khác còn lại trong di tích này chắc đã biến thành đất bụi hết rồi, chứ không đơn thuần là mốc meo nữa.
Tất cả đều đặt lên một câu hỏi: Miếng bánh mì này đến từ đâu? Họ lấy bột mì ở đâu? Lò nướng ở đâu?
Tất nhiên là tôi cũng đã nghĩ đến trường hợp họ dùng phép thuật để tạo đồ ăn. Tôi đã tạo ra được dầu mỡ rồi, nên nếu ta nói “bánh mì” hoặc “thịt lợn” bằng Từ Ngữ Sáng Tạo, thì biết đâu mana sẽ biến thành hình dạng đó?
Sau khi tìm hiểu, thì câu trả lời là “không.” Gus bảo tôi rằng ta có thể tạo ra một thứ trông giống đồ ăn, và ta cũng sẽ thấy no bụng nếu ăn nó, nhưng con người không có khả năng tạo ra đồ ăn có dinh dưỡng bằng phép thuật.
Tôi thấy câu nói của Gus, “Không ai có thể làm no bụng mình bằng cách nuốt những Từ mình nói ra,” khá là buồn cười. Nhưng tôi nghĩ bản chất vấn đề ở đây là vì chúng ta chưa hiểu hết được Từ Ngữ Sáng Tạo, và cũng chưa có đủ kiến thức về những sinh vật trong thế giới này. Ở nơi này, protein, vitamin, và những thứ liên quan đến giá trị dinh dưỡng của đồ ăn vẫn chưa được phát hiện, nên không có ai nghiên cứu gì về các Từ Ngữ liên quan đến những thứ đó. Vậy nên khi tạo ra bánh mì ta sẽ chỉ thu được một loại đồ ăn kiêng trông thì giống bánh mì, nhưng chẳng có chút calorie nào cả.
Tôi thấy cách giải thích này rất có lý. Tôi nghe nói rằng việc ứng dụng ngôn ngữ phép thuật cổ vào y học, một lĩnh vực tất nhiên sẽ cần phải đụng đến cơ thể con người phức tạp, là một lĩnh vực khó, chưa có nhiều tiến triển lắm. Điều đó giúp củng cố thêm cho giả thiết của tôi.
Thôi quay lại vấn đề, ý tôi là như thế này. Việc ở đây có đủ thức ăn để ngày nào tôi cũng được ăn, có thể nói là một chuyện bất thường. Vậy nhưng trên thực tế là lúc nào ở đây cũng có có đồ ăn, ngày nào cũng vậy. Nghĩa là còn có vài yếu tố khác mà tôi chưa nghĩ đến.
“Này Mary. Miếng bánh mì này… Cô lấy ở đâu vậy?”
“Đó là bí mật.”
Nhiều bí ẩn quá.

Đúng là khó hiểu. Dù có nghĩ thế nào đi nữa, tôi cũng không tìm được một kết luận nào tử tế.
Quá khứ của ba người họ rất khó hiểu, nguồn gốc của đồ ăn cũng khó hiểu, và trên hết, ngay chính bản thân tôi cũng là một bí ẩn nốt. Tôi đã từng đoán mình là một đứa trẻ bị bỏ rơi, nhưng giờ ngay cả điều đó cũng có vẻ không đúng lắm, bởi vì một lý do. Tôi chưa bao giờ thấy có khói.
Dạo gần đây tôi đã bắt đầu nghĩ rằng nếu nền văn minh đã phát triển đến tầm này, thì cứ ở đâu có người ở, thì ở đó sẽ có khói do nấu thức ăn. Vậy nên tôi đã tập trung quan sát xung quanh để tìm chúng, nhưng dù có nhìn vào lúc nào, hay nhìn về hướng nào, tôi vẫn không thể tìm được gì.
Tất nhiên là tôi cũng chẳng biết liệu mình có thể nhìn được khói do nấu ăn từ đằng xa không, nhưng tôi nhớ mang máng là có một cách để tính khoảng cách đến đường chân trời. Ta sẽ phải vẽ một hình tam giác vuông, một cạnh bằng với bán kính của Trái Đất, một cạnh khác bằng với bán kính Trái Đất cộng với chiều cao tầm mắt mình, rồi áp dụng định lý Pytago. Nếu tôi nhớ không nhầm, thì kết quả là khoảng bốn hoặc năm kilômét thì phải. Tất nhiên là chưa chắc tôi có thể áp dụng điều đó ở thế giới này, nhưng kết quả đó cũng có thể dùng làm số liệu tham khảo.
Ta sẽ còn có thể nhìn dài hơn bốn hoặc năm kilômét nếu đứng ở trên cao, vậy nên những con tàu đang tìm đất liền đều có một người hoa tiêu mắt tinh ngồi trên cột buồm. Tương tự vậy, những thứ ở cao hơn đường chân trời sẽ có thể được nhìn thấy từ đằng xa hơn nữa. Ví dụ như đồi núi—và cột khói.
Vậy nên nếu một đứa trẻ thị giác vẫn bình thường mà đứng trên đỉnh đồi để tìm một cột khói cao, thì lẽ ra nó sẽ có thể nhìn thấy khói từ cách xa hàng chục kilômét rồi. Nhưng tôi không tìm thấy khói. Nói cách khác, tôi không tìm thấy bất kỳ dấu vết nào của nơi con người sinh sống.
Việc này có liên hệ gì đến cái giả thuyết “trẻ bị bỏ rơi” kia sao? Cũng đơn giản thôi. Nếu tôi là một đứa trẻ bị bỏ rơi, thì chắc chắn tôi phải có cha mẹ hoặc một người nào đó không thể tiếp tục nuôi tôi nữa. Nghĩa là phải có người nào đó bỏ rơi tôi.
Lúc có được ký ức từ kiếp trước thì tôi còn chưa được một tuổi nữa, và cơ thể của trẻ sơ sinh cũng rất yếu ớt. Nếu có ai đó cần bỏ rơi một đứa trẻ, thì họ chẳng cần phải đi đâu xa để làm vậy. Họ chẳng việc gì phải đi tít đến tận đây, đến thành phố bỏ hoang đầy undead này, cách xa xã hội loài người hàng chục kilômét.
Một người đàn ông trưởng thành bình thường có thể đi khoảng ba mươi kilômét mỗi ngày trên một con đường không quá gồ ghề. Nếu tính cả quãng đường quay về, thì nghĩa là họ sẽ mất nguyên một ngày để bỏ rơi một đứa trẻ cách nơi mình sống mười lăm kilômét. Nếu muốn đi xa hơn vậy nữa thì họ sẽ cần phải cắm trại ở giữa nơi đồng không mông quạnh này.
Đúng là khó hiểu. Nếu tôi thật sự đã bị bỏ rơi, thì tôi chỉ muốn hỏi: có loại cha mẹ nào lại lãng phí hơn một ngày, thậm chí còn phải cắm trại qua đêm, chỉ để đưa con họ đi xa nơi họ ở nhất có thể?!
Vậy nên khả năng tôi là trẻ bị bỏ rơi thấp hơn tôi tưởng. Nhưng nếu vậy thì tôi đến từđâu? Tôi đã dành thời gian nghĩ về những giả thuyết khác, nhưng không nghĩ được điều gì có lý. Chắc chắn tôi không mọc lên từ đất rồi, nên bố mẹ thật của tôi chắc chắn phải tồn tại ở đâu đây, và họ có liên hệ gì đó với thành phố đổ nát này.
Biết đâu tôi là con của Mary và Blood trước khi họ thành undead sao? Làm sao được chứ. Ba người họ có lẽ đã biến thành undead vào khoảng thời gian thành phố này biến thành tàn tích. Tôi chắc chắn về điều đó, bởi thỉnh thoảng khi nói chuyện họ có nhắc về thành phố này trước kia.
Dấu vết đổ nát của thành phố này đã xuất hiện sau một khoảng thời gian dài. Đây không phải là chuyện có thể xảy ra cách đây mười hay hai mươi năm được. Khoảng thời gian không khớp với nhau. Nếu họ trở thành undead vào năm mươi hay một trăm năm trước, thì con của họ không thể nào mới có tám tuổi được.
Giả thuyết còn lại, đó là Mary đã quan hệ với Blood và mang thai khi cả hai người họ đều là undead, thì còn… khó tin hơn nữa. Vậy nghĩa là cả ba người họ đều không phải là cha mẹ thật của tôi, và thế là tất cả lại quay về với kết luận ban đầu: đó là tôi chẳng biết gì về danh tính của mình cả.
Hay là vì một cặp đôi sống lang thang thiếu trách nhiệm nào đó đã bỏ tôi lại ở đây? Không, chuyện đó cũng không đúng. Bởi vì suốt cả bảy năm qua đã không có một con người nào bén mảng tới nơi đây rồi. Tôi cứ nghĩ và nghĩ mãi, nhưng không tìm được câu trả lời nào.
Tôi là ai?
“Will?”
“Oái!” Suýt thì giật bắn người. Tôi đang mải suy nghĩ quá.
“Có chuyện gì vậy? Con đột nhiên dừng lại.”
“Xin lỗi, Mary. Tại con đang mải nghĩ.”
Mary không mắng tôi. Cô ấy chỉ dịu dàng cười. Tôi chắc chắn cô ấy trông sẽ rất đẹp nếu cô còn sống, nhưng bây giờ thì… tôi không khỏi cảm thấy hơi sợ khi nhìn mặt cô ấy như vậy. Nhưng mà tôi cũng bắt đầu quen với cảm giác này rồi.
“Mải nghĩ sao? Nhưng mà hôm nay nóng quá phải không? Vậy sao chúng ta không làm cho xong, rồi con có thể vào trong nhà mà nghĩ cho mát.”
“Vâng.” Tôi gật đầu và tiếp tục vung cái cuốc chim.
Giờ tôi mới biết rằng đất thường khá là nặng và cứng. Việc cày xới có hơi khó khăn đối với một đứa trẻ như tôi. Hồi đầu tôi không biết sử dụng cuốc, và chỉ vung cuốc cắm được một tí vào đất. Nhưng bây giờ thì lưỡi cuốc đã có thể cắm khá sâu rồi.
Chúng tôi đang ở trong khu vườn cạnh ngôi đền. Giờ là mùa hè, nên chúng tôi đang trồng cà chua và cà tím màu sắc sặc sỡ ở đây. Trước kia khu vườn này bị bỏ hoang, nhưng giờ họ đã đi thu thập những loại rau củ trong rừng, và bắt đầu làm vườn lại vì có tôi. Những loại thảo mộc như cỏ xạ hương, tía tô đất, bạc hà và hoa oải hương được trồng ở rìa vườn, để giúp tiện đuổi côn trùng luôn. Mùi hương mạnh của chúng quyện với mùi của đất.
Một phần khu vườn trước giờ vẫn đang bị bỏ hoang, và tôi đang giúp Mary cày xới nó lại. Cô ấy muốn trồng cà rốt, vốn cần phải được gieo trồng vào mùa hè, cũng như trồng khoai tây và hành tây vào mùa thu.
Tên gọi, ngoại hình, vụ mùa gieo trồng của các loại rau củ và thảo mộc, cũng như cách thu hoạch chúng, đều là những điều tôi đã được Mary dạy.
Tôi được Gus giáo dục, học cách chiến đấu từ Blood, nhưng tôi có cảm giác Mary mới là người tôi học hỏi nhiều nhất. Cách ăn mặc sao cho phù hợp, cách dùng nhà vệ sinh, phép lịch sự, chuyện cổ tích cho trẻ em, những câu chuyện về quá khứ, cách trồng rau củ, cách giữ gìn dụng cụ làm vườn, cách gấp quần áo, cách giặt giũ chúng, và cách dọn phòng. Khi tôi đi cùng Mary, cô ấy sẽ kiên nhẫn và cẩn thận giải thích tất cả mọi thứ, từ đầu đến cuối.
Ở kiếp trước, tất cả mọi thứ đều rất tiện nghi, nên tôi đã sống một cách cẩu thả, chẳng biết tí kiến thức tử tế nào về cuộc sống, thật là đáng xấu hổ. Còn cô ấy thì lại am hiểu mọi thứ. Rõ ràng là cô ấy phù hợp để sống trong thế giới này, hơn cả Gus và Blood, một người thì chẳng bao giờ để tâm đến chuyện gì, một người thì quá hoang dã.
Cô ấy đi ngủ và thức dậy đúng giờ giấc, và mỗi ngày, cô đều dọn cỏ trong vườn, phơi chăn gối, dọn dẹp quanh ngôi đền, cũng như làm nhiều việc khác. Và cô ấy cũng đang dạy tôi cách làm những việc đó nữa. Nếu Mary mà không ở ngôi đền này, thì có lẽ tôi đã lại trở thành một kẻ vô dụng rồi.
Tuy nhiên, kể cả Mary cũng có bí mật của riêng mình. Cứ mỗi ngày đôi lần, cô ấy lại ở một mình trong sảnh chính. Tôi đã được dặn không được vào trong khoảng thời gian đó. Cô ấy bảo là mình đang cầu nguyện. Cứ mỗi lần cô làm vậy, Gus và Blood lại lảng vảng ở quanh tôi, để ngăn tôi không bước vào trong sảnh.
Có lẽ đúng là cô ấy chỉ muốn được tập trung cầu nguyện. Nhưng vì có nhiều bí ẩn quá, nên tôi không khỏi nghĩ rằng chuyện này cũng có liên quan đến chúng.
Trong khi đang cuốc đất, tôi quyết định: mình sẽ đi kiểm tra xem sao. Biết đâu tôi lại tìm ra manh mối để giải đáp tất cả những bí ẩn đó.

Tâm trí tôi chỉ nghĩ đến duy nhất chuyện giải đáp bí ẩn mà thôi.

Tôi quyết định giả vở bị ốm.
Trong lúc luyện tập với Blood, tôi vờ như mình không được khoẻ lắm và nói rằng mình muốn nghỉ một chút. Chắc vì trước giờ lúc nào tôi cũng luyện tập chăm chỉ nên Blood chẳng hề nghi ngờ gì, và bảo tôi lên giường nằm nghỉ một chút.
Lúc đầu ông ấy còn ngồi trông tôi, nhưng không lâu sau, ông lẩm bẩm gì đó về chuyện đi tìm thứ gì bồi bổ, và đi về phía khu rừng. Tôi cũng đoán là tính Blood chẳng bao giờ chịu ngồi yên một chỗ bên giường mà.
Tôi rón rén ra khỏi phòng, cẩn thận để không bị ai phát hiện, và bí mật lẻn đến sảnh đường. Tôi chầm chậm mở cửa để không phát ra tiếng động, rồi ngó đầu vào. Ngay khi nhìn vào bên trong, tôi nín thở.
Mary đang bị ngọn lửa bao phủ.
Với một chiếc khay bạc đặt trước mặt, cô ấy đang quỳ ở đó, giữa những tia nắng nhạt chiếu từ trên cao, trước bức tượng của một trong những vị thần, hai tay cô chắp lại như đang thành tâm cầu nguyện.
Cô ấy chẳng để ý gì đến ngọn lửa trắng đang bao phủ cô ấy, cũng như làn khói dày đặc đang toả ra từ người cô.
Đầu óc tôi trở nên trống rỗng.
Tôi vừa la hét vừa chạy vào trong, nhưng Mary chẳng có vẻ gì là đã nhận ra tôi. Mary vẫn im lặng quỳ đó, như thể cô đã biến thành một bức tượng đá, và tiếp tục cầu nguyện.
Sự hoảng loạn bao trùm tâm trí tôi. Mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt. Trống tai tôi đập thình thình. Cổ họng tôi đau rát, đến lúc đó tôi mới nhận ra mình đã la hét to đến nhường nào. Nhưng dù có bị hét thẳng vào tai, cô ấy vẫn chẳng có phản ứng gì.
Tôi đưa tay ra trong tuyệt vọng. Cô ấy vẫn đang bị ngọn lửa bao phủ. Cơ thể của cô đã bị thiêu rụi, trông chẳng khác gì một hòn than hồng đang cháy rực. Tôi đưa tay ra chạm vào cô ấy. Nó bắt đầu cháy xì xèo.
Nỗi đau đớn tột cùng suýt khiến tôi rụt tay lại theo phản xạ. Tôi cố chịu đựng nó, tự nhủ với bản thân rằng tôi không quan tâm. Tôi không quan tâm nếu mình bị thương. Mary đang gặp nguy hiểm. Cô ấy đang gặp nguy hiểm!
Nỗi hoảng loạn trong tâm trí làm tê liệt đi tất cả những giác quan khác. Tôi vừa lay người cô ấy vừa la hét. “Blood! Gus! Cứu! Mary, Maryyyyy!”

“Ta đã nói bao nhiêu lần rồi…” Gus mắng Blood và Mary.
“Đây là lỗi của tôi. Tại tôi bất cẩn,” Blood nói và cúi đầu xin lỗi hai người kia.
“Không… tôi mới là người có lỗi vì đã giữ bí mật với nó về chuyện này suốt thời gian qua.” Mary đang cúi đầu buồn bã. Cơ thể cô, lúc trước còn bị đốt cháy rụi, chẳng hiểu sao giờ đã quay trở lại bình thường.
Tôi đang ở trong phòng mình, nằm trên một chiếc giường đơn giản nhưng vẫn dùng được, bao quanh là những bức tường đá. Đầu tôi đang quay cuồng, còn tay tôi thì đau quá. Đau cực kỳluôn. Tôi rên rỉ, ôm chặt chăn, và cố hết sức để chịu đựng cơn đau.
Ký ức của tôi về vụ việc vừa rồi có hơi mơ hồ, nhưng tôi đoán là Gus đã nghe thấy tiếng thét của tôi và bay xuyên qua tường đến đó. Nghe nói tôi đã vừa la hét thảm thiết vừa lay người Mary suốt vì cô ấy không chịu phản ứng gì, chẳng thèm đếm xỉa gì đến việc tay tôi cũng đang bị thiêu đốt. Gus đã tách tôi khỏi cô ấy ngay, và dùng phép thuật để sơ cứu cho tôi, nhưng chẳng lạ gì khi cả bàn tay lẫn cánh tay của tôi đều bị bỏng nặng.
Tôi từng nghe nói rằng bỏng cấp độ cao đau lắm, có vẻ như họ không nói đùa. Cả hai tay tôi đều đang đau nhói dữ dội. Đôi khi những người được chữa trị sau khi bỏng nặng khắp cơ thể còn cầu xin những người xung quanh hãy giết họ đi. Giờ tôi có thể hiểu được cảm giác của bọn họ rồi. Chính tôi cũng đang muốn nói những lời đó đây.
“Ư, về cánh tay của Will… Ông nghĩ thằng bé có thể hồi phục hoàn toàn được không?”
“Câu hỏi khó đây. Ít nhất thì ngón tay của nó cũng không bị dính vào nhau. Nhưng nếu nó mà có thể hồi phục hoàn toàn không để lại sẹo gì, thì ta sẽ bất ngờ lắm đấy.”
Tôi có thể nghe thấy một cuộc nói chuyện đáng sợ đang diễn ra. Bị sẹo sao? Tôi cũng chẳng ngạc nhiên lắm. Lúc đó, tôi có cảm giác như mình đang cầm một cục than hồng trong tay vậy, và chưa kể tôi còn chẳng chịu buông tay ra nữa. Hai tay tôi đang bị cuốn băng sạch, nhưng tôi có thể thấy nước mủ đang chảy ra và thấm vào băng. Chắc hẳn nếu tôi mà tháo nó ra, thì cảnh tượng dưới lớp băng sẽ làm tôi phải khóc thét lên mất.
Tôi thậm chí còn có thể không cầm nắm và cử động bàn tay bình thường được nữa. Suy nghĩ đó đáng sợ thật đấy. Nhưng không hiểu sao, tôi lại thấy rất bình thản.
“Will… Ta xin lỗi, Will. Lẽ ra… Lẽ ra ta nên…”
“Không. Đó là lỗi của con vì đã nói dối và nhìn trộm.”
Mary có thể quay trở về bình thường như vậy nghĩa là việc này đã xảy ra thường xuyên, và cô ấy đã giấu tôi chuyện đó để không làm tôi lo lắng. Vậy mà tôi đã tự làm mình bị thương nặng đến nỗi có thể để lại sẹo, để còn cứu Mary trong khi cô ấy chẳng cần tôi làm vậy.
“Cô không cần phải xin lỗi đâu,” Tôi nói. “Cô không bị làm sao là con vui rồi.”
Đây là một hành động liều lĩnh, xảy ra vì sự thiếu hiểu biết của tôi. Chắc hẳn sẽ có nhiều người nói tôi ngu ngốc vì đã làm vậy. Nhưng thiệt tình, tôi chỉ cảm thấy nhẹ lòng. Có thể tôi đã làm việc thừa thãi, nhưng điều quan trọng là Mary vẫn an toàn. Người phụ nữ đã ân cần chăm sóc tôi từ khi sinh ra ở thế giới này vẫn an toàn.
Còn tôi, tôi đã có thể hành động. Tôi đã hành động vì Mary, mà không hề ngoái nhìn lại, không bị sự ích kỷ và nỗi sợ ngáng đường. Tôi đã không hành động giống như bản thân mình trong kiếp trước. Tôi đã không để nỗi sợ chi phối, và không viện cớ để đứng ỳ một chỗ.
Vậy nên—
“Cô không cần phải lo đâu mà.” Tôi có thể cười với Mary từ tận đáy lòng mình.
Cô không có lý do gì phải xin lỗi cả, tôi nghĩ. Con rất vui vì cô vẫn an toàn.
“Will…” Mary đang cúi đầu nhìn xuống đất và run rẩy. Tôi không quen nhìn cô ấy như vậy và chẳng thể đoán được liệu cô đang nghĩ gì. “Cảm ơn con, Will… Cảm ơn con.”
Cô ấy ôm chặt đầu tôi trong khi tôi đang nằm trên giường. Tôi có thể ngửi được mùi cô ấy, một mùi hương giống mùi gỗ thơm. Đó là một mùi hương nhẹ nhàng và dễ chịu.
“Thế.” Blood đợi cho đến khi Mary bình tĩnh lại trước khi hỏi chuyện tôi. “Giờ con nói xem tại sao con lại giả ốm để lén nhìn cô ấy cầu nguyện hả?”
Giọng của ông ấy nghe rất nghiêm. Có vẻ như tôi sắp bị mắng rồi.
Cũng không trách ông ấy được. Đúng là nghe hơi lạ nếu tôi là người nói vậy, nhưng dù hoàn cảnh có là gì đi nữa, tôi vẫn đã khiến cho bản thân bị thương khi làm một việc mình đã bị cấm, nên tôi cũng đáng bị mắng mỏ.
“Con luôn thắc mắc tại sao ba người lại ở đây. Tại sao con lại ở đây—tại sao con lại là người duy nhất còn sống ở đây. Nên… Con nghĩ nếu mình nhìn trộm cô ấy cầu nguyện, dù chú đã bảo con không được làm vậy rồi… con sẽ có thể tìm được manh mối gì đó…”
Tôi nhớ là trong tâm lý học cũng có một hiện tượng như vậy gọi là “điện kháng”, còn ở Nhật thì ta hay gọi là cái điều cấm kỵ “không được nhìn”, thường xuất hiện trong những truyện dân gian. Có những lúc việc cấm làm điều gì đó lại phản tác dụng, khiến ta làm vậy. Với lại lúc đó tôi chỉ định nhìn một chút thôi chứ chẳng làm gì khác. Nếu khi đó Mary không bị vậy thì tôi đã chẳng—không, tôi chỉ đang viện cớ mà thôi.
“Chẳng phải ta đã bảo là khi nào con lớn hơn con sẽ kể con nghe hết sao?” Blood trông như đang thở dài. “Con nghĩ chúng ta là loại người sẽ cấm đoán con mà không có lý do sao? Con nghĩ chúng ta dối trá sao? Will, con là một đứa thông minh. Con biết là nếu chúng ta cấm con làm việc gì, thì đó là vì chúng ta có lý do chính đáng, phải không?”
Đúng vậy, tôi biết rõ chứ. Nhưng tôi lại thiếu kiến nhẫn. Tôi không thể viện cớ gì khác.
“Ư—Ưm, Blood, em nghĩ anh không cần phải nghiêm với Will như vậy đâu. Do nó còn trẻ nên tò mò thôi mà.”
“Mary, em im lặng một lát đi.” Ông ấy ngăn không cho cô ấy bênh tôi, rồi nhìn xuống tôi và hỏi. “Will. Con có lý do nào khác không?”
“Không ạ. Con xin lỗi.”
Tôi chỉ vừa kịp nói xong trước khi Blood giơ nắm đấm xương xẩu của ông ấy ra và đập mạnh xuống đầu tôi. Lực từ cú đập đó làm tôi choáng váng. Đầu óc tôi quay cuồng. Nước mắt bắt đầu chảy ra. Tôi không muốn khóc, nhưng nó lại xảy ra theo phản xạ.
“Lần tới, con phải nói kỹ với chúng ta trước khi làm những chuyện như vậy. Ta không đồng ý việc con lang thang xung quanh mà không nói cho chúng ta biết. Ở quanh đây có nhiều tàn tích, và… à thì… nó nguy hiểm lắm, biết chưa.”
Tôi ngoan ngoãn gật đầu. Rồi tôi chợt nghĩ, không biết lần cuối tôi bị mắng mỏ nặng đến thế này là khi nào nhỉ. Chắc là từ lúc tôi còn bé. Bởi vì lúc cuối đời, tất cả mọi người đều đã bỏ cuộc rồi. Họ biết rằng rầy la tôi sẽ chẳng có tác dụng gì, và không muốn liên quan đến tôi nữa.
Nhưng giờ đây, Blood đang đóng vai người xấu để còn giúp tôi. Bằng cách nổi giận, ông ấy đang giúp tôi, dù có thể tôi sẽ vì vậy mà sợ ông ấy hoặc muốn tránh xa ông. Đúng là hơi lạ khi tôi thấy vui dù đang bị mắng như thế này.
“À với cả, Will này?” Blood đưa tay ra xoa tóc tôi. “Ta rất tự hào vì con đã lao vào đó để giúp Mary. Vết thương đó là cái huân chương danh dự của con đấy.”
Tôi có thể cảm thấy khoé miệng mình cong lên. “Con là học trò của chú mà lại…”
“Cái thằng này… Lại đây nào!”
Mary cười nhẹ nhõm sau khi thấy chúng tôi cười đùa với nhau. Còn Gus thì nhún vai rồi thở dài.
Khi mọi người đã bình tĩnh lại, Gus đề nghị. “Tiện thể này, Mary. Có lẽ đã đến lúc chúng ta nói với Will về chuyện cầu nguyện? Ta phải công nhận là chúng ta khó mà nói về quá khứ của mình cho thằng bé được. Chỉ cần lỡ mồm nói gì thôi là thằng nhóc sẽ suy luận và tìm ra sự thực ngay. Nhưng dù vậy, ta vẫn không muốn chuyện này phải xảy ra một lần nữa.”
“Phải… Anh cũng đồng ý với Gus. Làm vậy là an toàn nhất.”
“Được rồi,” Mary gật đầu. “Chuyện này cũng đã dạy em rằng đôi khi giữ nhiều bí mật quá lại làm mọi việc nguy hiểm hơn.”
Gus nghiêm mặt nhìn tôi. “Will. Chuyện này… có thể sẽ làm con kích động một chút.”
Kích động sao?
“Đó là về thức ăn của con. Mary đã luôn triệu hồi nó bằng cách cầu nguyện, và cô ấy bốc cháy mỗi khi làm vậy.”
Đợi đã, cái gì cơ?
“Chắc con thấy cái khay bạc rồi phải không? Khi cô ấy cầu nguyện xong, thức ăn sẽ xuất hiện trên cái khay đó.”
“Đây là… đùa sao?”
“Con nghĩ ta sẽ nói đùa về một chuyện như thế này sao?”
Đợi. Từ từ đã. Tôi vẫn chưa tiếp nhận được hết.
“Ô-Ông kể thêm đi,” Tôi nói, chật vật để phát ra từng lời. Gus giải thích tiếp.
“Giáng phước,” đôi khi được gọi là “sự bảo hộ của thần” hay đơn giản là “phép màu”, là một phương pháp mượn sức mạnh siêu nhiên của thần thánh, những người đã mất đi thể xác sau trận chiến trong thời kỳ thần thoại, và biến mất khỏi chiều không gian này. Gus đã từng nói qua về “giáng phước”, khi ông giảng về sự “bảo hộ” mà thần thánh ban cho thuộc hạ của mình. Nhưng đây là lần đầu tiên ông ấy nói chi tiết về nó.
Giáng phước là kỹ thuật để khiến sức mạnh của thần hiện diện trong thực tại, thông qua cơ thể của bản thân. Đó là thánh thuật của thần linh, có thể chữa lành bệnh tật và thương tích, tạo ra đồ ăn đồ uống ví dụ như bánh mỳ thánh và rượu, cũng như làm những việc mà ngôn ngữ phép thuật cổ đại không thể thực hiện được. Thần có thể ban chỉ dẫn tới những người đã được nhận sự bảo hộ của họ, để giúp những người đó trong lúc khó khăn hoạ nạn. Khi đã thành thạo, giáng phước thậm chí còn có thể đưa chính thần thánh xuống cơ thể trần tục của bản thân mình.
Tuy nhiên, người sử dụng nó cũng gặp nhiều hạn chế hơn phép thuật, loại sức mạnh sử dụng Từ Ngữ Sáng Tạo. Bởi vì giáng phước cần sử dụng sức mạnh của thần, ta không thể dùng nó trừ khi người sử dụng và thần có quan hệ tốt. Nó cần một lòng tin mạnh mẽ, và một nhân cách mà vị thần đó thích. Nó cũng không thể được dùng để làm những điều vị thần không đồng ý. Ví dụ như, ta không thể dùng giáng phước để tấn công làm thương nặng thuộc hạ của một thiện thần khác, và nếu ta mà độc ác, không chịu hối cải, thì thần còn có thể lấy đi phước lành mình đã ban.
Đó chính là giáng phước, một thánh thuật thần bí có thể sánh vai với phép thuật, với những lợi thế và bất lợi của riêng nó. Còn lý do đến giờ tôi mới được nghe đến nó…
“Ta chưa bao giờ bảo con,” Gus giải thích, “và ta đã giấu đi tất cả những cuốn sách liên quan đến nó. Nếu con mà biết, thì chắc chắn con sẽ đoán rằng Mary đã dùng nó. Con vốn thông minh như vậy đấy.”
Mary rất sùng đạo và tiết hạnh, và giờ sau khi đã biết về giáng phước, tôi thấy cô ấy đúng là loại người có thể dùng nó. Gus nói đúng. Chắc chắn tôi sẽ đoán ra.
“Sớm muộn gì con cũng sẽ đọc những cuốn sách của ta và suy luận, rồi phát hiện ra rằng Mary sẽ bốc cháy khi làm vậy. Thế là con sẽ nói là con không muốn cô ấy làm đồ ăn cho con nếu như cô ấy phải bị lửa thiêu mỗi khi làm vậy. Và ta chắc chắn con sẽ không đổi ý, cho dù chúng ta có giải thích rằng chúng ta là những undead cấp cao, có thể dễ dàng hồi phục từ những tổn thương nhỏ như là bị lửa thiêu.”
“A, vâng, đúng là cháu sẽ không muốn vậy, nhưng… tại sao cô ấy lại bị bốc lửa vậy?!”
“Cái đó, ưm…”
“Vì ta đã trở thành undead,” Mary nói. “Bởi vì ta đã phản bội Mẹ Đất Mater.”
“Mary…”
Mắt cô ấy nhìn xuống, cả đầu cô cũng vậy. Cô ấy trông cực kỳ đau buồn.
“Chúng ta đã trở thành undead khi chấp nhận giao ước với nghịch thần của sự bất tử, Stagnate,” cô tiếp tục nói. “Thần undead là đối thủ của Mẹ Đất Mater. Những undead đã bị vấy bẩn sẽ bốc cháy khi chạm vào năng lượng thánh của bà ấy.”
Tôi nhớ về bức tượng trong đền. Mater, Mẹ Đất, là một người phụ nữ với nụ cười hiền hậu, bế một đứa bé trong vòng tay và đứng trước những hình điêu khắc miêu tả cảnh đồng lúa.
“Ta đã làm một việc không thể dung thứ. Ta đã phản bội bà ấy, và đây là hình phạt của ta.”
Vậy thì tại sao cô ấy lại vẫn tiếp tục cầu nguyện? “Vì con sao?”
Không lẽ cô ấy cầu nguyện như vậy để tạo bánh mì cho tôi ăn hằng ngày sao? Lần nào cũng bị ngọn lửa thiêu đốt như vậy? Nếu vậy thì…
“Con… Con sẽ làm việc trên đồng nhiều hơn! Con sẽ đi săn! Nên—”
Mary mỉm cười hiền hậu. “Không phải vậy đâu, Will.” Giọng nói nhẹ nhàng của cô xoa dịu nỗi sợ trong tôi. “Ta đã luôn cầu nguyện hằng ngày cho Mater trước cả khi gặp con rồi.”
Cô ấy không nói dối. Mary không thể nói dối với một nụ cười như vậy, với một giọng nói như vậy. Bảy năm chung sống với cô ấy đã dạy cho tôi biết điều này.
“Mẹ Đất Mater là vị thần hộ mệnh cho trẻ em. Sau khi gặp con, ta cũng đã bắt đầu cầu nguyện để xin chút thức ăn từ bà ấy, nhưng thói quen cầu nguyện của ta thì vẫn như trước kia.”
“Mary nói thật đó,” Gus nói. “Có ta làm chứng.”
“Ta đã nhiều lần bảo cô ấy ngừng làm vậy rồi, nhưng cổ vẫn chẳng chịu,” Blood cũng lên tiếng, trông có vẻ không được vui cho lắm.
Gus cũng nhẹ nhàng gật đầu.
“Tại sao chứ?” Tôi bối rối hỏi. Kể cả ký ức từ kiếp trước cũng không thể giúp tôi hiểu được. Nếu đúng như họ nói, thì từ trước khi tôi xuất hiện, Mary đã luôn làm người mình bốc cháy mỗi ngày, dù chẳng thu lại được gì. “Chẳng phải nó đau lắm sao?”
“Đau lắm chứ. Nếu còn có thể khóc vì đau, thì ta đã làm vậy rồi.” Cô ấy cười.
Lý do của cô ấy rất đơn giản. Kể cả sau khi đã phản bội bà ấy, kể cả khi nỗi đau là thứ duy nhất cô nhận được—
“Ta vẫn tôn thờ Mater.”
Vẫn có thể nở nụ cười dù phải chịu đựng bao chuyện như vậy… Cô ấy đẹp quá, tôi nghĩ.
Mary là một xác ướp, trông chẳng khác gì một cái cây chết khô, hay một nhà sư đã chết đói. Những ai lần đầu nhìn thấy cô ấy hẳn đều nghĩ cô trông đáng sợ hay ghê tởm. Nhưng trong mắt tôi, cô ấy trông đẹp tuyệt vời.
Cô ấy đã phản bội lại người mình tôn thờ—có lẽ là trái ý muốn của mình—và giờ đã bị người đó hắt hủi, bị ngọn lửa thiêu đốt mỗi khi lại gần. Không hề nao núng, cô ấy vẫn cứ cố hết lần này đến lần khác, và lần nào cũng chỉ nhận được nỗi đau đớn tột cùng.
Lòng tin vào tôn giáo thì chẳng có, kinh nghiệm sống cũng còi cọc, cả ở kiếp này lẫn kiếp trước, nên tôi không thể hiểu được nỗi thống khổ của cô, chỉ có thể tượng tượng được điều đó đã khó khăn đến nhường nào đối với cô ấy. Tôi chỉ biết rằng chắc hẳn nó phải khắc nghiệt lắm. Hẳn nó phải đau đớn lắm. Sẽ chẳng có gì lạ nếu sự thù ghét và uất hận bắt đầu xuất hiện trong tim cô. Nếu là tôi thì sẽ như vậy. Ít nhất thì, tôi trong quá khứ sẽ như vậy. Tôi chắc chắn.
Nhưng Mary đã bình thản chấp nhận nỗi thống khổ đó. Tôi chưa bao giờ thấy cô ấy nói xấu ai hay tỏ vẻ thù ghét người nào. Chính điều đó đã khiến cô ấy trông thật đẹp trong mắt tôi.
“Dù những lời cầu nguyện của ta có không được chấp nhận… Will…” Cô ấy nhẹ nhàng nói tên tôi. “Ta vẫn tin rằng chúng không hề vô nghĩa.”
Không biết liệu điều đó có đúng không. Tôi mong là có.
“Và dù cho Mater không hề nói một lời nào với ta… từ khi ta gặp con, bà ấy đã bắt đầu ban bánh mì thánh xuống.” Bức tượng của Mẹ Đất Mater đang bế một đứa bé, và Mary cũng đã nói rằng bà ấy là vị thần hộ mệnh cho trẻ em.
“Dù không được bà ấy tha thứ… nhưng chỉ một chút hỗ trợ đó đã đủ để cứu rỗi ta rồi. Tất cả là nhờ con đó, Will!” Rồi cô ấy chuyển sang giọng hơi tinh nghịch. “Ta xin lỗi vì đã giữ bí mật về chuyện đó. Mong là con vẫn sẽ tiếp tục ăn bánh mì của ta.”
Hai tay tôi đang bị bỏng nặng, còn Mary thì thường xuyên bị thiêu đốt. Chỉ nhiêu đó đã là quá đủ để khiến tôi không nuốt nổi những miếng bánh mì kia rồi. Nhưng tôi có cảm giác… rằng mình vẫn có thể làm được.
“Vâng… con vẫn sẽ ăn. Nhưng liệu cô có thể làm giúp con việc này được không?”
“Việc gì vậy?”
“Từ giờ trở đi hãy cho con cầu nguyện với cô.”
Nếu có thể, thì tôi muốn được hiểu Mary hơn một chút.
Cách cô ấy nhìn nhận mọi thứ—cũng như cách cô ấy cảm nhận chúng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro